Kinh số 102 – Giải Thích Kinh Năm và Ba
(Pañcattayasuttaṃ )Xem Trung Bộ Kinh – Kinh Năm và Ba
21. Evamme sutanti pañcattayasuttaṃ. Tattha eketi ekacce. Samaṇabrāhmaṇāti paribbajupagatabhāvena samaṇā, jātiyā brāhmaṇā, lokena vā samaṇāti ca brāhmaṇāti ca evaṃ sammatā. Aparantaṃ kappetvā vikappetvā gaṇhantīti aparantakappikā. Aparantakappo vā etesaṃ atthītipi . Ettha ca antoti “sakkāyo kho āvuso eko anto”ti-ādīsu[1] viya idha koṭṭhāso adhippeto. Kappāti taṇhādiṭṭhiyo. Vuttampi cetaṃ “kappoti udānato dve kappā taṇhākappo ca diṭṭaparantakappikāhikappo cā”ti. 1- Tasmā taṇhādiṭṭhivasena anāgataṃ khandhakoṭṭhāsaṃ kappetvā pakappetvā ṭhitāti aparantakappikāti evamattha attho daṭṭhabbo. Tesaṃ evaṃ aparantaṃ kappetvā ṭhitānaṃ punappunaṃ uppajjanavasena aparantameva anugatā diṭṭhīti aparantānudiṭṭhino. Te evaṃdiṭṭhino taṃ aparantaṃ ārabbha āgamma paṭicca aññampi janaṃ diṭṭhigatikaṃ karontā anekavihitāni adhimuttipadāni[2] abhivadanti. Anekavihitānīti anekavidhāni. Adhimuttipadānīti adhivacanapadāni. Athavā bhūtamatthaṃ adhibhavitvā yathāsabhāvato aggahetvā vattanato adhimuttiyoti diṭṭhiyo vuccanti, adhimuttīnaṃ padāni adhimuttipadāni, diṭṭhidīpakāni vacanānīti attho.
21. Kinh Năm và Ba được bắt đầu như sau: “Tôi đã được nghe như vầy.” Ở đó, ‘eke’ nghĩa là một số. Sa-môn và Bà-la-môn: những người được gọi là sa-môn do đã xuất gia, những người là bà-la-môn do dòng dõi, hoặc được thế gian công nhận là sa-môn và bà-la-môn. Luận chấp về tương lai những người suy tưởng, phân biệt và nắm giữ về tương lai. Hoặc những người có sự suy tưởng về tương lai. Ở đây, từ “anta” (biên) được hiểu là “phần” như trong câu “Này hiền giả, thân kiến là một biên” v.v. (a. ni. 6.61). Tham ái và tà kiến gọi là sự sắp đặt (Kappā). Tóm lại như đã thuyết: “Theo sự phân hạng về sự sắp đặt thì có hai sự sắp đặt: sự sắp đặt do tham ái và sự sắp đặt do tà kiến.” Bởi thế nên hiểu ý nghĩa ‘sự sắp đặt’ này như vầy: gọi là luận chấp về tương lai do xác định một phần của uẩn ở vị lai do tác động của tham ái và tà kiến. Aparantānudiṭṭhino – Những người có tà kiến luôn bám chấp vào tương lai. Vì sau khi đã suy tưởng và an trú trong quan niệm về tương lai, tà kiến của họ cứ liên tục phát sinh trở lại, luôn hướng về tương lai. Những người có tà kiến như vậy, họ lấy tương lai làm căn cứ, làm điểm tựa, làm nền tảng, rồi lôi kéo cả những người khác cùng đi theo con đường tà kiến của họ. Họ tuyên bố nhiều loại adhimuttipadāni (những lời nói thể hiện sự cố chấp) khác nhau. Anekavihitāni: nhiều loại. Adhivuttipadāni (niềm tin vào lời nói): Câu để gọi tên. Hơn nữa, tà kiến được gọi là adhimutti vì chế ngự sự thật, không nắm bắt theo bản chất thực. Các câu của adhimutti (niềm tin vào…) gọi là adhimuttipada (niềm tin vào lời nói), tức là những lời nói chỉ ra tà kiến (diṭṭhi).
Saññīti saññāsamaṅgī. Arogoti nicco. Ittheketi itthaṃ eke, evameketi attho. Iminā soḷasa saññīvādā kathitā. Asaññīti iminā aṭṭha asaññīvādā, nevasaññīnāsaññīti iminā aṭṭha nevasaññīnāsaññīvādā, sato vā pana sattassāti iminā satta ucchedavādā. Tattha satoti vijjamānassa. Ucchedanti upacchedaṃ. Vināsanti adassanaṃ. Vibhavanti bhavavigamaṃ. Sabbānetāni aññamaññavevacanāneva. Diṭṭhadhammanibbānaṃ vāti iminā pañca diṭṭhadhammanibbānavādā kathitā. Tattha diṭṭhadhammoti paccakkhadhammo vuccati, tattha tattha paṭiladdhaattabhāvassetaṃ adhivacanaṃ. Diṭṭhadhamme nibbānaṃ diṭṭhadhammanibbānaṃ, tasmiṃyeva attabhāve dukkhavūpasamanti attho. Santaṃ vāti saññītiādivasena tīhākārehi santaṃ. Tīṇi hontīti saññī attātiādīni santaattavasena ekaṃ, itarāni dveti evaṃ tīṇi.
Có tưởng: sự hội đủ bởi tưởng. bền vững aroga: không bệnh, nghĩa là thường hằng. Ittheke: phân tích là “itthaṃ eke”, nghĩa là “một số người nói như vậy”. Với câu này, 16 thuyết hữu tưởng được đề cập. Tám luận thuyết về phi tưởng với từ phi tưởng này. Tám luận thuyết về phi tưởng phi vô tưởng[3] bằng từ ‘phi tưởng, phi phi tưởng’ này. Bảy luận thuyết về đoạn diệt với cụm từ loài hữu tình hiện đang sinh tồn. Trong câu đó thì sato được dịch là đang sinh tồn (đang hiện hữu). Ucchedaṃ: đoạn tận. Vināsaṃ: không thấy. Vibhavaṃ: Phi hữu. Những từ này đều là những từ đồng nghĩa của nhau. “Diṭṭhadhammanibbānaṃ vā” – Với câu này, kinh đề cập đến 5 thuyết về “Niết-bàn ngay trong đời sống hiện tại”. Diṭṭhadhamma (hiện pháp) có nghĩa là “cái được trải nghiệm trực tiếp ngay bây giờ”. Đây là cách gọi khác của kiếp sống hiện tại mà người ta đang có. Diṭṭhadhammanibbāna (Niết-bàn hiện pháp) là quan niệm cho rằng: “Niết-bàn có thể đạt được ngay trong kiếp sống này”. Nghĩa là ngay trong thân xác hiện tại này, người ta có thể chấm dứt mọi khổ đau, đạt được sự an lạc tuyệt đối. Có tồn tại: hiện hữu theo ba cách bắt đầu với “có tưởng”. Trở thành 3: ba loại là: “tự ngã có tưởng” v.v. thành một do ý nghĩa tự ngã hiện hữu, hai loại còn lại (đoạn diệt và Niết-bàn hiện pháp) – như vậy thành ba.
22. Rūpiṃ vāti karajarūpena vā kasiṇarūpena vā rūpiṃ. Tattha lābhī kasiṇarūpaṃ attāti gaṇhāti. Takkī ubhopi rūpāni gaṇhātiyeva. Arūpinti arūpasamāpattinimittaṃ vā, ṭhapetvā saññākkhandhaṃ sesa-arūpadhamme vā attāti paññapentā lābhinopi takkikāpi evaṃ paññapenti. Tatiyadiṭṭhi pana missakagāhavasena pavattā, catutthā takkagāheneva. Dutiyacatukke paṭhamadiṭṭhi samāpannakavārena[4] kathitā, dutiyadiṭṭhi asamāpannakavādena, tatiyadiṭṭhi suppamattena vā sarāvamattena vā[5] kasiṇaparikammavasena, catutthadiṭṭhi vipulakasiṇavasena kathitāti veditabbā.
22. “Tự ngã có sắc” (Rūpiṃ) có hai cách hiểu:
Sắc thô (karajarūpa): Tự ngã là thân xác vật chất
Sắc tinh (kasiṇarūpa): Tự ngã là hình ảnh của đề mục thiền (biến xứ)
Có hai loại người:
Người tu thiền (lābhī): Chỉ cho rằng hình ảnh biến xứ là tự ngã
Người suy luận (takkī): Cho rằng cả thân xác lẫn hình ảnh biến xứ đều là tự ngã
“Tự ngã vô sắc” (Arūpiṃ) – Quan niệm tự ngã là Đối tượng của thiền vô sắc (không có hình tướng), hoặc các pháp phi vật chất khác (trừ tưởng uẩn ra). Cả người tu thiền và người suy luận đều có thể có quan điểm này.
Bốn quan điểm chính:
Quan điểm thứ nhất: Của người đã đắc thiền – tự ngã thuần túy có sắc hoặc vô sắc
Quan điểm thứ hai: Của người chưa đắc thiền – tự ngã có nhiều loại khác nhau
Quan điểm thứ ba: Tự ngã vừa có sắc vừa vô sắc (quan điểm hỗn hợp)
Quan điểm thứ tư: Tự ngã không hoàn toàn có sắc cũng không hoàn toàn vô sắc (dựa trên suy luận)
Về kích thước của tự ngã:
Nhỏ (paritta): Khi quán tưởng biến xứ nhỏ như cái mẹt, cái bát
Lớn (vipula): Khi quán tưởng biến xứ rộng lớn vô hạn
Ở nhóm bốn phần hai thuyết về quan điểm thứ nhất với học thuyết được trọn vẹn, thuyết quan niệm thứ hai với học thuyết không trọn vẹn, thuyết quan điểm thứ ba do tác động đề mục biến xứ kích thước bằng cái mẹt tre hoặc kích thước bằng cái bát, thuyết quan điểm thứ tư do tác động biến xứ rộng lớn.
Etaṃ vā panetesaṃ upātivattatanti saññīti padena saṅkhepato vuttaṃ. Saññāsattakaṃ atikkantānanti attho. Apare aṭṭhakanti vadanti. Tadubhayaṃ parato āvibhavissati. Ayaṃ panettha saṅkhepattho: – keci hi etā[6] satta vā aṭṭha vā saññā samatikkamituṃ sakkonti, keci pana na sakkonti. Tattha ye sakkonti teva gahitā. Tesaṃ pana ekesaṃ upātivattataṃ atikkamituṃ sakkontānaṃ yathāpi nāma gaṅgaṃ otiṇṇesu manussesu eko dīghavāpiṃ gantvā tiṭṭheyya, eko tato paraṃ mahāgāmaṃ; evameva eke viññāṇañcāyatanaṃ appamāṇaṃ āneñjanti vatvā tiṭṭhanti, eke ākiñcaññāyatanaṃ. Tattha viññāṇañcāyatanaṃ tāva dassetuṃ viññāṇakasiṇameketi vuttaṃ. Parato “ākiñcaññāyatanameke”ti vakkhati. Tayidanti taṃ idaṃ diṭṭhigatañca diṭṭhipaccayañca diṭṭhārammaṇañca. Tathāgato abhijānātīti iminā paccayena idaṃ nāma dassanaṃ gahitanti abhivisiṭṭhena ñāṇena jānāti.
Nhưng có một số tuyên bố thức biến xứ (viññāṇakasiṇa) của tự ngã có bất cứ một Tưởng nào vận hành vượt qua khỏi cả tám loại: Thuyết vắn tắt điều này bằng từ “có tưởng” (saññī). Ý nghĩa là: những người này đã vượt qua 7 nhóm tưởng. Một số luận sư khác nói là vượt qua 8 nhóm tưởng. Sự khác biệt này sẽ được giải thích rõ sau.
Còn ở chỗ này có ý nghĩa vắn tắt như sau: Một số người có khả năng vượt qua 7 hoặc 8 loại tưởng này. Một số người không có khả năng vượt qua. Ở đây chỉ nói về những người có khả năng vượt qua.
Giống như một nhóm người cùng vượt sông Hằng:
Nhóm thứ nhất: Vượt sông xong, đến một cái hồ lớn rồi dừng lại. Tương tự vậy, những người vượt qua các tưởng đạt đến Thức vô biên xứ rồi dừng lại. Họ tuyên bố thức biến xứ: “Đây là tự ngã vô lượng, bất động”.
Nhóm thứ hai: Đi xa hơn, vượt qua cả hồ đến làng lớn phía xa. Tương tự vậy, những người vượt qua các tưởng Đi xa hơn, đạt đến Vô sở hữu xứ. Họ tuyên bố thức biến xứ: “Đây là tự ngã vô lượng, bất động”.
Tayidaṃ: tách từ thành taṃ idaṃ, nghĩa là “cái này” – chỉ bản thân tà kiến, nguyên nhân của tà kiến, đối tượng của tà kiến. Như Lai biết: Đức Phật với trí tuệ siêu việt hiểu rõ tại sao mỗi người lại chấp giữ quan điểm như vậy, do những nhân duyên nào.
Idāni tadeva vitthārento ye kho te bhontotiādimāha. Yā vā panetesaṃ saññānanti yā vā pana etāsaṃ “yadi rūpasaññānan”ti evaṃ[7] vuttasaññānaṃ. Parisuddhāti nirupakkilesā. Paramāti uttamā. Aggāti seṭṭhā. Anuttariyā akkhāyatīti asadisā kathiyati. Yadi rūpasaññānanti iminā catasso rūpāvacarasaññā kathitā. Yadi arūpasaññānanti iminā ākāsānañcāyatana-viññāṇañcāyatanasaññā. Itarehi pana dvīhi padehi samāpannakavāro ca asamāpannakavāro ca kathitoti evametā koṭṭhāsato aṭṭha, atthato pana satta saññā honti. Samāpannakavāro hi purimāhi chahi saṅgahito yeva[8]. Tayidaṃ saṅkhatanti taṃ idaṃ sabbampi saññāgataṃ saddhiṃ diṭṭhigatena saṅkhataṃ paccayehi samāgantvā kataṃ. Oḷārikanti saṅkhatattāva oḷārikaṃ. Atthi kho pana saṅkhārānaṃ nirodhoti etesaṃ pana saṅkhatanti vuttānaṃ saṅkhārānaṃ nirodhoti saṅkhātaṃ nibbānaṃ nāma atthi. Atthetanti iti viditvāti taṃ kho pana nibbānaṃ “atthi etan”ti evaṃ jānitvā. Tassa nissaraṇadassāvīti tassa saṅkhatassa nissaraṇadassī nibbānadassī. Tathāgato tadupātivattoti taṃ saṅkhataṃ atikkanto[9] samatikkantoti attho.
Bây giờ, đức Thế Tôn trong khi giảng giải về quan điểm đó một cách chi tiết đã nói rằng: Những tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn nào v.v. Những Tưởng đó: “Hoặc những tưởng nào trong số các tưởng này” – tức là trong số các tưởng đã được nói theo cách “nếu là tưởng về sắc” v.v. Thanh tịnh: hết tùy phiền não. Cao cả: cao thượng. Tối thắng: tối thượng. Nói rằng…không có tưởng khác cao hơn: Được gọi là vô thượng, không gì sánh bằng. Nói về 4 loại tưởng thuộc sắc giới (4 tầng thiền sắc giới) trong câu: ‘ngay cả Tưởng trong Sắc’. Nói về tưởng Không vô biên xứ và tưởng Thức vô biên xứ trong câu: ‘ngay cả Tưởng trong Vô sắc’. Itarehi pana dvīhi padehi – Với hai câu còn lại (“tưởng đồng nhất” và “tưởng sai biệt”) nói về trường hợp người đã chứng thiền (samāpannaka) và trường hợp người chưa chứng thiền (asamāpannaka).
Như vậy có 8 phần khi phân chia, nhưng về ý nghĩa thực sự chỉ có 7 loại tưởng. Vì sao? Vì trường hợp người đã chứng thiền được bao gồm trong 6 loại đầu rồi.
Tất cả những điều này là pháp hữu vi: nghĩa là toàn bộ những tưởng này cùng với tà kiến đều là pháp được tạo tác, do các duyên hội tụ mà thành. Oḷārikaṃ: gọi là thô vì là pháp hữu vi. Atthi kho pana saṅkhārānaṃ nirodho – “Nhưng có sự diệt của các hành” – tức là có cái gọi là Niết-bàn, nơi các pháp hữu vi chấm dứt. Atthetaṃ iti viditvā – “Biết rằng cái đó có tồn tại” – nghĩa là hiểu biết Niết-bàn thực sự có. Tassa nissaraṇadassāvī – Người thấy được lối thoát khỏi pháp hữu vi đó – tức là thấy được Niết-bàn. Tathāgato tadupātivatto – Như Lai đã vượt qua điều đó – nghĩa là đã hoàn toàn vượt khỏi các pháp hữu vi.
23. Tatrāti tesu aṭṭhasu asaññīvādesu. Rūpiṃ vāti-ādīni saññīvāde vuttanayeneva veditabbāni. Ayañca yasmā asaññīvādo, tasmā idha dutiyaṃ catukkaṃ na vuttaṃ. Paṭikkosantīti paṭibāhanti paṭisedhenti. Saññā rogotiādīsu ābādhaṭṭhena rogo, sadosaṭṭhena gaṇḍo, anupaviṭṭhaṭṭhena sallaṃ. Āgatiṃ vā gatiṃ vātiādīsu paṭisandhivasena āgatiṃ, cutivasena gatiṃ, cavanavasena cutiṃ, upapajjanavasena upapattiṃ, punappunaṃ uppajjitvā aparāparaṃ vaḍḍhanavasena vuḍḍhiṃ viruḷhiṃ vepullaṃ. Kāmaṃ catuvokārabhave rūpaṃ vināpi viññāṇassa pavatti atthi, sese pana tayo khandhe vinā natthi. Ayaṃ pana pañho pañcavokārabhavavasena kathito. Pañcavokārehi ettake khandhe vinā viññāṇassa pavatti nāma natthi. Vitaṇḍavādī panettha “aññatra rūpā”tiādivacanato arūpabhavepi rūpaṃ, asaññībhave ca viññāṇaṃ atthi, tathā nirodhasamāpannassā”ti vadati. So vattabbo:- byañjanacchāyāya ce atthaṃ paṭibāhasi, āgatiṃ vātiādivacanato taṃ viññāṇaṃ[10] pakkhidvipadacatuppadā viya uppatitvāpi gacchati, padasāpi gacchati, govisāṇavalli-ādīni[11] viya ca vaḍḍhatīti āpajjati. Ye ca bhagavatā anekasatesu suttesu tayo bhavā vuttā, te arūpabhavassa abhāvā dveva āpajjanti. Tasmā mā evaṃ avaca, yathāvuttamatthaṃ dhārehīti.
23. Trong số những Sa-môn và Bà-la-môn đó: chỉ trong tám học thuyết Vô tưởng luận. Loại có Sắc v.v, nên được hiểu theo phương pháp đã trình bày trong phần Tưởng luận. Và vì đây là học thuyết Vô tưởng, nên ở đây không đề cập đến nhóm bốn phần thứ hai. Phản đối: ngăn cản, bác bỏ. Tưởng giống như bệnh hoạn v.v, được gọi là bệnh vì có tính chất gây tổn thương, gọi là ung nhọt vì có tính chất sai lầm, gọi là mũi tên vì có tính chất xuyên thấu vào trong. Đã đến tái sanh hoặc đã đi tái sanh v.v, gọi là “đã đến” do sức mạnh của sự tái sinh, “đã đi” do sức mạnh của sự chết, “chết” do sức mạnh của sự qua đời, “sanh” do sức mạnh của sự tái sinh, “phát triển, tăng trưởng, quảng đại” do sức mạnh của việc sinh rồi chết liên tục nhiều lần.
Thật vậy, trong cõi có bốn uẩn, thức có thể hoạt động ngay cả khi không có sắc, nhưng không thể hoạt động nếu thiếu ba uẩn còn lại. Tuy nhiên, vấn đề này được giảng giải theo góc độ cõi có năm uẩn. Trong cõi năm uẩn, nếu thiếu các uẩn này thì không có cái gọi là sự hoạt động của thức. Nhưng ở đây, kẻ ngụy biện nói rằng: “Do câu ‘ngoài sắc’ v.v., ngay cả trong cõi Vô sắc cũng có sắc, trong cõi Vô tưởng cũng có thức, tương tự đối với người nhập thiền diệt.” – Nên nói với người đó: Nếu ngươi phủ nhận ý nghĩa chỉ vì bóng dáng của văn tự, thì do câu “đã đến” v.v., thức ấy sẽ phải nhảy như loài chim hoặc động vật hai chân, bốn chân, đi bằng chân, và phát triển như dây leo bò v.v. Và ba cõi mà Đức Thế Tôn đã thuyết giảng trong hàng trăm bài kinh sẽ chỉ còn hai cõi do không có cõi Vô sắc. Vì thế đừng nói như vậy, hãy ghi nhớ ý nghĩa như đã được giải thích.
24. Tatrāti aṭṭhasu nevasaññīnāsaññīvādesu bhummaṃ. Idhāpi rūpiṃ vātiādīni vuttanayeneva veditabbāni. Asaññā sammohoti nissaññabhavo nāmesa sammohaṭṭhānaṃ. Yo hi kiñci na jānāti, taṃ asaññī esoti vadanti. Diṭṭhasutamutaviññātabbasaṅkhāramattenāti diṭṭhaviññātabbamattena sutaviññātabbamattena mutaviññātabbamattena. Ettha ca vijānātīti viññātabbaṃ, diṭṭhasutamutaviññātabbamattena pañcadvārikasaññāpavattimattenāti ayaṃ hi ettha attho. Saṅkhāramattenāti oḷārikasaṅkhārappavattimattenāti attho. Etassāyatanassāti etassa nevasaññānāsaññāyatanassa. Upasampadanti paṭilābhaṃ. Byasanaṃ hetanti vināso so hesa, vuṭṭhānaṃ hetanti attho. Pañcadvārikasaññāpavattañhi oḷārikasaṅkhārappavattaṃ vā appavattaṃ katvā taṃ samāpajjitabbaṃ. Tassa pana pavattena tato vuṭṭhānaṃ hotīti dasseti. Saṅkhārasamāpattipattabbamakkhāyatīti oḷārikasaṅkhārappavattiyā pattabbanti na akkhāyati. Saṅkhārāvasesasamāpatti-pattabbanti saṅkhārānaṃyeva avasesā bhāvanāvasena sabbasukhumabhāvaṃ pattā saṅkhārā, tesaṃ pavattiyā etaṃ pattabbanti attho. Evarūpesu hi saṅkhāresu pavattesu etaṃ pattabbaṃ nāma hoti. Tayidanti taṃ idaṃ etaṃ sukhumampi samānaṃ saṅkhataṃ saṅkhatattā ca oḷārikaṃ.
24. Tatra là cách thứ bảy (định sở cách) được dùng trong 8 Phi tưởng phi phi tưởng luận. Kể cả ở đây nên biết rằng Sắc v.v, theo cách thức như đã nói. không tưởng là si ám v.v, không có tưởng này là nơi thiết lập của sự si ám, ngài nói rằng cõi mà không biết gì, đó là cõi Vô tưởng. Chỉ nhờ những hành có thể thấy được, nghe được, tư duy được, ý thức được: nghĩa là chỉ bằng những gì có thể nhận biết qua thấy, chỉ bằng những gì có thể nhận biết qua nghe, chỉ bằng những gì có thể nhận biết qua cảm nhận. Và ở đây, “vijānāti” (biết rõ) nên hiểu là “viññātabba” (có thể nhận biết), nghĩa này muốn nói: chỉ bằng sự hoạt động của tưởng qua năm cửa giác quan khi tiếp xúc với cảnh đã thấy, đã nghe, đã cảm nhận và đã nhận biết. Chỉ nhờ những hành: với sự vận hành của các hành thô thiển. Xứ này (Etassāyatanassa): Phi tưởng phi phi tưởng này. Sự thành tựu: sự đạt được. Chủ trương của Sa-môn, Bà-la-môn là sự hoại diệt: “đó là sự hủy hoại”, có nghĩa là sự diệt mất, ý nói việc xuất khỏi thiền định đó. Vì phải làm cho tưởng qua năm cửa hoặc các hành thô tạm ngưng (hoặc không vận hành), thì mới có thể nhập vào trạng thái này. Nhưng khi các hành ấy vận hành trở lại thì sẽ xuất khỏi trạng thái này – ý nghĩa là như vậy. Không thể nói là “Có thể chứng đắc do sự thành tựu của các hành thô”: vì phải vượt qua cả những cái đó mới có thể đạt được. Có thể chứng đắc do sự thành tựu của các hành còn lại: Trạng thái này chỉ đạt được nhờ các hành còn lại, tức là các hành đã được làm cho vi tế nhất nhờ tu tập, và nhờ sự vận hành của các hành vi tế này thì có thể đạt được trạng thái ấy. Chỉ khi các hành vi tế như vậy vận hành thì mới có thể đạt được trạng thái này. Này đây nghĩa là phi tưởng phi phi tưởng xứ này đây dù là vi tế nhưng vì là pháp hữu vi (có tạo tác) nên vẫn mang tính chất thô.
25. Tatrāti sattasu ucchedavādesu bhummaṃ. Uddhaṃ parāmasantīti[12] uddhaṃ vuccati anāgatasaṃsāravādo, anāgataṃ saṃsāravādaṃ sasantīti attho. Āsattiṃyeva abhivadantīti lagganaṃyeva vadanti. “āsattan”tipi pāṭho, taṇhaṃyeva vadantīti attho. Iti pecca bhavissāmāti evaṃ pecca bhavissāma. Khattiyā bhavissāma, brāhmaṇā bhavissāmāti evamettha nayo netabbo. Vāṇijūpamā maññeti vāṇijūpamā viya vāṇijapaṭibhāgā vāṇijasadisā mayhaṃ upaṭṭhahanti. Sakkāyabhayāti sakkāyassa bhayā. Te hi yatheva “cattāro kho mahārāja abhayassa bhāyanti. Katame cattāro. Gaṇḍuppādo kho mahārāja bhayā paṭhaviṃ na khādati `mā paṭhavī khīyī’ti, konto kho mahārāja ekapādena tiṭṭhati `mā paṭhavī osīdī’ti, kikī kho mahārāja uttānā seti `mā ambhā udrīyī’ti, brāhmaṇadhammiko kho mahārāja brahmacariyaṃ na carati `mā loko ucchijjī”ti ime cattāro abhayassa bhāyanti, evaṃ sakkāyassa bhāyanti. Sakkāyaparijegucchāti tameva tebhūmikasaṅkhātaṃ sakkāyaṃ parijigucchamānā. Sā gaddulabaddhoti daṇḍake rajjuṃ pavesetvā baddhasunakho. Evamevimeti ettha daḷhatthambho viya khīlo viya ca tebhūmikadhammasaṅkhāto sakkāyo daṭṭhabbo, sā viya diṭṭhigatiko, daṇḍako viya diṭṭhi, rajju viya taṇhā, gaddulena bandhitvā thambhe vā khīle vā upanibaddhasunakhassa attano dhammatāya chinditvā gantuṃ asamatthassa anuparidhāvanaṃ viya diṭṭhigatikassa diṭṭhidaṇḍake pavesitāya taṇhārajjuyā bandhitvā sakkāye upanibaddhassa anuparidhāvanaṃ veditabbaṃ.
25. Tatrā là cách thứ bảy (định sở cách) được dùng trong ý nghĩa bảy loại Đoạn diệt luận.Uddhaṃ parāmasantī – “uddhaṃ” có nghĩa là phía trước, chỉ thời gian tương lai. Câu này có nghĩa: họ bám víu vào học thuyết về luân hồi trong tương lai. Tuyên bố sự bám chấp: họ chỉ nói về sự dính mắc, sự bám víu. Cũng có bản đọc là “āsattaṃ”, nghĩa là họ chỉ nói về tham ái. Sau khi chết ta sẽ trở thành như vậy: Sau khi từ từ bỏ thế gian này ta sẽ trở thành như vậy. Ở đây nên hiểu theo cách: “Ta sẽ là người giai cấp Sát-đế-lỵ, ta sẽ là Bà-la-môn”. Có lẽ cũng giống như những người lái buôn: Hiện hữu cùng tôi giống như người thương buôn, tựa như người thương buôn. Sakkāya-bhayā: người sợ hãi tự thân. Bởi vì những Sa-môn, Bà-la-môn đó khi ghê tởm tự thân, giống như bốn nhóm chúng sanh sợ hãi đối với những thứ không đáng sợ hãi: “Tâu Đại vương, có bốn loài sợ những thứ không đáng sợ. Đó là những loài nào? Con giun đất sợ hãi, không ăn đất vì nghĩ ‘đất sẽ cạn kiệt’. Con sếu đứng một chân vì sợ ‘đất sẽ sụp xuống’. Chim Kikī nằm ngửa vì sợ ‘bầu trời sẽ rơi xuống’. Người Bà-la-môn theo pháp Bà-la-môn không tu Phạm hạnh (tức là lấy vợ) vì sợ ‘thế giới sẽ diệt mất’. Đây là bốn loài sợ những thứ không đáng sợ”. Sakkāya-parijegucchā: ghê tởm tự thân được xem là các Pháp vận hành trong ba cõi đó. Con chó bị buộc sợi dây xích: Con chó bị buộc bằng dây vào một cọc gỗ. Nhóm người này cũng y như vậy: Thân kiến (tập hợp các pháp trong ba cõi) phải được xem như cái cọc chắc chắn hay cái chốt cứng. Người có tà kiến giống như con chó đó. Tà kiến giống như cái cọc. Tham ái giống như sợi dây. Nên hiểu rằng: giống như con chó bị xích vào cọc hay chốt, không thể cắt đứt được theo bản chất tự nhiên của nó mà chỉ chạy vòng quanh; cũng vậy, người có tà kiến bị trói buộc vào thân kiến bằng sợi dây tham ái đã luồn vào cọc tà kiến, chỉ có thể chạy vòng quanh mà thôi.
26. Imāneva pañcāyatanānīti imāneva pañca kāraṇāni. Iti mātikaṃ ṭhapentenapi pañceva ṭhapitāni, nigamentenapi pañceva nigamitāni, bhājentena pana cattāni bhājitāni. Diṭṭhadhammanibbānaṃ kuhiṃ paviṭṭhanti. Ekattanānattavasena dvīsu padesu paviṭṭhanti veditabbaṃ.
26. Năm xứ này: chỉ năm lý do này. Khi đặt ra chủ đề, Đức Phật nêu ra 5 điểm. Khi tổng kết, Ngài cũng kết luận 5 điểm. Nhưng khi phân tích chi tiết, Ngài chỉ chia thành 4 phần.
Vậy quan niệm về “Niết bàn ngay trong đời này” (diṭṭhadhammanibbāna) được xếp vào đâu? Cần hiểu rằng nó được xếp vào cả hai loại:
Quan điểm Niết bàn đầu tiên thuộc loại “tưởng dị biệt” (nānattasaññā)
Bốn quan điểm Niết bàn còn lại thuộc loại “tưởng đồng nhất” (ekattasaññā)
27. Evañca catucattāḷīsa aparantakappike dassetvā idāni aṭṭhārasa pubbantakappike dassetuṃ santi bhikkhavetiādimāha. Tattha atītakoṭṭhāsasaṅkhātaṃ pubbantaṃ kappetvā vikappetvā gaṇhantīti pubbantakappikā. Pubbantakappo vā etesaṃ atthīti pubbantakappikā. Evaṃ sesampi pubbe vuttappakāraṃ vuttanayeneva veditabbaṃ. Sassato attā ca loko cāti rūpādīsu aññataraṃ attāti ca lokoti ca gahetvā sassato amaro nicco dhuvoti abhivadanti. Yathāha “rūpaṃ attā ceva loko ca sassato cāti attānañca lokañca paññapentī”ti vitthāro. Asassatādīsupi eseva nayo. Ettha ca paṭhamavādena cattāro sassatavādā vuttā, dutiyavādena satta ucchedavādā.
27. Sau khi thuyết giảng việc 44 luận chấp về tương lai như vậy, bây giờ để thuyết giảng 18 luận chấp về quá khứ đã nói rằng: “Này chư Tỳ khưu, có một nhóm Sa-môn, Bà-la-môn”. Pubbantakappikā (người chấp về quá khứ): Là những Sa-môn, Bà-la-môn dựa vào phần quá khứ (các uẩn trong quá khứ), rồi dựa vào đó mà hình thành quan điểm, suy diễn và chấp giữ. Hoặc, gọi là “người chấp về quá khứ” vì họ lấy nội dung về quá khứ làm đối tượng tư duy và chấp thủ. Các phần luận chấp còn lại cũng nên được hiểu và giải thích theo cách đã được trình bày trước đó. Tự ngã và thế giới là thường còn: nắm giữ bất kỳ một xứ nào trong số các xứ như sắc xứ v.v, cho rằng là tự ngã và là thế giới, rồi tuyên bố rằng thường còn, chắc chắn không chết, bền vững. Như kinh đã nói chi tiết: “Họ thi thiết tự ngã và thế giới rằng: ‘Sắc vừa là tự ngã vừa là thế giới, và là thường còn'”. Trong các quan điểm “vô thường” v.v. cũng áp dụng phương pháp tương tự. Ở đây, học thuyết thứ nhất đề cập bốn thường kiến (sassatavāda), học thuyết thứ hai đề cập bảy đoạn kiến (ucchedavāda)
Nanu cete heṭṭhā āgatā, idha kasmā puna gahitāti. Heṭṭhā tattha tattha mato tattha tattheva ucchijjatīti dassanatthaṃ āgatā. Idha pana pubbenivāsalābhī diṭṭhigatiko atītaṃ passati, na anāgataṃ, tassa evaṃ hoti “pubbantato āgato attā idheva ucchijjati, tato paraṃ na gacchatī”ti. Imassatthassa dassanatthaṃ gahitā. Tatiyavādena cattāro ekaccasassatavādā vuttā, catutthavādena cattāro amarāvikkhepikā vuttā. Antavāti sapariyanto paricchinno parivaṭumo. Avaḍḍhitakasiṇassa taṃ kasiṇaṃ attāti ca lokoti ca gahetvā evaṃ hoti. Dutiyavādo vaḍḍhitakasiṇassa vasena vutto, tatiyavādo tiriyaṃ vaḍḍhetvā uddhamadho avaḍḍhitakasiṇassa, catutthavādo takkivasena vutto. Anantaracatukkaṃ heṭṭhā vuttanayameva.
Những luận thuyết này đã được nêu ở phần trước, vậy tại sao lại trình bày lại ở đây? Ở phần trước, chúng được nêu để chỉ ra rằng chúng sinh sau khi chết ở nơi nào thì sẽ đoạn diệt ngay tại nơi đó. Nhưng ở đây, đề cập đến người có tà kiến nhưng có khả năng nhớ được tiền kiếp, người này thấy được quá khứ nhưng không thấy được tương lai, nên nghĩ rằng: “Tự ngã đến từ quá khứ sẽ bị đoạn diệt ngay tại đây, không tiếp tục đi đến nơi khác nữa.” Luận thuyết được nêu lại nhằm giải thích ý nghĩa này. Luận thuyết thứ ba đề cập đến bốn thuyết thường kiến một phần, luận thuyết thứ tư đề cập đến bốn loại trườn uốn như lươn (không xác quyết). “Có giới hạn” nghĩa là có phạm vi xác định, có biên giới rõ ràng. Đối với người không phát triển biến xứ (kasiṇa), họ cho rằng biến xứ đó chính là tự ngã và là thế giới. Luận thuyết thứ hai được nói về người đã phát triển biến xứ, luận thuyết thứ ba về người phát triển biến xứ theo chiều ngang nhưng không phát triển theo chiều dọc (trên dưới), và luận thuyết thứ tư nói về người dựa vào lý luận suy đoán. Bốn nhóm tiếp theo có cách giải thích giống như đã trình bày ở phần trước.
Ekantasukhīti nirantarasukhī. Ayaṃ diṭṭhi lābhījātissaratakkīnaṃ vasena uppajjati. Lābhino hi pubbenivāsañāṇena khattiyādikule ekantasukhameva attano jātimanussarantassa evaṃ diṭṭhi uppajjati. Tathā jātissarassa paccuppannaṃ sukhamanubhavato atītāsu sattasu jātīsu tādisameva attabhāvaṃ anussarantassa. Takkissa pana idha sukhasamaṅgino “atītepāhaṃ evameva ahosin”ti takkeneva uppajjati.
Hoàn toàn lạc: nghĩa là có sự an lạc không gián đoạn. Quan điểm này sinh khởi do ba hạng người: người đạt được thần thông, người nhớ được tiền kiếp, và người suy luận. Đối với người đạt được thần thông, khi họ dùng túc mạng trí nhớ lại kiếp sống của mình trong gia đình vua chúa (Sát-đế-lỵ) v.v… nơi chỉ có toàn hạnh phúc, quan điểm này sinh khởi. Tương tự, đối với người nhớ được tiền kiếp, khi họ đang hưởng lạc trong hiện tại và nhớ lại bảy kiếp quá khứ với thân phận tương tự như vậy. Còn đối với người suy luận đang hưởng lạc trong đời này, quan điểm này sinh khởi do suy đoán rằng: “Trong quá khứ ta cũng đã được như vậy.”
Ekantadukkhīti ayaṃ diṭṭhi lābhino nuppajjati. So hi ekanteneva idha jhānasukhena sukhī hoti. Idha dukkhena phuṭṭhassa pana jātissarassa takkisseva ca esā uppajjati. Tatiyā idha vokiṇṇasukhadukkhānaṃ sabbesampi tesaṃ uppajjati Tathā catutthadiṭṭhi. Lābhino hi idāni catutthajjhānavasena adukkhamasukhassa, pubbepi catutthajjhānikameva brahmalokaṃ anussarantassa. Jātissarassāpi paccuppanne majjhattassa, anussarantassāpi majjhattabhūtaṭṭhānameva anussarantassa, takkinopi paccuppanne majjhattassa, atītepi evaṃ bhavissatīti takkeneva gaṇhantassa esā diṭṭhi uppajjati. Ettāvatā cattāro sassatavādā, cattāro ekaccasassatikā, cattāro antānantikā, cattāro amarāvikkhepikā, dve adhiccasamuppannikāti aṭṭhārasapi pubbantakappikā kathitā honti.
Hoàn toàn khổ: quan điểm này không sinh khởi nơi người đạt được thần thông. Bởi vì người ấy hoàn toàn có hạnh phúc nhờ an lạc thiền định trong đời này. Tuy nhiên, quan điểm này sinh khởi nơi người nhớ được tiền kiếp và người suy luận khi họ đang trải nghiệm khổ trong hiện tại. Quan điểm thứ ba (vừa lạc vừa khổ) sinh khởi nơi tất cả những người có lạc và khổ xen lẫn nhau. Tương tự, quan điểm thứ tư (không khổ không lạc) sinh khởi nơi: người đạt được thần thông hiện đang trải nghiệm trạng thái phi khổ phi lạc của Tứ thiền và nhớ lại cõi Phạm thiên trước đây nơi họ đã chứng đắc Tứ thiền; người nhớ được tiền kiếp hiện đang có cảm thọ trung tính và chỉ nhớ đến những nơi có trạng thái trung tính; người suy luận hiện đang có cảm thọ trung tính và kết luận rằng “trong quá khứ cũng chắc hẳn như vậy”. Như vậy, tổng cộng có mười tám luận chấp về quá khứ đã được trình bày: bốn luận thuyết thường kiến, bốn luận thuyết thường kiến một phần, bốn luận thuyết về hữu biên và vô biên, bốn luận thuyết trườn uốn như lươn, và hai luận thuyết về sự phát sinh ngẫu nhiên.
28. Idāni diṭṭhuddhāraṃ uddharanto tatra bhikkhavetiādimāha. Tattha paccattaṃyeva ñāṇanti paccakkhañāṇaṃ. Parisuddhanti nirupakkilesaṃ. Pariyodātanti pabhassaraṃ. Sabbapadehi vipassanāñāṇaṃyeva kathitaṃ. Saddhādayo hi pañca dhammā bāhirasamayasmimpi honti, vipassanāñāṇaṃ sāsanasmiṃyeva. Tattha ñāṇabhāgamattameva pariyodapentīti mayamidaṃ jānāmāti evaṃ tattha ñāṇakoṭṭhāsaṃ otārentiyeva. Upādānamakkhāyatīti na taṃ ñāṇaṃ, micchādassanaṃ nāmetaṃ, tasmā tadapi tesaṃ bhavantānaṃ diṭṭhupādānaṃ akkhāyatīti attho. Athāpi taṃ jānanamattalakkhaṇattā ñāṇabhāgamattameva, tathāpi tassa dassanassa anupātivattanato upādānapaccayato ca upādānameva. Tadupātivattoti taṃ diṭṭhiṃ atikkanto. Ettāvatā cattāro sassatavādā, cattāro ekaccasassatikā, cattāro antānantikā, cattāro amarāvikkhepikā, dve adhiccasamuppannikā, soḷasa saññīvādā, aṭṭha asaññīvādā, aṭṭha nevasaññīnāsaññīvādā, satta ucchedavādā, pañca diṭṭhadhammanibbānavādāti brahmajāle āgatā dvāsaṭṭhipi diṭṭhiyo kathitā honti. Brahmajāle pana kathite idaṃ suttaṃ akathitameva hoti. Kasmā? Idha tato atirekāya sakkāyadiṭṭhiyā āgatattā. Imasmiṃ pana kathite brahmajālaṃ kathitameva hoti.
28. Bây giờ, để làm rõ các tà kiến đã được đề cập, Đức Phật nói: “Ở đây, này các Tỳ khưu…”. Ở đó, “Tự sanh trí” nghĩa là trí tuệ trực tiếp, tự mình chứng nghiệm. “Thanh tịnh” có nghĩa là không còn cấu uế. “Trong sáng” có nghĩa là rực rỡ, chói lọi. Tất cả những từ ngữ này đều chỉ về Minh sát trí (trí tuệ thấy rõ thực tại). Năm pháp như đức tin và các pháp khác có thể tìm thấy trong các học thuyết ngoài Phật giáo, nhưng Minh sát trí chỉ có trong giáo pháp của Đức Phật.
Câu “làm cho trong sạch chỉ một phần của sự nhận biết” có nghĩa là họ chỉ làm rõ một phần kiến thức, nghĩ rằng “chúng tôi biết điều này”. Nhưng đó không phải là trí tuệ thật sự mà là nhận thức sai lầm. Do đó, cái được gọi là “trí” của họ thực chất là kiến thủ (chấp thủ vào quan điểm). Mặc dù đó chỉ là một dạng nhận thức do có đặc tính biết, nhưng vẫn được xem là thủ (chấp thủ) vì không vượt qua được tà kiến và còn làm duyên cho sự chấp thủ.
Đã vượt khỏi pháp hữu vi: ghĩa là đã vượt qua những tà kiến đó.
Đến đây, đã trình bày đầy đủ 62 tà kiến được nêu trong Kinh Phạm Võng:
Bốn luận thuyết về thường còn
Bốn luận thuyết về thường còn một phần
Bốn luận thuyết về hữu biên và vô biên
Bốn luận thuyết trườn uốn như lươn (không khẳng định)
Hai luận thuyết về sự sinh khởi ngẫu nhiên
Mười sáu luận thuyết về hữu tưởng
Tám luận thuyết về vô tưởng
Tám luận thuyết về phi tưởng phi phi tưởng
Bảy luận thuyết về đoạn diệt
Năm luận thuyết về hiện tại Niết Bàn
Khi Kinh Phạm Võng đã được giảng giải, bài kinh này không cần phải giải thích lại. Tại sao? Vì bài kinh này bổ sung thêm sự giải thích về thân kiến (sự nhận thức sai lầm về bản ngã) mà Kinh Phạm Võng chưa đề cập đầy đủ. Tuy nhiên, khi bài kinh này được giảng dạy, những điều trong Kinh Phạm Võng cũng đã được trình bày đầy đủ.
30. Idāni imā dvāsaṭṭhi diṭṭhiyo uppajjamānā sakkāyadiṭṭhippamukheneva uppajjantīti dassetuṃ idha bhikkhave ekaccotiādimāha. Tattha paṭinissaggāti pariccāgena. Kāmasaṃyojanānaṃ anadhiṭṭhānāti pañcakāmaguṇataṇhānaṃ nissaṭṭhattā. Pavivekaṃ pītinti sappītikajjhānadvayapītiṃ. Nirujjhatīti jhānanirodhena nirujjhati. Samāpattito pana vuṭṭhitassa niruddhā nāma hoti. Yatheva hi “adukkhamasukhāya vedanāya nirodhā uppajjati nirāmisaṃ sukhaṃ, nirāmisassa sukhassa nirodhā uppajjati adukkhamasukhā vedanā”ti ettha na ayamattho hoti:- catutthajjhānanirodhā tatiyaṃ jhānaṃ upasampajja viharatīti. Ayaṃ panettha attho:- catutthajjhānā vuṭṭhāya tatiyaṃ jhānaṃ samāpajjati, tatiyajjhānā vuṭṭhāya catutthaṃ jhānaṃ samāpajjatīti, evaṃ sampadamidaṃ veditabbaṃ. Uppajjati domanassanti hīnajjhānapariyādānakadomanassaṃ. Samāpattito vuṭṭhitacittassa pana kammanīyabhāvo kathito.
30. Bây giờ, để chỉ rõ rằng 62 tà kiến này khi sinh khởi đều có thân kiến làm nền tảng, Đức Phật đã nói: “Này các Tỳ khưu, một số Sa-môn và Bà-la-môn trong đời này v.v.” Ở đó, sự buông bỏ: sự xả bỏ. Do không hoàn toàn chú tâm đến những dục kiết sử: Do đã được dứt bỏ trong sự trói buộc của năm dục. Hỷ sanh khởi từ sự viễn ly: hỷ ở trong cả hai tầng thiền có hỷ. Đoạn diệt: nghĩa là diệt mất khi thiền chấm dứt. Đối với người đã xuất khỏi thiền chứng, hỷ được xem là đã diệt. Giống như trong câu “Khi cảm thọ không khổ không lạc diệt, cảm thọ lạc không vật chất sinh khởi; khi cảm thọ lạc không vật chất diệt, cảm thọ không khổ không lạc sinh khởi” – điều này không có nghĩa là: do Tứ thiền diệt nên hành giả chứng nhập Tam thiền. Thay vào đó, ý nghĩa ở đây là: sau khi xuất khỏi Tứ thiền, hành giả nhập vào Tam thiền; sau khi xuất khỏi Tam thiền, hành giả nhập vào Tứ thiền. Nên hiểu ví dụ này theo cách như vậy. Thọ ưu sanh khởi: chỉ đến trạng thái không hài lòng làm suy yếu các tầng thiền thấp hơn. Đoạn văn cũng đề cập đến khả năng linh hoạt của tâm người đã xuất khỏi thiền chứng.
Pavivekā pītīti sāva jhānadvayapīti. Yaṃ chāyā jahatīti yaṃ ṭhānaṃ chāyā jahati. Kiṃ vuttaṃ hoti[13]? yasmiṃ ṭhāne chāyā atthi, tasmiṃ ātapo natthi. Yasmiṃ ātapo atthi, tasmiṃ chāyā natthīti.
Hỷ sanh khởi từ sự viễn ly: chính hỷ ở trong cả hai tầng thiền đầu. Bóng mát từ bỏ chỗ nào: nghĩa là bóng mát biến mất ở nơi nào. Điều này có nghĩa gì? bóng mát xuất hiện ở chỗ nào thì ánh nắng sẽ tan biến ở chỗ đó, ánh nắng có mặt ở chỗ nào thì bóng mát sẽ biến mất ở chỗ đó.
31. Nirāmisaṃ sukhanti tatiyajjhānasukhaṃ.
31. Sự an lạc không thuộc vật chất: sự an lạc trong Tam thiền
32. Adukkhamasukhanti catutthajjhānavedanaṃ.
32. Không khổ không lạc: Cảm thọ trong Tứ thiền.
33. Anupādānohamasmīti niggahaṇo ahamasmi[14]. Nibbānasappāyanti nibbānassa sappāyaṃ upakārabhūtaṃ. Nanu ca maggadassanaṃ nāma sabbattha nikantiyā sukkhāpitāya uppajjati, kathametaṃ nibbānassa upakārapaṭipadā nāma jātanti, sabbattha anupādiyanavasena aggaṇhanavasena upakārapaṭipadā nāma jātaṃ. Abhivadatīti abhimānena upavadati. Pubbantānudiṭṭhinti aṭṭhārasavidhampi pubbantānudiṭṭhiṃ. Aparantānudiṭṭhinti catucattāḷīsavidhampi aparantānudiṭṭhiṃ. Upādānamakkhāyatīti ahamasmīti gahaṇassa sakkāyadiṭṭhipariyāpantattā diṭṭhupādānaṃ akkhāyati.
33. Ta là người không chấp thủ: ta là người không dính mắc. cho thành tựu Nibbāna: nghĩa là thích hợp và hỗ trợ cho việc đạt được Nibbāna. Không phải con đường giác ngộ xuất hiện khi ta không còn khao khát bất cứ điều gì đã suy tàn sao? Đây chính là đạo lộ hỗ trợ đạt Nibbāna. Gọi là “đạo lộ thực hành trợ giúp” vì nó có sức mạnh không bám víu vào bất cứ điều gì. Nói xác chứng: nói bởi sự quá mạn. Quá khứ hữu biên kiến: Mười tám (luận thuyết) tà kiến liên quan đến các uẩn quá khứ. Vị lai hữu biên kiến: Bốn mươi bốn (luận thuyết) tà kiến liên quan đến các uẩn trong tương lai. Bậc trí gọi là sự chấp thủ: nghĩa là cái thấy sai lầm khi bám víu vào ý niệm “tôi hiện hữu” – đây là sự chấp thủ dựa trên thân kiến.
Santivarapadanti vūpasantakilesattā santaṃ uttamaṃ padaṃ. Channaṃ phassāyatanānanti bhagavatā “yattha cakkhu ca nirujjhati rūpasaññā ca nirujjhati se āyatane veditabbe”ti[15] ettha dvinnaṃ āyatanānaṃ paṭikkhepena nibbānaṃ dassitaṃ.
Trạng thái vô thượng an tịnh: đường lối vô thượng tịch tịnh do an tịnh phiền não. Cả sáu xúc xứ: Trong đoạn Pāḷi này, Đức Phật dạy về xứ mà người tu nên hiểu: “nhãn xứ diệt ở chỗ nào thì sắc tưởng cũng diệt ở chỗ đó v.v – ở đây Nibbāna được chỉ ra bằng cách phủ định hai xứ, như trong đoạn Pāḷi:
“yattha āpo ca paṭhavī tejo vāyo na gādhati
ato sarā nivattanti ettha vajjaṃ na vattati
ettha nāmañca rūpañca asesaṃ uparujjhatī”ti (saṃ. ni. 1.27)
Nơi nước, đất, lửa, gió không thể bám trụ,
Nơi đó các dòng chảy (kiếp sống, tái sinh) ngừng lại,
Nơi đó mọi lỗi lầm (luân hồi) không còn hoạt động,
Nơi đó danh và sắc hoàn toàn chấm dứt, không dư sót.
(saṃ. ni. 1.27)
ettha pana saṅkhārapaṭikkhepena nibbānaṃ dassitaṃ.
“kattha āpo ca paṭhavī ca tejo vāyo na gādhati
kattha dīghañca rassañca, aṇuṃ thūlaṃ subhāsubhaṃ
kattha nāmañca rūpañca asesaṃ uparujjhatīti (dī. ni. 1.498)
Ở đây, Nibbāna được mô tả bằng cách phủ định các hành (saṅkhāra):
Ở đâu nước, đất, lửa, gió không có chỗ đứng,
Ở đâu dài, ngắn, nhỏ, lớn, đẹp, xấu đều không tồn tại,
Ở đâu danh và sắc hoàn toàn đoạn diệt, không còn dư sót?(dī. ni. 1.498)
tatra veyyākaraṇaṃ bhavati: – viññāṇaṃ anidassanaṃ anantaṃ sabbatopabhan”ti.
Ettha saṅkhārapaṭikkhepena nibbānaṃ dassitaṃ. Imasmiṃ pana sutte chaāyatanapaṭikkhepena dassitaṃ. Aññattha ca anupādāvimokkhoti nibbānameva dassitaṃ, idha pana arahattaphalasamāpatti. Sesaṃ sabbattha uttānamevāti.
Lời giải thích cho câu Pāḷi này là: “Thức không thể thấy được, vô hạn, tỏa sáng khắp mọi phương.”
Ở đoạn trên, Nibbāna được chỉ ra bằng cách phủ định các hành, nhưng trong kinh này, Nibbāna được chỉ ra bằng cách phủ định sáu xứ. Trong các kinh khác, Nibbāna được mô tả cụ thể là “sự giải thoát không chấp thủ”, nhưng ở đây nó chỉ đến quả vị A-la-hán. Từ còn lại ở các câu đều đơn giản.
Giải Thích Kinh Năm và Ba Kết Thúc
[1] Aṃ 2. 351 piṭṭhe
[2] Cha. Ma. – adhivuttipadāni
[3] Nevasaññīnāsaññī: Có tưởng cũng không phải, không có tưởng cũng không phải
[4] Syā. Ka. – samāpannakavādena. Dī-ṭṭha 1.110 – samāpannakavāsena
[5] Sī. – suppamattaṃ vā sarāvamattṃ vā
[6] Syā, Ka. – ettha
[7] Sī. – saññānanti evaṃ, Ka. – saññānanti etāsaṃ yadi rūpasaññanti evaṃ
[8] Sī. – purimābhijātisaṅgahito yeva
[9] Ka. – atikkamatthe
[10] Sī. – tava viññāṇaṃ
[11] Ka. – govisālavallikādīni
[12] Sī. – uddhaṃ sarāti, Syā. – uddhaṃ saranti
[13] Syā. – Idaṃ vuttaṃ hoti
[14] Ka. – niggāhamāṇo
[15] Sī. – yo āyatane veditabboti, Ka. – so āyatanena veditabbo,