Giải Thích Kinh Về Pāyāsi
(Pāyāsisuttavaṇṇanā (23))PāyāsiXem Trường Bộ Kinh – Kinh Tuệ Túc (Pāyāsi)
- Evaṃ me sutanti pāyāsirājaññasuttaṃ. Tatrāyamapubbapadavaṇṇanā – Āyasmāti piyavacanametaṃ. Kumārakassapoti tassa nāmaṃ. Kumārakāle pabbajitattā pana bhagavatā “kassapaṃ pakkosatha, idaṃ phalaṃ vā khādanīyaṃ vā kassapassa dethā”ti vutte “katarakassapassā”ti. “Kumārakassapassā”ti evaṃ gahitanāmattā tato paṭṭhāya vuḍḍhakālepi “kumārakassapo” tveva vuccati. Apica rañño posāvanikaputtattāpi taṃ kumārakassapoti sañjāniṃsu.
Bài Kinh về Pāyāsi được bắt đầu như sau ‘Tôi đã nghe như vầy…’ Trong bài Kinh này được giải thích chi tiết theo trình tự các câu như sau – Đại đức: đây là lời đáng yêu. Kumārakassapa: tên của ngài. Hơn nữa, do ngài xuất gia khi vẫn còn là một cậu bé, đức Thế Tôn đã căn dặn các tỳ khưu rằng: “Hãy gọi Kassapa đến đây, hãy cho trái cây này, món ăn này đến Kassapa.” Các tỳ khưu băn khoăn không biết Kassapa nào (vì có nhiều vị tên Kassapa), nên đã đặt tên là “Kumāra Kassapa”. Kể từ đó trở đi, cho đến khi trưởng thành, mọi người vẫn gọi ngài là Kumāra Kassapa. Một khía cạnh khác, bởi vì Ngài là con nuôi của vua Pasenadi Kosala, nên mọi người nhận biết ngài là Kumāra Kassapa.
Ayaṃ panassa pubbayogato paṭṭhāya āvibhāvakathā – Thero kira padumuttarassa bhagavato kāle seṭṭhiputto ahosi. Athekadivasaṃ bhagavantaṃ citrakathiṃ ekaṃ attano sāvakaṃ etadagge ṭhapentaṃ disvā bhagavato sattāhaṃ dānaṃ datvā “ahampi bhagavā anāgate ekassa buddhassa ayaṃ thero viya citrakathī sāvako bhavāmī”ti patthanaṃ katvā puññāni karonto kassapassa bhagavato sāsane pabbajitvā visesaṃ nibbattetuṃ nāsakkhi. Tadā kira parinibbutassa bhagavato sāsane osakkante pañca bhikkhū nisseṇiṃ bandhitvā pabbataṃ āruyha samaṇadhammaṃ akaṃsu. Saṅghatthero tatiyadivase arahattaṃ patto, anuthero catutthadivase anāgāmī ahosi, itare tayo visesaṃ nibbattetuṃ asakkontā devaloke nibbattā.
Sẽ trình bày câu chuyện về ngài một cách rõ ràng, bắt đầu từ phần mở đầu như sau — Được biết rằng, trưởng lão Kumāra Kassapa là con trai của một vị trưởng giả, sống vào thời Đức Phật Padumuttara. Một ngày nọ, ngài chứng kiến đức Phật đã thiết lập một vị đệ tử của ngài vào vị thế tối thắng là– vị có khả năng thuyết giảng tài hoa. Sau đó, ngài đã cúng dường đến đức Phật trong suốt 7 ngày và đã phát nguyện rằng: “Ngay cả con cũng sẽ trở thành một vị đệ tử có khả năng thuyết giảng tài hoa giống như vị trưởng lão này của một vị Phật trong thời vị lai.” Ngài tiếp tục tạo nhiều việc thiện và đã xuất gia trong giáo pháp của đức Thế Tôn Kassapa, nhưng không thể khiến pháp đặc biệt cao quý sanh khởi. Kể rằng, khi đó vào lúc đức Thế Tôn đã viên tịch Niết Bàn, giáo pháp bắt đầu suy giảm, có 5 vị tỳ kheo đã dựng cầu thang lên núi để thực hành Sa-môn Pháp. Vị trưởng lão trưởng nhóm đã đạt quả vị A-ra-hán vào ngày thứ ba, vị trưởng lão phó nhóm đã đạt quả vị Bất Lai vào ngày thứ tư; ba vị tỳ kheo còn lại không thể đạt được pháp đặc biệt cao quý khởi lên, đã hóa sinh vào cõi Trời.
Tesaṃ ekaṃ buddhantaraṃ devesu ca manussesu ca sampattiṃ anubhavantānaṃ eko takkasilāyaṃ rājakule nibbattitvā pakkusāti nāma rājā hutvā bhagavantaṃ uddissa pabbajitvā rājagahaṃ uddissa āgacchanto kumbhakārasālāyaṃ bhagavato dhammadesanaṃ sutvā anāgāmiphalaṃ patto. Eko ekasmiṃ samuddapaṭṭane kulaghare nibbattitvā nāvaṃ āruyha bhinnanāvo dārucīrāni nivāsetvā lābhasampattiṃ patto “ahaṃ arahā”ti cittaṃ uppādetvā “na tvaṃ arahā, gaccha, satthāraṃ upasaṅkamitvā pañhaṃ pucchā”ti atthakāmāya devatāya codito tathā katvā arahattaphalaṃ patto.
Trong số ba vị tỳ khưu được thọ hưởng sự thành tựu ở cõi trời và cõi người trong suốt một khoảng thời gian giữa hai vị Phật, một vị tái sinh vào dòng dõi hoàng gia tại kinh thành Takkasilā, trở thành quốc vương với danh hiệu Pukkusāti, ngài đã xuất gia để dâng cúng đến đức Thế Tôn, rồi hướng đến kinh thành Rājagaha. Tại đây, sau khi lắng nghe bài pháp thoại của Đức Thế Tôn tại xưởng làm đồ gốm ngài đã chứng đắc Quả Bất Lai. Một vị đã tái sinh vào gia đình tại một bến cảng có tên là Supaṭṭana ở gần biển. Trong một chuyến đi thuyền, thuyền bị đắm, và người này phải dùng gỗ làm khố để che thân, đã nhận được nhiều lợi đắc (vì mọi người hiểu nhầm là bậc A-ra-hán nên họ đã kính cúng dường). Chính bản thân người này cũng nghĩ rằng mình là bậc A-ra-hán. Một vị thiên nhân mong mỏi điều lợi ích đã nhắc nhở rằng: “Ngài không phải là bậc A-ra-hán. Hãy đến gặp bậc Đạo Sư để hỏi câu hỏi.” Vị ấy đã làm theo lời khuyên của vị thiên nhân, nhờ đó đã chứng đắc Quả A-ra-hán.
Eko rājagahe ekissā kuladārikāya kucchimhi uppanno. Sā ca paṭhamaṃ mātāpitaro yācitvā pabbajjaṃ alabhamānā kulagharaṃ gantvā gabbhaṃ gaṇhi. Gabbhasaṇṭhitampi ajānanti sāmikaṃ ārādhetvā tena anuññātā bhikkhunīsu pabbajitā, tassā gabbhanimittaṃ disvā bhikkhuniyo devadattaṃ pucchiṃsu. So “assamaṇī”ti āha. Dasabalaṃ pucchiṃsu. Satthā upālittheraṃ sampaṭicchāpesi. Thero sāvatthinagaravāsīni kulāni visākhañca upāsikaṃ pakkosāpetvā sodhento “pure laddho gabbho, pabbajjā arogā”ti āha. Satthā “suvinicchitaṃ adhikaraṇa”nti therassa sādhukāramadāsi. Sā bhikkhunī suvaṇṇabimbasadisaṃ puttaṃ vijāyi. Taṃ gahetvā rājā pasenadi kosalo posāpesi. “Kassapo”ti cassa nāmaṃ katvā aparabhāge alaṅkaritvā satthu santikaṃ netvā pabbājesi. Iti naṃ rañño posāvanikaputtattāpi “kumārakassapo”ti sañjāniṃsūti. Taṃ ekadivasaṃ andhavane samaṇadhammaṃ karontaṃ atthakāmā devatā pañhe uggahāpetvā “ime pañhe bhagavantaṃ pucchā”ti āha. Thero pañhe pucchitvā pañhavissajjanāvasāne arahattaṃ pāpuṇi. Bhagavāpi taṃ citrakathikānaṃ bhikkhūnaṃ aggaṭṭhāne ṭhapesi.
Vị còn lại đã tái sinh vào bụng người phụ nữ của gia đình danh giá tại kinh thành Rājagaha. Người phụ nữ ấy ban đầu van xin mẹ để được xuất gia nhưng không thành, cho đến khi kết hôn, mà nàng cũng không biết mình đang mang thai. Sau khi làm hài lòng chồng, cô được chồng đồng ý và đã xuất gia trở thành tỳ khưu ni, sống trong Hội Chúng các tỳ kheo ni. Các tỳ kheo ni phát hiện cô mang thai mới hỏi Devadatta. Devadatta đã nói rằng: “Cô không phải là Sa-môn.” Khi vẫn còn nghi ngờ, họ đã đến hỏi đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn đã chỉ định trưởng lão Upāli tiếp nhận và giải quyết sự việc. Trưởng lão mời các gia đình ở kinh thành Sāvatthī và nữ thí chủ Visākhā đến kiểm chứng sự thật (sau khi xác minh) trưởng lão đã kết luận rằng: “Nàng đã mang thai trước, nên việc xuất gia không bị hoại.” Bậc Đạo Sư đã ban lời khen ngợi đến trưởng lão rằng: “sự tranh tụng đã được giải quyết đúng đắn.” Vị tỳ kheo ni ấy sau đó hạ sinh một đứa bé trai, được ví như được đúc từ vàng ròng. Đức vua Pasenadi Kosala đã nhận đứa trẻ đó về nuôi dưỡng và đặt tên là Kassapa. Sau khi Kassapa trưởng thành, nhà vua đã đưa ngài đến gửi gắm ở trú xứ của bậc Đạo Sư để cho xuất gia. Vì lý do đó, mọi người mới nhận biết gọi ngài là Kumāra Kassapa và cũng bởi ngài là con nuôi của đức vua. Vào một ngày nọ, ngài đang thực hành Sa-môn Pháp tại khu rừng Andhavana, một vị thiên nhân mong mỏi điều lợi ích mới cho ngài học một số câu hỏi và nói ngài đến hỏi những câu hỏi đó cùng với đức Thế Tôn. Ngài đã làm theo lời khuyên của thiên thần, và sau khi trình bày các câu hỏi lên đức Thế Tôn. Trưởng lão sau khi hỏi các câu hỏi đã chứng đắc quả vị A-ra-hán khi phần giải đáp các câu hỏi kết thúc. Chính đức Thế Tôn cũng đã thiết lập ngài vào vị thế tối thắng của các vị tỳ khưu có khả năng thuyết giảng tài hoa.
Setabyāti tassa nagarassa nāmaṃ. Uttarena setabyanti setabyato uttaradisāya. Rājaññoti anabhisittakarājā. Diṭṭhigatanti diṭṭhiyeva. Yathā gūthagataṃ muttagatanti vutte na gūthādito aññaṃ atthi, evaṃ diṭṭhiyeva diṭṭhigataṃ. Itipi natthīti taṃ taṃ kāraṇaṃ apadisitvā evampi natthīti vadati. Purā…pe… saññāpetīti yāva na saññāpeti.
Thành phố Setabyā: là tên của thành phố đó. Về phía bắc của Setabyā: về phía bắc của thành phố Setabyā. Vương gia: chỉ một vị vua chưa được chính thức làm lễ tấn phong. Tà kiến: chính là quan niệm sai lầm. Như nói rằng: ‘đi trong hố phân’, ‘đi trong hố nước tiểu’ thì không có thứ gì khác ngoài phân, v.v. tương tự như thế chính quan niệm sai lầm ấy cũng tức tà kiến. Như thế thì không có (thế giới khác): Vương gia Pāyāsi nói rằng: Dẫu cho ngài dẫn chứng những lý do như thế này thế nọ là như vậy, thế giới khác cũng không có. Trước đây …. không kinh nghiệm ở thành Setabyā tin: Vẫn chưa có kinh nghiệm nào.
Ví dụ về mặt trăng và mặt trời
- Ime bho, kassapa, candimasūriyāti so kira therena pucchito cintesi “ayaṃ samaṇo paṭhamaṃ candimasūriye upamaṃ āhari, candimasūriyasadiso bhavissati paññāya, anabhibhavanīyo aññena, sace panāhaṃ ‘candimasūriyā imasmiṃ loke’ti bhaṇissāmi, ‘kiṃ nissitā ete, kittakapamāṇā, kittakaṃ uccā’tiādīhi paliveṭhessati. Ahaṃ kho panetaṃ nibbeṭhetuṃ na sakkhissāmi, ‘parasmiṃ loke’ iccevassa kathessāmī”ti. Tasmā evamāha.
Thưa ngài Kassapa, mặt trăng và mặt trời: Nghe răng vương gia Pāyāsi khi bị vị trưởng lão chất vấn, đã khởi lên suy nghĩ rằng— “Vị sa-môn này đã đem mặt trăng và mặt trời đến để so sánh trước, sẽ là người mà người khác không thể áp đảo bằng trí tuệ, tương tợ như mặt trăng và mặt trời. Nếu ta trả lời rằng ‘mặt trăng và mặt trời tồn tại ở thế giới này’, vị sa-môn ấy sẽ gây khó khăn cho ta bằng những câu hỏi sâu sắc như: “Mặt trăng và mặt trời ấy y cứ vào đâu? rộng bao nhiêu? cao bao nhiêu?’” Điều ấy quả thật ta không có khả năng để gỡ rối, thế nên ta sẽ trả lời rằng: “chúng tồn tại ở thế giới khác”. Do đó, vương gia Pāyāsi đã trả lời như vậy.
Bhagavā pana tato pubbe na cirasseva sudhābhojanīyajātakaṃ kathesi. Tattha “cande cando devaputto, sūriye sūriyo devaputto”ti āgataṃ. Bhagavatā ca kathitaṃ jātakaṃ vā suttantaṃ vā sakalajambudīpe patthaṭaṃ hoti, tena so “ettha nivāsino devaputtā natthī”ti na sakkā vattunti cintetvā devā te na manussāti āha.
Hơn nữa, đức Thế Tôn đã nói đến Bổn sanh Sudhābhojanīya không lâu trước bài Kinh Pāyāsi. Trong Bổn sanh Sudhābhojanīya “mặt trăng là Thiên tử Chandra, mặt trời là Thiên tử Suriya.” Bổn sanh hoặc bài Kinh được đức đức Thế Tôn thuyết giảng giải đã được lan truyền khắp cõi Jambudīpa. Do đó, vương gia Pāyāsi sau khi suy nghĩ đã không thể nói rằng– “Các vị Thiên tử trú ngụ ở mặt trăng và mặt trời không tồn tại.” Vì vậy, đã trả lời rằng— “Mặt trăng và mặt trời là các vị Thiên tử, không phải loài người.”
- Atthi pana, rājañña, pariyāyoti atthi pana kāraṇanti pucchati. Ābādhikāti visabhāgavedanāsaṅkhātena ābādhena samannāgatā. Dukkhitāti dukkhappattā. Bāḷhagilānāti adhimattagilānā. Saddhāyikāti ahaṃ tumhe saddahāmi, tumhe mayhaṃ saddhāyikā saddhāyitabbavacanāti attho. Paccayikāti ahaṃ tumhe pattiyāmi, tumhe mayhaṃ paccayikā pattiyāyitabbāti attho.
Vậy này vương gia, có phải là có phương thức: Trưởng lão hỏi rằng vậy còn có nguyên nhân khác nào khác nữa? Những người bị lâm bệnh: những người mang tật bệnh, được xem là người có cảm thọ không tương hợp. Bị khổ sở: đi đến trạng thái đau khổ. Có bệnh trầm trọng: Bị bệnh vô cùng nghiêm trọng. Những người đáng tin cậy: Chúng tôi tin tưởng các vị, là những người đáng tin cậy, có lời nói đáng tin của chúng tôi. Tín nhiệm của ta: Chúng tôi tin tưởng các vị, các vị là những người đáng tin tưởng, đáng tin cậy của chúng tôi.
Nói về ví dụ tên cướp
- Uddisitvāti tesaṃ attānañca paṭisāmitabhaṇḍakañca dassetvā, sampaṭicchāpetvāti attho. Vippalapantassāti “putto me, dhītā me, dhanaṃ me”ti vividhaṃ palapantassa. Nirayapālesūti niraye kammakāraṇikasattesu. Ye pana “kammameva kammakāraṇaṃ karoti, natthi nirayapālā”ti vadanti. Te “tamenaṃ, bhikkhave, nirayapālā”ti devadūtasuttaṃ paṭibāhanti. Manussaloke rājakulesu kāraṇikamanussā viya hi niraye nirayapālā honti.
Thông báo: Sau khi trình diện bản thân và những vật phẩm được giữ lại cho những người ấy, để họ tiếp nhận. Đang còn than van: Lảm nhảm rằng– “Con trai của tôi, con gái của tôi, tài sản của tôi.” Những người canh giữ địa ngục: Những người trừng phạt chúng sanh ở địa ngục. Những người nào nói rằng— “Chính nghiệp lực đã cho thực hiện hình phạt, chớ không có người canh giữ địa ngục.” Những người ấy phủ nhận bằng bài kinh Devadūta rằng— “Này các tỳ khưu, người canh giữ địa ngục bắt giữ người ấy, v.v,” Người canh giữ địa ngục ở địa ngục, giống như những người thực hiện hình phạt trong dòng dõi vua chúa ở cõi nhân loại vậy. - Veḷupesikāhīti veḷuvilīvehi. Sunimmajjathāti yathā suṭṭhu nimmajjitaṃ hoti, evaṃ nimmajjatha, apanethāti attho. Asucīti amanāpo. Asucisaṅkhātoti asucikoṭṭhāsabhūto asucīti ñāto vā. Duggandhoti kuṇapagandho. Jegucchoti jigucchitabbayutto. Paṭikūloti dassaneneva paṭighāvaho. Ubbādhatīti divasassa dvikkhattuṃ nhatvā tikkhattuṃ vatthāni parivattetvā alaṅkatapaṭimaṇḍitānaṃ cakkavattiādīnampi manussānaṃ gandho yojanasate ṭhitānaṃ devatānaṃ kaṇṭhe āsattakuṇapaṃ viya bādhati.
- Dùng các thanh tre: với các thanh tre. Gạt sạch: Phân là thứ cần được gạt sạch theo cách nào thì phải gạt sạch theo cách đó, có nghĩa là hãy gạt sạch, hãy loại bỏ như vậy. Không sạch sẽ: không đáng ưa thích. Được xem là không sạch sẽ: Là phần không sạch sẽ, hoặc được biết đến là thứ không sạch sẽ. Mùi hôi thối: Mùi hôi như mùi của xác chết. Nhờm gớm: có tính chất đáng kinh tởm. Ghê tởm: Mang lại sự khó chịu chỉ bằng việc nhìn thấy. Quấy nhiễu: Mùi của con người, ngay cả khi là hoàng đế tắm hai lần một ngày, thay hoàng bào mỗi một ngày ba lần, và được trang điểm, vẫn tỏa ra mùi hôi giống như mùi xác chết treo trên cổ các vị Thiên xa tới hàng trăm do-tuần.
416. Puna pāṇātipātādipañcasīlāni samādāyavattentānaṃ vasena vadati. Tāvatiṃsānanti idañca dūre nibbattā tāva mā āgacchantu, ime kasmā na entīti vadati.
Cõi trời Đạo Lợi: Ngài cũng nói thêm về sức mạnh của những người thọ trì năm giới như không sát sanh, v.v, và vẫn đang thực hiện. Và ngài giải thích rằng— “thuộc về các vị Thiên nhân của cõi trời Đao Lợi” như sau các vị Thiên sanh ra ở xa chớ đến trước. Vì lý do gì mà các vị Thiên này không đến?418. Jaccandhūpamomaññe paṭibhāsīti jaccandho viya upaṭṭhāsi. Araññavanapatthānīti araññakaṅgayuttatāya araññāni, mahāvanasaṇḍatāya vanapatthāni. Pantānīti dūrāni.
Có vẻ giống như người mù bẩm sinh: xuất hiện như người mù bẩm sinh. Thân cận các khu rừng: ở nơi được gọi là rừng rậm bởi gắn liền với những yếu tố của người sống trong rừng, chỗ heo hút bởi vì đó là một khu vực rừng lớn. Xa vắng có ít âm thanh: xa tít.
419. Kalyāṇadhammeti teneva sīlena sundaradhamme. Dukkhapaṭikūleti dukkhaṃ apatthente. Seyyo bhavissatīti paraloke sugatisukhaṃ bhavissatīti adhippāyo.
Có thiện pháp: có pháp tốt đẹp nhờ vào chính giới ấy. Ngại khổ: Người không mong muốn khổ. Sẽ tốt hơn: Ý định sẽ có sự an lạc ở cảnh giới tốt đẹp trong cõi trời khác.
420. Upavijaññāti upagatavijāyanakālā, paripakkagabbhā na cirasseva vijāyissatīti attho. Opabhoggā bhavissatīti pādaparicārikā bhavissati. Anayabyasananti mahādukkhaṃ. Ayoti sukhaṃ, na ayo anayo, dukkhaṃ. Tadetaṃ sabbaso sukhaṃ byasati vikkhipatīti byasanaṃ. Iti anayova byasanaṃ anayabyasanaṃ, mahādukkhanti attho. Ayonisoti anupāyena. Apakkaṃ na paripācentīti apariṇataṃ akhīṇaṃ āyuṃ antarāva na upacchindanti. Paripākaṃ āgamentīti āyuparipākakālaṃ āgamenti. Dhammasenāpatināpetaṃ vuttaṃ –
‘‘Nābhinandāmi maraṇaṃ, nābhinandāmi jīvitaṃ;
Kālañca paṭikaṅkhāmi, nibbisaṃ bhatako yathāti. (theragā. 1001);
- Gần ngày lâm bồn: Thời gian sanh nở đang đến gần, thai kỳ đã trưởng thành, và sẽ không lâu nữa là sẽ sinh con. Sẽ thuộc quyền sử dụng của con: sẽ trở thành người hầu hạ. Sự bất hạnh: Đau khổ lớn. An lạc gọi là ‘Aya’, không phải ‘Aya’, là đau khổ. Chính đau khổ đó sẽ xua đuổi hoàn toàn sự an lạc; vì vậy nó được gọi là ‘sự suy sụp’. ‘Sự suy sụp’ là đau khổ, còn ‘anabyasana’ được giải thích là nỗi đau khổ lớn. Không khéo léo: không đúng đường lối. Không ép cho chín muồi cái chưa chín: không cắt đứt tuổi thọ vẫn chưa chín muồi hoặc chưa hoàn toàn cạn kiệt trong giai đoạn. Chờ đợi nó được chín muồi: chờ đợi thời gian tuổi thọ chín muồi. Điều này đã được ngài Tướng quân Chánh pháp nói rằng—
“Tôi không vui thích sự chết, tôi không vui thích sự sống, và tôi chờ đợi thời điểm, giống như người làm thuê chờ đợi tiền công. (theragā. 1001);
- Ubbhinditvāti mattikālepaṃ bhinditvā.
Đập bể (lớp đất sét): Đập bể lớp đất được trát lên. - Rāmaṇeyyakanti ramaṇīyabhāvaṃ. Velāsikāti khiḍḍāparādhikā. Komārikāti taruṇadārikā. Tuyhaṃ jīvanti supinadassanakāle nikkhamantaṃ vā pavisantaṃ vā jīvaṃ api nu passanti. Idha cittācāraṃ ‘‘jīva’’nti gahetvā āha. So hi tattha jīvasaññīti.
Đáng yêu: tính chất làm say mê. Velāsikā: những đứa bé gái mải mê đùa giỡn. Komārikā: những đứa trẻ tuổi thanh xuân. Nhìn thấy mạng sống của ngài: Phải chăng những người phụ nữ ấy nhìn thấy sinh sống đi ra hoặc đi vào trong lúc vương gia nằm mộng. Ở đây, trưởng lão cho rằng “mạng sống” là trạng thái hoạt động của tâm, nên đã diễn giải như vậy. Bởi vì, ngài hiểu trạng thái hoạt động này của tâm ấy là “mạng sống”. - Jiyāyāti dhanujiyāya, gīvaṃ veṭhetvāti attho. Patthinnataroti thaddhataro. Iminā kiṃ dasseti? Tumhe jīvakāle sattassa pañcakkhandhāti vadanti, cavanakāle pana rūpakkhandhamattameva avasissati, tayo khandhā appavattā honti, viññāṇakkhandho gacchati. Avasiṭṭhena rūpakkhandhena lahutarena bhavitabbaṃ, garukataro ca hoti. Tasmā natthi koci kuhiṃ gantāti imamatthaṃ dasseti.
Sợi dây cung: buộc mạng sống bằng sợi dây cung. Cứng nhắc hơn: cứng rắn. Vương gia Pāyāsi trình bày điều gì với lời này? Các ngài nói rằng lúc khi còn sống, chúng sanh có 5 uẩn, nhưng khi chết đi chỉ còn lại sắc uẩn và 3 uẩn kia không vận hành, thức uẩn cũng biến mất. Sắc uẩn còn lại đáng lẽ phải nhẹ đi, nhưng ngược lại, nó trở nên nặng hơn. Vì vậy, không có bất cứ cái ai (cái gì) đi đâu cả. - Nibbutanti vūpasantatejaṃ.
Mát lạnh: có nguyên tố lửa đã dịu xuống. - Anupahaccāti avināsetvā. Āmato hotīti addhamato marituṃ āraddho hoti. Odhunāthāti orato karotha. Sandhunāthāti parato karotha. Niddhunāthāti aparāparaṃ karotha. Tañcāyatanaṃ na paṭisaṃvedetīti tena cakkhunā taṃ rūpāyatanaṃ na vibhāveti. Esa nayo sabbattha.
Không làm hỏng da ngoài: không làm tổn hại. Gần chết: bắt đầu chết dần dần. Hãy lắc bên này: kéo sang bên này. Hãy lắc bên kia: kéo sang bên kia. Hãy lắc tới lắc lui: Kéo tới kéo lui. nhưng không cảm nhận các sắc ấy và xứ ấy: Sắc xứ ấy không được biết rõ bởi con mắt ấy. Cách thức này áp dụng cho các đoạn kế tiếp. - Saṅkhadhamoti saṅkhadhamako. Upalāpetvāti dhamitvā.
Saṅkhadhamo đồng nghĩa với từ saṅkhadhamako (người thổi tù và). Upalāpetvā đồng nghĩa với từ dhamitvā (thổi)
428. Aggikoti aggiparicārako. Āpādeyyanti nipphādeyyaṃ, āyuṃ vā pāpuṇāpeyyaṃ. Poseyyanti bhojanādīhi bhareyyaṃ. Vaḍḍheyyanti vaḍḍhiṃ gameyyaṃ. Araṇīsahitanti araṇīyugaḷaṃ.
Aggiko đồng nghĩa với từ aggiparicārako (người thờ lửa). Nuôi dưỡng: Có thể hoàn thành, hoặc có thể đạt đến tuổi thọ. Nuôi nấng: Có thể nuôi dưỡng bằng thức ăn, v.v. Nuôi lớn: có thể đi đến sự khôn lớn. Vật tạo lửa: cặp thanh gỗ dùng để đánh lửa
429. Tirorājānopīti tiroraṭṭhe aññasmimpi janapade rājāno jānanti. Abyattoti avisado acheko. Kopenapīti ye maṃ evaṃ vakkhanti, tesu uppajjanakena kopenapi etaṃ diṭṭhigataṃ harissāmi pariharissāmīti gahetvā vicarissāmi. Makkhenāti tayā vuttayuttakāraṇamakkhalakkhaṇena makkhenāpi. Palāsenāti tayā saddhiṃ yugaggāhalakkhaṇena palāsenāpi
Các vị vua ngoại bang: các vị vua ngoại bạn, là các vị ở xứ sở khác cũng biết. Ngu dốt: người không có trí tuệ, không thông thạo. Tức giận: Những người nào đã nói cùng tôi như vầy, tôi cũng sẽ kéo, sẽ dẫn dắt và sẽ đưa đi du hành băng quan điểm như thế với sự tức giận khởi lên ở những người ấy. Vì khinh bỉ: là sự xem thường, có trạng thái coi khinh các lý do liên quan đến lời đã nói. Vì sĩ diện: sự tự so sánh mình với ngang bằng với người khác, mang đặc điểm như là một cặp (đứng ngang hàng) với ngài.
430. Haritakapaṇṇanti yaṃ kiñci haritakaṃ, antamaso allatiṇapaṇṇampi na hotīti attho. Sannaddhakalāpanti sannaddhadhanukalāpaṃ. Āsittodakāni vaṭumānīti paripuṇṇasalilā maggā ca kandarā ca. Yoggānīti balibadde.
Lá cây xanh: Trong cây me rừng hoặc loại cây me nào đó, giải thích rằng thậm chí ngay cả lá cỏ non cũng không có. nai nịt cung tên: là người nai nịt cung tên đã được buộc chặt. Các đường xá đẫm nước: con đường và hang động trên các sườn núi có nguồn nước dồi dào. các con thú kéo xe: cỗ xe được kéo bởi các con bò.
Bahunikkhantaroti bahunikkhanto ciranikkhantoti attho. Yathābhatena bhaṇḍenāti yaṃ vo tiṇakaṭṭhodakabhaṇḍakaṃ āropitaṃ, tena yathābhatena yathāropitena, yathāgahitenāti attho.
(Đoàn lữ hành kia) xuất phát đã lâu: đoàn lữ hành kia đã xuất phát lâu, tức là đã đi ra lâu rồi. với hàng hàng hóa được mang theo như thế: Những hàng hóa như cỏ, gỗ và nước nào mà các ngươi đã mang theo; tức là những hàng hóa đó hãy mang đi như thế, mang theo như thế, hãy mang đến như thế.
Appasārānīti appagghāni. Paṇiyānīti bhaṇḍāni.
Có ít giá trị: có ít giá trị. Có giá trị cao: những hàng hóa có giá trị cao.
Về ví dụ về người đến người mang gói phân,
- Mamaca sūkarabhattanti mama ca sūkarānaṃ idaṃ bhattaṃ. Uggharantanti upari gharantaṃ. Paggharantanti heṭṭhā parissavantaṃ. Tumhe khvettha bhaṇeti tumhe kho ettha bhaṇe. Ayameva vā pāṭho. Tathā hi pana me sūkarabhattanti tathā hi pana me ayaṃ gūtho sūkarānaṃ bhattaṃ.
Thức ăn cho heo của ta: đây là thức ăn cho các con heo của ta. Đang rò rỉ: đang chảy lên. Đang nhỏ giọt: đang chảy xuống. Này các ông, các ông mới là người điên: Này các người, ở đây các người mới là điên, các người mới là mất trí. Ngoài ra, ý nghĩa trong văn bản Pāḷī cũng giống như vậy. Bởi vì phân này là thức ăn cho heo của tôi: Bởi vì phân này là thức ăn cho các con heo của tôi.
434. Āgatāgataṃ kaliṃ gilatīti āgatāgataṃ parājayaguḷaṃ gilati. Pajjohissāmīti pajjohanaṃ karissāmi, balikammaṃ karissāmīti attho. Akkhehi dibbissāmāti guḷehi kīḷissāma. Littaṃ paramena tejasāti paramatejena visena littaṃ.
Nuốt lấy hột (xúc xắc) xui xẻo mỗi khi nó xuất hiện: Nuốt lấy hột xúc xắc xui xẻo mỗi khi nó xuất hiện. Tôi sẽ làm lễ tế: Ta sẽ làm lễ tế, tức là tôi sẽ thực hiện nghi thức cúng tế. Đã tiêu khiển với các hột xúc xắc: Sẽ tiêu khiển với các hột xúc xắc. nó đã được bôi (chất độc) có năng lực cực mạnh: (hột xúc xắc) đã được bôi chất độc có năng lực cực mạnh.
436. Gāmapaṭṭanti vuṭṭhitagāmapadeso vuccati. ‘‘Gāmapada’’ntipi pāṭho, ayamevattho. Sāṇabhāranti sāṇavākabhāraṃ. Susannaddhoti subaddho. Tvaṃ pajānāhīti tvaṃ jāna. Sace gaṇhitukāmosi, gaṇhāhīti vuttaṃ hoti.
Con đường của một ngôi làng: được gọi là khuôn viên của ngôi làng thuộc quốc độ. Trong văn bản Pāḷī ‘Gāmapada’ cũng có ý nghĩa tương tự. Bó vỏ cây gai: Bó vỏ cây gai. Đã được buộc ràng chặt chẽ: đã được buộc ràng chặt chẽ. Bạn hãy biết (việc của bạn): bạn hãy biết (việc của bạn).
Khomanti khomavākaṃ. Ayanti kāḷalohaṃ. Lohanti tambalohaṃ. Sajjhanti rajataṃ. Suvaṇṇanti suvaṇṇamāsakaṃ. Abhinandiṃsūti tussiṃsu.
Vỏ cây: Loại vải bằng vỏ cây. Sắt: Sắt đen. Đồng: đồng đen. Vàng: đồng vàng māsaka. Mừng rỡ: đã vui mừng.
- Attamanoti sakamano tuṭṭhacitto. Abhiraddhoti abhippasanno. Pañhāpaṭibhānānīti pañhupaṭṭhānāni. Paccanīkaṃ kattabbanti paccanīkaṃ paṭiviruddhaṃ viya kattabbaṃ amaññissaṃ, paṭilomagāhaṃ gahetvā aṭṭhāsinti attho.
Tôi đã hoan hỷ: có ý của mình, tức là có tâm đã hoan hỷ. Vô cùng hài lòng: vô cùng tịnh tín. Các biện luận sáng suốt: sự hiển lộ rõ của tuệ. Được xem như người đáng được đối lập: nên được xem như một nhà phản biện, là người đối chọi. Phản đối: Khăng khăng giữ quan điểm đối nghịch. - Saṅghātaṃ āpajjantīti saṅghātaṃ vināsaṃ maraṇaṃ āpajjanti. Na mahapphaloti vipākaphalena na mahapphalo hoti. Na mahānisaṃsoti guṇānisaṃsena mahānisaṃso na hoti. Na mahājutikoti ānubhāvajutiyā mahājutiko na hoti. Na mahāvipphāroti vipākavipphāratāya mahāvipphāro na hoti. Bījanaṅgalanti bījañca naṅgalañca. Dukkhetteti duṭṭhukhette nissārakhette. Dubbhūmeti visamabhūmibhāge. Patiṭṭhāpeyyāti ṭhapeyya. Khaṇḍānīti chinnabhinnāni. Pūtīnīti nissārāni. Vātātapahatānīti vātena ca ātapena ca hatāni pariyādinnatejāni. Asārādānīti taṇḍulasārādānarahitāni palālāni. Asukhasayitānīti yāni sukkhāpetvā koṭṭhe ākiritvā ṭhapitāni, tāni sukhasayitāni nāma. Etāni pana na tādisāni.
Nhiều loại sinh mạng lâm vào cảnh bị giết chóc: lâm vào cảnh bị sát hại, hủy diệt, chết chóc. Không có quả báo lớn: là không có kết quả lớn với dị thục quả. Không có lợi ích lớn: là không có lợi ích to lớn bởi những lợi ích về đức hạnh. Không có vinh quang lớn: là không có sự vinh quang lớn nhờ vào uy lực. Không có sự lan tỏa lớn: là không có sự lan tỏa lớn bởi sự lan truyền của kết quả. Hạt giống và cái cày đi: hạt giống và cái cày. Nơi cánh đồng cằn cỗi: nơi cánh đồng cằn cỗi, nơi cánh đồng không màu mỡ. Ở mảnh đất lồi lõm: ở vùng đất không bằng phẳng. Gieo hạt: gieo hạt. Bể vỡ: hạt giống bị bể vỡ. Hư thối: hạt giống không có phẩm chất. Bị phá hại bởi gió và sức nóng: Bị phá hại bởi gió và sức nóng. Không có lõi: khô đến nỗi không cho ra hạt gạo được. Khô không hoàn toàn: Những hạt giống nào đã được phơi khô, được sàn trải trong kho thóc, những loại hạt giống ấy được gọi là “khô hoàn toàn”, nhưng các loại hạt giống này không phải như thế.
Anuppaveccheyyāti anupaveseyya, na sammā vasseyya, anvaddhamāsaṃ anudasāhaṃ anupañcāhaṃ na vasseyyāti attho. Api nu tānīti api nu evaṃ khettabījavuṭṭhidose sati tāni bījāni aṅkuramūlapattādīhi uddhaṃ vuddhiṃ heṭṭhā virūḷhiṃ samantato ca vepullaṃ āpajjeyyunti . Evarūpo kho rājañña yaññoti evarūpaṃ rājañña dānaṃ parūpaghātena uppāditapaccayatopi dāyakatopi pariggāhakatopi avisuddhattā na mahapphalaṃ hoti. Evarūpo kho rājañña yaññoti evarūpaṃ rājaññadānaṃ aparūpaghātena uppannapaccayatopi aparūpaghātitāya sīlavantadāyakatopi sammādiṭṭhiādiguṇasampannapaṭiggāhakatopi mahapphalaṃ hoti. Sace pana guṇātirekaṃ nirodhā vuṭṭhitaṃ paṭiggāhakaṃ labhati, cetanā ca vipulā hoti, diṭṭheva dhamme vipākaṃ detīti.
Trời không đem lại cơn mưa (đúng theo thời tiết): Mưa không rơi xuống, tức là trời không đổ mưa hợp thời (đúng theo thời tiết). Tức là trời không mưa mỗi nửa tháng, mỗi mười ngày, mỗi năm ngày. Phải chăng các hạt giống ấy…: Khi ruộng lúa có những hạt giống, trời mưa bị xem là có hại như vậy, liệu những hạt giống đó có thể phát triển cao, bén rễ và lan tỏa tăng trưởng xung quanh qua các chồi, rễ và lá không? Này vương gia, lễ hiến tế có hình thức như vậy: Này vương gia, sự bố thí có hình thức như vậy không mang lại kết quả to lớn bởi vì không thanh tịnh do các điều kiện được phát sinh bơi gây hại cho người khác, hoặc (không thanh tịnh) bởi người cho, hoặc (không thanh tịnh) bởi người nhận. Này vương gia, lễ hiến tế có hình thức như vậy: Này vương gia, sự bố thí có hình thức như vậy mang lại kết quả lớn bởi các điều kiện được phát sinh do không gây hại cho người khác, bởi người cho có giới hạnh và không làm hại người khác, hoặc bởi người nhận đầy đủ đức hạnh như chánh kiến, v.v. Còn nếu sự bố thí đến người nhận, vị vừa mới xuất khỏi thiền diệt, đức hạnh vượt trội và với ý định người cho trọn vẹn thì sẽ mang lại kết quả ở ngay hiện tại.
- Imaṃ pana therassa dhammakathaṃ sutvā pāyāsirājañño theraṃ nimantetvā sattāhaṃ therassa mahādānaṃ datvā tato paṭṭhāya mahājanassa dānaṃ paṭṭhapesi. Taṃ sandhāya atha kho pāyāsi rājaññotiādi vuttaṃ. Tattha kaṇājakanti sakuṇḍakaṃ uttaṇḍulabhattaṃ. Bilaṅgadutiyanti kañjikadutiyaṃ. Dhorakāni ca vatthānīti thūlāni ca vatthāni. Guḷavālakānīti guḷadasāni, puñjapuñjavasena ṭhitamahantadasānīti attho. Evaṃ anuddisatīti evaṃ upadisati. Pādāpīti pādenapi.
Sau khi nghe bài pháp thoại của vị trưởng lão, vương gia Pāyāsi đã thỉnh mời vị trưởng lão và thực hiện đại lễ bố thí trong 7 ngày. Từ đó, ông thiết lập các hoạt động bố thí thường xuyên cho tất cả mọi người. Ngài muốn đề cập đến điều đó nên mới nói rằng: “Khi ấy, vương gia Pāyāsi, v.v.” Ở đấy, cơm gạo nát: Cơm được nấu từ gạo vụn có cám. Cháo chua là món thứ hai: cháo chua là món thứ hai. các tấm vải thô: vải có đường chỉ thô. Có các đường biên sần sùi: Vải được thắt thành nút, được giải thích rằng tấm vải lớn được chất thành từng đống. Vị ấy phát biểu như vầy: vị ấy chỉ ra như vậy. Pādāpi đồng nghĩa với pādenapi (ngay cả với bàn chân). - Asakkaccanti saddhāvirahitaṃ assaddhadānaṃ. Asahatthāti na sahatthena. Acittīkatanti cittīkāravirahitaṃ, na cittīkārampi paccupaṭṭhāpetvā na paṇītacittaṃ katvā adāsi. Apaviddhanti chaḍḍitaṃ vippatitaṃ. Suññaṃ serīsakanti serīsakaṃ nāma ekaṃ tucchaṃ rajatavimānaṃ upagato. Tassa kira dvāre mahāsirīsarukkho, tena taṃ ‘‘serīsaka’’nti vuccati.
Thiếu trân trọng: Thiếu niềm tin, ban phát vật thí không có niềm tin. Asahattha đồng nghĩa với ‘na sahatthena’ nghĩa là không tự tay ban phát vật thí. Thiếu sự tôn trọng: Không thể hiện sự kính trọng, đã không thiết lập sự tôn trọng (và) đã không được thực hiện tốt đẹp trong việc ban phát vật thí. Như kiểu ném bỏ: bị vứt bỏ, rơi vãi lung tung. Vào cung Trời Serissaka trống vắng: Đã đi vào một Thiên cung bằng bạc trống vắng tên là Serissaka. Được biết rằng có một cây keo lớn ở gần cửa Thiên cung, vì thế cung điện ấy được gọi là ‘Serisaka’.
441.Āyasmāgavaṃpatīti thero kira pubbe manussakāle gopāladārakānaṃ jeṭṭhako hutvā mahato sirīsassa mūlaṃ sodhetvā vālikaṃ okiritvā ekaṃ piṇḍapātikattheraṃ rukkhamūle nisīdāpetvā attanā laddhaṃ āhāraṃ datvā tato cuto tassānubhāvena tasmiṃ rajatavimāne nibbatti. Sirīsarukkho vimānadvāre aṭṭhāsi. So paññāsāya vassehi phalati, tato paññāsa vassāni gatānīti devaputto saṃvegaṃ āpajjati. So aparena samayena amhākaṃ bhagavato kāle manussesu nibbattitvā satthu dhammakathaṃ sutvā arahattaṃ patto. Pubbāciṇṇavasena pana divāvihāratthāya tadeva vimānaṃ abhiṇhaṃ gacchati, taṃ kirassa utusukhaṃ hoti. Taṃ sandhāya ‘‘tena kho pana samayena āyasmā gavaṃpatī’’tiādi vuttaṃ.
- Nghe rằng trưởng lão đã từng là người đứng đầu nhóm những đứa trẻ chăn bò ở cõi nhân loại trong kiếp trước, vị ấy đã dọn sạch gốc của một cây keo lớn, trải cát và sau khi thỉnh mời vị trưởng lão đang trì bình khất thực ngồi dưới gốc cây, (vị ấy) đã dâng cúng vật thực mà mình nhận được; sau khi qua đời ở cõi người, vị ấy sanh vào cung điện bằng bạc nhờ vào oai lực của phước báu đó. Cây keo lớn nằm gần cổng của Thiên cung. Phải mất 50 năm thì cây keo mới trổ quả. Sau đó, vị Thiên tử cảm thấy buồn bã vì nhận ra rằng đã trải qua 50 năm. Một thời gian sau, vị ấy tái sanh vào cõi nhân loại vào thời kỳ của đức Thế Tôn của chúng ta, sau khi nghe bài thuyết Pháp từ bậc Đạo Sư đã chứng đắc phẩm vị A-ra-hán. Tuy nhiên, do sức mạnh của thói quen, trưởng lão thường lui tới Thiên cung đó để nghỉ ngơi vào buổi trưa. Kể rằng Thiên cung đó mang lại sự an lạc theo mùa cho trưởng lão. Ngài muốn đề cập đến lý do này nên mới nói rằng: “Vào lúc bấy giờ, đại đức Gavaṃpati, v.v.”
So sakkaccaṃ dānaṃ datvāti so parassa santakampi dānaṃ sakkaccaṃ datvā. Evamārocesīti ‘‘sakkaccaṃ dānaṃ dethā’’tiādinā nayena ārocesi. Tañca pana therassa ārocanaṃ sutvā mahājano sakkaccaṃ dānaṃ datvā devaloke nibbatto. Pāyāsissa pana rājaññassa paricārakā sakkaccaṃ dānaṃ datvāpi nikantivasena gantvā tasseva santike nibbattā. Taṃ kira disācārikavimānaṃ vaṭṭaniaṭaviyaṃ ahosi. Pāyāsidevaputto ca ekadivasaṃ vāṇijakānaṃ dassetvā attano katakammaṃ kathesīti.
Sau khi ban phát vật thí một cách trân trọng: Thanh niên Uttara đã bố thí, dù đó là của cải của người khác, nhưng vẫn thực hiện với sự kính trọng. Đã công bố như vầy: ông hãy công bố (với mọi người) theo cách thức như sau “hãy phân phát vật thí với sự kính trọng”. Và khi dân chúng nghe lời thông báo của vị trưởng lão, họ đã bố thí với sự kính trọng và tái sinh vào thế giới chư Thiên. Còn những nữ hầu của vương gia Pāyāsi, mặc dù bố thí với sự kính trọng, nhưng lại tái sinh vào nơi của vương gia Pāyāsi do nguyện ước. Được biết rằng Thiên cung Serissaka là nơi dành cho các Thiên nhân du hành từ mọi phương, nằm trong một khu rừng tên là Vaṭṭanī. Vào một ngày nọ, Thiên tử Pāyāsi xuất hiện trước các thương nhân và đã kể lại các nghiệp mà mình đã tạo.
Giải thích Kinh Về Pāyāsi được kết thúc – Kinh thứ mười (23)
Trong Chú Giải Trường Bộ Kinh là Sumaṅgalavilāsī.
ĐẠI PHẨM ĐƯỢC CHẤM DỨT – PHẨM THỨ NHÌ