Kinh số 107 – Giải Thích Kinh Gaṇaka moggallāna

(Gaṇakamoggallānasuttavaṇṇanā)

Xem Trung Bộ Kinh – Kinh Gaṇaka Moggallāna

74. Evaṃ me sutanti gaṇakamoggallānasuttaṃ. Tattha yāva pacchima sopānakaḷevarāti yāva paṭhamasopānaphalakā ekadivaseneva sattabhūmiko pāsādo na sakkā kātuṃ, vatthuṃ sodhetvā thambhussāpanato paṭṭhāya pana yāva cittakammakaraṇā anupubbakiriyā cettha paññāyatīti dasseti. Yadidaṃ ajjheneti tayopi vedā na sakkā ekadivaseneva adhīyituṃ, etesaṃ ajjhenepi pana anupubbakiriyāva paññāyatīti dasseti. Issattheti āvudhavijjāyapi ekadivaseneva vālavedhi nāma na sakkā kātuṃ, ṭhānasampādanamuṭṭhikaraṇādīhi pana etthāpi anupubbakiriyā paññāyatīti dasseti. Saṅkhāneti gaṇanāya. Tattha anupubbakiriyaṃ attanāva dassento evaṃ gaṇāpemātiādimāha.

77. Kinh giảng về Gaṇakamoggallāna được bắt đầu như sau: “Tôi đã được nghe như vầy.” Ở đây, cho đến bậc thang cuối cùng: bao gồm cả những bậc thang đầu tiên, Bà-la-môn diễn tả tòa lâu đài bảy tầng không thể xây dựng trong vòng một ngày, tuy nhiên được biết đến nhờ vào việc thực hiện theo tuần tự bắt đầu bằng việc dọn dẹp sạch sẽ khu vực rồi mới bắt đầu đặt những cột trụ cho đến việc tô điểm những bức tranh trong lâu đài đó. Tức là trong vấn đề học tập: Bà-la-môn bày tỏ rằng ngay cả Ba bộ Về Đà cũng không thể học hết chỉ trong một ngày, kể cả khi học tập những bộ Vệ Đà ấy cũng được biết đến nhờ vào việc thực hành theo tuần tự tương tư. Trong chuyện sử dụng vũ khí: Bà-la-môn trình bày rằng kể cả đối với các môn học bằng vũ khí được xem gọi là một xạ thủ chỉ trong một ngày cũng không thể nào thực hiện được, thậm chí những môn học bằng vũ khí này cũng được biết đến nhờ vào việc thực hiện theo tuần tự bằng cách sắp xếp địa điểm và mục tiêu (dành cho việc bắn cung) v.v. Trong việc đếm ngón tay: bằng việc tính đếm. Trong câu đó khi trình bày việc thực hiện theo tuần tự bởi chính mình  mới nói lời bắt đầu như sau: Chúng tôi cho tính đếm như vậy.

75. Seyyathāpi brāhmaṇāti idha bhagavā yasmā bāhirasamaye yathā yathā sippaṃ uggaṇhanti, tathā tathā kerāṭikā honti, tasmā attano sāsanaṃ bāhirasamayena anupametvā bhadrāssājānīyena upamento seyyathāpīti-ādimāha. Bhadro hi assājānīyo yasmiṃ kāraṇe damito hoti, taṃ jīvitahetupi nātikkamati. evameva sāsane sammāpaṭipanno kulaputto sīlavelaṃ nātikkamati. Mukhādhāneti mukhaṭṭhapane.

75. Bà-la-môn cũng giống như: này bởi vì tất cả mọi người học tập nghề ở trong các học thuyết bên ngoài bằng cách nào, họ trở thành người dối trá bằng cách đó, bởi thế đức Thế Tôn không so sánh Giáo pháp của ngài với học thuyết bên ngoài, nếu như so sánh loài ngựa thuần chủng hiền thiện mới nói rằng: “cũng giống như v.v.” Bởi vì loài ngựa thuần chủng hiền thiện được luyện tập trong việc nào sẽ không từ bỏ việc đó, kể cả nguyên nhân mạng sống như thế nào, thiện nam tử thực hành chân chánh trong Giáo pháp cũng không vượt quá phạm vi của giới tương tự như thế ấy. Trong việc mang dây cương: trong việc mang dây cương.

76. Satisampajaññāya cāti satisampajaññāhi samaṅgibhāvatthāya. Dve hi khīṇāsavā satatavihārī ca nosatatavihārī ca. Tattha satatavihārī yaṃkiñci kammaṃ katvāpi phalasamāpattiṃ samāpajjituṃ sakkoti, no satatavihārī pana appamattakepi kicce kiccappasuto hutvā phalasamāpattiṃ appetuṃ na sakkoti.

76. (Nhằm mục đích) niệm và sự nhận biết rõ: Vì lợi ích là sự thành tựu niệm và sự nhận biết rõ. Bởi vì bậc Lậu Tận có hai nhóm là satatavihārī-bậc hằng trú và nosatatavihārī-bậc không hằng trú. Ở đây, bậc Lậu Tận hằng trú dù cho thực hiện bất cứ hành động nào cũng có thể đạt đến sự thể nhập Thánh quả. Còn bậc Lậu Tận là vị nỗ lực (thực hiện) nhiệm vụ trong nhiệm vụ cho dù là việc nhỏ nhặt cũng không thể ép chặt sự thể nhập thiền quả.

Tatridaṃ vatthu — eko kira khīṇāsavatthero khīṇāsavasāmaṇeraṃ gahetvā araññavāsaṃ gato, tattha mahātherassa senāsanaṃ pattaṃ, sāmaṇerassa na pāpuṇāti, taṃ vitakkento thero ekadivasampi phalasamāpattiṃ appetuṃ nāsakkhi. Sāmaṇero pana temāsaṃ phalasamāpattiratiyā vītināmetvā “sappāyo, bhante, araññavāso jāto”ti theraṃ pucchi. thero “na jāto, āvuso”ti āha. Iti yo evarūpo khīṇāsavo, so ime dhamme ādito paṭṭhāya āvajjitvāva samāpajjituṃ sakkhissatīti dassento “satisampajaññāya cā”ti āha.

Trong câu đó có câu chuyện như sau: tương truyền rằng một vị trưởng lão Lậu Tận đưa một vị Sa-di đi vào rừng, ở đó sàng tòa đã thành tựu nơi Đại trưởng lão, nhưng lại không thành tựu đối với vị Sa-di. Trưởng lão suy tầm về vấn đề ấy không thể thực hiện ép chặt vào sự thể nhập thiền quả. Còn vị Sa-di thực hành trải qua khoảng thời gian suốt 3 tháng với sự hoàn hy trong sự thể nhập thiền quả đã hỏi trưởng lão rằng: “Thưa ngài, việc sống trong rừng được sự thuận lợi chăng?” Trưởng lão nói rằng: “này hiền giả, không khởi lên sự thuận lợi”. Bậc Lậu Tận bằng hình thức như thế có thể nhập vào sự thể nhập bằng cách suy nghĩ đến những Pháp này được thiết lập ngay từ lúc bắt đầu mới thuyết rằng: “Nhằm mục đích niệm và sự nhận biết rõ ràng”.

78. Yeme, bho gotamāti tathāgate kira kathayanteva brāhmaṇassa “ime puggalā na ārādhenti, ime ārādhentī”ti nayo udapādi, taṃ dassento evaṃ vattumāraddho.

78. Kính bạch ngài Gotama, đa số người: nghe rằng khi đấng Như Lai đang thuyết có cách thức như sau: “Những hạng người này không đạt được, những hạng người này đạt được”, khởi lên cùng Bà-la-môn khi thuyết theo cách đó mới bắt đầu thuyết như vậy.

Paramajjadhammesūti ajjadhammā nāma chasatthāradhammā, tesu gotamavādova, paramo uttamoti attho. sesaṃ sabbattha uttānamevāti.

Tối thượng trong số Giáo pháp hiện nay: Học thuyết của 6 vị thầy gọi là pháp thất bại, và lời dạy của ngài Gotama là lời dạy tối thắng trong số các Pháp đó. Từ còn lại ở các câu đều đơn giản.

Giải Thích Kinh  Gaṇaka Moggallāna Kết Thúc.