10- CHƯƠNG 10 : CHƯƠNG KOSAMBĪ

Tạng Luật
Vinaya Pitaka

Đại Phẩm
Mahāvagga

Tỳ-khưu Indacanda Nguyệt Thiên dịch

________________________________

X. CHƯƠNG KOSAMBĪ
(KOSAMBIKKHANDHAKAṂ)

[238] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại Kosambī, tu viện Ghosita. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ phạm tội. Vị ấy có quan điểm về tội ấy là có tội còn các tỳ khưu khác có quan điểm về tội ấy là vô tội. Vào một lúc khác, vị ấy có quan điểm về tội ấy là vô tội còn các tỳ khưu khác có quan điểm về tội ấy là có tội. Khi ấy, các vị tỳ khưu ấy đã nói với vị tỳ khưu ấy điều này:

– Này đại đức, đại đức đã phạm tội, đại đức có thấy tội ấy không?

– Này các đại đức, không có tội gì ở tôi để tôi có thể thấy.

Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã đạt được sự hợp nhất và phạt án treo vị tỳ khưu ấy trong việc không nhìn nhận tội. Và vị tỳ khưu ấy là vị nghe nhiều, kinh điển được truyền thừa, rành rẽ về Pháp, rành rẽ về Luật, rành rẽ về các đầu đề, là bậc trí tuệ, có khả năng, thông minh, khiêm nhường, có hối hận, ưa thích sự học tập. Khi ấy, vị tỳ khưu ấy đã đi đến gặp các tỳ khưu thân thiết đồng quan điểm và đã nói điều này:

– Này các đại đức, điều ấy là vô tội, điều ấy không phải là tội. Tôi là không phạm (tội), tôi không phải là phạm (tội). Tôi là không bị án treo, tôi không phải là bị án treo, tôi đã bị án treo bởi hành sự sai Pháp, có thể sửa đổi, không đáng duy trì. Vì Pháp vì Luật, các đại đức hãy về phe của tôi.

Rồi vị tỳ khưu ấy đã có được các tỳ khưu thân thiết đồng quan điểm về cùng phe. Vị ấy cũng đã phái sứ giả đến gặp các vị tỳ khưu thân thiết đồng quan điểm trong cả nước (nói rằng): “Này các đại đức, điều ấy là vô tội, điều ấy không phải là tội. Tôi là không phạm (tội), tôi không phải là phạm (tội). Tôi là không bị án treo, tôi không phải là bị án treo, tôi đã bị án treo bởi hành sự sai Pháp, có thể sửa đổi, không đáng duy trì. Vì Pháp vì Luật, các đại đức hãy về phe của tôi.” Rồi vị tỳ khưu ấy đã có được các vị tỳ khưu thân thiết đồng quan điểm trong cả nước về cùng phe.

Sau đó, các tỳ khưu ủng hộ vị bị án treo ấy đã đi đến gặp các tỳ khưu đã ban án treo, sau khi đến đã nói với các tỳ khưu đã ban án treo điều này:

– Này các đại đức, điều ấy là vô tội, điều ấy không phải là tội. Vị tỳ khưu ấy là không phạm (tội), vị tỳ khưu ấy không phải là phạm (tội). Vị tỳ khưu ấy là không bị án treo, vị tỳ khưu ấy không phải là bị án treo, vị tỳ khưu ấy đã bị án treo bởi hành sự sai Pháp, có thể sửa đổi, không đáng duy trì.

Khi được nói như thế, các tỳ khưu đã ban án treo đã nói với các tỳ khưu ủng hộ vị bị án treo điều này:

– Điều ấy là có tội, điều ấy không phải là vô tội. Vị tỳ khưu ấy là phạm (tội), vị tỳ khưu ấy không phải là không phạm (tội). Vị tỳ khưu ấy đã bị án treo, vị tỳ khưu ấy không phải là không bị án treo, vị tỳ khưu ấy đã bị án treo bằng hành sự đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy trì. Này các đại đức, chớ có ủng hộ, chớ có theo phe vị tỳ khưu đã bị án treo ấy.

Trong khi các tỳ khưu đã ban án treo nói như thế, các tỳ khưu ủng hộ vị bị án treo ấy cũng đã ủng hộ và đã theo phe vị tỳ khưu đã bị án treo ấy y như trước đây.

[239] Sau đó, có vị tỳ khưu nọ đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, vị tỳ khưu ấy đã nói với đức Thế Tôn điều này:

– Bạch ngài, trường hợp có vị tỳ khưu nọ đã phạm tội, vị ấy đã có quan điểm về tội ấy là có tội còn các vị tỳ khưu khác đã có quan điểm về tội ấy là vô tội. Vào một lúc khác, vị ấy đã có quan điểm về tội ấy là vô tội còn các vị tỳ khưu khác đã có quan điểm về tội ấy là có tội. Bạch ngài, khi ấy các vị tỳ khưu ấy đã nói với vị tỳ khưu ấy điều này: “Này đại đức, đại đức đã phạm tội, đại đức có thấy tội ấy không?” “Này các đại đức, không có tội gì ở tôi để tôi có thể thấy.” Bạch ngài, sau đó các vị tỳ khưu ấy đã đạt được sự hợp nhất và đã phạt án treo vị tỳ khưu ấy trong việc không nhìn nhận tội. Và bạch ngài, vị tỳ khưu ấy là vị nghe nhiều, kinh điển được truyền thừa, rành rẽ về Pháp, rành rẽ về Luật, rành rẽ về các đầu đề, là bậc trí tuệ, có khả năng, thông minh, khiêm nhường, có hối hận, ưa thích sự học tập. Bạch ngài, khi ấy vị tỳ khưu ấy đã đi đến gặp các tỳ khưu thân thiết đồng quan điểm và đã nói điều này: “Này các đại đức, điều ấy là vô tội, điều ấy không phải là tội. Tôi là không phạm (tội), tôi không phải là phạm (tội). Tôi là không bị án treo, tôi không phải là bị án treo, tôi đã bị án treo bởi hành sự sai Pháp, có thể sửa đổi, không đáng duy trì. Vì Pháp vì Luật, các đại đức hãy về phe của tôi.” Bạch ngài, rồi vị tỳ khưu ấy đã có được các tỳ khưu thân thiết đồng quan điểm về cùng phe. Vị ấy cũng đã phái sứ giả đến gặp trực tiếp các tỳ khưu thân thiết đồng quan điểm trong cả nước (nói rằng): “Này các đại đức, điều ấy là vô tội, điều ấy không phải là tội. Tôi là không phạm (tội), tôi không phải là phạm (tội). Tôi là không bị án treo, tôi không phải là bị án treo, tôi đã bị án treo bởi hành sự sai Pháp, có thể sửa đổi, không đáng duy trì. Vì Pháp vì Luật, các đại đức hãy về phe của tôi.” Bạch ngài, rồi vị tỳ khưu ấy đã có được các tỳ khưu thân thiết đồng quan điểm trong cả nước về cùng phe. Bạch ngài, sau đó các tỳ khưu ủng hộ vị bị án treo ấy đã đi đến gặp các tỳ khưu đã ban án treo, sau khi đến đã nói với các tỳ khưu đã ban án treo điều này: “Này các đại đức, điều ấy là vô tội, điều ấy không phải là tội. Vị tỳ khưu ấy là không phạm (tội), vị tỳ khưu ấy không phải là phạm (tội). Vị tỳ khưu ấy là không bị án treo, vị tỳ khưu ấy không phải là bị án treo, vị tỳ khưu ấy đã bị án treo bởi hành sự sai Pháp, có thể sửa đổi, không đáng duy trì.” Bạch ngài, khi được nói như thế các tỳ khưu đã ban án treo đã nói với các tỳ khưu ủng hộ vị bị án treo điều này: “Điều ấy là có tội, điều ấy không phải là vô tội. Vị tỳ khưu ấy là phạm (tội), vị tỳ khưu ấy không phải là không phạm (tội). Vị tỳ khưu ấy đã bị án treo, vị tỳ khưu ấy không phải là không bị án treo, vị tỳ khưu ấy đã bị án treo bằng hành sự đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy trì. Này các đại đức, chớ có ủng hộ, chớ có theo phe vị tỳ khưu đã bị án treo ấy.” Bạch ngài, trong khi các tỳ khưu đã ban án treo nói như thế, các tỳ khưu ủng hộ vị bị án treo ấy cũng đã ủng hộ và đã theo phe vị tỳ khưu đã bị án treo y như trước đây.

Khi ấy, đức Thế Tôn (nghĩ rằng): “Hội chúng tỳ khưu đã bị chia rẽ! Hội chúng tỳ khưu đã bị chia rẽ!” rồi đã từ chỗ ngồi đứng dậy đi đến gặp các vị tỳ khưu đã ban án treo, sau khi đến đã ngồi xuống trên chỗ ngồi được sắp đặt sẵn. Sau khi ngồi xuống, đức Thế Tôn đã nói với các vị tỳ khưu đã ban án treo điều này:

– Này các tỳ khưu, các ngươi chớ có nghĩ rằng vị tỳ khưu nên được ban án treo trong mọi trường hợp (lập luận rằng): “Đối với chúng tôi, điều ấy là rõ ràng! Đối với chúng tôi, điều ấy là rõ ràng!” Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm tội, vị ấy có quan điểm về tội ấy là vô tội còn các tỳ khưu khác có quan điểm về tội ấy là có tội. Này các tỳ khưu, nếu các tỳ khưu ấy nghĩ về vị tỳ khưu ấy như vầy: “Vị đại đức này là vị nghe nhiều, …(như trên)…, là vị ưa thích sự học tập. Nếu chúng ta sẽ ban án treo trong việc không nhìn nhận tội cho vị tỳ khưu này, chúng ta sẽ không thực hành lễ Uposatha (Bố Tát) với vị tỳ khưu này, chúng ta sẽ thực hành lễ Uposatha không có vị tỳ khưu này; từ nguyên nhân ấy, hội chúng sẽ có sự xung đột, sự cãi cọ, sự lý luận, sự tranh luận, sự chia rẽ hội chúng, sự bất đồng trong hội chúng, sự đấu khẩu trong hội chúng, sự khác biệt trong hội chúng.” Này các tỳ khưu, các tỳ khưu có quan tâm về sự chia rẽ không nên ban án treo trong việc không nhìn nhận tội đến vị tỳ khưu ấy.

Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm tội, vị ấy có quan điểm về tội ấy là vô tội còn các tỳ khưu khác có quan điểm về tội ấy là có tội. Này các tỳ khưu, nếu các tỳ khưu ấy nghĩ về vị tỳ khưu ấy như vầy: “Vị đại đức này là vị nghe nhiều, …(như trên)…, là vị ưa thích sự học tập. Nếu chúng ta sẽ ban án treo trong việc không nhìn nhận tội cho vị tỳ khưu này, chúng ta sẽ không thực hành lễ Pavāraṇā (Tự Tứ) với vị tỳ khưu này, chúng ta sẽ thực hành lễ Pavāraṇā không có vị tỳ khưu này, chúng ta sẽ không làm hành sự của hội chúng với vị tỳ khưu này, chúng ta sẽ làm hành sự của hội chúng không có vị tỳ khưu này, chúng ta sẽ không ngồi chung chỗ ngồi với vị tỳ khưu này, chúng ta sẽ ngồi ở chỗ ngồi không có vị tỳ khưu này, chúng ta sẽ không ngồi ăn cháo với vị tỳ khưu này, chúng ta sẽ ngồi ăn cháo không có vị tỳ khưu này, chúng ta sẽ không ngồi trong nhà ăn với vị tỳ khưu này, chúng ta sẽ ngồi trong nhà ăn không có vị tỳ khưu này, chúng ta sẽ không trú trong một mái che với vị tỳ khưu này, chúng ta sẽ trú trong một mái che không có vị tỳ khưu này, chúng ta sẽ không thực hiện sự đảnh lễ, sự đứng dậy chào, sự chắp tay, hành động thích hợp theo sự thâm niên với vị tỳ khưu này, chúng ta sẽ thực hiện sự đảnh lễ, sự đứng dậy chào, sự chắp tay, hành động thích hợp theo sự thâm niên không với vị tỳ khưu này; từ nguyên nhân ấy, hội chúng sẽ có sự xung đột, sự cãi cọ, sự lý luận, sự tranh luận, sự chia rẽ hội chúng, sự bất đồng trong hội chúng, sự đấu khẩu trong hội chúng, sự khác biệt trong hội chúng.” Này các tỳ khưu, các tỳ khưu có quan tâm về sự chia rẽ không nên ban án treo trong việc không nhìn nhận tội đến vị tỳ khưu ấy.

Sau đó, khi đã giảng giải sự việc ấy cho các tỳ khưu đã ban án treo, đức Thế Tôn đã từ chỗ ngồi đứng dậy đi đến gặp các tỳ khưu ủng hộ vị bị án treo, sau khi đến đã ngồi xuống trên chỗ ngồi được sắp đặt sẵn. Sau khi ngồi xuống, đức Thế Tôn đã nói với các tỳ khưu ủng hộ vị bị án treo điều này:

– Này các tỳ khưu, các ngươi sau khi phạm tội chớ có nghĩ rằng không nên sửa chữa lỗi (cho rằng): “Chúng tôi không phạm! Chúng tôi không phạm!” Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm tội, vị ấy có quan điểm về tội ấy là vô tội còn các tỳ khưu khác có quan điểm về tội ấy là có tội. Này các tỳ khưu, nếu vị tỳ khưu ấy nghĩ về các tỳ khưu kia như vầy: “Các vị đại đức này là các vị nghe nhiều, …(như trên)…, là các vị ưa thích sự học tập, không thể nào vì nguyên nhân là ta hay vì nguyên nhân là vị khác (mà các vị ấy) bị chi phối bởi sự ưa thích, bởi sự sân hận, bởi sự si mê, bởi sự sợ hãi. Nếu các vị tỳ khưu này ban án treo trong việc không nhìn nhận tội đến ta, các vị sẽ không thực hành lễ Uposatha với ta, các vị sẽ thực hành lễ Uposatha không có ta; từ nguyên nhân ấy, hội chúng sẽ có sự xung đột, sự cãi cọ, sự lý luận, sự tranh luận, sự chia rẽ hội chúng, sự bất đồng trong hội chúng, sự đấu khẩu trong hội chúng, sự khác biệt trong hội chúng.” Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu có quan tâm về sự chia rẽ nên sám hối tội ấy vì niềm tin của các vị khác.

Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm tội. Vị ấy có quan điểm về tội ấy là vô tội còn các tỳ khưu khác có quan điểm về tội ấy là có tội. Này các tỳ khưu, nếu vị tỳ khưu ấy nghĩ về các tỳ khưu kia như vầy: “Các vị đại đức này là các vị nghe nhiều, …(như trên)…, là các vị ưa thích sự học tập, không thể nào vì nguyên nhân là ta hay vì nguyên nhân là vị khác (mà các vị ấy) bị chi phối bởi sự ưa thích, bởi sự sân hận, bởi sự si mê, bởi sự sợ hãi. Nếu các vị tỳ khưu này ban án treo trong việc không nhìn nhận tội đến ta, các vị sẽ không thực hành lễ Pavāraṇā với ta, các vị sẽ thực hành lễ Pavāraṇā không có ta, các vị sẽ không làm hành sự của hội chúng với ta, các vị sẽ làm hành sự của hội chúng không có ta, các vị sẽ không ngồi chung chỗ ngồi với ta, các vị sẽ ngồi ở chỗ ngồi không có ta, các vị sẽ không ngồi ăn cháo với ta, các vị sẽ ngồi ăn cháo không có ta, các vị sẽ không ngồi trong nhà ăn với ta, các vị sẽ ngồi trong nhà ăn không có ta, các vị sẽ không trú trong một mái che với ta, các vị sẽ trú trong một mái che không có ta, các vị sẽ không thực hiện sự đảnh lễ, sự đứng dậy chào, sự chắp tay, hành động thích hợp theo sự thâm niên với ta, các vị sẽ thực hiện sự đảnh lễ, sự đứng dậy chào, sự chắp tay, hành động thích hợp theo sự thâm niên không với ta; từ nguyên nhân ấy, hội chúng sẽ có sự xung đột, sự cãi cọ, sự lý luận, sự tranh luận, sự chia rẽ hội chúng, sự bất đồng trong hội chúng, sự đấu khẩu trong hội chúng, sự khác biệt trong hội chúng.” Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu có quan tâm về sự chia rẽ nên sám hối tội ấy vì niềm tin của các vị khác.

Sau đó, khi đã giảng giải sự việc ấy cho các tỳ khưu ủng hộ vị bị án treo, đức Thế Tôn đã từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi.

[240] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ủng hộ vị bị án treo đã tiến hành lễ Uposatha và làm hành sự của hội chúng ngay tại nơi ấy bên trong ranh giới. Còn các tỳ khưu đã ban án treo đi ra khỏi ranh giới rồi mới tiến hành lễ Uposatha và làm hành sự của hội chúng. Sau đó, có vị tỳ khưu nọ (thuộc phe) đã ban án treo đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, vị tỳ khưu ấy đã nói với đức Thế Tôn điều này:

– Bạch ngài, các tỳ khưu ủng hộ vị bị án treo ấy đã tiến hành lễ Uposatha và làm hành sự của hội chúng ngay tại nơi ấy bên trong ranh giới. Bạch ngài, còn chúng con là các tỳ khưu đã ban án treo phải đi ra khỏi ranh giới rồi mới tiến hành lễ Uposatha và làm hành sự của hội chúng.

– Này tỳ khưu, nếu các tỳ khưu ủng hộ vị bị án treo ấy tiến hành lễ Uposatha và làm hành sự của hội chúng ngay tại nơi ấy bên trong ranh giới, các hành sự ấy của các vị ấy sẽ là đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy trì theo như lời đề nghị và các lời khẳng định đã được ta quy định. Này tỳ khưu, nếu các tỳ khưu đã ban án treo các ngươi tiến hành lễ Uposatha và làm hành sự của hội chúng ngay tại nơi ấy bên trong ranh giới, các hành sự ấy của các ngươi sẽ là đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy trì theo như lời đề nghị và các lời khẳng định đã được ta quy định. Nguyên nhân của việc ấy là gì? Này tỳ khưu, các vị ấy là không đồng cộng trú với các ngươi và các ngươi là không đồng cộng trú với các vị ấy.

Này tỳ khưu, có hai nền tảng của việc không đồng cộng trú: Tự bản thân thực hiện việc không đồng cộng trú cho bản thân hoặc là hội chúng hợp nhất ban án treo vị ấy trong việc không nhìn nhận (tội), hoặc trong việc không sửa chữa (lỗi), hoặc trong việc không từ bỏ (tà kiến ác). Này tỳ khưu, đây là hai nền tảng của việc không đồng cộng trú.

Này tỳ khưu, có hai nền tảng của việc đồng cộng trú: Tự bản thân thực hiện việc đồng cộng trú cho bản thân hoặc là hội chúng hợp nhất phục hồi cho vị đã bị án treo trong việc không nhìn nhận (tội), hoặc trong việc không sửa chữa (lỗi), hoặc trong việc không từ bỏ (tà kiến ác). Này tỳ khưu, đây là hai nền tảng của việc đồng cộng trú.

[241] Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu gây ra xung đột, gây ra cãi cọ, đưa đến tranh luận lẫn nhau ở trong nhà ăn, nơi xóm nhà thể hiện thân nghiệp khẩu nghiệp không thích hợp rồi đánh nhau. [1] Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

– Tại sao các sa-môn Thích tử gây ra xung đột, gây ra cãi cọ, đưa đến tranh luận lẫn nhau ở trong nhà ăn, nơi xóm nhà lại thể hiện thân nghiệp khẩu nghiệp không thích hợp rồi lại đánh nhau nữa?

Các tỳ khưu đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

– Vì sao các tỳ khưu gây ra xung đột, …(như trên)… ở trong nhà ăn, nơi xóm nhà lại thể hiện thân nghiệp khẩu nghiệp không thích hợp rồi lại đánh nhau nữa?

Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

– Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu gây ra xung đột, …(như trên)… ở trong nhà ăn, nơi xóm nhà thể hiện thân nghiệp khẩu nghiệp không thích hợp rồi đánh nhau nữa, có đúng không vậy?

– Bạch Thế Tôn, đúng vậy.

Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:

…(như trên)… Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:

– Này các tỳ khưu, khi hội chúng bị chia rẽ, trong khi hành xử sai Pháp đưa đến việc không hài hòa thì nên ngồi xuống chỗ ngồi (nghĩ rằng): “Ít ra chúng ta sẽ không thể hiện thân nghiệp khẩu nghiệp không thích hợp với nhau, chúng ta sẽ không đánh nhau.” Này các tỳ khưu, khi hội chúng bị chia rẽ, trong khi hành xử đúng Pháp đưa đến việc hài hòa, thì nên ngồi xuống chỗ ngồi kế cận nhau.

[242] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu gây ra xung đột, gây ra cãi cọ, đưa đến tranh luận giữa hội chúng sống châm chích lẫn nhau bằng sức mạnh của mồm miệng. Các vị ấy không thể giải quyết được sự tranh tụng ấy. Khi ấy, có vị tỳ khưu nọ đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi đứng ở một bên. Khi đã đứng ở một bên, vị tỳ khưu ấy đã nói với đức Thế Tôn điều này:

– Bạch ngài, ở đây các tỳ khưu gây ra xung đột, gây ra cãi cọ, đưa đến tranh luận giữa hội chúng sống châm chích lẫn nhau bằng sức mạnh của mồm miệng. Các vị ấy không thể giải quyết được sự tranh tụng ấy. Bạch ngài, tốt thay xin đức Thế Tôn vì lòng thương xót hãy đi đến gặp các tỳ khưu ấy.

Đức Thế Tôn đã nhận lời bằng thái độ im lặng. Sau đó, đức Thế Tôn đã đi đến gặp các tỳ khưu ấy, sau khi đến đã ngồi xuống trên chỗ ngồi được sắp đặt sẵn. Sau khi ngồi xuống, đức Thế Tôn đã nói với các tỳ khưu ấy điều này:

– Này các tỳ khưu, thôi đủ rồi. Chớ có (gây ra) sự xung đột, sự cãi cọ, sự lý luận, sự tranh luận nữa.

Khi được nói như thế, có vị tỳ khưu nọ là vị nói sai Pháp đã nói với đức Thế Tôn điều này:

– Bạch ngài, xin đức Thế Tôn là bậc Pháp Chủ hãy chờ đợi. Bạch ngài, xin đức Thế Tôn bớt lo nghĩ, hãy sống gắn bó với việc trú vào an lạc trong đời hiện tại; chúng con sẽ làm cho rõ ràng bằng sự xung đột, bằng sự cãi cọ, bằng sự lý luận, và bằng sự tranh luận này.

Đến lần thứ nhì, đức Thế Tôn đã nói với các tỳ khưu ấy điều này:

– Này các tỳ khưu, thôi đủ rồi. Chớ có (gây ra) sự xung đột, sự cãi cọ, sự lý luận, sự tranh luận nữa.

Đến lần thứ nhì, vị tỳ khưu là vị nói sai Pháp ấy đã nói với đức Thế Tôn điều này:

– Bạch ngài, xin đức Thế Tôn là bậc Pháp Chủ hãy chờ đợi. Bạch ngài, xin đức Thế Tôn bớt lo nghĩ, hãy sống gắn bó với việc trú vào an lạc trong đời hiện tại; chúng con sẽ làm cho rõ ràng bằng sự xung đột, bằng sự cãi cọ, bằng sự lý luận, và bằng sự tranh luận này.

[243] Khi ấy, đức Thế Tôn đã bảo các tỳ khưu rằng:

– Này các tỳ khưu, trong thời quá khứ ở thành Bārāṇasī (Ba La Nại) đức vua của xứ Kāsī tên Brahmadatta là giàu sang, có nhiều tài sản, nhiều của cải, có binh lực vĩ đại, nhiều xe cộ, lãnh thổ rộng lớn, có các kho hàng và vựa lúa đầy ắp. Còn đức vua xứ Kosala tên Dīghīti thì nghèo, có ít tài sản, ít của cải, có binh lực kém, ít xe cộ, lãnh thổ bé, có các kho hàng và vựa lúa không đầy. Này các tỳ khưu, khi ấy đức vua Brahmadatta xứ Kāsī đã dàn trận đội quân gồm bốn loại binh chủng và đối đầu với đức vua Dīghīti xứ Kosala. Này các tỳ khưu, đức vua Dīghīti xứ Kosala đã nghe rằng: “Nghe nói đức vua Brahmadatta xứ Kāsī đã dàn trận đội quân gồm bốn loại binh chủng và đối đầu với ta.” Khi ấy, đức vua Dīghīti xứ Kosala đã khởi ý điều này: “Đức vua Brahmadatta xứ Kāsī là giàu sang, có nhiều tài sản, nhiều của cải, có binh lực vĩ đại, nhiều xe cộ, lãnh thổ rộng lớn, có các kho hàng và vựa lúa đầy ắp, còn ta thì nghèo, có ít tài sản, ít của cải, có binh lực kém, ít xe cộ, lãnh thổ bé, có các kho hàng và vựa lúa không đầy. Ta không có khả năng để chịu đựng chỉ một cuộc tấn công của đức vua Brahmadatta xứ Kāsī, hay là ta nên bỏ chạy khỏi thành phố trước?” Này các tỳ khưu, khi ấy đức vua Dīghīti xứ Kosala đã đem theo hoàng hậu và bỏ chạy khỏi thành phố trước. Này các tỳ khưu, sau đó đức vua Brahmadatta xứ Kāsī đã chiến thắng và làm chủ binh lực, xe cộ, xứ sở, kho hàng, và vựa lúa của đức vua Dīghīti xứ Kosala.

Này các tỳ khưu, khi ấy đức vua Dīghīti xứ Kosala cùng người vợ đã ra đi về phía thành Bārāṇasī, tuần tự đã đến sống ở thành Bārāṇasī. Này các tỳ khưu, tại đó ở khu vực ngoại ô nọ nơi thành Bārāṇasī, đức vua Dīghīti xứ Kosala cùng với người vợ ngụ trong nhà của người làm đồ gốm dưới hình thức khác là cải trang thành du sĩ. Này các tỳ khưu, sau đó chẳng bao lâu hoàng hậu của đức vua Dīghīti xứ Kosala đã mang thai. Nàng khởi lên niềm khao khát có hình thức như vầy: Nàng mong muốn vào lúc mặt trời mọc nhìn thấy đội quân gồm bốn loại binh chủng vũ trang, dàn trận, đứng ở trên mặt đất bằng phẳng và được uống nước rửa đao kiếm. Này các tỳ khưu, khi ấy hoàng hậu của đức vua Dīghīti xứ Kosala đã nói với đức vua Dīghīti xứ Kosala điều này: “Tâu bệ hạ, thiếp đang mang thai. Thiếp đây khởi lên niềm khao khát có hình thức như vầy: Thiếp mong muốn vào lúc mặt trời mọc nhìn thấy đội quân gồm bốn loại binh chủng vũ trang, dàn trận, đứng ở trên mặt đất bằng phẳng và được uống nước rửa đao kiếm.” “Này ái hậu, trong lúc chúng ta đang lâm cảnh khốn cùng thì lấy đâu ra đội quân gồm bốn loại binh chủng vũ trang, dàn trận, đứng ở trên mặt đất bằng phẳng và nước rửa đao kiếm.” “Tâu bệ hạ, nếu không đạt được thì thiếp sẽ chết mất.”

Này các tỳ khưu, vào lúc bấy giờ vị bà-la-môn giữ chức tế tự của đức vua Brahmadatta xứ Kāsī là bạn của đức vua Dīghīti xứ Kosala. Này các tỳ khưu, khi ấy đức vua Dīghīti xứ Kosala đã đi đến gặp vị bà-la-môn giữ chức tế tự của đức vua Brahmadatta xứ Kāsī, sau khi đến đã nói với vị bà-la-môn giữ chức tế tự của đức vua Brahmadatta xứ Kāsī điều này: “Này bạn, (hoàng hậu) người bạn gái của bạn đang mang thai. Nàng khởi lên niềm khao khát có hình thức như vầy: Nàng mong muốn vào lúc mặt trời mọc nhìn thấy đội quân gồm bốn loại binh chủng vũ trang, dàn trận, đứng ở trên mặt đất bằng phẳng và được uống nước rửa đao kiếm.” “Tâu bệ hạ, như thế thì chúng ta hãy gặp hoàng hậu.” Này các tỳ khưu, khi ấy hoàng hậu của đức vua Dīghīti xứ Kosala đã đi đến gặp vị bà-la-môn giữ chức tế tự của đức vua Brahmadatta xứ Kāsī. Này các tỳ khưu, rồi vị bà-la-môn giữ chức tế tự của đức vua Brahmadatta xứ Kāsī đã nhìn thấy hoàng hậu của đức vua Dīghīti xứ Kosala từ đàng xa đang đi lại, sau khi nhìn thấy đã từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp thượng y một bên vai, chắp tay cúi chào hoàng hậu của đức vua Dīghīti xứ Kosala và đã ba lần thốt lên lời cảm hứng rằng: “Quả đúng là vua xứ Kosala đã nhập thai! Quả đúng là vua xứ Kosala đã nhập thai!” (rồi nói rằng): “Tâu hoàng hậu, xin chớ lo âu, vào lúc mặt trời mọc hoàng hậu sẽ được nhìn thấy đội quân gồm bốn loại binh chủng vũ trang, dàn trận, đứng ở trên mặt đất bằng phẳng và được uống nước rửa đao kiếm.

Này các tỳ khưu, sau đó vị bà-la-môn giữ chức tế tự của đức vua Brahmadatta xứ Kāsī đã đi đến gặp đức vua Brahmadatta xứ Kāsī, sau khi đến đã nói với đức vua Brahmadatta xứ Kāsī điều này: “Tâu bệ hạ, theo như các điềm báo hiệu cho thấy: Ngày mai vào lúc mặt trời mọc, đội quân gồm bốn loại binh chủng vũ trang, dàn trận hãy đứng ở trên mặt đất bằng phẳng và các đao kiếm hãy được rửa.” Này các tỳ khưu, sau đó đức vua Brahmadatta xứ Kāsī đã ra lệnh cho mọi người rằng: “Này các khanh, vị bà-la-môn giữ chức tế tự nói như thế nào thì các khanh hãy làm theo như thế ấy.”

Này các tỳ khưu, rồi vào lúc mặt trời mọc hoàng hậu của đức vua Dīghīti xứ Kosala đã được nhìn thấy đội quân gồm bốn loại binh chủng vũ trang, dàn trận, đứng ở trên mặt đất bằng phẳng và được uống nước rửa đao kiếm. Này các tỳ khưu, sau đó khi bào thai ấy đã được phát triển đầy đủ, hoàng hậu của đức vua Dīghīti xứ Kosala đã sanh ra người con trai. Đứa bé đã được đặt tên là Dīghāvu. Này các tỳ khưu, sau đó chẳng bao lâu hoàng tử Dīghāvu đã đạt được sự hiểu biết. Này các tỳ khưu, khi ấy đức vua Dīghīti xứ Kosala đã khởi ý điều này: “Đức vua Brahmadatta xứ Kāsī này là người đã làm nhiều việc thất lợi cho chúng ta. Binh lực, xe cộ, xứ sở, kho hàng, và vựa lúa của chúng ta đã bị người này chiếm đoạt. Nếu người này biết được chúng ta thì sẽ ra lệnh giết chết luôn cả ba. Hay là ta nên cho hoàng tử Dīghāvu sống ở bên ngoài thành phố?” Này các tỳ khưu, khi ấy đức vua Dīghīti xứ Kosala đã cho hoàng tử Dīghāvu sống ở bên ngoài thành phố. Này các tỳ khưu, sau đó chẳng bao lâu hoàng tử Dīghāvu trong khi sống ở bên ngoài thành phố đã học được tất cả các tài nghệ.

[244] Này các tỳ khưu, vào lúc bấy giờ người thợ hớt tóc của đức vua Dīghīti xứ Kosala sống (dưới quyền hạn) của đức vua Brahmadatta xứ Kāsī. Này các tỳ khưu, người thợ hớt tóc của đức vua Dīghīti xứ Kosala đã nhìn thấy đức vua Dīghīti xứ Kosala cùng với người vợ đang sống ở khu vực ngoại ô nọ nơi thành Bārāṇasī, trong nhà của người làm đồ gốm dưới hình thức khác là cải trang thành du sĩ, sau khi nhìn thấy đã đi đến gặp đức vua Brahmadatta xứ Kāsī, sau khi đến đã nói với đức vua Brahmadatta xứ Kāsī điều này: “Tâu bệ hạ, đức vua Dīghīti xứ Kosala cùng với người vợ đang sống ở khu vực ngoại ô nọ nơi thành Bārāṇasī, trong nhà của người làm đồ gốm dưới hình thức khác là cải trang thành du sĩ.” Này các tỳ khưu, khi ấy đức vua Brahmadatta xứ Kāsī đã ra lệnh cho mọi người rằng: “Này các khanh, như thế thì hãy dẫn đức vua Dīghīti xứ Kosala cùng với người vợ đến.” “Tâu bệ hạ, xin vâng.” Này các tỳ khưu, rồi những người ấy nghe theo đức vua Brahmadatta xứ Kāsī đã dẫn đức vua Dīghīti xứ Kosala cùng với người vợ đến.

Này các tỳ khưu, khi ấy đức vua Brahmadatta xứ Kāsī đã ra lệnh cho mọi người rằng: “Này các khanh, như thế thì hãy trói chặt đức vua Dīghīti xứ Kosala cùng với người vợ ở hai tay vào phía sau bằng dây thừng chắc chắn, cạo trọc đầu, rồi dẫn đi quanh từ đường phố này sang đường phố khác, từ giao lộ này sang giao lộ khác với tiếng trống có âm thanh inh ỏi, sau khi đưa đi ra bằng cổng thành phía nam, hãy chặt thành bốn khúc ngay tại cổng thành phía nam, rồi quăng bỏ các phần ấy ở bốn hướng.” “Tâu bệ hạ, xin vâng.” Này các tỳ khưu, rồi những người ấy nghe theo đức vua Brahmadatta xứ Kāsī đã trói chặt đức vua Dīghīti xứ Kosala cùng với người vợ bằng dây thừng chắc chắn, cạo trọc đầu, rồi dẫn đi quanh từ đường phố này sang đường phố khác, từ giao lộ này sang giao lộ khác với tiếng trống có âm thanh inh ỏi.

Này các tỳ khưu, khi ấy hoàng tử Dīghāvu đã khởi ý điều này: “Đã lâu, ta không được nhìn thấy mẹ và cha, hay là ta nên gặp mẹ và cha?” Này các tỳ khưu, khi ấy hoàng tử Dīghāvu đã đi vào thành Bārāṇasī và nhìn thấy mẹ và cha bị trói chặt ở hai tay vào phía sau bằng dây thừng chắc chắn, bị cạo trọc đầu, và đang bị dẫn đi quanh từ đường phố này sang đường phố khác, từ giao lộ này sang giao lộ khác với tiếng trống có âm thanh inh ỏi, sau khi nhìn thấy đã đi đến gặp mẹ và cha.

Này các tỳ khưu, đức vua Dīghīti xứ Kosala đã nhìn thấy hoàng tử Dīghāvu từ đàng xa đang đi lại, sau khi thấy đã nói với hoàng tử Dīghāvu điều này: “Này Dīghāvu thương, con hãy nhìn chớ có xa, chớ có gần. Này Dīghāvu thương, bởi vì các sự thù hận không được làm lắng dịu bởi thù hận. Này Dīghāvu thương, chính vì không thù hận mà các sự thù hận được lắng dịu.” Này các tỳ khưu, khi được nói như thế những người ấy đã nói với đức vua Dīghīti xứ Kosala điều này: “Đức vua Dīghīti xứ Kosala này là người điên nên nói nhảm. Ai là Dīghāvu của ông ta? Ông ta đã nói với ai như vầy: ‘Này Dīghāvu thương, con hãy nhìn chớ có xa, chớ có gần. Này Dīghāvu thương, bởi vì các sự thù hận không được làm lắng dịu bởi thù hận. Này Dīghāvu thương, chính vì không thù hận mà các sự thù hận được lắng dịu’?” “Này các khanh, ta không là người điên mà nói nhảm. Tuy nhiên, người nào thông minh thì người ấy sẽ hiểu được rõ ràng.” Này các tỳ khưu, đến lần thứ nhì …(như trên)… Này các tỳ khưu, đến lần thứ ba đức vua Dīghīti xứ Kosala đã nói với hoàng tử Dīghāvu điều này: “Này Dīghāvu thương, con hãy nhìn chớ có xa, chớ có gần. Này Dīghāvu thương, bởi vì các sự thù hận không được làm lắng dịu bởi thù hận. Này Dīghāvu thương, chính vì không thù hận mà các sự thù hận được lắng dịu.” Này các tỳ khưu, đến lần thứ ba những người ấy đã nói với đức vua Dīghīti xứ Kosala điều này: “Đức vua Dīghīti xứ Kosala này là người điên nên nói nhảm. Ai là Dīghāvu của ông ta? Ông ta đã nói với ai như vầy: ‘Này Dīghāvu thương, con hãy nhìn chớ có xa, chớ có gần. Này Dīghāvu thương, bởi vì các sự thù hận không được làm lắng dịu bởi thù hận. Này Dīghāvu thương, chính vì không thù hận mà các sự thù hận được lắng dịu’?” “Này các khanh, ta không là người điên mà nói nhảm. Tuy nhiên, người nào thông minh thì người ấy sẽ hiểu được rõ ràng.” Này các tỳ khưu, sau đó những người ấy khi đã dẫn đức vua Dīghīti xứ Kosala cùng với người vợ đi quanh từ đường phố này sang đường phố khác, từ giao lộ này sang giao lộ khác với tiếng trống có âm thanh inh ỏi rồi đã đưa đi ra bằng cổng thành phía nam, chặt thành bốn khúc ngay tại cổng thành phía nam, quăng bỏ các phần ấy ở bốn hướng, ổn định lại hàng ngũ, rồi đã bỏ đi.

Này các tỳ khưu, khi ấy hoàng tử Dīghāvu đã đi vào thành Bārāṇasī đem lại rượu và cho các người lính gác uống. Đến khi những người lính đã bị say và té xuống, hoàng tử Dīghāvu đã tự mình gom góp các thanh củi, đặt thi thể của mẹ và cha lên giàn hỏa thiêu, châm lửa, chắp tay lên, và hướng vai phải nhiễu quanh giàn hỏa thiêu ba vòng. Này các tỳ khưu, vào lúc bấy giờ đức vua Brahmadatta xứ Kāsī đang đi ở nơi sân thượng của tòa lâu đài sang trọng. Này các tỳ khưu, đức vua Brahmadatta xứ Kāsī đã nhìn thấy hoàng tử Dīghāvu chắp tay lên và đang hướng vai phải nhiễu quanh giàn hỏa thiêu ba vòng, sau khi nhìn thấy đã khởi ý điều này: “Chắc chắn rằng người đàn ông này là thân quyến hoặc là có cùng huyết thống với đức vua Dīghīti xứ Kosala. Hừ, chẳng có ích lợi gì cho ta vì không ai sẽ nói cho ta hay!”

Này các tỳ khưu, khi ấy hoàng tử Dīghāvu đã đi vào rừng và than van khóc lóc cho đến nguôi ngoai, rồi đã lau khô nước mắt, trở vào thành Bārāṇasī, đi đến chuồng voi ở cạnh hoàng cung, và đã nói với người thầy huấn luyện voi điều này: “Thưa thầy, tôi muốn học nghề.” “Này chàng trai trẻ mến, như thế thì cứ việc học.” Này các tỳ khưu, sau đó hoàng tử Dīghāvu, khi đã thức dậy vào canh cuối của đêm ở nơi chuồng voi, đã đánh đàn và ca hát với giọng du dương. Này các tỳ khưu, rồi đức vua Brahmadatta xứ Kāsī sau khi thức dậy vào canh cuối của đêm đã nghe tiếng đánh đàn và tiếng ca hát với giọng du dương ở nơi chuồng voi nên đã hỏi mọi người rằng: “Này các khanh, người nào sau khi thức dậy vào canh cuối của đêm ở nơi chuồng voi đã đánh đàn và ca hát với giọng du dương?” “Tâu bệ hạ, chàng trai trẻ học trò của người thầy huấn luyện voi kia, sau khi thức dậy vào canh cuối của đêm ở nơi chuồng voi, đã đánh đàn và ca hát với giọng du dương.” “Này các khanh, như thế thì hãy dẫn chàng trai trẻ ấy đến.” “Tâu bệ hạ, xin vâng.” Này các tỳ khưu, rồi các người ấy nghe theo đức vua Brahmadatta xứ Kāsī đã đưa hoàng tử Dīghāvu lại. Này các tỳ khưu, khi ấy đức vua Brahmadatta xứ Kāsī đã nói với hoàng tử Dīghāvu điều này: “Này khanh chàng trai trẻ, có phải khanh sau khi thức dậy vào canh cuối của đêm ở nơi chuồng voi đã đánh đàn và ca hát với giọng du dương?” “Tâu bệ hạ, thưa phải.” “Này khanh chàng trai trẻ, như thế thì khanh hãy ca hát và đánh đàn đi.” “Tâu bệ hạ, xin vâng.” Này các tỳ khưu, rồi hoàng tử Dīghāvu nghe theo đức vua Brahmadatta xứ Kāsī và có ý định làm (đức vua) hài lòng nên đã đánh đàn và ca hát với giọng du dương. Này các tỳ khưu, khi ấy đức vua Brahmadatta xứ Kāsī đã nói với hoàng tử Dīghāvu điều này: “Này khanh chàng trai trẻ, khanh hãy hầu hạ ta. Tâu bệ hạ, xin vâng.” Này các tỳ khưu, hoàng tử Dīghāvu đã đáp lời đức vua Brahmadatta xứ Kāsī.

Này các tỳ khưu, sau đó hoàng tử Dīghāvu đã trở thành người thức dậy trước và đi ngủ sau, là người sẵn sàng làm mọi việc, có hành động chiều chuộng, có nói lời êm dịu đối với đức vua Brahmadatta xứ Kāsī. Này các tỳ khưu, sau đó chẳng bao lâu đức vua Brahmadatta xứ Kāsī đã bổ nhiệm hoàng tử Dīghāvu vào vai trò cận thần được tín nhiệm.

Này các tỳ khưu, sau đó đức vua Brahmadatta xứ Kāsī đã nói với hoàng tử Dīghāvu điều này: “Này khanh chàng trai trẻ, như vậy thì khanh hãy thắng (ngựa) vào xe, chúng ta sẽ đi săn thú.” “Tâu bệ hạ, xin vâng.” Này các tỳ khưu, rồi hoàng tử Dīghāvu nghe theo đức vua Brahmadatta xứ Kāsī đã thắng (ngựa) vào xe rồi đã nói với đức vua Brahmadatta xứ Kāsī điều này: “Tâu bệ hạ, xe đã được thắng (ngựa) vào, xin bệ hạ hãy suy nghĩ bây giờ là thời điểm của việc gì.” Này các tỳ khưu, sau đó đức vua Brahmadatta xứ Kāsī đã bước lên xe và hoàng tử Dīghāvu đã điều khiển xe và đã điều khiển xe như thế nào đó để đội quân lính đã đi theo hướng khác còn chiếc xe theo hướng khác.

Này các tỳ khưu, sau đó khi đã đi xa, đức vua Brahmadatta xứ Kāsī đã nói với hoàng tử Dīghāvu điều này: “Này khanh chàng trai trẻ, hãy dừng xe lại. Trẫm đã mệt và sẽ nằm xuống.” “Tâu bệ hạ, xin vâng.” Này các tỳ khưu, rồi hoàng tử Dīghāvu nghe theo đức vua Brahmadatta xứ Kāsī đã dừng xe lại và ngồi xuống với thế kiết già ở trên mặt đất. Này các tỳ khưu, sau đó đức vua Brahmadatta xứ Kāsī đã kê đầu lên bắp vế của hoàng tử Dīghāvu và nằm xuống. Trong khi mệt mỏi, chỉ trong chốc lát đức vua đã rơi vào giấc ngủ. Này các tỳ khưu, khi ấy hoàng tử Dīghāvu đã khởi ý điều này: “Đức vua Brahmadatta xứ Kāsī này là người đã làm nhiều việc thất lợi cho chúng ta. Binh lực, xe cộ, xứ sở, kho hàng, và vựa lúa của chúng ta đã bị người này chiếm đoạt. Mẹ và cha ta đã bị người này giết. Đây có thể là thời điểm để ta có thể thanh toán mối thù hận” rồi đã rút gươm ra khỏi vỏ. Này các tỳ khưu, khi ấy hoàng tử Dīghāvu đã khởi ý điều này: “Vào lúc chết, cha đã nói với ta rằng: ‘Này Dīghāvu thương, con hãy nhìn chớ có xa, chớ có gần. Này Dīghāvu thương, bởi vì các sự thù hận không được làm lắng dịu bởi thù hận. Này Dīghāvu thương, chính vì không thù hận mà các sự thù hận được lắng dịu.’ Đối với ta việc này không thích hợp là việc ta có thể làm trái lời dạy của cha” nên đã tra gươm vào vỏ. Này các tỳ khưu, đến lần thứ nhì …(như trên)… Này các tỳ khưu, đến lần thứ ba hoàng tử Dīghāvu đã khởi ý điều này: “Đức vua Brahmadatta xứ Kāsī này là người đã làm nhiều việc thất lợi cho chúng ta. Binh lực, xe cộ, xứ sở, kho hàng, và vựa lúa của chúng ta đã bị người này chiếm đoạt. Mẹ và cha ta đã bị người này giết. Đây có thể là thời điểm để ta có thể thanh toán mối thù hận” rồi đã rút gươm ra khỏi vỏ. Này các tỳ khưu, đến lần thứ ba hoàng tử Dīghāvu đã khởi ý điều này: “Vào lúc chết, cha đã nói với ta rằng: ‘Này Dīghāvu thương, con hãy nhìn chớ có xa, chớ có gần. Này Dīghāvu thương, bởi vì các sự thù hận không được làm lắng dịu bởi thù hận. Này Dīghāvu thương, chính vì không thù hận mà các sự thù hận được lắng dịu.’ Đối với ta việc này không thích hợp là việc ta có thể làm trái lời dạy của cha” nên lại tra gươm vào vỏ.

Này các tỳ khưu, khi ấy đức vua Brahmadatta xứ Kāsī trở nên hoảng sợ, kinh hoàng, hốt hoảng, dáo dác, đã tức thời chồm dậy. Này các tỳ khưu, khi ấy hoàng tử Dīghāvu đã nói với đức vua Brahmadatta xứ Kāsī điều này: “Tâu bệ hạ, vì sao bệ hạ lại trở nên hoảng sợ, kinh hoàng, hốt hoảng, dáo dác, và tức thời chồm dậy?” “Này khanh chàng trai trẻ, ở đây con trai của đức vua Dīghīti xứ Kosala là hoàng tử Dīghāvu đã dùng gươm tấn công ta trong giấc ngủ mơ, vì thế trẫm trở nên hoảng sợ, kinh hoàng, hốt hoảng, dáo dác, và đã tức thời chồm dậy.” Này các tỳ khưu, khi ấy hoàng tử Dīghāvu đã dùng bàn tay trái mân mê đầu của đức vua Brahmadatta xứ Kāsī và dùng bàn tay phải rút gươm ra rồi nói với đức vua Brahmadatta xứ Kāsī điều này: “Tâu bệ hạ, thần chính là hoàng tử Dīghāvu con trai của đức vua Dīghīti xứ Kosala. Bệ hạ là người đã làm nhiều việc thất lợi cho chúng tôi. Binh lực, xe cộ, xứ sở, kho hàng, và vựa lúa của chúng tôi đã bị bệ hạ chiếm đoạt. Mẹ và cha tôi đã bị bệ hạ giết. Đây có thể là thời điểm để thần có thể thanh toán mối thù hận.” Này các tỳ khưu, khi ấy đức vua Brahmadatta xứ Kāsī đã quỳ mọp xuống đê đầu ở hai bàn chân của hoàng tử Dīghāvu và đã nói với hoàng tử Dīghāvu điều nầy: “Này Dīghāvu yêu quý, hãy ban cho trẫm mạng sống. Này Dīghāvu yêu quý, hãy ban cho trẫm mạng sống.” “Sao thần lại có thể ban cho bệ hạ mạng sống được, chính bệ hạ mới có thể ban cho thần mạng sống?” “Này Dīghāvu yêu quý, như thế thì khanh hãy ban cho trẫm mạng sống, và trẫm sẽ ban mạng sống cho khanh.” Này các tỳ khưu, khi ấy đức vua Brahmadatta xứ Kāsī và hoàng tử Dīghāvu đã ban cho mạng sống lẫn nhau, đã nắm lấy bàn tay, và đã thề không phản bội nhau.

Này các tỳ khưu, sau đó đức vua Brahmadatta xứ Kāsī đã nói với hoàng tử Dīghāvu điều này: “Này Dīghāvu yêu quý, như thế thì khanh hãy thắng (ngựa) vào xe, chúng ta sẽ đi về.” “Tâu bệ hạ, xin vâng.” Này các tỳ khưu, rồi hoàng tử Dīghāvu nghe theo đức vua Brahmadatta xứ Kāsī đã thắng (ngựa) vào xe rồi đã nói với đức vua Brahmadatta xứ Kāsī điều này: “Tâu bệ hạ, xe đã được thắng (ngựa) vào, xin bệ hạ hãy suy nghĩ bây giờ là thời điểm của việc gì.” Này các tỳ khưu, sau đó đức vua Brahmadatta xứ Kāsī đã bước lên xe và hoàng tử Dīghāvu đã điều khiển xe và đã điều khiển xe theo như thế nào đó để chẳng bao lâu sau gặp lại đội quân lính.

Này các tỳ khưu, sau đó đức vua Brahmadatta xứ Kāsī đã đi vào thành Bārāṇasī, cho triệu tập các viên quan đại thần cố vấn lại, và đã nói điều này: “Này các khanh, nếu các khanh có thể nhìn thấy hoàng tử Dīghāvu con trai của đức vua Dīghīti xứ Kosala thì các khanh nên làm gì người ấy?” Một số quan đại thần đã nói như vầy: “Tâu bệ hạ, chúng ta nên chặt hai tay. Tâu bệ hạ, chúng ta nên chặt hai chân. Tâu bệ hạ, chúng ta nên chặt hai tay và hai chân. Tâu bệ hạ, chúng ta nên xẻo hai tai. Tâu bệ hạ, chúng ta nên xẻo lỗ mũi. Tâu bệ hạ, chúng ta nên xẻo hai tai và lỗ mũi. Tâu bệ hạ, chúng ta nên chặt đầu.” “Này các khanh, đây chính là hoàng tử Dīghāvu con trai của đức vua Dīghīti xứ Kosala. Không được phép làm bất cứ điều gì đối với người này. Người này đã ban cho trẫm mạng sống và trẫm đã ban mạng sống cho người này.”

Này các tỳ khưu, sau đó đức vua Brahmadatta xứ Kāsī đã nói với hoàng tử Dīghāvu điều này: “Này Dīghāvu yêu quý, điều mà người cha vào lúc chết đã nói rằng: ‘Này Dīghāvu thương, con hãy nhìn chớ có xa, chớ có gần. Này Dīghāvu thương, bởi vì các sự thù hận không được làm lắng dịu bởi thù hận. Này Dīghāvu thương, chính vì không thù hận mà các sự thù hận được lắng dịu,’ người cha của khanh đã ám chỉ điều gì vậy?” “Tâu bệ hạ, điều mà cha của thần vào lúc chết đã nói rằng: ‘Chớ có xa,’ (ý nói rằng) ‘Chớ có gây nên thù hận lâu dài.’ Tâu bệ hạ, (ám chỉ) điều này mà cha của thần vào lúc chết đã nói rằng: ‘Chớ có xa.’ Tâu bệ hạ, điều mà cha của thần vào lúc chết đã nói rằng: ‘Chớ có gần,’ (ý nói rằng) ‘Chớ có mau chóng gây đổ vỡ với các bạn bè.’ Tâu bệ hạ, (ám chỉ) điều này mà cha của thần vào lúc chết đã nói rằng: ‘Chớ có gần.’ Tâu bệ hạ, điều mà cha của thần vào lúc chết đã nói rằng: ‘Này Dīghāvu thương, bởi vì các sự thù hận không được làm lắng dịu bởi thù hận. Này Dīghāvu thương, chính vì không thù hận mà các sự thù hận được lắng dịu,’ (ý nói rằng) ‘Mẹ và cha của thần đã bị bệ hạ giết hại,’ như thế nếu thần có thể tước đoạt mạng sống của bệ hạ thì những người mong mỏi sự lợi ích cho bệ hạ có thể tước đoạt mạng sống của thần, rồi những người mong mỏi sự lợi ích cho thần có thể tước đoạt mạng sống của những người ấy; như vậy thù hận ấy không thể giải quyết bằng thù hận. Giờ đây, bệ hạ đã ban mạng sống cho thần và thần cũng đã ban mạng sống cho bệ hạ; như vậy thù hận ấy đã được giải quyết bằng sự không thù hận. Tâu bệ hạ, (ám chỉ) điều này mà cha của thần vào lúc chết đã nói rằng: Này Dīghāvu thương, bởi vì các sự thù hận không được làm lắng dịu bởi thù hận. Này Dīghāvu thương, chính vì không thù hận mà các sự thù hận được lắng dịu.’”

Này các tỳ khưu, khi ấy đức vua Brahmadatta xứ Kāsī đã khởi ý điều này: “Thật kỳ diệu thay! Thật phi thường thay! Hoàng tử Dīghāvu này thật thông thái bởi vì hiểu được ý nghĩa một cách chi tiết của điều đã được người cha nói ra một cách vắn tắt” rồi đã trả lại binh lực, xe cộ, xứ sở, kho hàng, và vựa lúa của người cha, và còn ban cho người con gái (của mình) nữa. Này các tỳ khưu, ngay chính những người ấy là các vị vua đã cầm lấy gậy, đã cầm lấy gươm mà còn có sự kham nhẫn và khoan dung như thế ấy. Này các tỳ khưu, ở đây các ngươi hãy làm rạng rỡ việc các ngươi đang được xuất gia trong Pháp và Luật được khéo thuyết giảng như vầy, các ngươi hãy nên bày tỏ sự kham nhẫn và lòng khoan dung.

[245] Đến lần thứ ba, đức Thế Tôn đã nói với các tỳ khưu ấy điều này:

– Này các tỳ khưu, thôi đủ rồi. Chớ có (gây ra) sự xung đột, sự cãi cọ, sự lý luận, sự tranh luận nữa.

Đến lần thứ ba, vị tỳ khưu là vị nói sai Pháp ấy đã nói với đức Thế Tôn điều này:

– Bạch ngài, xin đức Thế Tôn là bậc Pháp Chủ hãy chờ đợi. Bạch ngài, xin đức Thế Tôn bớt lo nghĩ, hãy sống gắn bó với việc trú vào an lạc trong đời hiện tại; chúng con sẽ làm cho rõ ràng bằng sự xung đột, bằng sự cãi cọ, bằng sự lý luận, và bằng sự tranh luận này.

Khi ấy, đức Thế Tôn (nghĩ rằng): “Những kẻ rồ dại này đã tới mức lộng hành, những kẻ này không dễ gì mà nhắc nhở” rồi đã từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi.

Tụng phẩm “Dīghāvu” là phần thứ nhất.

[246] Khi ấy vào buổi sáng, đức Thế tôn đã mặc y, cầm y bát, rồi đi vào thành Kosambī để khất thực. Sau khi đã đi khất thực trong thành Kosambī, trên đường khất thực trở về sau bữa ăn, đức Thế Tôn đã thu xếp chỗ trú ngụ, cầm y bát, rồi đứng giữa hội chúng tỳ khưu nói lên những lời kệ này:

[247]

Chúng phàm phu náo nhiệt
chẳng ai nghĩ mình ngu,
dầu hội chúng tan vỡ
chúng nghĩ chẳng ai hơn.
Lời kẻ trí cởi mở
nói đủ chuyện trên đời
chúng muốn miệng há rộng
bị lôi đi chẳng biết.
Những ai cố chấp rằng:
“Ngươi chửi ta, đánh ta,
thắng ta, cướp bóc ta!”
người ấy hận không tan.
Những ai không cố chấp:
“Ngươi chửi ta, đánh ta,
thắng ta, cướp bóc ta!”
người ấy hận tiêu tan.
Hận thù chẳng bao giờ
tiêu tan do thù hận
nhưng bởi không thù hận
Pháp ấy có từ xưa.
Những người khác không biết
nơi đây ta kềm chế,
kia mọi người đều rõ
tranh cãi tự nhiên tan.
Xương tan, mạng chẳng còn,
cướp ngựa, bò, tài sản,
trong khi xâm chiếm đất
chúng còn biết hợp đoàn;
sao các người lại không?
Nếu người có bạn hữu
trí tuệ, cùng đi chung,
thông minh, sống khôn khéo,
vưọt qua mọi gian khổ
nhờ thế vị ấy sống
hoan hỷ, trú được niệm.
Nếu người không bạn hữu
trí tuệ, cùng đi chung,
thông minh, sống khôn khéo,
như vua bỏ vương quốc,
như voi và rừng rậm
voi đi chỉ một mình.
Tốt hơn đi một mình
không kẻ ngu làm bạn
vị ấy sống đơn độc
ác không làm, chẳng lo,
như voi và rừng rậm
voi đi chỉ một mình.

[248] Khi ấy, đức Thế Tôn đứng giữa hội chúng tỳ khưu đã nói lên những lời kệ này rồi đi đến ngôi làng Bālakaloṇakāraka. Vào lúc bấy giờ, đại đức Bhagu đang trú tại ngôi làng Bālakaloṇakāraka. Đại đức Bhagu đã nhìn thấy đức Thế Tôn từ đàng xa đang đi lại, sau khi nhìn thấy đã sắp đặt chỗ ngồi, đem lại nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân, rồi đã đi ra rước lấy y bát. Đức Thế Tôn đã ngồi xuống trên chỗ ngồi được sắp đặt sẵn, sau khi ngồi xuống đã rửa hai bàn chân. Đại đức Bhagu đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Đức Thế Tôn đã nói với đại đức Bhagu đang ngồi một bên điều này:

– Này tỳ khưu, sức khoẻ có khá không? Mọi việc có tốt đẹp không? Việc đi khất thực có khỏi bị khó nhọc không?

– Bạch Thế Tôn, sức khoẻ khá. Bạch Thế Tôn, mọi việc được tốt đẹp. Và bạch ngài, việc đi khất thực không có bị khó nhọc.

Sau đó, đức Thế Tôn đã chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho đại đức Bhagu bằng bài Pháp thoại rồi đã từ chỗ ngồi đứng dậy và đi đến khu vườn cây Pācīnavaṃsa.

Vào lúc bấy giờ, đại đức Anuruddha, đại đức Nandiya, và đại đức Kimbila trú tại khu vườn cây Pācīnavaṃsa. Người giữ khu vườn cây đã nhìn thấy đức Thế Tôn từ đàng xa đang đi lại, sau khi nhìn thấy đã nói với đức Thế Tôn điều này:

– Này ông sa-môn, chớ có đi vào khu vườn cây này. Ở đây, có ba người con trai gia đình danh giá và có tính tự trọng trú ngụ. Chớ có gây phiền nhiễu đến họ.

Đại đức Anuruddha đã nghe được người giữ khu vườn cây đang căn dặn đức Thế Tôn, sau khi nghe đã nói với người giữ khu vườn cây điều này:

– Này đạo hữu giữ vườn, chớ có ngăn cản đức Thế Tôn. Bậc Đạo Sư của chúng tôi là đức Thế Tôn đã đến.

Sau đó, đại đức Anuruddha đã đi đến gặp đại đức Nandiya và đại đức Kimbila, sau khi đến đã nói với đại đức Nandiya và đại đức Kimbila điều này:

– Các đại đức hãy đi ra. Các đại đức hãy đi ra. Bậc Đạo Sư của chúng ta là đức Thế Tôn đã đến.

Khi ấy, đại đức Anuruddha, đại đức Nandiya, và đại đức Kimbila đã đi ra đón đức Thế Tôn, một vị đã nhận lấy y bát của đức Thế Tôn, một vị đã sắp xếp chỗ ngồi, một vị đã mang lại nước rửa chân, ghế kê chân, và tấm chà chân. Đức Thế Tôn đã ngồi xuống trên chỗ ngồi được sắp đặt sẵn, sau khi ngồi xuống đã rửa hai bàn chân. Các vị đại đức ấy đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Đức Thế Tôn đã nói với đại đức Anuruddha đang ngồi một bên điều này:

– Này các vị Anuruddha, các ngươi sức khoẻ có khá không? Mọi việc có được tốt đẹp không? Việc đi khất thực có khỏi bị khó nhọc không?

– Bạch Thế Tôn, sức khoẻ khá. Bạch Thế Tôn, mọi việc được tốt đẹp. Và bạch ngài, việc đi khất thực không có bị khó nhọc.

– Này các vị Anuruddha, các ngươi sống có sự hợp nhất, thân thiện, không cãi cọ, có được trạng thái như sữa với nước, có nhìn nhau bằng những ánh mắt trìu mến không?

– Bạch Thế Tôn, chắc chắn là vậy! Chúng con đây sống có sự hợp nhất, thân thiện, không cãi cọ, được trạng thái như sữa với nước, và nhìn nhau bằng những ánh mắt trìu mến.

– Này các vị Anuruddha, các ngươi sống có sự hợp nhất, thân thiện, không cãi cọ, được trạng thái như sữa với nước, và nhìn nhau bằng những ánh mắt trìu mến là như thế nào?

– Bạch ngài, ở đây con khởi ý như vầy: “Thật lợi ích cho ta! Thật ta đã khéo đạt được khi ta sống với các vị đồng Phạm hạnh như thế này!” Bạch ngài, đối với các đại đức này sự thân thiện của con đây qua thân nghiệp đã được khởi lên công khai hoặc kín đáo, sự thân thiện qua khẩu nghiệp, sự thân thiện qua ý nghiệp đã được khởi lên công khai hoặc kín đáo, và bạch ngài con đây đã khởi ý như vầy: “Hay là ta nên buông rơi tâm của ta và hành động thuận theo tâm của các đại đức này?” Bạch ngài, rồi con đã buông rơi tâm con và hành động thuận theo tâm của các đại đức này. Bạch ngài, chúng con tuy có các thân khác nhau nhưng con nghĩ rằng chỉ có một tâm.

Rồi đại đức Nandiya và đại đức Kimbila cũng đã nói với đức Thế Tôn điều này:

– Bạch ngài, ở đây con khởi ý như vầy: “Thật lợi ích cho ta! Thật ta đã khéo đạt được khi ta sống với các vị đồng Phạm hạnh như thế này!” Bạch ngài, đối với các đại đức này sự thân thiện của con đây qua thân nghiệp đã được khởi lên công khai hoặc kín đáo, sự thân thiện qua khẩu nghiệp, sự thân thiện qua ý nghiệp đã được khởi lên công khai hoặc kín đáo, và bạch ngài con đây đã khởi ý như vầy: “Hay là ta nên buông rơi tâm của ta và hành động thuận theo tâm của các đại đức này?” Bạch ngài, rồi con đã buông rơi tâm con và hành động thuận theo tâm của các đại đức này. Bạch ngài, chúng con tuy có các thân khác nhau nhưng con nghĩ rằng chỉ có một tâm. Bạch ngài, chúng con sống có sự hợp nhất, thân thiện, không cãi cọ, được trạng thái như sữa với nước, và nhìn nhau bằng những ánh mắt trìu mến là như thế ấy.

– Này các vị Anuruddha, các ngươi sống có ít bị xao lãng, có sự tinh tấn và nỗ lực của bản thân hay không?

– Bạch ngài, chắc chắn là vậy! Chúng con đây sống ít bị xao lãng, có sự tinh tấn và nỗ lực của bản thân.

– Này các vị Anuruddha, các ngươi sống ít bị xao lãng, có sự tinh tấn và nỗ lực của bản thân là như thế nào?

– Bạch ngài, ở đây vị nào trong chúng con đi khất thực từ làng trở về trước tiên vị ấy sắp xếp chỗ ngồi, chuẩn bị nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân, rửa chậu đựng đồ thừa rồi đem lại, đem lại nước uống và nước rửa. Vị nào đi khất thực từ làng trở về sau cùng, nếu vật thực được ăn còn thừa lại, nếu muốn thì vị ấy có thể ăn; nếu không muốn, thì đem quăng bỏ ở nơi không có cỏ xanh hoặc đổ xuống nước không có sinh vật. Vị ấy xếp chỗ ngồi lại, dọn dẹp nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân, rửa chậu đựng đồ thừa rồi cất đi, dọn dẹp nước uống, nước rửa, và quét nhà ăn. Vị nào thấy lu nước uống, hoặc lu nước rửa, hoặc lu nước nhà vệ sinh hết nước, trống trơn, vị ấy đổ nước vào. Nếu vị ấy không làm nổi, sau khi ra hiệu bằng tay mời vị thứ hai lại, chúng con nhờ (vị kia) phụ giúp với hành động bằng tay và bạch ngài, nhưng không vì lý do đó mà chúng con nói ra lời. Bạch ngài, cứ mỗi năm ngày, chúng con ngồi lại cho việc thảo luận Giáo Pháp trọn đêm. Bạch ngài, chúng con sống ít bị xao lãng, có sự tinh tấn và nỗ lực của bản thân là như thế ấy.

Sau đó, đức Thế Tôn đã chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho đại đức Anuruddha, đại đức Nandiya, và đại đức Kimbila bằng bài Pháp thoại rồi đã từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi du hành về phía Pārileyyaka. Trong khi tuần tự du hành, ngài đã ngự đến Pārileyyaka. Tại nơi đó, ở Pārileyyaka đức Thế Tôn sống trong khu rừng cây được bảo vệ, dưới gốc cây Sāla xinh đẹp.

[249] Khi ấy, đức Thế Tôn trong khi thiền tịnh ở nơi thanh vắng có ý nghĩ suy tầm như vầy đã sanh khởi: “Trước đây, ta đã sống không thoải mái bị quấy rầy bởi các tỳ khưu ở Kosambī ấy là những vị thường gây nên các sự xung đột, cãi cọ, tranh luận, nói chuyện nhảm nhí, và tranh tụng trong hội chúng. Bây giờ, ta đây sống an lạc, thoải mái, một mình, không người thứ hai, thoát khỏi các tỳ khưu ở Kosambī ấy là những vị thường gây nên các sự xung đột, cãi cọ, tranh luận, nói chuyện nhảm nhí, và tranh tụng trong hội chúng.”

Có con long tượng nọ sống bị quấy rầy bởi những con voi, bởi những con voi cái, bởi những con voi tơ, bởi những con voi bé, và còn phải nhai các thứ cỏ đã bị đứt ngọn. Chúng nhai các nhánh cây đã được nó bẻ gãy rời ra. Và nó uống các thứ nước đã bị khuấy đục. Khi nó vượt qua dòng sông cạn thì những con voi cái chạy lại cọ xát vào thân. Khi ấy, con long tượng ấy đã khởi ý điều này: “Ta sống bị quấy rầy bởi những con voi, bởi những con voi cái, bởi những con voi tơ, bởi những con voi bé, và còn phải nhai các thứ cỏ đã bị đứt ngọn. Chúng nhai các nhánh cây đã được ta bẻ gãy rời ra. Và ta uống các thứ nước đã bị khuấy đục. Khi ta vượt qua dòng sông cạn thì những con voi cái chạy lại cọ xát vào thân. Hay là ta nên sống một mình, tách ra khỏi đám đông?” Sau đó, con long tượng ấy tách khỏi bầy đi đến Pārileyyaka, chỗ khu rừng cây được bảo vệ, nơi gốc cây Sāla xinh đẹp, gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã dùng vòi phục vụ đức Thế Tôn nước uống, nước rửa, và dọn sạch cây cỏ. Khi ấy, con long tượng ấy đã khởi ý điều này: “Trước đây ta đã sống bị quấy rầy bởi những con voi, bởi những con voi cái, bởi những con voi tơ, bởi những con voi bé, và đã nhai các thứ cỏ đã bị đứt ngọn. Chúng đã nhai các nhánh cây đã được ta bẻ gãy rời ra. Và ta đã uống các thứ nước đã bị khuấy đục. Khi ta vượt qua dòng sông cạn thì những con voi cái đã chạy lại cọ xát vào thân. Bây giờ, ta đây sống an lạc, thoải mái, một mình, không hai, thoát khỏi các con voi, các con voi cái, các con voi tơ, và các con voi bé. Khi ấy, đức Thế Tôn sau khi hiểu được sự tách ly của bản thân đã dùng tâm biết được ý nghĩ suy tầm của con long tượng ấy, rồi vào lúc ấy đã thốt lên lời cảm hứng rằng:

Voi chúa có ngà bự
cùng với chúa loài người,
tâm với tâm hợp nhất
vui rừng thẳm một mình.

[250] Sau đó, khi đã ngự tại Pārileyyaka theo như ý thích, đức Thế Tôn đã ra đi du hành đến thành Sāvatthi. Trong khi tuần tự du hành, ngài đã ngự đến thành Sāvatthi. Tại nơi đó ở thành Sāvatthi, đức Thế Tôn ngự tại Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika.

[251] Khi ấy, các cư sĩ ở Kosambī đã khởi ý điều này: “Các ngài tỳ khưu ở Kosambī này là những người đã làm nhiều điều không lợi ích cho chúng ta. Đức Thế Tôn bị quấy rầy bởi các vị này nên đã bỏ đi, vậy thì chúng ta không nên đảnh lễ các ngài tỳ khưu ở Kosambī, không nên đứng dậy chào, không nên thực hiện việc chắp tay và hành động thích hợp, không nên tôn trọng, không nên cung kỉnh, không nên sùng bái, không nên cúng dường, không nên bố thí đồ ăn khất thực cho các vị đi đến; như thế ấy các vị này trong khi không được tôn trọng, không được cung kỉnh, không được sùng bái, không được cúng dường bởi chúng ta, và khi đã không còn được tôn trọng các vị hoặc là sẽ bỏ đi, hoặc là sẽ hoàn tục, hoặc là sẽ có niềm tin nơi đức Thế Tôn.” Sau đó, các cư sĩ ở Kosambī đã không đảnh lễ, không đứng dậy chào, không thực hiện việc chắp tay và hành động thích hợp, không tôn trọng, không cung kỉnh, không sùng bái, không cúng dường, không bố thí đồ ăn khất thực cho các vị đi đến. Khi ấy, các tỳ khưu ở Kosambī trong khi không được tôn trọng, không được cung kỉnh, không được sùng bái, không được cúng dường bởi các cư sĩ ở Kosambī, và khi đã không còn được tôn trọng nữa đã nói như vầy:

– Này các đại đức, vậy thì chúng ta nên đi Sāvatthi và giải quyết sự tranh tụng này trong sự hiện diện của đức Thế Tôn.

Sau đó, các tỳ khưu ở Kosambī đã thu xếp chỗ trú ngụ rồi cầm y bát đi đến thành Sāvatthi.

[252] Đại đức Sāriputta đã nghe rằng: “Nghe nói các tỳ khưu ở Kosambī ấy là những vị thường gây nên các sự xung đột, cãi cọ, tranh luận, nói chuyện nhảm nhí, và tranh tụng trong hội chúng đang đi đến thành Sāvatthi.” Khi ấy, đại đức Sāriputta đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, đại đức Sāriputta đã nói với đức Thế tôn điều này:

– Bạch ngài, nghe nói các tỳ khưu ở Kosambī ấy là những vị thường gây nên các sự xung đột, cãi cọ, tranh luận, nói chuyện nhảm nhí, và tranh tụng trong hội chúng đang đi đến thành Sāvatthi. Bạch ngài, con nên thực hành đối với các tỳ khưu ấy như thế nào?

– Này Sāriputta, như thế thì ngươi hãy hỗ trợ (các vị nào) đúng Pháp.

– Bạch ngài, con nên hiểu đúng Pháp và sai Pháp như thế nào?

– Này Sāriputta, người nói sai Pháp sẽ được nhận biết do mười tám sự việc. Này Sāriputta, trường hợp vị tỳ khưu tuyên bố phi Pháp là “Pháp;” tuyên bố Pháp là: “Phi Pháp;” tuyên bố phi Luật là: “Luật;” tuyên bố Luật là: “Phi Luật;” tuyên bố điều đã không được giảng, không được nói bởi đức Như Lai là: “Điều đã được giảng, đã được nói bởi đức Như Lai;” tuyên bố điều đã được giảng, đã được nói bởi đức Như Lai là: “Điều đã không được giảng, không được nói bởi đức Như Lai;” tuyên bố điều không được thực hành bởi đức Như Lai là: “Điều đã được thực hành bởi đức Như Lai;” tuyên bố điều được thực hành bởi đức Như Lai là: “Điều đã không được thực hành bởi đức Như Lai;” tuyên bố điều không được quy định bởi đức Như Lai là: “Điều đã được quy định bởi đức Như Lai;” tuyên bố điều được quy định bởi đức Như Lai là: “Điều đã không được quy định bởi đức Như Lai;” tuyên bố vô tội là: “Phạm tội;” tuyên bố phạm tội là: “Vô tội;” tuyên bố tội nặng là: “Tội nhẹ;” tuyên bố tội nhẹ là: “Tội nặng;” tuyên bố tội còn dư sót là: “Tội không còn dư sót;” tuyên bố tội không còn dư sót là: “Tội còn dư sót;” tuyên bố tội xấu xa là: “Tội không xấu xa;” tuyên bố tội không xấu xa là: “Tội xấu xa.” Này Sāriputta, người nói sai Pháp sẽ được nhận biết do mười tám sự việc này.

Này Sāriputta, người nói đúng Pháp sẽ được nhận biết do mười tám sự việc. Này Sāriputta, trường hợp vị tỳ khưu tuyên bố phi Pháp là “Phi Pháp;” tuyên bố Pháp là: “Pháp;” tuyên bố phi Luật là: “Phi Luật;” tuyên bố Luật là: “Luật;” tuyên bố điều đã không được giảng, không được nói bởi đức Như Lai là: “Điều đã không được giảng, không được nói bởi đức Như Lai;” tuyên bố điều đã được giảng, đã được nói bởi đức Như Lai là: “Điều đã được giảng, đã được nói bởi đức Như Lai;” tuyên bố điều không được thực hành bởi đức Như Lai là: “Điều không được thực hành bởi đức Như Lai;” tuyên bố điều đã được thực hành bởi đức Như Lai là: “Điều đã được thực hành bởi đức Như Lai;” tuyên bố điều đã không được quy định bởi đức Như Lai là: “Điều đã không được quy định bởi đức Như Lai;” tuyên bố điều đã được quy định bởi đức Như Lai là: “Điều đã được quy định bởi đức Như Lai;” tuyên bố vô tội là: “Vô tội;” tuyên bố phạm tội là: “Phạm tội;” tuyên bố tội nhẹ là: “Tội nhẹ;” tuyên bố tội nặng là: “Tội nặng;” tuyên bố tội còn dư sót là: “Tội còn dư sót;” tuyên bố tội không còn dư sót là: “Tội không còn dư sót;” tuyên bố tội xấu xa là: “Tội xấu xa;” tuyên bố tội không xấu xa là: “Tội không xấu xa.” Này Sāriputta, người nói đúng Pháp sẽ được nhận biết do mười tám sự việc này.

[253] Rồi đại đức Mahāmoggallāna đã nghe rằng: ...(như trên)… Rồi đại đức Mahākassapa đã nghe, rồi đại đức Mahākaccāna đã nghe, rồi đại đức Mahākoṭṭhita đã nghe, rồi đại đức Mahākappina đã nghe, rồi đại đức Mahācunda đã nghe, rồi đại đức Anuruddha đã nghe, rồi đại đức Revata đã nghe, rồi đại đức Upāli đã nghe, rồi đại đức Ānanda đã nghe, rồi đại đức Rāhula đã nghe rằng: “Nghe nói các tỳ khưu ở Kosambī ấy là những vị thường gây nên các sự xung đột, cãi cọ, tranh luận, nói chuyện nhảm nhí, và tranh tụng trong hội chúng đang đi đến thành Sāvatthi.” Khi ấy, đại đức Rāhula đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, đại đức Rāhula đã nói với đức Thế tôn điều này:

– Bạch ngài, nghe nói các tỳ khưu ở Kosambī ấy là những vị thường gây nên các sự xung đột, cãi cọ, tranh luận, nói chuyện nhảm nhí, và tranh tụng trong hội chúng đang đi đến thành Sāvatthi. Bạch ngài, con nên thực hành đối với các tỳ khưu ấy như thế nào?

– Này Rāhula, như thế thì ngươi hãy hỗ trợ (các vị nào) đúng Pháp.

– Bạch ngài, con nên hiểu đúng Pháp và sai Pháp như thế nào?

– Này Rāhula, người nói sai Pháp sẽ được nhận biết do mười tám sự việc. …(như trên)… Này Rāhula, người nói sai Pháp sẽ được nhận biết do mười tám sự việc này.

Này Rāhula, người nói đúng Pháp sẽ được nhận biết do mười tám sự việc. ...(như trên)… Này Rāhula, người nói đúng Pháp sẽ được nhận biết do mười tám sự việc này.

[254] Rồi bà Mahāpajāpatī Gotamī đã nghe rằng: : “Nghe nói các tỳ khưu ở Kosambī ấy là những vị thường gây nên các sự xung đột, cãi cọ, tranh luận, nói chuyện nhảm nhí, và tranh tụng trong hội chúng đang đi đến thành Sāvatthi.” Khi ấy, bà Mahāpajāpatī Gotamī đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi đứng ở một bên. Khi đã đứng một bên, bà Mahāpajāpatī Gotamī đã nói với đức Thế tôn điều này:

– Bạch ngài, nghe nói các tỳ khưu ở Kosambī ấy là những vị thường gây nên các sự xung đột, cãi cọ, tranh luận, nói chuyện nhảm nhí, và tranh tụng trong hội chúng đang đi đến thành Sāvatthi. Bạch ngài, con nên thực hành đối với các tỳ khưu ấy như thế nào?

– Này Gotamī, như thế thì bà hãy nghe Pháp ở cả hai bên; sau khi nghe Pháp ở cả hai bên, các tỳ khưu bên nào là các vị nói đúng Pháp thì bà hãy thuận theo quan điểm, niềm tin, khuynh hướng, và lập luận của các vị ấy. Và bất cứ điều gì hội chúng tỳ khưu ni cần mong mỏi từ hội chúng tỳ khưu thì nên mong mỏi tất cả các điều ấy từ các vị nói đúng Pháp.

[255] Rồi gia chủ Anāthapiṇḍika đã nghe rằng: “Nghe nói các tỳ khưu ở Kosambī ấy là những vị thường gây nên các sự xung đột, cãi cọ, tranh luận, nói chuyện nhảm nhí, và tranh tụng trong hội chúng đang đi đến thành Sāvatthi.” Khi ấy, gia chủ Anāthapiṇḍika đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, gia chủ Anāthapiṇḍika đã nói với đức Thế tôn điều này:

– Bạch ngài, nghe nói các tỳ khưu ở Kosambī ấy là những vị thường gây nên các sự xung đột, cãi cọ, tranh luận, nói chuyện nhảm nhí, và tranh tụng trong hội chúng đang đi đến thành Sāvatthi. Bạch ngài, con nên thực hành đối với các tỳ khưu ấy như thế nào?

– Này gia chủ, như thế thì ngươi hãy nên dâng vật cúng dường cả hai bên; sau khi dâng vật cúng dường rồi hãy nghe Pháp cả hai bên; sau khi nghe Pháp cả hai bên, các tỳ khưu bên nào là các vị nói đúng Pháp thì hãy thuận theo quan điểm, niềm tin, khuynh hướng, và lập luận của các vị ấy.

[256] Rồi bà Visākhā mẹ của Migāra đã nghe rằng: “Nghe nói các tỳ khưu ở Kosambī ấy là những vị thường gây nên các sự xung đột, cãi cọ, tranh luận, nói chuyện nhảm nhí, và tranh tụng trong hội chúng đang đi đến thành Sāvatthi.” Khi ấy, bà Visākhā mẹ của Migāra đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, bà Visākhā mẹ của Migāra đã nói với đức Thế tôn điều này:

– Bạch ngài, nghe nói các tỳ khưu ở Kosambī ấy là những vị thường gây nên các sự xung đột, cãi cọ, tranh luận, nói chuyện nhảm nhí, và tranh tụng trong hội chúng đang đi đến thành Sāvatthi. Bạch ngài, con nên thực hành đối với các tỳ khưu ấy như thế nào?

– Này bà Visākhā, như thế thì ngươi hãy nên dâng vật cúng dường cả hai bên; sau khi dâng vật cúng dường rồi hãy nghe Pháp cả hai bên; sau khi nghe Pháp cả hai bên, các tỳ khưu bên nào là các vị nói đúng Pháp thì hãy thuận theo quan điểm, niềm tin, khuynh hướng, và lập luận của các vị ấy.

[257] Sau đó, theo tuần tự các tỳ khưu ở Kosambī đã đến được thành Sāvatthi. Khi ấy, đại đức Sāriputta đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, đại đức Sāriputta đã nói với đức Thế Tôn điều này:

– Bạch ngài, nghe nói các tỳ khưu ở Kosambī ấy là những vị thường gây nên các sự xung đột, cãi cọ, tranh luận, nói chuyện nhảm nhí, và tranh tụng trong hội chúng đã đến thành Sāvatthi. Bạch ngài, con nên tiến hành chỗ trú ngụ cho các tỳ khưu ấy như thế nào?

– Này Sāriputta, như thế thì ngươi nên cho chỗ trú ngụ cách biệt.

– Bạch ngài, nếu không được cách biệt thì nên thực hành như thế nào?

– Này Sāriputta, như thế thì nên làm thành cách biệt rồi giao cho. Này Sāriputta, nhưng không vì bất cứ lý do gì mà ta nói rằng: “Được xâm phạm chỗ trú ngụ của vị tỳ khưu thâm niên hơn;” vị nào xâm phạm thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).

– Bạch ngài, nên thực hành như thế nào về tài vật?

– Này Sāriputta, tài vật nên được chia phần đồng đều cho tất cả.

[258] Sau đó, vị tỳ khưu bị án treo ấy trong khi suy xét về Pháp và Luật đã khởi ý điều này: “Điều ấy là có tội, điều ấy không phải là vô tội. Ta bị phạm (tội), ta không phải là không phạm (tội). Ta bị án treo, ta không phải là không bị án treo. Ta đã bị án treo bằng hành sự đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy trì.” Khi ấy, vị tỳ khưu bị án treo ấy đã đi đến gặp các tỳ khưu ủng hộ vị bị án treo, sau khi đến đã nói với các tỳ khưu ủng hộ vị bị án treo điều này:

– Này các đại đức, điều ấy là có tội, điều ấy không phải là vô tội. Tôi bị phạm (tội), tôi không phải là không phạm (tội). Tôi bị án treo, tôi không phải là không bị án treo. Tôi đã bị án treo bằng hành sự đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy trì. Xin các đại đức hãy đến và phục hồi cho tôi.

Khi ấy, các tỳ khưu ủng hộ vị bị án treo ấy đã đưa vị tỳ khưu bị án treo ấy đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, các vị tỳ khưu ấy đã nói với đức Thế Tôn điều này:

– Bạch ngài, vị tỳ khưu bị án treo này đã nói như vầy: “Này các đại đức, điều ấy là có tội, điều ấy không phải là vô tội. Tôi bị phạm (tội), tôi không phải là không phạm (tội). Tôi bị án treo, tôi không phải là không bị án treo. Tôi đã bị án treo bằng hành sự đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy trì. Xin các đại đức hãy đến và phục hồi cho tôi.” Bạch ngài, giờ nên được thực hành như thế nào?

– Này các tỳ khưu, điều ấy là có tội, điều ấy không phải là vô tội. Vị tỳ khưu ấy bị phạm (tội), vị tỳ khưu ấy không phải là không phạm (tội). Vị tỳ khưu ấy bị án treo, vị tỳ khưu ấy không phải là không bị án treo. Vị tỳ khưu ấy đã bị án treo bằng hành sự đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy trì. Này các tỳ khưu, bởi vì vị tỳ khưu ấy đã phạm (tội), đã bị án treo, và nhìn nhận. Này các tỳ khưu, chính vì điều ấy hãy phục hồi cho vị tỳ khưu ấy.

Sau đó, các tỳ khưu ủng hộ vị bị án treo ấy đã phục hồi cho vị tỳ khưu bị án treo ấy rồi đã đi đến gặp các tỳ khưu đã ban án treo, sau khi đến đã nói với các tỳ khưu đã ban án treo điều này:

– Này các đại đức, trong sự kiện mà hội chúng có sự xung đột, sự cãi cọ, sự lý luận, sự tranh luận, sự chia rẽ hội chúng, sự bất đồng trong hội chúng, sự đấu khẩu trong hội chúng, sự khác biệt trong hội chúng, vị tỳ khưu này đây đã phạm (tội), đã bị án treo, đã nhìn nhận, và đã được phục hồi. Này các đại đức, vậy chúng ta hãy tiến hành sự hợp nhất hội chúng để giải quyết sự kiện ấy.

Sau đó, các tỳ khưu đã ban án treo ấy đã đi đến gặp đức Thế tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, các tỳ khưu đã ban án treo ấy đã nói với đức Thế Tôn điều này:

– Bạch ngài, các tỳ khưu ủng hộ vị bị án treo ấy đã nói như vầy: “Này các đại đức, trong sự kiện mà hội chúng có sự xung đột, sự cãi cọ, sự lý luận, sự tranh luận, sự chia rẽ hội chúng, sự bất đồng trong hội chúng, sự đấu khẩu trong hội chúng, sự khác biệt trong hội chúng, vị tỳ khưu này đây đã phạm (tội), đã bị án treo, đã nhìn nhận, và đã được phục hồi. Này các đại đức, vậy chúng ta hãy tiến hành sự hợp nhất hội chúng để giải quyết sự kiện ấy.” Bạch ngài, giờ nên được thực hành như thế nào?

– Này các tỳ khưu, bởi vì vị tỳ khưu ấy đã phạm (tội), đã bị án treo, đã nhìn nhận, và đã được phục hồi. Này các tỳ khưu, chính vì điều ấy hội chúng hãy tiến hành sự hợp nhất hội chúng để giải quyết sự kiện ấy. Và này các tỳ khưu, nên được tiến hành như vầy:

Toàn bộ tất cả gồm các vị bị bệnh và không bị bệnh nên tụ hội lại một chỗ, và không một ai được phép gởi lời tùy thuận. Sau khi đã tụ hội lại, hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:

“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Trong sự kiện mà hội chúng có sự xung đột, sự cãi cọ, sự lý luận, sự tranh luận, sự chia rẽ hội chúng, sự bất đồng trong hội chúng, sự đấu khẩu trong hội chúng, sự khác biệt trong hội chúng, vị tỳ khưu này đây đã phạm (tội), đã bị án treo, đã nhìn nhận, và đã được phục hồi. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên tiến hành sự hợp nhất hội chúng để giải quyết sự kiện ấy. Đây là lời đề nghị.

Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Trong sự kiện mà hội chúng có sự xung đột, sự cãi cọ, sự lý luận, sự tranh luận, sự chia rẽ hội chúng, sự bất đồng trong hội chúng, sự đấu khẩu trong hội chúng, sự khác biệt trong hội chúng, vị tỳ khưu này đây đã phạm (tội), đã bị án treo, đã nhìn nhận, và đã được phục hồi. Hội chúng tiến hành sự hợp nhất hội chúng để giải quyết sự kiện ấy. Đại đức nào đồng ý việc tiến hành sự hợp nhất hội chúng để giải quyết sự kiện ấy xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.

Sự hợp nhất hội chúng để giải quyết sự kiện ấy đã được hội chúng tiến hành. Sự chia rẽ hội chúng đã được dàn xếp. Sự bất đồng hội chúng đã được dàn xếp. Sự đấu khẩu trong hội chúng đã được dàn xếp. Sự khác biệt trong hội chúng đã được dàn xếp. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”

Lập tức sau đó, lễ Uposatha nên được tiến hành. Giới bổn Pātimokkha nên được đọc tụng.

[259] Sau đó, đại đức Upāli đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, đại đức Upāli đã nói với đức Thế Tôn điều này:

– Bạch ngài, trong sự kiện mà hội chúng có sự xung đột, sự cãi cọ, sự lý luận, sự tranh luận, sự chia rẽ hội chúng, sự bất đồng trong hội chúng, sự đấu khẩu trong hội chúng, sự khác biệt trong hội chúng, hội chúng không điều tra sự kiện ấy và xác định nguyên nhân không đúng rồi tiến hành sự hợp nhất hội chúng; bạch ngài, có phải sự hợp nhất hội chúng ấy là đúng Pháp?

– Này Upāli, trong sự kiện mà hội chúng có sự xung đột, sự cãi cọ, sự lý luận, sự tranh luận, sự chia rẽ hội chúng, sự bất đồng trong hội chúng, sự đấu khẩu trong hội chúng, sự khác biệt trong hội chúng, hội chúng không điều tra sự kiện ấy và xác định không đúng nguyên nhân rồi tiến hành sự hợp nhất; này Upāli, sự hợp nhất hội chúng ấy là sai Pháp.

– Bạch ngài, trong sự kiện mà hội chúng có sự xung đột, sự cãi cọ, sự lý luận, sự tranh luận, sự chia rẽ hội chúng, sự bất đồng trong hội chúng, sự đấu khẩu trong hội chúng, sự khác biệt trong hội chúng, hội chúng điều tra sự kiện ấy và xác định đúng nguyên nhân rồi tiến hành sự hợp nhất; bạch ngài, có phải sự hợp nhất hội chúng ấy là đúng Pháp?

– Này Upāli, trong sự kiện mà hội chúng có sự xung đột, sự cãi cọ, sự lý luận, sự tranh luận, sự chia rẽ hội chúng, sự bất đồng trong hội chúng, sự đấu khẩu trong hội chúng, sự khác biệt trong hội chúng, hội chúng điều tra sự kiện ấy và xác định đúng nguyên nhân rồi tiến hành sự hợp nhất; này Upāli, sự hợp nhất hội chúng ấy là đúng Pháp.

– Bạch ngài, sự hợp nhất hội chúng có bao nhiêu loại?

– Này Upāli, sự hợp nhất hội chúng có hai loại. Này Upāli, có sự hợp nhất hội chúng không đạt được mục đích (atthāpetā) chỉ đạt được từ ngữ (byañjanupetā) và có loại vừa đạt được mục đích vừa đạt được từ ngữ.[2] Này Upāli, thế nào sự hợp nhất hội chúng không đạt được mục đích chỉ đạt được từ ngữ? Này Upāli, trong sự kiện mà hội chúng có sự xung đột, sự cãi cọ, sự lý luận, sự tranh luận, sự chia rẽ hội chúng, sự bất đồng trong hội chúng, sự đấu khẩu trong hội chúng, sự khác biệt trong hội chúng, hội chúng không điều tra sự kiện ấy và xác định không đúng nguyên nhân rồi tiến hành sự hợp nhất; này Upāli, việc này gọi là sự hợp nhất hội chúng không đạt được mục đích chỉ đạt được từ ngữ. Này Upāli, thế nào sự hợp nhất hội chúng vừa đạt được mục đích vừa đạt được từ ngữ? Này Upāli, trong sự kiện mà hội chúng có sự xung đột, sự cãi cọ, sự lý luận, sự tranh luận, sự chia rẽ hội chúng, sự bất đồng trong hội chúng, sự đấu khẩu trong hội chúng, sự khác biệt trong hội chúng, hội chúng điều tra sự kiện ấy và xác định đúng nguyên nhân rồi tiến hành sự hợp nhất; này Upāli, việc này gọi là sự hợp nhất hội chúng vừa đạt được mục đích vừa đạt được từ ngữ. Này Upāli, đây là hai sự hợp nhất hội chúng.

Sau đó, đại đức Upāli đã từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp thượng y một bên vai, chắp tay lên cúi chào đức Thế Tôn, rồi trình lên đức Thế Tôn những lời kệ này:

[260]

Trong những việc phận sự,
cuộc thảo luận, điều tra,
những vấn đề sanh khởi
thuộc về của hội chúng,
ở đây hạng người nào
đem lại nhiều lợi ích?
ở đây tỳ khưu nào
xứng là vị tiên phong?
Giới luật được xét đầu
vị không bị chê bai
sở hành được xem xét,
(sáu) căn được canh phòng.
Ngay những kẻ đối đầu
đúng Pháp không thể trách
hay gièm pha vị ấy
bởi vì chẳng có chi.
Vị như thế tồn tại
nhờ giới đã thanh tịnh
vị có niềm tự tín
đối đáp được suốt thông,
vị đi vào đám đông
không run không sợ hãi
vị nói có mục đích
không bỏ lở chủ đề.
Cũng thế giữa hội chúng
được hỏi một vấn đề
vị ấy không ngần ngại
và không gì xấu hổ
vị ấy nói đúng thời
lời giải thích xứng đáng
vị thông minh rạng rỡ
hội chúng bậc thức tri.
Vị ấy luôn tôn kính
các tỳ khưu trưởng thượng
và đặt trọn niềm tin
ở bậc thầy vị ấy,
có khả năng nắm bắt
rành rẽ điều được học
vị biết cách chận đứng
(lời) những kẻ nghịch thù.
Những kẻ là đối thủ
đành chịu thế quy hàng
đám đông người hành theo
điều được người giảng rõ.
Bản thân không xao lãng
niềm tin của chính mình,
có những câu hỏi đáp
không thương tổn tha nhân.
Có khả năng hiểu rõ
trong công việc đưa tin
hành sự của hội chúng
theo như lời căn dặn.
Chuyển việc làm lời nhắn
của nhóm các tỳ khưu
không vì thế suy nghĩ
“Ta đang làm công việc.”
Khi một ai phạm tội
dẫu có lắm nguồn cơn
như thế nào các tội
và phương thức thoát ra,
các bộ phân tích ấy
lưỡng phái được truyền thừa
vị thiện xảo chi tiết
việc thoát ra các tội.
Vị bị phạt cách ly
từ những sở hành nào,
và vị bị tách ra
các phận sự thế nào,
việc phục hồi điều ấy
cho vị đã sống qua
rành rẽ việc phân tích
điều ấy cũng được biết.
Vị ấy luôn tôn kính
các tỳ khưu trưởng thượng
mới tu và trưởng lão,
hoặc các vị trung niên,
ở đây bậc trí tuệ
đem lợi ích nhiều người
tỳ khưu như thế ấy
xứng lãnh đạo nơi đây.

Chương Kosambī là chương thứ mười.

******

Tóm lược chương này:

[261]

Bậc Chiến Thắng cao cả
ở tại Kosambī
tranh cãi việc thấy tội
có thể ban án treo
trong tội ấy là tội
mà vị ấy thấy được,
nơi ấy trong ranh giới.
Ngôi làng Bālaka
vườn cây Pācīna,
rừng Pārileyyā,
và thành Sāvatthi,
ngài Sāriputta,
và ngài Kolita,
Mahākassapa,
Mahākaccāna,
ngài Mahācunda,
ngài Anuruddha,
rồi ngài Revata,
và ngài Upāli,
cả ngài Ānanda,
ngài Rāhula nữa,
vị ni Gotamī,
rồi ông Cấp Cô Độc,
và bà Visākhā
mẹ của Migāra,
chỗ trú ngụ cách biệt
tài vật được đồng đều,
không ai gởi tùy thuận.
Upāli vấn hỏi
sự không bị chê trách
do giới thành hợp nhất
lời dạy bậc Chiến Thắng.

Đại Phẩm được đầy đủ.

-ooOoo-

Chú giải

Chú giải
1 … đã thực hiện sự va chạm bằng tay (dịch sát nghĩa).
2 Chúng tôi nghĩ rằng có thể dùng hai từ “nội dung” và “hình thức” trong trường hợp này.