Kinh số 110 – Giải Thích Tiểu Kinh Mãn Nguyệt

(Cūḷapuṇṇamasuttavaṇṇanā)

Xem Trung Bộ Kinh – Tiểu Kinh Mãn Nguyệt

91. Evaṃ me sutanti  Cūḷapuṇṇamasuttaṃ. Tattha tuṇhībhūtaṃ tuṇhībhūtanti yaṃ yaṃ disaṃ anuviloketi, tattha tattha tuṇhībhūtameva. Anuviloketvāti pañcapasādapaṭimaṇḍitāni akkhīni ummīletvā tato tato viloketvā antamaso hatthakukkuccapādakukkuccānampi abhāvaṃ disvā. Asappurisoti pāpapuriso. No hetaṃ, bhanteti yasmā andho andhaṃ viya so taṃ jānituṃ na sakkoti, tasmā evamāhaṃsu. Eteneva nayena ito paresupi vāresu attho veditabbo. Assaddhasamannāgatoti pāpadhammasamannāgato. Asappurisabhattīti asappurisasevano. Asappurisacintīti asappurisacintāya cintako[1].

91. Tiểu Kinh Mãn Nguyệt được bắt đầu như sau: “Tôi đã được nghe như vầy.” Ở đây, im lặng: là người im lặng, giữ im lặng ở phương hướng mà (vị ấy) quan sát. Ngoái nhìn theo tuần tự thứ lớp: đã mở đôi mắt được trang hoàng bởi cả 5 sắc thần kinh rồi ngoái nhìn ở mọi phương hướng, nhìn thấy tính chất không có, thậm chí ở mức cao nhất việc rung lắc tay và việc rung lắc chân. Không phải bậc chân nhân: bao gồm hạng người xấu ác. Bạch Thế Tôn, không biết được: Nguyên nhân mà người bất chánh ấy không thể biết được người bất chánh đó, tương tự như người mù không thể biết được người mù, bởi thế những vị Tỳ khưu ấy mới nói như vậy, nên hiểu ý nghĩa trong cả 3 sự kiện này ngay cả phần đầu kể từ đây theo cách thức này đây. Là vị gắn liền với Pháp của người bất chánh: phối hợp với ác pháp. Giao du với người bất chánh: Thân cận với kẻ không phải bậc chân nhân. Suy tư như người bất chánh: Suy nghĩ với những suy nghĩ như người bất chánh.

Asappurisamantīti asappurisamantanaṃ mantetā. Asappurisavācoti asappurisavācaṃ bhāsitā. Asappurisakammantoti asappurisakammānaṃ kattā. Asappurisadiṭṭhīti asappurisadiṭṭhiyā samannāgato. Asappurisadānanti asappurisehi dātabbaṃ dānaṃ. Tyāssa mittāti te assa mittā. Attabyābādhāyapi cetetīti pāṇaṃ hanissāmi, adinnaṃ ādiyissāmi, micchā carissāmi, dasa akusalakammapathe samādāya vattissāmīti evaṃ attano dukkhatthāya cinteti. Parabyābādhāyāti yathā asuko asukaṃ pāṇaṃ hanti, asukassa santakaṃ adinnaṃ ādiyati, dasa akusalakammapathe samādāya vattati, evaṃ naṃ āṇāpessāmīti evaṃ parassa dukkhatthāya cinteti. Ubhayabyābādhāyāti ahaṃ asukañca asukañca gahetvā dasa akusalakammapathe samādāya vattissāmīti evaṃ ubhayadukkhatthāya cintetīti.

Có sự hiểu biết như người bất chánh: Hiểu biết như người không phải bậc chân nhân. Nói năng như người bất chánh: Nói chuyện như người bất chánh. Hành động như người bất chánh: Thực hiện việc làm như người bất chánh. Có tà kiến như người bất chánh: Gắn liền với quan điểm của kẻ bất chánh. Bố thí như người bất chánh: Bố thí mà những kẻ bất chánh có thể cho. Có…làm bạn: bao gồm những Sa-môn và Bà-la-môn ấy làm bạn của những người bất chánh ấy. Suy nghĩ làm hại chính bản thân: suy nghĩ để đưa đến sự khổ đau cho mình như vậy, ta sẽ sát hại (chúng sanh), ta sẽ lấy vật không cho, ta sẽ thực hiện hành vi bất chánh trong dục, ta sẽ thọ trì mười bất thiện nghiệp đạo rồi thực hành chúng. Suy nghĩ làm hại người khác: suy nghĩ để đưa đến sự khổ đau cho người khác như vầy, ta sẽ bắt buộc nó bằng cách ngươi hãy giết con vật kia, lấy đồ vật của người khác mà họ không cho, thọ trì thập bất thiện nghiệp đạo rồi thực hành.  Suy nghĩ làm hại cả hai: suy nghĩ để đưa đến sự khổ đau cho cả hai phía như vầy, ta sẽ đưa người này này và người kia thọ trì thập bất thiện nghiệp đạo rồi thực hành.

Attabyābādhāyapi mantetī-tiādīsu ahaṃ dasa akusalakammapathe samādāya vattissāmīti mantento attabyābādhāya manteti nāma. Asukaṃ dasa akusalakammapathe samādapessāmīti mantento parabyābādhāya manteti nāma. Aññena saddhiṃ — “mayaṃ ubhopi ekato hutvā dasa akusalakammapathe samādāya vattissāmā”ti mantento ubhayabyābādhāya manteti nāma.

Biết được để đưa đến làm hại mình: khi biết rằng: ta sẽ thọ trì mười bất thiện nghiệp đạo rồi thực hành gọi là biết để đưa đến làm hại mình. Khi biết rằng: ta sẽ (khuyến khích) người kia thọ trì bất thiện nghiệp đạo rồi thực hành như vậy gọi là biết để đưa đến làm hại người. Khi biết rằng: “ta và người khác cả hai cùng thọ trì thập bất thiện nghiệp đạo rồi thực hành” như vậy gọi là biết để đưa đến làm hại cả hai.

Asakkaccaṃ dānaṃ detīti deyyadhammampi puggalampi na sakkaroti. Deyyadhammaṃ na sakkaroti nāma uttaṇḍulādidosasamannāgataṃ āhāraṃ deti, na pasannaṃ karoti. Puggalaṃ na sakkaroti nāma nisīdanaṭṭhānaṃ asammajjitvā yattha vā tattha vā nisīdāpetvā yaṃ vā taṃ vā ādhārakaṃ ṭhapetvā dānaṃ deti. Asahatthāti attano hatthena, na deti, dāsakammakārādīhi dāpeti. Acittikatvāti heṭṭhā vuttanayena deyyadhammepi puggalepi na cittīkāraṃ katvā deti. Apaviddhanti chaḍḍetukāmo hutvā vammike uragaṃ[2] pakkhipanto viya deti. Anāgamanadiṭṭhikoti no phalapāṭikaṅkhī hutvā deti.

Bố thí một cách thiếu tôn trọng: Không cung kính về cả vật dâng cúng và cả đối với người nhận thí. Bố thì thức ăn cùng với cơm ôi thiu, không làm cho trọn vẹn (tức là không sạch sẽ) được gọi là không thể hiện sự tôn trọng bằng vật dâng cúng. Không dọn dẹp chỗ ngồi, cho ngồi không lựa chọn chỗ, (theo kiểu) có đến đây làm đến đấy gọi là không thể hiện sự tôn trọng người nhận thí. Bố thí không phải tự tay: Không bố thí bởi chính đôi tay của mình, cử đầy tớ và người lao động v.v, để cho. Thực hiện không lễ độ: không thực hiện sự cung kính cả vật dâng cúng và cả người nhận thí, bố thí như cách đã nói trước. Những vật không cần dùng: là người muốn vứt bỏ như thể một loài bò sát chui vào gò mối. Không nghĩ đến tương lai: là người không mong mỏi kết quả bố thí.

Tattha upapajjatīti na dānaṃ datvā niraye upapajjati. Yaṃ pana tena pāpaladdhikāya micchādassanaṃ gahitaṃ, tāya micchādiṭṭhiyā niraye upapajjati. sukkapakkho vuttapaṭipakkhanayena veditabbo. Devamahattatāti chakāmāvacaradevā. Manussamahattatāti tiṇṇaṃ kulānaṃ sampatti. Sesaṃ sabbattha uttānameva. Idaṃ pana suttaṃ suddhavaṭṭavaseneva kathitanti.

Sanh vào cảnh giới tái sanh của người bất chánh: Sau khi bố thí dĩ nhiên không sanh vào địa ngục. Nhưng tà kiến mà hạng người bất chánh ấy chấp thủ bởi người có học thuyết sai trái (dẫn dắt) tái sanh vào địa ngục do tà kiến đó. Nên hiểu Pháp trắng theo cách đối nghịch như đã nói. Đại tánh của chư Thiên: Chư thiên ở sáu cõi Dục. Đại tánh của loài người: Sự thành tựu của 3 dòng dõi (Sát-đế-lỵ, Bà-la-môn, người gia chủ). Các từ còn lại ở các câu đều đơn giản. Hơn nữa, bài Kinh này thuyết hoàn toàn liên quan đến luân hồi.

Giải Thích Tiểu Kinh Mãn Nguyệt Kết Thúc



[1] Syā. – Cintitā, Ka, – cintiko

[2] Ka. – Vammike rogaṃ, Syā. vammike godhaṃ