Kinh số 101 – Giải Thích Kinh Devadaha

(Devadahasuttavaṇṇanā)

Xem Trung Bộ Kinh – Kinh Devadaha

1. Evamme sutanti Devadahasuttaṃ. Tattha Devadahaṃ nāmāti devā vuccanti rājāno, tattha ca Sakyarājūnaṃ maṅgalapokkharaṇī ahosi pāsādikā ārakkhasampannā, sā devānaṃ dahattā “Devadahan”ti paññāyittha, tadupādāya sopi nigamo Devadahantveva saṅkhyaṃ gato. Bhagavā taṃ nigamaṃ nissāya Lumbinivane viharati. Sabbaṃ taṃ pubbekatahetūti pubbe katakammapaccayā. Iminā kammavedanañca kiriyavedanañca paṭikkhipitvā ekaṃ vipākavedanameva sampaṭicchantīti dasseti. Evaṃvādino bhikkhave niganthāti iminā pubbe aniyametvā vuttaṃ niyametvā dasseti.

1. Kinh Devadaha được bắt đầu như sau: “Tôi đã được nghe như vầy.” Ở đó, các vị vua gọi Deva trong cụm từ ‘tên là Devadaha’ này, và cũng trong thị trấn đó các Sakya có hồ nước kiết tường khả ái được thành tựu bởi sự bảo hộ. Hồ nước ấy họ gọi là ‘Devadaha’ bởi vì là hồ nước của các Thiên nhân. Nương nơi hồ nước Devadaha đó thị trấn đó cũng được gọi là Devadaha tương tự. Đức Thế Tôn cư trú ở vườn Lumbinī tại thị trấn ấy. Tất cả đều do nhân các nghiệp quá khứ, nghĩa là hành động đã tạo ở quá khứ làm duyên. Với lời này để thuyết rằng: nhóm Nigantha đã bác bỏ thọ nghiệp báo, thọ duy tác, mà chỉ chấp nhận thọ quả dị thục mà thôi. Này các Tỳ khưu, các Nigantha có học thuyết như vậy: vì thế đã định rõ để diễn đạt lời nói được nói chưa được xác định từ trước.

Ahuvamheva mayanti idaṃ Bhagavā tesaṃ ajānanabhāvaṃ jānantova kevalaṃ kalisāsanaṃ ārocetukāmo pucchati. Ye hi “mayaṃ ahuvamhā”tipi na jānanti, te kathaṃ kammassa katabhāvaṃ vā akatabhāvaṃ vā jānissanti. Uttaripucchāyapi eseva nayo.

Chúng tôi đã có mặt (trong quá khứ): Đức Thế Tôn biết rằng những Nigantha đó không biết được, mong muốn nói ra lời ám chỉ trọn vẹn về những tật xấu mới nói lời này. Bởi vì những người nào không nhận biết được rằng “chúng tôi đã có có mặt” những người đó sẽ biết rằng những hành động đã được thực hiện hoặc những hành động chưa được thực hiện. Dẫu trong câu hỏi cao hơn nữa cũng có cách thức tương tự như vậy.

2. Evaṃ santeti cūḷadukkhakkhandhe (ma. ni. 1.179-180) mahāniganthassa vacane sacce[1] santeti attho, idha pana ettakassa ṭhānassa tumhākaṃ ajānanabhāve santeti attho. Na kallanti na yuttaṃ.

2. Sự tình là như vậy: trong bài Kinh Cūḷadukkhakkhandha (ma. ni. 1.179-180), lời nói của vị Đại Nigantha là sự thật tồn tại, nhưng ở đây khi các ông không biết được vị trí có chừng ấy đang có mặt. Không thích hợp: không phù hợp.

3. Gāḷhūpalepanenāti[2] bahalūpalepanena, punappunaṃ visarañjitena, na pana khaliyā littena viya. Esaniyāti esanisalākāya antamaso antakavaṭṭiyāpi. Eseyyāti gambhīraṃ vā uttānaṃ vāti vīmaṃseyya. Agadaṅgāranti jhāmaharitakassa vā āmalakassa vā cuṇṇaṃ. Odadeyyāti pakkhipeyya. Arogoti-ādi māgaṇḍiyasutte (ma. ni. 2.213) vuttameva.

(Mũi tên) có thuốc độc được tẩm rất dày dịch là (mũi tên) được tẩm nhiều chất độc, thường xuyên được tẩm với thuốc độc, hơn nữa không phải được thoa bột ướt. Dụng cụ kiểm tra vết thương: dụng cụ để xử lý vết thương của bác sĩ phẫu thuật cho đến cuối cùng kể cả dụng cụ buộc bọng đái. Dò tìm: có thể quan sát được rằng vết thương sâu hay nông. Thuốc giải chất độc: gồm bột của trái cây harītaka hoặc trái cây āmalaka đốt cháy. Odadeyya dịch là có thể đặt thêm vào. Vô bệnh v.v,: đã thuyết trong Kinh Māgaṇḍiya (ma. ni. 2.213).

Evameva khoti ettha idaṃ opammasaṃsandanaṃ, sallena viddhassa hi viddhakāle vedanāya pākaṭakālo viya imesaṃ “mayaṃ pubbe ahuvamhā vā[3] no vā, pāpakammaṃ akaramhā[4] vā no vā, evarūpaṃ vā pāpaṃ karamhā”ti jānanakālo siyā. Vaṇamukhassa parikantanādīsu catūsu kālesu vedanāya pākaṭakālo viya “ettakaṃ vā no dukkhaṃ nijjiṇṇaṃ, ettake vā nijjiṇṇe sabbameva dukkhaṃ nijjiṇṇaṃ bhavissati, suddhante patiṭṭhitā nāma bhavissāmā”ti jānanakālo siyā. Aparabhāge phāsukabhāvajānanakālo viya diṭṭheva dhamme akusalānaṃ dhammānaṃ pahānāya kusalānaṃ dhammānaṃ upasampadāya jānanakālo siyā. Evamettha ekāya upamāya tayo atthā, catūhi upamāhi eko attho paridīpito.

 Cũng tương tự như thế: ở đây ví dụ so sánh như này, như thể khi những Nigantha này biết được rằng: “Chúng tôi đã có mặt trong quá khứ phải hay không? chúng tôi đã tạo nghiệp ác phải hay chăng? hoặc chúng tôi đã tạo nghiệp ác như vậy?” Giống như trong lúc cảm thọ bị một mũi tên đâm xuyên qua, hiện khởi nơi người bị mũi tên đâm xuyên qua như thế. Thời gian nhận biết rằng: “sự khổ đau đến mức này của ta không còn nữa, khi sự đau khổ đến mức độ này đã không còn nữa, thì mọi đau khổ cũng sẽ được gọi là thiết lập trong sự an tịnh, cũng giống như thời gian cảm thọ xuất hiện bốn lần chẳng hạn như lúc rửa sạch miệng vết thương v.v. như thế. Thời gian nhận biết được việc dứt bỏ bất thiện Pháp, thực hành thiện Pháp cho được sanh khởi ở hiện tại, cũng giống như thời gian nhận biết được sự dễ chịu về sau. Trong vấn đề này đã làm sáng tỏ 3 ý nghĩa bằng một ví dụ (và) đã làm sáng tỏ một vấn đề bằng ví dụ bốn câu theo cách như vậy.

4. Ime pana tato ekampi na jānanti, virajjhitvā gate salle aviddho “viddhosi mayā”ti paccatthikassa vacanappamāṇeneva “viddhosmī”ti saññaṃ uppādetvā dukkhappattapuriso viya kevalaṃ Mahāniganthassa vacanappamāṇena sabbametaṃ saddahantā evaṃ sallopamāya[5] Bhagavatā niggahitā paccāharituṃ asakkontā yathā nāma dubbalo sunakho migaṃ uṭṭhāpetvā sāmikassa abhimukhaṃ karitvā attanā osakkati, evaṃ mahāniganthassa matthake vādaṃ pakkhipantā Nigantho āvusoti-ādimāhaṃsu.

4. Hơn nữa, nhóm Nigantha này không biết được ý nghĩa dầu chỉ một câu từ ý nghĩa đã nói ấy. Tin tưởng toàn bộ vấn đề hoàn toàn với lời nói của vị Đại Nigantha mà thôi, như thể người không bị mũi tên (đâm xuyên qua) bởi vì mũi tên bị lệch hướng, nghĩ rằng: “Ta đã bị mũi tên đâm xuyên qua” chỉ bằng lời nói của kẻ thù đã nói rằng: ‘Ông đã bị mũi tên đâm xuyên qua’ đang cảm nghiệm khổ đau như thế bị đức Thế Tôn kiềm hãm bằng việc so sánh với mũi tên như vậy, cũng không thể đáp trả, ghim lời nói vào trong đầu của Đại Nigantha đã nói lời như sau: thưa hiền giả Nigantha như thế v.v, giống như con chó yếu ớt đứng lên đuổi theo miếng thịt, chạy đến trước mặt chủ rồi bản thân nó cũng kiệt sức như thế.

5. Atha ne bhagavā sācariyake niggaṇhanto pañca kho imetiādimāha. Tatrāyasmantānanti tesu pañcasu dhammesu āyasmantānaṃ. Kā atītaṃse satthari saddhāti atītaṃsavādimhi satthari kā saddhā. Yā atītavādaṃ saddahantānaṃ tumhākaṃ Mahāniganthassa saddhā, sā katamā? Kiṃ bhūtatthā abhūtatthā, bhūtavipākā abhūtavipākāti[6] pucchati. Sesapadesupi eseva nayo. Sahadhammikanti sahetukaṃ sakāraṇaṃ. Vādappaṭihāranti paccāgamanakavādaṃ. Ettāvatā tesaṃ “apanetha saddhaṃ, sabbadubbalā esā”ti saddhāchedakavādaṃ nāma dasseti.

5. Sau đó, đức Thế Tôn lúc chế ngự được những Nigantha đó cùng với các vị thầy mới thuyết rằng: Chính năm Pháp này v.v. Trong số năm Pháp đó: Năm Pháp đó này các tôn giả. Có lòng tin như thế nào đối với bậc Đạo sư trong quá khứ? Đức Thế Tôn hỏi rằng: tin tưởng điều gì đối với bậc Đạo Sư có lời nói (vāda) về quá khứ? Niềm tin đối với vị Đại Nigantha bên trong các ông, người tin tưởng lời nói quá khứ như thế nào? Có lợi ích, không có lợi ích, có kết quả, không có kết quả ra sao? Ngay cả những câu còn lại cũng tương tự. Sahadhammikaṃ: có nguyên nhân, có lý do. Việc đáp trả lại lời nói: lời nói phản ứng lại (đáp trả). Chỉ bấy nhiêu lời đã cắt đứt niềm tin của các Nigantha đó như sau: “các ông hay lấy hết toàn bộ niềm tin này ra khỏi, niềm tin này yếu ớt.”

6. Avijjā aññāṇāti avijjāya aññāṇena. Sammohāti sammohena. Vipaccethāti viparītato saddahatha, vipallāsaggāhaṃ vā gaṇhathāti attho.

6. Do Vô minh, do không hiểu biết: Do Vô minh, do không hiểu biết. Sammohā dịch là do ngu muội. Niềm tin sai lạc: có nghĩa là niềm tin sai lệch, hoặc nắm lấy sự lầm lạc (vipallāsa).

7. Diṭṭhadhammavedanīyanti imasmiṃyeva attabhāve vipākadāyakaṃ. Upakkamenāti payogena. Padhānenāti viriyena. Samparāyavedanīyanti dutiye vā tatiye vā attabhāve vipākadāyakaṃ. Sukhavedanīyanti iṭṭhārammaṇe vipākadāyakaṃ kusalakammaṃ. Viparītaṃ dukkhavedanīyaṃ. Paripakkavedanīyanti paripakke nipphanne attabhāve vedanīyaṃ, diṭṭhadhammavedanīyassevetaṃ adhivacanaṃ. Aparipakkavedanīyanti aparipakke attabhāve vedanīyaṃ, samparāyavedanīyassevetaṃ adhivacanaṃ. Evaṃ santepi ayamettha viseso:- yaṃ paṭhamavaye kataṃ paṭhamavaye vā majjhimavaye vā pacchimavaye vā vipākaṃ deti, majjhimavaye vā kataṃ majjhimavaye vā pacchimavaye vā vipākaṃ deti, pacchimavaye kataṃ tattheva vipākaṃ deti, taṃ diṭṭhadhammavedanīyaṃ nāma. Yaṃ pana sattadivasabbhantare vipākaṃ deti, taṃ paripakkavedanīyaṃ nāma. Taṃ kusalaṃpi hoti akusalaṃpi.

7. Nghiệp cho quả trong kiếp sống hiện tại: cho trổ quả hoàn toàn ngay trong bản ngã này. Với sự ra sức: với sự ra sức. Với sự tinh tấn: với sự tinh tấn. Cho quả trong kiếp sống kế tiếp: cho quả trong bản ngã ở kiếp sống thứ 2 hoặc thứ 3. Nghiệp cho quả an lạc: Thiện nghiệp cho kết quả trong các đối tượng tốt đẹp. Đối nghịch (với bất thiện nghiệp) cho quả khổ đau. Nghiệp đã chín muồi cho quả: nghiệp đã chín muồi, đã thành tựu cho quả nơi bản ngã, nghiệp đã chín muồi cho quả này đây là đồng nghĩa với nghiệp cho quả trong kiếp hiện tại. Nghiệp vẫn chưa chín muồi cho quả: nghiệp vẫn chưa chín muồi cho quả nơi bản ngã, nghiệp cho quả vẫn chưa chín muồi này là từ đồng nghĩa của nghiệp cho quả trong kiếp vị lai. Mặc dù như vậy, ý nghĩa cốt lõi khác biệt trong vấn đề này như sau: – Nghiệp nào đã tạo vào giai đoạn đầu của tuổi thọ cho quả vào giai đoạn đầu của tuổi thọ, hoặc vào giai đoạn giữa của tuổi thọ, hoặc vào giai đoạn cuối của tuổi thọ. Nghiệp đã tạo vào giai đoạn giữa của tuổi thọ cho quả vào giai đoạn giữa, hoặc vào giai đoạn cuối của tuổi thọ. Nghiệp đã tạo vào giai đoạn cuối của tuổi thọ cho quả vào thời gian cuối của tuổi thọ ấy thì nghiệp đó gọi là cho quả trong kiếp sống hiện tại. Còn nghiệp nào cho quả trong bảy ngày thì nghiệp đó gọi là nghiệp đã thành tựu cho quả. Nghiệp đã thành tựu cho quả đó là thiện và cả bất thiện.

Tatrimāni vatthūni: – Puṇṇo nāma kira duggatamanusso Rājagahe Sumanaseṭṭhiṃ nissāya vasati. Tameva ekadivasaṃ nagaramhi nakkhatte saṅghuṭṭhe seṭṭhī āha “sace ajja kasissasi, dve ca goṇe naṅgalañca[7] labhissasi. Kiṃ nakkhattaṃ kīḷissasi, na kīsissasī”ti. Kiṃ me nakkhattena, kasissāmīti. Tenahi ye goṇe icchasi, te gahetvā kasāhīti. So kasituṃ gato. Taṃ divasaṃ Sāriputtatthero nirodhā vuṭṭhāya “kassa saṅgahaṃ karomī”ti āvajjento Puṇṇaṃ disvā pattacīvaramādāya tassa kasanaṭṭhānaṃ gato. Puṇṇo kasiṃ ṭhapetvā therassa dantakaṭṭhaṃ datvā mukhodakaṃ adāsi. Thero sarīraṃ paṭijaggitvā kammantassa[8] avidūre nisīdi bhattābhihāraṃ olokento. Athassa bhariyaṃ bhattaṃ āharantiṃ disvā antarāmagge yeva attānaṃ dassesi.

Trong vấn đề nghiệp trổ quả trong vòng 7 ngày ấy có câu chuyện như sau: – Tương truyền kẻ nghèo túng tên là Puṇṇa sống nương nhờ trưởng giả Sumana trong thành Rājagaha, một ngày nọ anh ta quảng bá việc vui chơi dịp lễ hội trong thành, trưởng giả đã nói cùng Puṇṇa ấy rằng: “Nếu như hôm nay ngươi đi cày ngươi sẽ nhận được 2 con bò cùng với một cái cày mới, ngươi sẽ tham gia hội hay sẽ đi cày.” Lễ hội có lợi ích gì cho tôi, tôi sẽ đi cày. Nếu như vậy, ngươi hãy chọn con bò mong muốn mang đi cày – (thế là) anh ta đi cày ruộng. Vào ngày hôm ấy trưởng lão Sārīputta xuất khỏi thiền diệt quan sát rằng: “Ta sẽ tế độ cho ai?” sau khi nhìn thấy Puṇṇa (ngài) đa mang y và bình bát đi đến nơi anh ta đang cày ruộng. Puṇṇa đặt cái cày xuống, đã dâng cúng dường gỗ chà răng, sau đó đã dâng nước súc miệng đến ngài trưởng lão. Trưởng lão đã chăm sóc thân thể của mình, ngồi xuống ở một nơi không xa chỗ vị ấy đang làm việc, để chờ đồ ăn được mang tới. Ngay lập tức ngài đã nhìn thấy vợ của vị ấy mang đồ ăn đến, tức khắc (ngài) đã thị hiện bản thân (để cho được nhìn thấy) ở giữa đường đi.

Sā sāmikassa āhaṭabhattaṃ therassa patte pakkhipitvā puna gantvā aññaṃ bhattaṃ sampādetvā divā agamāsi. Puṇṇo ekavāraṃ kasitvā nisīdi. Sāpi bhattaṃ gahetvā āgacchantī āha “sāmi pātova te bhattaṃ āhariyittha, antarāmagge pana Sāriputtattheraṃ disvā taṃ tassa datvā aññaṃ pacitvā āharantiyā me ussūro jāto, mā kujjhi sāmī”ti. Bhaddakaṃ te bhadde kataṃ, mayā therassa pātova dantakaṭṭhañca mukhodakañca dinnaṃ, amhākaṃyevānena[9] piṇḍapāto paribhutto, ajja therena katasamaṇadhammassa mayaṃ bhāgino jātāti cittaṃ pasādesi[10]. Ekavāraṃ kasitaṭṭhānaṃ suvaṇṇameva ahosi. So bhuñjitvā kasitaṭṭhānaṃ olokento vijjotamānaṃ disvā uṭṭhāya yaṭṭhiyā paharitvā rattasuvaṇṇabhāvaṃ jānitvā “rañño akathetvā paribhuñajituṃ na sakkā”ti gantvā rañño ārocesi. Rājā taṃ sabbaṃ sakaṭehi āharāpetvā rājaṅgaṇe rāsiṃ kāretvā “kassimasmiṃ nagare ettakaṃ suvaṇṇaṃ atthī”ti pucchi. Kassaci natthīti ca vutte seṭṭhiṭṭhānamassa adāsi. So Puṇṇaseṭṭhī nāma jāto.

Nàng mới lấy phần vật thực mang đến cho chồng đặt vào bình bát của trưởng lão, quay trở về chuẩn bị món ăn khác, nên đã đến rất muộn. Puṇṇa đã cày hết một vòng rồi ngồi xuống. Vợ anh ta mang thức ăn đến rồi nói rằng: “Thưa chàng, thiếp đã mang thức ăn đến cho chàng từ rất sớm. Nhưng ở giữa đường đi thiếp đã nhìn thấy trưởng lão Sārīputta, nên thiếp đã cúng dường phần thức ăn đó đến ngài. Sau đó (quay trở về) để nấu món thức ăn mới nên đến muộn, chàng có giận thiếp chăng? – Puṇṇa nói rằng: “nàng đã làm rất tốt lắm, sáng sớm ta đã cúng dường gỗ chà răng và nước súc miệng đến trưởng lão” kể cả đi khất thực vị sư trưởng lão này cũng được thọ dụng. Do việc cúng dường của ta, ngày hôm nay ta có phần Sa-môn Pháp mà trưởng lão đã thực hành, (vì thế) đã sanh khởi tâm tịnh tín. Khu vực nơi vị ấy cày xới lần thứ nhất đều trở thành vàng, sau khi dùng cơm và quan sát chỗ mình đã cày xới rực sáng, đã đứng dậy lấy cái gậy gõ vào thì biết được rằng đó là vàng lấp lánh. Nghĩ rằng ta vẫn chưa trình báo cho đức vua biết (nên) không thể sử dụng, thế nên vị ấy đã đi báo cho đức vua. Đức vua ra lệnh đưa các cổ xe đến để mang toàn bộ số vàng về chất thành đống ở khuôn viên hoàng cung rồi hỏi rằng: “Ở trong thành này có ai có vàng bằng chừng này không?” Quan đại thần tâu rằng: “không có ai” nên đã ban tước vị trưởng giả cho Puṇṇa đó. (Cho nên) vị ấy đã có tên gọi là trưởng giả Puṇṇa.

Aparampi vatthu:- Tasmiṃyeva Rājagahe Kāḷaveḷiyo[11] nāma duggato atthi. Tassa bhariyā paṇṇambilayāguṃ paci. Mahākassapatthero nirodhā vuṭṭhāya “kassa saṅgahaṃ karomī”ti āvajjento taṃ disvā gantvā gehadvāre aṭṭhāsi. Sā pattaṃ gahetvā sabbaṃ tattha pakkhipitvā therassa adāsi, theropi vihāraṃ gantvā satthu upanāmesi. Satthā attano yāpanamattaṃ gaṇhi, sesaṃ pañcannaṃ bhikkhusatānaṃ pahosi. Kāḷavaḷiyopi taṃ ṭhānaṃ patto cūḷakaṃ labhi. Mahākassapo satthāraṃ Kāḷavaḷiyassa vipākaṃ pucchi. Satthā “ito sattame divase seṭṭhicchattaṃ labhissatī”ti āha. Kāḷavaḷiyo taṃ kathaṃ sutvā gantvā bhariyāya ārocesi.

Thêm một câu chuyện khác: – Trong thành Rājagaha, chính ở tại nơi đó có một người nghèo khổ tên là Kāḷaveḷiya. Vợ của anh ta đã nấu cháo với rau muối. Trưởng lão Mahākassapa sau khi xuất khỏi thiền diệt đã quan sát rằng: “Ta sẽ tế độ cho ai?” sau khi nhìn thấy vợ của Kāḷaveḷiya (ngài) đã đứng ở trước cửa nhà. Nàng đã nhận lấy bình bát múc cháo cùng với rau muối đặt vào bình bát rồi cúng dường đến trưởng lão. Trưởng lão đi về tịnh xá đã cúng dường đến bậc Đạo Sư. Bậc Đạo Sư thọ nhận vừa đủ để làm thuốc chữa bệnh cho ngài. Món cháo còn lại đủ cho năm trăm vị Tỳ khưu. Ngay cả Kāḷaveḷiya cũng đã đạt được vị trí tiểu trưởng giả. Trưởng lão Mahākassapa hỏi về kết quả của Kāḷaveḷiya nơi bậc Đạo Sư. Bậc Đạo Sư đã nói rằng: “Vào ngày thứ bảy, kể từ ngày hôm nay, vị ấy sẽ đạt được cây lọng trắng trưởng giả. Kāḷaveḷiya sau khi nghe Phật ngôn ấy đã đi nói lại cho vợ (của mình).”

Tadā ca rājā nagaramanusañcaranto bahinagare jīvasūle nisinnaṃ purisaṃ addasa. Puriso rājānaṃ disvā uccāsaddaṃ akāsi “tumhākaṃ me bhuñjanabhattaṃ pahiṇatha devā”ti. Rājā “pesessāmī”ti vatvā sāyamāsabhatte upanīte saritvā “imaṃ harituṃ samatthaṃ jānāthā”ti āha, nagare sahassabhaṇḍikaṃ cariṃsu. Tatiyavāre Kāḷavaḷiyassa bhariyā aggahesi. Atha naṃ rañño dassesuṃ. Sā purisavesaṃ gahetvā pañcāvudhasannaddhā bhattapātiṃ gahetvā nagarā nikkhami. Bahinagare tāle adhivattho Dīghatālo nāma yakkho taṃ rukkhamūlena gacchantiṃ dasvā “tiṭṭha tiṭṭha bhakkhosi me”ti āha. Nāhaṃ tava bhakkho, rājadūto ahanti. Kattha gacchasīti. Jīvasūle nisinnassa purisassa santikanti. Mamapi ekaṃ sāsanaṃ harituṃ sakkhissasīti. Āma sakkhissāmīti. “Dīghatālassa bhariyā sumanadevarājadhītā kāḷī puttaṃ vijātā”ti āroceyyāsi. Imasmiṃ tālamūle satta nidhikumbhiyo[12] atthi, tā tvaṃ gaṇheyyāsīti. Sā “dīghatālassa bhariyā sumanadevarājadhītā kāḷī puttaṃ vijātā”ti ugghosentī agamāsi.

Khi đó, đức vua đi vòng quanh thành phố đưa mắt nhìn thấy một người đàn ông đang ngồi trên một cái cọc nhọn để chấm dứt mạng sống ở ngoài thành. Người đàn ông nhìn thấy đức vua đã hét lớn hỏi rằng: “Muôn tâu thánh thượng xin ngài hãy ban vật thực mà ngài thọ dụng đến cho tôi.” Đức vua đáp rằng: “Trẫm sẽ ban cho”, khi những đầu bếp của vua chuẩn bị thức ăn lúc chiều mới nhớ đến nói rằng: “các ngươi hãy tìm người có thể đem thức ăn này đi (đến cho kẻ ấy). Những người trong hoàng gia đã lấy tài sản trị giá một nghìn (đồng tiền) gói  lại đi vào thành (loan báo tìm người có khả năng). Lần thứ ba, vợ của Kāḷavaḷiya đã nhận được (tài sản trị giá một nghìn), những người trong hoàng gia đã trình bày về nàng với đức vua. Nàng đã cải trang thành một nam nhân, buộc chặt năm loại vũ khí (vào người), bưng mâm thức ăn rời khỏi thành phố. Một con Dạ-xoa tên là  Dīghatālo trú ở cây thốt nốt bên ngoài thành phố, đã nhìn thấy nàng đang đi dọc theo gốc cây mới nói rằng: “Dừng lại, dừng lại, ngươi sẽ trở thành món ăn của ta.” – Tôi không phải là thức ăn của ông, tôi là sứ thần của vua. Nàng sẽ đi đâu? Tôi đi đến trú xứ của người ngồi trên một cái cọc nhọn chấm dứt mạng sống. Nàng có thể mang tin tức của tôi đi, chỉ một tin được không? Được, tôi sẽ làm. Dạ-xoa nói rằng: nàng có thể nói như thế này – “Nàng Kāḷi con gái của đức vua, là vợ của Da-xoa Dīghatāla đã hạ sinh được một người con trai.” Ở dưới gốc cây thốt nốt này có bảy lu châu báu, nàng hãy lấy chúng mang đi. Nàng ấy đã đi loan báo rằng: “Con gái của đức vua là vợ của Da-xoa Dīghatāla đã hạ sinh được một đứa con trai.”

Sumanadevo yakkhasamāgame nisinno sutvā “eko manusso amhākaṃ piyapavattiṃ āharati, pakkosatha nan”ti sāsanaṃ sutvā pasanno “imassa rukkhassa parimaṇḍalacchāyāya pharaṇaṭṭhāne nidhikumbhiyo tuyhaṃ dammī”ti āha. Jīvasūle nisinnapuriso bhattaṃ bhuñjitvā mukhapuñchanakāle itthīphassoti ñatvā cūḷāya ḍaṃsi, sā asinā attano cūḷaṃ chinditvā rañño santikaṃyeva gatā. Rājā bhattabhojitabhāvo kathaṃ jānitabboti. Cūḷasaññāyāti vatvā rañño ācikkhitvā taṃ dhanaṃ āharāpesi. Rājā aññassa ettakaṃ dhanaṃ nāma atthīti. Natthi devāti. Rājā tassā patiṃ tasmiṃ nagare dhanaseṭṭhiṃ akāsi. Mallikāyapi deviyā vatthu kathetabbaṃ. Imāni tāva kusalakamme vatthūni.

Thiên tử Sumana ngồi trong hội chúng Dạ-xoa nghe được mới nói rằng “Có một người mang tin tốt đẹp của chúng ta đến loan báo, các ngài hãy gọi người ấy đến, sau khi nghe tin xong tịnh tín đã nói rằng: Lu châu báu trong phạm vi bóng cây của cây này, lan tỏa đến ta ban cho ngươi”. Người ngồi trên cái cọc nhọn chấm dứt mạng sống cũng được thọ dụng vật thực đến lúc (nàng mang tấm vải đến) lau mặt cũng biết được sự xúc chạm của người nữ mới cắn lấy búi tóc, nàng đã dùng thanh gươm chặt đứt búi tóc của mình, rồi quay trở về hoàng cung ngay lập tức. Đức vua hỏi rằng: tính chất mà người ấy đã thọ dụng thức ăn nhận biết được như thế nào? Nàng đáp rằng: “Nhận biết được bằng dấu hiệu của búi tóc (đã bị cắt đứt) rồi tâu với đức vua để chở số tài sản đó đến. – (Đức vua hỏi) gọi số tài sản có khoảng chừng này của người có không? – Đáp rằng: Không có thưa bệ hạ. Đức vua đã phong cho chồng của nàng trở thành trưởng giả trong kinh thành ấy. Kể cả câu chuyện của hoàng hậu Mallikā cũng nên (đưa vào) để thuyết. Những câu chuyện được kể này đều liên quan đến thiện nghiệp trước.

Nandamāṇavako pana Uppalavaṇṇāya theriyā vippaṭipajji, tassa mañcato uṭṭhāya nikkhamitvā gacchantassa mahāpaṭhavī bhijjitvā okāsamadāsi, tattheva mahānarakaṃ paviṭṭho. Nanadopi goghātako paṇṇāsavassāni goghātakakammaṃ katvā ekadivasaṃ bhojanakāle maṃsaṃ alabhanto ekassa jīvamānakagoṇassa jivhaṃ chinditvā aṅgāresu pacāpetvā khādituṃ āraddho. Athassa jivhā mūle chijjitvā bhattapātiyaṃyeva patitā. So vicaranto kālaṃ katvā niraye nibbatti. Nandopi yakkho aññena yakkhena saddhiṃ ākāsena gacchanto sāriputtattheraṃ navoropitehi kesehi rattibhāge ajjhokāse nisinnaṃ disvā sīse paharitukāmo itarassa yakkhassa ārocetvā tena vāriyamānopi pahāraṃ datvā dayhāmi dayhāmīti viravanto tasmiṃyeva ṭhāne bhūmiṃ pavisitvā mahāniraye nibbattoti imāni akusalakamme vatthūni.

Còn thanh niên Nanda có hành vi sái quấy đối với trưởng lão ni Uppalavaṇṇa, khi kẻ ấy đứng dậy từ giường ngủ rồi đi ra khỏi, quả địa cầu to lớn đã hút kẻ ấy vào đại địa ngục ngay chính tại chỗ ấy. Kể cả kẻ giết bò tên là Nanda tạo nghiệp giết bò suốt năm mươi năm, một ngày nọ hắn không có được thịt trong lúc ăn cơm, đã cắt lưỡi một con bò, cho đi nướng lửa than rồi bắt đầu ăn thịt. Khi ấy, lưỡi của hắn ta bị đứt một phần rơi xuống hộp đựng thức ăn, hắn ta la hét (y như tiếng con bò) sau khi chết đã sanh vào trong địa ngục. Ngay cả Dạ-xoa Nanda bay đi cùng với Dạ-xoa khác, nhìn thấy trưởng lão Sārīputta có cái đầu đã cạo mới ngồi ở ngoài trời, vào ban đêm muốn đánh vào đầu đã nói với Da-xoa đi cùng, dù bị vị Dạ-xoa ấy ngăn cản cũng đánh cho bằng được, (quả ác nghiệp khiến Dạ-xoa ấy) la hết lên ‘nóng quá, nóng quá’ bị rơi vào quả địa cầu ngay tại nơi ấy sanh vào đại địa ngục. Những câu chuyện đã kể này đều là những câu chuyện đề cập đến bất thiện nghiệp.

Yaṃ pana antamaso maraṇasantikepi kataṃ kammaṃ bhavantare vipākaṃ deti, taṃ sabbaṃ samparāyavedanīyaṃ nāma. Tattha yo aparihīnassa jhānassa vipāko nibbattissati[13], so idha nibbattitavipākoti vutto. Tassa mūlabhūtaṃ kammaṃ neva diṭṭhadhammavedanīyaṃ na samparāyavedanīyanti na vicāritaṃ, kiñcāpi na vicāritaṃ, samparāyavedanīyameva panetanti veditabbaṃ. Yo paṭhamamaggādīnaṃ bhavantare phalasamāpattivipāko, so idha nibbattitaguṇotveva vutto. Kiñcāpi evaṃ vutto, maggakammaṃ pana paripakkavedanīyanti veditabbaṃ. Maggacetanāyeva hi sabbalahuṃ phaladāyikā anantaraphalattā.

Hơn nữa nghiệp mà người đã tạo cuối cùng kể cả vào thời khắc cận tử cho quả tái sanh kiếp khác, tất cả điều đó gọi là nghiệp cho quả vào kiếp kế tiếp. Trong chuyện quả dị thục của nghiệp đó, quả dị thục nào của thiền không hoại thì quả dị thục đó ngài đã nói rằng quả dị thục đã sanh ở chỗ này. Ông không suy xét rằng: nghiệp là bản thể gốc của quả dị thục ấy, không cho quả ở kiếp sống hiện tại, không cho quả ở kiếp sống kế tiếp. Ông không suy xét rằng: nhưng vẫn nên biết như sau – nghiệp đó chắc chắn cho quả ở kiếp sống kế tiếp. Quả dị thục là sự thể nhập Thánh quả nào theo tuần tự của việc sanh khởi của Sơ đạo v.v, Quả dị thục là sự thể nhập Thánh quả đó ông nói rằng: là ân đức tốt đẹp đã sanh khởi ở chỗ này. Ông nói như vậy cũng đúng, mặc dù vậy nghiệp đạo nên biết rằng: nghiệp chín muồi để cho quả. Bởi vì chính tâm sở Tư trong Đạo cho Quả nhanh chóng hơn tất cả, do là Quả (sanh lên) tuần tự liên tiếp nhau.

8. Bahuvedanīyanti saññābhavūpagaṃ. Appavedanīyanti asaññābhavūpagaṃ. Savedanīyanti savipākakammaṃ. Avedanīyanti avipākakammaṃ. Evaṃ santeti imesaṃ diṭṭhadhammavedanīyādīnaṃ kammānaṃ upakkamena samparāyavedanīyādi bhāvakāraṇassa alābhe sati. Aphaloti nipphalo niratthakoti. Ettāvatā aniyyānikasāsane payogasasa aphalattaṃ dassetvā padhānacchedakavādo nāma dassitoti veditabbo. Sahadhammikā vādānuvādāti parehi vuttakāraṇena sakāraṇā hutvā niganthānaṃ vādā ca anuvādā ca. Gārayhaṭṭhānaṃ āgacchantīti viññūhi garahitabbakāraṇaṃ āgacchanti. “vādānuppattā gārayhaṭṭhānā”tipi pāṭho. Tassattho: – parehi vuttena kāraṇena sakāraṇā hutvā niganthānaṃ vādaṃ anuppattā[14] taṃ vādaṃ sosentā milāpentā dukkaṭakammakārinotiādayo dasa gārayhaṭṭhānā āgacchanti.

8. Cho nhiều quả: đạt đến Tưởng hữu. Cho ít quả: đạt đến Vô tưởng hữu. Cho quả: Nghiệp có kết quả. Đừng trổ quả: Nghiệp không cho kết quả. Sự tình là như vậy: Khi nghiệp cho quả trong kiếp sống hiện tại v.v, này không có được nhân của điều kiện cho trở thành nghiệp cho quả trong kiếp sống kế tiếp v.v, với sự gắng sức có mặt. Vô ích: Vô ích, không có lợi ích. Chỉ chừng ấy lời nên biết rằng: Đức Thế Tôn thuyết rằng: sự tinh tấn trong Tôn giáo không trở thành phương tiện dẫn dắt chúng sanh thoát khỏi khổ đau, không có kết quả, rồi thuyết đến lời nói làm phương tiện cắt đứt sự tinh tấn (vô ích). Lời nói của các Đạo sư Nigantha và các học trò Nigantha hợp Pháp: Lời nói của các Đạo sư Nigantha và các học trò Nigantha có nguyên nhân đã được nói. Đáng bị khiển trách: đã đi đến lý do mà các bậc trí có thể khiển trách. Pāḷī “vādānuppattā gārayhaṭṭhānā (đáng bị khiển trách)” như này cũng có. Nội dung chính của câu đó như sau: Lời nói của những Nigantha làm nhân, dựa vào nhân được nói bởi người khác, làm cho lời nói đi theo trở nên khô cạn đến vị trí xứng đáng bị khiển trách có những người tạo nghiệp xấu ác v.v.

9. Saṅgatibhāvahetūti niyatibhāvakāraṇā. Pāpasaṅgatikāti pāpaniyatino. Abhijātihetūti chaḷābhijātihetu.

9. Do nhân kết hợp các điều kiện: do nhân của vận mệnh. Ác kết hợp: người đang gặp vận rủi. Do nhân sanh loại: nhân của sáu sanh loại.

10. Evaṃ niganthānaṃ upakkamassa aphalataṃ dassetvā idāni niyyānikasāsane upakkamassa viriyassa ca saphalataṃ dassetuṃ kathañca bhikkhavetiādimāha. Tattha anaddhabhūtanti anabhibhūtaṃ. Dukkhena anabhibhūto nāma manussattabhāvo vuccati, na taṃ addhabhāveti nābhibhavatīti attho. Taṃpi nānappakārāya dukkarakārikāya payojento dukkhena addhabhāveti nāma. Ye pana sāsane pabbajitvā āraññakā vā honti rukkhamūlikādayo vā, te dukkhena addhabhāventi nāma. Niyyānikasāsanasmiṃ hi viriyaṃ sammāvāyāmo nāma hoti.

Sau khi Đức Thế Tôn thuyết giảng về sự gắn sức của nhóm Nigantha là việc vô ích như vậy, bây giờ khi thuyết giảng sự gắng sức và sự tinh tấn trong Tôn giáo làm phương tiện dẫn dắt chúng sanh thoát khổ có kết quả mới thuyết rằng: “Và này các Tỳ khưu, thế nào là sự tinh tấn có kết quả?”. Trong câu đó không có khổ đau chồng chất là khổ không chế ngự. Tự ngã của loài người được gọi là khổ đau không bị chồng chất. Giải thích rằng khổ đau không bị chồng chất, tức là không chế ngự bản ngã ấy. Hạng người gắn kết tự ngã đó trong việc thực hiện phận sự khó làm ở nhiều phương diện khác nhau gọi là bị đau khổ nhiếp phục. Còn đối với người nào đã xuất gia trong Giáo pháp, sống ở rừng, hoặc sống ở dưới gốc cây v.v, những vị ấy được gọi là không lấy khổ chồng chất, bởi vì sự tinh tấn trong Giáo pháp làm phương tiện dẫn dắt chúng sanh thoát khỏi khổ đau gọi là Chánh tinh tấn.

Thero panāha: – yo issarakule nibbatto sattavassiko hutvā alaṅkatappaṭiyatto pitu aṅke nisinno ghare bhattakiccaṃ katvā nisinnena bhikkhusaṃghena anumodanāya kariyamānāya tisso sampattiyo dassetvā saccesu pakāsitesu arahattaṃ pāpuṇāti, mātāpitūhi vā “pabbajissasi tātā”ti vutto “āma pabbajissāmī”ti vatvā nhāpetvā alaṅkaritvā vihāraṃ nīto tacapañcakaṃ uggaṇhitvā nisinno kesesu ohāriyamānesu khuraggeyeva arahattaṃ pāpuṇāti, navapabbajito vā pana manosilātelamakkhitena[15] sīsena punadivase mātāpitūhi pesitaṃ kājabhattaṃ bhuñjitvā vihāre nisinnova arahattaṃ pāpuṇāti, ayaṃ na dukkhena attānaṃ addhabhāveti nāma. Ayaṃ pana ukkaṭṭhasakkāro. Yo dāsīkucchiyaṃ nibbatto antamaso rajatamuddikampi pilandhitvā goraka-piyaṅgumattenāpi[16] sarīraṃ vilimpetvā “pabbājetha nan”ti nīto khuragge vā punadivase vā arahattaṃ pāpuṇāti, ayampi na[17] anaddhabhūtaṃ[18] attānaṃ dukkhena addhabhāveti nāma.

Còn trưởng lão đã nói rằng: – hạng người nào sanh ra trong gia đình quyền quý khi vừa tròn 7 tuổi, được người hầu trang điểm thân thể đặt ngồi vào lòng của cha, khi chư Tăng thọ dụng vật thực xong nói lời tùy hỷ, khi ngài thuyết cả ba sự thành tựu (là sự thành tựu ở cõi người, sự thành tựu ở thiên giới, và sự thành tựu Nibbāna) phối hợp với bốn Chân Lý vị ấy đã chứng đắc A-ra-hán. Hơn nữa, người bị cha và mẹ hỏi rằng: “con yêu, con sẽ xuất gia phải không?”. – Người con đáp rằng: “con sẽ xuất gia”. Cha và mẹ cho tắm rửa sửa soạn thân thể dẫn đi đến tịnh xá ngồi tiếp nhận đề mục thiền định tacapañcaka (nhóm năm gồm tóc, lông, móng, răng, da) trong khi đang cạo tóc cũng chứng đắc A-ra-hán vào khoảnh khắc chạm vào đầu dao cạo ấy, hoặc vẫn còn lạ vị tân Tỳ khưu có cái đầu được thoa dầu hòa trộn với manosīla, vào ngày kế tiếp thọ dụng vật thực được cha và mẹ gửi đến cúng dường, ngồi ở ngay trong tịnh xá chứng đắc A-ra-hán, người này không gọi là lấy khổ đau chồng chất tự ngã. Nhưng người này là người có được sự cung kính cao cả. Người nào sanh ra trong bụng của người nữ tỳ, được trang điểm cao nhất thậm chí bằng chiếc nhẫn bạc, sau khi thoa bóp thân thể bằng mảnh vải và cây dùng làm thuốc bị đưa đi bằng câu nói rằng: “Hãy cho vị ấy xuất gia” (và) đã chứng đắc A-ra-hán ở khoảnh khắc chạm lưỡi dao cạo, hoặc vào ngày kế tiếp người này cũng không gọi là lấy khổ đau chồng chất tự ngã, vẫn chưa bị chồng chất.

Dhammikaṃ sukhaṃ nāma saṃghato vā gaṇato vā uppannaṃ catupaccayasukhaṃ. Anadhimucchitoti taṇhāmucchanāya amucchito. Dhammikaṃ hi sukhaṃ na pariccajāmīti na tattha gedho kātabbo. Saṃghato hi uppannaṃ salākabhattaṃ vā vassāvāsikaṃ vā “idamatthaṃ ekan”ti paricchinditvā saṃghamajjhe bhikkhūnaṃ antare paribhuñjanto pattantare padumaṃ viya sīlasamādhivipassanāmaggaphalehi vaḍḍhati. Imassāti paccuppannānaṃ pañcannaṃ khandhānaṃ mūlabhūtassa. Dukkhanidānassāti taṇhāya. Sā hi pañcakkhandhadukkhanidānaṃ. Saṅkhāraṃ padahatoti sampayogaviriyaṃ karontassa. Virāgo hotīti maggena virāgo hoti. Idaṃ vuttaṃ hoti “saṅkhārappadhānena me imassa dukkhanidānassa virāgo hotī”ti. Evaṃ pajānātīti iminā sukhāpaṭipadā khippābhiññā kathitā. Dutiyavārena tassa sampayogaviriyassa majjhattatākāro kathito. So yassa hi khvassāti ettha ayaṃ saṅkhepattho: – so puggalo yassa dukkhanidānassa saṅkhārappadhānena virāgo hoti, saṅkhāraṃ tattha padahati, maggappadhānena padahati. Yassa pana dukkhanidānassa ajjhupekkhato upekkhaṃ bhāventassa virāgo hoti, upekkhaṃ tattha bhāveti, maggabhāvanāya bhāveti. Tassāti tassa puggalassa.

An lạc được sanh khởi từ bốn duyên mà sanh lên từ Chúng Tăng hoặc hội nhóm gọi là sự an lạc hợp Pháp. Không là người bị chi phối: người không bị chi phối bởi sự chi phối là tham ái. Không nên tạo sự mong muốn trong lạc thọ ấy với hi vọng rằng: Ta sẽ không từ bỏ lạc thọ hợp pháp. Thật vậy vị Tỳ khưu xác định nhận lấy bữa ăn dâng theo thẻ hoặc y tắm mưa phát sanh từ Chư Tăng rằng: “đây là một lợi ích” trong khi sử dụng ở giữa các vị Tỳ khưu, ở giữa Tăng Chúng gọi là được phát triển bởi giới, định, tuệ, Đạo và Quả cũng giống như hoa sen phát triển xinh đẹp ở giữa hồ. Này: là gốc của năm uẩn ở hiện tại. Nguyên nhân của khổ: bởi tham ái. Thật vậy, tham ái ấy là nguyên nhân của đau khổ, là năm uẩn. Khi bắt đầu thiết lập sự cố gắng: là thực hành sự tinh tấn phối hợp với phận sự. không có sự ham muốn: không có sự ham muốn bởi Đạo. Ngài giải thích rằng: “Ta lìa xa ái luyến là nhân của khổ với việc bắt đầu thiết lập sự tinh cần.” Đức Thế Tôn thuyết thực hành lạc thắng trí nhanh với câu ‘biết rõ như vậy’ này. Thuyết về biểu hiện trung bình của sự tinh cần trong việc phối hợp với phận sự ấy ở đoạn thứ hai. So yassa hi khvassā: này, ở đây có ý nghĩa vắn tắt như sau: hạng người nào làm dịu đi sự đau khổ bằng việc bắt đầu thiết lập sự tinh cần, hạng người ấy bắt đầu thiết lập sự tinh cần nơi nguyên nhân của khổ đau ấy, bắt đầu thiết lập sự tinh cần với tinh cần trong Đạo. Còn hạng người nào tu tập xả thọ với xả thọ sẽ làm dịu đi nguyên nhân của đau khổ, hạng người ấy tu tập xả thọ trong nguyên nhân của khổ đau ấy, phát triển với việc tu tập Đạo. Vị ấy: hạng người ấy.

11. Paṭibaddhacittoti chandarāgena baddhacitto. Tibbacchandoti bahalacchando. Tibbāpekkhoti bahalapatthano. Santiṭṭhantinti ekato tiṭṭhantiṃ. Sañjagghantinti mahāhasitaṃ hasamānaṃ. Saṃhasantinti sitaṃ kurumānaṃ.

11. Có tâm bị ràng buộc: Có tâm bị ràng buộc bởi dục vọng và ái luyến. Có ước muốn mãnh liệt: Có ước muốn dày đặc. Có ước vọng mãnh liệt: Có ước vọng mãnh liệt. Đứng nói chuyện: đứng cùng nhau. Đùa giỡn: cười lớn tiếng. Cười cợt: đang tạo ra nụ cười.

Evameva kho bhikkhaveti ettha idaṃ opammavibhāvanaṃ: – eko hi puriso ekissā itthiyā sāratto ghāsacchādanamālālaṅkārādīni datvā ghare vāseti. Sā taṃ aticaritvā aññaṃ sevati. So “nūna ahaṃ assā anurūpaṃ sakkāraṃ na karomī”ti sakkāraṃ vaḍḍhesi. Sā bhiyyoso mattāya aticarati yeva[19], so “ayaṃ sakkariyamānāpi aticarateva, ghare me vasamānā anatthaṃpi kareyya, nīharāmi nan”ti parisamajjhe alaṃvacanīyaṃ katvā “mā puna gehaṃ pāvisī”ti vissajjesi. Sā kenaci upāyena tena saddhiṃ santhavaṃ kātuṃ asakkontī naṭanaccakādīhi saddhiṃ vicarati. Tassa purisassa taṃ disvā neva uppajjati domanassaṃ, somanassaṃ pana uppajjati.

Cũng vậy, này các Tỳ khưu: điều này sẽ được làm rõ bằng ví dụ sau: – Giống như một người đàn ông có sự luyến ái đối với một người nữ đã cho đồ ăn, vải vóc y phục, tràng hoa, và những vật trang sức v.v, rồi về sống chung một nhà. Nàng đã phản bội anh ta tìm kiếm người đàn ông khác. Anh ta nghĩ rằng: “Chắc ta không tặng cho nàng những món quà thích hợp (nên nàng mới ngoại tình) mới tặng thêm quà.” Nàng càng ngày càng trở nên không chung thuỷ. Anh ta nghĩ rằng: “mặc dù ta đã tặng cô ấy những món quà, cũng vẫn cư xử không phải đạo vợ chồng, nếu như gượng ép sống chung một nhà cũng chỉ tạo nghiệp gây ra đau khổ. Ta sẽ đuổi cô ấy đi,” như thế anh ta nguyền rủa cô ấy cho đến khi cảm thấy thỏa mãn, ở giữa dân chúng rồi bỏ đi bằng cách nói ngăn cấm “đừng bước vào nhà tôi nữa”. Cô ta không thể thân mật với anh ấy dù với bất kỳ chiêu trò gì đi chăng nữa, vì vậy cô ấy đã đi cùng với các vũ công, v.v. Do được nhìn thấy người phụ nữ ấy, anh ta không cảm thấy buồn bực mà ngược lại còn cảm thấy vui mừng.

Tattha purisassa itthiyā sārattakālo viya imassa bhikkhuno attabhāve ālayo. Ghāsacchādanādīni datvā ghare vasāpanakālo viya attabhāvassa paṭijagganakālo. Tassā aticaraṇakālo viya jaggiyamānasseva[20] attabhāvassa pittapakopādīnaṃ vasena sābādhatā[21]. “attano anurūpaṃ sakkāraṃ alabhantī aticaratī”ti sallakkhetvā sakkāravaḍḍhanaṃ viya “bhesajjaṃ alabhanto evaṃ hotī”ti sallakkhetvā bhesajjakaraṇakālo. Sakkāre vaḍḍhitepi puna aticaraṇaṃ viya pittādīsu ekassa bhesajje kariyamāne sesānaṃ pakopanavasena puna sābādhatā. Parisamajjhe alaṃvacanīyaṃ katvā gehā nikkaḍḍhanaṃ viya “idāni te nāhaṃ dāso na kammakaro, anamatagge saṃsāre taṃyeva upaṭṭhahanto vicariṃ, ko me tayā attho, chijja vā bhijja vā”ti tasmiṃ anapekkhataṃ āpajjitvā viriyaṃ thiraṃ katvā maggena kilesasamugghātanaṃ. Naṭanaccakādīhi naccamānaṃ vicarantiṃ disvā yathā tassa purisassa domanassaṃ na uppajjati, somanassameva uppajjati, evameva imassa bhikkhuno arahattaṃ pattassa pittapakopādīnaṃ vasena ābādhikaṃ attabhāvaṃ disvā domanassaṃ na uppajjati, “muccissāmi vata khandhaparihāradukkhato”ti somanassameva uppajjatīti. Ayaṃ pana upamā “paṭibaddhacittassa domanassaṃ uppajjati, appaṭibaddhacittassa natthetan”ti ñatvā itthiyā chandarāgaṃ pajahati, evamayaṃ bhikkhu saṅkhāraṃ vā padahantassa upekkhaṃ vā bhāventassa dukkhanidānaṃ pahīyati, no aññathāti ñatvā tadubhayaṃ sampādento dukkhanidānaṃ pajahatī”ti etamatthaṃ vibhāvetuṃ āgatāti veditabbā.

Nên hiểu ý nghĩa trong câu ví dụ đó (như sau): Sự quyến luyến bản thân của Tỳ khưu này có thể thấy giống như thời gian mà người đàn ông quyến luyến người nữ. Thời gian chăm sóc bản thân giống như thời gian người đàn ông cho thức ăn, vải vóc y phục v.v, rồi về sống chung trong một nhà. Thân thể mà vị Tỳ khưu gìn giữ đó xuất hiện tật bệnh với những căn bệnh hoành hành có thể thấy giống như thời gian người nữ có hành vi phản bội. Thời gian xác định rằng: bệnh khi không có thuốc trở thành như vậy, mới kê đơn có thể thấy giống như người đàn ông xác định rằng (người nữ này) không được quà phù hợp với mình mới có hành vi phản bội nên mới tặng thêm quà. Khi một loại bệnh tật như túi mật trở nên tồi tệ v.v, vị Tỳ khưu đang uống thuốc điều trị thì một căn bệnh khác lại bộc phát, có thể thấy giống như khi người đàn ông tặng thêm quà cho người nữ ấy (thì người nữ đó) cũng vẫn có hành vi phản bội. Việc đi đến sự chấm dứt quyến luyến trong tự thân đó rằng: “bây giờ ta không còn là nô lệ, mà cũng không còn là người lao động của ngươi nữa, ta đã đi lang thang săn sóc chính ngươi trong vòng luân hồi vô tận không thể tìm thấy điểm bắt đầu, ta không cần gì từ ngươi nữa, ngươi hãy đoạn tận, hoặc hoại rã” sau đó thực hành sự tinh tấn vững chắc, nhổ bỏ phiền não bằng Đạo, có thể thấy giống như việc người đàn ông nguyền rủa người nữ ấy cho đến khi cảm thấy thỏa mãn ở giữa dân chúng, kéo ra khỏi nhà. Bởi vì nhìn thấy người phụ nữ đó đi du hành ca múa cùng vời với nhóm vũ công v.v, sự buồn rầu đã không sanh khởi nơi người đàn ông đó, chỉ có sự vui mừng sanh khởi thế nào, vị Tỳ khưu này cũng tương tự như thế, sau khi chứng đắc A-ra-hán thì sự buồn rầu không sanh khởi bởi đã nhìn thấy tự thân có sự bệnh tật do những cơn bệnh hoành hành v.v, chỉ khởi lên sự hoan hỷ rằng: “Quả thật, ta sẽ thoát khỏi mọi khổ đau khởi lên từ việc sát, việc giam cầm và việc khống chế uẩn.” Hơn nữa, ví dụ so sánh nên biết rằng: được nêu ra để làm nội dung này được sáng tỏ như sau: “Người đàn ông từ bỏ sự ham muốn do tác động sự hài lòng từ người nữ, bởi vì biết rằng sự buồn rầu khởi lên cho người có tâm bị ràng buộc, khi không có tâm bị ràng buộc thì sự buồn rầu đó cũng không có thế nào, thì vị Tỳ khưu này biết rằng: “khi ta bắt đầu thiết lập sự tinh tấn hoặc điều phục xả thọ sẽ dứt trừ được nhân của khổ, không phải dứt trừ bằng cách khác, rồi thực hiện việc thiết lập sự tinh tấn và điều phục xả thọ cho cả hai Pháp này trọn vẹn sẽ từ bỏ được nhân của khổ đau (là tham ái) như thế đó.

12. Yathāsukhaṃ kho me viharatoti yena sukhena viharituṃ icchāmi, tena me viharato. Padahatoti pesentassa. Ettha ca yassa sukhā paṭipadā asappāyā, sukhumacīvarāni dhārentassa pāsādike senāsane vasantassa cittaṃ vikkhipati, dukkhāpaṭipadā sappāyā, chinnabhinnāni thūlacīvarāni dhārentassa susānarukkhamūlādīsu vasantassa cittaṃ ekaggaṃ hoti, taṃ sandhāyetaṃ vuttaṃ.

12. Khi ta an trú vào lạc thọ: ăn trú với sự an lạc mà ta mong muốn sống. Bắt đầu thiết lập: gởi đi. Cũng trong cụm từ ‘khi ta an trú vào lạc tín’ này vị Tỳ khưu nào có sự thực hành thuận tiện nhưng không thích hợp, vị Tỳ khưu ấy đắp y phục (chất liệu vải) mềm mịn, sống trong trú xứ đáng tịnh tín, tâm sẽ dao động. Vị Tỳ khưu nào có sự thực hành khó khăn nhưng thích hợp, vị Tỳ khưu ấy mặc y phục thô cứng rách rưới, sống ở bãi tha ma và dưới gốc cây v.v, tâm chuyển chú trong một đối tượng, nói đề cập đến vị Tỳ khưu ấy mới thuyết lời này.

Evameva khoti ettha idaṃ opammasaṃsandanaṃ, usukāro viya hi jātijarāmaraṇabhīto yogī daṭṭhabbo, vaṅkakuṭilajimhatejanaṃ viya vaṅkakuṭilajimhaṃ cittaṃ, dve alātā viya kāyikacetasikaviriyaṃ, tejanaṃ ujuṃ karontassa kañjikatelaṃ viya saddhā, namanadaṇḍako viya lokuttaramaggo, usukārassa vaṅkakuṭilajimhatejanaṃ kañjikatelena sinehetvā alātesu tāpetvā namanadaṇḍakena ujuṃ karaṇaṃ viya imassa bhikkhuno vaṅkakuṭilajimhaṃ cittaṃ sandhāya sinehetvā kāyikacetasikaviriyena tāpetvā lokuttaramaggena ujuṃ karaṇaṃ, usukārasseva evaṃ ujukatena tejanena sapattaṃ vijjhitvā sampattianubhavanaṃ viya imassa yogino tathā ujukatena cittena kilesagaṇaṃ vijjhitvā pāsādike senāsane nirodhavaratalagatassa[22] phalasamāpattisukhānubhavanaṃ daṭṭhabbaṃ. Idha tathāgato sukhāpaṭipadākhippābhiññabhikkhuno, dukkhāpaṭipadādandhābhiññabhikkhuno ca paṭipattiyo kathitā, itaresaṃ dvinnaṃ na kathitā, tā kathetuṃ imaṃ desanaṃ ārabhi. Imāsu vā dvīsu kathitāsu itarāpi kathitāva honti, āgamanīyapaṭipadā pana na kathitā, taṃ kathetuṃ imaṃ desanaṃ ārabhi. Sahāgamanīyāpi vā paṭipadā kathitāva, adassitaṃ pana ekaṃ buddhuppādaṃ dassetvā ekassa kulaputtassa nikkhamanadesanaṃ arahattena vinivaṭṭissāmīti dassetuṃ imaṃ desanaṃ ārabhi. Sesaṃ sabbattha uttānamevāti.

Cũng tương tự như thế: điều này được so sánh với ví dụ như sau: người gắn liền với sự tinh tấn mà lo sợ về sanh, già, bệnh và chết có thể nhìn thấy giống như người thợ làm tên, tâm trí không lương thiện có thể thấy giống như mũi tên bị uốn cong và bẻ cong, sự tinh tấn ở lộ thân và lộ tâm nên thấy giống như hai khúc cây đang cháy. Đức tin có thể thấy giống như nhựa cơm nhão của cung thủ vót mũi tên cho thẳng. Đạo Siêu thế có thể thấy giống như khúc cây để uốn cong. Việc mà vị Tỳ khưu lấy đức tin để áp dụng tâm không ngay thẳng và cong vẹo rồi thiêu đốt nhờ sự tin tấn ở lộ thân và lộ tâm, làm cho ngay thẳng nhờ vào Đạo Siêu thế, có thể thấy giống như người thợ làm tên lấy nhựa cơm nhão thoa lên cây cung cong vẹo rồi đốt nóng trên củi sau đó uốn cho thẳng đối với thanh cần phải uốn. Việc thọ hưởng lạc sanh khởi từ sự thể nhập thiền Quả của vị Tỳ khưu phối hợp với sự tinh tấn này đâm thủng khối phiền não bởi tâm được làm ngay thẳng như thế, có năng lực cao thượng do sự diệt tận ở trong trú xứ tịnh tín, có thể thấy giống như người thợ làm tên đó bắn kẻ thù bằng mũi tên đã được uốn thẳng thế đó, rồi được thọ lãnh sự thành tựu (tài sản) ở nơi ấy, để thuyết giảng đạo lộ thực hành đối với vị Tỳ khưu thực hành lạc thắng trí nhanh, với vị Tỳ khưu thực hành khổ thắng trí nhanh, ngoài ra hai loại còn lại vẫn không được thuyết, đấng Như Lai mới bắt đầu thuyết Pháp thoại này. Khi thuyết giảng cả hai sự thực hành này (thực hành lạc thắng trí nhanh, và thực hành khổ thắng trí nhanh), ngay cả sự thực hành còn lại (thực hành khổ thắng trí chậm, và thực hành lạc thắng trí chậm) điều đó cũng đã được thuyết. Còn āgamanīyapaṭipadā đạo lộ thực hành cần phải đắc chứng không được thuyết giảng. Để thuyết giảng āgamanīyapaṭipadā đó mới bắt đầu thuyết chương này. Hơn nữa, đạo lộ thực hành là sahāgamanīyā đạo lộ thực hành cần phải đồng chứng đắc cũng đã được thuyết giảng. Nhưng để thuyết giảng buddhuppādakāla thời kỳ có Phật ra đời, một thời kỳ vẫn chưa được trình bày, rồi thuyết giảng sẽ chuyển đổi Pháp thoại bằng sự xuất ly (khỏi các dục) cho một thiện nam tử bằng (đỉnh cao) A-ra-hán mới bắt đầu thuyết chương này. Các từ còn lại ở các câu đều đơn giản.

Giải Thích Kinh Devadaha Kết Thúc.


[1] Sī. – sacce

[2] Ka. gāḷhapalepanenāti

[3] Sī. Syā. – ahumhā vā

[4] Syā. – akarimhā

[5] Syā. Ka. – evamāgantukasallūpamāya

[6] Sī. – kiṃ bhūtatthā abhūtavipākā, abhūtatthā bhūtavipākāti

[7] Ka. – navanaṅgalañca

[8] Ka. – kasantassa

[9] Syā. – amhākaṃ yeva dānena, Ka. – amhākaṃ yeva therena

[10] Ka. – jātā cittaṃ pasādehīti

[11] Sī. – Kāḷavaḷiyo

[12] Sī. – Dhanakumbhiyo

[13] Syā. – nibbattati

[14] Ka. – sakāraṇā hutvā nigaṇṭhānaṃ vādā ca anuvādā ca

[15] Syā. – samāno telamakkhitena

[16] Sī. Syā. – Coraka-piyaṅgumattenāpi

[17] Sī. – ayampana, Ka. – ayaṃ na

[18] Sī. – addhabhūtaṃ

[19] Sī. – aticariyeva

[20] Syā. – rakkhiyamānasseva

[21] Sī. – sambādhatā, Ma. – ābādhatā

[22] Ka. – nirodhathalagatassa, Syā. nirodhaparamabalavantassa