Kinh số 06 – Giải Thích Kinh Ước Nguyện
(Ākaṅkheyyasuttaṃ)Xem Trung Bộ Kinh – Kinh Ước Nguyện
- evaṃ me sutanti ākaṅkheyyasuttaṃ. tattha sampannasīlāti tividhaṃ sampannaṃ paripuṇṇasamaṅgimadhuravasena. Tattha –
[64] Bài Kinh Ước Nguyện được bắt đầu như sau: Tôi đã được nghe như vầy. Ở đó, người có giới đầy đủ có 3 sự hội đủ là sự thành tựu đầy đủ, sự thành tựu toàn vẹn và sự thành tựu ngọt ngào. Ba sự thành tựu đó:
“sampannaṃ sālikedāraṃ, suvā bhuñjanti kosiya; paṭivedemi te brahme, na naṃ vāretumussahe”ti. (jā. 1.14.1). idaṃ paripuṇṇasampannaṃ nāma.
“Thưa ông Kosiya, các con chim két ăn ruộng lúa đã được chín tới. Thưa vị Bà-la-môn, tôi xin thông báo cho ngài biết. Tôi không có thể ngăn cản chúng. (jā. 1.14.1) đây được gọi là sự thành tựu đầy đủ.
“iminā pātimokkhasaṃvarena upeto hoti samupeto upāgato samupāgato upapanno sampanno samannāgato”ti (vibha. 511) idaṃ samaṅgisampannaṃ nāma. “imissā, bhante, mahāpathaviyā heṭṭhimatalaṃ sampannaṃ, seyyathāpi khuddamadhuṃ aneḷakaṃ, evamassādan”ti (pārā. 17) idaṃ madhurasampannaṃ nāma. idha pana paripuṇṇasampannampi samaṅgisampannampi vaṭṭati. tasmā sampannasīlāti paripuṇṇasīlā hutvātipi sīlasamaṅgino hutvātipi evamettha attho vedibbo. sīlanti kenaṭṭhena sīlaṃ? sīlanaṭṭhena sīlaṃ. tassa vitthārakathā visuddhimagge vuttā.
“ Vị Tỳ khưu là vị đã đi đến, đã tiến gần, đã tiến vào, đã tiến sát, đã đạt đến, đã tròn đủ, đã thành tựu với sự thu thúc ở giới bổn Pātimokkha đó.” (vibha. 511) đây được gọi là sự thành tựu toàn vẹn. “Kính bạch Ngài, bề mặt bên dưới của đại địa cầu này có vị ngọt đáng hài lòng như là mật ong, không trộn lẫn tạp chất.” (pārā. 17) đây gọi là sự thành tựu ngọt ngào. Nhưng trong bài Kinh này (ý nghĩa) thích hợp là sự thành tựu đầy đủ và sự thành tựu toàn vẹn. Vì thế, người có giới đầy đủ nên được biết như vậy, người có giới đầy đủ: là người có giới đầy đủ, là người có giới trọn vẹn.
Ý Nghĩa Của Giới
Giới: gọi là giới bởi ý nghĩa như thế nào? Gọi là giới với ý nghĩa làm nơi chống đỡ, ý nghĩa chi tiết của giới đã được nói trong bộ Thanh Tịnh Đạo.
tattha “paripuṇṇasīlā”ti iminā atthena khettadosavigamena khettapāripūrī viya sīladosavigamena sīlapāripūrī vuttā hoti. yathā hi khettaṃ bījakhaṇḍaṃ vappakhaṇḍaṃ udakakhaṇḍaṃ ūsakhaṇḍanti catudosasamannāgataṃ aparipūraṃ hoti.
Trong bộ Thanh Tịnh Đạo đó với ý nghĩa rằng ‘sự tròn đủ của giới’ đây là điều được nói về sự đầy đủ của giới bởi sự biến mất sân hận từ giới, giống như Ngài đã nói sự chín tới của ruộng lúa nhờ sự tránh xa hư hại của ruộng lúa. Như thể ruộng lúa xuất hiện với bốn sự hư hại là hạt giống bị gãy, gieo mạ không tốt, nguồn nước không tốt, đất không tốt thì ruộng lúa không được (thành tựu) trọn vẹn.
tattha bījakhaṇḍaṃ nāma yattha antarantarā bījāni khaṇḍāni vā pūtīni vā honti, tāni yattha vapanti, tattha sassaṃ na uṭṭheti, khettaṃ khaṇḍaṃ hoti. vappakhaṇḍaṃ nāma yattha akusalo bījāni vapanto antarantarā nipāteti. evañhi sabbattha sassaṃ na uṭṭheti, khettaṃ khaṇḍaṃ hoti. udakakhaṇḍaṃ nāma yattha katthaci udakaṃ atibahu vā na vā hoti, tatrāpi hi sassāni na uṭṭhenti, khettaṃ khaṇḍaṃ hoti. ūsakhaṇḍaṃ nāma yattha kassako kismiñci padese naṅgalena bhūmiṃ cattāro pañca vāre kasanto atigambhīraṃ karoti, tato ūsaṃ uppajjati, tatrāpi hi sassaṃ na uṭṭheti, khettaṃ khaṇḍaṃ hoti, tādisañca khettaṃ na mahapphalaṃ hoti na mahānisaṃsaṃ, tatrāpi hi bahumpi vapitvā appaṃ labhati. imesaṃ pana catunnaṃ dosānaṃ vigamā khettaṃ paripuṇṇaṃ hoti. tādisañca khettaṃ mahapphalaṃ hoti mahānisaṃsaṃ. evameva khaṇḍaṃ chiddaṃ sabalaṃ kammāsanti catudosasamannāgataṃ sīlaṃ aparipūraṃ hoti. tādisañca sīlaṃ na mahapphalaṃ hoti, na mahānisaṃsaṃ. imesaṃ pana catunnaṃ dosānaṃ vigamā sīlakhettaṃ paripuṇṇaṃ hoti, tādisañca sīlaṃ mahapphalaṃ hoti mahānisaṃsaṃ.
Ở đó, hạt giống bị gãy hoặc bị úng ở bên trong ruộng lúa nào thì ruộng lúa đó gọi là ruộng lúa có hạt giống bị hư. Người nông dân gieo mạ xuống ở ruộng lúa nào, thì hạt giống sẽ không nảy mầm trong ruộng lúa đó, ruộng lúa ấy cũng xem như ruộng lúa bị hư. Người nông dân không thiện xảo khi gieo hạt giống thì gieo thành từng đám từng đóng trong ruộng nào, ruộng đó gọi là có việc gieo bị hư. Bởi vì khi gieo mạ như vậy thì nó sẽ không thể nảy mầm đều ở thửa ruộng đó, ruộng ấy cũng được xem như ruộng bị hư. Một số nơi có quá nhiều nước, hoặc không có nước, ruộng đó gọi là ruộng bị thiếu nước, bởi vì cây mạ sẽ không phát triển ngay trong ruộng đó, thì ruộng ấy được xem như ruộng bị hư. ở một số địa phương người nông dân cày 4-5 lần khiến bề mặt đất bị sâu quá mức. Sau đó, đất sẽ trở nên mặn, ruộng đó gọi là ruộng có đất xấu. Vì trong ruộng đó cây mạ không thể phát triển, ruộng đó cũng được xem như ruộng bị hư. Và một thửa ruộng như vậy sẽ không tạo ra được sản lượng lớn, vì ngay cả trong thửa ruộng đó, dầu cho được gieo nhiều mạ xuống, thì cũng thu lại được (năng suất) ít ỏi. Lại nữa, thửa ruộng được xem là hoàn hảo do không có bốn hư hại này. Và thửa ruộng như vậy được xem là cho năng suất hiệu quả như thế nào. Giới hội đủ với 4 sự lỗi lầm là bị đứt, bị thủng, bị tỳ vết, bị hoen ố. cũng không được xem là giới không trọn vẹn tương tự như thế đó. Và giới hạnh như vậy là giới không mang lại quả báu lớn. Nhưng giới hạnh được xem là tròn đủ, bởi vì không có bốn lỗi lầm này, và giới hạnh như vậy được xem là giới hạnh mang lợi quả báu lớn lao.
“sīlasamaṅgino”ti iminā panatthena sīlena samaṅgibhūtā samodhānaṃ gatā samannāgatā hutvā viharathāti idameva vuttaṃ hoti. tattha dvīhi kāraṇehi sampannasīlatā hoti sīlavipattiyā ca ādīnavadassanena sīlasampattiyā ca ānisaṃsadassanena. tadubhayampi visuddhimagge vitthāritaṃ.
Lại nữa với ý nghĩa này ‘giới toàn vẹn’ đã được Ngài nói rằng các ông hãy là người đầy đủ là người đạt đến sự đầy đủ bằng giới. ‘Được thành tựu giới’ đó tính chất người có giới đầy đủ, có được với 2 nguyên nhân là do nhìn thấy sự bất lợi với sự hư hỏng về giới, và do nhìn thấy lợi ích trong việc thành tựu của giới. Cả hai điều đó Ngài đã giải thích chi tiết trong bộ Thanh Tịnh Đạo.
tattha “sampannasīlā”ti ettāvatā kira bhagavā catupārisuddhisīlaṃ uddisitvā “pātimokkhasaṃvarasaṃvutā”ti iminā tattha jeṭṭhakasīlaṃ vitthāretvā dassesīti dīpavihāravāsī sumanatthero āha. antevāsiko panassa tepiṭakacūḷanāgatthero āha — ubhayatthāpi pātimokkhasaṃvaro bhagavatā vutto, pātimokkhasaṃvaroyeva hi sīlaṃ. itarāni pana tīṇi sīlanti vuttaṭṭhānaṃ nāma atthīti ananujānanto vatvā āha — “indriyasaṃvaro nāma chadvārarakkhāmattakameva, ājīvapārisuddhi dhammena samena paccayuppattimattakaṃ, paccayanissitaṃ paṭiladdhapaccaye idamatthanti paccavekkhitvā paribhuñjanamattakaṃ. nippariyāyena pātimokkhasaṃvarova sīlaṃ. yassa so bhinno, ayaṃ chinnasīso viya puriso hatthapāde sesāni rakkhissatīti na vattabbo. yassa pana so arogo, ayaṃ acchinnasīso viya puriso jīvitaṃ sesāni puna pākatikāni katvā rakkhituṃ sakkoti. tasmā ‘sampannasīlā’ti iminā pātimokkhasaṃvaraṃ uddisitvā ‘sampannapātimokkhā’ti tasseva vevacanaṃ vatvā taṃ vitthāretvā dassento ‘pātimokkhasaṃvarasaṃvutā’tiādimāhā”ti.
Trưởng lão Sumana người xứ Dīpavihāra đã nói rằng: đức Thế Tôn đã nêu ra tứ thanh tịnh giới để trình bày với kim khẩu chỉ chừng ấy ‘người có giới thành tựu’ trong cấu đó rồi thuyết giảng giới làm trưởng trong giới đó chi tiết với cầu này ‘là người phòng hộ với sự phòng hộ của giới bổn pātimokkha’. Còn Trưởng lão Cūḷanāga vị tinh thông Tam Tạng là học trò của Trưởng lão Sumana đã nói rằng – đức Thế Tôn đã nói sự thu thúc giới bổn pātimokkha ở cả hai nơi, chỉ riêng sự thu thúc giới bổn pātimokkha được gọi là giới, nơi thì khẳng định rằng 3 loại giới ngoài ra là giới cũng tồn tại, trong khi không đồng ý mới phản đối, rồi nói – chỉ cần hộ trì 6 môn thì gọi là sự thu thúc các căn, chỉ cần có sự xuất hiện của các món vật dụng tự nhiên diễn ra thường xuyên cũng được gọi là sự nuôi mạng thanh tịnh, chỉ cần quán tưởng các món vật dụng mà bản thân đã thọ nhận rồi cho rằng những thứ này tồn tại, rồi sau đó thọ dụng được gọi là y cứ vật dụng. Nhưng trực tiếp sự thu thúc bằng giới bổn pātimokkha đó được gọi là giới, sự thu thức giới bổn ấy của người nào đã bị đứt, người đó bất kỳ ai cũng không nên nói rằng người này sẽ gìn giữ các giới các còn lại, cũng giống như một người bị đứt đầu không thể gìn giữ tay và chân thế đó. Nhưng sự thu thúc giới bổn pātimokkha của người nào không tỳ vết, không hoen ố người này đây có thể gìn giữ những giới còn lại theo lẽ thường, cũng giống như người không đứt đầu có thể gìn giữ mạng sống được thế đó. Bởi thế, đức Thế Tôn lấy sự thu thúc giới bổn pātimokkha để thuyết giảng bằng lời sau ‘là người có giới đầy đủ [sampannasīlā]’ rồi nói từ đồng nghĩa của từ ‘sampannasīlā’ đó là ‘sampannapātimokkhā’ khi nói về từ đồng nghĩa ấy cho được chi tiết đã nói rằng ‘pātimokkhasaṃvarasaṃvutā [là người phòng hộ với sự phòng hộ của giới bổn pātimokkha]’
tattha pātimokkhasaṃvarasaṃvutāti pātimokkhasaṃvarena samannāgatā. ācāragocarasampannāti ācārena ca gocarena ca sampannā. aṇumattesūti appamattakesu. vajjesūti akusaladhammesu. bhayadassāvīti bhayadassino. samādāyāti sammā ādiyitvā. sikkhatha sikkhāpadesūti sikkhāpadesu taṃ taṃ sikkhāpadaṃ samādiyitvā sikkhatha. apica samādāya sikkhatha sikkhāpadesūti yaṃkiñci sikkhākoṭṭhāsesu sikkhitabbaṃ kāyikaṃ vācasikañca, taṃ sabbaṃ samādāya sikkhathāti ayamettha saṅkhepo, vitthārato pana sabbānetāni pātimokkhasaṃvarādīni padāni visuddhimagge vuttāni.
Ở đó, người phòng hộ với sự phòng hộ của giới bổn pātimokkha: sự thành tựu với sự thu thúc của giới bổn pātimokkha. Toàn vẹn uy nghi chánh hạnh: sự thành tựu đầy đủ uy nghi và chánh hạnh. Nhỏ nhất: rất nhỏ. Trong các lỗi lầm: trong các pháp bất thiện. Thấy sự nguy hiểm: người nhìn thấy sự nguy hiểm. Chơn chánh lãnh thọ: đã giữ lấy một cách tốt đẹp. Học tập với các học giới: các ông nắm giữ các học giới ấy một cách tốt đẹp rồi hãy học tập chúng. Và hơn nữa thọ trì học tập trong tất cả học giới này có ý nghĩa rằng bất cứ điều gì dầu diễn ra bằng thân hoặc bằng lời cũng cần phải học tập trong các học giới ấy, là phần của các học giới các ông hãy nắm giữ tất cả những điều ấy một cách tốt đẹp rồi hay học tập chúng. Còn các câu ‘thu thúc bằng giới bổn pāṭimokkha’ v.v, toàn bộ chúng đã được nói chi tiết trong bộ Thanh Tịnh Đạo.
- ākaṅkheyya ceti idaṃ kasmā āraddhaṃ? sīlānisaṃsadassanatthaṃ. sacepi acirapabbajitānaṃ vā duppaññānaṃ vā evamassa “bhagavā sīlaṃ pūrethāti vadati, ko nu kho sīlapūraṇe ānisaṃso, ko viseso, kā vaḍḍhī”ti? tesaṃ sattarasa ānisaṃse dassetuṃ evamāha. appeva nāma etaṃ sabrahmacārīnaṃ piyamanāpatādiāsavakkhayapariyosānaṃ ānisaṃsaṃ sutvāpi sīlaṃ paripūreyyunti. visakaṇṭakavāṇijo viya. visakaṇṭakavāṇijo nāma guḷavāṇijo vuccati.
- Tỳ khưu nếu có thể ước nguyện này đức Thế Tôn khởi đầu bởi lý do gì? Nhằm mục đích trình bày lợi ích của giới. Nếu như một người xuất gia không lâu hoặc người liệt tuệ nên có suy nghĩ như vầy rằng đức Thế Tôn thuyết như sau các ông hãy thực hành giới luật! các ông hãy thực hành giới luật! điều gì là lợi ích, điều gì là sự khác biệt, điều gì là sự phát triển trong việc thực hành giới luật. Vì mục đích trình bày mười bảy điều lợi ích phước báu cùng Tỳ khưu xuất gia không lâu v.v, đó đức Thế Tôn đã tuyên thuyết như vậy. Rất có thể chư Tỳ khưu đã nghe điều lợi ích phước báu là nơi khởi đầu sự yêu thương, là nơi ưa thích của các bạn đồng phạm hành, và điểm kết thúc là sự chấm dứt các lậu hoặc, sẽ thực hành giới luật cho được trọn vẹn tương tự như người buôn bán đường mía. Người buôn bán đường mía gọi là ‘người bán mía’.
so kira guḷaphāṇitakhaṇḍasakkharādīni sakaṭenādāya paccantagāmaṃ gantvā “visakaṇṭakaṃ gaṇhatha, visakaṇṭakaṃ gaṇhathā”ti ugghosesi. taṃ sutvā gāmikā “visaṃ nāma kakkhaḷaṃ, yo naṃ khādati, so marati, kaṇṭakampi vijjhitvā māreti, ubhopete kakkhaḷā, ko ettha ānisaṃso”ti gehadvārāni thakesuṃ, dārake ca palāpesuṃ. taṃ disvā vāṇijo “avohārakusalā ime gāmikā, handa ne upāyena gaṇhāpemī”ti “atimadhuraṃ gaṇhatha, atisāduṃ gaṇhatha, guḷaṃ phāṇitaṃ sakkharaṃ samagghaṃ labbhati, kūṭamāsakakūṭakahāpaṇādīhipi labbhatī”ti ugghosesi. taṃ sutvā gāmikā haṭṭhatuṭṭhā āgantvā bahumpi mūlaṃ datvā gahesuṃ.
Người buôn bán đường mía ngài gọi là người bán mía. Kể rằng một người lái buôn đã lấy một cổ xe vận chuyển mía và mật mía v.v, dọc biên giới và quảng cáo rằng: ‘các ông hãy mua thuốc độc và gai. các ông hãy mua thuốc độc và gai.’ Người dân địa phương nghe lời ấy đã nghĩ rằng thuốc độc là thứ độc hại, người nào ăn phải nó thì người đó phải chết. Ngay cả khi một cái gai đâm xuyên qua người cũng làm cho người ấy chết được, cả hai thứ này đều là độc hại. Sẽ có được lợi ích gì trong việc mua chúng, rồi (họ) đóng cửa và đuổi những đứa trẻ đi. Người lái buôn thấy vậy và nghĩ rằng: những người dân làng này không thông minh trong việc mua bán, bây giờ tôi sẽ dùng một mẹo để họ mua, đã rao lên rằng ‘hãy mua đồ ngọt, hãy mua lấy những thứ tốt, hãy mua mía, hãy mua đường mía giá tốt, các ông có thể mua được bằng một cắc giả và đồng tiền vàng giả với giá rẻ.’ Dân làng nghe như vậy vui vẻ rủ nhau trả giá, dù đắt cũng lấy đi.
tattha vāṇijassa “visakaṇṭakaṃ gaṇhathā”ti ugghosanaṃ viya bhagavato “sampannasīlā, bhikkhave, viharatha … pe … samādāya sikkhatha sikkhāpadesū”ti vacanaṃ. “ubhopete kakkhaḷā, ko ettha ānisaṃso”ti gāmikānaṃ cintanaṃ viya bhagavā “sampannasīlā viharathā”ti āha, “sīlañca nāmetaṃ kakkhaḷaṃ pharusaṃ khiḍḍādipaccanīkaṃ, ko nu kho sampannasīlānaṃ ānisaṃso”ti bhikkhūnaṃ cintanaṃ. atha tassa vāṇijassa “atimadhuraṃ gaṇhathā”tiādivacanaṃ viya bhagavato piyamanāpatādiāsavakkhayapariyosānaṃ sattarasāanisaṃsappakāsanatthaṃ “ākaṅkheyya ce”tiādivacanaṃ veditabbaṃ.
Lời dạy của đức Thế Tôn thuyết rằng: ‘các Tỳ khưu, hãy là người sống có giới hạnh đầy đủ…chơn chánh lãnh thọ và học tập các học giới.’ cũng giống như lời rao của người lái buôn: “hãy lấy thuốc độc và gai.” Đức Thế Tôn thuyết rằng ‘các ông hãy sống là người có giới hạnh đầy đủ’ chư Tỳ khưu suy nghĩ rằng: giới luật này cứng nhắc, là kẻ thù địch đối với việc cười và đùa giỡn, v.v. sẽ có phước báu gì chăng cho chư Tỳ khưu có giới hạnh đầy đủ? Cũng giống như dân làng nghĩ rằng: Chất độc và gai là thứ thô thiển (nguy hiểm), sẽ có phước báu gì trong việc mua thuốc độc v.v, như thế, do đó nên biết rằng những lời mở đầu của Đức Thế Tôn: ‘nếu có thể ước nguyện’ sẽ có ích lợi gì cho việc tuyên thuyết mười bảy loại phước báu khởi đầu là có sự yêu thương, sư ưa thích v.v, và kết thúc là có sự chấm dứt các lậu hoặc, như lời rao của lái buôn ‘ông hãy mua đồ ngon này.’
tattha ākaṅkheyya ceti yadi ākaṅkheyya yadi iccheyya. piyo ca assanti piyacakkhūhi sampassitabbo, sinehuppattiyā padaṭṭhānabhūto bhaveyyanti vuttaṃ hoti. manāpoti tesaṃ manavaḍḍhanako, tesaṃ vā manena pattabbo, mettacittena pharitabboti vuttaṃ hoti. garūti tesaṃ garuṭṭhāniyo pāsāṇacchattasadiso. bhāvanīyoti “addhā ayamāyasmā jānaṃ jānāti passaṃ passatī”ti evaṃ sambhāvanīyo. sīlesvevassa paripūrakārīti catupārisuddhisīlesuyeva paripūrakārī assa, anūnena paripūritākārena samannāgato bhaveyyāti vuttaṃ hoti. ajjhattaṃ cetosamathamanuyuttoti attano cittasamathe yutto, ettha hi ajjhattanti vā attanoti vā etaṃ ekatthaṃ, byañjanameva nānaṃ. bhummatthe panetaṃ samathanti upayogavacanaṃ. anūti iminā upasaggena yoge siddhaṃ. anirākatajjhānoti bahi anīhaṭajjhāno, avināsitajjhāno vā, nīharaṇavināsatthañhi idaṃ nirākaraṇaṃ nāma. thambhaṃ niraṃkatvā nivātavuttītiādīsu cassa payogo daṭṭhabbo.
Ước Nguyện Thứ 1
Ở đó ‘nếu có thể ước nguyện’ nghĩa là nếu ông có thể hi vọng, là nếu ông có thể ước muốn. Có thể là nơi yêu mến: ta có thể là người mà được người khác nhìn với ánh mắt yêu thương, (tức là) ta có thể là nguyên nhân gần khiến khởi lên sự yêu mến. Là nơi ưa thích: ta có thể là nguồn động lực của những người đó. Lại nữa, giải thích rằng ta có thể là người được lòng của những người đó, là (có thể) lan tỏa bằng tâm từ. Là nơi đáng cung kính: ta có thể hiểu biết rõ những người đó giống như cây lọng đá. Là người đáng tán thán: ta có thể là người mà những người đó có thể tán dương khen ngợi như vầy ‘vị này khi biết cũng sẽ biết thật, khi thấy cũng thấy thật.’ Cần phải thực hành cho thành tựu giới luật: cần phải là người thực hành trọn vẹn tứ thanh tịnh giới, (tức là) nên có sự hội đủ để thực hành cho trọn vẹn không bị đứt quãng thiếu hụt. Người đã tu tập sự an tịnh của nội tâm: có sự liên kết trong việc định tâm của chính mình. Từ ajjhattaṃ hoặc attano trong từ ajjhattaṃ cetosamathamanuyutto [người đã tu tập sự an tịnh nội tâm] này đồng nghĩa, chỉ khác văn tự mà thôi. Sự an tịnh [samātha] này là đối cách (nhưng) được dùng với ý nghĩa định sở cách. Với tiếp đầu ngữ này ‘anu’ cũng hoàn thành trong việc liên kết ý nghĩa. người có thiền định không bị thối thất: người có bất kỳ loại thiền nào không thể mang ra ngoài, hoặc không thể làm hoại thiền, gọi là nirākaraṇa sự dụng với ý nghĩa đem ra khỏi và làm cho hoại diệt. Cung nên thấy việc kết hợp ý nghĩa của từ nirākaraṇa đó như trong câu v.v, con người nên từ bỏ sự ương ngạnh rồi cần phải thực hành sự khiêm cung.
vipassanāya samannāgatoti sattavidhāya anupassanāya yutto, sattavidhā anupassanā nāma aniccānupassanā dukkhānupassanā anattānupassanā nibbidānupassanā virāgānupassanā nirodhānupassanā paṭinissaggānupassanāti. tā visuddhimagge vitthāritā. brūhetā suññāgārānanti vaḍḍhetā suññāgārānaṃ, ettha ca samathavipassanāvasena kammaṭṭhānaṃ gahetvā rattindivaṃ suññāgāraṃ pavisitvā nisīdamāno bhikkhu “brūhetā suññāgārānan”ti veditabbo. ekabhūmakādipāsāde kurumānopi pana neva suññāgārānaṃ brūhetāti daṭṭhabboti.
Sự thành tựu với minh sát: người phối hợp với bảy sự quán xét, bảy pháp quán xét là sự quán xét về vô thường, sự quán xét về khổ đau, sự quán xét về vô ngã, sự quán xét về nhàm chán, sự quán xét về ly tham ái, sự quán xét về diệt tận, sự quán xét về từ bỏ. Những sự quán xét này được giải thích chi tiết trong bộ Thanh Tịnh Đạo. Sống ở trú xứ không tịch: là người sống ở trú xứ không tịch để phát triển. Cũng trong câu ‘Sống ở trú xứ không tịch’ này vị Tỳ khưu học lấy đề mục thiền định với mãnh lực của thiện định và minh sát, rồi vào ngồi trong ngồi nhà trống cả ngày lẫn đêm, nên biết rằng là vị sống ở trú xứ không tịch. Còn vị Tỳ khưu thực hành sự tinh tấn trong một tòa lâu đài không nên thấy rằng (vị ấy) là người sống sống ở trú xứ không tịch.
ettāvatā ca yathā taṇhāvicaritadesanā paṭhamaṃ taṇhāvasena āraddhāpi taṇhāpadaṭṭhānattā mānadiṭṭhīnaṃ mānadiṭṭhiyo osaritvā kamena papañcattayadesanā jātā, evamayaṃ desanā paṭhamaṃ adhisīlasikkhāvasena āraddhāpi sīlapadaṭṭhānattā samathavipassanānaṃ samathavipassanāyo osaritvā kamena sikkhattayadesanā jātāti veditabbā.
Chỉ bấy nhiêu sự thuyết giảng này đức Thế Tôn bắt đầu với khả năng nêu ra tăng thượng giới học ấy trình bày trước, cũng nên biết rằng sự thuyết giảng được kể nối tiếp nhau trong Tam Học theo tuần tự, bởi vì nó kết hợp thiền định và minh sát với nhau, lý do thiền định và minh sát có giới làm nhân cận [padaṭṭhāna] giống như sự thuyết giảng Giáo Pháp là kẻ thù của tham ái. Mặc dù đức Thế Tôn đã bắt đầu với khả năng lấy tham ái ra để trình bày trước, cũng nên biết rằng là sự thuyết giảng được tính vào trong nhóm của 3 pháp trễ nãi theo tuần tự bởi vì nó phối hợp và xem với ngã mạn và tà kiến kết hợp với nhau, lý do ngã mạn và tà kiến có tham ái làm nhân cận.
ettha hi “sīlesvevassa paripūrakārī”ti ettāvatā adhisīlasikkhā vuttā. “ajjhattaṃ cetosamathamanuyutto anirākatajjhāno”ti ettāvatā adhicittasikkhā, “vipassanāya samannāgato”ti ettāvatā adhipaññāsikkhā, “brūhetā suññāgārānan”ti iminā pana samathavasena suññāgāravaḍḍhane adhicittasikkhā, vipassanāvasena adhipaññāsikkhāti evaṃ dvepi sikkhā saṅgahetvā vuttā. ettha ca “ajjhattaṃ cetosamathamanuyutto anirākatajjhāno”ti imehi padehi sīlānurakkhikā eva cittekaggatā kathitā. “vipassanāyā”ti iminā padena sīlānurakkhiko saṅkhārapariggaho.
Bởi vậy ở đây “cần phải thực hành cho được trọn vẹn trong giới” chỉ chừng ấy lời đã nói đến tăng thượng giới học. “người đã tu tập sự an tịnh nội tâm, không làm cho thiền bị thối giảm” chỉ chừng ấy lời đã nói đến tăng thượng tâm học, “sự thành tựu với minh sát” chỉ chừng ấy lời đã nói đến tăng thượng tuệ học. Sống ở trú xứ không tịch: đây là sự kết hợp của hai học giới, tức là tăng thượng tâm học trong việc phát triển trong việc sống ở trú xứ không tịch với năng lực của thiền định, và tăng thượng tuệ học với năng lực của minh sát. Ở đây với câu này, “người đã tu tập sự an tịnh nội tâm, không làm cho thiền bị thối giảm” Ngài nói đến định tâm hoàn toàn che chở giới. Bằng từ “với minh sát” này Ngài nói việc xác định các hành che chở giới được.
kathaṃ cittekaggatā sīlamanurakkhati? yassa hi cittekaggatā natthi, so byādhimhi uppanne vihaññati, so byādhivihato vikkhittacitto sīlaṃ vināsetvāpi byādhivūpasamaṃ kattā hoti. yassa pana cittekaggatā atthi, so taṃ byādhidukkhaṃ vikkhambhetvā samāpattiṃ samāpajjati, samāpannakkhaṇe dukkhaṃ dūrāpakataṃ hoti, balavatarasukhamuppajjati. evaṃ cittekaggatā sīlaṃ anurakkhati.
Định tâm sẽ che chở giới như thế nào? Người nào không có định tâm, người đó bực tức khi bệnh tật sanh khởi, kẻ ấy bị tật bệnh quấy rối có tâm tán loạn (đến nỗi) đã làm cho giới bị phá hủy, (không thể) thực hành làm cho chấm dứt tật bệnh. Còn người nào có định tâm, người đó chế ngự bệnh tật và đau khổ được, đã thể nhập thiền chứng ở sát-na vị ấy nhập thiền chứng khổ đau được biến mất, sự an lạc có năng lực hơn đã sanh khởi. Tính chất định tâm che chở giới bằng cách như vậy.
kathaṃ saṅkhārapariggaho sīlamanurakkhati? yassa hi saṅkhārapariggaho natthi, tassa “mama rūpaṃ mama viññāṇan”ti attabhāve balavamamattaṃ hoti, so tathārūpesu dubbhikkhabyādhibhayādīsu sampattesu sīlaṃ vināsetvāpi attabhāvaṃ posetā hoti. yassa pana saṅkhārapariggaho atthi, tassa attabhāve balavamamattaṃ vā sineho vā na hoti, so tathārūpesu dubbhikkhabyādhibhayādīsu sampattesu sacepissa antāni bahi nikkhamanti, sacepi ussussati visussati, khaṇḍākhaṇḍiko vā hoti satadhāpi sahassadhāpi, neva sīlaṃ vināsetvā attabhāvaṃ posetā hoti. evaṃ saṅkhārapariggaho sīlamanurakkhati. “brūhetā suññāgārānan”ti iminā pana tasseva ubhayassa brūhanā vaḍḍhanā sātaccakiriyā dassitā.
Việc xác định các hành che chở giới như thế nào? người nào không xác định được các hành, người đó có sự yêu thương mãnh liệt trong tự thân rằng: “sắc của ta, thức của ta”, người đó khi phải đương đầu với nạn đói kém, hiểm nạn bệnh tật v.v. bằng hình thức như thế sẽ làm cho giới bị phá hủy, để nuôi dưỡng tự ngã. Còn đối với những người đã xác định được các hành, người đó sẽ không có sự yêu thương mãnh liệt hay sự quyến luyến trong tự thân, khi người ấy phải đương đầu với nạn đói kém và hiểm nạn bệnh tật, v.v. đến nỗi ruột già của vị ấy lòi ra ngoài, thậm chí vị ấy hốc hác, tiều tụy, hoặc nát ra thành trăm mảnh, ngàn mảnh thì vị ấy cũng sẽ không phá hủy giới, sau đó mới chăm sóc đến tự thân. xác định các hành sẽ che chở giới được như vậy. Việc sống ở trú xứ không tịch này Ngài đã nêu ra sự phát triển sự tăng trưởng và tính kiên trì của cả 2 lý do đó.
evaṃ bhagavā yasmā “sabrahmacārīnaṃ piyo cassaṃ manāpo ca garu ca bhāvanīyo cā”ti ime cattāro dhamme ākaṅkhantena natthaññaṃ kiñci kātabbaṃ, aññadatthu sīlādiguṇasamannāgatena bhavitabbaṃ, idiso hi sabrahmacārīnaṃ piyo hoti manāpo garu bhāvanīyo. vuttampi hetaṃ:
Như vậy đức Thế Tôn thuyết rằng: do Tỳ khưu vị ước muốn trong bốn Pháp này là “ta có thể là chỗ yêu thương, là nơi ưa thích, là nơi cung kính, là nơi tôn trọng của các bạn đồng phạm hạnh”, không có phận sự nào khác cần phải làm, hãy là người có sự hội đủ các đức hạnh có giới v.v, bởi vì vị Tỳ khưu liên kết với giới như vậy (sẽ) là nơi yêu thương, là nơi ưa thích, là nơi cung kính, là nơi tôn trọng của các bạn đồng phạm hạnh. Thật vậy điều này đã được đức Thế Tôn nói rằng:
sīladassanasampannaṃ, dhammaṭṭhaṃ saccavādinaṃ.
attano kamma kubbānaṃ, taṃ jano kurute piyanti. (dha. pa. 217).
(Vị nào) được thành tựu đầy đủ về giới hạnh và sự nhận thức, đã đứng vững trong Pháp, nói lên lời chân thật, đang thực hành công việc của mình, dân chúng thể hiện sự yêu mến đối với vị ấy.
Ước Nguyện Thứ 2
tasmā “ākaṅkheyya ce, bhikkhave, bhikkhu sabrahmacārīnaṃ piyo cassaṃ manāpo ca garu ca bhāvanīyo cāti sīlesvevassa paripūrakārī … pe … suññāgārānan”ti vatvā idāni yasmā paccayalābhādiṃ patthayantenāpi idameva karaṇīyaṃ, na aññaṃ kiñci, tasmā “ākaṅkheyya ce, bhikkhave, bhikkhu lābhī assan”tiādimāha. na cettha bhagavā lābhanimittaṃ sīlādiparipūraṇaṃ kathetīti veditabbo. bhagavā hi ghāsesanaṃ chinnakatho na vācaṃ payuttaṃ bhaṇeti, evaṃ sāvake ovadati, so kathaṃ lābhanimittaṃ sīlādiparipūraṇaṃ kathessati, puggalajjhāsayavasena panetaṃ vuttaṃ. yesañhi evaṃ ajjhāsayo bhaveyya “sace mayaṃ catūhi paccayehi na kilameyyāma, sīlādiṃ pūretuṃ sakkuṇeyyāmā”ti, tesaṃ ajjhāsayavasena bhagavā evamāha. apica rasānisaṃso esa sīlassa, yadidaṃ cattāro paccayā nāma. tathā hi paṇḍitamanussā koṭṭhādīsu ṭhapitaṃ nīharitvā puttādīnampi adatvā attanāpi aparibhuñjitvā sīlavantānaṃ dentīti sīlassa sarasānisaṃsadassanatthaṃ petaṃ vuttaṃ.
Bởi thế, đức Thế Tôn khi thuyết rằng: “này chư Tỳ khưu, nếu Tỳ khưu có thể ước nguyện rằng, mong rằng ta được các đồng phạm hạnh thương mến -nt- yêu quý”,Tỳ khưu ấy phải thành tựu trọn vẹn giới luật -nt- thích sống tại các trú xứ không tịch.” Bây giờ, vì chư Tỳ khưu ước muốn các món vật dụng có lợi lộc v.v, chỉ cần làm phận sự này mà thôi, không cần làm phận sự gì khác, vì thế đã nói rằng: “này chư Tỳ khưu nếu Tỳ khưu có thể ước muốn rằng – mong rằng ta là người có được lợi đắc như này” v.v, Ở đây, đừng nên hiểu đức Thế Tôn thuyết sự hoàn thành giới v.v, có lợi đắc làm nguyên nhân [nimitta] bởi đức Thế Tôn là vị phản đối việc tầm cầu lợi lộc, không nói dính líu đến (lợi lộc), ban huấn từ cho chúng Thinh văn đệ tử như vậy, đức Thế Tôn sẽ thuyết sự hoàn thành giới v.v, có lợi lộc làm nguyên nhân như thế nào? Nhưng lời đó đức Thế Tôn thuyết theo năng lực khuynh hướng của cá nhân. (tức là) vị Tỳ khưu nào có thể có khuynh hướng như vầy “nếu như tôi không thiếu thốn bốn món vật dụng, tôi có thể hoàn thành giới được viên mãn v.v,” đức Thế Tôn đã nói như vầy với năng lực khuynh hướng của mỗi cá nhân đó. Và lại nữa gọi là bốn món vật dụng này đây là phước báu thật sự của giới. Thật vậy, các bậc trí thức mang ra những món đồ mà họ đã cất giữ trong nhà kho, cả con trai v.v, cũng không cho, kể cả vị ấy cũng không được sử dụng nó, nhưng cúng dường cho Ngài vị có giới hạnh. Lời như đã nói này Ngài nói nhằm mục đích chỉ rõ quả báu thực sự của giới luật.
Ước Nguyện Thứ 3
tatiyavāre yesāhanti yesaṃ ahaṃ. tesaṃ te kārāti tesaṃ devānaṃ vā manussānaṃ vā te mayi katā paccayadānakārā. devāpi hi sīlādiguṇayuttānaṃ paccaye denti, na kevalaṃ manussāyeva, sakko viya āyasmato mahākassapassa. mahapphalā mahānisaṃsāti ubhayametaṃ atthato ekaṃ, byañjanameva nānaṃ. mahantaṃ vā lokiyasukhaṃ phalantīti mahapphalā. mahato lokuttarasukhassa ca paccayā hontīti mahānisaṃsā. sīlādiguṇayuttassa hi kaṭacchubhikkhāpi pañcaratanamattāya bhūmiyā paṇṇasālāpi katvā dinnā anekāni kappasahassāni duggativinipātato rakkhati, pariyosāne ca amatāya parinibbānadhātuyāpaccayo hoti. “khīrodanaṃ ahamadāsin”tiādīni (vi. va. 413) cettha vatthūni, sakalameva vā petavatthu vimānavatthu ca sādhakaṃ. tasmā paccayadāyakehi attani katānaṃ kārānaṃ mahapphalataṃ icchantenāpi sīlādiguṇayutteneva bhavitabbanti dasseti.
Trong phần thứ ba này, yesāhaṃ tách từ thành yesaṃ ahaṃ. Sự cung kính của chư Thiên và nhân loại đó, chư Thiên và nhân loại đã thực hiện trong tôi. Quả thật chư Thiên cúng dường các món vật dụng đến những vị gắn bó với đức hạnh có giới hạnh v.v, không chỉ riêng người nhân loại mà thôi, như Vua Trời Đế Thích đã cúng dường đến Trưởng lão Mahā Kassapa. Cả hai từ này có được kết quả lớn và lợi ích lớn theo nội dung thì chúng có cùng một ý nghĩa, chỉ khác nhau về văn tự. Sự cung kính gọi là có kết quả to lớn bởi đem lại kết quả của sự an lạc ở Hiệp thế vô cùng lớn. Gọi là có lợi ích lớn bởi làm duyên của sự an lạc trong Siêu thế vô cùng lớn lao. Bởi vậy, một muỗng vật thực, hay am tranh trên bề mặt đất dài khoảng 5 hắt tay mà người làm cúng dường đến Ngài, vị gắn bó với đức hạnh có giới hạnh v.v, hộ trị họ khỏi các khổ cảnh, các đọa xứ thời gian hàng nghìn kiếp, và cuối cùng làm duyên để viên tịch Niết bàn ở cảnh giới bất tử. Và ở đây, trong chuyện này “tôi dâng cúng sữa và cơm v.v,” (vi. va. 413), hoặc toàn bộ Chuyện Ngạ Quỷ và Chuyện Thiên Cung là những minh chứng. Vì thế, đức Thế Tôn thuyết rằng vị Tỳ khưu dầu mong muốn cho sự cung kính đến người cúng dường các món vật dụng đến mình có kết quả lớn, phải là người gắn bó với đức hạnh có giới hạnh v.v.
Ước Nguyện Thứ 4
catutthavāre ñātīti sassusasurapakkhikā. sālohitāti ekalohitasambaddhā pītipitāmahādayo. petāti peccabhāvaṃ gatā. kālaṅkatāti matā. tesaṃ tanti tesaṃ taṃ mayi pasannacittataṃ vā pasannena cittena anussaraṇaṃ vā. yassa hi bhikkhuno kālaṅkato pitā vā mātā vā “amhākaṃ ñātako thero sīlavā kalyāṇadhammo”ti pasannacitto hutvā taṃ bhikkhuṃ anussarati, tassa so cittappasādopi taṃ anussaraṇamattampi mahapphalaṃ mahānisaṃsameva hoti, anekāni kappasatasahassāni duggatito vāretuṃ ante ca amataṃ pāpetuṃ samatthameva hoti. vuttañhetaṃ bhagavatā “ye te, bhikkhave, bhikkhū sīlasampannā samādhisampannā paññā, vimutti, vimuttiñāṇadassanasampannā, dassanaṃpāhaṃ, bhikkhave, tesaṃ bhikkhūnaṃ bahukāraṃ vadāmi. savanaṃ, anussatiṃ, anupabbajjaṃ, upasaṅkamanaṃ, payirupāsanaṃpāhaṃ, bhikkhave, tesaṃ bhikkhūnaṃ bahukāraṃ vadāmī”ti (itivu. 104). tasmā ñātisālohitānaṃ attani cittappasādassa anussatiyā ca mahapphalataṃ icchantenāpi sīlādiguṇayutteneva, bhavitabbanti dasseti.
Trong phần thứ tư, những người có mối liên hệ với bố vợ/chồng, mẹ vợ/chồng được gọi là quyến thuộc. Cha, chú v.v, có quan hệ cùng huyết thống gọi là thân quyến chung máu mủ. Người đã đi đến tính chất sau khi chết được gọi là Peta. Đã chết: đã qua đời. Sự tưởng nhớ…thân bằng quyến thuộc và thân quyến chung huyết thống: tính chất mà người ấy có tâm tịnh tín nơi tôi hoặc sự nhớ tưởng đến ta với tâm tịnh tín đó của những người đó. Thực tế, cha hoặc mẹ của bất kỳ vị Tỳ khưu nào đã qua đời, có tâm tịnh tín tưởng nhớ đến vị Tỳ khưu đó rằng: “vị Trưởng lão có giới hạnh, có Pháp tốt đẹp này là thân quyến của chúng ta.” Sự tịnh tín của tâm ấy nơi vị ấy, hay chỉ là tưởng nhớ (điều đo) cũng có kết quả lợi ích lớn. Chỉ sự tưởng nhớ đó là bản thể mà có thể dẫn dắt một nhóm chúng sanh thoát khỏi khổ cảnh đọa xứ hàng trăm nghìn kiếp và cuối cùng đạt đến cảnh giới bất tử Niết bàn. Điều này đức Thế Tôn đã nói: “Này các Tỳ khưu, những vị Tỳ khưu nào thành tựu giới, thành tựu định, thành tựu tuệ, thành tựu giải thoát, thành tựu trí và sự nhận thức về giải thoát, này chư Tỳ khưu, Ta nói rằng việc nhìn thấy, việc lắng nghe, việc nhớ đến, việc xuất gia theo, việc đi đến gần, việc hầu cận các vị Tỳ khưu ấy cũng có nhiều sự hỗ trợ” (itivu. 104). Do đó, Ngài thuyết rằng vị Tỳ khưu dầu ước muốn do sự tịnh tín của tâm nơi chính mình và sự nhớ đến thân bằng quyến thuộc chung huyết thống, sẽ có kết quả lợi ích to lớn, phải là người gắn bó với đức hạnh có giới hạnh v.v.
Ước Nguyện Thứ 5
- pañcamavāre aratiratisaho assanti aratiyā ratiyā ca saho abhibhavitā ajjhottharitā bhaveyyaṃ. ettha ca aratīti adhikusalesu dhammesu pantasenāsanesu ca ukkaṇṭhā. ratīti pañcakāmaguṇarati. na ca maṃ arati saheyyāti mañca arati na abhibhaveyya na maddeyya na ajjhotthareyya. uppannanti jātaṃ nibbattaṃ. sīlādiguṇayutto hi aratiñca ratiñca sahati ajjhottharati madditvā tiṭṭhati. tasmā īdisaṃ attānaṃ icchantenāpi sīlādiguṇayutteneva bhavitabbanti dasseti.
[66] Trong phần thứ năm, mong rằng ta nhiếp phục sự hoan hỷ và sự không hoan hỷ: mong rằng ta kham nhẫn từ sự sự hoan hỷ và sự không hoan hỷ, là mong rằng (ta) là người không bị sự không hoan hỷ nhiếp phục, áp chế. Cũng trong câu ‘là người nhiếp phụ sự hoan hỷ và sự không hoan hỷ được’ này sự nhàm chán trong pháp thiện cao cả và ở các trú xứ thanh vắng gọi là sự không hoan hỷ, sự mê thích trong năm dục gọi là sự hoan hỷ. Sự không hoan hỷ đừng nhiếp phụ ta: sự bất mãn không thể nhiếp phục ta, không thể áp đảo ta, không thể chế ngự ta. Đã khởi lên: đã sanh khởi, đã sanh lên. Bởi vì vị Tỳ khưu gắn bó với đức hạnh có giới hạnh v.v, ngăn giữ là nhiếp phục, chế ngự sự hoan hỷ và sự không hoan hỷ. Vì thế, đức Thế Tôn thuyết giảng rằng vị Tỳ khưu ước muốn cho mình như thế, phải là người gắn bó với đức hạnh có giới hạnh v.v.
Ước Nguyện Thứ 6
chaṭṭhavāre bhayaṃ cittutrāsopi ārammaṇampi. bheravaṃ ārammaṇameva. sesaṃ pañcamavāre vuttanayameva. sīlādiguṇayutto hi bhayabheravaṃ sahati ajjhottharati madditvā tiṭṭhati ariyakoṭiyavāsīmahādattatthero viya.
Sự hoảng hốt của tâm, hay đối tướng gọi là sự khiếp đảm, chính đối tượng đó gọi là sự sợ hãi. Các từ còn lại như cách thức đã nói trong phần thứ năm. Quả thật vị Tỳ khưu gắn bó với đức hạnh có giới hạnh v.v, ngăn giữ là nhiếp phục, chế ngự sự khiếp đảm và sự sợ hãi đó vững trú, tương tự như Trưởng lão Mahādatta ở Tịnh xá Ariyakoṭiya
thero kira maggaṃ paṭipanno aññataraṃ pāsādikaṃ araññaṃ disvā “idhevajja samaṇadhammaṃ katvā gamissāmī”ti maggā okkamma aññatarasmiṃ rukkhamūle saṅghāṭiṃ paññapetvā pallaṅkaṃ ābhujitvā nisīdi. rukkhadevatāya dārakā therassa sīlatejena sakabhāvena saṇṭhātuṃ asakkontā vissaramakaṃsu. devatāpi rukkhaṃ cālesi. thero acalova nisīdi. sā devatā dhūmāyi, pajjali, neva sakkhi theraṃ cāletuṃ, tato upāsakavaṇṇenāgantvā vanditvā aṭṭhāsi. “ko eso”ti vuttā “ahaṃ, bhante, etasmiṃ rukkhe adhivatthā devatā”ti avoca. tvaṃ ete vikāre akāsīti. āma bhanteti. kasmāti ca vuttā āha — “tumhākaṃ, bhante, sīlatejena dārakā sakabhāvena saṇṭhātuṃ asakkontā vissaramakaṃsu, sāhaṃ tumhe palāpetuṃ evamakāsin”ti. thero āha — “atha kasmā idha, bhante, mā vasatha, mayhaṃ aphāsūti paṭikacceva nāvacāsi. idāni pana mā kiñci avaca, ariyakoṭiyamahādatto amanussabhayena gatoti vacanato lajjāmi, tenāhaṃ idheva vasissaṃ, tvaṃ pana ajjekadivasaṃ yattha katthaci vasāhī”ti. evaṃ sīlādiguṇayutto bhayabheravasaho hoti. tasmā īdisamattānaṃ icchantenāpi sīlādiguṇayutteneva bhavitabbanti dasseti.
Kể rằng: vị Trưởng lão đang đi trên đường đã thấy một khu rừng làm nơi vững trú của sự tịnh tín nào đó, vị ấy suy nghĩ như sau: “hôm nay tôi sẽ thực hành Sa-môn pháp ở đây, rồi sẽ đi.” (vị ấy) đi ra khỏi con đường sau khi trải y saṅghāṭi và ngồi kiết già gần một gốc cây nào đó. Những đứa con của chư Thiên ngụ ở cây không thể cư trú theo thực tính riêng của họ, nhờ oai lực giới hạnh của vị Trưởng lão, vì vậy (họ) khóc to lên. Ngay cả chư Thiên cũng đã làm rung chuyển các cây. Vị Trưởng lão ngồi bất động, vị thiên đó làm cho khói bốc lên và khiến ngọn lửa bùng cháy. (Mặc dầu vậy) cũng không thể làm cho Trưởng lão lay chuyển. Sau đó, các vị thiên đã thay đổi hình tướng để trở thành một vị cận sự nam, bước đến đảnh lễ Trưởng lão rồi đứng đó, được Trưởng lão hỏi rằng ‘đó là ai?’ Vị thiên đáp rằng: thưa Ngài, tôi là một vị thần trú ngụ trong cái cây này. Trưởng lão hỏi: Ngươi đã làm điều kỳ lạ đó? Vị thần trả lời: “phải, thưa Ngài”. Tại sao ngươi làm như vậy? Vị ấy trả lời: “Thưa Ngài do nhờ oai lực giới hạnh của Ngài, trẻ em không thể trú ngụ theo điều kiện của chúng, thế là chúng rủ nhau khóc lóc hò hét. Tôi đã làm điều này vì (mong muốn) khiến cho Ngài phải bỏ đi. Trưởng lão hỏi: Nếu là vậy, vì sao ngươi (mong muốn) tôi bỏ đi? Vị thiên trả lời: thưa ngài, xin Ngài đừng ở lại đây, tôi chẳng có chút an lạc nào cả. Trưởng lão nói rằng: Tại sao ngươi không nói với tôi trước? Nhưng bây giờ đừng nói gì cả. Tôi cảm thấy xấu hổ về những lời mà ngươi nói. Trưởng lão Mahādatta đã rời đi, bởi vì lo lắng về phi nhân, cho nên tôi cư trú ở đây chỉ có một ngày mà thôi, Ngài hãy cư trú ở một nơi nào đó (trước đây). Đức Thế Tôn chỉ ra rằng vị Tỳ khưu gắn bó với đức hạnh có giới đức v.v, sẽ là người kham nhẫn từ sự khiếp đảm và sự sợ hãi, cho nên vị Tỳ khưu dầu ước muốn cho mình như vậy, phải là người gắn bó với đức hạnh có giới hạnh v.v.
Ước Nguyện Thứ 7
sattamavāre ābhicetasikānanti abhicetoti abhikkantaṃ visuddhacittaṃ vuccati, adhicittaṃ vā, abhicetasi jātāni ābhicetasikāni, abhiceto sannissitānīti vā ābhicetasikāni. diṭṭhadhammasukhavihārānanti diṭṭhadhamme sukhavihārānaṃ. diṭṭhadhammoti paccakkho attabhāvo vuccati, tattha sukhavihārabhūtānanti attho, rūpāvacarajjhānānametaṃ adhivacanaṃ. tāni hi appetvā nisinnā jhāyino imasmiṃyeva attabhāve asaṃkiliṭṭhaṃ nekkhammasukhaṃ vindanti, tasmā “diṭṭhadhammasukhavihārānī”ti vuccanti. nikāmalābhīti nikāmena lābhī attano icchāvasena lābhī, icchiticchitakkhaṇe samāpajjituṃ samatthoti vuttaṃ hoti. akicchalābhīti sukheneva paccanīkadhamme vikkhambhetvā samāpajjituṃ samatthoti vuttaṃ hoti. akasiralābhīti akasirānaṃ vipulānaṃ lābhī, yathāparicchedeyeva vuṭṭhātuṃ samatthoti vuttaṃ hoti. ekacco hi lābhīyeva hoti, na pana sakkoti icchiticchitakkhaṇe samāpajjituṃ. ekacco sakkoti tathā samāpajjituṃ, pāribandhike pana kicchena vikkhambheti. ekacco tathā samāpajjati, pāribandhike ca akiccheneva vikkhambheti, na sakkoti nāḷikāyantaṃ viya yathāparicchedeyeva ca vuṭṭhātuṃ. yo pana imaṃ tividhampi sampadaṃ icchati, sopi sīlesvevassa paripūrakārīti.
Trong phần thứ bảy, tâm thanh tịnh trong sạch đức Thế Tôn gọi là abhicitta trong từ ābhicetasikānaṃ [được sanh khởi dựa vào tâm thanh tịnh cao thượng], hơn nữa tâm cao thượng Ngài gọi là abhicitta, các thiền sanh khởi trong abhicitta gọi là abhicetasika [dựa vào tâm thanh tịnh]. Lại nữa, các thiền y cứ abhicitta, cho nên các thiền đó gọi là ābhicetasika. hiện tại lạc trú: việc sống an lạc ngay trong hiện tại. Bản ngã nhìn thấy được rõ ràng gọi là diṭṭhadhamma [ngay trong hiện tại], tức là việc sống được an lạc ngay trong hiện tại. hiện tại lạc trú: là tên gọi của thiền sắc giới. Sự thật, các hành giả ngồi chăm chú (đề mục) thiền vũng chắc, cảm nghiệm (cảm giác) đối với lạc của sự xuất ly không uế nhiễm trong bản ngã này, bởi thế những hành giả đó Ngài gọi là vị sống an lạc ngay trong hiện tại. Đạt được theo sự ước muốn: là người đạt được theo sự mong muốn, là người đạt được theo sự ước muốn của chính mình. có lời giải thích rằng: là người có thể khi nhập thiền trong lúc mà vị ấy mong muốn. Không khó khăn: có lời giải thích rằng là người có thể chế ngự các pháp đối nghịch rồi nhập thiền một cách thuận lợi. Không khổ sở: là người đạt được không khó khăn, thuận tiện. giải thích rằng là người có thể xuất thiền trong thời gian quy định. Quả thật, một số vị Tỳ khưu đắc thiền nhưng không thể nhập thiền được trong thời gian mà bản thân mong muốn; một số có thể nhập thiền trong thời gian mà bản thân mong muốn, nhưng rất khó khăn trong việc chế ngự các pháp đối nghịch; một số vị nhập thiền trong lúc bản thân mong muốn và chế ngự các pháp đối nghịch không khó khăn, nhưng không thể xuất thiền trong thời gian mà bản thân xác định, cũng giống như cái đồng hồ. Người nào ước muốn đạt được ba điều này, người đó phải thực hành viên mãn các giới.
Ước Nguyện Thứ 8
evaṃ abhiññāpādake jhāne vutte kiñcāpi abhiññānaṃ vāro āgato, atha kho naṃ bhagavā aggahetvāva yasmā na kevalaṃ abhiññāpādakajjhānāni ca abhiññāyoyeva ca sīlānaṃ ānisaṃso, apica kho cattāri āruppajhānānipi tayo ca heṭṭhimā ariyamaggā, tasmā taṃ sabbaṃ pariyādiyitvā dassetuṃ ākaṅkheyya ce … pe … ye te santāti evamādimāha.
Như vậy, khi đức Thế Tôn nói về thiền làm nền tảng của thắng trí, đã đi đến phần của thắng trí, mặc dù vậy đức Thế Tôn cũng không nắm lấy thắng trí đó nhằm mục đích kết hợp trình bày tất cả Pháp đó, bởi không chỉ Thiền làm nền tảng của thắng trí và chỉ riêng thắng trí đó là lợi ích của giới, bốn thiền vô sắc và ba Thánh Đạo thấp cũng là lợi ích của giới tương tự, cho nên mới nói rằng: “nếu Tỳ khưu có thể ước nguyện…an trú trong những sự giải thoát an tịnh”.
tattha santāti aṅgasantatāya ceva ārammaṇasantatāya ca. vimokkhāti paccanīkadhammehi vimuttattā ārammaṇe ca adhimuttattā. atikkamma rūpeti rūpāvacarajjhāne atikkamitvā, ye te vimokkhā atikkamma rūpe santāti padasambandho, itarathā hi atikkamma rūpe kiṃ karotīti na paññāyeyyuṃ. āruppāti ārammaṇato ca vipākato ca rūpavirahitā. kāyena phusitvāti nāmakāyena phusitvā pāpuṇitvā, adhigantvāti vuttaṃ hoti. sesaṃ vuttānameva. idaṃ vuttaṃ hoti “yopi bhikkhu ime vimokkhe phusitvā viharitukāmo, sopi sīlesvevassa paripūrakārī”ti.
Ở đây, An tịnh: các sự giải thoát gọi là pháp an tịnh bởi có chi pháp an tịnh và có đối tượng an tượng an tịnh. Sự giải thoát: các sự giải thoát gọi là an tịnh bởi thoát khỏi các pháp đối nghịch và bởi hướng tâm đến đối tượng. Sau khi vượt qua trong thiền sắc giới: vượt qua khỏi thiền sắc giới, liên kết từ sự giải thoát gọi là sự an tịnh bởi vượt qua thiền sắc giới như vậy. Quả thât, khi nói theo cách khác, các sự giải thoát vượt khỏi thiền sắc giới, nó sẽ không xuất hiện để thực hiện bất cứ điều gì nữa. Thiền vô sắc giới: loại trừ thiền sắc giới lẫn đối tượng và quả (thiền sắc giới). Đã được xúc chạm với thân: đã xúc chạm với danh thân, nghĩa là đã đạt được, đã vượt qua. Từ còn lại có ý nghĩa rõ ràng rồi. Có lời giải thích được Ngài nói rằng vị Tỳ khưu nào ước muốn được xúc chạm trong sự giải thoát, vị Tỳ khưu đó cần phải là người thực hiện tròn đủ các giới.”
Ước Nguyện Thứ 9
- navamavāre tiṇṇaṃ saṃyojanānanti sakkāyadiṭṭhi vicikicchā sīlabbataparāmāsa saṅkhātānaṃ tiṇṇaṃ bandhanānaṃ. tāni hi saṃyojenti khandhagatibhavādīhi khandhagatibhavādayo, kammaṃ vā phalena, tasmā saṃyojanānīti vuccanti, bandhanānīti attho. parikkhayāti parikkhayena. sotāpannoti sotaṃ āpanno. sototi ca maggassetaṃ adhivacanaṃ. sotāpannoti taṃsamaṅgipuggalassa. yathāha “soto sototi hidaṃ, sāriputta, vuccati. katamo nu kho, sāriputta, sototi? ayameva hi, bhante, ariyo aṭṭhaṅgiko maggo. seyyathidaṃ, sammādiṭṭhi … pe … sammāsamādhīti. sotāpanno sotāpannoti hidaṃ, sāriputta, vuccati. katamo nu kho, sāriputta, sotāpannoti? yo hi, bhante, iminā aṭṭhaṅgikena maggena samannāgato, ayaṃ vuccati sotāpanno, yoyaṃ āyasmā evaṃnāmo evaṃgotto”ti. idha pana maggena phalassa nāmaṃ dinnaṃ, tasmā phalaṭṭho “sotāpanno”ti veditabbo. avinipātadhammoti vinipātetīti vinipāto, nāssa vinipāto dhammoti avinipātadhammo, na attānaṃ apāye vinipātasabhāvoti vuttaṃ hoti. kasmā? ye dhammā apāyagamaniyā, tesaṃ pahīnattā. sambodhi paraṃ ayanaṃ gati assāti sambodhiparāyaṇo, uparimaggattayaṃ avassaṃ sampāpakoti P.1.163 attho. kasmā? paṭiladdhapaṭhamamaggattā. sīlesvevāti īdiso hotukāmopi sīlesvevassa paripūraṇārīti.
Trong phần thứ chín, của ba kiết sử là thân kiến, hoài nghi, giới cấm thủ. Quả thật, các kiết sử/sự trói buộc đó phối hợp uẩn, sanh thú và các cõi v.v, với uẩn, sanh thú và các cõi v.v, lại nữa phối hợp nghiệp với quả. Do đó, sự trói buộc đó Ngài gọi là kiết sử, tức là (sợi dây) trói chặt (chúng sanh). Sự trừ diệt: do việc diệt trừ hoàn toàn. Thánh Nhập Lưu [sotāpanno]: vị đã nhập vào dòng chảy. Sotā là tên gọi của Đạo. Thánh Nhập Lưu: là tên gọi của hạng người đạt đến sự thành tựu bởi Đạo đó. Giống như đức Thế Tôn thuyết rằng: “Này Sārīputta, Ta nói rằng dòng chảy, dòng chảy như vậy, này Sārīputta, dòng chảy gồm những gì? bao gồm Thánh Đạo 8 chi phần là chánh kiến, chánh tư duy -nt- chánh định. Này Sārīputta, điều mà Ta nói rằng Thánh Nhập Lưu, Thánh Nhập Lưu, này Sārīputta, vị Thánh Nhập Lưu là hạng người như thế nào? trưởng lão Sārīputta đáp rằng: Thưa Ngài, hạng người thành tựu với Đạo tám chi phần này, đức Thế Tôn gọi là bậc Thánh Nhập Lưu đó có tên như vậy, có dòng tộc như vậy.” Nhưng ở đây, Quả được tên gọi theo Đạo, do vậy hạng người vững trú trong Quả nên hiểu rằng là Thánh Nhập Lưu. Không còn pháp bị đọa: có phân tích rằng pháp được gọi là đọa xứ bởi ý nghĩa làm cho chúng sanh bị rơi vào khổ cảnh. Gọi là ‘không còn pháp bị đọa’ bởi là pháp không làm cho chúng sanh rơi vào khổ cảnh. Giải thích là pháp có thực tính không làm cho bản thân rơi vào các khổ cảnh. Tại sao? bởi vì các pháp làm cho chúng sanh rơi vào khổ cảnh đó Ngài đã dứt trừ rồi. trí tuệ là phương tiện để giác ngộ, đi về phía trước, là hướng đi của vị Thánh Nhập Lưu, cho nên Ngài gọi là có trí tuệ là phương tiện để giác ngộ. ‘Đi về phía trước’ có nghĩa là vị ấy chắc chắn sẽ chứng đắc ba Đạo cao. Tại sao? Bởi vì vị ấy đã chứng đắc Nhập Lưu Thánh Đạo rồi. Trong giới: vị Tỳ khưu mong muốn cho mình như vậy, cần phải là người thực hành viên mãn trong các giới.
Ước Nguyện Thứ 10
dasamavāre paṭhamamaggena parikkhīṇānipi tīṇi saṃyojanāni sakadāgāmimaggassa vaṇṇabhaṇanatthaṃ vuttāni. rāgadosamohānaṃ tanuttāti etesaṃ tanubhāvena, tanuttakaraṇenāti vuttaṃ hoti. tattha dvīhi kāraṇehi tanuttaṃ veditabbaṃ adhiccuppattiyā ca pariyuṭṭhānamandatāya ca. sakadāgāmissa hi vaṭṭānusārimahājanasseva kilesā abhiṇhaṃ na uppajjanti, kadāci karahaci uppajjanti viraḷākārā hutvā, viraḷavāpite khette aṅkurā viya. uppajjamānāpi ca vaṭṭānusārimahājanasseva maddantā pharantā chādentā andhakāraṃ karontā na uppajjanti, mandamandā uppajjanti tanukākārā hutvā, abbhapaṭalamiva makkhikāpattamiva ca.
Trong phần thứ mười, ba hạ phần kiết sử mà hành giả đã đoạn trừ bằng Nhập Lưu Thánh Đạo, Ngài cũng nói vì lợi ích của việc giảng giải Nhất Lai Thánh Đạo. Làm giảm nhẹ tham-sân-si: với bản chất giảm nhẹ thực tính tham-sân-si đó, tức là làm cho tham-sân-si đó suy giảm. Ở đó, nên biết rằng trạng thái giảm nhẹ do hai nguyên nhân là do sanh khởi ngẫu nhiên và sự bộc phát của phiền não có năng lực yếu. Bởi vậy, tất cả phiền não không thường sanh lên nơi vị Thánh Nhất Lai, tương tự như khởi lên cùng đại chúng, người trôi lăn trong vòng luân hồi, (phiền não) đôi lúc thỉnh thoảng sanh lên, giống như gieo mạ trong ruộng được trồng xen kẽ (xa), và ngay cả khi phát triển, không phát triển chồng lên nhau, tràn lan ra, bao phủ và gây ra sự tối tăm, giống như được sinh ra cho đa số người luân chuyển trong vong sanh tử luân hồi, sanh khởi hóa nhẹ nhàng là trạng thái tự nhiên mỏng manh giống như một lớp sương mù (mỏng nhẹ theo tuần tự thứ lớp) và giống như loài côn trùng đến chạm vào cánh hoa (không làm dập cánh hoa).
tattha keci therā bhaṇanti “sakadāgāmissa kilesā kiñcāpi cirena uppajjanti, bahalāva uppajjanti, tathā hissa puttā ca dhītaro ca dissantī”ti, etaṃ pana appamāṇaṃ. puttadhītaro hi aṅgapaccaṅgaparāmasanamattenapi hontīti. dvīhiyeva kāraṇehissa kilesānaṃ tanuttaṃ veditabbaṃ adhiccuppattiyā ca pariyuṭṭhānamandatāya cāti.
Ở đó, một số Trưởng lão nói rằng các phiền não trong một thời gian dài sanh khởi với Thánh Nhất Lai. Mặc dù vậy (phiền não) cũng khởi lên dày đặc, bởi vì các vị ấy vẫn còn có các con trai con gái.” Nhưng điều đó không thể ước chừng. Vì các con trai con gái đôi khi sanh ra có cùng cha mẹ chỉ để yêu thương âu yếm các chi phần lớn nhỏ. Do đó, nên biết rằng phiền não của vị Thánh Nhất Lai có tính chất giảm nhẹ chỉ vì hai lý do là bởi vì (phiền não) thỉnh thoảng sanh lên và bởi vì sự bộc phát phiền não của Ngài đã giảm nhẹ.
sakadāgāmīti sakiṃ āgamanadhammo. sakideva imaṃ lokaṃ āgantvāti ekavāraṃyeva imaṃ manussalokaṃ paṭisandhivasena āgantvā. yopi hi idha sakadāgāmimaggaṃ bhāvetvā idheva parinibbāti, sopi idha na gahito. yopi idha maggaṃ bhāvetvā devesu upapajjitvā tattheva parinibbāti. yopi devaloke maggaṃ bhāvetvā tattheva parinibbāti. yopi devaloke maggaṃ bhāvetvā idheva manussaloke nibbattitvā parinibbāti. yo pana idha maggaṃ bhāvetvā devaloke nibbatto, tattha yāvatāyukaṃ ṭhatvā puna idheva upapajjitvā parinibbāti, ayamidha gahitoti veditabbo. dukkhassantaṃ kareyyanti vaṭṭadukkhassa paricchedaṃ kareyyaṃ. sīlesvevāti īdiso hotukāmopi sīlesvevassa paripūrakārīti.
Thánh Nhất Lai có nghĩa là người chỉ quay trở lại cõi đời này một lần là bản chất. Trở lại cõi đời này chỉ một lần: quay trở lại cõi đời này một lần duy nhất với mãnh lực của sự tái tục. Ngay cả khi người nào đã tu tập (chứng đắc) Nhất Lại Thánh Đạo (sẽ) tịch diệt Niết bàn trong cõi đời này, ngay cả người đó cũng không được liệt kê ở đây. Ngay cả khi người nào đã tu tập trong thế giới này tái sanh trong cõi trời rồi tịch diệt Niết bàn trong cõi trời đó, người đó cũng không được liệt kê ở đây. Người nào đã tu tập Đạo trong thế giới chư thiên rồi trở lại tái sanh sau đó tịch diệt Niết bàn trong thế giới loài người này, người đó cũng không được liệt kê ở chỗ này. Thậm chí người nào đã tu tập trong thế giới này rồi tái sanh trong thế giới chư thiên, an trú trong thế giới đó cho đến hết tuổi thọ, sau đó tái sanh lại trong thế giới loài người đó một lần nữa, người này nên biết rằng là người mà Ngài muốn nói đến ở đây. Ta phải làm chấm dứt khổ đau: ta cần phải làm việc xác định vòng luân hồi khổ. Trong giới: vị Tỳ khưu thậm chí là người mong muốn cho bản thân như vậy, phải là người thực hành cho trọn vẹn các giới.
Ước Nguyện Thứ 11
ekādasamavāre pañcannanti gaṇanaparicchedo. orambhāgiyānanti oraṃ vuccati heṭṭhā, heṭṭhābhāgiyānanti attho, kāmāvacaraloke uppattipaccayānanti adhippāyo. saṃyojanānanti bandhanānaṃ, tāni kāmarāgabyāpādasaṃyojanehi saddhiṃ pubbe vuttasaṃyojanāneva veditabbāni. yassa hi etāni appahīnāni, so kiñcāpi bhavagge uppanno hoti, atha kho āyuparikkhayā kāmāvacare nibbattatiyeva, gilitabalisamacchūpamo svāyaṃ puggalo dīghasuttakena pāde baddhavihaṅgūpamo cāti veditabbo. pubbe vuttānampi cettha vacanaṃ vaṇṇabhaṇanatthamevāti veditabbaṃ. opapātikoti sesayonipaṭikkhepavacanametaṃ. tatthaparinibbāyīti tattheva brahmaloke parinibbāyī. anāvattidhammo tasmā lokāti tato brahmalokā paṭisandhivasena puna anāvattisabhāvo. sīlesvevāti īdiso hotukāmopi sīlesvevassa paripūrakārīti.
Trong phần thứ mười một, năm phần là việc xác định với việc tính đếm. Hạ phần kiết sử: ở phía dưới Ngài gọi là hạ phần, là phần ở phía dưới. Tức là sự sanh khởi trong thế giới ở phía Dục giới làm duyên. Của các kiết sử gồm phiền não trói buộc, phiền não trói buộc đó nên biết rằng gồm các kiết sử mà Ngài đã nói ở phần trước đó (là thân kiến, hoài nghi, giới cấm thủ), cùng với các kiết sử là dục ái và sân hận. Vì các kiết sử đó người nào vẫn chưa dứt trừ được người đó sẽ tái sanh trong cõi phạm thiên hữu đảnh [bhavaggabrahma] mặc dù vậy họ cũng sẽ tái sanh trở lại trong cõi dục giới nữa khi hết tuổi thọ, hạng người này nên biết rằng cũng giống như con cá bị mắc câu, và cũng được so sánh giống như con chim bị sợi dây cao su cột chặt ở chân. Do đó, trong trường hợp này nên biết rằng Ngài nói lời này nhằm mục đích giải thích bậc Thánh Nhân mà Ngài đã nói từ trước. Chúng sanh hóa sanh: đây là lời nói khước từ các cách sanh còn lại. Viên tịch tại đó: Viên tịch ở chính Phạm thiên giới. Vì thế có pháp tánh không trở lại thế gian: Không quay trở lại Phạm thiên giới đó với mãnh lực (của tâm) tái tục là thực tính. Trong giới: vị Tỳ khưu thậm chí mong muốn như vậy, cần phải thực hành viên mãn các giới.
Ước Nguyện Thứ 12
- evaṃ anāgāmimagge vutte kiñcāpi catutthamaggassa vāro āgato, atha kho naṃ bhagavā aggahetvāva yasmā na kevalā āsavakkhayābhiññā eva sīlānaṃ ānisaṃso, apica kho lokiyapañcābhiññāyopi, tasmā tāpi dassetuṃ, yasmā ca āsavakkhaye kathite desanā niṭṭhitā hoti, evañca sati imesaṃ guṇānaṃ akathitattā ayaṃ kathā muṇḍābhiññākathā nāma bhaveyya, tasmā ca abhiññāpāripūriṃ katvā dassetumpi, yasmā ca anāgāmimagge ṭhitassa sukhena iddhivikuppanā ijjhati, samādhiparibandhānaṃ kāmarāgabyāpādānaṃ samūhatattā, anāgāmī hi sīlesu ca samādhimhi ca paripūrakārī, tasmā yuttaṭṭhāneyeva lokiyābhiññāyo dassetumpi “ākaṅkheyya ce … pe … anekavihitan”ti evamādimāhāti ayamanusandhi.
[68] Như vậy sau khi đức Thế Tôn thuyết giảng về Thánh Bất Lai Đạo, đến phần của Đạo thứ 4, tuy nhiên đức Thế Tôn không nắm lấy A-ra-hán Đạo đó bởi không chỉ thắng trí là việc chấm dứt của các lậu là lợi ích duy nhất của giới, mà năm thắng trí Hiệp thế (cũng là lợi ích của giới tương tự). Do đó, khi thuyết giảng về những thắng trí đó và khi Ngài thuyết về việc chấm dứt các lậu hoặc, sự thuyết giảng cũng kết thúc, nếu như vậy việc thuyết giảng này nên gọi là nói đến thắng trí thuần túy, bởi vì vẫn chưa nói đến ân đức của thắng trí. Vì thế, khi thuyết về thắng trí một cách trọn vẹn và bởi việc thể hiện thắng trí hoàn hảo của hạng người vững trú trong Bất Lai Đạo dễ dàng và vị Thánh Bất Lai cũng là vị thực hành viên mãn trong các giới và định, do Ngài đã nhổ bỏ được dục ái và sân hận là kẻ thù nghịch của định. Cho nên, để thuyết giảng các thắng trí Hiệp thế ở vị trí phù hợp, đức Thế Tôn đã thuyết rằng: “Này các Tỳ khưu, nếu Tỳ khưu có ước nguyện: Mong rằng ta chứng được các thắng trí!” đây là sự liên kết.
tattha “anekavihitaṃ iddhividhan”tiādinā nayena āgatānaṃ pañcannampi lokiyābhiññānaṃ pāḷivaṇṇanā saddhiṃ bhāvanānayena visuddhimagge vuttā.
Ở đây, việc giải thích Pāḷi của cả 5 loại thắng trí Hiệp thế bằng cách thức như sau: “Mong rằng ta chứng được các loại thần thông!” trong câu Pāḷi đó, Ngài đã nói rồi trong bộ Thanh Tịnh Đạo, cũng với phương pháp làm cho thắng trí sanh khởi.
Ước Nguyện Thứ 17
- chaṭṭhābhiññāya āsavānaṃ khayāti arahattamaggena sabbakilesānaṃ khayā. anāsavanti āsavavirahitaṃ. cetovimuttiṃ paññāvimuttinti ettha cetovacanena arahattaphalasampayuttova samādhi, paññāvacanena taṃsampayuttā paññāva vuttā. tattha ca samādhi rāgato vimuttattā cetovimutti, paññā avijjāya vimuttattā paññāvimuttīti veditabbā. vuttañcetaṃ bhagavatā “yo hissa, bhikkhave, samādhi, tadassa samādhindriyaṃ. yā hissa, bhikkhave, paññā, tadassa paññindriyaṃ. iti kho, bhikkhave P.1.165, rāgavirāgā cetovimutti, avijjāvirāgā paññāvimuttī”ti, apicettha samathaphalaṃ cetovimutti, vipassanāphalaṃ paññāvimuttīti veditabbā.
Thắng trí thứ 6, do các lậu hoặc đã cạn kiệt: nghĩa là do cạn kiệt tất cả phiền não bằng A-ra-hán Đạo. Với sự diệt trừ các lậu hoặc: trống rỗng các lậu hoặc. Sự giải thoát của tâm, sự giải thoát của tuệ này định tương ưng với A-ra-hán Quả, Ngài đã nói bằng từ ceto (tâm), và tuệ đồng sanh với A-ra-hán Đạo, Ngài đã nói bằng từ paññā (tuệ). Trong định và tuệ đó, định nên biết rằng được gọi là sự giải thoát của tâm do bởi thoát khỏi ái luyến, tuệ nên biết rằng gọi là sự giải thoát của tuệ do bởi thoát khỏi vô minh. Tóm lại như lời đức Thế Tôn thuyết rằng: “này chư Tỳ khưu định nào nên có, định đó phải là định quyền; này chư Tỳ khưu, tuệ nào nên có, tuệ có phải là tuệ quyền; này chư Tỳ khưu gọi là sự giải thoát của tâm do không còn luyến ái; gọi là sự giải thoát của tuệ do không còn vô minh.” Và lại nữa, nên biết rằng: “Quả của chỉ tịnh là sự giải thoát của tâm, Quả của minh sát là sự giải thoát của tuệ.”
diṭṭheva dhammeti imasmiṃyeva attabhāve. sayaṃ abhiññā sacchikatvāti attanoyeva paññāya paccakkhaṃ katvā, aparapaccayena ñatvāti attho. upasampajja vihareyyanti pāpuṇitvā sampādetvā vihareyyaṃ. sīlesvevāti evaṃ sabbāsave niddhunitvā cetovimuttiṃ paññāvimuttiṃ adhigantukāmopi sīlesvevassa paripūrakārīti.
Ngay trong hiện tại: ngay chính trong tự ngã này. Sau khi tác chứng với thắng trí: thực hiện cho rõ ràng nhờ tuệ với chính mình, tức là đã biết không có người khác làm duyên. Sau khi chứng đạt hãy an trú: đã chứng đắc, đã thành tựu (ta) hãy sống. Trong giới: vị Tỳ khưu mong muốn các lậu hoặc ấy đi đến sự diệt tận này, chứng đắc sự giải thoát của tâm và sự giải thoát của tuệ, cần phải là người thực hành cho viên mãn trong các giới.
evaṃ bhagavā sīlānisaṃsakathaṃ yāva arahattā kathetvā idāni sabbampi taṃ sīlānisaṃsaṃ sampiṇḍetvā dassento nigamanaṃ āha “sampannasīlā, bhikkhave … pe … idametaṃ paṭicca vuttan”ti. tassāyaṃ saṅkhepattho, “sampannasīlā, bhikkhave, viharatha … pe … samādāya sikkhatha sikkhāpadesū”ti iti yaṃ taṃ mayā pubbe evaṃ vuttaṃ, idaṃ sabbampi sampannasīlo bhikkhu sabrahmacārīnaṃ piyo hoti manāpo, garu bhāvanīyo paccayānaṃ lābhī, paccayadāyakānaṃ mahapphalakaro, pubbañātīnaṃ anussaraṇacetanāya phalamahattakaro, aratiratisaho, bhayabheravasaho, rūpāvacarajjhānānaṃ arūpāvacarajjhānānañca lābhī, heṭṭhimāni tīṇi sāmaññaphalāni pañca lokiyābhiññā āsavakkhayañāṇanti ca ime ca guṇe sayaṃ abhiññā sacchikattā hoti, etaṃ paṭicca idaṃ sandhāya vuttanti. idamavoca bhagavā, attamanā te bhikkhu bhagavato bhāsitaṃ abhinandunti.
Như vậy, sau khi đức Thế Tôn thuyết lời giải thích lợi ích của giới cho đến A-ra-hán, khi kết hợp chỉ rõ lợi ích của tất cả giới đó, Ngài đã nói lên lời kết luận rằng: “Này các Tỳ khưu, các ông hãy là người sống có giới hạnh trọn vẹn -nt- chính duyên ở đây mà nói vậy.” Lời kết luận này có ý nghĩa tóm lược như sau: “Lời mà Ta đã nói, này các Tỳ khưu các ông hãy là người sống có giới hạnh trọn vẹn -nt- trong tất cả các học giới.” nghĩa là lời nào Như Lai đã nói như vậy trong thời gian trước, tất cả lời đó Như Lai đã nói cụ thể, vị Tỳ khưu người thành tựu viên mãn giới hạnh là nơi thương mến, là nơi ưa thích, là nơi cung kính của các bạn đồng Phạm hạnh, là người có được các món vật dụng, là người làm cho người cúng dường các món vật dụng có quả lớn, là người thực hiện tác ý là việc tưởng nhớ đến thân bằng quyến thuộc cho được quả lớn, là người kham nhẫn từ sự khiếp đảm và sự sợ hãi, là người đạt được thiền sắc giới và thiền vô sắc giới, là người tác chứng ba quả vị của Sa-môn cấp thấp, 5 thắng trí Hiếp thế, trí diệt tận các lậu hoặc bởi thắng trí nhờ vào chính mình. Sau khi đức Thế Tôn thuyết giảng lời này các Tỳ khưu hoan hỷ tính thọ lời dạy của đức Thế Tôn.
Giải Thích Kinh Ước Nguyện Kết Thúc