Kinh số 109 – Giải Thích Đại Kinh Mãn Nguyệt

(Mahāpuṇṇamasuttavaṇṇanā)

Xem Trung Bộ Kinh – Đại Kinh Mãn Nguyệt

85. Evaṃ me sutanti mahāpuṇṇamasuttaṃ. Tattha tadahūti tasmiṃ ahu, tasmiṃ divaseti attho. Upavasanti etthāti uposatho. Upavasantīti sīlena vā anasanena vā upetā hutvā vasantīti attho. Ayaṃ panettha atthuddhāro — “Āyāma, āvuso, Kappina, uposathaṃ gamissāmā”tiādīsu hi pātimokkhuddeso uposatho. “Aṭṭhaṅgasamannāgato kho Visākhe uposatho upavuttho”tiādīsu (a. ni. 8.53) sīlaṃ. “Suddhassa ve sadā phaggu, suddhassuposatho sadā”tiādīsu (ma. ni. 1.79) upavāso. “Uposatho nāma nāgarājā”tiādīsu (dī. ni. 2.246) paññatti. “Na, bhikkhave, tadahuposathe sabhikkhukā āvāsā”tiādīsu (mahāva. 181) upavasitabbadivaso. Idhāpi soyeva adhippeto. So panesa aṭṭhamīcātuddasīpannarasībhedena tividho. Tasmā sesadvayanivāraṇatthaṃ pannaraseti vuttaṃ. Tena vuttaṃ “upavasanti etthāti uposatho”ti. Māsapuṇṇatāya puṇṇā saṃpuṇṇāti puṇṇā. -iti cando vuccati, so ettha puṇṇoti puṇṇamā. Evaṃ puṇṇāya puṇṇamāyāti imasmiṃ padadvaye attho veditabbo.

85. Đại Kinh Mãn Nguyệt được bắt đầu như sau: “Tôi đã được nghe như vầy.” Ở đây, tadahu chia thành tasmiṃ ahuṃ có nghĩa là vào ngày hôm đó. Lễ Uposatha: bởi ý nghĩa là ngày đi vào gìn giữ, đi vào gìn giữ bởi giới hoặc với việc nhịn ăn (không ăn sai giờ). Trong trường hợp này nghĩa Uposatha được giải thích như sau: thật vậy, việc đọc tụng giới bổn Pātimokkha được gọi là Uposatha như trong câu sau – “Này hiền giả Kappina lại đây chúng ta sẽ đi đến tụng đọc giới bổn Pātimokkha.” Giới gọi là Uposatha: “Này Visākha, ngày trai giới hội đủ tám yếu tố được gìn giữ bằng biểu hiện như vậy.” (a. ni. 8.53). Upavāso-thanh tịnh gọi là Uposatha: “Ngày giờ tốt đối với vị luôn luôn sống thanh tịnh, Uposatha cũng đối với vị luôn luôn sống thanh tịnh.” (ma. ni. 1.79). Chế định gọi là Uposatha: “Long vương gọi là Uposatha”. (dī. ni. 2.246). Ngày cần phải đi vào (để gìn giữ giới) gọi là Uposatha: “Này các Tỳ khưu, vào ngày lễ Uposatha không nên đi từ chỗ trú ngụ có Tỳ khưu” (mahāva. 181). Ngay cả trong trường hợp này ngài cũng có ý muốn đề cập đến việc đi vào (gìn giữ giới) ấy. Ngày đi vào (gìn giữ giới) này đây có ba là ngày mồng tám, ngày mười bốn và ngày mười lăm. Vì thế mới nói rằng vào ngày trăng tròn mười lăm lễ Uposatha để từ chối cả hai ngày còn lại. Cho nên ngài đã nói rằng: “ngày lễ Uposatha bởi vì là ngày đi vào (gìn giữ giới)”. Puṇṇā bởi vì đã đầy, đã tròn đầy vì là ngày đầy đủ của tháng. Ngài gọi mặt trăng là , mặt trăng ấy tròn đầy vào ngày rằm do nhân ấy ngày rằm này gọi là ngày trăng tròn. Có thể biết ý nghĩa ở cả hai câu này như sau: Có mặt trăng tròn đầy vào ngày rằm như vậy.

Desanti kāraṇaṃ. Tena hi tvaṃ bhikkhu sake āsane nisīditvā pucchāti kasmā Bhagavā ṭhitassa akathetvā nisīdāpesīti. Ayaṃ kira bhikkhu saṭṭhimattānaṃ padhāniyabhikkhūnaṃ saṅghatthero saṭṭhi bhikkhū gahetvā araññe vasati, te tassa santike kammaṭṭhānaṃ gahetvā ghaṭenti vāyamanti. Mahābhūtāni pariggaṇhanti upādārūpāni, nāmarūpapaccayalakkhaṇārammaṇikavipassanaṃ pariggaṇhanti. Atha ne ācariyupaṭṭhānaṃ āgantvā vanditvā nisinne thero mahābhūtapariggahādīni pucchati. Te sabbaṃ kathenti, maggaphalapañhaṃ pucchitā pana kathetuṃ na sakkonti. Atha thero cintesi — “Mama santike etesaṃ ovādassa parihāni natthi, ime ca āraddhavīriyā viharanti. Kukkuṭassa pānīyapivanakālamattampi nesaṃ pamādakiriyā natthi. Evaṃ santepi maggaphalāni nibbattetuṃ na sakkonti. Ahaṃ imesaṃ ajjhāsayaṃ na jānāmi, Buddhaveneyyā ete bhavissanti, gahetvā ne Satthu santikaṃ gacchāmi, atha nesaṃ Satthā cariyavasena dhammaṃ desessatī”ti, te bhikkhū gahetvā Satthu santikaṃ āgato.

Desaṃ: lý do. Này Tỳ khưu nếu như vậy ngươi hãy ngồi trên chỗ của ông và hỏi như ý ông muốn: Tại sao đức Thế Tôn không thuyết đến vị Tỳ khưu đang đứng lại ra lệnh cho ngồi xuống? Nghe rằng vị Tỳ khưu này là trưởng lão Tăng của những Tỳ khưu ấy học tập đề mục nghiệp xứ trong trú xứ ngài rồi tinh tấn nỗ lực quán xét bốn sắc đại hiển (và) sắc y đại sinh, quán xét Minh sát có trạng thái của chính mình có danh sắc làm duyên làm đối tượng. Khi đó, những vị Tỳ khưu ấy đã đến phục vụ thầy vào ban đêm, đảnh lễ rồi ngồi xuống, trưởng lão mới hỏi đến các đề mục nghiệp xứ có việc quán xét sắc đại hiển v.v. Những vị Tỳ khưu ấy nói được hết toàn bộ. Nhưng khi bị hỏi đến vấn đề về Đạo và Quả thì không thể trả lời được. Khi ấy, trưởng lão mới khởi lên suy nghĩ như sau: “Ở trong trú xứ của ta không có việc từ bỏ, việc ban huấn từ đến những vị Tỳ khưu này và những vị Tỳ khưu này sống nhiệt huyết. Đối với những vị ấy không có hành động xao lãng ngay cả sự đo lường khoảng thời gian gà uống nước. Mặc dù như vậy những vị Tỳ khưu này cũng không thể làm cho Đạo và Quả khởi sanh. Ta không biết được khuynh hướng của những vị Tỳ khưu này, những vị Tỳ khưu này có lẽ là những vị cần được đức Phật hướng dẫn, ta sẽ đưa những vị ấy đến trú xứ của bậc Đạo sư. Như thế bậc Đạo sư sẽ thuyết Pháp liên quan đến hành vi của những vị ấy (sau khi suy nghĩ) mới đưa những vị Tỳ khưu ấy đến trú xứ của bậc Đạo sư.

Satthāpi sāyanhasamaye Ānandattherena upanītaṃ udakaṃ ādāya sarīraṃ utuṃ gaṇhāpetvā Migāramātupāsādapariveṇe paññattavarabuddhāsane nisīdi, bhikkhusaṅghopi naṃ parivāretvā nisīdi.

Kể cả bậc Đạo Sư cũng đã nhận lấy nước được trưởng lão Ānanda mang đến cúng dường vào buổi chiều, (ngài) đã tắm rửa thân thể cho được sảng khoái rồi ngồi trên Phật tọa được trải sẵn ở khuôn viên tòa lâu đài Migāramātu, cả những vị Tỳ khưu cũng ngồi vây quanh ngài.

Tasmiṃ samaye sūriyo atthaṅgameti, cando uggacchati, majjhaṭṭhāne ca Bhagavā nisinno. Candassa pabhā natthi, sūriyassa pabhā natthi, candimasūriyānaṃ pabhaṃ makkhetvā chabbaṇṇā yamakabuddharasmiyo vijjotamānā puñjā puñjā[1] hutvā disāvidisāsu dhāvantīti sabbaṃ heṭṭhā vuttanayena vitthāretabbaṃ. Vaṇṇabhūmi[2] nāmesā, dhammakathikassevettha thāmo pamāṇaṃ, yattakaṃ sakkoti, tattakaṃ kathetabbaṃ. Dukkathitanti na vattabbaṃ. Evaṃ sannisinnāya parisāya thero uṭṭhahitvā Satthāraṃ pañhassa okāsaṃ kāresi. Tato Bhagavā — “sace imasmiṃ ṭhitake pucchante ‘ācariyo no uṭṭhito’ti sesabhikkhū uṭṭhahissanti, evaṃ Tathāgate agāravo kato bhavissati. Atha nisinnāva pucchissanti, ācariye agāravo kato bhavissati, ekaggā hutvā dhammadesanaṃ paṭicchituṃ na sakkuṇissanti. Ācariye pana nisinne tepi nisīdissanti. Tato ekaggā dhammadesanaṃ paṭicchituṃ sakkuṇissantī”ti iminā kāraṇena Bhagavā ṭhitassa akathetvā nisīdāpetīti.

Lúc bấy giờ, mặt trời đang lặn, mặt trăng đang dần ló dạng đức Thế Tôn ngồi giữa hội chúng. Ánh sáng của mặt trăng không có, ánh sáng của mặt trời cũng không, hào quang của đức Phật thành đôi có 6 màu nhấn chìm ánh sáng của mặt trăng và mặt trời, lan toả ánh sáng thành từng chùm từng nhóm chiếu sáng khắp các hướng chính và hướng phụ. Toàn bộ câu chuyện ấy được giảng giải chi tiết như đã trình bày ở phần sau. Đây là vùng đất của việc giảng giải, trong trường hợp này chỉ năng lực của vị Pháp sư có thể nói cho đầy đủ nên được đo lường, vấn đề cần được đo lường ấy, cần nói trong việc giảng về về hào quang của đức Phật. Không nên nói rằng: Khó nói. Sau khi hội chúng tụ hội như vậy trưởng lão đã đứng dậy cầu xin bậc Đạo sư ban cơ hội để nói lên vấn đề. Sau đó, đức Thế Tôn nghĩ rằng: “Nếu như những vị Tỳ khưu này đứng hỏi vấn đề, nhóm Tỳ khưu còn lại cũng sẽ đứng lên với suy nghĩ như sau ‘thầy của chúng ta đã đứng’, như vậy sẽ tạo ra sự bất kính đối với đấng Như Lai. Nếu những vị Tỳ khưu ấy ngồi hỏi vấn đề sẽ tạo ra sự thiếu tôn trọng đối với thầy, sẽ không thể chuyên nhất tâm để lắng nghe Pháp thoại. Nhưng khi vị thầy ngồi thì các vị Tỳ khưu ấy sẽ ngồi, từ đó sẽ chuyên nhất tâm để lắng nghe Pháp thoại. Bởi thế đức Thế Tôn mới không thuyết Pháp cho vị Tỳ khưu đứng, đã ra lệnh cho ngồi xuống.

Ime nu kho, bhanteti vimatipucchā viya kathitā. Thero pana pañcakkhandhānaṃ udayabbayaṃ pariggaṇhitvā arahattaṃ patto mahākhīṇāsavo, natthi etassa vimati. Jānantenapi pana ajānantena viya hutvā pucchituṃ vaṭṭati. Sace hi jānanto viya pucchati, “jānāti ayan”ti tassa tassa vissajjento ekadesameva katheti. Ajānantena viya pucchite pana kathento ito ca etto ca kāraṇaṃ āharitvā pākaṭaṃ katvā katheti. Koci pana ajānantopi jānanto viya pucchati. Thero evarūpaṃ vacanaṃ kiṃ karissati, jānantoyeva pana ajānanto viya pucchatīti veditabbo.

Bạch ngài…phải chăng có chừng này? Làm giống như hỏi với sự nghi hoặc. Hơn nữa, trưởng lão đã quán xét sự sanh của năm uẩn, đã chứng đắc A-ra-hán trở thành bậc đại Lậu Tận. Sự nghi hoặc của trưởng lão hẳn không có. Lại nữa, mặc dù biết nhưng giả vờ như không biết cũng phù hợp. Bởi vì nếu tỏ ra vẻ biết thì khi giải quyết cho vị ấy dĩ nhiên chỉ nói một số phần bởi nghĩ rằng vị này biết rồi. Tuy nhiên giả vờ như không biết thì khi nói hẳn đem lại lý do ở mọi khía cạnh đến để làm sáng tỏ. Hơn nữa, một số người mặc dù không biết cũng giả vờ như biết. Trưởng lão sẽ thực hiện thế nào bằng lới nói có hình thức như vậy, hơn nữa trưởng lão biết hoàn toàn, nên hiểu rằng: hỏi như không biết.

Chandamūlakāti taṇhāmūlakā. Evaṃrūpo siyanti sace odāto hotukāmo, haritālavaṇṇo vā manosilāvaṇṇo vā siyanti pattheti. Sace kāḷo hotukāmo, nīluppalavaṇṇo vā añjanavaṇṇo vā atasīpupphavaṇṇo[3] vā siyanti pattheti. Evaṃvedanoti kusalavedano vā sukhavedano vā siyanti pattheti. Saññādīsupi eseva nayo. Yasmā pana atīte patthanā nāma natthi, patthentenāpi ca na sakkā taṃ laddhuṃ, paccuppannepi na hoti, na hi odāto kāḷabhāvaṃ patthetvā paccuppanne kāḷo hoti, na kāḷo vā odāto, dīgho vā rasso, rasso vā dīgho, dānaṃ pana datvā sīlaṃ vā samādiyitvā “anāgate khattiyo vā homi brāhmaṇo vā”ti patthentassa patthanā samijjhati. Tasmā anāgatameva gahitaṃ.

Lấy dục làm căn bản: Có tham ái là căn bản. Mong rằng có sắc như thế: Nếu có mong muốn trở thành người trắng, mong mỏi rằng: cầu mong ta hãy trở thành người có màu da tựa như màu hùng hoàng, hoặc tựa như màu thạch tín, hoặc như vàng. Nếu mong muốn trở thành người đen cũng ước muốn rằng: cầu mong cho ta hãy trở thành người có màu da giống như hoa sen xanh, tựa như hoa đậu biết, hoặc tựa như bông gòn. Mong rằng có thọ như thế: mong mỏi rằng – cầu mong ta hãy là người có thọ là thiện, hoặc là người có thọ là lạc. Ngay cả trong tưởng v.v, cũng có phương thức này. Hơn nữa, thường sự mong mỏi ở quá khứ dĩ nhiên không có, và thậm chí đến sự mong mỏi cũng không thể đạt được, ngay cả trong hiện tại cũng không đạt được, người trắng mong mỏi tính chất trở thành người đen rồi trở thành người đen trong hiện tại cũng không được, người đen sẽ trở thành người trắng, người cao sẽ trở thành người thấp, hoặc người thấp sẽ trở thành người cao cũng không được. Tuy nhiên, nếu một người bố thí, thọ trì giới rồi mong mỏi rằng: nguyện cho ta hãy trở thành Sát-đế-lỵ, hoặc hãy trở thành Bà-la-môn trong ngày vị lai v.v. sự mong mỏi đó hẳn được thành tựu, vì thế ngài chỉ nắm lấy ở vị lai mà thôi.

Khandhādhivacananti khandhānaṃ khandhapaṇṇatti kittakena hotīti pucchati.

Có tên gọi là uẩn: Hỏi rằng – việc chế định rằng uẩn của các uẩn có được với mức bao nhiêu?

Mahābhūtā hetūti “tayo kusalahetū”tiādīsu (dha. sa. 1441) hi hetuhetu vutto. Avijjā puññābhisaṅkhārādīnaṃ sādhāraṇattā sādhāraṇahetu. Kusalākusalaṃ attano attano vipākadāne uttamahetu. Idha paccayahetu adhippeto. Tattha pathavīdhātu mahābhūtaṃ itaresaṃ tiṇṇaṃ bhūtānaṃ upādārūpassa ca paññāpanāya dassanatthāya hetu ceva paccayo ca. Evaṃ sesesupi yojanā veditabbā.

Bốn sắc đại hiển là nhân: bởi vì nhân ngài gọi là nhân trong cụm từ sau: “có 3 nhân thiện v.v.” (dha. sa. 1441). Vô minh gọi là nhân phổ cập-sādhāraṇahetu bởi vì là nhân phổ biến cho phúc hành-puññābhisaṅkhāra v.v. Thiện nghiệp và bất thiện nghiệp là nguyên nhân cao nhất trong việc cho quả của chính nó. Ở đây, ngài có ý muốn đề cập đến  nhân duyên-paccayahetu. Ở đó, sắc đại hiển là địa giới làm nhân và làm duyên, để trình bày việc chế định 3 sắc đại hiển còn lại và sắc y đại sinh, nên biết kết hợp ý nghĩa cả trong những câu còn lại như thế.

Phassoti “phuṭṭho, bhikkhave, vedeti, phuṭṭho sañjānāti, phuṭṭho cetetī”ti (saṃ. ni. 4.93) vacanato phasso tiṇṇaṃ khandhānaṃ paññāpanāya hetu ceva paccayo ca. Viññāṇakkhandhassāti ettha paṭisandhiviññāṇena tāva saddhiṃ gabbhaseyyakānaṃ uparimaparicchedena samatiṃsa rūpāni sampayuttā ca tayo khandhā uppajjanti, taṃ nāmarūpaṃ paṭisandhiviññāṇassa paññāpanāya hetu ceva paccayo ca. Cakkhudvāre cakkhupasādo ceva rūpārammaṇañca rūpaṃ, sampayuttā tayo khandhā nāmaṃ. Taṃ nāmarūpaṃ cakkhuviññāṇassa paññāpanāya hetu ceva paccayo ca. eseva nayo sesaviññāṇesu.

Xúc: xúc làm nhân và làm duyên của việc nhận biết ba uẩn có lời giải tự như sau: “Này chư Tỳ khưu, do bị xúc chạm nên có cảm thọ, do bị xúc chạm nên có tưởng tri, do bị xúc chạm nên có suy nghĩ. (saṃ. ni. 4.93). Thức uẩn: này có nghĩa là 30 sắc và 3 uẩn tương ưng với thức uẩn nhờ vào phạm vi cao nhất được sanh khởi cho loài thai sanh-gabbhaseyyaka cùng với thức tục sinh trước, danh và sắc ấy làm nhân và làm duyên của việc nhận biết thức tục sinh. Trong nhãn môn thì thần kinh nhãn với đối tượng sắc được xếp thành sắc uẩn, 3 uẩn tương ưng với thức được xếp thành danh uẩn. Danh và sắc đó làm nhân và làm duyên của việc nhận biết nhãn thức. Các thức còn lại cũng có cách thức tương tự.

87. Kathaṃ pana, bhanteti idaṃ kittakena nu khoti vaṭṭaṃ pucchanto evamāha. Sakkāyadiṭṭhi na hotīti idaṃ vivaṭṭaṃ pucchanto evamāha.

87. Bạch ngài, (thân kiến) như thế nào? Trường hợp này (vị Tỳ khưu) khi hỏi về luân hồi rằng: có được bởi nhân với mức bao nhiêu? đã nói như vậy. Thân kiến không có như thế nào? Khi hỏi về thoát ly luân hồi đã nói như vậy.

88. Ayaṃ rūpe assādoti iminā pariññāpaṭivedho ceva dukkhasaccañca kathitaṃ. Ayaṃ rūpe ādīnavoti iminā pahānapaṭivedho ceva samudayasaccañca. Idaṃ rūpe nissaraṇanti iminā sacchikiriyāpaṭivedho ceva nirodhasaccañca. Ye imesu tīsu ṭhānesu sammādiṭṭhiādayo dhammā, ayaṃ bhāvanāpaṭivedho maggasaccaṃ. Sesapadesupi eseva nayo.

88. Đây là sự hứng thú trong sắc: điều này Đức Thế Tôn thuyết sự thấu triệt do biết toàn diện và là chân lý về khổ. Đây là sự tai hại trong sắc: ngài thuyết sự thấu triệt do dứt bỏ và là chân lý về nhân sanh khổ. Đây là sự xuất ly trong sắc: ngài thuyết sự thấu triệt do tác chứng và là chân lý về sự diệt tận khổ. Các Pháp có chánh kiến v.v, trong 3 vị trí này, sự thấu triệt do tu tập là chân lý về Đạo. Kể cả các câu còn lại cũng có cách thức tương tự.

89. Bahiddhāti parassa saviññāṇake kāye. Sabbanimittesūti iminā pana anindriyabaddhampi saṅgaṇhāti. “Saviññāṇake kāye”ti vacanena vā attano ca parassa ca kāyo gahitova, bahiddhā ca sabbanimittaggahaṇena anindriyabaddhaṃ gaṇhāti.

89. Bên ngoài: trong thân có thức của người khác. Trong tất cả tướng: Nhiếp hợp lại những thứ không liên quan đến các quyền. Hơn nữa, lấy thân của chính mình và thân của người khác với lời giải tự: “Trong thân thể có thức”. Và lấy những thứ không liên hệ đến quyền thông qua việc nắm giữ tất cả tướng bên ngoài.

90. Anattakatānīti anattani ṭhatvā katāni. Kamattānaṃ phusissantīti katarasmiṃ attani ṭhatvā vipākaṃ dassentīti sassatadassanaṃ okkamanto evamāha. Taṇhādhipateyyenāti taṇhājeṭṭhakena. Tatra tatrāti tesu tesu dhammesu. Saṭṭhimattānanti ime bhikkhū pakatikammaṭṭhānaṃ jahitvā aññaṃ navakammaṭṭhānaṃ sammasantā pallaṅkaṃ abhinditvā tasmiṃyeva āsane arahattaṃ pāpuṇiṃsu. sesaṃ sabbattha uttānamevāti.

90. Những hành động do vô ngã: đã được thiết lập bằng hành động trong vô ngã. Sẽ bị xúc chạm ngã như thế nào? Chìm vào sự thấy rằng ‘thường tồn (thường kiến)’ cho rằng đã được vững trú trong tự ngã như thế nào mới biểu lộ kết quả như vậy nên đã nói như thế. Có tham ái làm trưởng: bởi tham ái là to lớn. Tatra tatrā: Trong tất cả Pháp này Pháp kia. Sáu mươi vị: Những vị Tỳ khưu này đã từ bỏ nghiệp xứ thông thường rồi quán xét đề mực nghiệp xứ mới khác, đã không phá hủy chỗ ngồi, chứng đắc A-ra-hán ử tại chỗ ấy. Từ còn lại trong các câu đều đơn giản.

Giải Thích Đại Kinh Mãn Nguyệt Kết Thúc



[1] Sī. Syā. – Puñjāpuñjā

[2] Sī. Vaṇṇabhaṇanabhūmi

[3] Sī. – Anasipupphavaṇṇo, Ka. – apītapupphavaṇṇo