Giải Thích Kinh Sakka Vấn Đạo
(Sakkapañhasuttavaṇṇanā (21))Xem Trường Bộ Kinh – Đế Thích sở vấn (Sakka vấn đạo)
- Evaṃme sutanti sakkapañhasuttaṃ. Tatrāyamanuttānapadavaṇṇanā – ambasaṇḍā nāma brāhmaṇagāmoti so kira gāmo ambasaṇḍānaṃ avidūre niviṭṭho, tasmā ‘‘ambasaṇḍā’’ tveva vuccati. Vediyake pabbateti so kira pabbato pabbatapāde jātena maṇivedikāsadisena nīlavanasaṇḍena samantā parikkhitto, tasmā ‘vediyakapabbato’ tveva saṅkhyaṃ gato. Indasālaguhāyanti pubbepi sā dvinnaṃ pabbatānaṃ antare guhā, indasālarukkho cassā dvāre, tasmā ‘indasālaguhā’ti saṅkhyaṃ gatā. Atha naṃ kuṭṭehi parikkhipitvā dvāravātapānāni yojetvā supariniṭṭhita-sudhākamma-mālākamma-latākammavicittaṃ leṇaṃ katvā bhagavato adaṃsu. Purimavohāravasena pana ‘‘indasālaguhā’’ tveva naṃ sañjānanti. Taṃ sandhāya vuttaṃ ‘indasālaguhāya’nti.
Kinh Sakka Vấn Đạo được bắt đầu như sau ‘Tôi đã nghe như vầy…’ Dưới đây là sự giải thích chi tiết các đoạn chưa được rõ ràng trong bài Kinh Sakka Vấn Đạo ấy – ngôi làng Bà-la-môn tên Ambasaṇḍā: Nghe rằng ngôi làng đó nằm không xa rừng xoài, do đó được gọi là ‘Ambasaṇḍā.’ Ở núi Vediyaka: Nghe rằng ngọn núi đó có khu rừng xanh giống như một khối ngọc ma-ni xuất hiện ở quanh chân núi, do đó được gọi là ‘núi Vediyaka.’ Nơi hang động Indasāla: trước đây hang động đó nằm giữa hai ngọn núi, và ở cửa hang có cây indasāla, do đó được gọi là ‘hang động indasāla.’ Sau đó, người dân đã rào xung quanh lại cửa hang, lắp cửa sổ và cửa ra vào, được trang trí hình vòng hoa, trang trí hình tua với lớp phủ ngoài bằng thạch cao cho đến khi hoàn thành đã cúng dường đến đức Thế Tôn. Nhưng mọi người vẫn biết hang đó là hang Indasāla theo tên gọi cũ. Đại đức Ānanda đã đề cập đến hang động ấy nên mới nói rằng ‘ở hang động Indasāla.’
Ussukkaṃ udapādīti dhammiko ussāho uppajji. Nanu ca esa abhiṇhadassāvī bhagavato, na so devatāsannipāto nāma atthi, yatthāyaṃ na āgatapubbo, sakkena sadiso appamādavihārī devaputto nāma natthi. Atha kasmā buddhadassanaṃ anāgatapubbassa viya assa ussāho udapādīti? Maraṇabhayena santajjitattā. Tasmiṃ kirassa samaye āyu parikkhīṇo, so pañca pubbanimittāni disvā ‘‘parikkhīṇo dāni me āyū’’ti aññāsi. Yesañca devaputtānaṃ maraṇanimittāni āvi bhavanti, tesu ye parittakena puññakammena devaloke nibbattā, te ‘‘kuhiṃ nu kho idāni nibbattissāmā’’ti bhayaṃ santāsaṃ āpajjanti. Ye katabhīruttānā bahuṃ puññaṃ katvā nibbattā, te attanā dinnadānaṃ rakkhitasīlaṃ bhāvitabhāvanañca āgamma ‘‘uparidevaloke sampattiṃ anubhavissāmā’’ti na bhāyanti.
Đã khởi đến: sự nỗ lực gắn liền với Pháp đã được khởi lên. Và Thiên Vương Sakka thường xuyên đến gặp đức Thế Tôn không phải sao? Có cuộc hội họp chư Thiên ở nơi nào đó, không phải là Thiên Vương Sakka chưa bao giờ đến, Thiên tử như Thiên Vương Sakka sống xao lãng là không có. Khi đã như vậy, tại sao Thiên Vương Sakka ấy lại có sự nỗ lực như người chưa từng đến gặp Đức Phật? Bởi trạng thái bị đe dọa do sợ hãi cái chết. Được biết rằng vào thời điểm ấy tuổi thọ của Thiên Vương Sakka đã cạn kiệt hoàn toàn, vị ấy đã nhìn thấy năm điềm báo trước và biết được rằng: “bây giờ tuổi thọ của ta đã cạn kiệt hoàn toàn.” Và dấu hiệu của sự chết xuất hiện nơi các vị Thiên tử nào, trong số các Thiên tử đó, người nào đã được sanh ra ở cõi trời với việc làm phước ít ỏi, người ấy cũng rơi vào sự kinh sợ do sợ hãi rằng: “Giờ đây ta sẽ sanh ở đâu?” Còn những vị đã tạo ra sự bảo hộ vì sợ hãi, đã làm nhiều việc thiện đã được sanh ra, những vị ấy nghĩ rằng: Ta nương nhờ sự bố thí mà bản thân đã bố thí, giới được thọ trì, và thiền tập đã được tu tập “(chúng ta) sẽ thọ hưởng sự thành tựu ở thế cõi Trời cao” và không sợ hãi.
Sakko pana devarājā pubbanimittāni disvā dasayojanasahassaṃ devanagaraṃ, yojanasahassubbedhaṃ vejayantaṃ, tiyojanasatikaṃ sudhammadevasabhaṃ, yojanasatubbedhaṃ pāricchattakaṃ, saṭṭhiyojanikaṃ paṇḍukambalasilaṃ, aḍḍhatiyā nāṭakakoṭiyo dvīsu devalokesu devaparisaṃ, nandanavanaṃ, cittalatāvanaṃ, missakavanaṃ, phārusakavananti etaṃ sabbasampattiṃ oloketvā ‘‘nassati vata bho me ayaṃ sampattī’’ti bhayābhibhūto ahosi.
Còn Thiên Vương Sakka sau khi nhìn thấy điềm báo trước đã quan sát mọi sự thành tựu như vầy rằng: “Thành phố chư Thiên (rộng) mười ngàn do-tuần, cung điện Vejayanta cao một ngàn do-tuần, hội trường chư Thiên Sudhamma rộng ba trăm do-tuần, cây san hô cao một trăm do-tuần, ngai vàng Paṇḍukambala cao sáu mươi do-tuần, hai mươi lăm koṭi vũ công, tập thể chư Thiên trong hai cõi trời, vườn Nandana, vườn Cittalatā, vườn Missaka và vườn Phārusaka,” cũng đã bị sự sợ hãi chi phối (nghĩ rằng) “sự thành tựu này của ta quả thật sẽ biến mất.”
Tato ‘‘atthi nu kho koci samaṇo vā brāhmaṇo vā lokapitāmaho mahābrahmā vā, yo me hadayanissitaṃ sokasallaṃ samuddharitvā imaṃ sampattiṃ thāvaraṃ kareyyā’’ti olokento kañci adisvā puna addasa ‘‘mādisānaṃ satasahassānampi uppannaṃ sokasallaṃ sammāsambuddho uddharituṃ paṭibalo’’ti. Athevaṃ parivitakkentassa tena kho pana samayena sakkassa devānamindassa ussukkaṃ udapādi bhagavantaṃ dassanāya.
Lúc đó, trong khi quan sát rằng: “Liệu có một người nào hay không dầu là Sa-môn, Bà-la-môn hoặc Đại Phạm Thiên là tổ tiên của thế gian có thể nhổ bỏ mũi tên sầu muộn lắng đọng ở tim của ta khiến sự thành tựu này được thiết lập bền vững,” đã không thấy bất cứ ai, hơn nữa ngài nhận thấy rằng: “Chỉ có bậc Chánh đẳng Chánh giác mới có thể mũi tên sầu muộn đã khởi lên nơi các Thiên nhân như ta thậm chí hàng trăm ngàn.” Tiếp đến, vào lúc bấy giờ, sự háo hức yết kiến đức Thế Tôn đã khởi đến Thiên chủ Sakka với ý nghĩ suy tầm như vậy.
Kahaṃ nu kho bhagavā etarahi viharatīti katarasmiṃ janapade kataraṃ nagaraṃ upanissāya kassa paccaye paribhuñjanto kassa amataṃ dhammaṃ desayamāno viharatīti. Addasā khoti addakkhi paṭivijjhi. Mārisāti piyavacanametaṃ, devatānaṃ pāṭiyekko vohāro. Niddukkhātipi vuttaṃ hoti. Kasmā panesa deve āmantesi? Sahāyatthāya. Pubbe kiresa bhagavati saḷalaghare viharante ekakova dassanāya agamāsi. Satthā ‘‘aparipakkaṃ tāvassa ñāṇaṃ, katipāhaṃ pana atikkamitvā mayi indasālaguhāyaṃ viharante pañca pubbanimittāni disvā maraṇabhayabhīto dvīsu devalokesu devatāhi saddhiṃ upasaṅkamitvā cuddasa pañhe pucchitvā upekkhāpañhavissajjanāvasāne asītiyā devatāsahassehi saddhiṃ sotāpattiphale patiṭṭhahissatī’’ti cintetvā okāsaṃ nākāsi. So ‘‘mama pubbepi ekakassa gatattā satthārā okāso na kato, addhā me natthi maggaphalassa upanissayo, ekassa pana upanissaye sati cakkavāḷapariyantāyapi parisāya bhagavā dhammaṃ desetiyeva. Avassaṃ kho pana dvīsu devalokesu kassaci devassa upanissayo bhavissati, taṃ sandhāya satthā dhammaṃ desessati. Taṃ sutvā ahampi attano domanassaṃ vūpasamessāmī’’ti cintetvā sahāyatthāya āmantesi.
Hiện giờ đức Thế Tôn trú tại nơi nào? Thiên chủ Sakka nghĩ rằng đức Thế Tôn đang sống ở xứ sở nào? Ở gần thành phố nào? Đang thọ dụng các món vật dụng của ai? Và ngài đang thuyết giảng Pháp Bất Tử cho ai. (Thiên chủ Sakka) đã nhìn thấy (đức Thế Tôn): đã nhìn thấy, đã thấu đáo. Này các ngài: đây là lời nói đáng yêu, là cách diễn đạt ngôn ngữ riêng biệt của chư Thiên, có thể hiểu là vị không có khổ. Tại sao Thiên chủ Sakka này lại gọi các vị Thiên? Vì lợi ích bạn hữu. Trước đây, nghe rằng Thiên chủ Sakka này khi đức Thế Tôn đang an trú tại căn phòng gần cây saḷala ngài đã đơn độc đến yết kiến. Bậc Đạo Sư nghĩ rằng “trí của Thiên chủ vẫn chưa chín mùi, nhưng nếu chờ đợi thêm một thời gian nữa, trong lúc ta ở hang động Indasāla, Thiên chủ Sakka sẽ nhìn thấy năm điềm báo trước đã hoảng sợ vì sợ hãi sự chết, sau khi đi đến cùng với các vị Thiên ở hai cõi trời đã hỏi mười bốn câu hỏi, khi giải đáp xong những câu hỏi liên quan đến xả thọ thì Thiên chủ sẽ thiết lập vào Nhập Lưu Quả cùng với tám mươi ngàn vị Thiên,” do đó ngài đã không tạo cơ hội. Thiên chủ Sakka suy nghĩ rằng: “Bậc Đạo Sư không tạo cơ hội bởi vì trước đó ta đơn độc đi đến, chắc chắn ta sẽ không có đủ nhân duyên của Đạo và Quả, hơn nữa khi ta đơn độc có nhân duyên, đức Thế Tôn chắc chắn sẽ thuyết giảng Giáo Pháp cho đến tận cùng thế giới. Lại nữa, dĩ nhiên trong hai cõi trời đối với người nào sẽ có đủ nhân duyên, bậc Đạo Sư ám chỉ đến người ấy sẽ thuyết giảng Giáo Pháp. Ngay cả ta sau khi lắng nghe Giáo Pháp ấy sẽ làm lắng dịu nỗi buồn của bản thân,” (sau khi nghĩ thế) ngài đã gọi vì lợi ích bạn hữu.
Evaṃ bhaddaṃ tavāti kho devā tāvatiṃsāti evaṃ hotu mahārāja, gacchāma bhagavantaṃ dassanāya, dullabho buddhuppādo, bhaddaṃ tava, yo tvaṃ ‘‘pabbatakīḷaṃ nadīkīḷaṃ gacchāmā’’ti avatvā amhe evarūpesu ṭhānesu niyojesīti. Paccassosunti tassa vacanaṃ sirasā sampaṭicchiṃsu.
Chư Thiên cõi Đao Lợi đã đáp lại Thiên chủ Sakka như thế “cầu chúc sự thịnh vượng đến với Ngài như vậy”: hãy như vậy, thưa Đại Vương, chúng ta sẽ đi đến diện kiến đức Thế Tôn, sự hiện khởi của đức Phật là điều hiếm có, cầu chúc sự thịnh vượng đến với Ngài, người đã không nói rằng: “hãy để chúng ta đi chơi trên núi, đi chơi trên sông,” và đã tập hợp chúng ta ở vị trí có hình thức như vậy. Đã đáp lại: đã chấp thuận lời của Thiên chủ bằng đầu.
- Pañcasikhaṃgandhabbadevaputtaṃ āmantesīti deve tāva āmantetu, imaṃ kasmā visuṃ āmantesi? Okāsakaraṇatthaṃ. Evaṃ kirassa ahosi ‘‘dvīsu devalokesu devatā gahetvā dhurena paharantassa viya satthāraṃ upasaṅkamituṃ na yuttaṃ, ayaṃ pana pañcasikho dasabalassa upaṭṭhāko vallabho icchiticchitakkhaṇe gantvā pañhaṃ pucchitvā dhammaṃ suṇāti, imaṃ purato pesetvā okāsaṃ kāretvā iminā katokāse upasaṅkamitvā pañhaṃ pucchissāmī’’ti okāsakaraṇatthaṃ āmantesi.
Thiên tử Càn-thát-bà Pañcasikha: Khi đã bảo các vị Thiên ấy, tại sao lại bảo riêng Thiên tử Càn-thát-bà Pañcasikha? Nhằm để tạo cơ hội. Nghe rằng Thiên chủ Sakka đã có suy nghĩ rằng: “Việc dẫn các vị Thiên từ hai cõi trời đi đến để yết kiến bậc Đạo Sư không thích hợp, vả lại Pañcasikha này là người phục vụ được ưa thích hơn hết của đấng Thập Lực, sau khi đi đến đã hỏi câu hỏi rồi lắng nghe Pháp vào bất cứ lúc nào cần thiết, (chúng ta) đã phái vị này đi trước, đã tạo cơ hội, sau khi đi đến sẽ hỏi câu hỏi, trong khi đã tạo cơ hội,” (ngài) đã nói nhằm để tạo cơ hội.
Evaṃ bhaddaṃ tavāti so ‘‘evaṃ mahārāja, hotu, bhaddaṃ tava, yo tvaṃ maṃ ‘ehi, mārisa, uyyānakīḷādīni vā naṭasamajjādīni vā dassanāya gacchāmā’ti avatvā ‘buddhaṃ passissāma, dhammaṃ sossāmā’ti vadasī’’ti daḷhataraṃ upatthambhento devānamindassa vacanaṃ paṭissutvā anucariyaṃ sahacaraṇaṃ ekato gamanaṃ upāgami.
Cầu cho sự thịnh vượng hãy đến với ngài như vậy: Luôn cả Pañcasikha ấy cũng ủng hộ mạnh mẽ rằng: “hãy là như vậy, Đại Vương, cầu chúc sự thịnh vượng đến với ngài, người không nói với chúng tôi rằng: ‘Thưa ngài, hãy đến đây, chúng tôi đi xem các trò tiêu khiên ở vườn thượng uyển hoặc sự diễn tuồng của các vũ công’, nhưng đã nói rằng: ‘Chúng tôi sẽ đi gặp Đức Phật, chúng tôi sẽ lắng nghe Pháp’”, đã đáp lại Thiên chủ Sakka và đi đến du hành cùng đoàn tùy tùng.
Tattha beluvapaṇḍunti beluvapakkaṃ viya paṇḍuvaṇṇaṃ. Tassa kira sovaṇṇamayaṃ pokkharaṃ, indanīlamayo daṇḍo, rajatamayā tantiyo, pavāḷamayā veṭhakā, vīṇāpattakaṃ gāvutaṃ, tantibandhanaṭṭhānaṃ gāvutaṃ, upari daṇḍako gāvutanti tigāvutappamāṇā vīṇā. Iti so taṃ vīṇaṃ ādāya samapaññāsamucchanā mucchetvā agganakhehi paharitvā madhuraṃ gītassaraṃ nicchāretvā sesadeve sakkassa gamanakālaṃ jānāpento ekamantaṃ aṭṭhāsi. Evaṃ tassa gītavāditasaññāya sannipatite devagaṇe atha kho sakko devānamindo…pe… vediyake pabbate paccuṭṭhāsi.
Trong câu đó, cây đàn có màu vàng nhạt tựa như quả mộc qua: cây đàn có màu vàng tựa như quả mộc qua chín. Được biết rằng thân cây đàn được làm bằng vàng, cán đàn được làm bằng ngọc sa-phia, dây đàn làm bằng bạc, vỏ đàn làm bằng ngọc san hô, thân đàn dài một gāvuta, dây đàn dài một gāvuta, cán đàn dài một gāvuta, (như vậy) cây đàn có kích thước ba gāvuta. Pañcasikha ấy cầm lấy cây đàn như đã được mô tả rồi tấu lên hết kỹ năng với tất cả kiến thức của mình, (vị ấy) đã gẩy bằng đầu móng tay phát ra những âm thanh êm dịu, thông báo cho các vị Thiên còn lại biết được thời gian Thiên chủ Sakka sẽ đến, rồi đã đứng ở một bên. Khi tập thể chư Thiên tập hợp theo tín hiệu tiếng ca và tiếng đàn của Pañcasikha “sau đó, Thiên chủ Sakka …nt… và đã đứng ở núi Vediyaka”.
- Atiriva obhāsajātoti aññesu divasesu ekasseva devassa vā mārassa vā brahmuno vā obhāsena obhāsajāto hoti, taṃdivasaṃ pana dvīsu devalokesu devatānaṃ obhāsena atiriva obhāsajāto ekapajjoto sahassacandasūriyauggatakālasadiso ahosi. Parito gāmesu manussāti samantā gāmesu manussā. Pakatisāyamāsakāleyeva kira gāmamajjhe dārakesu kīḷantesu tattha sakko agamāsi, tasmā manussā passitvā evamāhaṃsu. Nanu ca majjhimayāme devatā bhagavantaṃ upasaṅkamanti, ayaṃ kasmā paṭhamayāmassāpi purimabhāgeyeva āgatoti? Maraṇabhayeneva tajjitattā. Kiṃsu nāmāti kiṃsu nāma bho etaṃ, ko nu kho ajja mahesakkho devo vā brahmā vā bhagavantaṃ pañhaṃ pucchituṃ dhammaṃ sotuṃ upasaṅkamanto, kathaṃsu nāma bho bhagavā pañhaṃ vissajjessati dhammaṃ desessati, lābhā amhākaṃ, yesaṃ no evaṃ devatānaṃ kaṅkhāvinodako satthā avidūre vihāre vasati, ye labhāma thālakabhikkhampi kaṭacchubhikkhampi dātunti saṃviggā lomahaṭṭhajātā uddhaggalomā hutvā dasanakhasamodhānasamujjalaṃ añjaliṃ sirasmiṃ patiṭṭhapetvā namassamānā aṭṭhaṃsu.
Sanh lên ánh sáng chói lọi: vào những ngày khác cũng sanh lên ánh sáng với ánh sáng của chư Thiên, Ma Vương, hoặc Phạm Thiên dầu chỉ có một vị. Nhưng vào ngày hôm ấy, sanh lên ánh sáng chói lọi, ánh sáng đồng nhất giống như thời điểm hàng ngàn mặt trăng và mặt trời mọc lên bởi vì ánh sáng của tập thể chư Thiên ở cả hai cõi trời. Dân chúng ở các làng xung quanh: Dân chúng ở các làng lân cận. Nghe rằng vào chính bữa ăn tối thường lệ, khi các trẻ em đang vui chơi ở giữa làng, Thiên chủ Sakka đã đến núi Vediyaka. Vì vậy, khi người dân nhìn thấy đã nói như vậy. Và chư Thiên đến yết kiến đức Thế Tôn vào canh giữa không phải sao? tại sao Thiên chủ Sakka này lại đến vào canh đầu của đêm? Bởi vì ngài bị đe dọa bởi sự sợ hãi cái chết. Tại sao: Dân chúng nói rằng: Có chuyện gì vậy, thưa ngài? Hôm nay chư Thiên hay Phạm Thiên có uy quyền lớn lao nào đây đến gặp đức Thế Tôn để hỏi câu hỏi và để lắng nghe Giáo Pháp? Đức Thế Tôn sẽ giải đáp câu hỏi và sẽ thuyết giảng Giáo Pháp như thế nào? Lợi đắc của chúng ta, chúng ta được có bậc Đạo Sư làm xua tan sự nghi ngờ của chư Thiên, ngài đang trú tại tịnh xá gần đây, mà chúng ta đã cúng dường một chén thức ăn, hoặc một muỗng thức ăn, đã bị rúng động, bị sởn tóc gáy, có tóc bị dựng đứng và đã chắp tay lên chói sáng với mười ngón tay chạm vào nhau đặt trên đầu, và đứng kính lễ. - Durupasaṅkamāti dupayirupāsiyā. Ahaṃ sarāgo sadoso samoho, satthā vītarāgo vītadoso vītamoho, tasmā dupayirupāsiyā tathāgatā mādisena. Jhāyīti lakkhaṇūpanijjhānena ca ārammaṇūpanijjhānena ca jhāyī. Tasmiññeva jhāne ratāti jhānaratā. Tadantaraṃ paṭisallīnāti tadantaraṃ paṭisallīnā sampati paṭisallīnā vā. Tasmā na kevalaṃ jhāyī jhānaratāti durupasaṅkamā, idānimeva paṭisallīnātipi durupasaṅkamā. Pasādeyyāsīti ārādheyyāsi, okāsaṃ me kāretvā dadeyyāsīti vadati. Beluvapaṇḍuvīṇaṃ ādāyāti nanu pubbeva ādinnāti? Āma, ādinnā. Maggagamanavasena pana aṃsakūṭe laggitā, idāni naṃ vāmahatthe ṭhapetvā vādanasajjaṃ katvā ādiyi. Tena vuttaṃ ‘‘ādāyā’’ti.
Khó tiếp cận: là khó kết giao. Ta vẫn còn có luyến ái, có sân hận và có si mê (còn) bậc Đạo Sư đã xa lìa sự luyến ái, đã xa lìa sự sân hận và đã xa lìa sự si mê; vì thế, các đức Như Lai như ta là khó kết giao. Chứng thiền: là vị chứng thiền với thiền thẩm định tướng và thiền thẩm định cảnh. Thích thú việc tham thiền bởi vì vui thích chính trong thiền. Độc cư thiền tịnh vào lúc này: Cùng thời gian ấy độc cư thiền tịnh hoặc ngay lập tức độc cư thiền định. Vì vậy, không phải khó tiếp cận bởi vì chứng thiền, thích thú việc tham thiền, nhưng khó tiếp cận vì ngài vừa mới độc cư thiền tịnh. Có thể làm hài lòng: Có thể làm hài lòng, Thiên chủ Sakka nói rằng: Ngươi có thể khiến đức Phật ban cho chúng ta cơ hội. Đã cầm cây đàn vīṇā bằng gỗ beluva màu vàng nhạt: Cây đàn ấy Thiên tử đã cầm trước không phải sao? Phải, đã cầm. Cây đàn đó được đeo trên vai để tiện mang theo đường. Bây giờ, đặt nó vào tay trái để chuẩn bị tấu nhạc, vì vậy mới nói rằng “đã cầm rồi.” - Assāvesīti sāvesi. Buddhūpasañhitāti buddhaṃ ārabbha buddhaṃ nissayaṃ katvā pavattāti attho. Sesapadesupi eseva nayo.
Đã tạo ra (âm thanh): làm cho nghe. Liên quan đến đức Phật: liên quan đến đức Phật, có nghĩa là đã tạo sự nương nhờ nơi đức Phật, làm nền tảng vận hành. Luôn cả các đoạn kế tiếp cũng áp dụng cách thức này.
Vande te pitaraṃ bhadde, timbaruṃ sūriyavacchaseti ettha sūriyavacchasāti sūriyasamānasarīrā. Tassā kira devadhītāya pādantato rasmi uṭṭhahitvā kesantaṃ ārohati, tasmā bālasūriyamaṇḍalasadisā khāyati, iti naṃ ‘‘sūriyavacchasā’’ti sañjānanti. Taṃ sandhāyāha – ‘‘bhadde, sūriyavacchase, tava pitaraṃ timbaruṃ gandhabbadevarājānaṃ vandāmī’’ti. Yena jātāsi kalyāṇīti yena kāraṇabhūtena yaṃ timbaruṃ devarājānaṃ nissāya tvaṃ jātā, kalyāṇī sabbaṅgasobhanā. Ānandajananī mamāti mayhaṃ pītisomanassavaḍḍhanī.
Hỡi nàng Sūriyavacchasā hiền thục, ta tôn kính Timbaru cha nàng: Ở đây, Sūriyavacchasā: nàng có cơ thể giống như mặt trời. Nghe nói ánh sáng phát ra từ dưới gót chân của Tiên nữ ấy rồi lan tỏa lên đến chân tóc, vì thế, nàng xuất hiện giống như quầng sáng quầng sáng của mặt trời mới mọc, do đó các vị Thiên biết nàng là Suriya-Vajassa. Pañcasikha muốn nhắc đến điều đó nên đã gọi nàng là “nàng Sūriyavacchasā”. Thiên tử Pañcasikha nói rằng: “Ta xin cúi chào Thiên vương Timbaru, Thiên vương Gandhabba, là cha của em”. Nhờ ông nàng đã được sanh ra, kiều diễm: Do nương nhờ Thiên vương Timbaru nào đó nàng tuyệt hảo, xinh đẹp ở mọi phần, đã được sanh ra, kiều diễm. Là nguồn tạo ra niềm vui cho ta: tạo ra sự vui vẻ và sự vui mừng, sự tăng trưởng cho ta.
Vātova sedataṃ kantoti yathā sañjātasedānaṃ sedaharaṇatthaṃ vāto iṭṭho hoti kanto manāpo, evanti attho. Pānīyaṃva pipāsatoti pātumicchantassa pipāsato pipāsābhibhūtassa. Aṅgīrasīti aṅge rasmiyo assāti aṅgīrasī, tameva ārabbha ālapanto vadati. Dhammo arahatāmivāti arahantānaṃ navalokuttaradhammo viya.
Tựa như gió được ưa thích bởi những người đổ mồ hôi: Gió được yêu thích và hài lòng của những đổ mồ hôi, nhằm loại bỏ mồ hôi như thế nào, cũng tương tự như thế ấy. Tựa như nước uống đối với người bị khát: nước uống là điều mong muốn của những người bị cơn khát chi phối và muốn được uống nước. Người có hào quang từ thân thể: hào quang từ thân thể của nàng, vì nguyên nhân ấy nàng được gọi là người có hào quang từ thân thể. Pañcasikha thường nhắc đến nàng Sūriyavacchasā ấy. Tựa như Thánh Pháp đối với các bậc A-ra-hán: giống như chín Pháp Siêu Thế của các bậc A-ra-hán.
Jighacchatoti bhuñjitukāmassa khudābhibhūtassa. Jalantamiva vārināti yathā koci jalantaṃ jātavedaṃ udakakumbhena nibbāpeyya, evaṃ tava kāraṇā uppannaṃ mama kāmarāgapariḷāhaṃ nibbāpehīti vadati.
Đối với người đói: của người bị sự đói chi phối mong muốn thọ dụng (vật thực). Tựa như lấy nước dập tắt ngọn lửa đang bùng cháy: Pañcasikha nói rằng ai có thể lấy nước dập tắt ngọn lửa đang bùng cháy như thế nào, nàng hãy dập tắt sự phiền muộn bởi sự sự luyến ái ở các dục của ta đã sanh khởi do nàng là nguyên nhân.
Yuttaṃ kiñjakkhareṇunāti padumakesarareṇunā yuttaṃ. Nāgo ghammābhitatto vāti ghammābhitattahatthī viya. Ogāhe te thanūdaranti yathā so nāgo pokkharaṇiṃ ogāhitvā pivitvā aggasoṇḍamattaṃ paññāyamānaṃ katvā nimuggo sukhaṃ sātaṃ vindati, evaṃ kadā nu kho te thanūdaraṃ thanavemajjhaṃ udarañca otaritvā ahaṃ sukhaṃ sātaṃ paṭilabhissāmīti vadati.
Được tẩm với nhụy và phấn hoa: là được tẩm với nhụy và phấn hoa của hoa sen. Tựa như con voi, bị bực bội bởi sức nóng: Tựa như con voi bị thiêu đốt bởi sức nóng trong mùa hè. Ta đắm chìm vào ngực và bụng của nàng: Pañcasikha nói rằng: Từ khi nào ta đắm chìm vào ngực và bụng, đã đi vào giữa ngực và bụng của nàng, đã nhận được sự hạnh phúc và sự vui thích, tựa như con voi ấy lặn xuống hồ sen uống nước và ngâm mình trong nước chỉ để hiện ra cái vòi, sẽ đạt được sự hạnh phúc và sự vui thích..
‘‘Accaṅkusova nāgova, jitaṃ me tuttatomaraṃ;
Kāraṇaṃ nappajānāmi, sammatto lakkhaṇūruyā’’ti.
Ettha tuttaṃ vuccati kaṇṇamūle vijjhanaayadaṇḍako. Tomaranti pādādīsu vijjhanadaṇḍatomaraṃ. Aṅkusoti matthake vijjhanakuṭilakaṇṭako. Yo ca nāgo pabhinnamatto accaṅkuso hoti, aṅkusaṃ atīto; aṅkusena vijjhiyamānopi vasaṃ na gacchati, so ‘‘jitaṃ mayā tuttatomaraṃ, yo ahaṃ aṅkusassapi vasaṃ na gacchāmī’’ti madadappena kiñci kāraṇaṃ na bujjhati. Yathā so accaṅkuso nāgo ‘‘jitaṃ me tuttatomara’’nti kiñci kāraṇaṃ nappajānāti, evaṃ ahampi lakkhaṇasampannaūrutāya lakkhaṇūruyā sammatto matto pamatto ummatto viya kiñci kāraṇaṃ nappajānāmīti vadati. Atha vā accaṅkusova nāgo ahampi sammatto lakkhaṇūruyā kiñci tato virāgakāraṇaṃ nappajānāmi. Kasmā? Yasmā tena nāgena viya jitaṃ me tuttatomaraṃ, na kassaci vadato vacanaṃ ādiyāmi.
“Tựa như con voi thoát khỏi cây móc câu, cây gậy nhọn và cây thương đã bị ta chinh phục, ta bị đắm say với bắp đùi có đặc điểm (của nàng), ta không biết rõ nguyên nhân.”
Ở đây, gậy thúc sắt được dùng để đâm chọc vào tai gọi là cái gậy nhọn. Cây thương: Cây thương được sử dụng để đâm vào chân, v.v. Móc câu là một cái móc sắc nhọn được dùng để chọc vào đầu (voi). Vả lại những con voi động dục, hay những con voi bất kham, hoặc những con voi ngang ngạnh thì dù có lấy móc nhọn để đâm cũng không bị kiểm soát và nó hiểu rằng “Ta đã chiến thắng cái móc nhọn và cây thương, bởi vì ngay cả cái móc nhọn cũng không bị kiểm soát,” nó không nhận thức được nguyên nhân gì do sức mạnh của sự say mê.” Pañcasikha nói rằng: chính bản thân của ta cũng bị đắm say, say mê và mê loạn như thể điên dại với bắp đùi có đặc điểm của nàng, do có bắp đùi được đầy đặn bởi đặc điểm (của nàng) mới không biết rõ nguyên nhân gì cả tựa như con voi bất kham ấy, nó hiểu rằng ta đã thoát khỏi móc câu và cây thương cũng không biết rõ nguyên nhân gì. Thêm vào đó, bản thân ta tựa như con voi bất kham, bị mê đắm với bắp đùi có đặc điểm của nàng, nên mới không biết rõ nguyên nhân sự xa lìa luyến ái dù chỉ một chút. Tại sao? Bởi vì dù bất cứ đến nói thì ta cũng không để tâm đến lời nói ấy tựa như con voi nghĩ rằng: ‘Ta đã thoát khỏi móc câu và cây thương ấy.’
Tayi gedhitacittosmīti bhadde lakkhaṇūru tayi baddhacittosmi. Gedhitacittoti vā gedhaṃ ajjhupetacitto. Cittaṃ vipariṇāmitanti pakatiṃ jahitvā ṭhitaṃ. Paṭigantuṃ na sakkomīti nivattituṃ na sakkomi. Vaṅkaghastova ambujoti baḷisaṃ gilitvā ṭhitamaccho viya. ‘‘Ghaso’’tipi pāṭho, ayamevattho.
Ta có tâm khao khát nàng: hỡi cô gái, ta có tâm say mê nàng, người có bắp đùi xinh đẹp. Có tâm khao khát: Có tâm hồn say đắm tình yêu. Tâm (của ta) bị biến đổ: Tâm đã dứt bỏ (trạng thái) bình thường, đã vững trú. Ta không có khả năng để cưỡng lại: Ta không thể quay trở lại. Tựa như con cá bị mắc vào lưỡi câu: giống như con cá đã nuốt phải lưỡi câu và bị mắc kẹt. Chánh văn ‘ghasa’ cũng có, có ý nghĩa cũng như vậy tương tự.
Vāmūrūti vāmākārena saṇṭhitaūru, kadalikkhandhasadisaūrūti vā attho. Sajāti āliṅga. Mandalocaneti itthiyo na tikhiṇaṃ nijjhāyanti mandaṃ ālocenti olokenti, tasmā ‘‘mandalocanā’’ti vuccanti. Palissajāti sabbatobhāgena āliṅga. Etaṃ me abhipatthitanti etaṃ mayā abhiṇhaṃ patthitaṃ.
Có bắp đùi xinh đẹp: Có bắp đùi chắc chắn với dáng vẻ xinh đẹp, hoặc được mô tả như có bắp đùi giống như thân cây chuối. Ôm: Xin hãy ôm ta vào lòng. Có cặp mắt bẽn lẽn: Các nữ nhân thường không nhìn chằm chằm, mà thường liếc mắt nhìn, vì thế, được gọi là “có cặp mắt bẽn lẽn.” Hãy ôm chặt lấy ta: hãy ôm trọn lấy ta ở mọi phía. Ta luôn ước muốn điều ấy: Ta luôn ước nguyện điều ấy.
Appako vata me santoti pakatiyāva mando samāno. Vellitakesiyāti kesā muñcitvā piṭṭhiyaṃ vissaṭṭhakāle sappo viya vellantā gacchantā assāti vellitakesī, tassā vellitakesiyā. Anekabhāvo samuppādīti anekavidho jāto. Anekabhāgoti vā pāṭho. Arahanteva dakkhiṇāti arahantamhi dinnadānaṃ viya nānappakārato pabhinno.
Đang có (tình yêu) cho ta quả thật nhỏ nhoi: đang có rất ít theo bình thường. Có mái tóc gợn sóng: có mái tóc gợn sóng bởi vì mái tóc của phụ nữ khi xõa ra và để ở phía sau (bồng bềnh) trông giống như rắn trườn đi, người có mái tóc tựa như gợn sóng ấy. Giờ trạng thái đa dạng đã đạt đến: Sanh lên không phải ít. Hoặc câu này (cũng có nghĩa) ‘Không phải ít’. Tựa như sự cúng dường nơi các bậc A-ra-hán: Phát triển và lan tỏa dưới nhiều hình thức khác nhau, giống như vật thí được cúng dường đến các bậc A-ra-hán (cho kết quả thành tựu vô số).
Yaṃ me atthi kataṃ puññanti yaṃ mayā kataṃ puññamatthi. Arahantesu tādisūti tādilakkhaṇappattesu arahantesu. Tayā saddhiṃ vipaccatanti sabbaṃ tayā saddhimeva vipākaṃ detu.
Có phước thiện nào đã được làm bởi ta: phước thiện nào mà ta đã tạo có tồn tại. Nơi các bậc A-ra-hán như thế ấy: Trong các bậc A-ra-hán đã đạt đến tướng trạng không thay đổi. Mong sao phước thiện ấy cùng với nàng hãy thành tựu quả báo đến ta: Tất cả phước thiện hãy cho kết quả đến chính ta với nàng.
Ekodīti ekībhāvaṃ gato. Nipako satoti nepakkaṃ vuccati paññā, tāya samannāgatoti nipako. Satiyā samannāgatattā sato. Amataṃ muni jigīsānoti yathā so buddhamuni amataṃ nibbānaṃ jigīsati pariyesati, evaṃ taṃ ahaṃ sūriyavacchase jigīsāmi pariyesāmi. Yathā vā so amataṃ jigīsāno esanto gavesanto vicarati, evāhaṃ taṃ esanto gavesanto vicarāmītipi attho.
Một mình (trạng thái chuyên nhất của tâm): đã đạt đến trạng thái người đơn độc. Chín chắn, có niệm: có tuệ bảo vệ bản thân do phối hợp với tuệ được gọi là phương tiện bảo vệ bản thân, do phối hợp với niệm mới gọi là có niệm. (giống như) bậc hiền trí tầm cầu Bất Tử: Đức Phật bậc hiền trí ấy tìm kiếm, tầm cầu Niết Bàn Bất Tử như thế nào, ta đây tầm cầu, tìm kiếm nàng Sūriyavacchasā cũng như thế. Hoặc, có nghĩa là Đức Phật bậc hiền trí ấy tầm cầu Pháp Bất Tử như thế nào, ta cũng đi tìm kiếm nàng tương tư như thế ấy.
Yathāpi muni nandeyya, patvā sambodhimuttamanti yathā buddhamuni bodhipallaṅke nisinno sabbaññutaññāṇaṃ patvā nandeyya toseyya. Evaṃ nandeyyanti evameva ahampi tayā missībhāvaṃ gato nandeyyaṃ, pītisomanassajāto bhaveyyanti vadati.
Cũng giống như bậc hiền trí vui mừng sau khi đạt đến phẩm vị Toàn Giác tối thượng: Đức Phật bậc hiền trí ngồi ở tại bảo tọa Bồ-đề sau khi đạt đến phẩm vị Toàn Giác tối thượng sẽ vui mừng, sẽ hoan hỷ như thế nào. Tương tự như vậy, ta sẽ vui mừng: Pañcasikha nói rằng thậm chí chính bản thân ta khi đến sự chung sống với nàng thì ta cũng sẽ vui mừng, có thể sẽ là người sanh tâm hỷ lạc tương tự như thế ấy.
Tāhaṃ bhadde vareyyāheti aheti āmantanaṃ, ahe bhadde sūriyavacchase, sakkena devānamindena ‘‘kiṃ dvīsu devalokesu devarajjaṃ gaṇhasi, suriyavacchasa’’nti, evaṃ vare dinne devarajjaṃ pahāya ‘‘sūriyavacchasaṃ gaṇhāmī’’ti evaṃ taṃ ahaṃ vareyyaṃ iccheyyaṃ gaṇheyyanti attho.
Tử ‘ahe’ trong câu ‘tāhaṃ bhadde vareyyāhe’ là từ dùng để gọi, nào hỡi Sūriyavacchasā yêu quý, nếu như Thiên chủ Sakka ban ân huệ như vầy: “Ngươi sẽ giữ lấy (địa vị) Thiên Vương ở trong hai cõi trời, hoặc Sūriyavacchasā” ta sẽ nói rằng: Tôi xin từ bỏ (địa vị) Thiên Vương “để lấy nàng Sūriyavacchasā,” có nghĩa là ta sẽ chọn lấy, sẽ ước muốn, sẽ giữ lấy nàng.
Sālaṃva na ciraṃ phullanti tava pitu nagaradvāre naciraṃ pupphito sālo atthi. So ativiya manoharo. Taṃ naciraṃ phullasālaṃ viya. Pitaraṃ te sumedhaseti atisassirīkaṃ tava pitaraṃ vandamāno namassāmi namo karomi. Yassāsetādisī pajāti yassa āsi etādisī dhītā.
Tựa như cây sāla vừa mới nở rộ hoa không lâu: có cây sāla vừa mới nở rộ không lâu ở gần cổng thành của cha nàng, cây sāla đó vô cùng xinh đẹp, giống như cây Sala vừa mới nở rộ không bao lâu ấy. Hỡi cô gái thông minh: ta sẽ cúi chào ông ấy, sẽ bày tỏ sự kính trọng đối với cha của nàng, người có sự chói lọi không thể sánh được. Người như thế này là con của ai?: Cô con gái như thế này là con của người nào?
- Saṃsandatīti kasmā gītasaddassa ceva vīṇāsaddassa ca vaṇṇaṃ kathesi? Kiṃ tattha bhagavato sārāgo atthīti? Natthi. Chaḷaṅgupekkhāya upekkhako bhagavā etādisesu ṭhānesu, kevalaṃ iṭṭhāniṭṭhaṃ jānāti, na tattha rajjati. Vuttampi cetaṃ ‘‘saṃvijjati kho, āvuso, bhagavato cakkhu, passati bhagavā cakkhunā rūpaṃ, chandarāgo bhagavato natthi, suvimuttacitto bhagavā. Saṃvijjati kho, āvuso, bhagavato sota’’ntiādi[1]. Sace pana vaṇṇaṃ na katheyya, pañcasikho ‘‘okāso me kato’’ti na jāneyya. Atha sakko ‘‘bhagavatā pañcasikhassa okāso na kato’’ti devatā gahetvā tatova paṭinivatteyya, tato mahājāniyo bhaveyya. Vaṇṇe pana kathite ‘‘kato bhagavatā pañcasikhassa okāso’’ti devatāhi saddhiṃ upasaṅkamitvā pañhaṃ pucchitvā vissajjanāvasāne asītiyā devatāsahassehi saddhiṃ sotāpattiphale patiṭṭhahissatīti ñatvā vaṇṇaṃ kathesi.
Tại sao đức Thế Tôn nói lời khen ngợi tiếng hát và tiếng đàn vīṇā hòa quyện vào nhau? Sự luyến ái trong âm thanh ấy của đức Thế Tôn vẫn còn tồn tại chăng? – Không có. Đức Thế Tôn là vị hành xả với pháp hành xả ở sáu tình huống, trong tình huống như thế này, ngài biết hoàn toàn về đối tượng ước muốn và không ước muốn (những) cũng không dính mắc vào đối tượng ấy. Và điều này cũng đã được đức Thế Tôn nói đến rằng: “Này Hiền giả, mắt của đức Thế Tôn hiện hữu, đức Thế Tôn nhìn cảnh sắc bằng mắt. Sự ước muốn do luyến ái của đức Thế Tôn không có, đức Thế Tôn có tâm khéo được giải thoát. Này Hiền giả, tai của đức Thế Tôn hiện hữu, v.v.” Hơn nữa, đức Thế Tôn nói lời khen ngợi bởi vì biết (rằng) nếu như không nói lời khen ngợi thì Pañcasikha cũng không biết được “Ta đã tạo cơ hội” khi ấy Thiên chủ Sakka đưa các vị Thiên nhân quay trở lui từ nói đó vì hiểu rằng: “Đức Thế Tôn đã không tạo cơ hội cho Pañcasikha,” khi đó, sẽ trở thành một sự tổn thất lớn. Vả lại, khi nói lời khen ngợi, Thiên chủ Sakka sẽ hiểu rằng: “Đức Thế Tôn đã tạo cơ hội cho Pañcasikha,” sau khi đến yết kiến cùng với chư Thiên đã hỏi câu hỏi, sau khi giải đáp xong, sẽ cùng với tám mươi ngàn vị Thiên nhân sẽ vững trú vào Nhập Lưu Quả.
Tattha kadā saṃyūḷhāti kadā ganthitā piṇḍitā. Tena kho panāhaṃ, bhante, samayenāti tena samayena tasmiṃ tumhākaṃ sambodhippattito paṭṭhāya aṭṭhame sattāhe. Bhaddā nāma sūriyavacchasāti nāmato bhaddā sarīrasampattiyā sūriyavacchasā. Bhaginīti vohāravacanametaṃ, devadhītāti attho. Parakāminīti paraṃ kāmeti abhikaṅkhati.
Trong câu đó, đã được sáng tác vào lúc nào? (các bài kệ này) ngươi đã sáng tác, đã gom chung lại từ khi nào? Hơn nữa, bạch Ngài, vào lúc bấy giờ: Vào lúc bấy giờ, tức là vào tuần lễ thứ tám từ lúc chứng đắc Toàn Giác Trí ấy. Tên là Bhaddā Suriyavaccasā: Bhaddā có tên gọi là Sūriyavacchasā bởi vì có thân hình xinh đẹp. Cô em gái: Đây là lời nói để diễn đạt, đề cập đến Tiên nữ. Có tình ý với kẻ khác: yêu, đang mong muốn người khác.
Upanaccantiyāti naccamānāya. Sā kira ekasmiṃ samaye cātumahārājikadevehi saddhiṃ sakkassa devarājassa naccaṃ dassanatthāya gatā, tasmiñca khaṇe sakko tathāgatassa aṭṭha yathābhucce guṇe payirudāhāsi. Evaṃ tasmiṃ divase gantvā naccantī assosi.
Trong khi đi đến múa: đang múa. Nghe rằng, một thuở nọ, Tiên nữ đã đi nhằm mục đích xem tiệc nhảy múa của Chúa Trời Sakka cùng với chư Thiên cõi Tứ Đại Thiên Vương. Và trong lúc đó, Chúa Trời Sakka đã ca ngợi về tám đức tính đúng như thật của đức Như Lai. Như vậy, vào ngày hôm ấy nàng cũng đã đi xem nhảy múa.
- Paṭisammodatīti ‘‘saṃsandati kho te’’tiādīni vadanto bhagavā sammodati, pañcasikho paṭisammodati. Gāthā ca bhāsanto pañcasikho sammodati, bhagavā paṭisammodati. Āmantesīti jānāpesi. Tassa kirevaṃ ahosi ‘‘ayaṃ pañcasikho mayā mama kammena pesito attano kammaṃ karoti. Evarūpassa satthu santike ṭhatvā kāmaguṇūpasañhitaṃ ananucchavikaṃ kathesi, naṭā nāma nillajjā honti, kathento vippakārampi dasseyya, handa naṃ mama kammaṃ jānāpemī’’ti cintetvā āmantesi.
Nói chuyện vui vẻ với nhau: Khi đức Thế Tôn nói rằng: “(Tiếng đàn vīṇā) của ngươi quả thật du dương” cũng vui vẻ, Pañcasikha đáp lại cũng vui vẻ. Và khi Pañcasikha nói lên kệ ngôn cũng vui vẻ, đức Thế Tôn đáp lại cũng vui vẻ. Đã bảo: Thông báo để biết. Được biết rằng Thiên chủ Sakka đã suy nghĩ như vầy rằng: “Chúng ta phái Pañcasikha đi vì công việc của chúng ta, nhưng anh ta lại làm việc của riêng mình. Anh ta đã đứng ở trong trú xứ của bậc Đạo Sư có hình thức như vậy nói những lời liên quan đến dục vọng, là những lời không thích hợp. Những người nhảy múa là những kẻ không biết xấu hổ, trong khi đang nói Pañcasikha bộc lộ ra những biểu hiện kỳ lạ. Thôi được rồi, ta sẽ nhắc nhở anh ta biết công việc của ta.” Sau khi suy nghĩ như vậy, Thiên chủ Sakka đã gọi Pañcasikha đến. - Evañcapana tathāgatāti dhammasaṅgāhakattherehi ṭhapitavacanaṃ. Abhivadantīti abhivādanasampaṭicchanena vaḍḍhitavacanena vadanti. Abhivaditoti vaḍḍhitavacanena vutto.
Và các đức Như Lai … là như vậy: Lời nói đã được thiết lập bởi các Trưởng lão kết tập Giáo Pháp. Chào đón: đã nói bằng việc đảnh lễ, sự ưng thuận, bao gồm cả những lời nói làm cho tăng trưởng. Được chào đón: Được nói bằng những lời nói làm cho tăng trưởng.
Urundā samapādīti mahantā vivaṭā ahosi, andhakāro guhāyaṃ antaradhāyi. Āloko udapādīti yo pakatiyā guhāyaṃ andhakāro, so antarahito, āloko jāto. Sabbametaṃ dhammasaṅgāhakānaṃ vacanaṃ.
Đã trở nên rộng lớn: Đã trở nên rộng mở. Bóng tối ở hang động đã biến mất, ánh sáng đã sanh lên: Bóng tối tự nhiên ở trong hang động đã biến mất, ánh sáng đã sanh lên. Toàn bộ điều này là lời nói của các vị kết tập Giáo Pháp.
- Cirapaṭikāhaṃ, bhanteti cirato ahaṃ, cirato paṭṭhāyāhaṃ dassanakāmoti attho. Kehici kehici kiccakaraṇīyehīti devānaṃ dhītā ca puttā ca aṅke nibbattanti, pādaparicārikā itthiyo sayane nibbattanti, tāsaṃ maṇḍanapasādhanakārikā devatā sayanaṃ parivāretvā nibbattanti, veyyāvaccakarā antovimāne nibbattanti, etesaṃ atthāya aḍḍakaraṇaṃ nāma natthi. Ye pana sīmantare nibbattanti, te ‘‘tava santakā, mama santakā’’ti nicchetuṃ asakkontā aḍḍaṃ karonti, sakkaṃ devarājānaṃ pucchanti. So ‘‘yassa vimānaṃ āsannataraṃ, tassa santakā’’ti vadati. Sace dvepi samaṭṭhāne honti, ‘‘yassa vimānaṃ olokentī ṭhitā, tassa santakā’’ti vadati. Sace ekampi na oloketi, taṃ ubhinnaṃ kalahupacchedanatthaṃ attano santakaṃ karoti. Kīḷādīnipi kiccāni karaṇīyāneva. Evarūpāni tāni karaṇīyāni sandhāya ‘‘kehici kehici kiccakaraṇīyehī’’ti āha.
Bạch Ngài, từ lâu con đã có ý định…: Con có ý định đi đến để yết kiến (đức Thế Tôn) từ rất lâu rồi, giải thích rằng: con có ý định đi đến yết kiết (đức Thế Tôn) vốn dĩ đã từ rất lâu. Bởi những công việc phải làm này nọ nào đó: Các con trai và con gái của chư Thiên được sinh ra trên lòng của các vị Thiên nhân. Những tiên nữ hầu cận là vợ được sinh ra trên giường. Chư Thiên làm việc trang điểm, trang trí cho các vị Thiên ấy được sinh ra xung quanh giường. Những tiên nữ phụ giúp việc được sinh ra ở trong Thiên Cung. Không có việc kiện tụng vì lợi ích của các vị Thiên này. Nhưng những người sinh ra ở vùng biên giới, khi không thể quyết định rằng: “của ngài” hay “của tôi,” thì sẽ xảy ra việc kiện tụng, thì sẽ hỏi Thiên Vương Sakka. Vị ấy sẽ nói rằng: “Ở gần Thiên Cung của ai hơn, thì thuộc về người đó.” Nếu ở giữa hai Thiên Cung có khoảng cách bằng nhau, thì vị ấy sẽ nói: “Đứng nhìn về Thiên Cung của ai, thì thuộc về người đó.” Nếu không nhìn về Thiên Cung nào, để chấm dứt cuộc tranh cãi của cả hai bên, thì Thiên Vương sẽ lấy về mình. Các phận sự như các cuộc vui chơi cũng phải do Thiên Vương sắp xếp. Thiên Vương muốn đề cập đến những công việc đó có hình thức như vậy mới nói rằng: “Bởi những công việc phải làm này nọ nào đó.”
Salaḷāgāraketi salaḷamayagandhakuṭiyaṃ. Aññatarena samādhināti tadā kira bhagavā sakkasseva aparipākagataṃ ñāṇaṃ viditvā okāsaṃ akāretukāmo phalasamāpattivihārena nisīdi. Taṃ esa ajānanto ‘‘aññatarena samādhinā’’ti āha. Bhūjati ca nāmāti bhūjatīti tassā nāmaṃ. Paricārikāti pādaparicārikā devadhītā. Sā kira dve phalāni pattā, tenassā devaloke abhiratiyeva natthi. Niccaṃ bhagavato upaṭṭhānaṃ āgantvā añjaliṃ sirasi ṭhapetvā bhagavantaṃ namassamānā tiṭṭhati. Nemisaddena tamhā samādhimhā vuṭṭhitoti ‘‘samāpanno saddaṃ suṇātī’’ti no vata re vattabbe, nanu bhagavā sakkassa devānamindassa ‘‘apicāhaṃ āyasmato cakkanemisaddena tamhā samādhimhā vuṭṭhito’’ti bhaṇatīti. Tiṭṭhatu nemisaddo, samāpanno nāma antosamāpattiyaṃ kaṇṇamūle dhamamānassa saṅkhayugaḷassāpi asanisannipātassāpi saddaṃ na suṇāti. Bhagavā pana ‘‘ettakaṃ kālaṃ sakkassa okāsaṃ na karissāmī’’ti paricchinditvā kālavasena phalasamāpattiṃ samāpanno. Sakko ‘‘na dāni me satthā okāsaṃ karotī’’ti gandhakuṭiṃ padakkhiṇaṃ katvā rathaṃ nivattetvā devalokābhimukhaṃ pesesi. Gandhakuṭipariveṇaṃ rathasaddena samohitaṃ pañcaṅgikatūriyaṃ viya ahosi. Bhagavato yathāparicchinnakālavasena samāpattito vuṭṭhitassa rathasaddeneva paṭhamāvajjanaṃ uppajji, tasmā evamāha.
Ở ngôi nhà làm bằng gỗ cây saḷala: Hương Thất được làm bằng gỗ cây saḷala. (Đang ngồi) với một trạng thái định nào đó: Có câu chuyện kể rằng, lần đó, đức Thế Tôn biết rằng trí của của Thiên chủ Sakka vẫn chưa chín mùi nên đã không ban cho cơ hội, ngài đã ngồi xuống an trú với sự thể nhập thánh quả. Thiên chủ không biết được điều đó, nên mới nói rằng: “(Đức Thế Tôn đang ngồi) với một trạng thái định nào đó.” Tên Bhuñjatī: Vị tiên nữ ấy tên là Bhūjatī. (Vị tiên nữ) hầu cận: Tiên nữ là người hầu cận. Nàng đã đạt được hai (Thánh) quả, vì thế nàng không cảm thấy hoan hỷ ở thế giới chư Thiên. Nàng đã thường xuyên đến hầu cận đức Thế Tôn, đứng thẳng, chắp tay đặt lên trên đầu cung kính đức Thế Tôn. Ta đã xuất khỏi định ấy bởi tiếng động vành xe của đại đức: Không cần nói rằng: “người đã thể nhập thiền định rồi lại nghe được âm thanh.” – Đức Thế Tôn cũng đã nói với Thiên chủ Sakka rằng: “Và cũng bởi tiếng động vành xe của đại đức, Ta đã xuất khỏi định ấy không phải sao?” – Đừng bận tâm về tiếng vành xe, thông thường người nhập định, trong trạng thái định, dù ai có thổi kèn sát bên tai hay sét đánh rầm rầm cũng không nghe thấy được những âm thanh ấy. Hơn nữa đức Thế Tôn, Ngài đã xác định rằng: “Suốt khoảng thời gian chừng này, Ta sẽ không tạo cơ hội cho Thiên chủ Sakka.” Do đó, Ngài đã thể nhập vào sự thể nhập thánh quả do tác động của thời gian.” Thiên chủ Sakka nghĩ rằng: “Bây giờ bậc Đạo Sư đã không tạo cơ hội cho ta” nên ngài đã hướng vai phải nhiễu quanh Hương Thất rồi quay xe hướng mặt về Thiên giới. Khu vực Hương Thất cũng ầm ĩ do tiếng xe tựa như dàn nhạc có năm loại nhạc cụ. Khi đức Thế Tôn xuất khỏi định do tác động của thời gian đã xác định, tâm làm phận sự khai môn thứ nhất đã sanh khởi, do đó, Ngài mới nói như vậy.
Giảng về câu chuyện Thiên tử Gopaka
- Sīlesu paripūrakārinīti pañcasu sīlesu paripūrakārinī. Itthittaṃ virājetvāti itthittaṃ nāma alaṃ, na hi itthitte ṭhatvā cakkavattisiriṃ, na sakkamārabrahmasiriyo paccanubhavituṃ, na paccekabodhiṃ, na sammāsambodhiṃ gantuṃ sakkāti evaṃ itthittaṃ virājeti nāma. Mahantamidaṃ purisattaṃ nāma seṭṭhaṃ uttamaṃ, ettha ṭhatvā sakkā etā sampattiyo pāpuṇitunti evaṃ pana purisattaṃ bhāveti nāma. Sāpi evamakāsi. Tena vuttaṃ – ‘‘itthittaṃ virājetvā purisattaṃ bhāvetvā’’ti. Hīnaṃ gandhabbakāyanti hīnaṃ lāmakaṃ gandhabbanikāyaṃ. Kasmā pana te parisuddhasīlā tattha uppannāti? Pubbanikantiyā. Pubbepi kira nesaṃ etadeva vasitaṭṭhānaṃ, tasmā nikantivasena tattha uppannā. Upaṭṭhānanti upaṭṭhānasālaṃ. Pāricariyanti paricaraṇabhāvaṃ. Gītavāditehi amhe paricarissāmāti āgacchanti.
Có sự thực hành đầy đủ các giới: Là vị có sự thực hành đầy đủ trong năm giới. Đã không luyến ái nữ tánh: Nghĩ rằng, đã quá đủ đối với bản thể nữ nhân, bởi vì khi đã mang thân nữ nhân thì không thể thọ hưởng sự vinh quang của Vua Chuyển Luân, không thể thọ hưởng vinh quang của Thiên chủ Sakka, Ma Vương và Phạm Thiên, không thể chứng đạt Trí Độc Giác, không thể đạt được Trí Toàn Giá, như thế được gọi là “đã mửa ra sự ham muốn đối với bản thể nữ nhân.” Còn người nghĩ rằng: Bản thể nam nhân này là lớn lao, là cao thượng, là cao quý, bởi vì người mang thân nam nhân này có khả năng đạt được những sự thành tựu này, như vậy gọi là đã phát triển bản thể nam nhân. Ngay cả nàng cũng đã thực hành như thế. Vì lý do đó, mới nói rằng – “Nàng đã mửa ra sự ham muốn đối với bản thể nữ nhân, đã phát triển nam tánh.” (Được tái sanh) vào tập thể Càn-thát-bà thấp thỏi: Tập thể Càn-thát-bà thấp thỏi, thấp hèn. Hơn nữa, phần các ngươi đều có giới hạnh trong sạch, tại sao lại sanh lên ở Thiên giới ấy? – Bởi vì sự hài lòng đến trước. Kể rằng, trước đây ở nơi đó là nơi đã từng sống của những người ấy. Vì thế, được sanh vào nơi đó do tác động của sự hài lòng. Hầu cận: hội trường phục vụ. Phục vụ: việc săn sóc. Các Càn-thát-bà ấy đến với ý nghĩ rằng: Chúng ta sẽ phục vụ bằng tiếng ca và tiếng đàn.
Paṭicodesīti sāresi. So kira te disvā ‘‘ime devaputtā ativiya virocenti ativaṇṇavanto, kiṃ nu kho kammaṃ katvā āgatā’’ti āvajjanto ‘‘bhikkhū ahesu’’nti addasa. Tato ‘‘bhikkhū hontu, sīlesu paripūrakārino’’ti upadhārento ‘‘paripūrakārino’’ti addasa. ‘‘Paripūrakārino hontu, añño guṇo atthi natthī’’ti upadhārento ‘‘jhānalābhino’’ti addasa. ‘‘Jhānalābhino hontu, kuhiṃ vāsikā’’ti upadhārento ‘‘mayhaṃva kulūpakā’’ti addasa. Parisuddhasīlā nāma chasu devalokesu yatthicchanti, tattha nibbattanti. Ime pana uparidevaloke ca na nibbattā. Jhānalābhino nāma brahmaloke nibbattanti, ime ca brahmaloke na nibbattā. Ahaṃ pana etesaṃ ovāde ṭhatvā devalokasāmikassa sakkassa devānamindassa pallaṅke putto hutvā nibbatto, ime hīne gandhabbakāye nibbattā. Aṭṭhivedhapuggalā nāmete vaṭṭetvā vaṭṭetvā gāḷhaṃ vijjhitabbāti cintetvā kutomukhā nāmātiādīhi vacanehi paṭicodesi.
Đã quở trách: đã nhắc nhở. Nghe rằng, Thiên tử Gopaka sau khi nhìn thấy các Càn-thát-bà ấy mới ngẫm nghĩ rằng: “Các vị Thiên tử này có hào quang vô cùng sáng chói, không biết (các vị ấy) đã tạo hành động gì để được như vậy, đã thấy rằng: “(các vị ấy) đã từng là các vị tỳ khưu”. Sau đó Ngài suy nghĩ thêm rằng: “Các tỳ khưu này có sự thực hành đầy đủ các giới hay không?” – Đã thấy rằng: “có sự thực hành đầy đủ các giới.” – Suy nghĩ tiếp rằng: “Dù sự thực hành đầy đủ các giới, thì đức hạnh khác có hay không? – Đã thấy rằng: “họ là những vị đắc Thiền. – Suy nghĩ thêm rằng: “Dù có Thiền, thì họ cư ngụ ở đâu? – Đã thấy rằng: “họ chính là những vị thường xuyên lui tới gia đình của ta.” Mới suy nghĩ rằng: Thường những người có giới hạnh trong sạch ước muốn tái sanh vào cõi trời nào trong sáu cõi trời (Dục giới), thì sẽ tái sanh vào cõi trời ấy, nhưng những người này không tái sanh ở cõi trời cao. Thường những người đắc thiền thì tái sanh ở cõi Phạm Thiên, nhưng những người này không tái sanh ở thế giới Phạm Thiên. Còn bản thân ta đã an trú vào lời giáo huấn của họ, bị tái sinh làm con trai tại ngai vàng của Thiên chủ Sakka, là vua của thiên giới. Những người này tái sanh vào tập thể Càn-thát-bà thấp thỏi. Tập thể Càn-thát-bà ấy ai ai họ cũng biết là những người lấy xương chọc thủng (làm vòng cổ) nhảy tới nhảy lui với nhau nên (Thiên tử tên Gopaka) đã nhắc nhở rằng: “Các ngài…với mặt mày để đâu?”
Tattha kutomukhāti bhagavati abhimukhe dhammaṃ desente tumhe kutomukhā kiṃ aññā vihitā ito cito ca olokayamānā udāhu niddāyamānā? Duddiṭṭharūpanti duddiṭṭhasabhāvaṃ daṭṭhuṃ ayuttaṃ. Sahadhammiketi ekassa satthu sāsane samāciṇṇadhamme katapuññe. Tesaṃ bhanteti tesaṃ gopakena devaputtena evaṃ vatvā puna ‘‘aho tumhe nillajjā ahirikā’’tiādīhi vacanehi paṭicoditānaṃ dve devā diṭṭheva dhamme satiṃ paṭilabhiṃsu.
Trong câu đó, với mặt mày để ở đâu?: Khi đức Thế Tôn hướng mắt đến để thuyết giảng Giáo Pháp, các ngài để mặt mày ở đâu? Hay là đã để tâm trí ở chỗ khác, nhìn chỗ này, nhìn chỗ kia, hay là đang ngủ? Đã nhìn thấy cảnh chướng mắt!: Không thích hợp để nhìn thấy trạng thái không đáng để nhìn. Các vị đồng đạo: vị thực hành pháp bao gồm đã tạo phước thiện trong Giáo Pháp của cùng một bậc Đạo Sư. Bạch Ngài, trong số các vị: Trong số các vị bị Thiên tử Gopaka nói như thế rồi nhắc nhở thêm nữa bằng những lời như sau: “Ôi! Các ngài thật không biết thẹn, không biết xấu hổ,” hai vị Thiên đã đạt được niệm ngay lập tức.
Kāyaṃ brahmapurohitanti te kira cintayiṃsu – ‘‘naṭehi nāma naccantehi gāyantehi vādentehi āgantvā dāyo nāma labhitabbo assa, ayaṃ pana amhākaṃ diṭṭhakālato paṭṭhāya pakkhittaloṇaṃ uddhanaṃ viya taṭataṭāyateva, kiṃ nu kho ida’’nti āvajjantā attano samaṇabhāvaṃ parisuddhasīlataṃ jhānalābhitaṃ tasseva kulūpakabhāvañca disvā ‘‘parisuddhasīlā nāma chasu devalokesu yathārucite ṭhāne nibbattanti, jhānalābhino brahmaloke. Mayaṃ uparidevalokepi brahmalokepi nibbattituṃ nāsakkhimha. Amhākaṃ ovāde ṭhatvā ayaṃ itthikā upari nibbattā, mayaṃ bhikkhū samānā bhagavati brahmacariyaṃ caritvā hīne gandhabbakāye nibbattā. Tena no ayaṃ evaṃ niggaṇhātī’’ti ñatvā tassa kathaṃ suṇantāyeva tesu dve janā paṭhamajjhānasatiṃ paṭilabhitvā jhānaṃ pādakaṃ katvā saṅkhāre sammasantā anāgāmiphaleyeva patiṭṭhahiṃsu. Atha nesaṃ so paritto kāmāvacarattabhāvo dhāretuṃ nāsakkhi. Tasmā tāvadeva cavitvā brahmapurohitesu nibbattā. So ca nesaṃ kāyo tattha ṭhitānaṃyeva nibbatto. Tena vuttaṃ – ‘‘tesaṃ, bhante, gopakena devaputtena paṭicoditānaṃ dve devā diṭṭheva dhamme satiṃ paṭilabhiṃsu kāyaṃ brahmapurohita’’nti.
Tập thể, là tùy tùng của Phạm Thiên: Nghe rằng các vị Thiên tử ấy đã nghĩ suy rằng: “Nói đến những vũ công nhảy múa, ca hát, chơi nhạc cụ rồi thì phải được trả công thưởng. Còn Thiên tử Gopaka này, kể từ lúc ta nhìn thấy, chỉ phát tiếng nổ lốp đốp tựa như rắc muối vào lò lửa, chuyện gì đây nhỉ?” Và sau khi thấy rằng: bản thân cũng là Sa-môn, có giới hạnh trong sạch, đã đạt được Thiền và là vị thường xuyên lui tới gia đình của Thiên thần Gopaka, ngài đã nhận ra rằng: ‘người có giới hạnh trong sạch thường chọn tái sinh ở sáu cõi Trời (Dục giới), người có Thiền thường tái sanh vào thế giới Phạm Thiên (nhưng) tất cả chúng ta đều không thể sanh vào cõi trời cao hay cõi Phạm Thiên. Thiên tử Gopaka này đã từng là nữ nhân, đã an trú vào lời giáo huấn của chúng ta, (mà) vẫn được sanh vào (cõi trời) cao, (còn) chúng ta là những vị tỳ khưu sau khi thực hành Phạm hạnh nơi đức Thế Tôn được tái sanh vào tập thể Càn-thát-bà thấp thỏi. Do đó, Thiên tử Gopaka này mới quở trách chúng ta như vậy,” vì thế ai cũng phải nghe lời Thiên tử Gopaka. Trong số ba vị Thiên ấy, hai vị đã đạt được niệm trong Sơ thiền, lấy thiền định làm nền tảng rồi quán xét các hành, và đã vững trú trong Quả Bất Lai. Lúc đó, bản ngã Dục giới nhỏ bé của các ngài ấy không thể nâng đỡ. Vì vậy, ngay lập tức, các vị ấy đã chết đi và đã sanh vào tập thể là tùy tùng của Phạm Thiên. Và tập thể của họ an trú ở đó cũng được sanh ra. Do nguyên nhân ấy Thiên chủ Sakka mới nói rằng – “Bạch Ngài, trong số các vị bị Thiên tử Gopaka quở trách ấy, hai vị Thiên nhân ngay ở bản thể này đã đạt được niệm, (đã đạt đến) tập thể là tùy tùng của Phạm Thiên.”
Tattha diṭṭheva dhammeti tasmiññeva attabhāve jhānasatiṃ paṭilabhiṃsu. Tattheva ṭhatvā cutā pana kāyaṃ brahmapurohitaṃ brahmapurohitasarīraṃ paṭilabhiṃsūti evamattho daṭṭhabbo. Eko pana devoti eko devaputto nikantiṃ chindituṃ asakkonto kāme ajjhavasi, tattheva āvāsiko ahosi.
Trong những lời ấy ‘ngay lập tức’: đã đạt được niệm trong thiền ở chính bản ngã ấy. Nên hiểu ý nghĩa như vầy rằng: vẫn tồn tại ở ngay chính nơi ấy, đã chết đi và quay trở lại tập thể là tùy tùng của Phạm Thiên, thân xác (sau khi chết) đã trở thành (tập thể) là tùy tùng của Phạm Thiên. Còn một vị Thiên nhân: một vị Thiên nhân không thể cắt đoạn lòng khao khát đã sống trong các dục, tức là vẫn thường trú, là vẫn y cứ trong chính cõi Dục ấy.
- Saṅghañcupaṭṭhāsinti saṅghañca upaṭṭhāsiṃ. Sudhammatāyāti dhammassa sundarabhāvena. Tidivūpapannoti tidive tidasapure upapanno. Gandhabbakāyūpagate vasīneti gandhabbakāyaṃ āvāsiko hutvā upagate. Ye ca mayaṃ pubbe manussabhūtāti ye pubbe manussabhūtā mayaṃ annena pānena upaṭṭhahimhāti iminā saddhiṃ yojetvā attho veditabbo.
Tôi đã phục vụ Hội Chúng: và (tôi) đã phục Hội Chúng. Nhờ vào bản chất tốt đẹp của Giáo Pháp: Nhờ vào bản chất tốt đẹp của Giáo Pháp. Được tái sanh vào cõi Đao Lợi: Được tái sanh cõi Đạo Lợi, tức là Tam Thập Tam. Đã đạt đến tập thể Càn-thát-bà hạ đẳng: Đã đạt đến tập thể Càn-thát-bà, sống an trú. Họ và chúng tôi đã có bản thể nhân loại trước đây: Và trước đây họ và chúng tôi đã có bản thể nhân loại. Sau khi kết hợp lời này rằng: Chúng tôi đã phục vụ cơm nước thì nên hiểu ý nghĩa.
Pādūpasaṅgayhāti pāde upasaṅgayha pādadhovanapādamakkhanānuppadānena pūjetvā ceva vanditvā ca. Sake nivesaneti attano ghare. Imassāpi padassa upaṭṭhahimhāti imināva sambandho.
Sau khi đã tôn vinh hai bàn chân (các vị): Sau khi đến gần đôi bàn chân với việc rửa chân và thoa dầu vào chân đã cúng dường và đã đảnh lễ.Tại trú xá của mình: Ở chỗ của ngụ của mình. Đối với đoạn này, cũng, cần phải kết nối với câu ‘hầu cận’ tương tự.
Paccattaṃ veditabboti attanāva veditabbo. Ariyāna subhāsitānīti tumhehi vuccamānāni buddhānaṃ bhagavantānaṃ subhāsitāni.
Nên được hiểu biết tự bản thân: Nên được hiểu biết tự bản thân. Các lời khéo được giảng của các bậc Thánh: Các lời khéo thuyết giảng của đức Thế Tôn được nói bởi các ngài.
Tumhepana seṭṭhamupāsamānāti uttamaṃ buddhaṃ bhagavantaṃ upāsamānā anuttare buddhasāsane vā. Brahmacariyanti seṭṭhacariyaṃ. Bhavatūpapattīti bhavantānaṃ upapatti.
Trái lại, các ngài, trong khi hầu cận bậc Tối Thượng: trong khi hầu cận đức Phật, Thế Tôn tối thượng. Vô thượng: hoặc trong Phật Giáo. Phạm hạnh: Phạm hạnh vô thượng. Sự tái sanh của chư tôn đức: Sự tái sanh của chư tôn đức.
Agāre vasato mayhanti gharamajjhe vasantassa mayhaṃ.
Trong khi tôi sống ở nhà: Trong khi tôi sống ở giữa nhà.
Svajjāti so ajja. Gotamasāvakenāti idha gopako gotamasāvakoti vutto. Sameccāti samāgantvā
Hôm nay tôi: hôm nay tôi. (Bị quở trách) bởi đệ tử của đức Gotama: Ở đây, (Thiên tử) Gopaka gọi các đệ tử của đức Gotama. Sau khi gặp: đã hội họp với nhau.
Handaviyāyāma byāyāmāti handa uyyamāma byāyamāma. Mā no mayaṃ parapessā ahumhāti noti nipātamattaṃ, mā mayaṃ parassa pesanakārakāva ahumhāti attho. Gotamasāsanānīti idha pakatiyā paṭividdhaṃ paṭhamajjhānameva gotamasāsanānīti vuttaṃ, taṃ anussaraṃ anussaritvāti attho.
Nào, chúng ta hãy nỗ lực, chúng ta hãy chăm chỉ: Nào chúng ta hãy nỗ lực lực, chúng ta hãy chăm chỉ. ‘No – chúng tôi’ trong câu ‘Mā no mayaṃ parapessā ahumhāti no – chúng ta chớ trở thành những đầy tớ của người khác’ chỉ là từ được chèn vào câu mà thôi, có nghĩa là chúng ta chớ trở thành những đầy tớ của người khác. Các lời giáo huấn của đức Gotama: Ở đây, thông thường ngài gọi Sơ thiền đã đạt được là “các lời giáo huấn của đức Gotama”, có nghĩa là nhớ lại, tức là đã nhớ lại Sơ thiền đó.
Cittāni virājayitvāti pañcakāmaguṇikacittāni virājayitvā. Kāmesu ādīnavanti vikkhambhanavasena paṭhamajjhānena kāmesu ādīnavaṃ addasaṃsu, samucchedavasena tatiyamaggena. Kāmasaṃyojanabandhanānīti kāmasaññojanāni ca kāmabandhanāni ca. Pāpimayogānīti pāpimato mārassa yogabhūtāni, bandhanabhūtānīti attho. Duraccayānīti duratikkamāni. Saindā devā sapajāpatikāti indaṃ jeṭṭhakaṃ katvā upaviṭṭhā saindā pajāpatiṃ devarājānaṃ jeṭṭhakaṃ katvā upaviṭṭhā sapajāpatikā. Sabhāyupaviṭṭhāti sabhāyaṃ upaviṭṭhā, nisinnāti attho.
Các vị ấy đã lìa các tâm khỏi luyến ái: Đã lìa khỏi tâm gắn liền với năm loại dục. Đã nhìn thấy sự bất lợi ở các dục: Đã nhìn thấy lỗi lầm ở các dục bằng Sơ thiền do năng lực chế ngự, bằng Tam thiền nhờ đoạn trừ. Đã cắt đứt các sự ràng buộc và các sự trói buộc vào các dục: các sự ràng buộc và các sự trói buộc vào các dục. Các sự gắn bó tồi tệ: các phương tiện ràng buộc và các phương tiện trói buộc của Ác Ma người ác xấu. Khó vượt qua: khó để vượt qua. Chư Thiên, có thần Inda, có thần Pajāpati: người đã làm cho thần Inda trở thành người đứng đầu rồi đi vào gọi là ‘bao gồm cả thần Inda’ vị đã làm cho Thiên Vương Pajāpati trở thành vị đứng đầu rồi đi vào gọi là ‘bao gồm cả thần Pajāpati.’ Tất cả đã đi vào hội trường Sudhammā: Nghĩa là đã đi vào, đã ngồi xuống ở hội trường.
Vīrāti sūrā. Virāgāti vītarāgā. Virajaṃ karontāti virajaṃ anāgāmimaggaṃ karontā uppādentā. Nāgova sannāni guṇānīti kāmasaññojanabandhanāni chetvā deve tāvatiṃse atikkamiṃsu. Saṃvegajātassāti jātasaṃvegassa sakkassa.
Bậc anh hùng: vị can đảm. Không còn luyến ái: Không còn luyến ái. Đang thực hiện việc không còn dơ bẩn: đang thực hiện, đang làm cho sanh khởi Đạo Bất Lai không có dơ bẩn. Tựa như con voi đã cắt đứt các loại xiềng xích: Đã cắt đứt các sự trói buộc và các sự ràng buộc vào các dục, (các vị) đã vượt hơn hẳn chư Thiên cõi Đao Lợi. Đã gây ra sự chấn động: Đối với Thiên Chủ Sakka đã gây ra sự rúng động.
Kāmābhibhūti duvidhānampi kāmānaṃ abhibhū. Satiyā vihīnāti jhānasativirahitā.
Bậc ngự trị các dục: bậc ngự trí các dục, thậm chí cả hai. Các vị này đã đánh mất niệm: các vị đã thoát khỏi sự ghi nhớ đến thiền.
Tiṇṇaṃ tesanti tesu tīsu janesu. Āvasinettha ekoti tattha hīne kāye ekoyeva āvāsiko jāto. Sambodhipathānusārinoti anāgāmimaggānusārino. Devepi hīḷentīti dve devaloke hīḷentā adhokarontā upacārappanāsamādhīhi samāhitattā attano pādapaṃsuṃ devatānaṃ matthake okirantā ākāse uppatitvā gatāti.
Trong số ba vị ấy: Trong số ba vị ấy. Một vị có sự cư ngụ tại nơi đó: Là vị vẫn còn cư ngụ ở tập thể thấp thỏi chỉ có duy nhất một vị. Nhớ lại con đường của sự giác ngộ hoàn toàn: Nhớ đến Đạo Bất Lai. Thậm chí xem thường (thế giới) chư Thiên: khinh thường cả hai thế giới chư Thiên vì có bản thân đã được định tĩnh do cận định và an chỉ định, nên mới lấy bụi bám vào chân mình để rắc lên đầu các vị Thiên và đã bay lên không trung.
Etādisī dhammappakāsanetthāti ettha sāsane evarūpā dhammappakāsanā, yāya sāvakā etehi guṇehi samannāgatā honti. Na tattha kiṃ kaṅkhati koci sāvakoti kiṃ tattha tesu sāvakesu koci ekasāvakopi buddhādīsu vā cātuddisabhāve vā na kaṅkhati ‘‘sabbadisāsu asajjamāno agayhamāno viharatī’’ti. Idāni bhagavato vaṇṇaṃ bhaṇanto ‘‘nitiṇṇaoghaṃ vicikicchachinnaṃ, buddhaṃ namassāma jinaṃ janinda’’nti āha. Tattha vicikicchachinnanti chinnavicikicchaṃ. Janindanti sabbalokuttamaṃ.
Vị truyền bá Giáo Pháp ở nơi này là như thế ấy: Các vị đệ tử là những vị thành tựu đức hạnh này, đó là những đức hạnh của người truyền bá Giáo Pháp có hình thức như vậy trong Giáo Pháp này. Tại nơi ấy, không có bất cứ đệ tử nào nghi ngờ điều gì: Trong số các đệ tử đó, không có bất cứ đệ tử nào dù chỉ một vị đệ tử nghi ngờ về Đức Phật, v.v. hay về bản chất của bốn phương rằng “vị ấy sống không vướng bận không dính mắc ở trong cả bốn phương hướng.” Bây giờ, khi ca ngợi đức hạnh của đức Thế Tôn mới nói rằng: “Chúng tôi kính lễ đức Phật, đấng Chiến Thắng, vị chúa tể của loài người, bậc đã vượt qua dòng lũ, đã cắt đứt hoài nghi.” Trong câu ấy, đã cắt đứt hoài nghi: đã cắt đứt sự hoài nghi. Vị chúa tể của loài người: vị tối cao trong thế giới loài người.
Yaṃ te dhammanti yaṃ tava dhammaṃ. Ajjhagaṃsu teti te devaputtā adhigatā. Kāyaṃ brahmapurohitanti amhākaṃ passantānaṃyeva brahmapurohitasarīraṃ. Idaṃ vuttaṃ hoti – yaṃ tava dhammaṃ jānitvā tesaṃ tiṇṇaṃ janānaṃ te dve visesagū amhākaṃ passantānaṃyeva kāyaṃ brahmapurohitaṃ adhigantvā maggaphalavisesaṃ ajjhagaṃsu, mayampi tassa dhammassa pattiyā āgatamhāsi mārisāti. Āgatamhaseti sampattamha. Katāvakāsā bhagavatā, pañhaṃ pucchemu mārisāti sace no bhagavā okāsaṃ karoti, atha bhagavatā katāvakāsā hutvā pañhaṃ, mārisa, puccheyyāmāti attho.
Giáo Pháp nào của ngài: Giáo Pháp nào của ngài. Các vị ấy đã chứng đắc: Các vị Thiên ấy đã chứng đắc. (đã đạt được) tập thể, là tùy tùng của Phạm Thiên: Khi chúng tôi đang quan sát thì thân xác (sau khi chết) đã trở thành tùy tùng của Phạm Thiên. Có lời mà Thiên chủ Sakka đã giải thích rằng – Các vị Thiên đó biết được Pháp của ngài, trong số ba người đó, hai vị đã chứng đắc vị thế đặc biệt, khi chúng tôi đang thấy nhau ấy, thì cũng đã đạt được tập thể là tùy tùng của Phạm Thiên, và chứng đắc vị thế đặc biệt là Đạo và Quả, thưa ngài, chúng ta đã đi đến nhằm đạt được Giáo Pháp ấy.” Đã đi đến: đã đi đến. Với cơ hội đã được đức Thế Tôn tạo ra, thưa ngài, chúng ta có thể hỏi câu hỏi: Nếu như đức Thế Tôn đã tạo cơ hội, khi ấy, thưa ngài, với cơ hội đã được đức Thế Tôn tạo ra chúng tôi có thể hỏi câu hỏi.
Tụng phẩm thứ nhất được kết thúc
Nói về câu chuyện của Thiên chủ Sakka
- Dīgharattaṃ visuddho kho ayaṃ yakkhoti cirakālato pabhuti visuddho. Kīva cirakālato? Anuppanne buddhe magadharaṭṭhe macalagāmake maghamāṇavakālato paṭṭhāya. Tadā kiresa ekadivasaṃ kālasseva vuṭṭhāya gāmamajjhe manussānaṃ gāmakammakaraṇaṭṭhānaṃ gantvā attano ṭhitaṭṭhānaṃ pādanteneva paṃsukacavaraṃ apanetvā ramaṇīyamakāsi, añño āgantvā tatthaaṭṭhāsi. So tāvatakeneva satiṃ paṭilabhitvā majjhe gāmassa khalamaṇḍalamattaṃ ṭhānaṃ sodhetvā vālukaṃ okiritvā dārūni āharitvā sītakāle aggiṃ karoti, daharā ca mahallakā ca āgantvā tattha nisīdanti.
Dạ-xoa (Thần Inda) này thật sự được thanh tịnh một thời gian dài: Là vị được thành tịnh từ một thời gian rất dài. Thời gian dài bao lâu? Rất lâu kể từ khi còn là thanh niên Māgha ở Vương quốc Magadha, vùng Magadha, khi Đức Phật vẫn còn chưa xuất hiện. Kể rằng, vào thời điểm đó, một ngày nọ, thanh niên Māgha thức dậy rất sớm và đi đến chỗ làm việc thường ngày của dân làng nằm ở giữa ngôi làng, lấy mũi chân gạt đống đất và rác thải sang một bên để làm cho chỗ mình đứng trở nên được thoải mái hơn, những người khác cũng đến đứng ở đó. Chỉ với lý do đó, cậu ấy đã đạt được niệm và bắt đầu dọn đẹp sạch sẽ khu vực ở giữa làng rồi chở cát đến rải đều, và chở củi đến đốt lửa khi trời lạnh, cả những thanh niên và những người già đều cùng đưa nhau đến ngồi ở nơi đó.
Athassa ekadivasaṃ etadahosi – ‘‘mayaṃ nagaraṃ gantvā rājarājamahāmattādayo passāma, imesupi candimasūriyesu ‘cando nāma devaputto, sūriyo nāma devaputto’ti vadanti. Kiṃ nu kho katvā ete etā sampattiyo adhigatā’’ti? Tato ‘‘nāññaṃ kiñci, puññakammameva katvā’’ti cintetvā ‘‘mayāpi evaṃvidhasampattidāyakaṃ puññakammameva kattabba’’nti cintesi.
Sau đó, vào một ngày nọ, anh ta suy nghĩ rằng – “Khi ta đi đến thành phố, đã thấy đức vua và các viên quan đại thần, mọi người đều nói rằng: Trong mặt trăng và mặt trời kia, ‘có vị Thiên tử tên là Chanda, và vị Thiên tử tên là Sūriya.’ Họ đã làm gì để có được những sự thành tựu này? Sau đó, anh ta nghĩ rằng: “không có điều gì khác, ngoài việc phải tạo các phước thiện,’ Rồi anh ta nghĩ rằng: “Chính mình cũng cần tạo các phước thiện để có được sự thành tựu như thế này.’”
So kālasseva vuṭṭhāya yāguṃ pivitvā vāsipharasukudālamusalahattho catumahāpathaṃ gantvā musalena pāsāṇe uccāletvā pavaṭṭeti, yānānaṃ akkhapaṭighātarukkhe harati, visamaṃ samaṃ karoti, catumahāpathe sālaṃ karoti, pokkharaṇiṃ khaṇati, setuṃ bandhati, evaṃ divasaṃ kammaṃ katvā atthaṅgate sūriye gharaṃ eti. Taṃ añño pucchi – ‘‘bho, magha, tvaṃ pātova nikkhamitvā sāyaṃ araññato esi, kiṃ kammaṃ karosī’’ti? Puññakammaṃ karomi. Saggagāmimaggaṃ sodhemīti. Kimidaṃ, bho, puññaṃ nāmāti? Tvaṃ na jānāsīti? Āma, na jānāmīti. Nagaraṃ gatakāle diṭṭhapubbā te rājarājamahāmattādayoti? Āma, diṭṭhapubbāti. Puññakammaṃ katvā tehi taṃ ṭhānaṃ laddhaṃ, ahampi evaṃvidhasampattidāyakaṃ kammaṃ karomi.‘‘Cando nāma devaputto, sūriyo nāma devaputto’’ti sutapubbaṃ tayāti? Āma sutapubbanti. Etassa saggassa gamanamaggaṃ ahaṃ sodhemīti. Idaṃ pana puññakammaṃ kiṃ taveva vaṭṭati, aññassa na vaṭṭatīti? Na kassacetaṃ vāritanti. Yadi evaṃ sve araññaṃ gamanakāle mayhampi saddaṃ dehīti. Punadivase taṃ gahetvā gato, evaṃ tasmiṃ gāme tettiṃsa manussā taruṇavayā sabbe tasseva anuvattakā ahesuṃ. Te ekacchandā hutvā puññakammāni karontā vicaranti. Yaṃ disaṃ gacchanti, maggaṃ samaṃ karontā ekadivaseneva karonti, pokkharaṇiṃ khaṇantā, sālaṃ karontā, setuṃ bandhantā ekadivaseneva niṭṭhāpenti.
Vì vậy, anh ta dậy từ sáng sớm, uống nước cháo, rồi cầm liềm, rìu, cuốc và đòn bẩy đi đến ngã tư đường lớn, lấy đòn bẩy để di chuyển và lăn những tảng đá đi, mang vác gỗ để gắn vào trục xe, làm bằng phẳng những chỗ gồ ghề, rồi xây dựng một cái đình ở ngã tư đường lớn, đào ao sen, xây cầu và làm những công việc như vậy cả ngày cho đến khi mặt trời lặn mới trở về nhà. Có người khác hỏi anh ta rằng – “Này bạn Māgha, bạn đã đi từ lúc sáng sớm đến chiều chiều tối mới từ rừng trở về, bạn làm công việc gì vậy?” – Tôi làm việc phước thiện. Tôi đang làm sạch sẽ con đường đi lên thiên giới. – Này bạn, gọi là phước thiện, vậy phước thiện này là gì? – Bạn không biết sao? – Vâng, tôi không biết. – Khi bạn đi đến thành phố, bạn có thấy các vua và các viên quan đại thần không? Vâng, tôi từng nhìn thấy. – Họ đã làm việc phước thiện để có được địa vị đó, chính tôi cũng sẽ làm việc thiện để có được sự thành tựu như vậy. – Bạn đã từng nghe rằng: “Có vị Thiên tử tên là Chanda và vị Thiên tử tên là Sūriya? – Vâng, đã từng nghe. – Tôi cũng sẽ dọn sạch con đường đi lên Thiên giới đó. – Ờ, vậy thì việc phước thiện này chỉ thích hợp đối với bạn thôi sao, hay cũng thích hợp đối với người khác nữa? Việc phước thiện đó không loại trừ ai cả. – Vậy thì ngày mai, lúc đi vào rừng, bạn gọi tôi đi cùng nhé. Ngày hôm sau, anh ấy đã đưa người đó đi cùng. Như vậy, trong làng đó có tổng cộng ba mươi ba thanh niên trẻ tuổi, tất cả đều làm theo lời của thanh niên Māgha. Họ cùng nhau đi làm việc phước thiện là những người có cùng sự mong muốn. Ngày nào đi, khi làm con đường bằng phẳng, họ làm hoàn thành chỉ trong một ngày; nếu đào ao sen, xây đình, xây cầu, cũng chỉ hoàn thành trong một ngày.
Atha nesaṃ gāmabhojako cintesi – ‘‘ahaṃ pubbe etesu suraṃ pivantesu pāṇaghātādīni karontesu ca kahāpaṇādivasena ceva daṇḍabalivasena ca dhanaṃ labhāmi. Idāni etesaṃ puññakaraṇakālato paṭṭhāya ettako āyo natthi, handa ne rājakule paribhindāmī’’ti rājānaṃ upasaṅkamitvā core, mahārāja, passāmīti. Kuhiṃ, tātāti? Mayhaṃ gāmeti. Kiṃ corā nāma, tātāti? Rājāparādhikā devāti. Kiṃ jātikāti? Gahapatijātikā devāti. Gahapatikā kiṃ karissanti, tayā jānamānena kasmā mayhaṃ na kathitanti? Bhayena, mahārāja, na kathemi, idāni mā mayhaṃ dosaṃ kareyyāthāti. Atha rājā ‘‘ayaṃ mayhaṃ mahāravaṃ ravatī’’ti saddahitvā ‘‘tena hi gaccha, tvameva ne ānehī’’ti balaṃ datvā pesesi. So gantvā divasaṃ araññe kammaṃ katvā sāyamāsaṃ bhuñjitvā gāmamajjhe nisīditvā ‘‘sve kiṃ kammaṃ karissāma, kiṃ maggaṃ samaṃ karoma, pokkharaṇiṃ khaṇāma, setuṃ bandhāmā’’ti mantayamāneyeva te parivāretvā ‘‘mā phandittha, rañño āṇā’’ti bandhitvā pāyāsi. Atha kho nesaṃ itthiyo ‘‘sāmikā kira vo ‘rājāparādhikā corā’ti bandhitvā niyyantī’’ti sutvā ‘‘aticirena kūṭā ete ‘puññakammaṃ karomā’ti divase divase araññeva acchanti, sabbakammantā parihīnā, gehe na kiñci vaḍḍhati, suṭṭhu baddhā suṭṭhu gahitā’’ti vadiṃsu.
Sau đó, trưởng làng của họ nghĩ rằng – “trước đây, khi những người này vẫn còn uống rượu và sát hại các sinh mạng, v.v, ta có được chút ít tài sản thông qua sức mạnh của đồng tiền và thông qua sức mạnh của quyền đánh thuế. Nhưng bây giờ, kể từ khi họ làm việc phước thiện, nguồn thu nhập đó cũng biến mất, thôi được rồi ta sẽ làm tổn hại (danh dự) của họ trong gia đình hoàng tộc. Trưởng làng đã đến gặp đức vua và tâu rằng: “Tâu đại vương, thần đã gặp một bọn cướp.” – (Đức vua) Này khanh, ở đâu? – (Trưởng làng) Trong làng của thần. – Này khanh, là loại cướp gì? – Thưa bệ hạ, loại xúc phạm đến đức vua. – Họ thuộc phe cánh nào? – Thưa bệ hạ, họ thuộc phe cánh người gia chủ. – Người gia chủ có thể làm gì được? – Khi khanh biết như thế, tại sao không báo cho trẫm? – Thưa Đại vương, thần không dám bẩm tâu vì sợ hình phạt. – Bây giờ thần xin đại vương đừng phạt thần. Khi đó, đức vua nghĩ rằng – “Trưởng làng này khóc lóc lớn tiếng,” nên đức vua tin và nói rằng: “Nếu như vậy, khanh hãy đi và đưa những tên cướp đó về đây,” rồi đã ban cho quân lính đưa đi. Trưởng làng ấy đã bao vây nhóm người đó, khi hoàn thành công việc thường ngày trong rừng, đã ngồi xuống ăn tối giữa làng, và đang bàn bạc với nhau rằng: “vào ngày mai chúng ta sẽ làm công việc gì: san lấp bằng phẳng các con đường, đào ao hay xây cầu.” (Trưởng làng) đã ra lệnh: “(các người) chớ di chuyển, đây là mệnh lệnh của đức vua,” rồi trói họ lại đưa đi. Sau đó, nhóm phụ nữ của những người ấy sau khi nghe rằng: “Kể rằng chồng của chúng ta bị cáo buộc là cướp phản loạn chống lại vua nên đã bị bắt,” họ nói rằng: “Những kẻ này đã lừa dối từ lâu rồi,” mỗi ngày chỉ nói rằng “làm việc phước thiện” và đi vào rừng, tất cả mọi công việc đều bị suy thoái, ở trong nhà không có gì để phát triển, hãy trói họ lại thật kỹ, đưa họ đi thật khéo.”
Gāmabhojakopi te netvā rañño dassesi. Rājā anupaparikkhitvāyeva ‘‘hatthinā maddāpethā’’ti āha. Tesu nīyamānesu magho itare āha – ‘‘bho, sakkhissatha mama vacanaṃ kātu’’nti? Tava vacanaṃ karontāyevamha imaṃ bhayaṃ pattā, evaṃ santepi tava vacanaṃ karoma, bhaṇa bho, kiṃ karomāti? Ettha bho vaṭṭe carantānaṃ nāma nibaddhaṃ etaṃ, kiṃ pana tumhe corāti? Na coramhāti. Imassa lokassa saccakiriyā nāma avassayo, tasmā sabbepi ‘‘yadi amhe corā, hatthī maddatu, atha na corā, mā maddatū’’ti saccakiriyaṃ karothāti. Te tathā akaṃsu. Hatthī upagantumpi na sakkoti, viravanto palāyati, hatthiṃ tuttatomaraṅkusehi koṭṭentāpi upanetuṃ na sakkonti. ‘‘Hatthiṃ upanetuṃ na sakkomā’’ti rañño ārocesuṃ. Tena hi upari kaṭena paṭicchādetvā maddāpethāti. Upari kaṭe dinne diguṇaravaṃ viravanto palāyati.
Luôn cả trưởng làng cũng đưa họ đến trình diện với đức vua. Đức vua vẫn chưa kịp tra hỏi đã ra lệnh rằng: “Hãy cho voi giẫm đạp.” Khi bọn họ bị đưa đi, Māgha đã nói với những người còn lại rằng – “Các bạn, các bạn sẽ làm theo lời của tôi được không? Khi làm theo lời của bạn nên chúng tôi mới gặp nguy hiểm. Mặc dù vậy, chúng tôi vẫn sẽ làm theo lời bạn. Vậy bạn muốn chúng tôi làm gì? Nhóm bạn nói. Các bạn, hãy đến đây, đây là chuyện liên quan đến kẻ lang thang trong vòng luân hồi. Các bạn có phải là cướp không? Māgha giải thích và hỏi nhóm bạn. Chúng ta không phải cướp, nhóm bạn trả lời một cách mạnh mẽ. Māgha hướng dẫn rằng: “thật là nơi nương tựa ở đời này. Vì vậy, nếu chúng tôi tất cả đều là cướp, thì hãy để con voi giẫm đạp. Nếu chúng tôi không phải cướp, thì đừng giẫm đạp,” các bạn hãy (thực hiện) sự phát nguyện chân thật như vậy. Bọn họ đã làm theo như thế, con voi ngay cả đến gần cũng không thể, nó vừa rống lên vừa chạy trốn. Dù có dùng sắt nhọn, giáo và móc nhọn đâm cũng không thể giữ lại. Những người điều khiển voi đi trình báo với vua rằng: ‘chúng thần không thể cưỡi voi đến gần được.” – Vua ra lệnh: “Nếu vậy, hãy dùng tấm thảm che phủ lên trên người bọn họ rồi cho con voi giẫm đạp. – Khi tấm thảm che được phủ lên trên con voi càng kêu to lên gấp hai lần và bỏ chạy.
Rājā sutvā pesuññakārakaṃ pakkosāpetvā āha – ‘‘tāta, hatthī maddituṃ na icchatī’’ti? Āma, deva, jeṭṭhakamāṇavo mantaṃ jānāti, mantasseva ayamānubhāvoti. Rājā taṃ pakkosāpetvā ‘‘manto kira te atthī’’ti pucchi? Natthi, deva, mayhaṃ manto, saccakiriyaṃ pana mayaṃ karimha – ‘‘yadi amhe rañño corā, maddatu, atha na corā, mā maddatū’’ti, saccakiriyāya no esa ānubhāvoti. Kiṃ pana, tāta, tumhe kammaṃ karothāti? Amhe, deva, maggaṃ samaṃ karoma, catumahāpathe sālaṃ karoma , pokkharaṇiṃ khaṇāma, setuṃ bandhāma, evarūpāni puññakammāni karontā vicarimhāti.
Đức vua sau khi nghe vậy liền ra lệnh gọi kẻ xúi giục đến và nói – “Này khanh, con voi không muốn giẫm đạp.” – Dạ vâng, thưa bệ hạ, thanh niên người dẫn đầu biết thần chú, đó là sức mạnh của thần chú, trưởng làng đáp lời và buộc tội tiếp. – Đức vua ra lệnh gọi người dẫn đầu vào gặp và hỏi: “Ngươi có biết thần chú không?” – “Thưa bệ hạ, hạ thần không biết thần chú, nhưng chúng thần đã thực hiện sự phát nguyện chân thật rằng: “nếu chúng tôi là cướp của đức vua, xin hãy giẫm đạp; còn nếu chúng tôi không phải cướp, xin đừng giẫm đạp.” Đó là sức mạnh của sự phát nguyện chân thật của chúng thần. Như vậy, các ngươi làm công việc gì? – Người dẫn đầu đáp: “Tâu bệ hạ, chúng thần san bằng phẳng con đường, xây đình ở ngã tư đường lớn, đào ao sen, xây cầu. Chúng thần đi làm việc phước thiện có hình thức như vậy.”
Ayaṃ tumhe kimatthaṃ pisuṇesīti? Amhākaṃ pamattakāle idañcidañca labhati, appamattakāle taṃ natthi, etena kāraṇenāti. Tāta, ayaṃ hatthī nāma tiracchāno, sopi tumhākaṃ guṇe jānāti. Ahaṃ manusso hutvāpi na jānāmi, tumhākaṃ vasanagāmaṃ tumhākaṃyeva puna aharaṇīyaṃ katvā demi, ayampi hatthī tumhākaṃyeva hotu, pesuññakārakopi tumhākaṃyeva dāso hotu. Ito paṭṭhāya mayhampi puññakammaṃ karothāti dhanaṃ datvā vissajjesi. Te dhanaṃ gahetvā vārena vārena hatthiṃ āruyha gacchantā mantayanti ‘‘bho puññakammaṃ nāma anāgatabhavatthāya kariyati, amhākaṃ pana antoudake pupphitaṃ nīluppalaṃ viya imasmiññeva attabhāve vipākaṃ deti. Idāni atirekaṃ puññaṃ karissāmā’’ti, kiṃ karomāti? Catumahāpathe thāvaraṃ katvā mahājanassa vissamanasālaṃ karoma, itthīhi pana saddhiṃ apattikaṃ katvā karissāma, amhesu hi ‘‘corā’’ti gahetvā nīyamānesu itthīnaṃ ekāpi cintāmattakampi akatvā ‘‘subaddhā sugahitā’’ti uṭṭhahiṃsu, tasmā tāsaṃ pattiṃ na dassāmāti. Te attano gehāni gantvā hatthino tettiṃsapiṇḍaṃ denti, tettiṃsa tiṇamuṭṭhiyo āharanti, taṃ sabbaṃ hatthissa kucchipūraṃ jātaṃ. Te araññaṃ pavisitvā rukkhe chindanti, chinnaṃ chinnaṃ hatthī kaḍḍhitvā sakaṭapathe ṭhapesi. Te rukkhe tacchetvā sālāya kammaṃ ārabhiṃsu.
– Trưởng làng vu khống các ngươi để làm gì? – Thời gian chúng thần xao lãng, hắn ta thu được những thứ này và những thứ này, nhưng khi chúng thần không xao lãng thì những thứ đó cũng không có, vì thế mà hắn ta mới vu khống. – Này khanh, con voi này là loài bàng sanh, ngay cả nó còn biết được đức hạnh các ngươi. Chính trẫm đây mặc dù là con người mà cũng không biết được. Trẫm sẽ ban ngôi làng nơi ở của các ngươi trở thành ngôi làng được miễn thuế bất kỳ ai cũng không thể đến thu thuế, ta cũng ban tặng cho các ngươi thêm nữa, luôn cả con voi này cũng hãy là cua các ngươi. Còn kẻ xúi giục ta ban làm nô lệ cho các ngươi. Kể từ nay trở đi, hãy làm việc phước thiện vì trẫm. Nói xong, (đức vua) đã ban tài sản cho họ rồi thả họ đi. Bọn họ sau khi nhận lấy tài sản rồi thay phiên nhau lên voi, trong khi thảo luận với nhau rằng: “Các bạn ơi, thông thường thì việc làm phước là điều cần phải thực hiện vì lợi ích cho kiếp sống ở thời vị lai, bởi vì phước thiện ấy của chúng ta cho kết quả trong chính bản ngã này, giống như hoa sen xanh nở hoa trong nước. Bây giờ, chúng ta sẽ làm phước nhiều hơn nữa. – Chúng ta sẽ làm gì? – Chúng ta đã làm bền vững ở ngã tư đường lớn và xây dựng một cái mái nhà nghỉ cho đại chúng, hơn nữa với những người phụ nữ, chúng ta sẽ không cho họ tham gia chung, bởi vì khi chúng ta bị quân lính bắt vì “bị buộc tội là cướp”, trong số những người phụ nữ không một người phụ nữ nào dù chỉ một người để tâm giúp đỡ mà chỉ khuyến khích rằng ‘hãy trói thật kỹ và giữ thật chắc”. Vì vậy, chúng ta sẽ không cho phép những người phụ nữ đó có phần tham gia. Họ sau khi trở về nhà của mình đã cho ba mươi ba vắt cơm và ba mươi ba bó cỏ đến voi. Tất cả đều làm cho voi no bụng. Họ đã vào rừng để chặt cây, voi kéo cây đã chặt ra đặt ở đường xe kéo. Họ phụ giúp nhau đẽo cây và bắt đầu xây dựng nhà nghỉ.
Maghassa gehe sujātā, sudhammā, cittā, nandāti catasso bhariyāyo ahesuṃ. Sudhammā vaḍḍhakiṃ pucchati – ‘‘tāta, ime sahāyā kālasseva gantvā sāyaṃ enti, kiṃ kammaṃ karontī’’ti? ‘‘Sālaṃ karonti, ammā’’ti. ‘‘Tāta, mayhampi sālāya pattiṃ katvā dehī’’ti. ‘‘Itthīhi apattikaṃ karomā’’ti ete vadantīti. Sā vaḍḍhakissa aṭṭha kahāpaṇe datvā ‘‘tāta, yena kenaci upāyena mayhaṃ pattikaṃ karohī’’ti āha. So ‘‘sādhu ammā’’ti vatvā puretaraṃ vāsipharasuṃ gahetvā gāmamajjhe ṭhatvā ‘‘kiṃ bho ajja imasmimpi kāle na nikkhamathā’’ti uccāsaddaṃ katvā ‘‘sabbe maggaṃ āruḷhā’’ti ñatvā ‘‘gacchatha tāva tumhe, mayhaṃ papañco atthī’’ti te purato katvā aññaṃ maggaṃ āruyha kaṇṇikūpagaṃ rukkhaṃ chinditvā tacchetvā maṭṭhaṃ katvā āharitvā sudhammāya gehe ṭhapesi – ‘‘mayā dehīti vuttadivase nīharitvā dadeyyāsī’’ti.
Mākha đã có bốn người vợ trong nhà, đó là Sujātā, Suddhammā, Citta và Nandā. Nàng Suddhammā hỏi người thợ mộc – “Này ông! Những người bạn của tôi đi từ sáng sớm đến chiều tối mới trở về, họ làm công việc gì?” Người thợ mộc trả lời: “Thưa cô, (họ) làm nhà nghỉ, ” Nàng Suddhamā lại nói: “Thưa ông! Xin ông hãy tìm kiếm bất kỳ phương cách nào giúp tôi có được một phần tham dự trong nhà nghỉ đó.” – Các bạn của cô nói rằng: “Chúng ta không cho phép phụ nữ được phần tham dự.” Nàng Suddhamā đã đưa tám đồng tiền kahāpaṇa cho người thợ mộc và nói: “Thôi được rồi, này ông, xin ông hãy giúp đỡ tìm ra bất kỳ phương cách nào đó làm cho tôi có phần tham dự trong đó.” Người thợ mộc trả lời: “Tốt lắm! Thưa cô.” Rồi ông ấy cầm dao và rìu nhanh chóng đứng giữa làng, hét to: “Các cậu ơi! Đã trễ thế này rồi mà các cậu vẫn chưa ra ngoài sao? Khi biết rằng: “Tất cả đã lên đường,” thì (ông ta) đã nói rằng: “Mọi người cứ đi trước đi, tôi có điều làm trở ngại,” rồi để cho họ đi trước, (còn bản thân) đi theo con đường khác chặt cây làm mái nhà, gọt đẽo sạch rồi chở về đặt ở của nàng Suddhammā, dặn rằng: “Cô hãy cho chở ra ngoài vào ngày tôi thông báo rằng hãy cho.
Atha niṭṭhite dabbasambhārakamme bhūmikammato paṭṭhāya cayabandhanathambhussāpana saṅghāṭayojana kaṇṇikamañcabandhanesu katesu so vaḍḍhakī kaṇṇikamañce nisīditvā catūhi disāhi gopānasiyo ukkhipitvā ‘‘bho ekaṃ pamuṭṭhaṃ atthī’’ti āha. Kiṃ bho pamuṭṭhaṃ, sabbameva tvaṃ pamussasīti. Imā bho gopānasiyo kattha patiṭṭhahissantīti? Kaṇṇikā nāma laddhuṃ vaṭṭatīti. Kuhiṃ bho idāni sakkā laddhunti? Kulānaṃ gehe sakkā laddhunti. Āhiṇḍantā pucchathāti. Te antogāmaṃ pavisitvā pucchitvā sudhammāya gharadvāre ‘‘imasmiṃ ghare kaṇṇikā atthī’’ti āhaṃsu. Sā ‘‘atthī’’ti āha. Handa mūlaṃ gaṇhāhīti. Mūlaṃ na gaṇhāmi, sace mama pattiṃ karotha, dassāmīti. Etha bho mātugāmassa pattiṃ na karoma, araññaṃ gantvā rukkhaṃ chindissāmāti nikkhamiṃsu.
Sau khi hoàn thành công việc liên quan đến những vật liệu xây dựng và khi làm các mối buộc, nâng các cột, lắp đặt các đòn ngang và mái nhà, từ khi đã san bằng bề mặt đất, người thợ mộc đã ngồi tại vị trí để gắn mái nhà, nâng các đòn ngang lên từ bốn phía và đã nói rằng: “Này cậu! Cậu có một điều đã quên. – Cậu đã quên điều gì? quên hết rồi. Vậy sẽ lấy những cây xà ngang này đặt ở chỗ nào? Cần phải có mái nhà. – Này ông, bây giờ tôi có thể có được nó ở đâu? Có thể có được trong nhà của các gia đình, hãy thử đi hỏi xem. Bọn họ sau khi vào làng đã đứng trước cửa nhà của Nàng Suddhammā, hỏi rằng: “Trong nhà này có mái nhà không? – Nàng Suddhammā trả lời rằng: “Có”. Vậy thì, hãy nhận lấy món tiền, tôi không nhận tiền. Nhưng nếu các cậu cho tôi được phần tham dự (việc phước thiện), tôi sẽ cho. – Hãy đến, chúng tôi không cho người nữ được phần tham dự, chúng tôi sẽ đi chặt cây, nói xong (họ) đã đi vào rừng.
Tato vaḍḍhakī ‘‘kiṃ na laddhā, tāta, kaṇṇikā’’ti pucchi. Te tamatthaṃ ārocayiṃsu. Vaḍḍhakī kaṇṇikamañce nisinnova ākāsaṃ ulloketvā ‘‘bho ajja nakkhattaṃ sundaraṃ, idaṃ aññaṃ saṃvaccharaṃ atikkamitvā sakkā laddhuṃ, tumhehi ca dukkhena ābhatā dabbasambhārā, te sakalasaṃvaccharena imasmiññeva ṭhāne pūtikā bhavissanti. Devaloke nibbattakāle tassāpi ekasmiṃ koṇe sālā hotu, āharatha na’’nti āha.
Lúc đó, bọn họ khi bị người thợ mộc hỏi rằng: “Các cậu, có tìm được mái nhà không?” Cũng đã thông báo ý nghĩa ấy. Người thợ mộc vẫn ngồi ở tại nơi gắn mái nhà, đã ngước lên nhìn bầu trời và nói rằng: “Này các cậu, hôm nay là ngày tốt, nếu qua ngày này, năm sau mới có thể làm được, và các cậu đem đi các vật liệu xây dựng đến khó khăn bởi các vật liệu xây dựng ấy mang đến chất đóng cả năm chúng cũng sẽ trở nên mục nát ở tại chính nơi này. Vào thời gian (mà các cậu) tái sanh vào thế giới chư Thiên cũng hãy cho một góc nhà đến nàng (được phần tham dự), hãy đi mang mái nhà đó đến.
Sāpi yāva te na puna āgacchanti, tāva kaṇṇikāya heṭṭhimatale ‘‘ayaṃ sālā sudhammā nāmā’’ti akkharāni chindāpetvā ahatena vatthena veṭhetvā ṭhapesi. Kammikā āgantvā – ‘‘āhara, re kaṇṇikaṃ, yaṃ hotu taṃ hotu. Tuyhampi pattiṃ karissāmā’’ti āhaṃsu. Sā nīharitvā ‘‘tātā, yāva aṭṭha vā soḷasa vā gopānasiyo na ārohanti, tāva imaṃ vatthaṃ mā nibbeṭhayitthā’’ti vatvā adāsi. Te ‘‘sādhū’’ti sampaṭicchitvā gahetvā gopānasiyo āropetvāva vatthaṃ nibbeṭhesuṃ.
Nàng Suddhammā ấy trong thời gian mà những người ấy vẫn còn chưa đến, đã yêu cầu khắc chữ lên mái nhà rằng: “Ngôi nhà này tên là Suddhammā” và đặt bên dưới mái nhà rồi lấy tấm vải mới bọc lại. Khi những người làm đến đã nói rằng: “Giúp mang ra mái nhà, trong khả năng có thể, chúng tôi sẽ làm cho bà có được phần tham dự.” Sau khi mang ra cô đã dặn rằng: “Các người đừng mở tấm vải này ra cho đến khi đã lắp được tám hoặc mười sáu đòn ngang, rồi hãy mở ra, rồi đưa cho.” Họ đồng ý đáp rằng: “Tốt lắm!” và sau khi nâng các thanh đòn ngang lên đã mở tấm vải ra.
Eko mahāgāmikamanusso uddhaṃ ullokento akkharāni disvā ‘‘kiṃ, bho, ida’’nti akkharaññuṃ manussaṃ pakkosāpetvā dassesi. So ‘‘sudhammā nāma ayaṃ sālā’’ti āha. ‘‘Haratha, bho, mayaṃ ādito paṭṭhāya sālaṃ katvā nāmamattampi na labhāma, esā ratanamattena kaṇṇikarukkhena sālaṃ attano nāmena kāretī’’ti viravanti. Vaḍḍhakī tesaṃ viravantānaṃyeva gopānasiyo pavesetvā āṇiṃ datvā sālākammaṃ niṭṭhāpesi.
Người dân sống trong ngôi làng lớn trong khi ngẩng đầu lên đã nhìn thấy dòng chữ mới nói rằng: “Thưa ông, đây là gì?” rồi đã cho mời người biết đọc ra xem. Người ấy đã đọc rằng: “Ngôi nhà này tên là Suddhammā.” Họ la hét om sòm: “Này ông, lấy ra ngay, từ đầu đến giờ khi xây dựng ngôi nhà này, chúng tôi không được thậm chí lấy cái tên, cô nàng này chỉ góp một phần nhỏ gỗ mái nhà dài một khuỷu tay mà lại cho làm nhà với tên của mình.” Trong khi họ đang la hét om sòm, người thợ mộc đã chèn xà ngang rồi đóng chốt lại, hoàn thành việc xây dựng ngôi nhà nghỉ.
Sālaṃ tidhā vibhajiṃsu, ekasmiṃ koṭṭhāse issarānaṃ vasanaṭṭhānaṃ akaṃsu, ekasmiṃ duggatānaṃ, ekasmiṃ gilānānaṃ. Tettiṃsa janā tettiṃsa phalakāni paññapetvā hatthissa saññaṃ adaṃsu – ‘‘āgantuko āgantvā yassa atthate phalake nisīdati, taṃ gahetvā phalakasāmikasseva gehe patiṭṭhapehi. Tassa pādaparikammapiṭṭhiparikammakhādanīyabhojanīyasayanāni sabbāni phalakasāmikasseva bhāro bhavissatī’’ti. Hatthī āgatāgataṃ gahetvā phalakasāmikassa gehaṃ neti, so tassa taṃ divasaṃ kattabbaṃ karoti.
Ông chia nhà nghỉ thành ba phần: một phần làm chỗ nghỉ ngơi dành cho các vị chúa tể (các bậc trưởng thượng), một phần cho những người nghèo khổ, và một phần cho những người bệnh tật. Ba mươi ba người trải ba mươi ba tấm ván rồi ra hiệu cho voi rằng: “Khi khách vãng lai đến ngồi trên tấm ván của người nào trải ra, thì ngươi hãy đưa người đó đến nhà của người chủ tấm ván đó. Chủ nhà sẽ lo việc xoa bóp chân, xoa bóp lưng, thức ăn loại cứng, thức ăn loại mềm và chỗ ngủ cho vị khách ấy, đây sẽ là bổn phận của chủ nhân tấm ván ấy. Voi sẽ đưa vị khách đã đến dẫn đến nhà của chủ nhân tấm ván đó. Ngày hôm đó, chủ nhân tấm ván đó sẽ sắp xếp mọi việc cần làm cho vị khách ấy.
Maghamāṇavo sālato avidūre ṭhāne koviḷārarukkhaṃ ropāpesi, mūle cassa pāsāṇaphalakaṃ atthari. Nandā nāmassa bhariyā avidūre pokkharaṇiṃ khaṇāpesi, cittā mālāvacche ropāpesi, sabbajeṭṭhikā pana ādāsaṃ gahetvā attabhāvaṃ maṇḍayamānāva vicarati. Magho taṃ āha – ‘‘bhadde, sudhammā, sālāya pattikā jātā, nandā pokkharaṇiṃ khaṇāpesi, cittā mālāvacche ropāpesi. Tava pana puññakammaṃ nāma natthi, ekaṃ puññaṃ karohi, bhadde’’ti sā ‘‘tvaṃ kassa kāraṇā karosi, nanu tayā kataṃ mayhamevā’’ti vatvā attabhāvamaṇḍanameva anuyuñjati.
Không xa ngôi nhà nghỉ, thanh niên Māgha đã trồng một cây koviḷāra và trải các phiến đá ở dưới gốc cây. Vợ của anh ta, tên là Nandā, đã cho đào một hồ sen gần đó, nàng Cittā trồng các bụi hoa. Còn người vợ cả chỉ lo ngắm mình trong gương và trang điểm thân thể mà thôi. Māgha nói với cô ấy rằng: “Nàng ơi, Sudhamma này nàng ấy có phần tham gia vào việc xây dựng ngôi nhà nghỉ, Nandā đã đào hồ sen, Cittā đã trồng các bụi hoa. Còn nàng vẫn chưa có việc phước thiện gì, nàng ơi, nàng hãy làm một việc phước thiện nào đó đi.” Cô ta đáp: “Chàng làm vì ai? Điều mà chàng đã làm cũng giống như thiếp làm không phải sao?” rồi cô ấy cũng chỉ mải mê vào việc chăm chút bản thân.
Magho yāvatāyukaṃ ṭhatvā tato cavitvā tāvatiṃsabhavane sakko hutvā nibbatti, tepi tettiṃsa gāmikamanussā kālaṅkatvā tettiṃsa devaputtā hutvā tasseva santike nibbattā. Sakkassa vejayanto nāma pāsādo satta yojanasatāni uggacchi, dhajo tīṇi yojanasatāni uggacchi, koviḷārarukkhassa nissandena samantā tiyojanasataparimaṇḍalo pañcadasayojanapariṇāhakkhandho pāricchattako nibbatti, pāsāṇaphalakassa nissandena pāricchattakamūle saṭṭhiyojanikā paṇḍukambalasilā nibbatti. Sudhammāya kaṇṇikarukkhassa nissandena tiyojanasatikā sudhammā devasabhā nibbatti. Nandāya pokkharaṇiyā nissandena paññāsayojanā nandā nāma pokkharaṇī nibbatti. Cittāya mālāvacchavatthunissandena saṭṭhiyojanikaṃ cittalatāvanaṃ nāma uyyānaṃ nibbatti.
Khi Māgha an trú cho đến hết tuổi thọ sau khi chết từ chỗ đó (thế giới loài người) đã tái chuyển trở thành Vua trời Sakka ở cung trời Đao Lợi. Cả ba mươi ba người bạn hàng xóm của vị ấy sau khi chết cũng trở thành ba mươi ba thiên tử, sanh ra trong chính trú xứ của vua trời Sakka. Lâu đài tên là Vejayanta của Vua trời Sakka đã nổi lên cao bảy trăm do-tuần, lá cờ nổi lên cao ba trăm do-tuần, do nhờ kết quả của cây koviḷāra, một cây Pāricchattaka có chu vi ba trăm do-tuần, thân cây rộng mười lăm do-tuần được mọc lên. Do nhờ kết quả của phiến đá, một phiến đá tựa như tấm vải lông thú màu vàng rộng sáu mươi do-tuần đã mọc lên tại gốc cây Pāricchattaka. Do nhờ kết quả gỗ làm mái nhà của nàng Suddhammā, một hội trường chư Thiên tên là Sudhammā rộng ba trăm do-tuần đã xuất hiện. Do nhờ kết quả của hồ sen của nàng Nandā, một hồ sen tên là Nandā rộng năm mươi do-tuần đã xuất hiện. Do nhời kết quả của vườn hoa của nàng Cittā, một vườn hoa tên là Cittalatāvana rộng sáu mươi do-tuần đã mọc lên.
Sakko devarājā sudhammāya devasabhāya yojanike suvaṇṇapallaṅke nisinno tiyojanike setacchatte dhāriyamāne tehi devaputtehi tāhi devakaññāhi aḍḍhatiyāhi nāṭakakoṭīhi dvīsu devalokesu devatāhi ca parivārito mahāsampattiṃ olokento tā tisso itthiyo disvā ‘‘imā tāva paññāyanti, sujātā kuhi’’nti olokento ‘‘ayaṃ mama vacanaṃ akatvā girikandarāya bakasakuṇikā hutvā nibbattā’’ti disvā devalokato otaritvā tassā santikaṃ gato. Sā disvāva sañjānitvā adhomukhā jātā. ‘‘Bāle, idāni kiṃ sīsaṃ na ukkhipasi? Tvaṃ mama vacanaṃ akatvā attabhāvameva maṇḍayamānā vītināmesi. Sudhammāya ca nandāya ca cittāya ca mahāsampatti nibbattā, ehi amhākaṃ sampattiṃ passā’’ti devalokaṃ netvā nandāya pokkharaṇiyā pakkhipitvā pallaṅke nisīdi.
Thiên Vương Sakka ngồi trên ngai vàng dài một do-tuần trong hội trường Sudhammā, có chiếc lọng trắng dài ba do-tuần che bên trên, ngài được vây quanh bởi các vị Thiên tử ấy, với các Thiên nữ ấy và cùng với hai mươi lăm koṭi nữ vũ công, cùng với chư thiên ở hai tầng trời ấy. Khi quan sát sự thành tựu to lớn, đã thấy: “ba người này xuất hiện trước, còn Sujātā ở đâu?” Khi quan sát đã thấy: “Nàng này đã tái sanh thành một con diệc trong khe núi vì không làm theo lời ngài,” ngài đã hạ xuống từ Thiên giới xuống đến chỗ ở của nàng. Khi mới vừa nàng thấy đã nhận ra ngay và cúi đầu xuống. Vua trời Sakka nói: “Kẻ ngu ngốc, tại sao bây giờ lại không ngẩng đầu lên? Ngươi đã không làm theo lời của ta, chỉ lo trang điểm, làm mất thời gian. Sự thành tựu to lớn đã sanh lên với nàng Suddhammā, nàng Nandā và nàng Cittā. Hãy đến để ngắm nhìn sự thành tựu của chúng ta,” Sau đó, ngài đã đưa nàng lên thiên giới và thả nàng xuống ở tại hồ sen Nandā, rồi ngài an tọa trên ngai vàng.
Nāṭakitthiyo ‘‘kuhiṃ gatattha, mahārājā’’ti pucchiṃsu. So anārocetukāmopi tāhi nippīḷiyamāno ‘‘sujātāya santika’’nti āha. Kuhiṃ nibbattā, mahārājāti? Kandarapādeti. Idāni kuhinti? Nandāpokkharaṇiyaṃ me vissaṭṭhāti. Etha, bho, amhākaṃ ayyaṃ passāmāti sabbā tattha agamaṃsu. Sā pubbe sabbajeṭṭhikā hutvā tā avamaññittha. Idāni tāpi taṃ disvā – ‘‘passatha, bho amhākaṃ ayyāya mukhaṃ kakkaṭakavijjhanasūlasadisa’’ntiādīni vadantiyo keḷiṃ akaṃsu. Sā ativiya aṭṭiyamānā sakkaṃ devarājānaṃ āha – ‘‘mahārāja, imāni suvaṇṇarajatamaṇivimānāni vā nandāpokkharaṇī vā mayhaṃ kiṃ karissati, jātibhūmiyeva mahārāja sattānaṃ sukhā, maṃ tattheva kandarapāde vissajjehī’’ti. Sakko taṃ tattha vissajjetvā ‘‘mama vacanaṃ karissasī’’ti āha. Karissāmi, mahārājāti. Pañca sīlāni gahetvā akhaṇḍāni katvā rakkha, katipāhena taṃ etāsaṃ jeṭṭhikaṃ karissāmīti. Sā tathā akāsi.
Các nữ vũ công hỏi rằng: “Thưa Đại Vương, ngài đã đi đâu?” Mặc dù không muốn nói nhưng ngài vẫn bị họ ép buộc mà nói rằng: “Ta đã đến trú xứ của Sujātā.” – Thưa Đại Vương, nàng đã tái sanh ở đâu? – Ở chân khe núi. – Bây giờ nàng ấy ở đâu? – Ta đã thả nàng ở hồ sen Nandā. – Hãy đến này các nàng, chúng ta đi xem nữ chủ nhân của chúng ta, rồi tất cả đưa nhau đi đến nơi ấy. – Trước đây, nàng Sujātā từng ngạo mạn rằng (bản thân) là lớn hơn tất cả mọi người. Bây giờ, ngay cả các nữ vũ công khi thấy nàng cũng buông lời chế giễu, v.v, rằng: “Này các nàng, cái miệng nữ chủ nhân chúng ta như thể cây lao đâm cua.” Nàng cảm thấy vô cùng khó chịu mới nói cùng Thiên Vương Sakka rằng: “Thưa Đại vương, Thiên cung vàng, Thiên cung bạc hay hồ sen Nandā này sẽ làm (lợi ích) gì cho thần thiếp? Thưa Đại vương, chỉ có vùng đất nơi sinh ra mới là hạnh phúc của chúng sanh. Xin hãy thả thần thiếp trở lại ở dưới chân khe núi như cũ.” Vua trời Sakka đã thả nàng ở tại nơi đó rồi nói rằng: “Nàng sẽ làm theo lời của ta chứ?” – Thưa Đại Vương, thần thiếp sẽ làm theo. – “Nàng hãy thọ trì năm giới gìn giữ và chớ làm đứt. Không bao lâu nữa, ta sẽ làm cho nàng trở nên cao quý hơn những nàng ấy. Nàng đã làm theo như thế.
Sakko katipāhassa accayena ‘‘sakkā nu kho sīlaṃ rakkhitu’’nti gantvā maccharūpena uttānako hutvā tassā purato udakapiṭṭhe osarati, sā ‘‘matamacchako bhavissatī’’ti gantvā sīse aggahesi. Maccho naṅguṭṭhaṃ cālesi. Sā ‘‘jīvati maññe’’ti udake vissajjesi. Sakko ākāse ṭhatvā ‘‘sādhu, sādhu, rakkhasi sikkhāpadaṃ, evaṃ taṃ rakkhamānaṃ katipāheneva nāṭakānaṃ jeṭṭhikaṃ karissāmī’’ti āha. Tassāpi pañca vassasatāni āyu ahosi. Ekadivasampi udarapūraṃ nālatthaṃ, sukkhitvā parisukkhitvā milāyamānāpi sīlaṃ akhaṇḍetvā kālaṅkatvā bārāṇasiyaṃ kumbhakāragehe nibbatti.
Trải qua hai ba hôm, Vua trời Sakka suy nghĩ rằng: “Liệu nàng có giữ đúng năm giới không?” nên ngài đã đi đến và biến thành một con cá ngửa bụng nổi trên mặt nước trước mặt nàng. Nàng nghĩ rằng: “Có lẽ đó là một con cá chết,” nên nàng đến mổ lấy ở đầu nó. Con cá quẫy đuôi. Nàng nghĩ rằng: “Con cá vẫn còn sống,” nên nàng thả nó ra. Vua trời Sakka đứng ở trên không mới nói rằng: “Tốt đẹp thay! Tốt đẹp thay! Nàng đã gìn giữ đúng giới luật. Ta sẽ làm người đã gìn giữ được như vậy trở thành trưởng nhóm của các tiên nữ không bao lâu nữa. Nàng đã có tuổi thọ là 500 năm. Nhưng khi không kiếm được thức ăn đầy bụng dù thân thể trở thể héo mòn, tiều tụy cũng không làm cho giới hạnh bị đứt, sau khi chết nàng đã tái sanh vào gia đình người thợ gốm ở thành Bārāṇasī.
Sakko ‘‘kuhiṃ nibbattā’’ti olokento disvā ‘‘tato idha ānetuṃ na sakkā, jīvitavuttimassā dassāmī’’ti suvaṇṇaeḷālukānaṃ yānakaṃ pūretvā majjhe gāmassa mahallakavesena nisīditvā ‘‘eḷālukāni gaṇhathā’’ti ukkuṭṭhimakāsi. Samantā gāmavāsikā āgantvā ‘‘dehi, tātā’’ti āhaṃsu. Ahaṃ sīlarakkhakānaṃ demi, tumhe sīlaṃ rakkhathāti. Tāta mayaṃ sīlaṃ nāma kīdisantipi na jānāma, mūlena dehīti. ‘‘Sīlarakkhakānaṃyeva dammī’’ti āha. ‘‘Etha, re kosi ayaṃ eḷālukamahallako’’ti sabbe nivattiṃsu.
Vua trời Sakka trong khi quan sát “nàng đã tái sanh ở đâu?” cũng đã thấy, ngài nghĩ rằng: “Ta không thể đưa nàng đến nơi đây từ nơi đó, ta sẽ ban những thứ dành cho việc nuôi mạng đến nàng.” Nên đã chất đầy một xe bí ngô và vàng, cải trang thành một ông già, và ngồi giữa làng, hô to: “Mọi người hãy đến lấy bí ngô.” Người dân xung quanh nói rằng: “Hãy cho chúng tôi, thưa ông.” – Ta sẽ cho người nào giữ giới luật. Các ngươi có giữ giới không? – Thưa ông, chúng tôi không biết giới luật là như thế nào. – Ông hãy bán bí ngô đi. – “Ta chỉ cho người giữ giới luật.” – ‘Hãy đến, ông già bán bí ngô này là ai?” Rồi tất cả bỏ đi.
Sā dārikā pucchi – ‘‘amma, tumhe eḷālukatthāya gatā tucchahatthāva āgatā’’ti. Kosi, amma, eḷālukamahallako ‘‘ahaṃ sīlarakkhakānaṃ dammī’’ti vadati, nūnimassa dārikā sīlaṃ khāditvā vattanti, mayaṃ sīlameva na jānāmāti. Sā ‘‘mayhaṃ ānītaṃ bhavissatī’’ti gantvā ‘‘eḷālukaṃ, tāta, dehī’’ti āha. ‘‘Tvaṃ sīlāni rakkhasi ammā’’ti? ‘‘Āma, tāta rakkhāmī’’ti. Idaṃ mayā tuyhameva ābhatanti gehadvāre yānena saddhiṃ ṭhapetvā pakkāmi. Sāpi yāvajīvaṃ sīlaṃ rakkhitvā cavitvā vepacittiasurassa dhītā hutvā nibbatti. Sīlanissandena pāsādikā ahosi. So ‘‘dhītuvivāhamaṅgalaṃ karissāmī’’ti asure sannipātesi.
Đứa bé gái ấy hỏi rằng: “Mẹ ơi, các mẹ đi vì muốn được bí ngô, tại sao lại trở về tay không?” – Những người phụ nữ ấy trả lời rằng: “Con ơi, ông già bán bí ngô là ai? Ông ấy nói rằng: “Ta sẽ chỉ cho người giữ giới,” nếu như bé gái giữ giới sẽ xứng đáng có được bí ngô này. Chúng tôi không biết gì về giới luật cả. Cô bé nghĩ rằng: “Chắc hẳn là bí ngô mang đến vì ta,” nên cô đã đi đến và nói: ‘Ông ơi, hãy cho con bí ngô.” – “Con có gìn giữ giới hay không?” – “Thưa vâng, con có gìn giữ giới.” – Ta mang bí ngô này đến vì con mà thôi, rồi ngài đặt bí ngô cùng với chiếc xe nhỏ trước cửa nhà và rời đi. Cô gái đã giữ giới đến trọn đời, sau khi chết, cô đã tái sinh thành con gái của vị A-tu-la Vepacitti. Nhờ kết quả của giới, nàng trở thành người đáng tịnh tín. A-tu-la Vepacitti nghĩ rằng: “Ta sẽ tổ chức lễ cưới hỏi cho con gái.” Vì vậy, ngài đã cho các A-tu-la tụ hội lại.
Sakko ‘‘kuhiṃ nibbattā’’ti olokento ‘‘asurabhavane nibbattā, ajjassā vivāhamaṅgalaṃ karissantī’’ti disvā ‘‘idāni yaṃkiñci katvā ānetabbā mayā’’ti asuravaṇṇaṃ nimminitvā gantvā asurānaṃ antare aṭṭhāsi. ‘‘Tava sāmikaṃ vadehī’’ti tassā hatthe pitā pupphadāmaṃ adāsi ‘‘yaṃ icchasi, tassūpari khipāhī’’ti. Sā olokentī sakkaṃ disvā pubbasannivāsena sañjātasinehā ‘‘ayaṃ me sāmiko’’ti tassūpari dāmaṃ khipi. So taṃ bāhāya gahetvā ākāse uppati, tasmiṃ khaṇe asurā sañjāniṃsu. Te ‘‘gaṇhatha, gaṇhatha, jarasakkaṃ, veriko amhākaṃ, na mayaṃ etassa dārikaṃ dassāmā’’ti anubandhiṃsu. Vepacitti pucchi ‘‘kenāhaṭā’’ti? ‘‘Jarasakkena mahārājā’’ti. ‘‘Avasesesu ayameva seṭṭho, apethā’’ti āha. Sakko naṃ netvā aḍḍhatiyakoṭināṭakānaṃ jeṭṭhikaṭṭhāne ṭhapesi. Sā sakkaṃ varaṃ yāci – ‘‘mahārāja, mayhaṃ imasmiṃ devaloke mātā vā pitā vā bhātā vā bhaginī vā natthi, yattha yattha gacchasi, tattha tattha maṃ gahetvāva gaccha mahārājā’’ti. Sakko ‘‘sādhū’’ti paṭiññaṃ adāsi.
Vua trời Sakka trong khi quan sát rằng “nàng đã tái sanh ở đâu?” đã thấy rằng: “nàng đã tái sinh vào cõi A-tu-ta, hôm nay sẽ tổ chức lễ cưới hỏi cho nàng.” Vua trời Sakka nghĩ rằng: “Bây giờ ta nên làm điều gì đó để đưa nàng trở về.” Vì vậy, ngài đã hóa hiện thành một A-tu-la rồi đứng giữa các A-tu-la. Cha của nàng nói rằng: “Cha cho phép con chọn chồng,” rồi trao một vòng hoa vào tay nàng và nói: “Con muốn lấy người nào thì hãy ném vòng hoa lên người đó.” Khi quan sát nàng đã nhìn thấy Vua trời Sakka, và khởi lên sự thương mến bởi vì đã từng chung sống với nhau từ tiền kiếp, nàng xác định rằng đây là chồng của mình rồi ném vòng hoa lên người vị ấy. Vua trời Sakka đã nắm tay nàng bay lên không trung, vào lúc đó, các A-tu-la nhận ra được. Bọn chúng đã hô to: “Hãy bắt lấy! Hãy bắt lấy! Sakka già nua, kẻ thù của chúng ta! Chúng ta sẽ không để cô dâu thuộc về Sakka già nua!” rồi họ đuổi theo. Vepacitti hỏi: “Ai đã mang đi?” – “Thưa Đại Vương, Sakka già nua.” – Vua Vepacitti nói: “Trong số những người còn lại, chỉ có Vua trời Sakka này là cao cả, hãy dừng lại.” Khi Vua trời Sakka đưa nàng đi, ngài phong nàng làm trưởng nhóm của 25 koṭi nữ vũ công. Nàng khẩn cầu Vua trời Sakka rằng: “Thưa Đại vương, ở thiên giới này, thiếp không có mẹ, cha hay anh chị em. (nếu như) ngài đi đến chỗ này chỗ nọ, xin hãy đưa thần thiếp theo đi đến nơi với Đại vương.” Vua trời Sakka đã ban cho nàng điều ước ấy: “Tốt đẹp thay!”
Evaṃ macalagāmake maghamāṇavakālato paṭṭhāya visuddhabhāvamassa sampassanto bhagavā ‘‘dīgharattaṃ visuddho kho ayaṃ yakkho’’ti āha. Atthasañhitanti atthanissitaṃ kāraṇanissitaṃ.
Đức Thế Tôn khi nhìn thấy bản thể trong sạch của Vua trời Sakka kể từ khi là thanh niên Māgha ở làng Macala như đã kể nên mới nói rằng: “Dạ-xoa (Thần Inda) này thật sự được thanh tịnh một thời gian dài.” Liên hệ đến lợi ích: dựa vào kết quả, dựa vào nguyên nhân.
Tụng phẩm thứ nhất được kết thúc.
Nói về lời giải đáp câu hỏi
- Kiṃ saṃyojanāti kiṃ bandhanā, kena bandhanena baddhā hutvā. Puthukāyāti bahujanā. Averāti appaṭighā. Adaṇḍāti āvudhadaṇḍadhanadaṇḍavinimuttā. Asapattāti apaccatthikā. Abyāpajjāti vigatadomanassā. Viharemu averinoti aho vata kenaci saddhiṃ averino vihareyyāma, katthaci kopaṃ na uppādetvā accharāya gahitakaṃ jaṅghasahassena saddhiṃ paribhuñjeyyāmāti dānaṃ datvā pūjaṃ katvā ca patthayanti. Iti ca nesaṃ hotīti evañca nesaṃ ayaṃ patthanā hoti. Atha ca panāti evaṃ patthanāya satipi.
Với sự ràng buộc gì?: với sự trói buộc gì? Đã bị trói buộc bởi sự trói buộc gì? Tập thể đông đảo: số đông người. Không thù hận: Không sân hận. Không gậy gộc: Tránh khỏi sự trừng phạt bằng vũ khí và sự trừng phạt bằng gậy gộc. Không đối địch: Không có kẻ thù. Không thù oán: tránh khỏi sự buồn bực. Chúng ta có thể sống không thù hận: Sau khi bố thí vật thí và sau khi thực hiện lễ bái rồi mong mỏi rằng: “Ôi, mong sao chúng ta có thể sống không có thù hận với bất cứ ai. Mong sao chúng ta đừng gây ra sự phẫn nộ ở bất cứ nơi đâu, rồi hãy sử dụng đồ vật được cầm bằng đầu ngón tay cùng với một nghìn người. Và có sự ước nguyện như vậy: và sự ước nguyện này có cùng họ như vậy. Tuy nhiên: Trong khi sự ước nguyện như vậy tồn tại.
Issāmacchariyasaṃyojanāti parasampattikhīyanalakkhaṇā issā, attasampattiyā parehi sādhāraṇabhāvassa asahanalakkhaṇaṃ macchariyaṃ, issā ca macchariyañca saṃyojanaṃ etesanti issāmacchariyasaṃyojanā. Ayamettha saṅkhepo. Vitthārato pana issāmacchariyāni abhidhamme vuttāneva.
Do sự ràng buộc của ganh tị và bỏn xẻn: Ganh tị có sự cạn kiệt tại sản của người khác là tướng trạng, bỏn xẻn không thể chịu đựng khi phải chia sẻ tài sản của bản thân trở thành của chung với người khác là tướng trạng. Người có lòng ganh tị và lòng bỏn xẻn là sự ràng buộc do ganh tị và bỏn xẻn là sự ràng buộc của bọn họ. Ở đây, điều này là phần tóm tắt. Còn ganh tị và bỏn xẻn được giảng giải chi tiết trong Abhidhamma.”
Āvāsamacchariyena panettha yakkho vā peto vā hutvā tasseva āvāsassa saṅkāraṃ sīsena ukkhipitvā vicarati. Kulamacchariyena tasmiṃ kule aññesaṃ dānādīni karonte disvā ‘‘bhinnaṃ vatidaṃ kulaṃ mamā’’ti cintayato lohitampi mukhato uggacchati, kucchivirecanampi hoti, antānipi khaṇḍākhaṇḍāni hutvā nikkhamanti. Lābhamacchariyena saṅghassa vā gaṇassa vā santake lābhe maccharāyitvā puggalikaparibhogena paribhuñjitvā yakkho vā peto vā mahāajagaro vā hutvā nibbattati. Sarīravaṇṇa-guṇavaṇṇamacchariyena pana pariyattidhammamacchariyena ca attanova vaṇṇaṃ vaṇṇeti, na paresaṃ vaṇṇaṃ, ‘‘kiṃ vaṇṇo eso’’ti taṃ taṃ dosaṃ vadanto pariyattiñca kassaci kiñci adento dubbaṇṇo ceva eḷamūgo ca hoti.
Hơn nữa, ở đây với sự bỏn xẻn này, do sự bỏn xẻn tồn tại mà chúng sanh dù là Dạ-xoa hay ngạ quỷ đều đi đội rác ở trên đầu của mình ở nơi của chính chúng. Vì sự bỏn xẻn dòng dõi, khi một người nhìn thấy ai đó đang bố thí, v.v, cho người khác trong gia đình đó, cũng nghĩ rằng: “Dòng dõi này của tôi đã tan rã rồi,” đến mức phun ra máu, tiêu chảy, ruột đứt thành từng khúc lớn nhỏ trào ra. Vì sự bỏn xẻn của cải, người sanh lòng bỏn xẻn trong của cải của hội chúng tỳ khưu hay của tập thể như thọ dụng như thọ dụng của cải cá nhân, đã tái sanh làm Dạ-xoa, ngạ quỷ, con trăn lớn. Cũng vì sự bỏn xẻn trong việc ca ngợi sắc đẹp và khen ngợi phẩm hạnh, cũng vì sự bỏn xẻn trong Pháp học, con người chỉ khen ngợi về đức hạnh của chính mình, chứ không khen ngợi đức hạnh của người khác, chỉ nói đến lỗi lầm của người khác rằng: “Người này có gì tốt,” và không dạy bảo gì đến bất kỳ ai, chỉ nói đến lỗi lầm rằng: “Người này khó ưa và điên rồ.”
Apica āvāsamacchariyena lohagehe paccati. Kulamacchariyena appalābho hoti. Lābhamacchariyena gūthaniraye nibbattati. Vaṇṇamacchariyena bhave nibbattassa vaṇṇo nāma na hoti. Dhammamacchariyena kukkuḷaniraye nibbattati. Idaṃ pana issāmacchariyasaṃyojanaṃ sotāpattimaggena pahīyati. Yāva taṃ nappahīyati, tāva devamanussā averatādīni patthayantāpi verādīhi na parimuccantiyeva.
Và hơn nữa, do bỏn xẻn chỗ ở (người ấy) bị thiêu đốt trong nhà kim loại. (người ấy) có ít lợi lộc do bỏn xẻn dòng dõi. Do bỏn xẻn của cải (người ấy) bị sinh ra trong địa ngục hầm phân. Do bỏn xẻn dung sắc khi sinh ra ở các cõi sẽ không có dúng sắc. Do bỏn xẻn Pháp (người ấy) bị tái sanh vào địa ngục tro bụi. Hơn nữa, ganh tị và bỏn xẻn là sự ràng buộc (chúng sinh trong các hữu) này được dứt bỏ bằng Đạo Nhập Lưu. Trong suốt thời gian còn chưa dứt bỏ nó được, Chư thiên hay loài người dù ước muốn trạng thái không có thù hận, v.v, thì cũng không thể thoát khỏi thù hận, v.v.
Tiṇṇā mettha kaṅkhāti etasmiṃ pañhe mayā tumhākaṃ vacanaṃ sutvā kaṅkhā tiṇṇāti vadati, na maggavasena tiṇṇakaṅkhataṃ dīpeti. Vigatā kathaṃkathāti idaṃ kathaṃ, idaṃ kathanti ayampi kathaṃkathā vigatā.
Nỗi nghi ngờ của tôi ở trường hợp này (tôi đã được vượt qua): Vua trời Sakka nói rằng: “Trong câu hỏi này do đã được nghe lời dạy của ngài, tôi đã vượt qua sự nghi ngờ. (Vua trời Sakka) không nói rõ ngài đã vượt qua sự nghi ngờ do năng lực của Đạo. Nỗi nghi hoặc đã được xa lìa: Nỗi nghi hoặc này rằng: điều này như thế nào? điều này ra sao? đã được xa lìa.
- Nidānādīni vuttatthāneva. Piyāppiyanidānanti piyasattasaṅkhāranidānaṃ macchariyaṃ, appiyasattasaṅkhāranidānā issā. Ubhayaṃ vā ubhayanidānaṃ. Pabbajitassa hi saddhivihārikādayo, gahaṭṭhassa puttādayo hatthiassādayo vā sattā piyā honti keḷāyitā mamāyitā, muhuttampi te apassanto adhivāsetuṃ na sakkoti. So aññaṃ tādisaṃ piyasattaṃ labhantaṃ disvā issaṃ karoti. ‘‘Iminā amhākaṃ kiñci kammaṃ atthi, muhuttaṃ tāva naṃ dethā’’ti tameva aññehi yācito ‘‘na sakkā dātuṃ, kilamissati vā ukkaṇṭhissati vā’’tiādīni vatvā macchariyaṃ karoti. Evaṃ tāva ubhayampi piyasattanidānaṃ hoti. Bhikkhussa pana pattacīvaraparikkhārajātaṃ, gahaṭṭhassa vā alaṅkārādiupakaraṇaṃ piyaṃ hoti manāpaṃ, so aññassa tādisaṃ uppajjamānaṃ disvā ‘‘aho vatassa evarūpaṃ na bhaveyyā’’ti issaṃ karoti, yācito vāpi ‘‘mayampetaṃ mamāyantā na paribhuñjāma, na sakkā dātu’’nti macchariyaṃ karoti. Evaṃ ubhayampi piyasaṅkhāranidānaṃ hoti. Appiye pana te vuttappakāre satte ca saṅkhāre ca labhitvā sacepissa te amanāpā honti, tathāpi kilesānaṃ viparītavuttitāya không bị sai lệch‘‘ṭhapetvā maṃ ko añño evarūpassa lābhī’’ti issaṃ vā karoti, yācito tāvakālikampi adadamāno macchariyaṃ vā karoti. Evaṃ ubhayampi appiyasattasaṅkhāranidānaṃ hoti.
Căn nguyên, v.v, có ý nghĩa đã được nói. Có (đối tượng) yêu thích và không yêu thích là căn nguyên: Sự bỏn xẻn có (đối tượng) sinh vật và các hành yêu thích là căn nguyên, sự ganh tị có (đối tượng) sinh vật và các hành không yêu thích là căn nguyên. Hoặc cả hai cũng có cả hai là căn nguyên. Bởi vì các đệ tử và những người ủng hộ của bậc xuất gia, v.v, và con cái của những người gia chủ v.v, hoặc các loài thú như voi, ngựa, v.v, là yêu thích, là nơi vui đùa và thuộc cá nhân, khi không nhìn thấy những thứ đó dù chỉ trong chốc lát thì cũng không thể chịu đựng được. Khi thấy người khác có được con vật đáng yêu như vậy thì sanh lòng ganh tị. Được hỏi xin bởi người khác về chính con vật đó rằng: “chúng tôi có một số công việc đối với con vật này, xin hãy cho mượn một lát, thì không thể cho (và) nói rằng: ‘nó sẽ mệt mỏi hoặc sẽ buồn rầu, v.v.’” và sanh lòng bỏn xẻn. Như vậy, về phía ganh tị và bỏn xẻn thậm chí cả hai đều có căn nguyên từ những sinh vật đáng yêu. Hơn nữa, các vật dụng phụ tùng như bình bát và y phục của các tỳ khưu, hoặc các dụng cụ như đồ trang sức, v.v, được yêu quý và ưa thích đối với người tại gia. Khi nhìn thấy những thứ đó đang phát sanh cho người khác thì sanh lòng ganh tị rằng: “Ôi! Mong những thứ có hình thức như vậy không nên có cho người đó,’ hoặc dù được yêu cầu cũng sanh tâm bỏn xẻn rằng: “(thứ này) chúng tôi yêu quý vẫn đang sử dụng, những thứ này không thể cho được đâu.” Vì vậy, thậm chí cả hai (ganh tị và bỏn xẻn) có các hành yêu thích là căn nguyên. Hơn nữa, khi có được sinh vật và các hành những loại đã được đề cập ấy lại không yêu thích, ngay cả khi những điều ấy không được yêu thích, tuy nhiên để cho các ô nhiễm đối nghịch được vận hành rồi thực hiện sự ganh tị rằng: ‘ngoại trừ mình, ai khác có được những thứ có hình thức như thế này,” Khi bị hỏi mượn cũng không cho rồi thực hiện sự bỏn xẻn. Vì vậy, thậm chí cả hai (ganh tị và bỏn xẻn) đều có (đối tượng) các sinh vật và các hành không yêu thích là căn nguyên.
Chandanidānanti ettha pariyesanachando, paṭilābhachando, paribhogachando, sannidhichando, vissajjanachandoti pañcavidho chando.
Ở đây, có mong muốn là căn nguyên: có năm sự mong muốn là mong muốn tầm cầu, mong muốn đạt được, mong muốn thọ dụng, mong muốn tích lũy, mong muốn ban phát.
Katamo pariyesanachando? Idhekacco atitto chandajāto rūpaṃ pariyesati, saddaṃ. Gandhaṃ. Rasaṃ. Phoṭṭhabbaṃ pariyesati, dhanaṃ pariyesati. Ayaṃ pariyesanachando.
Mong muốn tầm cầu là việc nào? Một số người ở đời này không hài lòng, đã sanh khởi lòng mong muốn, rồi tầm cầu các sắc, các thinh – các hương – các vị – tầm cầu các xúc, tầm cầu tài sản. Việc này là mong muốn tầm cầu.
Katamo paṭilābhachando? Idhekacco atitto chandajāto rūpaṃ paṭilabhati, saddaṃ. Gandhaṃ. Rasaṃ. Phoṭṭhabbaṃ paṭilabhati, dhanaṃ paṭilabhati. Ayaṃ paṭilābhachando.
Mong muốn đạt được là việc nào? Một số người ở đời này không hài lòng, đã sanh khởi lòng mong muốn, rồi đạt được các sắc, các thinh – các hương – các vị – đạt được các xúc, đạt được tài sản. Việc này là mong muốn đạt được.
Katamo paribhogachando? Idhekacco atitto chandajāto rūpaṃ paribhuñjati, saddaṃ. Gandhaṃ. Rasaṃ. Phoṭṭhabbaṃ paribhuñjati, dhanaṃ paribhuñjati. Ayaṃ paribhogachando.
Mong muốn thọ dụng là việc nào? Một số người ở đời này không hài lòng, đã sanh khởi lòng mong muốn, rồi thọ dụng các sắc, các thinh – các hương – các vị – thọ dụng các xúc, thọ dụng tài sản. Việc này là mong muốn thọ dụng.
Katamo sannidhichando? Idhekacco atitto chandajāto dhanasannicayaṃ karoti ‘‘āpadāsu bhavissatī’’ti. Ayaṃ sannidhichando.
Mong muốn tích lũy là việc nào? Một số người ở đời này không hài lòng, đã sanh khởi lòng mong muốn, rồi thực hiện việc tích lũy tài sản với suy nghĩ rằng: “Sẽ có vào những lúc rủi ro.” Việc này là mong muốn tích lũy.
Katamo vissajjanachando? Idhekacco atitto chandajāto dhanaṃ vissajjeti, hatthārohānaṃ, assārohānaṃ, rathikānaṃ, dhanuggahānaṃ – ‘‘ime maṃ rakkhissanti gopissanti mamāyissanti samparivārayissantī’’ti. Ayaṃ vissajjanachando. Ime pañca chandā. Idha taṇhāmattameva, taṃ sandhāya idaṃ vuttaṃ.
Mong muốn ban phát là việc nào? Một số người ở đời này không hài lòng, đã sanh khởi lòng mong muốn, rồi ban phát tài sản đến các tượng phu, các mã phu, các xa phu, các cung thủ với suy nghĩ rằng: “Những người này sẽ bảo vệ, sẽ gìn giữ, sẽ yêu thương, sẽ tháp tùng ta.” Việc này là mong muốn ban phát. Năm sự mong muốn này, ở đây chỉ là tham ái mà thôi, đức Thế Tôn muốn đề cập đến sự mong muốn ấy nên đã nói lời này.
Vitakkanidānoti ettha ‘‘lābhaṃ paṭicca vinicchayo’’ti[2] evaṃ vutto vinicchayavitakko vitakko nāma. Vinicchayoti dve vinicchayā taṇhāvinicchayo ca, diṭṭhivinicchayo ca. Aṭṭhasataṃ taṇhāvicaritaṃ taṇhāvinicchayo nāma. Dvāsaṭṭhi diṭṭhiyo diṭṭhivinicchayo nāmāti evaṃ vuttataṇhāvinicchayavasena hi iṭṭhāniṭṭhapiyāppiyavavatthānaṃ na hoti. Tadeva hi ekaccassa iṭṭhaṃ hoti, ekaccassa aniṭṭhaṃ paccantarājamajjhimadesarājūnaṃ gaṇḍuppādamigamaṃsādīsu viya. Tasmiṃ pana taṇhāvinicchayavinicchite paṭiladdhavatthusmiṃ ‘‘ettakaṃ rūpassa bhavissati, ettakaṃ saddassa, ettakaṃ gandhassa, ettakaṃ rasassa, ettakaṃ phoṭṭhabbassa bhavissati, ettakaṃ mayhaṃ bhavissati, ettakaṃ parassa bhavissati, ettakaṃ nidahissāmi, ettakaṃ parassa dassāmī’’ti vavatthānaṃ vitakkavinicchayena hoti. Tenāha ‘‘chando kho, devānaminda, vitakkanidāno’’ti.
Ở đây, có suy tầm là căn nguyên, sự suy tầm được sanh khởi từ sự phán đoán được nói như vầy rằng: “Tùy thuộc vào việc đạt được, sự phán đoán (sanh khởi);” gọi là sự suy tầm. Sự phán đoán: Có hai sự phán đoán: sự phán đoán do tham ái và sự phán đoán do tà kiến. Một trăm lẻ tám loại ái du gọi là sự phán đoán do tham ái. Sáu mươi hai loại tà kiến gọi là sự phán đoán do tà kiến. Vì vậy, không có sự xác định rằng ưa thích và không ưa thích, yêu thích và không yêu thích bởi tác động sự phán đoán do tham ái đã được nói như vậy. Bởi vì chính điều đó là được ưa thích đối với một số người, không được ưa thích đối với một số người, giống như việc xác định loài giun đất và hươu nai của đức vua ở vùng biên giới và đức vua ở khu trung tâm. Hơn nữa, khi các vật phẩm đã nhận được được xác định bằng sự phán đoán do tham ái, thì có sự xác định bằng sự phán đoán do suy tầm rằng: “chừng này sẽ là của các sắc, chừng này sẽ là của các thinh, chừng này sẽ là của các hương, chừng này sẽ là của các vị, chừng này sẽ là của các xúc, chừng này sẽ là của ta, chừng này sẽ là của họ, chừng này sẽ giữ lại, chừng này sẽ cho.” Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Này Thiên chủ, mong muốn có suy tầm là căn nguyên…”
Papañcasaññāsaṅkhānidānoti tayo papañcā taṇhāpapañco, mānapapañco, diṭṭhipapañcoti. Tattha aṭṭhasatataṇhāvicaritaṃ taṇhāpapañco nāma. Navavidho māno mānapapañco nāma. Dvāsaṭṭhi diṭṭhiyo diṭṭhipapañco nāma. Tesu idha taṇhāpapañco adhippeto. Kenaṭṭhena papañco? Mattapamattākārapāpanaṭṭhena papañco. Taṃsampayuttā saññā papañcasaññā. Saṅkhā vuccati koṭṭhāso ‘‘saññānidānā hi papañcasaṅkhā’’tiādīsu viya. Iti papañcasaññāsaṅkhānidānoti papañcasaññākoṭṭhāsanidāno vitakkoti attho.
Có tập hợp tưởng tương ưng với Pháp chướng ngại là căn nguyên: Có ba Pháp chướng ngại là: Pháp chướng ngại do tham ái, Pháp chướng ngài do ngã mạn, Pháp chướng ngại do tà kiến. Ở đây, một trăm lẻ tám loại ái du gọi là Pháp chướng ngại do tham ái. Chín loại ngã mạn gọi là Pháp chướng ngài do ngã mạn. Sáu mươi hai lại tà kiến gọi là Pháp chướng ngại do tà kiến. Trong các Pháp chướng ngại ấy ở đây ngài có ý muốn đề cập đến Pháp chướng ngại do tham ái. Pháp chướng ngại với ý nghĩa gì? Pháp chướng ngại với ý nghĩa đạt đến các biểu hiện của kẻ bị say đắm hay bị xao lãng. Tưởng tương ưng với Pháp chướng ngại ấy gọi là Pháp chướng ngại tưởng. Có phần gọi là có tập hợp tương tự như lời bắt đầu rằng “có tập hợp của Pháp chướng ngại có tưởng là căn nguyên.” Với phương thức như sau ‘có tập hợp tưởng tương ưng với Pháp chướng ngại là căn nguyên’ có nghĩa là ‘sự suy tầm có phần của tưởng tương ưng với Pháp chướng ngại là căn nguyên.’
Papañcasaññāsaṅkhānirodhasāruppagāmininti etissā papañcasaññāsaṅkhāya khayā nirodho vūpasamo, tassa sāruppañceva tattha gāminiṃ cāti saha vipassanāya maggaṃ pucchati.
Lối thực hành đúng đắn đưa đến sự diệt tận tập hợp của tưởng tương ưng với Pháp chướng ngại: Sự diệt tận, sự vắng lặng, sự cạn kiệt tập hợp tưởng tương ưng với Pháp chướng ngại này, Vua trời Sakka hỏi đạo lộ cùng với Minh sát là sự thích hợp của sự diệt tận ấy và lối thực hành để đưa đến sự diệt tận ấy.
Giảng về thọ nghiệp xứ
- Athassa bhagavā somanassaṃpāhanti tisso vedanā ārabhi. Kiṃ pana bhagavatā pucchitaṃ kathitaṃ, apucchitaṃ, sānusandhikaṃ, ananusandhikanti? Pucchitameva kathitaṃ, no apucchitaṃ, sānusandhikameva, no ananusandhikaṃ. Devatānañhi rūpato arūpaṃ pākaṭataraṃ, arūpepi vedanā pākaṭatarā. Kasmā? Devatānañhi karajakāyaṃ sukhumaṃ, kammajaṃ balavaṃ, karajakāyassa sukhumattā, kammajassa balavattā ekāhārampi atikkamitvā na tiṭṭhanti, uṇhapāsāṇe ṭhapitasappipiṇḍi viya vilīyantīti sabbaṃ brahmajāle vuttanayeneva veditabbaṃ. Tasmā bhagavā sakkassa tisso vedanā ārabhi. Duvidhañhi kammaṭṭhānaṃ – rūpakammaṭṭhānaṃ, arūpakammaṭṭhānañca. Rūpapariggaho, arūpapariggahotipi etadeva vuccati. Tattha bhagavā yassa rūpaṃ pākaṭaṃ, tassa saṅkhepamanasikāravasena vā vitthāramanasikāravasena vā catudhātuvavatthānaṃ vitthārento rūpakammaṭṭhānaṃ katheti. Yassa arūpaṃ pākaṭaṃ, tassa arūpakammaṭṭhānaṃ katheti. Kathento ca tassa vatthubhūtaṃ rūpakammaṭṭhānaṃ dassetvāva katheti, devānaṃ pana arūpakammaṭṭhānaṃ pākaṭanti arūpakammaṭṭhānavasena vedanā ārabhi.
Lúc đó, đức Thế Tôn đã bắt đầu với ba loại Thọ cho Vua trời Sakka và nói rằng: “Về hỷ, Ta nói…” Hơn nữa, đức Thế Tôn chỉ nói về điều được hỏi, điều không được hỏi, điều có liên quan và điều không có liên quan phải không? Chỉ nói về điều đã được hỏi, không nói điều không được hỏi. Chỉ nói về điều có liên quan, không nói điều không liên quan. Thật vậy, đối với các chư Thiên vô sắc hiện hữu nhiều hơn (chư Thiên) hữu sắc. Ngay cả trong vô sắc, Thọ cũng xuất hiện nhiều hơn. Tại sao vậy? Bởi vì xác thân (được sanh ra từ sự không trong sạch) của các chư Thiên là vi tế, và sắc sanh ra từ nghiệp là mạnh mẽ, vì trạng thái vi tế cả xác thân (được sanh ra từ sự không trong sạch), và vì tính chất mạnh mẽ của sắc sinh ra từ nghiệp, nếu như bỏ qua bữa ăn dù chỉ một lần, các vị chư Thiên cũng không thể vững trú, sẽ tan rã tựa như cục bơ tan chảy trên tảng đá nóng. Cần hiểu tất cả lời nói theo phương cách đã được giải thích trong bài Kinh Mạng Lưới Cao Thượng (Brahmajāla). Do vậy, Đức Thế Tôn đã bắt đầu với ba Thọ cho Vua trời Sakka. Bởi vì, Nghiệp Xứ có hai là Sắc Nghiệp Xứ và Vô Sắc Nghiệp Xứ. Gọi chính Nghiệp Xứ ấy là sự xác định Sắc và sự xác định Vô Sắc. Trong hai loại Nghiệp Xứ đó, (nếu) Sắc hiện hữu cho người nào, đức Thế Tôn (sẽ) nói Sắc Nghiệp Xứ để xác định bốn Giới-dhātu chi tiết cho người đó do tác động của tác ý tóm lược hoặc do tác động của tác ý chi tiết. Nếu như Vô Sắc hiện hữu cho người nào, đức Thế Tôn (sẽ) nói Vô Sắc Nghiệp Xứ cho người đó. Và khi nói về Vô Sắc, ngài cũng sẽ thuyết giảng Sắc Nghiệp Xứ làm nền tảng của chính Vô Sắc ấy mới nói., nhưng đối với các chư Thiên biết rằng Vô Sắc Nghiệp Xứ hiện hữu mới bắt đầu Thọ do tác động của Vô Sắc Nghiệp Xứ.
Tividho hi arūpakammaṭṭhāne abhiniveso – phassavasena, vedanāvasena, cittavasenāti. Kathaṃ? Ekaccassa hi saṅkhittena vā vitthārena vā pariggahite rūpakammaṭṭhāne tasmiṃ ārammaṇe cittacetasikānaṃ paṭhamābhinipāto taṃ ārammaṇaṃ phusanto uppajjamāno phasso pākaṭo hoti. Ekaccassa taṃ ārammaṇaṃ anubhavantī uppajjamānā vedanā pākaṭā hoti. Ekaccassa taṃ ārammaṇaṃ pariggahetvā taṃ vijānantaṃ uppajjamānaṃ viññāṇaṃ pākaṭaṃ hoti.
Thật vậy, sự cố chấp trong Vô Sắc Nghiệp Xứ có ba loại – là do tác động của Xúc, do tác động của Thọ, do tác động của Tâm. Như thế nào? Đối với một số người, khi thọ lãnh Sắc Nghiệp Xứ theo cách tóm lược hoặc chi tiết, có sự cố chấp ở tầng đầu tiên của tất cả các Tâm và Tâm Sở trong đối tượng ấy, Xúc khi sanh khởi đụng chạm đối tượng ấy được hiện hữu. Đối với một số người, Thọ khi sanh khởi thọ hưởng đối tượng ấy được hiện hữu. Đối với một số người, Thức khi sanh khởi nhận biết rõ đối tượng ấy đã nắm lấy đối tượng ấy được hiện hữu.
Tattha yassa phasso pākaṭo hoti, sopi na kevalaṃ phassova uppajjati, tena saddhiṃ tadeva ārammaṇaṃ anubhavamānā vedanāpi uppajjati, sañjānamānā saññāpi, cetayamānā cetanāpi, vijānamānaṃ viññāṇampi uppajjatīti phassapañcamakeyeva pariggaṇhāti. Yassa vedanā pākaṭā hoti, sopi na kevalaṃ vedanāva uppajjati, tāya saddhiṃ tadeva ārammaṇaṃ phusamāno phassopi uppajjati, sañjānamānā saññāpi, cetayamānā cetanāpi, vijānamānaṃ viññāṇampi uppajjatīti phassapañcamakeyeva pariggaṇhāti. Yassa viññāṇaṃ pākaṭaṃ hoti, sopi na kevalaṃ viññāṇameva uppajjati, tena saddhiṃ tadevārammaṇaṃ phusamāno phassopi uppajjati, anubhavamānā vedanāpi, sañjānamānā saññāpi, cetayamānā cetanāpi uppajjatīti phassapañcamakeyeva pariggaṇhāti.
Trong ba sự cố chấp đó, đối với người nào có Xúc rõ ràng, thì người ấy cũng gọi là nắm lấy nhóm Tâm sở có Xúc là thứ năm bởi vì không những chỉ có Xúc sanh khởi mà cùng với Xúc ấy còn có Thọ cũng sanh khởi để thọ hưởng chính đối tượng đó, cả Tưởng ghi nhớ (đối tượng đó), cả Tư đốc thúc (đối tượng đó), cả Thức biết rõ (đối tượng đó) cũng sanh khởi. (Tương tự) người nào có Thọ rõ ràng, thì người ấy cũng gọi là nắm lấy nhóm Tâm sở có Xúc là thứ năm bởi vì không những chỉ có Thọ sanh khởi mà cùng với Thọ ấy còn cò Xúc sanh khởi tiếp xúc chính đối tượng đó, cả Tưởng ghi nhớ (đối tượng đó), cả Tư đốc thúc (đối tượng đó), cả Thức biết rõ (đối tượng đó) cũng sanh khởi. (Tương tự) đối với người nào có Thức rõ ràng, thì người ấy cũng gọi là nắm lấy nhóm Tâm sở có Xúc là thứ năm bởi vì không những chỉ có Thức sanh khởi mà cùng với Thức ấy còn cò Xúc sanh khởi tiếp xúc chính đối tượng đó, cả Thọ thọ hưởng (đối tượng đó), cả Tưởng ghi nhớ (đối tượng đó), cả Tư đốc thúc (đối tượng đó) cũng sanh khởi.
So ‘‘ime phassapañcamakā dhammā kiṃ nissitā’’ti upadhārento ‘‘vatthunissitā’’ti pajānāti. Vatthu nāma karajakāyo, yaṃ sandhāya vuttaṃ – ‘‘idañca pana me viññāṇaṃ ettha sitaṃ ettha paṭibaddha’’nti. So atthato bhūtāni ceva upādārūpāni ca. Evamettha vatthu rūpaṃ, phassapañcamakā nāmanti nāmarūpamattameva passati. Rūpañcettha rūpakkhandho, nāmaṃ cattāro arūpino khandhāti pañcakkhandhamattaṃ hoti. Nāmarūpavinimuttā hi pañcakkhandhā, pañcakkhandhavinimuttaṃ vā nāmarūpaṃ natthi. So ‘‘ime pañcakkhandhā kiṃ hetukā’’ti upaparikkhanto ‘‘avijjādihetukā’’ti passati. Tato ‘‘paccayo ceva paccayuppannañca idaṃ, añño satto vā puggalo vā natthi, suddhasaṅkhārapuñjamattamevā’’ti sappaccayanāmarūpavasena tilakkhaṇaṃ āropetvā vipassanāpaṭipāṭiyā ‘‘aniccaṃ dukkhaṃ anattā’’ti sammasanto vicarati, so ajja ajjāti paṭivedhaṃ ākaṅkhamāno tathārūpe divase utusappāyaṃ, puggalasappāyaṃ, bhojanasappāyaṃ, dhammasavanasappāyaṃ vā labhitvā ekapallaṅkena nisinnova vipassanaṃ matthakaṃ pāpetvā arahatte patiṭṭhāti. Evamimesampi tiṇṇaṃ janānaṃ yāva arahattā kammaṭṭhānaṃ kathitaṃ hoti.
Trong khi vị ấy suy ngẫm rằng: “Những nhóm Pháp có Xúc là thứ năm này dựa vào cái gì? Vị ấy biết rõ rằng: “Dựa vào nền tảng”. Xác thân (được sanh ra từ sự không trong sạch) gọi là nền tảng (chỗ thiết lập), liên quan đến điều đó ngài đã nói rằng: “Hơn nữa, thức này của ta nương tựa ở thân này, bị trói buộc vào thân này.” Với ý nghĩa là vị ấy biết rõ cả Sắc Đại Hiển và Sắc Y Đại Sinh. Khi biết rõ rằng Chỗ thiết lập trong xác thân này là sắc, nhóm có Xúc là thứ năm thuộc về Danh Pháp như vậy, cũng gọi là thấy chỉ là Danh Sắc mà thôi. Và, ở đây Danh Sắc cũng chỉ là Ngũ Uẩn, Sắc là Sắc Uẩn, và Danh là bốn Danh Uẩn không có Sắc. Bởi vì Ngũ Uẩn vượt khỏi từ Danh Sắc, hoặc Danh Sắc vượt khỏi từ Ngũ Uẩn là không có. Trong khi vị ấy suy xét rằng: “Ngũ Uẩn này có cái gì làm nhân?”, thì thấy rằng: “Có vô minh, v.v, là nhân.” Sau đó, khi suy xét đến duyên và những thứ sanh khởi do duyên thì biết rằng: “ngoài các duyên và những thứ sanh khởi do duyên đó, không có chúng sanh hay người nào khác, chỉ là một khối của các hành mà thôi,” rồi đã đưa lên Tam Tướng do tác động của Danh Sắc cùng với các duyên để đi quán xét rằng: “(tất cả đều là) Vô thường, Khổ não và Vô ngã,” theo thứ tự của Minh sát. Vị ấy mong muốn thấu triệt rằng: “Vào ngày hôm nay, hôm nay, vào ngày có hình thức như thế, khi thời tiết thích hợp, con người thích hợp, thức ăn thích hợp hoặc nghe Pháp thích hợp, chỉ ngồi với một tư thế ngồi kiết già, khi Minh sát đã đạt đến đỉnh cao, vị ấy an trú trong Thánh Quả A-ra-hán. Thiên tử Gopaka đã nói về Nghiệp Xứ đến quả vị A-ra-hán cho cả ba vị này như vậy.
Idha pana bhagavā arūpakammaṭṭhānaṃ kathento vedanāsīsena kathesi. Phassavasena hi viññāṇavasena vā kathiyamānaṃ etassa na pākaṭaṃ hoti, andhakāraṃ viya khāyati. Vedanāvasena pana pākaṭaṃ hoti. Kasmā? Vedanānaṃ uppattiyā pākaṭatāya. Sukhadukkhavedanānañhi uppatti pākaṭā. Yadā sukhaṃ uppajjati, tadā sakalaṃ sarīraṃ khobhentaṃ maddantaṃ pharamānaṃ abhisandayamānaṃ satadhotasappiṃ khādāpayantaṃ viya, satapākatelaṃ makkhayamānaṃ viya, ghaṭasahassena pariḷāhaṃ nibbāpayamānaṃ viya, ‘‘aho sukhaṃ, aho sukha’’nti vācaṃ nicchārayamānameva uppajjati. Yadā dukkhaṃ uppajjati, tadā sakalasarīraṃ khobhentaṃ maddantaṃ pharamānaṃ abhisandayamānaṃ tattaphālaṃ pavesentaṃ viya, vilīnatambalohena āsiñcantaṃ viya, sukkhatiṇavanappatimhi araññe dāruukkākalāpaṃ khipamānaṃ viya ‘‘aho dukkhaṃ, aho dukkha’’nti vippalāpayamānameva uppajjati. Iti sukhadukkhavedanānaṃ uppatti pākaṭā hoti.
Nhưng ở đây, trong khi đức Thế Tôn nói về Vô Sắc Nghiệp Xứ, ngài cũng giảng giải với Thọ làm chủ đề. Bởi vì, khi ngài giảng do tác động của Xúc hoặc do tác động của Thức thì sẽ không có sự rõ ràng đối với Vua trời Sakka, mà chỉ hiển hiện tựa như bóng tối. Nhưng do tác động của Thọ thì sẽ trở nên rõ ràng. Tại sao? Do sự sanh khởi của Thọ (là Pháp) đã rõ ràng. Bởi vì, sự sanh khởi Thọ Lạc và Thọ Khổ đã hiển hiện. Khi nào Thọ Lạc sanh khởi, khi ấy toàn bộ châu thân rung lên, chấn động, lan khắp cơ thể, thấm sâu, như thể được thưởng thức bơ lỏng được tinh luyện hàng trăm lần, như thể đang thoa dầu được rán hàng trăm lần, như thể đang lấy hàng ngàn bình nước đến để dập tắt cái nóng, thốt lên rằng: ‘Ôi! Thật hạnh phúc, ôi! Thật hạnh phúc.’ Khi nào Thọ Khổ sanh khởi, khi ấy toàn bộ châu thân cũng rung lên, chấn động, lan khắp cơ thể, thấm sâu, như thể bước vào gạch nóng, như thể lấy nước đồng nóng chảy đến rưới lên, như thể bị cột buộc vào ngọn đuốc gỗ ở trong rừng có nhiều cỏ và cây lớn khô héo, than khóc rằng: “Ôi! Thật đau khổ. Ôi! Thật đau khổ.” Thọ Lạc và Thọ Khổ sảnh khởi rõ ràng như đã trình bày.
Adukkhamasukhā pana duddīpanā andhakārena viya abhibhūtā. Sā sukhadukkhānaṃ apagame sātāsātapaṭikkhepavasena majjhattākārabhūtā adukkhamasukhā vedanāti nayato gaṇhantassa pākaṭā hoti. Yathā kiṃ? Yathā antarā piṭṭhipāsāṇaṃ āruhitvā palātassa migassa anupadaṃ gacchanto migaluddako piṭṭhipāsāṇassa orabhāgepi parabhāgepi padaṃ disvā majjhe apassantopi ‘‘ito āruḷho, ito oruḷho, majjhe piṭṭhipāsāṇe iminā padesena gato bhavissatī’’ti nayato jānāti. Evaṃ āruḷhaṭṭhāne padaṃ viya hi sukhavedanāya uppatti pākaṭā hoti, oruḷhaṭṭhāne padaṃ viya dukkhavedanāya uppatti pākaṭā hoti, ito āruyha, ito oruyha, majjhe evaṃ gatoti nayato gahaṇaṃ viya sukhadukkhānaṃ apagame sātāsātapaṭikkhepavasena majjhattākārabhūtā adukkhamasukhā vedanāti nayato gaṇhantassa pākaṭā hoti. Evaṃ bhagavā paṭhamaṃ rūpakammaṭṭhānaṃ kathetvā pacchā arūpakammaṭṭhānaṃ vedanāvasena nivattetvā dassesi.
Còn Thọ Không Khổ Không Lạc khó giải thích, tựa như bị bóng tối bao trùm. Thọ Không Khổ Không Lạc vì tránh xa cả Khổ và Lạc mới có tính trung lập do tác động đối lập với Khổ và Lạc, khi nắm lấy theo phương thức ấy mới rõ ràng. Giống như điều gì? Giống như người thợ săn đi theo dấu chân hươu nổi trên tảng đá bằng ở giữa đường rồi bỏ chạy, đã nhìn thấy dấu chân ở phần này, phần khác trên tảng đá bằng, thậm chí không thấy ở giữa vẫn có thể biết theo cách thức sau: “Nó bước lên từ con đường này rồi bước xuống từ con đường này, đi đến vùng đất này ở phía trên tảng đá bằng như thế nào.” Tương tự như thế, sự sanh khởi của Thọ Lạc là rõ ràng, tương tự như dấu chân nơi con hươu bước lên, sự sanh khởi của Thọ Khổ cũng là rõ ràng, tương tự như dấu chân nơi con hươu bước xuống. Khi nắm lấy theo cách thức rằng: Vì tránh khỏi cả Khổ và Lạc nên Thọ Không Khổ Không Lạc có tính trung lập, cũng trở nên rõ ràng, tương tự như việc nắm lấy theo cách thức rằng: “Nó lên từ đây, xuống từ đây, rồi đi như vậy.” Khi thuyết giảng Sắc Nghiệp Xứ trước như vậy, sau đó đức Thế Tôn cũng tùy cơ thuyết giảng Vô Sắc Nghiệp Xứ do tác động của Thọ.
Na kevalañca idheva evaṃ dassesi, mahāsatipaṭṭhāne, majjhimanikāyamhi satipaṭṭhāne, cūḷataṇhāsaṅkhaye, mahātaṇhāsaṅkhaye, cūḷavedallasutte, mahāvedallasutte, raṭṭhapālasutte, māgaṇḍiyasutte, dhātuvibhaṅge, āneñjasappāye, sakale vedanāsaṃyutteti evaṃ anekesu suttantesu paṭhamaṃ rūpakammaṭṭhānaṃ kathetvā pacchā arūpakammaṭṭhānaṃ vedanāvasena nivattetvā dassesi. Yathā ca tesu tesu, evaṃ imasmimpi sakkapañhe paṭhamaṃ rūpakammaṭṭhānaṃ kathetvā pacchā arūpakammaṭṭhānaṃ vedanāvasena nivattetvā dassesi. Rūpakammaṭṭhānaṃ panettha vedanāya ārammaṇamattakaṃyeva saṅkhittaṃ, tasmā pāḷiyaṃ nāruḷhaṃ bhavissati.
Và không chỉ thuyết giảng như vậy ở đây, mà Ngài còn giảng Sắc Nghiệp Xứ trước trong nhiều bài Kinh như: Đại Kinh Thiết Lập Niệm, Tiểu Kinh Đoạn Tận Ái, Đại Kinh Đoạn Tận Ái, Tiểu Kinh Phương Quảng, Đại Kinh Phương Quảng, Kinh Raṭṭhapāla, Kinh Māgaṇḍiya, Kinh Giới Phân Tích (Dhātuvibhaṅga), Kinh Giảng Về Sự Thuận Lợi Cho Bất Động (Āneñjasappāya) và Tương Ưng Tất Cả Thọ, sau đó ngài mới tùy cơ thuyết giảng Vô Sắc Nghiệp Xứ do tác động của Thọ. Và trong những bài Kinh đó như thế nào, thì trong Kinh Sakka Vấn Đạo này cũng như thế đó. Trước tiên, đức Thế Tôn thuyết giảng về Sắc Nghiệp Xứ rồi sau đó Ngài mới tùy cơ thuyết giảng về Vô Sắc Nghiệp Xứ do tác động của Thọ. Hơn nữa, ở đây, Sắc Nghiệp Xứ được tóm lược chỉ là đối tượng của Thọ. Do đó, trong Pāḷī sẽ không được đề cập đến.
- Arūpakammaṭṭhāne yaṃ tassa pākaṭaṃ vedanāvasena abhinivesamukhaṃ, tameva dassetuṃ somanassaṃpāhaṃ, devānamindātiādimāha. Tattha duvidhenāti dvividhena, dvīhi koṭṭhāsehīti attho. Evarūpaṃ somanassaṃ na sevitabbanti evarūpaṃ gehasitasomanassaṃ na sevitabbaṃ. Gehasitasomanassaṃ nāma ‘‘tattha katamāni cha gehasitāni somanassāni? Cakkhuviññeyyānaṃ rūpānaṃ iṭṭhānaṃ kantānaṃ manāpānaṃ manoramānaṃ lokāmisapaṭisaṃyuttānaṃ paṭilābhaṃ vā paṭilābhato samanupassato, pubbe vā paṭiladdhapubbaṃ atītaṃ niruddhaṃ vipariṇataṃ samanussarato uppajjati somanassaṃ, yaṃ evarūpaṃ somanassaṃ, idaṃ vuccati gehasitaṃ somanassa’’nti evaṃ chasu dvāresu vuttakāmaguṇanissitaṃ somanassaṃ[3].
Để chỉ ra điều chính yếu để thiết lập do tác động của Thọ được rõ ràng đối với chính Vua trời Sakka ấy trong Vô Sắc Nghiệp Xứ, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Về hỷ, này Thiên chủ, Ta nói…” Trong câu đó, ‘theo hai loại’ là với hai dạng, có nghĩa là với hai phần. Hỷ có hình thức như vậy là không nên thân cận: không nên thân cận Hỷ liên hệ đến tại gia có hình thức như vậy. Gọi là Hỷ liên hệ đến tại gia bao gồm Hỷ y cứ năm loại dục lạc vận hành trong sáu môn này là trong các Thọ ấy: “Ở đây, thế nào là sáu Hỷ liên hệ tại gia? Có Hỷ khởi lên, hoặc do nhận được hay thấy sự nhận được các sắc đáng nhận thức bởi mắt nhận thức, khả ái, đáng ao ước, làm vừa ý, làm thích thú, liên hệ đến vật chất thế gian; hoặc do nhớ được các sắc đã từng nhận được cụ thể trước đây, đã trôi qua, đã diệt tận, đã biến hoại. Hỷ có hình thức như thế này đây, thì Hỷ này được gọi là Hỷ liên hệ tại gia.”
Evarūpaṃsomanassaṃ sevitabbanti evarūpaṃ nekkhammasitaṃ somanassaṃ sevitabbaṃ. Nekkhammasitaṃ somanassaṃ nāma – ‘‘tattha katamāni cha nekkhammasitāni somanassāni? Rūpānaṃ tveva aniccataṃ viditvā vipariṇāmavirāganirodhaṃ pubbe ceva rūpā etarahi ca sabbe te rūpā aniccā, dukkhā, vipariṇāmadhammāti evametaṃ yathābhūtaṃ sammappaññāya passato uppajjati somanassaṃ, yaṃ evarūpaṃ somanassaṃ, idaṃ vuccati nekkhammasitaṃ somanassa’’nti[4] evaṃ chasu dvāresu iṭṭhārammaṇe āpāthagate aniccādivasena vipassanaṃ paṭṭhapetvā ussukkāpetuṃ sakkontassa ‘‘ussukkitā me vipassanā’’ti somanassajātassa uppannaṃ somanassaṃ. Sevitabbanti idaṃ nekkhammavasena, vipassanāvasena, anussativasena, paṭhamajjhānādivasena ca uppajjanakasomanassaṃ sevitabbaṃ nāma.
Hỷ có hình thức như vậy là nên được thân cận: Hỷ liên hệ đến xuất ly có hình thức như vậy nên được thân cận. Gọi là Hỷ liên hệ đến xuất ly bao gồm Hỷ đã sanh khởi cho người sanh khởi hỷ rằng “Ta đã nỗ lực (thực hành) Minh sát”, người có khả năng thúc đẩy tâm nỗ lực sau khi thiết lập Minh sát do tác động của Tam Tướng có vô thương, v.v, trong đối tượng khả ái nhập vào dòng chảy trong cả sáu môn như vầy rằng: “Trong các Thọ ấy, thế nào là sáu Hỷ liên hệ đến xuất ly? Sau khi biết các Sắc pháp là vô thường, biến hoại, ly tham, biến diệt và nghĩ rằng: ‘Các Sắc pháp xưa kia và các Sắc pháp hiện tại, tất cả Sắc pháp là vô thường, khổ, biến hoại’. Trong khi thấy đúng theo thực thể điều đó như vậy với chánh trí tuệ, có Hỷ khởi lên. Hỷ có hình thức như thế này, thì Hỷ này được gọi là hỷ liên hệ đến xuất ly.” Nên được thân cận: Hỷ khởi lên do tác động của Minh sát, do tác động của sự tùy niệm, do tác động của Sơ thiền, v.v, gọi là nên được thân cận.
Tattha yaṃ ce savitakkaṃ savicāranti tasmimpi nekkhammasite somanasse yaṃ nekkhammavasena, vipassanāvasena, anussativasena, paṭhamajjhānavasena ca uppannaṃ savitakkaṃ savicāraṃ somanassanti jāneyya. Yaṃ ce avitakkaṃ avicāranti yaṃ pana dutiyatatiyajjhānavasena uppannaṃ avitakkaṃ avicāraṃ somanassanti jāneyya. Ye avitakke avicāre, te paṇītatareti etesupi dvīsu yaṃ avitakkaṃ avicāraṃ, taṃ paṇītataranti attho.
Ở đấy, cái nào có Tầm có Tứ: Trong Hỷ liên hệ đến xuất ly đó cũng cần phải biết rằng: Hỷ sanh khởi do tác động của việc xuất ly, do tác động của Minh sát, do tác động của sự tùy niệm và do tác động của Sơ thiền ấy là hỷ vẫn có Tầm, vẫn có Tứ. Cái nào không Tầm không Tứ: Còn Hỷ sanh khởi do tác động của Nhị thiền và Tam thiền ấy cũng cần phải biết rằng là Hỷ không Tầm, không Tứ. Những cái nào không Tầm không Tứ, những cái ấy là tốt hơn: Có nghĩa là luôn cả trong hai Hỷ này, Hỷ không Tầm không Tứ ấy, thì Hỷ ấy là tốt hơn.
Iminā kiṃ kathitaṃ hoti? Dvinnaṃ arahattaṃ kathitaṃ. Kathaṃ? Eko kira bhikkhu savitakkasavicāre somanasse vipassanaṃ paṭṭhapetvā ‘‘idaṃ somanassaṃ kiṃ nissita’’nti upadhārento ‘‘vatthunissita’’nti pajānātīti phassapañcamake vuttanayeneva anukkamena arahatte patiṭṭhāti. Eko avitakkaavicāre somanasse vipassanaṃ paṭṭhapetvā vuttanayeneva arahatte patiṭṭhāti. Tattha abhiniviṭṭhasomanassesupi savitakkasavicārato avitakkaavicāraṃ paṇītataraṃ. Savitakkasavicārasomanassavipassanātopi avitakkaavicāravipassanā paṇītatarā. Savitakkasavicārasomanassaphalasamāpattitopi avitakkaavicārasomanassaphalasamāpattiyeva paṇītatarā. Tenāha bhagavā ‘‘ye avitakke avicāre, te paṇītatare’’ti.
Với lời này, ngài đã nói đến điều gì? Ngài nói đến Thánh Quả A-ra-hán của hai vị. Như thế nào? Quả thật, một vị tỳ khưu khi bắt đầu thiết lập Minh sát trong Hỷ thì vẫn có Tầm có Tứ, trong khi quán xét rằng: “Hỷ này dựa vào điều gì?” Vị ấy biết rõ rằng: “Dựa vào nền tảng,” rồi an trú vào Thánh Quả A-ra-hán theo tuần tự theo phương thức đã được đề cập trong nhóm có Xúc là thứ năm. Một vị bắt đầu thiết lập Minh sát trong Hỷ mà không Tầm không Tứ rồi cũng an trú vào Thánh Quả A-ra-hán theo phương thức đa nói tương tự. Ở đây, ngay cả trong những (trạng thái) Hỷ đã được chắc chắn, Hỷ không Tầm và không Tứ là tốt hơn (Hỷ) có Tầm và có Tứ. Hỷ Minh sát không Tầm và không Tứ là tốt hơn cả Hỷ Minh sát có Tầm và có Tứ. Hỷ thể nhập Quả không Tầm và không Tứ là tốt hơn Hỷ thể nhập Quả có Tầm và có Tứ. Vì thế đức Thế Tôn đã nói rằng: “Những cái nào không Tầm không Tứ, những cái ấy là tốt hơn.”
- Evarūpaṃdomanassaṃ na sevitabbanti evarūpaṃ gehasitadomanassaṃ na sevitabbaṃ. Gehasitadomanassaṃ nāma – ‘‘tattha katamāni cha gehasitāni domanassāni? Cakkhuviññeyyānaṃ rūpānaṃ iṭṭhānaṃ kantānaṃ manāpānaṃ manoramānaṃ lokāmisapaṭisaṃyuttānaṃ appaṭilābhaṃ vā appaṭilābhato samanupassato pubbe vā apaṭiladdhapubbaṃ atītaṃ niruddhaṃ vipariṇataṃ samanussarato uppajjati domanassaṃ, yaṃ evarūpaṃ domanassaṃ, idaṃ vuccati gehasitadomanassa’’nti[5]. Evaṃ chasu dvāresu iṭṭhārammaṇaṃ nānubhaviṃ, nānubhavissāmi, nānubhavāmīti vitakkayato uppannaṃ kāmaguṇanissitaṃ domanassaṃ.
Ưu có hình thức như vậy là không nên thân cận: Ưu liên hệ đến tại gia có hình thức như vậy là không nên thân cận. Gọi là Ưu liên hệ đến tại gia bao gồm Ưu liên hệ đến năm loại dục sanh khởi từ sự suy tầm rằng: Tôi đã không thọ dụng, tôi sẽ không theo thọ dụng, tôi đang không theo thọ dụng đối tượng khả ái trong cả sáu môn như vầy rằng – “Trong các Thọ ấy, thế nào là sáu ưu liên hệ tại gia? Có Ưu khởi lên; hoặc do không nhận được hay thấy sự không nhận được các sắc do mắt nhận thức, khả ái, đáng ao ước, làm vừa ý, làm thích thú, liên hệ đến vật chất thế gian; hoặc do nhớ được các sắc không nhận được về trước, đã trôi qua, đã diệt tận, đã biến hoại. Loại Ưu có hình như thế này đây, thì Ưu này được gọi là Ưu liên hệ tại gia.”
Evarūpaṃ domanassaṃ sevitabbanti evarūpaṃ nekkhammasitadomanassaṃ sevitabbaṃ. Nekkhammasitadomanassaṃ nāma – ‘‘tattha katamāni cha nekkhammasitāni domanassāni? Rūpānaṃ tveva aniccataṃ viditvā vipariṇāmavirāganirodhaṃ pubbe ceva rūpā etarahi ca sabbe te rūpā aniccā, dukkhā, vipariṇāmadhammāti evametaṃ yathābhūtaṃ sampappaññāya disvā anuttaresu vimokkhesu pihaṃ upaṭṭhāpeti ‘kudāssu nāmāhaṃ tadāyatanaṃ, upasampajja viharissāmi, yadariyā etarahi āyatanaṃ upasampajja viharantī’ti. Iti anuttaresu vimokkhesu pihaṃ upaṭṭhāpayato uppajjati pihapaccayā domanassaṃ, yaṃ evarūpaṃ domanassaṃ, idaṃ vuccati nekkhammasitadomanassa’’nti[6] evaṃ chasu dvāresu iṭṭhārammaṇe āpāthagate anuttaravimokkhasaṅkhāta-ariyaphaladhammesu pihaṃ upaṭṭhapetvā tadadhigamāya aniccādivasena vipassanaṃ paṭṭhapetvā ussukkāpetum-asakkontassa imampi pakkhaṃ, imampi māsaṃ, imampi saṃvaccharaṃ vipassanaṃ ussukkāpetvā ariyabhūmiṃ pāpuṇituṃ nāsakkhinti anusocato uppannaṃ domanassaṃ. Sevitabbanti idaṃ nekkhammavasena, vipassanāvasena, anussativasena, paṭhamajjhānādivasena ca uppajjanakadomanassaṃ sevitabbaṃ nāma.
Ưu có hình thức như vậy là nên được thân cận: Ưu liên hệ đến xuất ly có hình thức như vậy là nên được thân cận. Gọi là Ưu liên hệ đến xuất ly bao gồm Ưu được khởi lên cho người không thể giục giã tâm nỗ lực để vào thiết lập sự ước muốn trong các Pháp là Thánh Quả được xem là sự giải thoát vô thượng, rồi bắt đầu thiết lập Minh sát bởi mãnh lực Tam Tướng có vô thường, v.v, để chứng đắc Thánh Quả đó, vị cảm thấy buồn phiền rằng: “Ta không thể thúc đẩy tâm nỗ lực (thực hành) Minh sát suốt nửa tháng này, hay suốt một tháng này, hoặc suốt một năm mà không thể đạt được địa phận của các bậc Thánh nhân ở đối tượng khả ái mà nhập vào dòng chảy trong cả sáu môn như vầy rằng – “Trong các Thọ ấy, thế nào là sáu Ưu liên hệ đến xuất ly? Sau khi biết được các Sắc pháp là vô thường, biến hoại, ly tham, biến diệt và nghĩ rằng: ‘Các Sắc pháp nào trước kia và các Sắc pháp nào hiện tại, tất cả sắc pháp ấy là có tính chất vô thường, có tính chất khổ, có tính chất biến hoại’. Sau khi thấy đúng theo thực thể điều đó như thế với chánh trí tuệ, rồi mới đi vào thiết lập sự ước muốn trong sự giải thoát vô thượng, nghĩ rằng: ‘Khi nào ta mới chứng đạt Xứ-āyatana và sẽ an trú, Xứ mà các bậc Thánh đang chứng đạt và an trú?’ Như vậy, khi vào thiết lập sự ước muốn trong sự giải thoát vô thượng, Ưu khởi lên do sự ước muốn làm duyên. Ưu có hình thức như thế này đây, thì Ưu này được gọi là Ưu liên hệ đến xuất ly.” Nên được thân cận: Ưu khởi lên do tác động của việc xuất ly, do tác động của Minh sát, do tác động của sự tùy niệm, do tác động của Sơ thiền, v.v, gọi là Ưu nên được thân cận.
Tattha yaṃ ce savitakkasavicāranti tasmimpi duvidhe domanasse gehasitadomanassameva savitakkasavicāradomanassaṃ nāma. Nekkhammavasena, vipassanāvasena, anussativasena, paṭhamadutiyajjhānavasena ca uppannadomanassaṃ pana savitakka-savicāradomanassanti veditabbaṃ. Nippariyāyena pana avitakkaavicāradomanassaṃ nāma natthi. Domanassindriyañhi ekaṃsena akusalañceva savitakkasavicārañca, etassa pana bhikkhuno maññanavasena savitakkasavicāranti ca avitakkaavicāranti ca vuttaṃ.
Ở đấy, cái nào có Tầm có Tứ: Trong cả hai loại Ưu đó, chỉ có Ưu liên hệ đến tại gia được gọi là Ưu có Tầm có Tứ. Còn Ưu khởi lên do tác động của việc xuất ly, do tác động của Minh sát, do tác động của sự tùy niệm, và do tác động của Sơ thiền và Nhị thiền nên biết rằng là Ưu có Tầm có Tứ. Hơn nữa, theo cách không vòng vo thì Ưu không Tầm và không Tứ là không có. Còn đối với các giác quan là Ưu chỉ với một phần bất thiện và vẫn có Tầm có Tứ, nhưng do tác động sự lầm lẫn của vị tỳ khưu ấy, ngài mới nói rằng: các giác quan là Ưu vẫn có Tầm có Tứ, và không Tầm không Tứ.
Tatrāyaṃ nayo – idha bhikkhu domanassapaccayabhūte savitakkasavicāradhamme avitakkaavicāradhamme ca domanassapaccayā eva uppanne maggaphaladhamme ca aññesaṃ paṭipattidassanavasena domanassanti gahetvā ‘‘kadā nu kho me savitakkasavicāradomanasse vipassanā paṭṭhapitā bhavissati, kadā avitakkaavicāradomanasse’’ti ca ‘‘kadā nu kho me savitakkasavicāradomanassaphalasamāpatti nibbattitā bhavissati, kadā avitakkaavicāradomanassaphalasamāpattī’’ti cintetvā temāsikaṃ, chamāsikaṃ, navamāsikaṃ vā paṭipadaṃ gaṇhāti. Temāsikaṃ gahetvā paṭhamamāse ekaṃ yāmaṃ jaggati, dve yāme niddāya okāsaṃ karoti, majjhime māse dve yāme jaggati, ekaṃ yāmaṃ niddāya okāsaṃ karoti, pacchimamāse caṅkamanisajjāyeva yāpeti. Evaṃ ce arahattaṃ pāpuṇāti, iccetaṃ kusalaṃ. No ce pāpuṇāti, visesetvā chamāsikaṃ gaṇhāti. Tatrāpi dve dve māse vuttanayena paṭipajjitvā arahattaṃ pāpuṇituṃ asakkonto visesetvā navamāsikaṃ gaṇhāti. Tatrāpi tayo tayo māse tatheva paṭipajjitvā arahattaṃ pāpuṇituṃ asakkontassa ‘‘na ladvaṃ vata me sabrahmacārīhi saddhiṃ visuddhipavāraṇaṃ pavāretu’’nti āvajjato domanassaṃ uppajjati, assudhārā pavattanti gāmantapabbhāravāsīmahāsīvattherassa viya.
Sau đây là phương thức trong câu chuyện về Ưu – Trong trường hợp này, vị tỳ khưu sau khi nắm lấy các Pháp có Tầm có Tứ, và các Pháp không Tầm không Tứ là các Pháp có Ưu làm duyên. Các Pháp là Đạo và Quả khởi lên cũng chính Ưu làm duyên, Ưu do tác động nhìn thấy việc thực hành của các vị tỳ khưu khác đã suy nghĩ rằng: “Khi nào ta sẽ bắt đầu thiết lập Minh sát đối với Ưu có Tầm có Tứ? Khi nào ta sẽ bắt đầu thiết lập Minh sát đối với Ưu không Tầm không Tứ? Và khi nào ta sẽ làm cho sự thể nhập Thánh Quả đối với Ưu có Tầm có Tứ được sanh khởi? Khi nào ta sẽ làm cho sự thể nhập Thánh Quả đối với Ưu không Tầm không Tứ được sanh khởi?” rồi nắm lấy lối thực hành suốt ba tháng, sáu tháng hoặc chín tháng. Sau khi nắm lấy lối thực hành suốt ba tháng trong tháng đầu tiên đi bộ mất một canh giờ, hai canh giờ tạo cơ hội cho việc ngủ. Trong tháng giữa, đi bộ mất hai canh giờ và tạo cơ hội cho việc ngủ một canh giờ. Trong tháng cuối cùng, chỉ để cho cơ thể vận hành với việc đi kinh hành và việc ngồi mà thôi. Nếu đạt đến quả vị A-ra-hán thì điều đó tốt đẹp. Nếu không đạt đến, (vị ấy) vẫn nắm giữ lối thực hành riêng biệt thêm sáu tháng. Ngay cả trong lối thực hành sáu tháng ấy, cứ mỗi hai tháng (vị ấy) thực hành theo phương pháp đã nói, khi không đạt đến bản thể A-ra-hán, vị ấy nắm giữ (lối thực hành) riêng biệt thêm chín tháng. Thậm chí, trong chín tháng này, cứ mỗi ba tháng, vị ấy thực hành theo như thế, khi không thể đạt đến bản thể A-ra-hán, và khi quán xét rằng: “Ôi! Ta quả thật không thể yêu cầu bằng sự yêu cầu thanh tịnh cùng với các bạn đồng Phạm hạnh,” thì Ưu được sanh khởi, hai dòng nước mắt tuôn chảy giống như hai dòng nước mắt của Trưởng lão Mahāsiva sống ở vách núi cuối làng.
Câu chuyện về Trưởng lão Mahāsīva
Thero kira aṭṭhārasa mahāgaṇe vācesi. Tassovāde ṭhatvā tiṃsasahassā bhikkhū arahattaṃ pāpuṇiṃsu. Atheko bhikkhu ‘‘mayhaṃ tāva abbhantare guṇā appamāṇā, kīdisā nu kho me ācariyassa guṇā’’ti āvajjanto puthujjanabhāvaṃ passitvā ‘‘amhākaṃ ācariyo aññesaṃ avassayo hoti, attano bhavituṃ na sakkoti, ovādamassa dassāmī’’ti ākāsena gantvā vihārasamīpe otaritvā divāṭṭhāne nisinnaṃ ācariyaṃ upasaṅkamitvā vattaṃ dassetvā ekamantaṃ nisīdi.
Nghe rằng Trưởng lão đã giảng dạy cho 18 tập thể lớn, và có ba mươi nghìn vị tỳ khưu sau khi an trú vào lời giáo huấn của ngài đã đạt đến phẩm vị A-ra-hán. Sau đó, có một vị tỳ khưu đến than khóc rằng: “Nội tâm ta trước đây có những đức hạnh không thể ước lường. Vậy phẩm hạnh của thầy ta như thế nào? Trong khi đang suy ngẫm, đã nhìn thấy bản thể vẫn còn là Phàm phu và nghĩ rằng: “Thầy của chúng ta là nơi nương tựa của những người khác, (nhưng) không thể là nơi nương tựa cho ta được, ta sẽ cho lời khuyên đến ngài” rồi bay lên không trung (và) hạ xuống gần tịnh xá, sau khi đi đến gặp thầy đang ngồi ở chỗ nghỉ ban ngày, đã thể hiện bổn phận, rồi ngồi xuống một bên.
Thero – ‘‘kiṃ kāraṇā āgatosi piṇḍapātikā’’ti āha. Ekaṃ anumodanaṃ gaṇhissāmīti āgatosmi, bhanteti. Okāso na bhavissati, āvusoti? Vitakkamāḷake ṭhitakāle pucchissāmi, bhanteti. Tasmiṃ ṭhāne aññe pucchantīti. Bhikkhācāramagge, bhanteti. Tatrāpi aññe pucchantīti. Dupaṭṭanivāsanaṭṭhāne, saṅghāṭipārupanaṭṭhāne, pattanīharaṇaṭṭhāne, gāme caritvā āsanasālāyaṃ yāgupītakāle, bhanteti. Tattha aṭṭhakathātherā attano kaṅkhaṃ vinodenti, āvusoti. Antogāmato nikkhantakāle pucchissāmi, bhanteti. Tatrāpi aññe pucchanti, āvusoti. Antarāmagge, bhante, bhojanasālāyaṃ bhattakiccapariyosāne, bhante, divāṭṭhāne, pādadhovanakāle, mukhadhovanakāle, bhanteti? Tadā aññe pucchantīti. Tato paṭṭhāya yāva aruṇā apare pucchanti, āvusoti. Dantakaṭṭhaṃ gahetvā mukhadhovanatthaṃ gamanakāle, bhanteti? Tadā aññe pucchantīti. Mukhaṃ dhovitvā āgamanakāle, bhanteti? Tatrāpi aññe pucchantīti. Senāsanaṃ pavisitvā nisinnakāle, bhanteti? Tatrāpi aññe pucchantīti. Bhante, nanu mukhaṃ dhovitvā senāsanaṃ pavisitvā tayo cattāro pallaṅke usumaṃ gāhāpetvā yonisomanasikāre kammaṃ karontānaṃ okāsakālena bhavitabbaṃ siyā, maraṇakhaṇampi na labhissatha, bhante, phalakasadisattha bhante parassa avassayo hotha, attano bhavituṃ na sakkotha, na me tumhākaṃ anumodanāya atthoti ākāse uppatitvā agamāsi.
Trưởng lão đã nói rằng – “Này người thọ trì hạnh đi khất thực, con đến vì lý do gì?” – Kính bạch thầy, con đến với ý nghĩ rằng: sẽ nhận được một lời tùy hỷ. – Này con, chắc sẽ không có cơ hội đâu. – Thưa thầy, con sẽ hỏi khi đứng ở tại mái lều tranh luận. – Ở nơi đó, những người khác cũng sẽ hỏi. – Thưa thầy, vậy trên đường đi khất thực thì sao? – Kể cả trên đường đó, những người khác cũng sẽ hỏi. – Thưa thầy, vậy ở chỗ mặc hai lớp y, ở chỗ đắp y Tăng-già-lê, ở chỗ lấy bình bát ra ngoài trong thời gian đi khất thực trong làng rồi uống nước cháo ở tại nhà ăn thì sao? – Ở những chỗ đó, cũng sẽ có những vị Trưởng lão khác xua tan sự nghi ngờ của mình. – Thưa thầy, vậy con sẽ hỏi khi rời khỏi làng? – Kể cả ở đó cũng sẽ có những người khác hỏi. – Thưa thầy, vậy ở trên đường, khi thọ dụng xọng ở nhà ăn; thưa thầy, trong lúc rửa chân, trong lúc rửa mặt, trong lúc nghỉ trưa? – Này con kể từ lúc đó đến khi trời sáng, cũng sẽ có nhóm người khác nữa hỏi. – Thưa thầy, vậy khi con lấy gỗ chà răng và đi đến chỗ rửa mặt? – Lúc đó, nhóm người khác cũng sẽ hỏi. – Khi rửa mặt xong thì sao, thưa thầy? – Lúc đó cũng sẽ có người khác hỏi. – Khi vào tịnh xá và ngồi thì sao, thưa thầy? – Lúc đó cũng sẽ có nhóm người khác hỏi. – Thưa thầy, có lẽ là thời cơ và thời gian của những người đã rửa mặt xong đi vào sàng tọa, cho ba bốn chỗ nằm nhận được hơi ấm (ngồi thiền vừa đủ sàng tọa ấm), làm việc với sự tác ý đúng đường lối không phải sao? – Thưa thầy, ngài không đạt được thậm chí một sát-na tử. Thưa ngài, ngài hãy như một tấm ván; thưa ngài, ngài hãy nơi dựa của người khác. Ngài không thể là nơi dựa cho chính mình. Con không cần thiết với sự tùy hỷ của ngài nữa. Nói rồi, vị tỳ kheo đã bay lên không trung.
Thero – ‘‘imassa bhikkhuno pariyattiyā kammaṃ natthi, mayhaṃ pana aṅkusako bhavissāmīti āgato’’ti ñatvā ‘‘idāni okāso na bhavissati, paccūsakāle gamissāmī’’ti pattacīvaraṃ samīpe katvā sabbaṃ divasabhāgaṃ paṭhamayāmamajjhimayāmañca dhammaṃ vācetvā pacchimayāme ekasmiṃ there uddesaṃ gahetvā nikkhante pattacīvaraṃ gahetvā teneva saddhiṃ nikkhanto. Nisinna-antevāsikā ācariyo kenaci papañcena nikkhantoti maññiṃsu. Nikkhanto thero koci deva samānācariyabhikkhūti saññaṃ akāsi.
Vị Trưởng lão sau khi biết rằng – “Việc làm liên quan đến của vị tỳ kheo này, nhưng vị ấy đã đến với ý định sẽ là người dạy dỗ ta.” Sau đó nghĩ rằng: “Bây giờ sẽ không có cơ hội, tôi sẽ đi vào lúc rạng sáng,” ngài đã cất giữ bát và y phục ở gần chỗ giảng dạy Giáo Pháp suốt canh đầu và đến canh giữa đêm vẫn chói sáng. Trong khi một vị Trưởng lão đang học Uddesa rồi rời đi vào canh cuối, cũng đã mang bát và y cùng rời đi với vị Trưởng lão đó. Các đệ tử đã ngồi nghĩ rằng: “Thầy đã đi vì một số công việc nào đó từ lâu rồi. Vị Trưởng lão rời đi cũng đã tạo ra dấu hiệu rằng ‘Là một vị tỳ khưu cùng với một vị thầy mà thôi.’
Thero kira ‘‘mādisassa arahattaṃ nāma kiṃ, dvīhatīheneva pāpuṇitvā paccāgamissāmī’’ti antevāsikānaṃ anārocetvāva āsāḷhīmāsassa juṇhapakkhaterasiyā nikkhanto gāmantapabbhāraṃ gantvā caṅkamaṃ āruyha kammaṭṭhānaṃ manasikaronto taṃ divasaṃ arahattaṃ gahetuṃ nāsakkhi. Uposathadivase sampatte ‘‘dvīhatīhena arahattaṃ gaṇhissāmīti āgato, gahetuṃ pana nāsakkhiṃ. Tayo māse pana tīṇi divasāni viya yāva mahāpavāraṇā tāva jānissāmī’’ti vassaṃ upagantvāpi gahetuṃ nāsakkhi. Pavāraṇādivase cintesi – ‘‘ahaṃ dvīhatīhena arahattaṃ gaṇhissāmīti āgato, temāsenāpi nāsakkhiṃ, sabrahmacārino pana visuddhipavāraṇaṃ pavārentī’’ti. Tassevaṃ cintayato assudhārā pavattanti. Tato ‘‘na mañce mayhaṃ catūhi iriyāpathehi maggaphalaṃ uppajjissati, arahattaṃ appatvā neva mañce piṭṭhiṃ pasāressāmi, na pāde dhovissāmī’’ti mañcaṃ ussāpetvā ṭhapesi. Puna antovassaṃ pattaṃ, arahattaṃ gahetuṃ nāsakkhiyeva. Ekūnatiṃsapavāraṇāsu assudhārā pavattanti. Gāmadārakā therassa pādesu phālitaṭṭhānāni kaṇṭakehi sibbanti, davaṃ karontāpi ‘‘ayyassa mahāsīvattherassa viya pādā hontū’’ti davaṃ karonti.
Nghe rằng vị Trưởng lão nghĩ rằng “Bản thể A-ra-hán đối với người như ta có gì là khó khăn, chỉ trong hai ba ngày đã thành tựu, rồi sẽ quay về,” Vì vậy, vị ấy không thông báo cho các đệ tử, vào ngày 13 trăng tròn của tháng Āsāḷhī đã đi đến vách núi cuối làng khi bước vào chỗ đi kinh hành và trong khi tác ý đúng đường lối Nghiệp Xứ vào ngày đó cũng vẫn không thể nắm lấy quả vị A-ra-hán. Khi đến ngày Uposatha, vị ấy nghĩ rằng: “Ta đã đến đây với ý nghĩ rằng chỉ trong hai ba ngày ta sẽ nắm lấy quả vị A-ra-hán, nhưng không thể nắm lấy.” Ba tháng trôi qua như ba ngày. Đợi đến ngày Mahāpavāraṇā trước mới biết rõ. Đến khi vào mùa an cư kiết hạ, vị ấy cũng không thể nắm lấy được. Vào ngày Pavāraṇā, ngài nghĩ rằng: “Ta đã đến đây với ý nghĩ rằng chỉ trong hai ba ngày chúng ta sẽ đạt được quả A-la-hán, nhưng đã ba tháng rồi mà vẫn chưa đạt được, còn các bạn đồng Phạm hạnh yêu cầu với sự thỉnh cầu thanh tịnh.” Trong khi nghĩ vậy như thế hai dòng nước mắt đã trào ra. Sau đó ngài nghĩ rằng: “Đạo và Quả sẽ không sanh khởi bởi bốn oai nghi của ta ở trên giường, nếu bây giờ vẫn chưa chứng đắc A-ra-hán Quả, ta sẽ không nằm dài lưng ra, và cũng sẽ không rửa chân,” rồi cho đưa chiếc giường đi cất. Khi đến mùa an cư kiết hạ, ngài cũng không thể nắm lấy được quả vị A-ra-hán, nước mắt tuôn ra hai mươi chín vào ngày Pavāraṇā. Các trẻ em trong làng đã mang nhiều gai nhọn rải vào các vết nứt ở cả hai bàn chân của vị Trưởng lão. Ngay cả khi chơi đùa, chúng cũng đùa giỡn rằng: “Cầu mong cả hai chân hãy trở nên giống như chân của ngài Trưởng lão Mahāsīva.”
Thero tiṃsasaṃvacchare mahāpavāraṇādivase ālambaṇaphalakaṃ nissāya ṭhito ‘‘idāni me tiṃsa vassāni samaṇadhammaṃ karontassa, nāsakkhiṃ arahattaṃ pāpuṇituṃ, addhā me imasmiṃ attabhāve maggo vā phalaṃ vā natthi, na me laddhaṃ sabrahmacārīhi saddhiṃ visuddhipavāraṇaṃ pavāretu’’nti cintesi. Tassevaṃ cintayatova domanassaṃ uppajji, assudhārā pavattanti. Atha avidūraṭṭhāne ekā devadhītā rodamānā aṭṭhāsi. ‘‘Ko ettha rodasī’’ti? ‘‘Ahaṃ, bhante, devadhītā’’ti. ‘‘Kasmā rodasī’’ti? ‘‘Rodamānena maggaphalaṃ nibbattitaṃ, tena ahampi ekaṃ dve maggaphalāni nibbattessāmīti rodāmi, bhante’’ti.
Trong ngày Mahāpavāraṇā năm thứ ba mươi, vị thượng tọa đứng dựa vào một tấm bảng tựa lưng, nghĩ rằng: “Khi ta thực hành Sa-môn Pháp suốt ba mươi năm, ta cũng không thể đạt được quả vị A-ra-hán trong bản ngã này của ta, Đạo hay Quả chắc chắn không có. Ta không được thỉnh cẩu với sự thỉnh cầu thanh tịnh với bạn đồng Phạm hạnh.” Và khi nghĩ như vậy, Ưu đã khởi lên, và dòng nước mắt bắt đầu tuôn ra. Lúc đó, ở phía xa xa có một vị Tiên nữ đang đứng khóc. – (Trưởng lão) “Ai đang khóc ở đây?” – (Tiên nữ) “Con, thưa ngài, một Tiên nữ.” – “Tại sao con khóc?” – “Khi Đạo và Quả đang sanh ra do sự khóc lóc, (nghĩ rằng) ngay cả ta sẽ làm sanh khởi một (hoặc) hai Đạo và Quả, nên con mới khóc, thưa ngài.”
Tato thero – ‘‘bho mahāsīvatthera, devatāpi tayā saddhiṃ keḷiṃ karonti, anucchavikaṃ nu kho te eta’’nti vipassanaṃ vaḍḍhetvā saha paṭisambhidāhi arahattaṃ aggahesi. So ‘‘idāni nipajjissāmī’’ti senāsanaṃ paṭijaggitvā mañcakaṃ paññapetvā udakaṭṭhāne udakaṃ paccupaṭṭhapetvā ‘‘pāde dhovissāmī’’ti sopānaphalake nisīdi.
Từ đó, Trưởng lão nghĩ rằng: “Té ra Trưởng lão Mahāsīva, ngay cả Tiên nữ cũng có thể chế nhạo ngươi được sao? Điều này có thích hợp với ngươi không?” Rồi vị ấy đã phát triển minh sát và đạt được bản thể A-ra-hán cùng với các Tuệ Phân Tích. Ngài nghĩ rằng “bây giờ ta sẽ đi ngủ,” rồi ngài đã dọn dẹp chỗ ngủ, cho xếp đặt lại giường, đã đặt nước vào chỗ để nước, và nghĩ rằng: “Ta sẽ rửa hai chân,” rồi ngồi xuống bậc thang.
Antevāsikāpissa ‘‘amhākaṃ ācariyassa samaṇadhammaṃ kātuṃ gacchantassa tiṃsa vassāni, sakkhi nu kho visesaṃ nibbattetuṃ, nāsakkhī’’ti āvajjayamānā ‘‘arahattaṃ patvā pādadhovanatthaṃ nisinno’’ti disvā ‘‘amhākaṃ ācariyo amhādisesu antevāsikesu tiṭṭhantesu ‘attanāva pāde dhovissatī’ti aṭṭhānametaṃ, ahaṃ dhovissāmi ahaṃ dhovissāmī’’ti tiṃsasahassānipi ākāsena gantvā vanditvā ‘‘pāde dhovissāma, bhante’’ti āhaṃsu. Āvuso, idāni tiṃsa vassāni honti mama pādānaṃ adhotānaṃ, tiṭṭhatha, tumhe, ahameva dhovissāmīti.
Ngay cả các đệ tử của ngài cũng nghĩ rằng “trong khi thầy của chúng ta đi thực hành Sa-môn Pháp suốt ba mươi năm, ngài có thể làm khởi lên ân đức đặc biệt không, hay không thể? Sau khi thấy rằng: “ngài đã đạt được quả vị A-ra-hán, (các vị) đã ngồi xuống để rửa chân,” các đệ tử nghĩ rằng: “Thầy của chúng ta, khi các đệ tử như chúng ta vẫn còn hiện tiền,” (nghĩ rằng) “Ta sẽ tự mình rửa chân” điều này là không hợp lý, ‘con sẽ rửa chân, con sẽ rửa chân cho (thầy),” rồi cả ba mươi ngàn vị đệ tử đã bay tới để đảnh lễ và thưa rằng: “Chúng con sẽ rửa chân cho ngài, thưa ngài.” Ngài từ chối rằng: “Này các con, thầy đã không rửa chân suốt ba mươi năm, các con không cần để thầy tự rửa.”
Sakkopi āvajjanto – ‘‘mayhaṃ ayyo mahāsīvatthero arahattaṃ patto tiṃsasahassānaṃ antevāsikānaṃ ‘pāde dhovissāmā’ti āgatānaṃ pāde dhovituṃ na deti. Mādise pana upaṭṭhāke tiṭṭhante ‘mayhaṃ ayyo sayaṃ pāde dhovissatī’ti aṭṭhānametaṃ, ahaṃ dhovissāmī’’ti sanniṭṭhānaṃ katvā sujātāya deviyā saddhiṃ bhikkhusaṅghassa santike pāturahosi. So sujaṃ asurakaññaṃ purato katvā ‘‘apetha, bhante, mātugāmo’’ti okāsaṃ kāretvā theraṃ upasaṅkamitvā vanditvā purato ukkuṭiko nisīditvā ‘‘pāde dhovissāmi, bhante’’ti āha. Kosiya, idāni me tiṃsa vassāni pādānaṃ adhotānaṃ, devatānañca pakatiyāpi manussasarīragandho nāma jeguccho, yojanasate ṭhitānampi kaṇṭhe āsattakuṇapaṃ viya hoti, ahameva dhovissāmīti. Bhante, ayaṃ gandho nāma na paññāyati, tumhākaṃ pana sīlagandho cha devaloke atikkamitvā upari bhavaggaṃ patvā ṭhito. Sīlagandhato añño uttaritaro gandho nāma natthi, bhante, tumhākaṃ sīlagandhenamhi āgatoti vāmahatthena gopphakasandhiyaṃ gahetvā dakkhiṇahatthena pādatalaṃ parimajji. Daharakumārasseva pādā ahesuṃ. Sakko pāde dhovitvā vanditvā devalokameva gato.
Ngay cả vua Sakka trong khi quán xét rằng: “Trưởng lão Mahāsīva của ta đã đạt được quả vị A-ra-hán, khi ba mươi ngàn vị đệ tử đến với suy nghĩ rằng ‘chúng ta sẽ rửa chân cho ngài,” thì (ngài) không cho rửa chân. Khi những người hầu cận như ta vẫn còn hiện tiền, (ngài Trưởng lão nghĩ rằng) “sẽ tự mình rửa chân” điều này thật không hợp lý, rồi ngài quyết định rằng “Ta sẽ rửa chân cho ngài,” và cùng với Tiên nữ Sujātā đã hiện ra ở trú xứ của hội chúng tỳ khưu. Vua trời Sakka đã phái Tiên nữ Sujātā là Asurakaññā đã đi trước để mở cơ hội, bảo rằng: “Thưa ngài, xin hãy tránh ra, hãy cho nữ nhân có cơ hội,” sau khi đi đến gặp Trưởng lão, đã đảnh lễ rồi ngồi chồm hổm ở trước mặt mới nói rằng: “Thưa ngài, con sẽ rửa chân cho ngài.” – Trưởng lão đáp rằng: “Kosiya, tôi chưa bao giờ rửa chân suốt ba mươi năm qua. Thông thường thì, mùi cơ thể của loài người là thứ rất ghê tởm đối với chư Thiên, thậm chí khi cách xa cả trăm do-tuần, giống như lấy cái xác chết treo cổ, tôi sẽ tự mình rửa chân. – vị ấy đáp lại: “Thưa ngài, mùi như thế này không xuất hiện, bởi vì mùi (hương) giới hạnh của ngài vượt qua cả sáu cõi trời lên tới cảnh giới tột cùng của hiện hữu. Không có mùi hương nào vượt qua được mùi hương giới hạnh. Thưa ngài, con đến đây vì mùi hương giới hạnh của ngài,” rồi lấy tay trái nắm cổ chân, lấy tay phải xoa lòng bàn chân. Ngay lập tức bàn chân của ngài liền trở nên tựa như chân của một đưa trẻ. Vua trời Sakka sau khi rửa chân (cho ngài) đã đảnh lễ rồi trở về Thiên giới.
Evaṃ ‘‘na labhāmi sabrahmacārīhi saddhiṃ visuddhipavāraṇaṃ pavāretu’’nti āvajjantassa uppannaṃ domanassaṃ nissāya bhikkhuno maññanavasena vipassanāya ārammaṇampi vipassanāpi maggopi phalampi savitakkasavicāradomanassanti ca avitakkāvicāradomanassanti ca vuttanti veditabbaṃ.
Như vậy, nên biết rằng: Ngài gọi đối tượng của Minh sát, hay Minh sát, hay Đạo, hay Quả rằng: ‘Ưu có Tầm có Tứ và Ưu không Tầm không Tứ do tác động của sự lầm lẫn của vị tỳ khưu nương tựa Ưu đã khởi lên rồi quán xét rằng: “Ta không được thỉnh cầu với sự thỉnh cầu thanh tịnh cùng với các bạn đồng Phạm hạnh.”
Tattha eko bhikkhu savitakkasavicāradomanasse vipassanaṃ paṭṭhapetvā idaṃ domanassaṃ kiṃ nissitanti upadhārento vatthunissitanti pajānātīti phassapañcamake vuttanayeneva anukkamena arahatte patiṭṭhāti. Eko avitakkāvicāre domanasse vipassanaṃ paṭṭhapetvā vuttanayeneva arahatte patiṭṭhāti. Tattha abhiniviṭṭhadomanassesupi savitakkasavicārato avitakkaavicāraṃ paṇītataraṃ. Savitakkasavicāradomanassavipassanātopi avitakkāvicāradomanassavipassanā paṇītatarā. Savitakkasavicāradomanassaphalasamāpattitopi avitakkāvicāradomanassaphalasamāpattiyeva paṇītatarā . Tenāha bhagavā – ‘‘ye avitakkaavicāre te paṇītatare’’ti.
Trong câu chuyện Ưu ấy, có một vị tỳ khưu bắt đầu thiết lập Minh sát trong Ưu có Tầm có Tứ đến ước muốn rằng: “Ưu này dựa vào cái gì?” (vị ấy) biết rõ rằng: “Dựa vào nền tảng” mới an trú vào A-ra-hán Quả theo tuần tự theo phương thức đã được đề cập trong nhóm Pháp có Xúc là thứ năm. Một vị (khác) bắt đầu thiết lập Minh sát đối với Ưu không Tầm không Tứ, cũng đã được an trú vào A-ra-hán Quả theo phương thức đã trình bày tương tự. Ở đây, ngay cả trong những (trạng thái) Ưu đã được chắc chắn, Ưu không Tầm không Tứ là tốt hơn có Tầm có Tứ, Minh sát đối với Ưu không Tầm không Tứ cũng là tốt hơn Minh sát đối với Ưu có Tầm có Tứ, sự thể nhập Quả không Tầm không Tứ là tốt hơn cả sự thế nhập Quả đối với Ưu có Tầm có Tứ ấy. Do đó đức Thế Tôn đã nói rằng: “Những cái nào không Tầm không Tứ, những cái ấy là tốt hơn.”
- Evarūpā upekkhā na sevitabbāti evarūpā gehasitaupekkhā na sevitabbā. Gehasitaupekkhā nāma ‘‘tattha katamā cha gehasitaupekkhā. Cakkhunā rūpaṃ disvā uppajjati upekkhā bālassa mūḷhassa puthujjanassa anodhijinassa avipākajinassa anādīnavadassāvino assutavato puthujjanassa, yā evarūpā upekkhā, rūpaṃ sā nātivattati, tasmā sā upekkhā gehasitāti vuccatī’’ti evaṃ chasu dvāresu iṭṭhārammaṇe āpāthagate guḷapiṇḍike nilīnamakkhikā viya rūpādīni anativattamānā tattheva laggā laggitā hutvā uppannā kāmaguṇanissitā upekkhā na sevitabbā.
Xả có hình thức như vậy là không nên thân cận: Xả liên hệ đến tại gia có hình thức như vậy là không nên thân cận. Gọi là Xả liên hệ đến tại gia bao gồm Xả liên hệ đến năm loại dục bị máng vào, bị vướng vào đã khởi lên trong chính các dục ấy, không vượt khỏi sắc pháp, v.v, giống như con ruồi bay xung quanh cục đường, trong đối tượng khả ái đã nhập vào dòng chảy trong sáu môn như vầy rằng: “Trong các Thọ ấy, thế nào là sáu Xả liên hệ đến tại gia? Khi một người ngu si, ám độn, phàm phu thấy sắc với con mắt, xả khởi lên của một vô văn phàm phu, không chinh phục được (phiền não), không chinh phục được quả dị thục, không thấy sự nguy hiểm. Xả có hình thức như vậy không vượt khỏi sắc pháp. Do vậy, đây được gọi là xả liên hệ tại gia.”
Evarūpā upekkhā sevitabbāti evarūpā nekkhammasitā upekkhā sevitabbā. Nekkhammasitā upekkhā nāma – ‘‘tattha katamā cha nekkhammasitā upekkhā? Rūpānaṃ tveva aniccataṃ viditvā vipariṇāmavirāganirodhaṃ ‘pubbe ceva rūpā etarahi ca, sabbe te rūpā aniccā, dukkhā, vipariṇāmadhammā’ti evametaṃ yathābhūtaṃ sammappaññāya passato uppajjati upekkhā, yā evarūpā upekkhā, rūpaṃ sā ativattati, tasmā sā upekkhā nekkhammasitāti vuccatī’’ti[7]. Evaṃ chasu dvāresu iṭṭhāniṭṭhaārammaṇe āpāthagate iṭṭhe arajjantassa, aniṭṭhe adussantassa, asamapekkhanena asammuyhantassa uppannā vipassanā ñāṇasampayuttā upekkhā. Apica vedanāsabhāgā tatra majjhattupekkhāpi ettha upekkhāva. Tasmā sevitabbāti ayaṃ nekkhammavasena vipassanāvasena anussatiṭṭhānavasena paṭhamadutiyatatiyacatutthajjhānavasena ca uppajjanaka-upekkhā sevitabbā nāma.
Xả có hình thức như vậy là nên được thân cận: Xả liên hệ đến xuất ly có hình thức như vậy là nên được thân cận. Gọi là Xả liên hệ đến xuất ly bao gồm Xả tương ưng với Trí Minh sát khởi lên cùng hạng người không hoan hỷ trong đối tượng khả ái, không bất bình trong đối tượng không khả ái, không mê muội vì thiếu sự quán xét trong đối tượng có đối tượng khả ái, v.v, đã đến nhập vào dòng chảy trong cả sáu môn như vầy là – “Trong các Thọ ấy, thế nào là sáu Xả liên hệ xuất ly? Sau khi biết sắc pháp là vô thường, biến hoại, ly tham, biến diệt, nghĩ rằng: “Các sắc pháp xưa kia và sắc pháp hiện tại, tất cả sắc pháp là Vô thường, khổ, biến hoại”. Sau khi thấy đúng theo thực thể điều này như vậy với chánh trí tuệ, Xả khởi lên. Xả có hình thức như vậy được gọi là Xả liên hệ xuất ly.” Và hơn nữa, luôn cả Xả trung lập ấy có phần tương đồng với Thọ của cũng được xếp thành Xả trong trường này tương tự. Do đó, nên được thân cận: Xả được khởi lên do tác động của việc xuất ly, do tác động của Minh sát, do tác động của sự tùy niệm, do tác động của Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền và Tứ thiền thì Xả này gọi là (Xả) nên được thân cận
Ettha yaṃ ce savitakkaṃ savicāranti tāyapi nekkhammasitaupekkhāya yaṃ nekkhammavasena vipassanāvasena anussatiṭṭhānavasena paṭhamajjhānavasena ca uppannaṃ savitakkasavicāraṃ upekkhanti jāneyya. Yaṃ ce avitakkaṃ avicāranti yaṃ pana dutiyajjhānādivasena uppannaṃ avitakkāvicāraṃ upekkhanti jāneyya.
Ở đấy, cái nào có Tầm có Tứ: Thậm chí trong Xả liên hệ đến xuất ly ấy cũng nên biết rằng Xả có Tầm có Tứ được sanh khởi do tác động của việc xuất ly, do tác động của Minh sát, do tác động của sự tùy niệm, do tác động của Sơ thiền nào đó. Cái nào không Tầm không Tứ: Cũng nên biết rằng Xả không Tầm không Tứ sanh khởi do tác động Nhị Thiền và Tam thiền nào đó.
Yeavitakke avicāre te paṇītatareti etāsu dvīsu yā avitakkaavicārā, sā paṇītatarāti attho. Iminā kiṃ kathitaṃ hoti ? Dvinnaṃ arahattaṃ kathitaṃ. Eko hi bhikkhu savitakkasavicāraupekkhāya vipassanaṃ paṭṭhapetvā ayaṃ upekkhā kiṃ nissitāti upadhārento vatthunissitāti pajānātīti phassapañcamake vuttanayeneva anukkamena arahatte patiṭṭhāti. Eko avitakkāvicārāya upekkhāya vipassanaṃ paṭṭhapetvā vuttanayeneva arahatte patiṭṭhāti. Tattha abhiniviṭṭhaupekkhāsupi savitakkasavicārato avitakkāvicārā paṇītatarā. Savitakkasavicāraupekkhāvipassanātopi avitakkāvicāraupekkhāvipassanāpaṇītatarā. Savitakkasavicāraupekkhāphalasamāpattitopi avitakkāvicārupekkhāphalasamāpattiyeva paṇītatarā. Tenāha bhagavā ‘‘ye avitakke avicāre te paṇītatare’’ti.
Những cái nào không Tầm không Tứ, những cái ấy là tốt hơn: Trong cả hai loại Xả này, Xả không Tầm không Tứ ấy là tốt hơn. Với những lời này, điều này đề cập đến điều gì? Đề cập đến A-la-hán Quả của hai vị. Thật vậy, một vị tỳ kheo, khi bắt đầu (thực hành) Minh sát trong Xả có Tầm có Tứ, đã quán xét rằng: “Xả này dựa vào điều gì?” (Vị ấy) biết rõ rằng: ‘Dựa vào nền tảng”, rồi được vững trú vào quả vị A-ra-hán theo tuần tự, theo phương thức đã đề cập trong nhóm Pháp có Xúc là thứ năm. Một vị tỳ kheo khác bắt đầu (thực hành) Minh sát trong Xả không Tầm không Tứ, cũng được an trú vào A-ra-hán Quả theo phương đã nói. Ở đây, ngay cả trong những (trạng thái) Xả đã được chắc chắn thì Xả không Tầm không Tứ là tốt hơn (Xả) có Tầm có Tứ, Xả Minh sát (mà) không Tầm không Tứ là tốt hơn, thậm chí Xả Minh sát (mà) có Tầm có Tứ, Xả thể nhập thánh Quả không Tầm không Tứ là tốt hơn Xả thể nhập thánh Quả có Tầm có Tứ. Vì thế đức Thế Tôn đã nói rằng: “Những cái nào không Tầm không Tứ, những cái ấy là tốt hơn.”
- Evaṃ paṭipanno kho, devānaminda, bhikkhu papañcasaññāsaṅkhānirodhasāruppagāminiṃ paṭipadaṃ paṭipanno hotīti bhagavā arahattanikūṭena desanaṃ niṭṭhapesi. Sakko pana sotāpattiphalaṃ patto. Buddhānañhi ajjhāsayo hīno na hoti, ukkaṭṭhova hoti. Ekassapi bahūnampi dhammaṃ desentā arahatteneva kūṭaṃ gaṇhanti. Sattā pana attano anurūpe upanissaye ṭhitā keci sotāpannā honti, keci sakadāgāmī, keci anāgāmī, keci arahanto. Rājā viya hi bhagavā, rājakumārā viya veneyyā. Yathā hi rājā bhojanakāle attano pamāṇena piṇḍaṃ uddharitvā rājakumārānaṃ upaneti, te tato attano mukhappamāṇeneva kabaḷaṃ karonti, evaṃ bhagavā attajjhāsayānurūpāya desanāya arahatteneva kūṭaṃ gaṇhāti. Veneyyā attano upanissayappamāṇena tato sotāpattiphalamattaṃ vā sakadāgāmianāgāmiarahattaphalameva vā gaṇhanti. Sakko pana sotāpanno jāto. Sotāpanno ca hutvā bhagavato puratoyeva cavitvā taruṇasakko hutvā nibbatti, devatānañhi cavamānānaṃ attabhāvassa gatāgataṭṭhānaṃ nāma na paññāyati, dīpasikhāgamanaṃ viya hoti. Tasmā sesadevatā na jāniṃsu. Sakko pana sayaṃ cutattā bhagavā ca appaṭihatañāṇattā dveva janā jāniṃsu. Atha sakko cintesi ‘‘mayhañhi bhagavatā tīsu ṭhānesu nibbattitaphalameva kathitaṃ, ayañca pana maggo vā phalaṃ vā sakuṇikāya viya uppatitvā gahetuṃ na sakkā, āgamanīyapubbabhāgapaṭipadāya assa bhavitabbaṃ. Handāhaṃ upari khīṇāsavassa pubbabhāgapaṭipadaṃ pucchāmī’’ti.
Này Thiên chủ, vị tỳ khưu thực hành như vậy là vị thực hành lối thực hành đúng đắn đưa đến sự diệt tận tập hợp tưởng tương ưng với Pháp chướng ngại: Đức Thế Tôn đã kết thúc Pháp thoại với đỉnh cao là phẩm vị A-ra-hán. Còn Vua trời Sakka đã đạt đến Nhập Lưu Quả.Thông thường, ý định của Đức Phật không bao giờ là thấp hèn, mà luôn cao cả. Khi ngài thuyết giảng Giáo Pháp cho một người hoặc nhiều người, ngài luôn nắm lấy đỉnh cao chính là phẩm vị A-ra-hán. Tuy nhiên, chúng sinh đều vững trú trong căn tánh thích hợp với mình, một số là Nhập Lưu, một số là Nhất Lai, một số là Bất Lai, và một số là A-ra-hán. Thật vậy, đức Thế Tôn giống như đức vua, và chúng sanh như những hoàng tử. Giống như khi dùng bữa đức vua múc một vắt cơm theo kích thước của ngài rồi đút cho các hoàng tử. Các hoàng tử lấy các vắt cơm theo kích thước miệng của mình từ những vắt cơm đó như thế nào. Đức Phật cũng như thế ấy, ngài nắm lấy đỉnh cảo chính là A-ra-hán Quả bằng Pháp thoại thích hợp đối với căn tánh của ngài, các chúng sanh có thể hiểu được lời giảng dạy ai cũng nắm lấy Quả Nhập Lưu, Quả Nhất Lai, Quả Bất Lai, hoặc Quả A-ra-hán từ Pháp thoại của ngài tùy theo căn tánh của bản thân. Còn Vua trời Sakka khi trở thành vị Nhập Lưu đã trút bỏ mạng sống ngay trước mặt của đức Thế Tôn rồi sanh trở lại thành vị Vua trời Sakka mới. Thông thường, nơi đi và nơi đến của bản ngã các vị chư Thiên đang tử (sẽ) không được hiển lộ. Nó giống như sự biến mất của ngọn lửa của ngọn đèn. Do đó, các vị chư Thiên còn lại không biết được điều này. Hơn nữa, chỉ có hai vị biết được: Vua trời Sakka vì ngài tự mình trải qua sự tái sinh, và đức Thế Tôn vì ngài có trí tuệ không thể bị trở ngại. Khi đó, Vua trời Sakka nghĩ rằng “’Bởi vì đức Thế Tôn thuyết giảng về kết quả tái sanh ở ba vị trí đến cho ta, và hơn nữa đối với Đạo và Quả này, không ai có thể bay lên lấy được tựa như con chim, việc nắm lấy Đạo và Quả đó có thể thành tựu nhờ lối thực hành thuộc phần khởi động ban đầu là đạo lộ. Thôi được rồi, ta sẽ hỏi về lối thực hành thuộc phần khởi động ban đầu của các vị Lậu Tận ở trên.
Giảng giải sự thu thúc trong giới bổn Pātimokkha.
- Tato taṃ pucchanto kathaṃ paṭipanno pana, mārisātiādimāha. Tattha pātimokkhasaṃvarāyāti uttamajeṭṭhakasīlasaṃvarāya. Kāyasamācārampītiādi sevitabbakāyasamācārādivasena pātimokkhasaṃvaradassanatthaṃ vuttaṃ. Sīlakathā ca nāmesā kammapathavasena vā paṇṇattivasena vā kathetabbā hoti.
Sau đó, khi hỏi về lối thực hành ấy mới nói lời bắt đầu rằng: ‘Vả lại, thưa Ngài, vị tỳ khưu thực hành thế nào…’ Trong câu đó, bằng sự thu thúc trong giới bổn Pātimokkha: bằng sự thu thúc trong giới hạnh cao thượng và tu tập cao cả. Thậm chí về hành vi của thân, v.v, đức Thế Tôn thuyết để thấy sự thu thúc trong giới bổn Pātimokkha do tác động hành vi của thân nên được thân cận. Và gọi là lời nói về giới này nên được nói do tác động của đường lối hành động hoặc do tác động sự quy định ấy.
Tattha kammapathavasena kathentena asevitabbakāyasamācāro tāva pāṇātipāta-adinnādāna-micchācārehi kathetabbo. Paṇṇattivasena kathentena kāyadvāre paññattasikkhāpada-vītikkamavasena kathetabbo. Sevitabbakāyasamācāro pāṇātipātādiveramaṇīhi ceva kāyadvāre paññattasikkhāpadaavītikkamena ca kathetabbo. Asevitabbavacīsamācāro musāvādādivacīduccaritena ceva vacīdvāre paññattasikkhāpadavītikkamena ca kathetabbo. Sevitabbavacīsamācāro musāvādādiveramaṇīhi ceva vacīdvāre paññattasikkhāpadaavītikkamena ca kathetabbo.
Ở đó, trong khi nói do tác động của đường lối hành động cần được nói về hành vi của thân không nên thân cận với việc sát sanh, trộm cắp và tà hạnh trước. Trong khi nói do tác động sự quy định cần được nói do tác động của sự quy định các điều học và sự vi phạm trong thân môn. Cần được nói hành vi về thân nên được thân cận với ý định tránh sát sanh, v.v, và với quy định các điều học và vi phạm trong thân môn. Cần phải nói đến hành vi lời về nói không nên thân cận bằng uế hạnh về khẩu như nói dối, v.v, và bằng sự quy định các điều học và vi phạm trong khẩu môn. Cần phải nói đến hành vi về lời nói nên được thân cận với ý định tránh xa việc nói dối, v.v, và bằng sự quy định các điều học và vi phạm trong khẩu môn.
Pariyesanā pana kāyavācāhi pariyesanāyeva. Sā kāyavacīsamācāragahaṇena gahitāpi samānā yasmā ājīvaṭṭhamakasīlaṃ nāma etasmiññeva dvāradvaye uppajjati, na ākāse, tasmā ājīvaṭṭhamakasīladassanatthaṃ visuṃ vuttā. Tattha nasevitabbapariyesanā anariyapariyesanāya kathetabbā. Sevitabbapariyesanā ariyapariyesanāya. Vuttañhetaṃ –
Hơn nữa, đối với sự tầm cầu cũng bao gồm sự tầm cầu bằng chính thân và lời nói. Sự tầm cầu đó được bao hàm trong từ ngữ, tức là hành vi về thân và lời nói, vì thường thì giới có nghề nghiệp là thứ tám chỉ sanh khởi trong hai môn này, không phải trong hư không. Vì vậy, đức Thế Tôn đã thuyết giảng sự tầm cầu này ở phần riêng biệt để thấy giới có nghề nghiệp là thứ tám. Trong sự tầm cầu đó, không nên nói về sự tầm cầu cần được thân cận với sự tầm cầu không cao quý mà nên nói về sự tầm cầu cần được thân cận với sự tầm cầu cao quý. bởi vì việc này đã được đức Thế Tôn nói rằng –
‘‘Dvemā, bhikkhave, pariyesanā anariyā ca pariyesanā, ariyā ca pariyesanā. Katamā ca, bhikkhave, anariyā pariyesanā? Idha, bhikkhave, ekacco attanā jātidhammo samāno jātidhammaṃyeva pariyesati, attanā jarādhammo, byādhidhammo, maraṇadhammo, sokadhammo, saṃkilesadhammo samāno saṃkilesadhammaṃyeva pariyesati.
Này các tỳ khưu, có hai loại tầm cầu này: Sự tầm cầu cao thượng và sự tầm cầu không cao thượng. Này các tỳ khưu, và thế nào là sự tầm cầu không cao thượng? Ở đây, này các tỳ khưu, một số người tự mình là người có bản chất sanh ra cũng vẫn tầm cầu chính cái có bản chất sanh ra, tự mình có bản chất già, tự mình có bản chất bệnh … tự mình có bản chất chết … tự mình có bản chất sầu … tự mình có bản chất ô nhiễm cũng vẫn tầm cầu chính cái có bản chất ô nhiễm.
Kiñca, bhikkhave, jātidhammaṃ vadetha? Puttabhariyaṃ, bhikkhave, jātidhammaṃ, dāsidāsaṃ jātidhammaṃ ajeḷakaṃ jātidhammaṃ, kukkuṭasūkaraṃ jātidhammaṃ, hatthigavāssavaḷavaṃ jātidhammaṃ, jātarūparajataṃ jātidhammaṃ. Jātidhammā h’ete, bhikkhave, upadhayo, etthāyaṃ gathito mucchito ajjhāpanno attanā jātidhammo samāno jātidhammaṃyeva pariyesati.
Và này các tỳ khưu, các ông nói cái gì có bản chất sanh ra? Này các tỳ khưu, vợ con là có bản chất sanh ra; đầy tớ nam, đầy tớ nữ là có bản chất sanh ra; dê và cừu là có bản chất sanh ra; gà và heo là có bản chất sanh ra; voi, bò, ngựa đực, ngựa cái là có bản chất sanh ra; vàng và bạc là có bản chất sanh ra. Này các tỳ khưu, những thứ có bản chất sanh ra này là bản thể của sự tái sanh, và người ấy lại buộc trói, mê mẩn, gần gũi chúng, tự mình là người có bản chất sanh ra cũng vẫn tầm cầu chính cái có bản chất sanh ra.
Kiñca, bhikkhave, jarādhammaṃ vadetha? Puttabhariyaṃ, bhikkhave, jarādhammaṃ…pe… jarādhammaṃyeva pariyesati.
Và này các tỳ khưu, các ông nói cái gì có bản chất già? Này các tỳ khưu vợ con là có bản chất già …nt… cũng vẫn tầm cầu chính cái có bản chất già.
Kiñca, bhikkhave, byādhidhammaṃ vadetha? Puttabhariyaṃ, bhikkhave, byādhidhammaṃ, dāsidāsaṃ byādhidhammaṃ, ajeḷakaṃ, kukkuṭasūkaraṃ, hatthigavāssavaḷavaṃ byādhidhammaṃ. Byādhidhammā hete, bhikkhave, upadhayo, etthāyaṃ gathito mucchito ajjhāpanno attanā byādhidhammo samāno byādhidhammaṃyeva pariyesati.
Và này các tỳ khưu, các ông nói cái gì có bản chất bệnh? Này các tỳ khưu vợ con là có bản chất bệnh; đầy tớ nam, đầy tớ nữ là có bản chất bệnh; dê và cừu; gà và heo; voi, bò, ngựa đực, ngựa cái là có bản chất bệnh. Này các tỳ khưu, những thứ có bản chất bệnh này là bản thể của sự tái sanh, và người ấy lại buộc trói, mê mẩn, gần gũi chúng, tự mình là người có bản chất bệnh cũng vẫn tầm cầu chính cái có bản chất bệnh.
Kiñca, bhikkhave, maraṇadhammaṃ vadetha? Puttabhariyaṃ, bhikkhave, maraṇadhammaṃ…pe… maraṇadhammaṃyeva pariyesati.
Và này các tỳ khưu, các ông nói cái gì có bản chất chết? Này các tỳ khưu vợ con là có bản chất chết; …nt… cũng vẫn tầm cầu chính cái có bản chất chết.
Kiñca, bhikkhave, sokadhammaṃ vadetha? Puttabhariyaṃ…pe… sokadhammaṃyeva pariyesati.
Và này các tỳ khưu, các ông nói cái gì có bản chất sầu? Này các tỳ khưu vợ con là có bản chất sầu; …nt… cũng vẫn tầm cầu chính cái có bản chất sầu.
Kiñca, bhikkhave, saṃkilesadhammaṃ vadetha…pe… jātarūparajataṃ saṃkilesadhammaṃ. Saṃkilesadhammā, hete, bhikkhave, upadhayo, etthāyaṃ gathito mucchito ajjhāpanno attanā saṃkilesadhammo samāno saṃkilesadhammaṃyeva pariyesati. Ayaṃ, bhikkhave, anariyā pariyesanāti[8].
Và này các tỳ khưu, các ông nói cái gì có bản chất ô nhiễm? …nt… vàng và bạc là có bản chất ô nhiễm. Và này các tỳ khưu, những thứ có bản chất ô nhiễm này là bản thể của sự tái sanh, và người ấy lại buộc trói, mê mẩn, gần gũi chúng, tự mình là người có bản chất ô nhiễm cũng vẫn tầm cầu chính cái có bản ô nhiễm. Này các tỳ khưu, đây gọi là sự tầm câu không cao thượng.
Apica kuhanādivasena pañcavidhā, agocaravasena chabbidhā vejjakammādivasena ekavīsatividhā, evaṃ pavattā sabbāpi anesanā anariyapariyesanāyevāti veditabbā.
Và hơn nữa, nên biết rằng sự tầm cầu không cao thượng có năm do tác động của sự gạt gẫm, có sáu do tác động của hành xứ, có hai mươi mốt do tác động của công việc thầy thuốc, sự tầm cầu không thích hợp thậm chí tất cả đều diễn biến như vậy nên biết rằng đây thật sự là sự tầm cầu không cao thượng.
‘‘Katamā ca, bhikkhave, ariyā pariyesanā? Idha, bhikkhave, ekacco attanā jātidhammo samāno jātidhamme ādīnavaṃ viditvā ajātaṃ anuttaraṃ yogakkhemaṃ nibbānaṃ pariyesati, attanā jarādhammo, byādhi, maraṇa, soka, saṃkilesadhammo samāno saṃkilesadhamme ādīnavaṃ viditvā asaṃkiliṭṭhaṃ anuttaraṃ yogakkhemaṃ nibbānaṃ pariyesati. Ayaṃ ariyā pariyesanāti[9].
“Và này các tỳ khưu, thế nào là sự tầm cầu cao thượng? Ở đây, này các tỳ khưu, có một số người tự mình là người có bản chất sanh ra, sau khi biết rõ sự nguy hại trong cái có bản chất sanh ra, tìm cầu cái không sanh, vô thượng, sự an toàn khỏi các trói buộc, Niết Bàn; tự mình là ngươi có bản chất già – bệnh – chết – sầu – tự mình là ngươi có bản chất ô nhiễm, sau khi biết rõ sự nguy hại trong cái có bản chất ô nhiễm, tìm cầu cái không ô nhiễm, vô thượng, sự an toàn khỏi các trói buộc, Niết Bàn. Đây là sự tầm cầu cao thượng.
Apica pañca kuhanādīni cha agocare ekavīsatividhañca anesanaṃ vajjetvā bhikkhācariyāya dhammena samena pariyesanāpi ariyapariyesanāyevāti veditabbā.
Một điều nữa, tránh xa năm sự gạt gẫm, sáu hành xứ và hai mươi mốt cách tìm kiếm không thích hợp, tìm cầu bằng việc đi khất thực một cách chính trực, bình đẳng thì cũng nên biết rằng tất cả (điều đó) là sự tầm cầu cao thượng.
Ettha ca yo yo ‘‘na sevitabbo’’ti vutto, so so pubbabhāge pāṇātipātādīnaṃ sambhāra-pariyesanā-payogakaraṇagamanakālato paṭṭhāya na sevitabbova. Itaro ādito paṭṭhāya sevitabbo, asakkontena cittampi uppādetabbaṃ.
Đối với các hành vi của thân này, bất kỳ hành vi nào mà đức Thế Tôn đã nói rằng không nên thân cận hành vi ấy thì cần phải tránh từ lúc bắt đầu các phương tiện tìm cầu, sự cố gắng và sự đi trong phần khởi động ban đầu của việc sát sanh, v.v. Ngoài ra, nên thân cận ngay từ ban đầu, người không thể cũng nên thực hiện ngay cả tâm sanh khởi (suy nghĩ đến cũng được).
Apica saṅghabhedādīnaṃ atthāya parakkamantānaṃ devadattādīnaṃ viya kāyasamācāro na sevitabbo, divasassa dvattikkhattuṃ tiṇṇaṃ ratanānaṃ upaṭṭhānagamanādivasena pavatto dhammasenāpati-mahāmoggallānattherādīnaṃ viya kāyasamācāro sevitabbo. Dhanuggahapesanādivasena vācaṃ bhindantānaṃ devadattādīnaṃ viya vacīsamācāro na sevitabbo, tiṇṇaṃ ratanānaṃ guṇakittanādivasena pavatto dhammasenāpatimahāmoggallānattherādīnaṃ viya vacīsamācāro sevitabbo. Anariyapariyesanaṃ pariyesantānaṃ devadattādīnaṃ viya pariyesanā na sevitabbā, ariyapariyesanameva pariyesantānaṃ dhammasenāpatimahāmoggallānattherādīnaṃ viya pariyesanā sevitabbā.
Một điều nữa, về hành vi của thân không nên thân cận giống như của Devadatta (Đề-bà-đạt-đa) v.v, kiên trì phá hoại Tăng Chúng. Về hành vi của thân cần được thân cận giống như của vị Tướng quân Chánh pháp Trưởng lão Sāriputta (Xá-lợi-phất) và Trưởng lão Mahā Moggallāna (Mục-kiền-liên) v.v, diễn ra về phương diện đi đến phục vụ Tam Bảo hai hoặc ba lần mỗi ngày. Về hành vi của khẩu không nên thân cận giống như của Devadatta, v.v, nói về phương diện phái người bắn cung, v.v. Về hành vi của khẩu nên được thân cận giống như của vị Tướng quân Chánh pháp Trưởng lão Sāriputta và Trưởng lão Mahā Moggallāna v.v, diễn ra về phương diện tán dương ân đức Tam Bảo. Sự tầm cầu không nên thân cận giống như của Devadatta, v.v, là vị tìm cầu sự tầm cầu không cao thượng. Sự tầm cầu cần được thân cận giống như của vị Tướng quân Chánh pháp Trưởng lão Sāriputta và Trưởng lão Mahā Moggallāna v.v, là những vị chỉ tìm cầu sự tầm cầu cao thượng.
Evaṃ paṭipanno khoti evaṃ asevitabbaṃ kāyavacīsamācāraṃ pariyesanañca pahāya sevitabbānaṃ pāripūriyā paṭipanno, devānaminda, bhikkhu pātimokkhasaṃvarāya uttamajeṭṭhakasīlasaṃvaratthāya paṭipanno nāma hotīti bhagavā khīṇāsavassa āgamanīyapubbabhāgapaṭipadaṃ kathesi.
Vị tỳ khưu thực hành như vậy: Này Thiên chủ vị tỳ khưu dứt bỏ về hành vi của thân và khẩu, và sự tầm cầu không nên thân cận, thực hành để đưa đến sự tròn đủ về hành vi của thân và khẩu, và sự tầm cầu nên được thân cận như đã nói, gọi là vị thực hành để đạt đến sự thu thúc trong giới hạnh cao thượng và tu tập cao cả (là giới bổn Pātimokkha). Đức Thế Tôn nói về lối thực hành thuộc phần khởi động ban đầu là đạo lộ của bậc Lậu Tận.
Giảng giải về sự thu thúc các giác quan – indriya
- Dutiyapucchāyaṃ indriyasaṃvarāyāti indriyānaṃ pidhānāya, guttadvāratāya saṃvutadvāratāyāti attho. Vissajjane panassa cakkhuviññeyyaṃ rūpampītiādi sevitabbarūpādivasena indriyasaṃvaradassanatthaṃ vuttaṃ. Tattha evaṃ vutteti heṭṭhā somanassādipañhāvissajjanānaṃ sutattā imināpi evarūpena bhavitabbanti sañjātapaṭibhāno bhagavatā evaṃ vutte sakko devānamindo bhagavantaṃ etadavoca, etaṃ imassa kho ahaṃ, bhanteti ādikaṃ vacanaṃ avoca. Bhagavāpissa okāsaṃ datvā tuṇhī ahosi. Kathetukāmopi hi yo atthaṃ sampādetuṃ na sakkoti, atthaṃ sampādetuṃ sakkonto vā na kathetukāmo hoti, na tassa bhagavā okāsaṃ karoti. Ayaṃ pana yasmā kathetukāmo ceva, sakkoti ca atthaṃ sampādetuṃ tenassa bhagavā okāsamakāsi.
Trong câu hỏi thứ hai, đưa đến sự thu thúc các Quyền: Để đóng các giác quan, để thu thúc các môn, có nghĩa là phòng hộ các môn. Hơn nữa, trong việc giải đáp (câu hỏi) cho Vua trời Sakka, Đức Phật đã thuyết rằng ‘sắc nên được nhận thức bởi mắt…’ để thấy sự thu thúc các giác quan do tác động của sắc cần được thân cận, v.v. Khi được nói như vậy: Khi đức Thế Tôn nói như vậy thì Thiên chủ Sakka lập tức nhận thức ra rằng: ngay cả điều này cũng cần phải có với hình thức tương tự như vậy bởi vì việc giải quyết vấn đề liên quan đến Hỷ, v.v., mà đã được nghe trong quá khứ nên mới hỏi đức Thế Tôn như vậy, điều này ngài đã nói bằng lời nói bắt đầu rằng: “Bạch Ngài, đối với điều…” Mặc dù vậy đức Thế Tôn cũng vẫn trao cơ hội cho Thiên chủ nên đã giữ im lặng. Thật vậy, người không thể thành tựu lợi ích đó là người ưa thích nói hoặc người có thể thành tựu lợi ích ấy không phải là người ưa thích nói, thì đức Phật không ban cơ hội cho. Còn đối với Thiên chủ Sakka vì là người ưa thích nói và cũng có thể thành tựu lợi ích, vì lý do ấy nên đức Thế Tôn đã trao cơ hội cho Thiên chủ.
Tattha evarūpaṃ na sevitabbanti ādīsu ayaṃ saṅkhepo – yaṃ rūpaṃ passato rāgādayo uppajjanti, taṃ na sevitabbaṃ na daṭṭhabbaṃ na oloketabbanti attho. Yaṃ pana passato asubhasaññā vā saṇṭhāti, pasādo vā uppajjati, aniccasaññāpaṭilābho vā hoti, taṃ sevitabbaṃ.
Ở đây, điều này là phần tóm tắt bắt đầu rằng ‘…có hình thức như vậy là không nên thân cận’ – Khi nhìn sắc nào (mà) ái luyến khởi sanh (thì) không nên thân cận, không nên nhìn sắc ấy. Nhưng khi nhìn sắc nào (mà) bất tịnh tưởng được thiết lập, hoặc niềm tịnh tín sanh khởi, hoặc có sự đạt được vô thường tưởng, (thì) nên thân cận sắc ấy.
Yaṃ cittakkharaṃ cittabyañjanampi saddaṃ suṇato rāgādayo uppajjanti, evarūpo saddo na sevitabbo. Yaṃ pana atthanissitaṃ dhammanissitaṃ kumbhadāsigītampi suṇantassa pasādo vā uppajjati, nibbidā vā saṇṭhāti, evarūpo saddo sevitabbo.
Khi nghe tiếng nào có những âm tiết du dương, hay có những phụ âm êm dịu (mà) ái luyến, v.v, khởi lên (thì) tiếng có hình thức như thế đó không nên thân cận. Còn tiếng nào nào, dù là bài hát của người nữ tỳ đội nước (kumbhadāsī), mà dựa vào ý nghĩa (kết quả) và dựa vào pháp (nguyên nhân), khởi lên niềm tịnh tín hoặc sự nhàm chán được thiết lập, thì tiếng có hình thức như thế đó nên được thân cận.
Yaṃ gandhaṃ ghāyato rāgādayo uppajjanti, evarūpo gandho na sevitabbo. Yaṃ pana gandhaṃ ghāyato asubhasaññādipaṭilābho hoti, evarūpo gandho sevitabbo.
Khi ngửi thấy mùi nào mà ái luyến, v.v, khởi lên thì mùi có hình thức như thế đó không nên thân cận. Còn khi ngửi thấy mùi nào mà có sự đạt được bất tịnh tưởng, thì mùi có hình thức như thế đó nên được thân cận.
Yaṃ rasaṃ sāyato rāgādayo uppajjanti, evarūpo raso na sevitabbo. Yaṃ pana rasaṃ sāyato āhāre paṭikūlasaññā ceva uppajjati, sāyitapaccayā ca kāyabalaṃ nissāya ariyabhūmiṃ okkamituṃ sakkoti, mahāsīvattherabhāgineyyasīvasāmaṇerassa viya paribhuñjantasseva kilesakkhayo vā hoti, evarūpo raso sevitabbo.
Khi lưỡi nếm vị nào (mà) ái luyến v.v, khởi lên (thì) vị có hình thức như thế đó không nên thân cận. Còn khi lưỡi nếm vị nào (mà) tưởng nhờm gớm trong vật thực được khởi lên, và nương tựa vào sức mạnh của thân vì vị được lưỡi nếm làm duyên có thể nhập vào địa phận của các bậc Thánh nhân tương tự như của vị Sa-di Siva cháu của Trưởng lão Siva, hoặc khi thọ dụng có sự cạn kiệt phiền não, (thì) vị có hình thức thế đó nên được thân cận.
Yaṃ phoṭṭhabbaṃ phusato rāgādayo uppajjanti, evarūpaṃ phoṭṭhabbaṃ na sevitabbaṃ. Yaṃ pana phusato sāriputtattherādīnaṃ viya āsavakkhayo ceva, vīriyañca supaggahitaṃ, pacchimā ca janatā diṭṭhānugatiṃ āpādanena anuggahitā hoti, evarūpaṃ phoṭṭhabbaṃ sevitabbaṃ. Sāriputtatthero kira tiṃsa vassāni mañce piṭṭhiṃ na pasāresi. Tathā mahāmoggallānatthero. Mahākassapatthero vīsavassasataṃ mañce piṭṭhiṃ na pasāresi. Anuruddhatthero paññāsa vassāni. Bhaddiyatthero tiṃsa vassāni. Soṇatthero aṭṭhārasa vassāni. Raṭṭhapālatthero dvādasa. Ānandatthero pannarasa. Rāhulatthero dvādasa. Bākulatthero asīti vassāni. Nāḷakatthero yāvaparinibbānā mañce piṭṭhiṃ na pasāresīti.
Khi chạm cảnh xúc nào (mà) ái luyến, v.v, khởi lên (thì) cảnh xúc có hình thức như thế đó không nên thân cận. Còn chạm thứ nào có sự cạn kiệt các lậu hoặc giống như Trưởng lão Sāriputta, cả sự tinh tấn cũng khéo được nâng đỡ, và cả dân chúng sau này cũng nhận được sự trợ giúp do noi theo quan điểm, xúc có hình thức thế đó nên được thân cận. Nghe rằng Trưởng lão Sāriputta (Xá-lợi-phất) đã không nằm thẳng lưng trên giường trong suốt 30 năm, và Trưởng lão Mahā Moggallāna (Mục-kiền-liên) cũng vậy. Trưởng lão Mahākassapa (Đại Ca-diếp) đã không nằm thẳng lưng trên giường trong suốt 120 năm. Trưởng lão Anuruddha (A-nậu-lâu-đà) suốt 55 năm, Trưởng lão Bhaddiya suốt 30 năm, Trưởng lão Soṇa suốt 18 năm, Trưởng lão Rattapāla suốt 12 năm, Trưởng lão Ānanda suốt 15 năm, Trưởng lão Rāhula suốt 12 năm, Trưởng lão Bākula suốt 80 năm, và Trưởng lão Nāḷaka (Na-la-ca) đã không nằm thẳng lưng trên giường cho đến khi nhập Niết Bàn.
Ye manoviññeyye dhamme samannāharantassa rāgādayo uppajjanti, ‘‘aho, vata yaṃ paresaṃ paravittūpakaraṇaṃ taṃ mamassā’’tiādinā nayena vā abhijjhādīni āpāthamāgacchanti evarūpā dhammā na sevitabbā. ‘‘Sabbe sattā averā hontū’’ti evaṃ mettādivasena, ye vā pana tiṇṇaṃ therānaṃ dhammā, evarūpā sevitabbā. Tayo kira therā vassūpanāyikadivase kāmavitakkādayo akusalavitakkā na vitakketabbāti katikaṃ akaṃsu. Atha pavāraṇadivase saṅghatthero saṅghanavakaṃ pucchi – ‘‘āvuso, imasmiṃ temāse kittake ṭhāne cittassa dhāvituṃ dinna’’nti? Na, bhante, pariveṇaparicchedato bahi dhāvituṃ adāsinti. Dutiyaṃ pucchi – ‘‘tava āvuso’’ti? Nivāsagehato, bhante, bahi dhāvituṃ na adāsinti. Atha dvepi theraṃ pucchiṃsu ‘‘tumhākaṃ pana, bhante’’ti? Niyakajjhattakhandhapañcakato, āvuso, bahi dhāvituṃ na adāsinti. Tumhehi, bhante, dukkaraṃ katanti. Evarūpo manoviññeyyo dhammo sevitabbo.
Khi quán xét các Pháp nên được ý nhận thức nào (mà) ái luyến, v.v, khởi lên hoặc sự tham đắm theo cách thức rằng “Ôi! Những tài vật nào của người khác mong cho những tài vật đó hãy trở thành của tôi” đến nhập vào dòng chảy (thì) các Pháp có hình thức như thế đó không nên thân cận. Còn các Pháp nào của ba vị Trưởng lão nào do tác động của tâm từ, v.v, như vầy rằng “Mong cho tất cả chúng sanh hãy không có hận thù,” các Pháp có hình thức như thế ấy nên được thân cận. Nghe rằng, ba vị tỳ khưu vào ngày an cư mùa mưa đã đặt ra nguyên tắc rằng: chúng ta không nên thân cận các suy tầm bất thiện có suy tầm về dục, v.v. Khi ấy, vào ngày Pavāraṇa, các vị Trưởng lão trong Hội Chúng đã hỏi vị mới tu trong Hội Chúng rằng: “Này Hiền giả, trong ba tháng này, Hiền giả đã để tâm trí chạy tán loạn bao nhiêu nơi? – Thưa ngài, tôi đã không để tâm chạy ra khỏi phạm vi khu vực. (Vị Trưởng lão trong Hội Chúng) đã hỏi vị thứ hai rằng: “Này Hiền giả, (tâm) của Hiền giả (chạy tán loạn) bao nhiêu nơi?” – Thưa ngài, tôi đã không để tâm chạy ra khỏi chỗ ở. Sau đó, cả hai vị tỳ khưu hỏi vị Trưởng lão rằng: “Thưa ngài, còn ngài thì sao?” – Vị Trưởng lão đáp: “Này Hiền giả, ta đã không để tâm chạy ra khỏi năm uẩn khắn khít trong nội tâm. – Thưa ngài, ngài đã làm điều khó làm. (Chúng ta) nên được thân cận Pháp nên được ý nhận thức có hình thức như thế.
- Ekantavādāti ekoyeva anto vādassa etesaṃ, na dvedhā gatavādāti ekantavādā, ekaññeva vadantīti pucchati. Ekantasīlāti ekācārā. Ekantachandāti ekaladdhikā. Ekantaajjhosānāti ekantapariyosānā.
Có cùng một lời nói: có cùng một lời nói bởi vì tận cùng lời nói của những người này đều đồng nhất, không phải có hai lời, Thiên chủ Sakka hỏi rằng: (các Sa-môn Bà-la-môn) đều có cùng một lời nói sao? Có cùng một giới hạnh: có cùng một hành vi. Có cùng một mong muốn: có cùng một quan điểm. Có cùng một đích đến: có cùng một cứu cánh.
Anekadhātu nānādhātu kho, devānaminda, lokoti devānaminda, ayaṃ loko anekajjhāsayo nānajjhāsayo. Ekasmiṃ gantukāme eko ṭhātukāmo hoti. Ekasmiṃ ṭhātukāme eko sayitukāmo hoti. Dve sattā ekajjhāsayā nāma dullabhā. Tasmiṃ anekadhātunānādhātusmiṃ loke yaṃ yadeva dhātuṃ yaṃ yadeva ajjhāsayaṃ sattā abhinivisanti gaṇhanti, taṃ tadeva. Thāmasā parāmāsāti thāmena ca parāmāsena ca. Abhinivissa voharantīti suṭṭhu gaṇhitvā voharanti, kathenti dīpenti kittenti. Idameva saccaṃ moghamaññanti idaṃ amhākameva vacanaṃ saccaṃ, aññesaṃ vacanaṃ moghaṃ tucchaṃ niratthakanti.
Này Thiên chủ, thế gian có nhiều tính chất, đa dạng về tính chất: Này Thiên chủ, thế gian này có nhiều khuynh hướng, đa đang về khuynh hướng. Khi một người muốn đí (nhưng) người kia lại muốn đứng. Khi một người muốn đứng (nhưng) người kia lại muốn nằm. Cả hai hạng chúng sanh gọi là khó đạt được chung một khuynh hướng. Ở thế gian có nhiều tính chất, đa dạng về tính chất ấy, các chúng sanh thường chấp chặt, nắm lấy vào tính chất nào, khuynh hướng nào (thì) cũng chấp chặt, nắm lấy vào tính chất ấy, khuynh hướng ấy. Sức mạnh và sự bám chấp: Với sự dõng mãnh và với sự bám chấp. Sau khi chấp thủ…thì chúng phát biểu: Sau khi nắm lấy chắc chắn đã phát biểu, đã tuyên bố tức là đã nói lên, đã chỉ ra. Chỉ điều này là chân lý, điều khác là rồ dại: Chỉ có lời nói của chúng tôi là chân lý, còn lời nói của những người khác là rồ dại, rỗng không, là không có lợi ích.
Accantaniṭṭhāti anto vuccati vināso, antaṃ atītā niṭṭhā etesanti accantaniṭṭhā. Yā etesaṃ niṭṭhā, yo paramassāso nibbānaṃ, taṃ sabbesaṃ vināsātikkantaṃ niccanti vuccati. Yogakkhemoti nibbānasseva nāmaṃ, accanto yogakkhemo etesanti accantayogakkhemī. Seṭṭhaṭṭhena brahmaṃ ariyamaggaṃ carantīti brahmacārī. Accantatthāya brahmacārī accantabrahmacārī. Pariyosānantipi nibbānassa nāmaṃ. Accantaṃ pariyosānaṃ etesanti accantapariyosānā.
Có sự thành tựu tuyệt đối: sự tiêu hoại được gọi là cuối cùng, có sự thành tựu tuyệt đối – do sự thành tựu của những người ấy đã qua cuối cùng, những người nào có sự ước muốn tối thượng là Niết Bàn, những sự ước muốn đó được gọi là thường hằng, vượt khỏi sự tiêu hoại của tất cả. Có sự an toàn trong mối ràng buộc: là tên gọi của chính Niết Bàn, người có sự an toàn tuyệt đối trong mối ràng buộc bởi vì sự an ổn tuyệt đối tử các mối ràng buộc của họ tồn tại. Có Phạm hạnh: bởi vì vị ấy thực hành đạo lộ tránh xa kẻ thù, cao thượng với ý nghĩa cao cả. Người thực hành cao thượng bởi sự thực hành tuyệt đối gọi là có Phạm hạnh tuyệt đối. Cứu cánh: là tên gọi của Niết Bàn. Người có cứu cánh tuyệt đối bởi vì vị ấy có sự chấm dứt hoàn toàn.
Taṇhāsaṅkhayavimuttāti taṇhāsaṅkhayoti maggopi nibbānampi. Maggo taṇhaṃ saṅkhiṇāti vināsetīti taṇhāsaṅkhayo. Nibbānaṃ yasmā taṃ āgamma taṇhā saṅkhiyati vinassati, tasmā taṇhāsaṅkhayo. Taṇhāsaṅkhayena maggena vimuttā, taṇhāsaṅkhaye nibbāne vimuttā adhimuttāti taṇhāsaṅkhayavimuttā.
Được giải thoát do diệt trừ hoàn toàn tham ái: Sự giải thoát do diệt trừ hoàn toàn tham ái, đây cũng là Đạo, đây cũng là Niết Bàn. Đạo là (phương tiện) diệt trừ hoàn toàn tham ái bởi làm cho tham ái diệt trừ hoàn toàn và làm cho biến mất. Niết Bàn gọi là nơi diệt trừ hoàn toàn tham ái bởi tham ái khi đã đến Niết Bàn thì (tham ái) sẽ biến mất. Do đó, gọi là sự diệt trừ hoàn toàn tham ái. Được giải thoát do diệt trừ hoàn toàn tham ái vì được thoát khỏi bằng Đạo do diệt trừ hoàn toàn tham ái, (hoặc) được giải thoát, được hướng đến trong Niết Bàn là nơi diệt trừ hoàn toàn tham ái.
Ettāvatā ca bhagavatā cuddasapi mahāpañhā byākatā honti. Cuddasa mahāpañhā nāma issāmacchariyaṃ eko pañho, piyāppiyaṃ eko, chando eko, vitakko eko, papañco eko, somanassaṃ eko, domanassaṃ eko, upekkhā eko, kāyasamācāro eko, vacīsamācāro eko, pariyesanā eko, indriyasaṃvaro eko, anekadhātu eko, accantaniṭṭhā ekoti.
Và chỉ bấy nhiêu đức Thế Tôn đã trả lời đầy đủ cả mười bốn câu hỏi lớn. Mười bốn câu hỏi lớn là (1) một câu hỏi là ganh tỵ và bỏn xẻn, (2) có một câu hỏi là khả ái và không khả ái, (3) có một câu hỏi là sự mong muốn, (4) có một câu hỏi là Tầm, (5) có một câu hỏi là Pháp chướng ngại, (6) có một câu hỏi là Hỷ, (7) có một câu hỏi là Ưu, (8) có một câu hỏi là Xả, (9) có một câu hỏi là về hành vi của thân, (10) có một câu hỏi là về hành vi của khẩu, (11) có một câu hỏi là sự tầm cầu, (12) có một câu hỏi là sự thu thúc giác quan, (13) có một câu hỏi là có nhiều tính chất, (14) có một câu hỏi là có sự thành tựu tuyệt đối.
- Ejāti calanaṭṭhena taṇhā vuccati. Sā pīḷanaṭṭhena rogo, anto padussanaṭṭhena gaṇḍo, anuppaviṭṭhaṭṭhena sallaṃ. Tasmā ayaṃ purisoti yasmā ejā attanā katakammānurūpena purisaṃ tattha tattha abhinibbattatthāya kaḍḍhati, tasmā ayaṃ puriso tesaṃ tesaṃ bhavānaṃ vasena uccāvacaṃ āpajjati. Brahmaloke ucco hoti, devaloke avaco. Devaloke ucco, manussaloke avaco. Manussaloke ucco, apāye avaco.
Tham ái được gọi là dục vọng với ý nghĩa lay động. Sự lay động ấy là bệnh tật với ý nghĩa áp bức, là ung nhọt với ý nghĩa làm tổn thương bên trong, là mũi tên với ý nghĩa đâm thủng. Vì thế, con người này: sự dao động lôi kéo con người, vì lợi ích tạo ra sự tái sanh vào cõi này cõi kia tương xứng với hành động mà bản thân đã tạo. Vì lý do nào, vì lý do ấy, con người này sẽ đạt đến sự cao thấp về phương diện của các cõi đó. Cao ở cõi Phạm thiên, thấp ở cõi Trời; cao ở cõi Trời, thấp ở cõi người; cao ở cõi người, thấp ở địa ngục.
Yesāhaṃ, bhanteti yesaṃ ahaṃ bhante. Sandhivasena panettha ‘‘yesāha’’nti hoti. Yathāsutaṃ yathāpariyattanti yathā mayā suto ceva uggahito ca, evaṃ. Dhammaṃ desemīti sattavatapadaṃ dhammaṃ desemi. Na cāhaṃ tesanti ahaṃ pana tesaṃ sāvako na sampajjāmi. Ahaṃ kho pana, bhantetiādinā attano sotāpannabhāvaṃ jānāpeti.
Yesāhaṃ, bhante tách thành yesaṃ āhaṃ bhante. Vả lại, ‘từ yesāhaṃ’ ở đây là do tác động sự nối lại (luật hợp âm). Như đã được nghe, như đã được tiếp thu: con như đã được nghe và đã được học như thế nào. Con chỉ bảo Giáo Pháp…: Chỉ bảo Giáo Pháp bảy điều của sự thực hành tốt đẹp. Và con không là đệ tử của các vị ấy: hơn nữa, con đã không trở thành đệ tử của các vị ấy. Thiên chủ Sakka cho đức Thế Tôn biết được bản thể Nhập Lưu của mình bằng lời nói bắt đầu rằng: “Hơn nữa, bạch Ngài, con quả thật là đệ tử của đức Thế Tôn, con là vị Nhập Lưu…”
Giảng về việc đạt được sự thích ý
- Vedapaṭilābhanti tuṭṭhipaṭilābhaṃ. Devāsurasaṅgāmoti devānañca asurānañca saṅgāmo. Samupabyūḷhoti samāpanno nalāṭena nalāṭaṃ paharaṇākārappatto viya. Etesaṃ kira kadāci mahāsamuddapiṭṭhe saṅgāmo hoti tattha pana chedanavijjhanādīhi aññamaññaṃ ghāto nāma natthi, dārumeṇḍakayuddhaṃ viya jayaparājayamattameva hoti. Kadāci devā jinanti, kadāci asurā. Tattha yasmiṃ saṅgāme devā puna apaccāgamanāya asure jiniṃsu, taṃ sandhāya tasmiṃ kho pana bhantetiādimāha. Ubhayametanti ubhayaṃ etaṃ. Duvidhampi ojaṃ ettha devaloke devāyeva paribhuñjissantīti evamassa āvajjantassa balavapītisomanassaṃ uppajji. Sadaṇḍāvacaroti sadaṇḍāvacarako, daṇḍaggahaṇena satthaggahaṇena saddhiṃ ahosi, na nikkhittadaṇḍasatthoti dasseti. Ekantanibbidāyāti ekanteneva vaṭṭe nibbindanatthāyāti sabbaṃ mahāgovindasutte vuttameva.
Việc đạt được cảm giác là việc đạt được sự vui mừng. Chiến tranh giữa chư Thiên và các A-tu-la: chiến tranh giữa chư Thiên và các A-tu-la. Đã bộc phát: Đối mặt với nhau như đạt đến biểu hiện trán với trán va chạm nhau. Kể rằng, bọn họ đôi khi còn chiến đấu trên biển cả, nhưng ở nơi đó không có sự giết chóc lẫn nhau bằng cách chém đâm, v.v, mà họ chỉ chiến thắng và chiến bại như cuộc chiến giữa khúc gỗ với con cừu mà thôi. Đôi khi chư Thiên chiến thắng, đôi khi thì các A-tu-la. Trong cuộc chiến đó, chư Thiên chiến thắng các A-tu-la bằng cách không trở lại nữa trong cuộc chiến nào đó. Vua trời Sakka đề cập đến cuộc chiến đó nên mới nói rằng: “Hơn nữa, bạch Ngài, ở cuộc chiến ấy…” Cả hai loại: Chỉ Chư Thiên tín dụng cả hai loại dưỡng chất là hai loại này ở thể giới chư Thiên này, vì thế khi Vua trời Sakka ấy suy xét về điều này hỷ lạc mạnh mẽ đã sanh khởi. Thuộc lãnh vực gậy gộc: Người thường đi cùng với sự trừng phạt, ngài cho thấy rằng đã trở thành người đi cùng với việc cầm gậy, cùng với việc cầm đao kiếm, không phải đã đặt xuống gậy gộc và đạo kiếm. Đưa đến sự nhàm chán tuyệt đối: đưa đến sự nhàm chán tuyệt đối trong vòng tử sanh luân hồi, tất cả đã được nói trong bài Kinh Mahāgovinda. - Pavedesīti kathesi dīpesi. Idhevāti imasmiññeva okāse. Devabhūtassa me satoti devassa me sato. Punarāyu ca me laddhoti puna aññena kammavipākena me jīvitaṃ laddhanti, iminā attano cutabhāvaṃ ceva upapannabhāvañca āvikaroti.
Tuyên bố: nói, trình bày. Ngay ở nơi này: ngay ở không trung. Trong khi con có trạng thái Thiên nhân: Trong khi con có trạng thái Thiên nhân. Con đã đạt được tuổi thọ lần nữa: Con đã đạt được mạng sống nhờ kết quả nghiệp lần nữa, với lời này Vua trời Sakka đã phơi bày về sự tử và sự sanh của ngài.
Diviyā kāyāti dibbā attabhāvā. Āyuṃ hitvā amānusanti dibbaṃ āyuṃ jahitvā. Amūḷho gabbhamessāmīti niyatagatikattā amūḷho hutvā. Yattha me ramatī manoti yattha me mano ramissati, tattheva khattiyakulādīsu gabbhaṃ upagacchissāmīti sattakkhattuṃ deve ca mānuse cāti imamatthaṃ dīpeti.
Từ tập thể chư Thiên: bản ngã thuộc chư Thiên. từ bỏ cuộc sống phi nhân: Từ bỏ tuổi thọ chư Thiên. Không mê muội, con sẽ đi đến bào thai: là người không mê muội do có cảnh giới tái sinh cố định. Nơi nào mà ý của con thích thú: sẽ đi đến bào thai trong dòng dõi Sát-đế-lỵ, v.v. mà ý của con sẽ thích thú, Vua Trời Sakka đã giải thích điều này ở chư Thiên và ở loài người bảy lần.
Ñāyena viharissāmīti manussesu upapannopi mātaraṃ jīvitā voropanādīnaṃ abhabbattā ñāyena kāraṇena samena viharissāmīti attho.
Con sẽ sống đúng phương pháp: ngay cả khi con sanh vào thế giới loài người con sẽ sống đúng phương pháp, theo nhân quả, chân chánh bởi vì tính chất loài người thật không thích hợp cho việc tước đoạt mạng sống của mẹ.
Sambodhice bhavissatīti idaṃ sakadāgāmimaggaṃ sandhāya vadati, sace sakadāgāmī bhavissāmīti dīpeti. Aññātā viharissāmīti aññātā ājānitukāmo hutvā viharissāmi. Sveva anto bhavissatīti so eva me manussaloke anto bhavissatīti.
Nếu sự giác ngộ sẽ có cho con: điều này Vua trời Sakka nói đề cập đến Đạo Bất Lai, ngài nói rằng: Nếu con sẽ trở thành bậc Bất Lai. Con sẽ sống, là người thấu hiểu: con là người hiểu biết, là người mong muốn hiểu biết, con sẽ sống. Chính cái ấy sẽ là kết cuộc của con: chính cái ấy sẽ là kết thúc của con ở thế giới loài người ấy.
Punadevo bhavissāmi, devalokasmiṃ uttamoti puna devalokasmiṃ uttamo sakko devānamindo bhavissāmīti vadati.
Con sẽ trở thành Thiên nhân lần nữa, là vị tối cao ở thế giới chư Thiên: Vua trời Sakka đã nói rằng: Con sẽ trở thành Thiên chủ Sakka, tối cao ở thế giới chư Thiên lần nữa.
Antime vattamānamhīti antime bhave vattamāne. So nivāso bhavissatīti ye te āyunā ca paññāya ca akaniṭṭhā jeṭṭhakā sabbadevehi paṇītatarā devā, avasāne me so nivāso bhavissati. Ayaṃ kira tato sakkattabhāvato cuto tasmiṃ attabhāve anāgāmimaggassa paṭiladdhattā uddhaṃsoto akaniṭṭhagāmī hutvā avihādīsu nibbattanto avasāne akaniṭṭhe nibbattissati. Taṃ sandhāya evamāha. Esa kira avihesu kappasahassaṃ vasissati, atappesu dve kappasahassāni, sudassesu cattāri kappasahassāni, sudassīsu aṭṭha, akaniṭṭhesu soḷasāti ekatiṃsa kappasahassāni brahmaāyuṃ anubhavissati. Sakko devarājā anāthapiṇḍiko gahapati visākhā mahāupāsikāti tayopi hi ime ekappamāṇaāyukā eva, vaṭṭābhiratasattā nāma etehi sadisā sukhabhāgino nāma natthi.
Trong khi tồn tại ở kiếp sống cuối: Trong khi tồn tại ở kiếp sống cuối cùng. Nơi đó sẽ là chỗ trú ngụ (của con): Các vị Thiên ở cõi trời Sắc Cứu Cánh này đây không kém hơn bất kỳ ai cả về tuổi thọ lẫn trí tuệ, đều là những bậc cao cả, tốt đẹp hơn tất cả các vị Thiên, cuối cùng cõi ấy là chỗ trú ngụ của con. Nghe rằng, Vua trời Sakka này sau khi chết từ bản ngã của Vua trời Sakka ấy, sẽ trở thành người có dòng chảy cao đến tận cõi trời Sắc Cứu Cánh, vì ngài đã đạt được Đạo Bất Lai trong bản ngã ấy, khi sanh vào cõi trời Avīha, v.v, và cuối cùng sẽ trở thành vị Phạm thiên Thượng Lưu Sắc Cứu Kính. Ngài muốn đề cập đến điều đó nên mới nói như vậy. Nghe rằng, Vua trời Sakka này sẽ sống ở cõi trời Avīha một ngàn kiếp, ở cõi trời Atappa hai ngàn kiếp, ở cõi trời Sudassa bốn ngàn kiếp, ở cõi trời Sudassī tám ngàn kiếp, ở cõi trời Akaniṭṭha mười sáu ngàn kiếp, như đã nói thì Vua trời Sakka sẽ trải qua tuổi thọ của vị Phạm thiên suốt ba mươi mốt ngàn kiếp. Thật vậy, những chúng sanh vui thích trong vòng luân hồi có cùng một độ tuổi ba vị này bao gồm Vua trời Sakka, gia chủ Anāthapiṇḍika, và cận sự nữ Visākhā. Thường những người có phần hạnh phúc ngang bằng với các ngài là không có.
- Apariyositasaṅkappoti aniṭṭhitamanoratho. Yassu maññāmi samaṇeti ye ca samaṇe pavivittavihārinoti maññāmi.
Với tâm tư chưa được hoàn tất: Vị có ước muốn vẫn chưa được thành tựu. Con nghĩ rằng các vị nào là Sa-môn: Con nghĩ rằng các vị nào là Sa-môn, có cuộc sống ẩn dật.
Ārādhanāti sampādanā. Virādhanāti asampādanā. Na sampāyantīti sampādetvā kathetuṃ na sakkonti.
Sự thành tựu: sự thành tựu. Sự không thành tựu: sự không thành tựu. Không thể nói: Không thể nói (về Đạo lộ và về các lối thực hành) để (đưa đến) thành tựu.
Ādiccabandhunanti ādiccopi gotamagotto, bhagavāpi gotamagotto, tasmā evamāha. Yaṃ karomasīti yaṃ pubbe brahmuno namakkāraṃ karoma. Samaṃ devehīti devehi saddhiṃ, ito paṭṭhāya idāni amhākaṃ brahmuno namakkārakaraṇaṃ natthīti dasseti. Sāmaṃ karomāti namakkāraṃ karoma.
Vị thuộc dòng dõi Mặt Trời: Mặt trời cũng thuộc dòng tộc Gotama, và đức Thế Tôn cũng thuộc dòng tộc Gotama, vì vậy, Vua trời Sakka đã nói như thế. Việc nào chúng con đã làm: Trước đây, chúng con đã bày tỏ sự kính trọng nào đối với Phạm thiên. Cùng với chư Thiên: cùng với chư Thiên, Vua trời Sakka nói rằng từ giờ trở đi, chúng con sẽ không bày tỏ sự kính trọng đối với Phạm thiên nữa, chúng con sẽ từ bỏ cúi mình đối với Phạm thiên. Chúng ta hãy tự mình kính lễ Ngài: chúng ta hãy bày tỏ sự kính trọng.
- Parāmasitvāti tuṭṭhacitto sahāyaṃ hatthena hatthamhi paharanto viya pathaviṃ paharitvā, sakkhibhāvatthāya vā paharitvā ‘‘yathā tvaṃ niccalo, evamahaṃ bhagavatī’’ti. Ajjhiṭṭhapañhāti ajjhesitapañhā patthitapañhā. Sesaṃ sabbattha uttānamevāti.
Đã chạm vào: Vua trời Sakka với tâm tư hoan hỷ đã chạm vào mặt đất, hoặc đã vỗ vào để muốn làm chứng cứ, tựa như (một người) với tay chạm vào tay của bạn hữu nói rằng: “Ta cũng giống như ngài không xao động.” Những câu hỏi được mong mỏi: Những câu hỏi được thỉnh cầu, những câu hỏi được mong mỏi. Những từ còn lại ở các câu đều đơn giản.
Giải thích Kinh Sakka Vấn Đạo được kết thúc – Kinh thứ tám (21)
Trong Chú Giải Trường Bộ Kinh là Sumaṅgalavilāsī.
[1] saṃ. ni. 4.232
[2] dī. ni. 2.110
[3] ma. ni. 3.306
[4] ma. ni. 3.308
[5] ma. ni. 3.307
[6] ma. ni. 3.307
[7] ma. ni. 3.308
[8] ma. ni. 1.274
[9] ma. ni. 1.275