Kinh số 109 – Giải Thích Đại Kinh Mãn Nguyệt
(Mahāpuṇṇamasuttavaṇṇanā)Xem Trung Bộ Kinh – Đại Kinh Mãn Nguyệt
85. Evaṃ me sutanti mahāpuṇṇamasuttaṃ. Tattha tadahūti tasmiṃ ahu, tasmiṃ divaseti attho. Upavasanti etthāti uposatho. Upavasantīti sīlena vā anasanena vā upetā hutvā vasantīti attho. Ayaṃ panettha atthuddhāro — “Āyāma, āvuso, Kappina, uposathaṃ gamissāmā”tiādīsu hi pātimokkhuddeso uposatho. “Aṭṭhaṅgasamannāgato kho Visākhe uposatho upavuttho”tiādīsu (a. ni. 8.53) sīlaṃ. “Suddhassa ve sadā phaggu, suddhassuposatho sadā”tiādīsu (ma. ni. 1.79) upavāso. “Uposatho nāma nāgarājā”tiādīsu (dī. ni. 2.246) paññatti. “Na, bhikkhave, tadahuposathe sabhikkhukā āvāsā”tiādīsu (mahāva. 181) upavasitabbadivaso. Idhāpi soyeva adhippeto. So panesa aṭṭhamīcātuddasīpannarasībhedena tividho. Tasmā sesadvayanivāraṇatthaṃ pannaraseti vuttaṃ. Tena vuttaṃ “upavasanti etthāti uposatho”ti. Māsapuṇṇatāya puṇṇā saṃpuṇṇāti puṇṇā. Mā-iti cando vuccati, so ettha puṇṇoti puṇṇamā. Evaṃ puṇṇāya puṇṇamāyāti imasmiṃ padadvaye attho veditabbo.
85. Đoạn kinh Mahāpuṇṇamasuttaṃ (Kinh Đại Mãn Nguyệt) [bắt đầu bằng câu] “Evaṃ me sutaṃ” (Tôi nghe như vầy).
Trong đó, từ tadahū là do tasmiṃ ahu [hợp thành], có nghĩa là tasmiṃ divase (vào ngày hôm đó). Uposatho là nơi mà người ta upavasanti (thọ trì). Upavasanti có nghĩa là sống với (upetā hutvā vasanti) giới (sīlena) hoặc với sự nhịn ăn (anasanena).
Đây là phần giải nghĩa (atthuddhāro):
+ Trong các đoạn như: “Này hiền giả Kappina, chúng ta hãy đi đến lễ Uposatha (tụng giới Pātimokkha)” (Āyāma, āvuso, Kappina, uposathaṃ gamissāmā), thì uposatho ở đây chỉ việc thuyết giảng Pātimokkha (pātimokkhuddeso).
+ Trong các đoạn như: “Này Visākhā, Uposatha được thọ trì với tám chi phần” (Aṭṭhaṅgasamannāgato kho Visākhe uposatho upavuttho) (A.N. 8.43), thì uposatho ở đây chỉ giới (sīlaṃ).
+ Trong các đoạn như: “Đối với người thanh tịnh, ngày hội (phaggu) luôn thường trực; đối với người thanh tịnh, ngày Uposatha luôn hiện hữu” (Suddhassa ve sadā phaggu, suddhassuposatho sadā) (S.i.209), thì uposatho ở đây chỉ sự thanh tịnh (upavāso).
+ Trong các đoạn như: “Long vương tên là Uposatha” (Uposatho nāma nāgarājā) (D.N. ii. 246), thì uposatho ở đây chỉ là một tên gọi, một sự chế định (paññatti).
+ Trong các đoạn như: “Này các Tỳ khưu, vào ngày Uposatha, không được rời khỏi trú xứ có Tỳ khưu” (Na, bhikkhave, tadahuposathe sabhikkhukā āvāsā) (Vin. i. 109), thì uposatho ở đây chỉ ngày cần phải thọ trì (upavasitabbadivaso).
Ở đây (trong kinh Đại Mãn Nguyệt), ý nghĩa được nói đến chính là ý nghĩa đó (tức là ngày cần phải thọ trì). Ngày này có ba loại: ngày mùng 8 (aṭṭhamī), ngày 14 (cātuddasī), và ngày 15 (pannarasī). Do đó, để loại trừ hai ngày kia, từ pannarase (vào ngày 15) đã được nói đến. Vì thế, đã có lời giải thích: “Uposatho là nơi người ta thọ trì”.
Puṇṇā (viên mãn) là vì đã đầy đủ (puṇṇā), đã trọn vẹn (saṃpuṇṇā) do sự tròn đầy của tháng (māsapuṇṇatāya). Mā được gọi là mặt trăng (cando); vào ngày này, mặt trăng (mā) đó tròn đầy (puṇṇo), do đó gọi là puṇṇamā (trăng tròn, ngày rằm). Như vậy, ý nghĩa của cụm từ puṇṇāya puṇṇamāyā (vào ngày rằm, ngày trăng tròn) cần được hiểu như thế.
Desanti kāraṇaṃ. Tena hi tvaṃ bhikkhu sake āsane nisīditvā pucchāti kasmā Bhagavā ṭhitassa akathetvā nisīdāpesīti. Ayaṃ kira bhikkhu saṭṭhimattānaṃ padhāniyabhikkhūnaṃ saṅghatthero saṭṭhi bhikkhū gahetvā araññe vasati, te tassa santike kammaṭṭhānaṃ gahetvā ghaṭenti vāyamanti. Mahābhūtāni pariggaṇhanti upādārūpāni, nāmarūpapaccayalakkhaṇārammaṇikavipassanaṃ pariggaṇhanti. Atha ne ācariyupaṭṭhānaṃ āgantvā vanditvā nisinne thero mahābhūtapariggahādīni pucchati. Te sabbaṃ kathenti, maggaphalapañhaṃ pucchitā pana kathetuṃ na sakkonti. Atha thero cintesi — “Mama santike etesaṃ ovādassa parihāni natthi, ime ca āraddhavīriyā viharanti. Kukkuṭassa pānīyapivanakālamattampi nesaṃ pamādakiriyā natthi. Evaṃ santepi maggaphalāni nibbattetuṃ na sakkonti. Ahaṃ imesaṃ ajjhāsayaṃ na jānāmi, Buddhaveneyyā ete bhavissanti, gahetvā ne Satthu santikaṃ gacchāmi, atha nesaṃ Satthā cariyavasena dhammaṃ desessatī”ti, te bhikkhū gahetvā Satthu santikaṃ āgato.
Desaṃ: lý do. Này Tỳ khưu nếu như vậy ngươi hãy ngồi trên chỗ của ông và hỏi như ý ông muốn: Tại sao đức Thế Tôn không thuyết đến vị Tỳ khưu đang đứng lại ra lệnh cho ngồi xuống?
Chuyện kể rằng, vị Tỳ khưu này là vị Trưởng lão Tăng của một nhóm khoảng sáu mươi vị Tỳ khưu chuyên tu tập. Ngài đã cùng sáu mươi vị Tỳ khưu này trú trong một khu rừng. Tại trú xứ của ngài, sau khi nhận đề mục thiền định (kammaṭṭhāna), các vị ấy đã miệt mài nỗ lực, quán xét Tứ đại (mahābhūtāni) và các sắc y sinh (upādārūpāni), và thực hành phép quán Minh sát (vipassanā) lấy đặc tính của các duyên khởi cho danh-sắc làm đối tượng.
Sau đó, khi các vị ấy đến hầu thầy, đảnh lễ rồi ngồi xuống, vị Trưởng lão đã hỏi về việc quán xét Tứ đại và các pháp khác. Các vị ấy đều trình bày được tất cả. Tuy nhiên, khi được hỏi về Đạo và Quả (maggaphala), thì các vị ấy lại không thể trả lời.
Bấy giờ, vị Trưởng lão suy nghĩ: “Về phần ta, sự chỉ dạy cho các vị này không có gì thiếu sót. Các vị này cũng sống rất tinh tấn, không hề có một hành động lơ là nào dù chỉ trong khoảnh khắc một con gà uống nước. Dù vậy, họ vẫn không thể làm cho Đạo và Quả phát sinh. Ta không biết được căn tánh (ajjhāsaya) của họ. Có lẽ họ là những người cần được chính Đức Phật giáo hóa (Buddhaveneyyā). Ta sẽ đưa họ đến nơi Bậc Đạo Sư, và rồi Ngài sẽ thuyết pháp cho họ tùy theo hạnh (cariyā) của mỗi người.” Nghĩ vậy, ngài đã dẫn các vị Tỳ khưu ấy đến nơi Bậc Đạo Sư.
Satthāpi sāyanhasamaye Ānandattherena upanītaṃ udakaṃ ādāya sarīraṃ utuṃ gaṇhāpetvā Migāramātupāsādapariveṇe paññattavarabuddhāsane nisīdi, bhikkhusaṅghopi naṃ parivāretvā nisīdi.
Về phần Bậc Đạo Sư, vào buổi chiều, sau khi nhận lấy nước do Trưởng lão Ānanda dâng lên, Ngài đã làm cho thân thể được khoan khoái dễ chịu, rồi ngự trên Phật tọa cao quý đã được soạn sẵn tại khuôn viên của giảng đường Migāramātupāsāda, cả những vị Tỳ khưu cũng ngồi vây quanh ngài.
Tasmiṃ samaye sūriyo atthaṅgameti, cando uggacchati, majjhaṭṭhāne ca Bhagavā nisinno. Candassa pabhā natthi, sūriyassa pabhā natthi, candimasūriyānaṃ pabhaṃ makkhetvā chabbaṇṇā yamakabuddharasmiyo vijjotamānā puñjā puñjā[1] hutvā disāvidisāsu dhāvantīti sabbaṃ heṭṭhā vuttanayena vitthāretabbaṃ. Vaṇṇabhūmi[2] nāmesā, dhammakathikassevettha thāmo pamāṇaṃ, yattakaṃ sakkoti, tattakaṃ kathetabbaṃ. Dukkathitanti na vattabbaṃ. Evaṃ sannisinnāya parisāya thero uṭṭhahitvā Satthāraṃ pañhassa okāsaṃ kāresi. Tato Bhagavā — “sace imasmiṃ ṭhitake pucchante ‘ācariyo no uṭṭhito’ti sesabhikkhū uṭṭhahissanti, evaṃ Tathāgate agāravo kato bhavissati. Atha nisinnāva pucchissanti, ācariye agāravo kato bhavissati, ekaggā hutvā dhammadesanaṃ paṭicchituṃ na sakkuṇissanti. Ācariye pana nisinne tepi nisīdissanti. Tato ekaggā dhammadesanaṃ paṭicchituṃ sakkuṇissantī”ti iminā kāraṇena Bhagavā ṭhitassa akathetvā nisīdāpetīti.
Lúc bấy giờ, mặt trời lặn, mặt trăng vừa mọc, và Đức Thế Tôn đang ngự ở chính giữa. Ánh sáng của mặt trăng không còn, ánh sáng của mặt trời cũng không, bởi vì hào quang sáu màu từng cặp của Đức Phật (chabbaṇṇā yamakabuddharasmiyo) đã lấn át ánh sáng của cả mặt trăng và mặt trời, tỏa ra thành từng luồng, từng cụm rực rỡ, chiếu soi khắp các phương và các hướng phụ. Toàn bộ chi tiết này nên được diễn giải theo cách đã trình bày ở phần trước (heṭṭhā vuttanayena).
Đây được gọi là “mảnh đất của sự tán thán” (Vaṇṇabhūmi), nơi mà năng lực của vị Pháp sư chính là thước đo; vị ấy có thể diễn giải được bao nhiêu, thì nên nói bấy nhiêu. Không thể nói rằng đó là một sự diễn giải tồi (Dukkathitanti na vattabbaṃ).
Khi hội chúng đã an tọa như vậy, vị Trưởng lão đứng dậy, xin Bậc Đạo Sư cho phép được đặt câu hỏi. Bấy giờ, Đức Thế Tôn suy nghĩ rằng:
“Nếu vị Trưởng lão này đứng hỏi, các vị Tỳ khưu còn lại sẽ nghĩ rằng ‘Thầy của chúng ta đã đứng dậy’ rồi cũng sẽ đứng theo. Như vậy sẽ thành ra bất kính đối với Như Lai.
Mặt khác, nếu các vị học trò vẫn ngồi trong khi thầy mình đứng, thì lại thành ra bất kính đối với vị thầy, và họ sẽ không thể nhất tâm để lãnh thọ pháp thoại.
Nhưng nếu vị thầy ngồi xuống, thì các vị ấy cũng sẽ ngồi theo. Nhờ đó, tất cả đều có thể nhất tâm để lãnh thọ pháp thoại.”
Chính vì lý do này mà Đức Thế Tôn đã không thuyết pháp cho vị Tỳ khưu khi ngài đang đứng, mà đã bảo ngài ngồi xuống.
Ime nu kho, bhanteti vimatipucchā viya kathitā. Thero pana pañcakkhandhānaṃ udayabbayaṃ pariggaṇhitvā arahattaṃ patto mahākhīṇāsavo, natthi etassa vimati. Jānantenapi pana ajānantena viya hutvā pucchituṃ vaṭṭati. Sace hi jānanto viya pucchati, “jānāti ayan”ti tassa tassa vissajjento ekadesameva katheti. Ajānantena viya pucchite pana kathento ito ca etto ca kāraṇaṃ āharitvā pākaṭaṃ katvā katheti. Koci pana ajānantopi jānanto viya pucchati. Thero evarūpaṃ vacanaṃ kiṃ karissati, jānantoyeva pana ajānanto viya pucchatīti veditabbo.
Câu hỏi “Bạch ngài, phải chăng chỉ có chừng này thôi?” (Ime nu kho, bhante) được nói ra như thể một câu hỏi xuất phát từ sự hoài nghi (vimatipucchā). Nhưng kỳ thực, vị Trưởng lão này là một bậc Đại Lậu Tận (mahākhīṇāsavo), đã chứng đắc A-la-hán sau khi quán triệt được sự sinh và diệt (udayabbayaṃ) của năm uẩn. Nơi ngài, không hề có sự hoài nghi nào. Tuy nhiên, một người dù đã biết nhưng hỏi như thể không biết lại là điều hợp lẽ. Bởi vì, nếu người ấy hỏi như một người đã biết, người trả lời sẽ nghĩ rằng “vị này đã biết rồi” và sẽ chỉ giải đáp một phần (ekadesameva). Trái lại, khi người ấy hỏi như thể không biết, người trả lời sẽ trình bày lý do từ nhiều khía cạnh (ito ca etto ca) để làm cho vấn đề trở nên sáng tỏ. (Lại cũng có trường hợp, một số người không biết nhưng lại hỏi như thể mình đã biết.)
Vậy, vị Trưởng lão này thuộc trường hợp nào? Cần phải hiểu rằng: ngài là người thực sự đã biết, nhưng lại hỏi như thể người không biết.
Chandamūlakāti taṇhāmūlakā. Evaṃrūpo siyanti sace odāto hotukāmo, haritālavaṇṇo vā manosilāvaṇṇo vā siyanti pattheti. Sace kāḷo hotukāmo, nīluppalavaṇṇo vā añjanavaṇṇo vā atasīpupphavaṇṇo[3] vā siyanti pattheti. Evaṃvedanoti kusalavedano vā sukhavedano vā siyanti pattheti. Saññādīsupi eseva nayo. Yasmā pana atīte patthanā nāma natthi, patthentenāpi ca na sakkā taṃ laddhuṃ, paccuppannepi na hoti, na hi odāto kāḷabhāvaṃ patthetvā paccuppanne kāḷo hoti, na kāḷo vā odāto, dīgho vā rasso, rasso vā dīgho, dānaṃ pana datvā sīlaṃ vā samādiyitvā “anāgate khattiyo vā homi brāhmaṇo vā”ti patthentassa patthanā samijjhati. Tasmā anāgatameva gahitaṃ.
[Câu “Lấy dục làm căn bản”] (Chandamūlakā) có nghĩa là: lấy tham ái (taṇhā) làm căn bản.
Câu “Cầu cho tôi có sắc như vậy” (Evaṃrūpo siyanti) có nghĩa là: Nếu một người mong muốn có sắc trắng sáng, người ấy sẽ khởi lên ước muốn: “Mong sao ta có màu da như màu thư hoàng (haritāla), hoặc màu hùng hoàng (manosilā)”. Nếu mong muốn có sắc đen, người ấy sẽ ước muốn: “Mong sao ta có màu da như màu hoa sen xanh (nīluppala), màu hoa đậu biếc (añjana), hoặc màu hoa lanh (atasīpuppha)”.
Câu “Cầu cho tôi có thọ như vậy” (Evaṃvedano) có nghĩa là ước muốn: “Mong sao ta có thọ thiện (kusalavedano) hoặc thọ lạc (sukhavedano)”. Đối với tưởng (saññā) và các uẩn còn lại cũng theo phương pháp tương tự.
Hơn nữa, vì sự mong cầu đối với quá khứ là điều không thể có, và dù có mong cầu cũng không thể đạt được. Đối với hiện tại cũng vậy: một người da trắng không thể chỉ nhờ mong ước mà trở thành da đen ngay trong hiện tại; người da đen cũng không thể trở thành da trắng, người cao thành người thấp, hay người thấp thành người cao.
Tuy nhiên, khi một người làm phước bố thí, thọ trì giới luật rồi phát nguyện: “Mong sao trong tương lai ta được sinh làm Sát-đế-lỵ hay Bà-la-môn”, thì sự mong cầu đó có thể được thành tựu. Vì thế, [trong kinh] chỉ đề cập đến [sắc, thọ,…] ở thời vị lai mà thôi.
Khandhādhivacananti khandhānaṃ khandhapaṇṇatti kittakena hotīti pucchati.
Câu “Tên gọi của các uẩn” (Khandhādhivacananti) có nghĩa là [vị ấy] hỏi rằng: “Sự chế định (khái niệm) về các uẩn được hình thành dựa trên bao nhiêu [yếu tố]?” (khandhapaṇṇatti kittakena hoti).
Mahābhūtā hetūti “tayo kusalahetū”tiādīsu (dha. sa. 1441) hi hetuhetu vutto. Avijjā puññābhisaṅkhārādīnaṃ sādhāraṇattā sādhāraṇahetu. Kusalākusalaṃ attano attano vipākadāne uttamahetu. Idha paccayahetu adhippeto. Tattha pathavīdhātu mahābhūtaṃ itaresaṃ tiṇṇaṃ bhūtānaṃ upādārūpassa ca paññāpanāya dassanatthāya hetu ceva paccayo ca. Evaṃ sesesupi yojanā veditabbā.
[Câu “Tứ đại là nhân”] (Mahābhūtā hetu):
Trong các đoạn kinh như “ba nhân thiện…” (DhS. §1122), từ hetu được dùng với nghĩa là nhân-gốc (hetuhetu). Vô minh được gọi là nhân chung (sādhāraṇahetu) vì nó là nhân phổ biến cho các phúc hành (puññābhisaṅkhāra), v.v. Nghiệp thiện và bất thiện là nhân tối thắng (uttamahetu) trong việc trổ quả của chính nó.
Tuy nhiên, ở đây [trong kinh này], từ hetu được dùng với ý nghĩa là nhân-duyên (paccayahetu, tức nhân mang tính điều kiện). Trong đó, Địa đại (pathavīdhātu) là nhân và là duyên cho sự biểu hiện (paññāpanāya) của ba đại còn lại và của các sắc y sinh (upādārūpa). Cần hiểu rằng cách áp dụng này cũng tương tự cho các [Đại] còn lại.
Phassoti “phuṭṭho, bhikkhave, vedeti, phuṭṭho sañjānāti, phuṭṭho cetetī”ti (saṃ. ni. 4.93) vacanato phasso tiṇṇaṃ khandhānaṃ paññāpanāya hetu ceva paccayo ca. Viññāṇakkhandhassāti ettha paṭisandhiviññāṇena tāva saddhiṃ gabbhaseyyakānaṃ uparimaparicchedena samatiṃsa rūpāni sampayuttā ca tayo khandhā uppajjanti, taṃ nāmarūpaṃ paṭisandhiviññāṇassa paññāpanāya hetu ceva paccayo ca. Cakkhudvāre cakkhupasādo ceva rūpārammaṇañca rūpaṃ, sampayuttā tayo khandhā nāmaṃ. Taṃ nāmarūpaṃ cakkhuviññāṇassa paññāpanāya hetu ceva paccayo ca. eseva nayo sesaviññāṇesu.
[Câu “Xúc là nhân”] (Phasso hetu):
Dựa theo câu “Này các Tỳ khưu, do có xúc chạm nên cảm thọ, do có xúc chạm nên tưởng tri, do có xúc chạm nên tư duy” (S.iv.68), xúc (phasso) là nhân và là duyên cho sự biểu hiện của ba uẩn [thọ, tưởng, hành].
[Câu “Danh-sắc là nhân của Thức uẩn”]:
+ Trường hợp thức tái tục: Đối với loài thai sinh (gabbhaseyyaka), cùng lúc với thức tái tục (paṭisandhiviññāṇa), có ba mươi pháp sắc và ba uẩn [tâm] tương ưng đồng sanh khởi. Danh-sắc đó chính là nhân và là duyên cho sự biểu hiện của thức tái tục.
+ Trường hợp lộ trình tâm: Trong nhãn môn (lộ trình tâm qua mắt), thần kinh nhãn (cakkhupasāda) và đối tượng sắc (rūpārammaṇa) được gọi là sắc; ba uẩn [tâm] tương ưng được gọi là danh. Danh-sắc đó là nhân và là duyên cho sự biểu hiện của nhãn thức (cakkhuviññāṇa).
Phương pháp này cũng tương tự đối với các loại thức còn lại.
87. Kathaṃ pana, bhanteti idaṃ kittakena nu khoti vaṭṭaṃ pucchanto evamāha. Sakkāyadiṭṭhi na hotīti idaṃ vivaṭṭaṃ pucchanto evamāha.
87. Bạch ngài, (thân kiến) như thế nào? là vị ấy đang hỏi về luân hồi (vaṭṭa), với ý rằng: “Luân hồi được tạo thành bởi bao nhiêu yếu tố?” (kittakena). Thân kiến không có như thế nào? là vị ấy đang hỏi về sự thoát khỏi luân hồi (vivaṭṭa).
88. Ayaṃ rūpe assādoti iminā pariññāpaṭivedho ceva dukkhasaccañca kathitaṃ. Ayaṃ rūpe ādīnavoti iminā pahānapaṭivedho ceva samudayasaccañca. Idaṃ rūpe nissaraṇanti iminā sacchikiriyāpaṭivedho ceva nirodhasaccañca. Ye imesu tīsu ṭhānesu sammādiṭṭhiādayo dhammā, ayaṃ bhāvanāpaṭivedho maggasaccaṃ. Sesapadesupi eseva nayo.
88.
- Qua câu “Đây là vị ngọt trong sắc” (Ayaṃ rūpe assādo), sự thông suốt nhờ liễu tri (pariññāpaṭivedho) và Khổ đế (dukkhasacca) được nói đến.
- Qua câu “Đây là sự nguy hại trong sắc” (Ayaṃ rūpe ādīnavo), sự thông suốt nhờ đoạn trừ (pahānapaṭivedho) và Tập đế (samudayasacca) được nói đến.
- Qua câu “Đây là sự xuất ly khỏi sắc” (Idaṃ rūpe nissaraṇaṃ), sự thông suốt nhờ tác chứng (sacchikiriyāpaṭivedho) và Diệt đế (nirodhasacca) được nói đến.
- Những pháp như Chánh kiến, v.v., [phát sinh] trong ba trường hợp trên, chính là sự thông suốt nhờ tu tập (bhāvanāpaṭivedho), và đó là Đạo đế (maggasacca).
Phương pháp này cũng tương tự đối với các phần còn lại [của thọ, tưởng, hành, thức].
89. Bahiddhāti parassa saviññāṇake kāye. Sabbanimittesūti iminā pana anindriyabaddhampi saṅgaṇhāti. “Saviññāṇake kāye”ti vacanena vā attano ca parassa ca kāyo gahitova, bahiddhā ca sabbanimittaggahaṇena anindriyabaddhaṃ gaṇhāti.
89. [Từ] “bên ngoài” (bahiddhā) chỉ cho thân có thức của người khác.
Còn [cụm từ] “trong tất cả các tướng” (sabbanimittesūti) thì bao gồm cả những đối tượng không gắn liền với các căn quyền (anindriyabaddhaṃ), tức là các vật vô tri.
Hoặc có thể hiểu rằng: cụm từ “thân có thức” (saviññāṇake kāye) đã bao gồm cả thân của mình và thân của người khác rồi. Khi đó, việc dùng thêm từ “bên ngoài” và “tất cả các tướng” là để bao gồm cả những đối tượng không gắn liền với các căn quyền (tức các vật vô tri).
90. Anattakatānīti anattani ṭhatvā katāni. Kamattānaṃ phusissantīti katarasmiṃ attani ṭhatvā vipākaṃ dassentīti sassatadassanaṃ okkamanto evamāha. Taṇhādhipateyyenāti taṇhājeṭṭhakena. Tatra tatrāti tesu tesu dhammesu. Saṭṭhimattānanti ime bhikkhū pakatikammaṭṭhānaṃ jahitvā aññaṃ navakammaṭṭhānaṃ sammasantā pallaṅkaṃ abhinditvā tasmiṃyeva āsane arahattaṃ pāpuṇiṃsu. sesaṃ sabbattha uttānamevāti.
90.[Câu] “Những hành động được làm trong vô ngã” (Anattakatāni): có nghĩa là những hành động được thực hiện trong khi an trú nơi vô ngã.
[Câu hỏi] “Chúng sẽ chạm đến tự ngã nào?” (Kamattānaṃ phusissanti): Người ấy nói như vậy là do đang rơi vào thường kiến (sassatadassanaṃ), với suy nghĩ rằng: “Quả báo [của nghiệp] sẽ biểu hiện dựa trên một tự ngã nào?”.
[Cụm từ] “Lấy tham ái làm chủ” (Taṇhādhipateyyena): có nghĩa là lấy tham ái làm đầu (taṇhājeṭṭhakena).
[Cụm từ] Tatra tatra: có nghĩa là “trong các pháp này, pháp kia” (tesu tesu dhammesu).
[Về] “Sáu mươi vị”: Những vị Tỳ khưu này, sau khi từ bỏ đề mục thiền định quen thuộc của mình, đã quán xét một đề mục thiền định mới. Các ngài đã không phá vỡ tư thế ngồi kiết già (pallaṅkaṃ abhinditvā), và đã chứng đắc A-la-hán ngay trên chính chỗ ngồi đó.
Từ còn lại trong các câu đều đơn giản.
Giải Thích Đại Kinh Mãn Nguyệt Kết Thúc