Giải Thích Kinh Khởi Nguyên Của Thế Giới
(Aggaññasuttavaṇṇanā (27))Xem Trường Bộ Kinh – Kinh Khởi Nguyên Của Thế Giới (Khởi Thế Nhân Bổn)
Giảng giải về câu chuyện Sa-di Vāseṭṭha và Sa-di Bhāradvāja
111. Evaṃme sutanti aggaññasuttaṃ. Tatrāyamanuttānapadavaṇṇanā – pubbārāme migāramātupāsādeti ettha ayaṃ anupubbikathā. Atīte satasahassakappamatthake ekā upāsikā padumuttaraṃ bhagavantaṃ nimantetvā buddhappamukhassa bhikkhusatasahassassa dānaṃ datvā bhagavato pādamūle nipajjitvā ‘‘anāgate tumhādisassa buddhassa aggupaṭṭhāyikā homī’’ti patthanaṃ akāsi. Sā kappasatasahassaṃ devesu ceva manussesu ca saṃsaritvā amhākaṃ bhagavato kāle bhaddiyanagare meṇḍakaseṭṭhiputtassa dhanañcayaseṭṭhino gehe sumanadeviyā kucchimhi paṭisandhiṃ gaṇhi. Jātakāle tassā visākhāti nāmaṃ akaṃsu. Sā yadā bhagavā bhaddiyanagaraṃ āgamāsi, tadā pañcadāsisatehi saddhiṃ bhagavato paccuggamanaṃ katvā paṭhamadassanamhiyeva sotāpannā ahosi.
111. Bài Kinh Khởi Nguyên Của Thế Giới bắt đầu như sau— ‘Tôi đã nghe như vầy…’ Ở đây là phần giải thích các từ ngữ chưa được giải thích – Tịnh xá Pubba, ở tòa lâu đài của Migāramātu: và ở đây có một câu chuyện trình bày theo thứ tự. Được biết rằng vào thời quá khứ, cách nay một trăm ngàn đại kiếp, có một vị nữ cư sĩ sau khi thỉnh mời đức Thế Tôn Padumuttara đã cúng dường vật thí đến một trăm ngàn vị Tỳ khưu có đức Phật là vị đứng đầu, (sau khi cúng dường) nàng nằm phủ phục dưới chân đức Thế Tôn và phát nguyện rằng: “Vào thời kỳ vị lai, xin cho con được trở thành vị nữ thí chủ hàng đầu của một vị Phật như Ngài.” Vị nữ thí chủ đã luân chuyển giữa cõi Trời và cõi nhân loại suốt một trăm ngàn đại kiếp, đến thời kỳ đức Phật của chúng ta, nàng tái sanh vào bụng của phu nhân Sumana, trong gia đình của trưởng giả Dhanañcaya, là con trai trưởng giả Meṇḍaka, tại thành phố Bhaddiya. Vào lúc nàng được sanh ra, các thân quyến đã đặt tên cho nàng là Visākhā. Nàng ấy khi nào đức Thế Tôn đến thành phố Bhaddiya, thì khi ấy nàng đã ra nghênh đón đức Thế Tôn cùng với năm trăm thiếu nữ, ngay lần đầu tiên nhìn thấy đức Thế Tôn, nàng đã chứng đắc quả Tu-đà-hoàn.
Aparabhāge sāvatthiyaṃ migāraseṭṭhiputtassa puṇṇavaḍḍhanakumārassa gehaṃ gatā. Tattha naṃ migāraseṭṭhi mātuṭṭhāne ṭhapesi. Tasmā migāramātāti vuccati. Patikulaṃ gacchantiyā cassā pitā mahālatāpiḷandhanaṃ nāma kārāpesi. Tasmiṃ piḷandhane catasso vajiranāḷiyo upayogaṃ agamaṃsu, muttānaṃ ekādasa nāḷiyo, pavāḷassa dvāvīsati nāḷiyo, maṇīnaṃ tettiṃsa nāḷiyo. Iti etehi ca aññehi ca sattahi ratanehi niṭṭhānaṃ agamāsi. Taṃ sīse paṭimukkaṃ yāva pādapiṭṭhiyā bhassati. Pañcannaṃ hatthīnaṃ balaṃ dhārayamānāva naṃ itthī dhāretuṃ sakkoti. Sā aparabhāge dasabalassa aggupaṭṭhāyikā hutvā taṃ pasādhanaṃ vissajjetvā navahi koṭīhi bhagavato vihāraṃ kārayamānā karīsamatte bhūmibhāge pāsādaṃ kāresi . Tassa uparibhūmiyaṃ pañca gabbhasatāni honti, heṭṭhimabhūmiyaṃ pañcāti gabbhasahassappaṭimaṇḍito ahosi. Sā ‘‘suddhapāsādova na sobhatī’’ti taṃ parivāretvā pañca duvaḍḍhagehasatāni, pañca cūḷapāsādasatāni, pañca dīghasālasatāni ca kārāpesi. Vihāramaho catūhi māsehi niṭṭhānaṃ agamāsi.
Sau đó, nàng đi đến nhà của Punnavaddhana Kumara, con trai của trưởng giả Migāra ở thành Sāvatthi. Trưởng giả Migāra đã đặt bà vào vị trí người mẹ trong ngôi nhà đó. Vì vậy, ông ta mới gọi bà là Migāramātā (mẹ của Migāra). Khi nàng đi đến nhà gia đình chồng, cha của nàng đã cho thợ làm một bộ trang sức tên là Mahāladāpasādhana. Bốn nāḷī[1] kim cương, mười một nāḷī ngọc trai, hai mươi hai nāḷī san hô, ba mươi ba nāḷī ngọc ma-ni đã được dùng để chế tác bộ trang sức đó. Bộ trang sức đó được hoàn thành với các loại đá quý đã kể trên và với các loại châu báu bảy màu khác nữa. Bộ trang sức ấy khi đội lên đầu sẽ rủ xuống che phủ đến tận gót chân. Chỉ những người phụ nữ có sức mạnh của năm con voi đực mới có thể mang nổi bộ trang sức đó. Về sau, nàng đã trở thành nữ thí chủ hàng đầu của đức Thập Lực. Nàng đã xả bỏ bộ trang sức đó, dùng chín mươi triệu tiền để xây dựng tịnh xá cúng dường đến đức Thế Tôn, rồi cho xây dựng một tòa lâu đài trên khu đất rộng khoảng một mẫu. Tòa lâu đài này có một ngàn phòng (được chia thành hai tầng), tầng trên có năm trăm phòng, tầng dưới cũng có năm trăm phòng. Nàng nghĩ rằng “chỉ có một tòa lâu đài đơn độc thì không đẹp”, nên đã cho xây dựng thêm năm trăm ngôi nhà hai tầng, năm trăm lâu đài nhỏ, năm trăm căn phòng lớn dài bao quanh lâu đài đó. Lễ khánh thành tịnh xá đã được hoàn mãn trong vòng bốn tháng.
Mātugāmattabhāve ṭhitāya visākhāya viya aññissā buddhasāsane dhanapariccāgo nāma natthi, purisattabhāve ṭhitassa anāthapiṇḍikassa viya aññassāti. So hi catupaṇṇāsakoṭiyo vissajjetvā sāvatthiyā dakkhiṇabhāge anurādhapurassa mahāvihārasadise ṭhāne jetavanamahāvihāraṃ nāma kāresi. Visākhā sāvatthiyā pācīnabhāge uttaradeviyā vihārasadise ṭhāne pubbārāmaṃ nāma kāresi. Bhagavā imesaṃ dvinnaṃ kulānaṃ anukampāya sāvatthiṃ nissāya viharanto imesu dvīsu vihāresu nibaddhavāsaṃ vasi. Ekaṃ antovassaṃ jetavane vasati, ekaṃ pubbārāme. Tasmiṃ samaye pana bhagavā pubbārāme viharati. Tena vuttaṃ ‘‘pubbārāme migāramātupāsāde’’ti.
Không có sự cúng dường tài sản của bất kỳ người phụ nữ nào khác trong Phật giáo có thể sánh bằng sự cúng dường của nàng Visākhā, người vững trú trong bản thể của người nữ. Tương tự, cũng không có sự cúng dường tài sản của người đàn ông nào khác trong Phật giáo có thể sánh bằng sự cúng dường của trưởng giả Anāthapiṇḍika, người vững trú trong bản thể của người nam. Bởi vì trưởng giả Anāthapiṇḍika đã bỏ ra năm mươi bốn triệu tiền để xây dựng một ngôi đại tự viện tên là Jetavana, ở một vị trí tương tự như đại tự viện của thành phố Anurādhapura, về phía nam của thành phố Sāvatthi. Nàng Visākhā đã cho xây dựng một ngôi tịnh xá tên là Pubba ở một vị trí tương tự như tự viện của nàng Uttamādevī, về phía đông của thành phố Sāvatthi. Đức Thế Tôn thường trú ngụ tại hai ngôi tịnh xá này ở thành phố Sāvatthi, vì lòng thương tưởng đối với cả hai gia đình này. Trong mùa an cư này Ngài an trú tại tịnh xá Jetavana. Trong mùa an cư kế tiếp Ngài lại an trú tại tịnh xá Pubba. Vào lúc bấy giờ, đức Thế Tôn an trú tịnh xá Pubbārāma. Vì thế, Ngài mới nói rằng: “Tịnh xá Pubba, ở tòa lâu đài của Migāramātu”
Vāseṭṭhabhāradvājāti vāseṭṭho ca sāmaṇero bhāradvājo ca. Bhikkhūsu parivasantīti te neva titthiyaparivāsaṃ vasanti, na āpattiparivāsaṃ. Aparipuṇṇavassattā pana bhikkhubhāvaṃ patthayamānā vasanti. Tenevāha ‘‘bhikkhubhāvaṃ ākaṅkhamānā’’ti.
Sa-di Vāseṭṭha và Sa-di Bhāradvājā: Sa-di Vāseṭṭha và Sa-di Bhāradvājā. Sống thử thách ở nơi các vị Tỳ khưu: Hai vị Sa-di không phải sống thử thách như những người ngoại đạo, mà cũng không phải sống thử thách để sám hối tội, (mà) do hai vị ấy có ước muốn trở thành vị Tỳ khưu nhưng chưa đủ (hai mươi) tuổi. Vì vậy, Ngài mới nói rằng: “mong mỏi việc trở thành trạng thái Tỳ khưu”.
Ubhopi hete udiccabrāhmaṇamahāsālakule nibbattā, cattālīsa cattālīsa koṭivibhavā tiṇṇaṃ vedānaṃ pāragū majjhimanikāye vāseṭṭhasuttaṃ sutvā saraṇaṃ gatā, tevijjasuttaṃ sutvā pabbajitvā imasmiṃ kāle bhikkhubhāvaṃ ākaṅkhamānā parivasanti. Abbhokāse caṅkamatīti uttaradakkhiṇena āyatassa pāsādassa puratthimadisābhāge pāsādacchāyāyaṃ yantarajjūhi ākaḍḍhiyamānaṃ ratanasatubbedhaṃ suvaṇṇaagghikaṃ viya anilapathe vidhāvantīhi chabbaṇṇāhi buddharasmīhi sobhamāno aparāparaṃ caṅkamati.
Thật vậy, cả hai vị Sa-di đó đều sanh ra trong gia đình Bà-la-môn giàu có tên là Udicca, mỗi người có tài sản bốn mươi triệu (koṭi), thông thạo về ba-kiến-thức Vệ-Đà, sau khi lắng nghe Kinh Vāseṭṭha trong Trung Bộ Kinh đã quy y Tam Bảo,(và) sau khi lắng nghe Kinh Ba Kiến Thức (Tevijja) đã xuất gia. Trong thời gian này, (cả hai vị) mong mỏi việc trở thành Tỳ khưu nên mới sống thử thách. Đi kinh hành ở ngoài trời: Đức Thế Tôn tuyệt đẹp bởi hào quang sáu màu tỏa sáng giữa không trung như một khối vàng rồng vô cùng giá trị chiều cao một trăm ratana được mọi người kéo lên bằng sợi dây ròng rọc. Ngài đi kinh hành qua lại dưới bóng râm của tòa lâu đài ở phía đông của tòa lâu đài nối liền với phía bắc và phía nam.
113. Anucaṅkamiṃsūti añjaliṃ paggayha onatasarīrā hutvā anuvattamānā caṅkamiṃsu. Vāseṭṭhaṃ āmantesīti so tesaṃ paṇḍitataro gahetabbaṃ vissajjetabbañca jānāti, tasmā taṃ āmantesi. Tumhe khvatthāti tumhe kho attha. Brāhmaṇajaccāti, brāhmaṇajātikā. Brāhmaṇakulīnāti brāhmaṇesu kulīnā kulasampannā. Brāhmaṇakulāti brāhmaṇakulato, bhogādisampannaṃ brāhmaṇakulaṃ pahāyāti attho. Na akkosantīti dasavidhena akkosavatthunā na akkosanti. Na paribhāsantīti nānāvidhāya paribhavakathāya na paribhāsantīti attho. Iti bhagavā ‘‘brāhmaṇā ime sāmaṇere akkosanti paribhāsantī’’ti jānamānova pucchati. Kasmā? Ime mayā apucchitā paṭhamataraṃ na kathessanti, akathite kathā na samuṭṭhātīti kathāsamuṭṭhāpanatthāya. Tagghāti ekaṃsavacane nipāto, ekaṃseneva no, bhante, brāhmaṇā akkosanti paribhāsantīti vuttaṃ hoti. Attarūpāyāti attano anurūpāya. Paripuṇṇāyāti yathāruci padabyañjanāni āropetvā āropetvā paripūritāya. No aparipuṇṇāyāti antarā aṭṭhapitāya nirantaraṃ pavattāya.
113. Rồi đã đi kinh hành theo đức Thế Tôn: Cả hai vị Sa-di chắp tay lên, đê đầu đảnh lễ (đức Thế Tôn) rồi đi kinh hành theo Đức Thế Tôn. Đã bảo Sa-di Vāseṭṭha và Sa-di Bhāradvāja: Trong số hai vị đó thì Sa-di Vāseṭṭha là người sáng trí hơn, (và) biết điều gì nên nắm giữ và điều gì nên buông bỏ, vì vậy đức Thế Tôn đã bảo vị ấy đến. Tumhe khvatthā tách từ thành tumhe kho attha (Này các Vāseṭṭha, các ngươi quả thật). Có xuất thân Bà-la-môn: Thuộc dòng dõi cao quý có xuất thân Bà-la-môn. Thuộc gia tộc Bà-la-môn: Từ dòng dõi Bà-la-môn, nghĩa là dứt bỏ gia tộc Bà-la-môn vốn có đầy đủ tài sản. Không sỉ vả: Không lăng mạ với mười căn nguyên của sự chửi rủa. Không chê bai: Không chê bai bằng cách nói đến những điều khinh bỉ bằng nhiều cách khác nhau. Đức Thế Tôn biết rằng “các Bà-la-môn thường sỉ vả, chê bai các Sa-di này như vậy, nên đã hỏi như thế. – Tại sao? – Ngài nghĩ rằng: “Các Sa-di này, nếu ta không hỏi, không nói trước thì câu chuyện sẽ không khởi lên.” – Vì vậy (ta hỏi) là với mục đích để khơi dậy câu chuyện. Tagga: là một phân từ dùng trong lời khẳng định (quả thật). Giải thích rằng: “Quả thật, bạch đức Thế Tôn, các Bà-la-môn thường sỉ vả, chê bai hai chúng con.” Điển hình của họ: thích hợp đối với bản thân họ. Một cách tới tấp: đã (sỉ vả và chê bai) một cách tới tấp bằng những từ ngữ và văn tự theo ý thích của mình. Không có ngừng nghỉ: không dừng lại giữa chừng mà nói liên tục.
Kasmā pana brāhmaṇā ime sāmaṇere akkosantīti? Appatiṭṭhatāya. Ime hi sāmaṇerā aggabrāhmaṇānaṃ puttā tiṇṇaṃ vedānaṃ pāragū jambudīpe brāhmaṇānaṃ antare pākaṭā sambhāvitā tesaṃ pabbajitattā aññe brāhmaṇaputtā pabbajiṃsu. Atha kho brāhmaṇā ‘‘apatiṭṭhā mayaṃ jātā’’ti imāya appatiṭṭhatāya gāmadvārepi antogāmepi te disvā ‘‘tumhehi brāhmaṇasamayo bhinno, muṇḍasamaṇakassa pacchato pacchato rasagiddhā hutvā vicarathā’’tiādīni ceva pāḷiyaṃ āgatāni ‘‘brāhmaṇova seṭṭho vaṇṇo’’tiādīni ca vatvā akkosanti. Sāmaṇerā tesu akkosantesupi kopaṃ vā āghātaṃ vā akatvā kevalaṃ bhagavatā puṭṭhā ‘‘taggha no, bhante, brāhmaṇā akkosanti paribhāsantī’’ti ārocesuṃ. Atha ne bhagavā akkosanākāraṃ pucchanto yathā kathaṃ pana voti pucchati. Te ācikkhantā brāhmaṇā bhantetiādimāhaṃsu.
Vậy vì sao các Bà-la-môn lại sỉ vả các Sa-di này? – Vì họ không an trú (trong địa vị của mình). Các Sa-di này là con của những Bà-la-môn lỗi lạc, thông thạo về ba-kiến-thức Vệ-Đà, trứ danh, được tôn trọng giữa tập thể Bà-la-môn ở Jambudvīpa. Do việc hai vị Sa-di này đã xuất gia, (mà) rất nhiều con cái của các Bà-la-môn khác cũng đã xuất gia theo. Lúc đó, các Bà-la-môn nghĩ rằng: “Chúng ta hết chỗ nương tựa rồi,” chính vì không có chỗ nương tựa này mà khi gặp các Sa-di đó ở cổng làng hay trong làng, họ liền nói: “Các ông phá hoại học thuyết của Bà-la-môn, các ông là những kẻ tham đắm vị, nên đi du hành theo sau Sa-môn trọc đầu,” v.v., và nói những lời như: “Chỉ có Bà-la-môn là giai cấp cao thượng,” như đã có trong Chánh văn rồi (nói lời) sỉ vả. Mặc dù các Bà-la-môn đó cùng nhau sỉ vả, tuy nhiên các Sa-di vẫn không hề nổi giận hay oán hận. Vì được đức Thế Tôn hỏi, nên đã bạch rằng: “Quả thật, bạch đức Thế Tôn, các Bà-la-môn thường cùng nhau sỉ vả, chê bai chúng con như vậy.” Lúc đó, đức Thế Tôn, khi hỏi về lối sỉ vả nên mới hỏi rằng: “Thế, này các Vāseṭṭhā, các Bà-la-môn (sỉ vả, chê bai các ngươi với lối chê bai điển hình của họ, một cách tới tấp, không có ngừng nghỉ) là như thế nào?” Các Sa-di đó, khi đáp về lối sỉ vả, nên đã bạch rằng: “Bạch Ngài, các Bà-la-môn…” v.v.
Tattha seṭṭho vaṇṇoti jātigottādīnaṃ paññāpanaṭṭhāne brāhmaṇova seṭṭhoti dassenti. Hīnā aññe vaṇṇāti itare tayo vaṇṇā hīnā lāmakāti vadanti. Sukkoti paṇḍaro. Kaṇhoti kāḷako. Sujjhantīti jātigottādīnaṃ paññāpanaṭṭhāne sujjhanti. Brahmuno puttāti mahābrahmuno puttā. Orasā mukhato jātāti ure vasitvā mukhato nikkhantā, ure katvā saṃvaḍḍhitāti vā orasā. Brahmajāti brahmato nibbattā. Brahmanimmitāti brahmunā nimmitā. Brahmadāyādāti brahmuno dāyādā. Hīnamattha vaṇṇaṃ ajjhupagatāti hīnaṃ vaṇṇaṃ ajjhupagatā attha. Muṇḍakesamaṇaketi nindantā jigucchantā vadanti, na muṇḍakamattañceva samaṇamattañca sandhāya. Ibbheti gahapatike. Kaṇheti kāḷake. Bandhūti mārassa bandhubhūte mārapakkhike. Pādāpacceti mahābrahmuno pādānaṃ apaccabhūte pādato jāteti adhippāyo.
Trong số các từ đó, giai cấp cao thượng: các Bà-la-môn tuyên bố rằng chỉ có Bà-la-môn là giai cấp cao thượng ở địa vị được biết đến về chủng tộc và về dòng dõi v.v. Các giai cấp khác là thấp kém: Các Bà-la-môn đã nói rằng: Ba giai cấp còn lại là thấp kém. Trắng: Giai cấp trắng. Đen: Giai cấp đen. Thuần chủng: Các Bà-la-môn thuần chủng ở địa vị được biết đến về chủng tộc và dòng dõi v.v. Những người con trai chính thống của Phạm Thiên: Các Bà-la-môn là những người con trai của Phạm Thiên. Được sanh ra từ miệng: Ở trong ngực, sinh ra từ miệng (của vị Đại Phạm Thiên). Một cách giải thích khác, được gọi là con vì được Đại Phạm Thiên đặt trong ngực rồi nuôi lớn. Được sanh ra từ Phạm Thiên: Được sanh ra từ Đại Phạm Thiên. Được tạo ra từ Phạm Thiên: Được Đại Phạm Thiện hóa hiện ra. Là những người thừa tự của Đại Phạm Thiên: Là những người thừa tự của Phạm Thiên. Gia nhập giai cấp thấp kém: Các ngươi đã trở thành những người gia nhập giai cấp thấp kém. Các Sa-môn trọc đầu: Các Bà-la-môn phỉ báng, chán ghét nên đã nói thế, không đề cập đến bản thể trọc đầu và và bản thể Sa-môn. Các hạng tôi đòi: những người gia chủ. Đen đủi: giai cấp đen. Là bà con của Ma Vương: Là bà con của Ma Vương, tức là phe cánh của Ma Vương. Được sanh ra từ gót chân (của Phạm Thiên): là những người (được sanh ra) ở dưới gót chân của Đại Phạm Thiên. Giải thích rằng: được sinh ra từ bàn chân.
114. ‘‘Taggha vo, vāseṭṭha, brāhmaṇā porāṇaṃ assarantā evamāhaṃsū’’ti ettha voti nipātamattaṃ, sāmivacanaṃ vā, tumhākaṃ brāhmaṇāti attho. Porāṇanti porāṇakaṃ aggaññaṃ lokuppatticariyavaṃsaṃ. Assarantāti assaramānā. Idaṃ vuttaṃ hoti, ekaṃsena vo, vāseṭṭha, brāhmaṇā porāṇaṃ lokuppattiṃ ananussarantā ajānantā evaṃ vadantīti. ‘‘Dissanti kho panā’’ti evamādi tesaṃ laddhibhindanatthāya vuttaṃ. Tattha brāhmaṇiyoti brāhmaṇānaṃ puttappaṭilābhatthāya āvāhavivāhavasena kulaṃ ānītā brāhmaṇiyo dissanti. Tā kho panetā aparena samayena utuniyopi honti, sañjātapupphāti attho.
114. Ở đây, tử ‘Vo’ trong câu “Taggha vo, vāseṭṭha, brāhmaṇā porāṇaṃ assarantā evamāhaṃsu (Quả thật, này các Vāseṭṭha, các Bà-la-môn trong khi không nhớ về quá khứ nên đã nói với các ngươi như vầy….)” chỉ là một phân từ, hoặc là Sở hữu cách, có nghĩa là “Các Bà-la-môn trong khi không nhớ về quá khứ nên đã nói như vậy.” Chuyện quá khứ: Lịch sử về sự sanh khởi và hình thành của thế giới, về khởi nguyên của thế giới, là cổ xưa. Không nhớ: Không biết được. Điều này đã được đức Thế Tôn nói rằng: “Này các Vāseṭṭha, các Bà-la-môn không nhớ, không biết về sự hình thành của thế giới ở quá khứ nên họ mới nói như vậy.” Hơn nữa, này các Vāseṭṭha…được thấy, v.v, đức Thế Tôn thuyết giảng vì lợi ích của việc phá vỡ quan điểm của các Bà-la-môn đó. Trong số những từ đó, ‘các nữ Bà-la-môn’: các nữ Bà-la-môn mà các Bà-la-môn đã đưa về gia đình bằng việc tổ chức lễ cưới hỏi và lễ thành hôn để có được con cái cũng hiện hữu. Và rồi một thời gian sau, chính những nữ Bà-la-môn đó cũng trở thành những người phụ nữ có kinh nguyệt. Giải thích rằng: có kỳ kinh nguyệt cũng xảy ra.
Gabbhiniyoti sañjātagabbhā. Vijāyamānāti puttadhītaro janayamānā. Pāyamānāti dārake thaññaṃ pāyantiyo. Yonijāva samānāti brāhmaṇīnaṃ passāvamaggena jātā samānā. Evamāhaṃsūti evaṃ vadanti. Kathaṃ? ‘‘Brāhmaṇova seṭṭho vaṇṇo…pe… brahmadāyādā’’ti. Yadi pana nesaṃ taṃ saccavacanaṃ siyā, brāhmaṇīnaṃ kucchi mahābrahmassa uro bhaveyya, brāhmaṇīnaṃ passāvamaggo mahābrahmuno mukhaṃ bhaveyya, na kho panetaṃ evaṃ daṭṭhabbaṃ. Tenāha ‘‘te ca brahmūnañceva abbhācikkhantī’’tiādi.
Mang thai: Có thai. Sanh con: Sanh con trai và con gái. Cho con bú: cho những đứa bé sơ sinh bú sữa. Trong khi sanh con từ tử cung của các nữ Bà-la-môn: Thường được sanh ra từ tử cung của các nữ Bà-la-môn. Mà đã nói như vậy: đã nói như vậy. – Như thế nào? – “Chỉ có giai cấp Bà-la-môn là giai cấp cao thượng, …nt… là những người thừa tựa của Phạm Thiên”. Vậy nếu như lời nói của các Bà-la-môn đó là thật, thì bụng của các nữ Bà-la-môn phải là ngực của Đại Phạm Thiên, và tử cung của các nữ Bà-la-môn phải là miệng của Đại Phạm Thiên chứ. – Vả lại, điều đó không nên được hiểu như vậy. – Vì thế, Đức Thế Tôn đã nói rằng: “Và họ chẳng những vu khống giai cấp Bà-la-môn, mà còn nói dối, và còn tạo ra nhiều điều vô phước.”
Giảng về sự trong sạch của bốn giai cấp
Ettāvatā ‘‘mayaṃ mahābrahmuno ure vasitvā mukhato nikkhantāti vattuṃ mā labhantū’’ti imaṃ mukhacchedakavādaṃ vatvā puna cattāropi vaṇṇā kusale dhamme samādāya vattantāva sujjhantīti dassanatthaṃ cattārome, vāseṭṭha, vaṇṇātiādimāha. Akusalasaṅkhātāti akusalāti saṅkhātā akusalakoṭṭhāsabhūtā vā. Esa nayo sabbattha. Na alamariyāti ariyabhāve asamatthā. Kaṇhāti pakatikāḷakā. Kaṇhavipākāti vipākopi nesaṃ kaṇho dukkhoti attho. Khattiyepi teti khattiyamhipi te. Ekacceti ekasmiṃ. Esa nayo sabbattha.
Đức Thế Tôn đã nói lời nói phản bác lời nói sai sự thật này với suy nghĩ rằng: “Mong các Bà-la-môn chớ đạt được lời nói rằng chúng ta ở trong ngực, được sanh ra từ miệng của Đại Phạm Thiên như vậy,” chỉ với chừng ấy lời, để Ngài chỉ rõ rằng: Luôn cả bốn giai cấp, nếu thọ trì thực hành các thiện pháp, thì cũng có thể thanh tịnh được như nhau, nên mới nói rằng: “Này các Vāseṭṭha, có bốn giai cấp này…” Được xem là bất thiện: được xem là bất thiện, hoặc tính chất thuộc phần bất thiện. Cách thức này áp dụng cho các đoạn kế tiếp. Là không xứng với bậc Thánh: không có khả năng đạt được bản thể bậc Thánh. Là pháp đen: có tính chất đen. Có quả thành tựu đen: quả thành tựu của các pháp ấy là đen. Giải thích rằng: (đưa đến) khổ đau. Các pháp ấy…các Sát-đế-lỵ: các pháp ấy tồn tại ở (một số) các Sát-đế-lỵ. Ở một số vị: ở một vài vị. Cách thức này áp dụng cho các đoạn kế tiếp.
Sukkāti nikkilesabhāvena paṇḍarā. Sukkavipākāti vipākopi nesaṃ sukko sukhoti attho.
Là pháp trắng: Trắng do tính chất hết sạch phiền não. Có quả thành tựu trắng: ngay cả quả thành tựu của những pháp đó cũng là trắng. Giải thích rằng: mang lại kết quả an lạc.
116. Ubhayavokiṇṇesu vattamānesūti ubhayesu vokiṇṇesu missībhūtesu hutvā vattamānesu. Katamesu ubhayesūti? Kaṇhasukkesu dhammesu viññugarahitesu ceva viññuppasatthesu ca. Yadettha brāhmaṇā evamāhaṃsūti ettha etesu kaṇhasukkadhammesu vattamānāpi brāhmaṇā yadetaṃ evaṃ vadanti ‘‘brāhmaṇova seṭṭho vaṇṇo’’tiādi. Taṃ nesaṃ viññū nānujānantīti ye loke paṇḍitā, te nānumodanti, na pasaṃsantīti attho. Taṃ kissa hetu? Imesañhi vāseṭṭhātiādimhi ayaṃ saṅkhepattho. Yaṃ vuttaṃ nānujānantīti, taṃ kasmāti ce? Yasmā imesaṃ catunnaṃ vaṇṇānaṃ yo bhikkhu arahaṃ…pe… sammadaññā vimutto, so tesaṃ aggamakkhāyati, te ca na evarūpā. Tasmā nesaṃ viññū nānujānanti.
116. Cả hai pháp hắc và bạch…đều ở trạng thái bị lẫn lộn: Trong trạng thái lẫn lộn, trộn lộn, đang diễn ra trong hai pháp. – Trong hai pháp nào? – Trong các pháp đen và trắng bị chỉ trích bởi những người hiểu biết và được khen ngợi bởi những người hiểu biết. Mà ở đây các Bà-la-môn đã nói như vậy: Các Bà-la-môn, dù thực hành cả các pháp đen và trắng đó, vẫn nói như thế này: “Chỉ có Bà-la-môn là giai cấp cao thượng v.v.” Những người hiểu biết không đồng tình với lời tuyên bố ấy của họ: Những người nào là bậc trí ở thế gian, những người ấy không tùy hỷ, có nghĩa là không khen ngợi. Điều ấy có nguyên nhân là gì? Này các Vāseṭṭha, bởi vì người nào trong số bốn giai cấp này…: Điều này có s nghĩa tóm tắt. Nếu như có câu hỏi, tại sao Ngài nói rằng: “không đồng tình”? – Nên trả lời rằng: Bởi vì trong số bốn giai cấp này, giai cấp nào là vị Tỳ khưu, bậc A-ra-hán, (có các lậu hoặc đã được cạn kiệt, đã được hoàn mãn, có việc cần làm đã làm, có gánh nặng đã được đặt xuống, có mục đích của mình đã được đạt đến, có sự trói buộc ở hữu đã được hoàn toàn cạn kiệt), đã hiểu biết đúng đắn và đã được giải thoát, thì vị ấy được gọi là tối cao trong các giai cấp, còn các Bà-la-môn không có hình thức như vậy. Vì vậy, những người hiểu biết không đồng tình với lời tuyên bố ấy của các Bà-la-môn ấy.
Arahantiādipadesu cettha kilesānaṃ ārakattādīhi kāraṇehi arahaṃ. Āsavānaṃ khīṇattā khīṇāsavo. Satta sekkhā puthujjanakalyāṇakā ca brahmacariyavāsaṃ vasanti nāma. Ayaṃ pana vutthavāsoti vusitavā. Catūhi maggehi catūsu saccesu parijānanādikaraṇīyaṃ kataṃ assāti katakaraṇīyo. Kilesabhāro ca khandhabhāro ca ohito assāti ohitabhāro. Ohitoti ohārito. Sundaro attho, sako vā attho sadattho, anuppatto sadattho etenāti anuppattasadattho. Bhavasaṃyojanaṃ vuccati taṇhā, sā parikkhīṇā assāti parikkhīṇabhavasaṃyojano. Sammadaññā vimuttoti sammā hetunā kāraṇena jānitvā vimutto. Janetasminti jane etasmiṃ, imasmiṃ loketi attho. Diṭṭhe ceva dhamme abhisamparāyañcāti idhattabhāve ca parattabhāve.
Trong câu mở đầu rằng ‘bậc A-ra-hán’, và ở đây, bậc A-ra-hán với lý do có trạng thái xa lìa các phiền não. có các lậu hoặc đã được cạn kiệt: bởi trạng thái cạn kiệt của các lậu hoặc. Bảy bậc Thánh Hữu Học, tính luôn phàm nhân tốt lành được gọi là những vị sống Phạm hạnh. Hơn nữa, vị Tỳ khưu này đã sống trọn vẹn đời sống Phạm hạnh, vì vậy (vị ấy) được gọi là đã được hoàn mãn. Phận sự cần làm là sự biết rõ toàn diện về bốn Chân Lý bằng bốn Đạo, điều mà vị Tỳ khưu đã thực hiện, vì vậy vị ấy được gọi là có việc cần làm đã làm. Gánh nặng phiền não và gánh nặng các uẩn đã được vị Tỳ khưu ấy đặt xuống, vì vậy vị ấy được gọi là có gánh nặng đã được đặt xuống. Đã được đặt xuống: đã được trút bỏ. Có mục đích tốt đẹp, hay có mục đích thuộc về bản thân gọi là mục đích tốt đẹp, có mục đích của bản thân đã đạt được, vì vậy được gọi là có mục đích của bản thân đã được đạt đến. Tham ái được gọi là sự trói buộc chúng sinh trong các hữu, tham ái đó đã được hoàn toàn cạn kiệt, vì vậy được gọi là có sự trói buộc ở hữu đã được hoàn toàn cạn kiệt. Đã hiểu biết đúng đắn và đã được giải thoát: đã được giải thoát bởi hiểu biết đúng đắn bằng lý lẽ, bằng nguyên nhân. Janetasmiṃ tách từ thành jane etasmiṃ, có nghĩa là ở thế gian này. Ngay trong đời hiện tại và ở đời sống kế tiếp: ở trong bản thể này (đời này) và ở bản thể kế tiếp (đời sau).
117. Anantarāti antaravirahitā, attano kulena sadisāti attho. Anuyuttāti vasavattino. Nipaccakāranti mahallakatarā nipaccakāraṃ dassenti. Daharatarā abhivādanādīni karonti. Tattha sāmīcikammanti taṃtaṃvattakaraṇādi anucchavikakammaṃ.
117. (Chư hầu) thân cận: không có khoảng cách, tức là giống như gia tộc của mình. Chư hầu: vận hành theo sức mạnh. Sự cung kính: những người lớn tuổi hơn trong dòng họ Sakya thể hiện sự cung kính, những người trẻ tuổi hơn thực hiện việc đảnh lễ, v.v. Hành động đúng đắn: những hành động thích hợp như thực hiện các nghi thức đối với đức vua Pasenadi v.v.
118. Niviṭṭhāti abhiniviṭṭhā acalaṭṭhitā. Kassa pana evarūpā saddhā hotīti? Sotāpannassa. So hi niviṭṭhasaddho asinā sīse chejjamānepi buddho abuddhoti vā, dhammo adhammoti vā, saṅgho asaṅghoti vā na vadati. Patiṭṭhitasaddho hoti sūrambaṭṭho viya.
118. Đã được xác lập: đã được thiết lập, đã vững trú không lay chuyển. Hơn nữa, đức tin có hình thức như vậy có nơi ai? – Có nơi vị Thánh Nhập Lưu. Bởi vì bậc Thánh Nhập Lưu có đức tin đã được xác lập, dù bị người ta dùng kiếm chặt đầu, thì vị ấy cũng không bao giờ nói rằng ‘Đức Phật không phải là Phật, Pháp không phải là Pháp, Tăng không phải là Tăng’. Bậc Thánh Nhập Lưu có đức tin đã được thiết lập, ví như cư sĩ Sūra Ambaṭṭha.
So kira satthu dhammadesanaṃ sutvā sotāpanno hutvā gehaṃ agamāsi. Atha māro dvattiṃsavaralakkhaṇappaṭimaṇḍitaṃ buddharūpaṃ māpetvā tassa gharadvāre ṭhatvā ‘‘satthā āgato’’ti sāsanaṃ pahiṇi. Sūrambaṭṭho cintesi ‘‘ahaṃ idāneva satthu santike dhammaṃ sutvā āgato, kiṃ nu kho bhavissatī’’ti upasaṅkamitvā satthusaññāya vanditvā aṭṭhāsi. Māro āha – ‘‘ambaṭṭha, yaṃ te mayā ‘rūpaṃ aniccaṃ…pe… viññāṇaṃ aniccanti kathitaṃ, taṃ dukkathitaṃ. Anupadhāretvāva hi mayā evaṃ vuttaṃ. Tasmā tvaṃ ‘rūpaṃ niccaṃ…pe… viññāṇaṃ nicca’nti gaṇhāhī’’ti. So cintesi – ‘‘aṭṭhānametaṃ yaṃ buddhā anupadhāretvā apaccakkhaṃ katvā kiñci katheyyuṃ, addhā ayaṃ mayhaṃ vicchindajananatthaṃ māro āgato’’ti. Tato naṃ ‘‘tvaṃ mārosī’’ti āha. So musāvādaṃ kātuṃ nāsakkhi. ‘‘Āma mārosmī’’ti paṭijānāti. ‘‘Kasmā āgatosī’’ti? Tava saddhācālanatthanti āha. ‘‘Kaṇha pāpima, tvaṃ tāva eko tiṭṭha, tādisānaṃ mārānaṃ satampi sahassampi satasahassampi mama saddhaṃ cāletuṃ asamatthaṃ, maggena āgatasaddhā nāma thirā silāpathaviyaṃ patiṭṭhitasineru viya acalā hoti, kiṃ tvaṃ etthā’’ti accharaṃ pahari. So ṭhātuṃ asakkonto tattheva antaradhāyi. Evarūpaṃ saddhaṃ sandhāyetaṃ vuttaṃ ‘‘niviṭṭhā’’ti.
Kể rằng, vị cư sĩ đó sau khi nghe Đức Phật thuyết pháp đã chứng quả Nhập Lưu rồi trở về nhà. Lúc đó, Ma Vương đã hóa hiện ra một dáng vóc của đức Phật trang nghiêm với ba mươi hai tướng tốt, đứng ở cửa nhà của vị cư sĩ ấy, rồi sai người báo rằng: “Bậc Đạo Sư đã đến.” Cư sĩ Sūra nghĩ: “Ta vừa mới nghe pháp ở trú xứ của bậc Đạo Sư, có điều gì sẽ xảy ra chăng?” sau khi đi đến vị ấy đã đảnh lễ với sự nhận thức đó là bậc Đạo Sư rồi đứng sang một bên. Ma vương nói rằng: “Này Ambaṭṭha, những lời nào mà ta đã nói với ông rằng sắc là vô thường… thức là vô thường, những lời đó ta đã nói sai. Do ta đã không suy xét nên mới nói như vậy.” Vậy ông hãy chấp nhận rằng: “Sắc là thường… thức là thường.” Cư sĩ Sūra nghĩ: “Việc chư Phật không suy xét, không kiểm chứng rõ ràng mà nói bất cứ điều gì đó là không hợp lý và không có cơ sở. Chắc chắn Ma Vương này đến để phá hoại ta.” Lúc đó, cư sĩ Sūra hỏi Ma Vương: “Ông là Ma vương phải không?” – Ma vương không thể nói dối nên đáp: “Đúng vậy, ta là Ma vương.” – Vị cư sĩ hỏi: “Vì sao ông lại đến?” – Ma vương đáp: “Ta đến để làm cho đức tin của ông lay động.” – Vị cư sĩ nói: “Này Ma Vương đen tối, xấu xa, một mình ngươi hãy dừng lại đi. Dù có hàng trăm, có hàng ngàn, có hàng vạn Ma Vương như ngươi cũng không thể làm cho đức tin của ta bị lay động. Đức tin đã được thành tựu bằng Đạo là vững chắc, không thể lay chuyển tựa như đỉnh núi Tu-di đứng sừng sững trên bề mặt tảng đá. Ông đến đây để làm gì?” rồi vỗ tay. – Ma Vương đó, khi không thể trụ lại được nữa, liền biến mất ngay tại chỗ đó. “Đã được xác lập” ấy đức Thế Tôn nói đề cập đến đức tin có hình thức như vậy.
Mūlajātāpatiṭṭhitāti maggamūlassa sañjātattā tena maggamūlena patiṭṭhitā. Daḷhāti thirā. Asaṃhāriyāti sunikhātaindakhīlo viya kenaci cāletuṃ asakkuṇeyyā. Tassetaṃ kallaṃ vacanāyāti tassa ariyasāvakassa yuttametaṃ vattuṃ. Kinti? ‘‘Bhagavatomhi putto oraso’’ti evamādi.
Đã được mọc rễ, đã được thiết lập: đã được thiết lập bởi Đạo là gốc rễ, vì thế, gốc rễ là Đạo đã đồng sanh. Là vững chắc: là chắc chắn. Không bị lay chuyển: không ai có thể làm lay chuyển được tựa như cột trụ đã được chôn sâu. Điều này là thích hợp cho lời nói của người ấy: Điều này là thích hợp cho lời lời nói của các vị Thánh đệ tử. Ngài đã nói như thế nào? – Ngài đã nói như vầy: “Chúng con là những người con trai được sanh ra từ ngực của đức Thế Tôn.”
So hi bhagavantaṃ nissāya ariyabhūmiyaṃ jātoti bhagavato putto. Ure vasitvā mukhato nikkhantadhammaghosavasena maggaphalesu patiṭṭhitattā oraso mukhato jāto. Ariyadhammato jātattā ariyadhammena ca nimmitattā dhammajo dhammanimmito. Navalokuttaradhammadāyajjaṃ arahatīti dhammadāyādo. Taṃ kissa hetūti yadetaṃ ‘‘bhagavatomhi putto’’ti vatvā ‘‘dhammajo dhammanimmito’’ti vuttaṃ, taṃ kasmāti ce? Idānissa atthaṃ dassento tathāgatassa hetantiādimāha. Tattha ‘‘dhammakāyo itipī’’ti kasmā tathāgato ‘‘dhammakāyo’’ti vutto? Tathāgato hi tepiṭakaṃ buddhavacanaṃ hadayena cintetvā vācāya abhinīhari. Tenassa kāyo dhammamayattā dhammova. Iti dhammo kāyo assāti dhammakāyo. Dhammakāyattā eva brahmakāyo. Dhammo hi seṭṭhatthena brahmāti vuccati. Dhammabhūtoti dhammasabhāvo. Dhammabhūtattā eva brahmabhūto.
Bởi vì, vị Thánh đệ tử đó nương nhờ đức Thế Tôn mới được sanh ra trong địa phận của các bậc Thánh nhân, vì vậy được gọi là người con trai chính thống của đức Thế Tôn. Người con trai sinh ra từ miệng vì ở trong ngực trạng thái đã được thiết lập trong Đạo và Quả do tác động Pháp âm được phát ra từ miệng. Được sanh ra từ Pháp vì được sanh ra từ Thánh Pháp. Được tạo ra từ Pháp vì được tạo ra từ Thánh Pháp. Là người thừa tự Pháp vì xứng đáng thừa hưởng gia tài là chín Pháp Siêu Thế. Điều ấy có nguyên nhân là gì?: Nếu có câu hỏi rằng đức Thế Tôn đã nói “Là người con trai chính thống của đức Thế Tôn” rồi lại nói thêm “được sanh ra từ Pháp, được tạo ra từ Pháp”, vậy tại sao Ngài nói điều đó? Bây giờ, khi muốn trình bày ý nghĩa của lời đó nên ngài đã nói rằng: “Bởi vì đây là từ biểu trưng của đức Như Lai,” v.v. Trong đoạn kinh đó, “vị có Pháp thân”: Vì sao đức Như Lai lại được gọi là “Vị có Pháp thân”? Vì đức Như Lai sau khi suy nghĩ Phật ngôn là Tam Tạng kinh điển bằng tâm rồi đem ra để tuyên thuyết bằng lời. Vì lý do đó, thân của Đức Thế Tôn được cấu thành bởi Pháp nên chính Ngài là Pháp. Pháp là thân của đức Thế Tôn như đã giải thích, vì vậy Ngài được gọi là ‘vị có Pháp thân’. Vị có thân cao thượng (Phạm thân): chính vì có Pháp là thân. Bởi vì, Pháp được gọi là Phạm bởi ý nghĩa cao thượng. Vị có Pháp là bản thể (Pháp thể): Thực tính pháp. Vị có bản thể cao thượng (Phạm thể): Do là vị được sanh ra từ Pháp.
119. Ettāvatā bhagavā seṭṭhacchedakavādaṃ dassetvā idāni aparenapi nayena seṭṭhacchedakavādameva dassetuṃ hoti kho so, vāseṭṭha, samayotiādimāha. Tattha saṃvaṭṭavivaṭṭakathā brahmajāle vitthāritāva. Itthattaṃ āgacchantīti itthabhāvaṃ manussattaṃ āgacchanti. Tedha honti manomayāti te idha manussaloke nibbattamānāpi opapātikā hutvā maneneva nibbattāti manomayā. Brahmaloke viya idhāpi nesaṃ pītiyeva āhārakiccaṃ sādhetīti pītibhakkhā. Eteneva nayena sayaṃpabhādīnipi veditabbānīti.
119. Đức Thế Tôn sau khi thuyết giảng về học thuyết phá vỡ sự cao thượng bằng những lời dạy ngắn gọn như vậy, bây giờ, khi muốn trình bày về học thuyết phá vỡ sự cao thượng theo một cách khác nữa, nên Ngài mới nói rằng: “Này các Vāseṭṭha, có một thời kỳ nọ, v.v.” Trong vấn đề đó, vấn đề về thế giới bị hoại diệt và thế giới đang hình thành đã được giảng giải chi tiết trong bài Kinh Phạm Võng. Đi đến bản thể này: Đi đến bản thể như vậy, tức là đi đến bản thể nhân loại. Ở đây, chúng là được hình thành bởi ý: Ở đây, các chúng sanh đó tái sanh vào cõi nhân loại đều thuộc loại hóa sanh, chúng được sanh lên do ý, vì vậy được gọi là ‘được hình thành bởi ý’. Chỉ có hỷ lạc hoàn thành phận sự nuôi dưỡng các chúng sanh đó ngay cả ở cõi nhân loại này, tương tự như ở cõi Phạm Thiên, vì vậy những chúng sanh đó được gọi là ‘được nuôi dưỡng bằng hỷ’. Thậm chí các nguyên nhân ‘tự thân có ánh sáng’ v.v. cũng nên biết theo chính phương cách này.
Giải thích về sự xuất hiện của vị đất
120. Ekodakībhūtanti sabbaṃ cakkavāḷaṃ ekodakameva bhūtaṃ. Andhakāroti tamo. Andhakāratimisāti cakkhuviññāṇuppattinivāraṇena andhabhāvakaraṇaṃ bahalatamaṃ. Samatanīti patiṭṭhahi samantato patthari. Payasotattassāti tattassa khīrassa. Vaṇṇasampannāti vaṇṇena sampannā. Kaṇikārapupphasadiso hissā vaṇṇo ahosi. Gandhasampannāti gandhena sampannā dibbagandhaṃ vāyati. Rasasampannāti rasena sampannā pakkhittadibbojā viya hoti. Khuddamadhunti khuddakamakkhikāhi katamadhuṃ. Aneḷakanti niddosaṃ makkhikaṇḍakavirahitaṃ. Lolajātikoti lolasabhāvo. Atītānantarepi kappe loloyeva. Ambhoti acchariyajāto āha. Kimevidaṃ bhavissatīti vaṇṇopissā manāpo gandhopi, raso panassā kīdiso bhavissatīti attho. Yo tattha uppannalobho, so rasapathaviṃ aṅguliyā sāyi, aṅguliyā gahetvā jivhagge ṭhapesi.
120. Đều là nước: Toàn bộ thế giới đều là nước tương tự. Tối mù: cảnh tăm tối. Tối tăm mù mịt: Tạo ra bóng tối, tức là có sự tối tăm do ngăn chặn sự sanh khởi của nhãn thức. Được hình thành và lan rộng khắp: được hình thành và lan rộng khắp. Sữa được đun nóng cho sánh lại: sữa được đun sôi đặc sánh lại. Đã có được màu sắc: Có được màu sắc, màu sắc của đất khi đó giống như hoa Kaṇikāra. Có được hương hoa: có đầy đủ hương thơm, tức là tỏa ra hương thơm của cõi Trời. Có được vị ngon: có đầy đủ vị ngon, giống như được thêm vào dưỡng tố của cõi Trời. Có vị thơm ngon giống như mật ong ruồi nguyên chất: mật ong do những con ong ruồi làm ra. Không có tạp chất: đã loại bỏ tạp chất, tức là không có trứng những con ruồi. Có bản tính tham lam: có tham lam là bản chất. Ngay cả trong kiếp sống quá khứ cũng đã có sự tham lam như vậy. Đã khởi lên sự kinh ngạc nên đã thốt lên “Ôi! (cái này sẽ là gì nhỉ?)”. Cái này sẽ là gì nhỉ?: màu sắc, hay hương thơm của đất béo ấy được ưa thích, tuy nhiên vị của đất béo ấy sẽ như thế nào nhỉ? Người nào khởi lên lòng tham đối với đất béo đó, người ấy liền dùng ngón tay lấy đất béo đó nếm thử, sau khi dùng tay lấy rồi thì đưa lên lưỡi (nếm).
Acchādesīti jivhagge ṭhapitamattā satta rasaharaṇīsahassāni pharitvā manāpā hutvā tiṭṭhati. Taṇhā cassa okkamīti tattha cassa taṇhā uppajji.
Đã tràn ngập (khắp thân thể): Đất béo đó vừa được đặt lên đầu lưỡi liền tràn ngập (khắp thân thể). Bảy ngàn dây thần kinh vị giác là điều đáng ưa thích đã được thiết lập. Tham ái đã xâm nhập những người này: Và tham ái trong vị của đất béo ấy cũng đã sanh khởi đối với những chúng sanh có tham ái đó.
Giải thích sự xuất hiện của mặt trăng và mặt trời, v.v…
121. Āluppakārakaṃ upakkamiṃsu paribhuñjitunti ālopaṃ katvā piṇḍe piṇḍe chinditvā paribhuñjituṃ ārabhiṃsu. Candimasūriyāti candimā ca sūriyo ca. Pāturahesunti pātubhaviṃsu.
121. Những chúng sanh ấy đã ra sức (dùng hai bàn tay) vắt (đất béo) thành nắm để thọ dụng: họ vo thành nắm, làm thành từng vắt, từng vắt rồi bắt đầu thọ dụng. Mặt trăng và mặt trời: Mặt trăng và mặt trời. Đã hiện ra: đã xuất hiện.
Ko pana tesaṃ paṭhamaṃ pātubhavi, ko kasmiṃ vasati, kassa kiṃ pamāṇaṃ, ko upari, ko sīghaṃ gacchati, kati nesaṃ vīthiyo, kathaṃ caranti, kittake ṭhāne ālokaṃ karontīti? Ubho ekato pātubhavanti. Sūriyo paṭhamataraṃ paññāyati. Tesañhi sattānaṃ sayaṃpabhāya antarahitāya andhakāro ahosi. Te bhītatasitā ‘‘bhaddakaṃ vatassa sace āloko pātubhaveyyā’’ti cintayiṃsu. Tato mahājanassa sūrabhāvaṃ janayamānaṃ sūriyamaṇḍalaṃ uṭṭhahi. Tenevassa sūriyoti nāmaṃ ahosi. Tasmiṃ divasaṃ ālokaṃ katvā atthaṅgate puna andhakāro ahosi. Te ‘‘bhaddakaṃ vatassa sace añño āloko uppajjeyyā’’ti cintayiṃsu. Atha nesaṃ chandaṃ ñatvāva candamaṇḍalaṃ uṭṭhahi. Tenevassa candoti nāmaṃ ahosi.
Hơn nữa, giữa mặt trăng và mặt trời đó, thì cái nào xuất hiện trước? Cái đó ở đâu? Kích thước của cái đó là bao nhiêu? Cái nào cao hơn? Cái nào quay nhanh hơn? Quỹ đạo của mặt trăng và mặt trời ấy là như thế nào? Chúng di chuyển ra sao? Chúng chiếu sáng trong phạm vi bao nhiêu? Mặt trăng và mặt trời không xuất hiện cùng một lúc. Mặt trời xuất hiện trước. Bởi vì, khi ánh sáng tự thân của những chúng sanh đó biến mất, bóng tối đã xuất hiện. Những chúng sanh đó vừa sợ hãi vừa kinh hãi, nghĩ rằng: “Thật tốt biết bao nếu ánh sáng xuất hiện trở lại!” Từ đó, vầng mặt trời đã mọc lên tạo ra sự can đảm cho dân chúng. Vì thế, vầng mặt trời đó đã được gọi là Suriyo. Khi mặt trời chiếu sáng suốt cả ngày rồi lặn xuống, bóng tối đã xuất hiện trở lại. Những chúng sanh đó cùng nhau nghĩ rằng: “Thật tốt biết bao nếu có một ánh sáng khác xuất hiện!” Lúc đó, vầng mặt trăng biết được sự mong muốn của những chúng sanh đó nên đã xuất hiện. Chính vì nguyên nhân đó, vầng mặt trăng được gọi là Cando.
Tesu cando antomaṇivimāne vasati. Taṃ bahi rajatena parikkhittaṃ . Ubhayampi sītalameva ahosi. Sūriyo antokanakavimāne vasati. Taṃ bāhiraṃ phalikaparikkhittaṃ hoti. Ubhayampi uṇhameva.
Trong số mặt trăng và mặt trời đó, mặt trăng ở trong cung điện, bên trong hoàn toàn bằng ngọc ma ni, cung điện bên ngoài hoàn toàn bằng bạc, cả trong lẫn ngoài đều lạnh lẽo. Mặt trời ở trong cung điện, bên trong hoàn toàn bằng vàng, cung điện bên ngoài hoàn toàn bằng pha lê. Cả trong lẫn ngoài đều nóng rực.
Pamāṇato cando ujukaṃ ekūnapaññāsayojano. Parimaṇḍalato tīhi yojanehi ūnadiyaḍḍhasatayojano. Sūriyo ujukaṃ paññāsayojano, parimaṇḍalato diyaḍḍhasatayojano.
Về kích thước, mặt trăng có đường kính bốn mươi chín do-tuần, chu vi hai trăm năm mươi do-tuần. Mặt trời có đường kính năm mươi do tuần, chu vi hai trăm năm mươi do-tuần.
Cando heṭṭhā, sūriyo upari, antarā nesaṃ yojanaṃ hoti. Candassa heṭṭhimantato sūriyassa uparimantato yojanasataṃ hoti.
Mặt trăng ở bên dưới, mặt trời ở bên trên. Mặt trăng và mặt trời cách nhau một do-tuần. Từ phần dưới của mặt trăng đến phần trên của mặt trời có khoảng cách một trăm do-tuần.
Cando ujukaṃ saṇikaṃ gacchati, tiriyaṃ sīghaṃ. Dvīsu passesu nakkhattatārakā gacchanti. Cando dhenu viya vacchaṃ taṃ taṃ nakkhattaṃ upasaṅkamati. Nakkhattāni pana attano ṭhānaṃ na vijahanti. Sūriyassa ujukaṃ gamanaṃ sīghaṃ, tiriyaṃ gamanaṃ dandhaṃ. So kāḷapakkhauposathato pāṭipadadivase yojanānaṃ satasahassaṃ candamaṇḍalaṃ ohāya gacchati. Atha cando lekhā viya paññāyati. Pakkhassa dutiyāya satasahassanti evaṃ yāva uposathadivasā satasahassaṃ satasahassaṃ ohāya gacchati. Atha cando anukkamena vaḍḍhitvā uposathadivase paripuṇṇo hoti. Puna pāṭipadadivase yojanānaṃ satasahassaṃ dhāvitvā gaṇhāti. Dutiyāya satasahassanti evaṃ yāva uposathadivasā satasahassaṃ satasahassaṃ dhāvitvā gaṇhāti. Atha cando anukkamena hāyitvā uposathadivase sabbaso na paññāyati. Candaṃ heṭṭhā katvā sūriyo upari hoti. Mahatiyā pātiyā khuddakabhājanaṃ viya candamaṇḍalaṃ pidhīyati. Majjhanhike gehacchāyā viya candassa chāyā na paññāyati. So chāyāya apaññāyamānāya dūre ṭhitānaṃ divā padīpo viya sayampi na paññāyati.
Mặt trăng chuyển động theo chiều dọc chậm, nhưng chuyển động theo chiều ngang nhanh. Các chòm sao thì chuyển động theo cả hai chiều. Mặt trăng chuyển động gần các chòm sao đó, giống như bò mẹ đến với bê con. Còn các chòm sao thì không rời khỏi vị trí của chúng. Sự chuyển động của mặt trời theo chiều dọc nhanh, theo chiều ngang chậm. Mặt trời này chuyển động cách mặt trăng một trăm ngàn do-tuần vào ngày trăng tròn Uposatha của thời tối trăng. Vào thời gian đó, mặt trăng xuất hiện như một vệt sáng. Mặt trời di chuyển xa thêm một trăm ngàn do-tuần vào thời tối trăng lần thứ hai. Mặt trời đã di chuyển cách xa như vậy một trăm ngàn do-tuần cho đến ngày Uposatha. Tiếp đó, mặt trăng lớn dần lên theo tuần tự, tròn đầy vào ngày Uposatha. Rồi lại di chuyển xa một trăm ngàn do-tuần vào ngày trăng tròn. Di chuyển xa thêm khoảng cách một trăm ngàn do-tuần vào thời tối trăng lần thứ hai. Mặt trời di chuyển xa như vậy hàng trăm ngàn do-tuần cho đến ngày Uposatha. Sau đó, mặt trăng mờ dần rồi cả vầng trăng hoàn toàn không hiện hữu vào ngày Uposatha. Mặt trời ở bên trên còn mặt trăng ở bên dưới, có thể che khuất mặt trăng giống như một chiếc mâm nhỏ bị một chiếc mâm lớn che lại. Bóng của mặt trăng không hiện ra giống như bóng của ngôi nhà không hiện ra vào giữa trưa. Mặt trời đó, khi bóng không hiện ra, thì chính nó cũng không hiện ra, giống như ngọn đèn không xuất hiện đối với đám đông đứng ở đằng xa vào ban ngày.
Kati nesaṃ vīthiyoti ettha pana ajavīthi, nāgavīthi, govīthīti tisso vīthiyo honti. Tattha ajānaṃ udakaṃ paṭikūlaṃ hoti, hatthināgānaṃ manāpaṃ. Gunnaṃ sītuṇhasamatāya phāsu hoti. Tasmā yaṃ kālaṃ candimasūriyā ajavīthiṃ āruhanti, tadā devo ekabindumpi na vassati. Yadā nāgavīthiṃ ārohanti, tadā bhinnaṃ viya nabhaṃ paggharati. Yadā govīthiṃ ārohanti, tadā utusamatā sampajjati. Candimasūriyā chamāse sineruto bahi nikkhamanti, chamāse anto vicaranti. Te hi āsāḷhamāse sinerusamīpena vicaranti. Tato pare dve māse nikkhamitvā bahi vicarantā paṭhamakattikamāse majjhena gacchanti. Tato cakkavāḷābhimukhā gantvā tayo māse cakkavāḷasamīpena caritvā puna nikkhamitvā citramāse majjhena gantvā tato dve māse sinerubhimukhā pakkhanditvā puna āsāḷhe sinerusamīpena caranti.
Hơn nữa, ở đây “Quỹ đạo của mặt trời và mặt trăng là như thế nào?” Tiếp theo, quỹ đạo có ba loại như sau: quỹ đạo dê (đường đi của dê), quỹ đạo voi (đường đi của voi), quỹ đạo bò (đường đi của bò). Trong các quỹ đạo đó, nước là thứ dơ bẩn đối với loài dê, nhưng nước lại là thứ ưa thích của loài voi, là nơi an lành cho đàn bò bởi vì có sự cân bằng giữa lạnh và nóng. Vì vậy, vào thời điểm nào mặt trăng và mặt trời đi vào quỹ đạo dê, vào thời điểm đó mưa không rơi xuống dù chỉ một giọt. Khi nào mặt trăng và mặt trời đi vào quỹ đạo voi, khi đó mưa sẽ rơi mạnh xuống trông như thể bầu trời bị thủng. Lúc nào mặt trăng và mặt trời đi vào quỹ đạo bò, lúc đó sự cân bằng của thời tiết sẽ đạt đến sự hoàn hảo (mưa thuận gió hòa). Mặt trăng và mặt trời chuyển động bên ngoài đỉnh núi Suneru trong sáu tháng và chuyển động bên trong sáu tháng. Bởi vì, mặt trăng và mặt trời chuyển động gần đỉnh núi Suneru vào tháng Āsāḷha. Sau đó, chúng chuyển động ra ngoài và chuyển động bên ngoài trong hai tháng, rồi chuyển động vào giữa vào đầu tháng mười hai. Tiếp đó, chúng chuyển động hướng về phía vũ trụ và chuyển động gần vũ trụ trong ba tháng, rồi lại chuyển động ra xa, ở giữa vũ trụ vào tháng năm. Từ đó, vào các tháng khác, chúng lại di chuyển hướng về phía đỉnh núi Suneru, rồi lại chuyển động gần đỉnh núi Suneru vào tháng tám.
Kittake ṭhāne ālokaṃ karontīti? Ekappahārena tīsu dīpesu ālokaṃ karonti. Kathaṃ? Imasmiñhi dīpe sūriyuggamanakālo pubbavidehe majjhanhiko hoti, uttarakurūsu atthaṅgamanakālo, aparagoyāne majjhimayāmo. Pubbavidehamhi uggamanakālo uttarakurūsu majjhanhiko, aparagoyāne atthaṅgamanakālo, idha majjhimayāmo. Uttarakurūsu uggamanakālo aparagoyāne majjhanhiko, idha atthaṅgamanakālo, pubbavidehe majjhimayāmo. Aparagoyānadīpe uggamanakālo idha majjhanhiko, pubbavidehe atthaṅgamanakālo, uttarakurūsu majjhimayāmoti.
Nên biết lý giải trong câu: “Mặt trời và mặt trăng chiếu sáng ở nơi này khoảng cách bao xa?” – Mặt trăng và mặt trời có thể chiếu sáng khắp ba châu lục cùng lúc. – Như thế nào? Vào lúc mặt trời mọc ở châu lục này (Jambudīpa) là thời gian giữa trưa ở châu Pubbavideha, thời gian mặt trời lặn ở châu Uttarakuru là canh giữa đêm ở châu Aparagoyāna. Vào lúc mặt trời mọc ở châu Pubbavideha là giữa trưa ở châu Uttarakuru. Lúc mặt trời lặn ở châu Aparagoyāna là canh giữa đêm ở châu lục này. Vào lúc mặt trời mọc ở châu Uttarakuru, là giữa trưa ở châu Aparagoyāna. Thời gian mặt trời lặn ở châu lục này là canh giữa đêm ở Pubbavideha. Vào lúc mặt trời mọc ở châu Aparagoyāna là giữa trưa ở châu lục này. Lúc mặt trời lặn ở châu Pubbavideha là canh giữa đêm ở châu Uttarakuru.
Nakkhattānitārakarūpānīti kattikādinakkhattāni ceva sesatārakarūpāni ca candimasūriyehi saddhiṃyeva pāturahesuṃ. Rattindivāti tato sūriyatthaṅgamanato yāva aruṇuggamanā ratti, aruṇuggamanato yāva sūriyatthaṅgamanā divāti evaṃ rattindivā paññāyiṃsu. Atha pañcadasa rattiyo aḍḍhamāso, dve aḍḍhamāsā māsoti evaṃ māsaḍḍhamāsā paññāyiṃsu. Atha cattāro māsā utu, tayo utū saṃvaccharoti evaṃ utusaṃvaccharā paññāyiṃsu.
Các tinh tú, các vì sao: Các vì sao như chòm sao Kattikā v.v., và các chòm sao khác xuất hiện cùng với mặt trăng và mặt trời. Ngày và đêm: Từ khi mặt trời lặn cho đến khi bình minh là ban đêm, từ lúc bình minh cho đến lúc mặt trời lặn được xem là ban ngày. Đêm và ngày xuất hiện như đã nói. Khi đó, mười lăm đêm được xem là nửa tháng, hai lần nửa tháng là một tháng. Nửa tháng và một tháng xuất hiện như đã nói. Lúc đó, bốn tháng được xem là một mùa, ba mùa là một năm. Cả mùa và năm đều xuất hiện như đã nói.
122. Vaṇṇavevaṇṇatā cāti vaṇṇassa vivaṇṇabhāvo. Tesaṃ vaṇṇātimānapaccayāti tesaṃ vaṇṇaṃ ārabbha uppannaatimānapaccayā. Mānātimānajātikānanti punappunaṃ uppajjamānātimānasabhāvānaṃ. Rasāya pathaviyāti sampannarasattā rasāti laddhanāmāya pathaviyā. Anutthuniṃsūti anubhāsiṃsu. Aho rasanti aho amhākaṃ madhurarasaṃ antarahitaṃ. Aggaññaṃ akkharanti lokuppattivaṃsakathaṃ. Anusarantīti anugacchanti.
122. Tình trạng phai nhạt về sắc đẹp: Tình trạng phai nhạt của màu da. Do duyên ngã mạn thái quá về sắc đẹp (của những người có bản tính ngã mạn và ngã mạn thái quá ấy): do duyên ngã mạn thái quá sanh khởi bởi liên quan đến sắc đẹp của những chúng sanh đó. Từ “mānātimānajātikānaṃ” (những người có tính kiêu mạn và đại mạn) có nghĩa là những người có sự kiêu mạn và đại mạn thường xuyên phát sinh là bản chất. Của những người có bản tính ngã mạn và ngã mạn thái quá thái quá ấy: Những người bản tính ngã mạn và ngã mạn thái quá sanh khởi thường xuyên. Vị đất: Quả địa cầu được gọi là có vị vì đầy đủ hương vị. Đã than vãn: đã than phiền. Ôi! vị nếm: Ôi! vị ngon của chúng ta đã biến mất. Từ ngữ nguyên thủy: Nói về sự hình thành của thế giới. Cùng nhau suy nghĩ: cùng nhau đi theo.
Giảng về sự xuất hiện của bọt đất
123. Evameva pāturahosīti ediso hutvā uṭṭhahi, antovāpiyaṃ udake chinne sukkhakalalapaṭalaṃ viya ca uṭṭhahi.
123. Bọt đất đã hiện ra tương tự y như vậy: đã hình thành như vậy, và đã hình thành giống như lớp bùn khô hiện ra khi nước trong ao cạn đi.
124. Padālatāti ekā madhurarasā bhaddālatā. Kalambukāti nāḷikā. Ahu vata noti madhurarasā vata no padālatā ahosi. Ahāyi vata noti sā no etarahi antarahitāti.
124. Dây leo: một loại dây leo phát triển có vị ngọt. Dây rau muống: bao gồm cây dừa. Quả thật nó đã có cho chúng ta!: Quả thật, dây leo có vị ngọt đã có cho chúng ta. Quả thật nó đã từ bỏ chúng ta!: Quả thật, vào lúc này dây leo ấy của chúng ta đã biến mất.
125. Akaṭṭhapākoti akaṭṭheyeva bhūmibhāge uppanno. Akaṇoti nikkuṇḍako.
125. Lúa không trồng và chín sẵn: đã mọc lên ở vùng đất không được cày bừa. Không có bột cám: Không trộn lẫn cám.
Athusoti nitthuso. Sugandhoti dibbagandhaṃ vāyati. Taṇḍulapphaloti suparisuddhaṃ paṇḍaraṃ taṇḍulameva phalati. Pakkaṃ paṭivirūḷhanti sāyaṃ gahitaṭṭhānaṃ pāto pakkaṃ hoti, puna virūḷhaṃ paṭipākatikameva gahitaṭṭhānaṃ na paññāyati. Nāpadānaṃ paññāyatīti alāyitaṃ hutvā anūnameva paññāyati.
Không vỏ trấu: không vỏ trấu. Có mùi thơm ngát: Có hương thơm cõi Trời lan tỏa khắp nơi. Có quả là hạt gạo: kết trái thành những hạt gạo trắng trong sạch. Phần ấy chính và mọc lên lại (vào buổi sáng hôm sau): chỗ nào họ thu hoạch vào buổi chiều thì sáng hôm sau lại chín thay thế, mọc lên tươi tốt như cũ, chỗ nào họ đã thu hoạch thì không còn thấy nữa. (Việc gặt hái) không còn được biết đến: Được nhận biết là một loại hạt giống không bị thu hoạch, không bị cạn kiệt.
Giảng giải về sự xuất hiện của giới tính
126. Itthiyā cāti yā pubbe manussakāle itthī, tassa itthiliṅgaṃ pātubhavati, pubbe purisassa purisaliṅgaṃ. Mātugāmo nāma hi purisattabhāvaṃ labhanto anupubbena purisattapaccaye dhamme pūretvā labhati. Puriso itthattabhāvaṃ labhanto kāmesumicchācāraṃ nissāya labhati. Tadā pana pakatiyā mātugāmassa itthiliṅgaṃ, purisassa purisaliṅgaṃ pāturahosi. Upanijjhāyatanti upanijjhāyantānaṃ olokentānaṃ. Pariḷāhoti rāgapariḷāho. Seṭṭhinti chārikaṃ. Nibbuyhamānāyāti niyyamānāya.
126. Và người nữ: Nữ căn của người nữ trong thời gian ở cõi người ở các kiếp trước cũng xuất hiện, nam căn của người năm trong kiếp trước cũng xuất hiện. Thật vậy, người nữ khi muốn trở thành nam thì cần phải nỗ lực thực hành các pháp (thiện) là điều kiện để trở thành bản thể người nam theo tuần tự sẽ thành tựu. Người nam khi muốn trở thành bản thể người nữ do y cứ vào lối sống tà hạnh đối với các dục (sẽ) thành tựu. Và khi đó, theo lẽ thường, nữ căn đã xuất hiện ở người nữ, nam căn đã xuất hiện ở người nam. Trong khi chúng chú ý nhiều đến nhau: của những người đang quan sát, đang nhìn. Sự nồng nhiệt: Sự nồng nhiệt do tác động của ái luyến. Tro: Tro. Trong khi đang được rước đi: trong khi (cô dâu) đang được đưa đi khỏi.
127. Adhammasammatanti taṃ paṃsukhipanādi adhammoti sammataṃ. Tadetarahi dhammasammatanti taṃ idāni dhammoti sammataṃ, dhammoti taṃ gahetvā vicaranti. Tathā hi ekaccesu jānapadesu kalahaṃ kurumānā itthiyo ‘‘tvaṃ kasmā kathesi? Yā gomayapiṇḍamattampi nālatthā’’ti vadanti. Pātabyatanti sevitabbataṃ. Sannidhikārakanti sannidhiṃ katvā. Apadānaṃ paññāyitthāti chinnaṭṭhānaṃ ūnameva hutvā paññāyittha. Saṇḍasaṇḍāti ekekasmiṃ ṭhāne kalāpabandhā viya gumbagumbā hutvā.
127. Được xem là phi pháp: việc rải tro, v.v. được xem là phi pháp. Việc ấy hiện nay được xem là hợp pháp: nhưng hiện tại việc rải tro, v.v. này được xem là hợp pháp. Các Bà-la-môn đã chấp nhận việc rải tro, v.v. là hợp pháp và đi khắp nơi. Thật vậy, ở một số xứ sở, những người phụ nữ cãi nhau thường nói rằng: “Vì sao cô lại nói thế? Cô sẽ không nhận được gì dù chỉ là một nắm phân bò tươi.” Đã lâm vào trạng thái say đắm: đã sa ngã. Thực hiện việc tích trữ (lúa gạo): Thực hiện việc tích trữ (lúa gạo). Sự gặt hái đã được biết đến: chỗ nào họ đã thu hoạch thì chỗ ấy đã được biết đến. (Các cây lúa) đã mọc thành từng cụm: thành từng nhóm giống như được sắp xếp thành từng khóm ở mỗi một nơi.
128. Mariyādaṃṭhapeyyāmāti sīmaṃ ṭhapeyyāma. Yatra hi nāmāti yo hi nāma. Pāṇinā pahariṃsūti tayo vāre vacanaṃ agaṇhantaṃ pāṇinā pahariṃsu. Tadagge khoti taṃ aggaṃ katvā.
128. Chúng ta nên phân chia lúa: Chúng ta nên phân chia lúa. Yatra hi nāma đồng nghĩa với ‘yo hi nāma’. Đã đánh đập bằng bàn tay: những chúng sanh đó đã dùng tay đánh những người không tin vào lời nói của mình đến ba lần. Từ đó về sau: Bởi vì xem điều đó là điều quan trọng.
Giải thích về vị vua được lựa chọn bởi số đông
130. Khīyitabbaṃ khīyeyyāti pakāsetabbaṃ pakāseyya khipitabbaṃ khipeyya, hāretabbaṃ hāreyyāti vuttaṃ hoti. Yo nesaṃ sattoti yo tesaṃ satto. Ko pana soti? Amhākaṃ bodhisatto. Sālīnaṃ bhāgaṃ anupadassāmāti mayaṃ ekekassa khettato ambaṇambaṇaṃ āharitvā tuyhaṃ sālibhāgaṃ dassāma, tayā kiñci kammaṃ na kātabbaṃ, tvaṃ amhākaṃ jeṭṭhakaṭṭhāne tiṭṭhāti.
130. Là người có thể phê phán kẻ đáng bị phê phán: Được giải thích rằng- Là người có thể tuyến bố kẻ đáng bị tuyên bố, tức là chỉ trích kẻ đáng bị chỉ trích, có thể trục xuất kẻ đáng bị trục xuất. Một chúng sanh trong số họ: Trong số chúng sanh ấy, chúng sanh nào? – Chúng sanh đó là ai? – Đức Bồ-tát của chúng ta. Họ đã trao cho người này một phần lúa: Ta sẽ lấy lúa từ ruộng của mỗi người một đấu rồi sẽ chia phần lúa cho ngài, ngài không cần làm việc gì cả, xin ngài hãy đứng vào vị trí người đứng đầu của chúng tôi.
131. Akkharaṃ upanibbattanti saṅkhā samaññā paññatti vohāro uppanno. Khattiyo khattiyotveva dutiyaṃ akkharanti na kevalaṃ akkharameva, te panassa khettasāmino tīhi saṅkhehi abhisekampi akaṃsu. Rañjetīti sukheti pineti. Aggaññenāti agganti ñātena, agge vā ñātena lokuppattisamaye uppannena abhinibbatti ahosīti.
130. Từ ngữ…được tạo ra: đã tạo ra sự ấn định, sự chỉ định, sự quy định, sự diễn tả. Sát-đế-lỵ, Sát-đế-lỵ chính là từ ngữ thứ hai được tạo ra: không chỉ riêng từ ngữ, mà họ còn làm lễ tấn phong người kia bằng cách tôn vinh đến ba lần rằng: “Xin ngài hãy trở thành chủ nhân của các ruộng lúa của chúng tôi”. Làm hài lòng: làm cho người khác có sự hạnh phúc, no đủ. Liên quan đến thời kỳ hình thành của thế giới: Sự sanh lên theo từ ngữ, đã xuất hiện vào thời kỳ thế giới hình thành, được biết đến là cao quý hoặc được biết đến ở phần cao quý.
Giải thích về quần thể Bà-la-môn
132. Vītaṅgārāvītadhūmāti pacitvā khāditabbābhāvato vigatadhūmaṅgārā. Pannamusalāti koṭṭetvā pacitabbābhāvato patitamusalā. Ghāsamesamānāti bhikkhācariyavasena yāgubhattaṃ pariyesantā. Tamenaṃ manussā disvāti te ete manussā passitvā. Anabhisambhuṇamānāti asahamānā asakkontā. Ganthe karontāti tayo vede abhisaṅkharontā ceva vācentā ca. Acchantīti vasanti, ‘‘acchentī’’tipi pāṭho. Esevattho. Hīnasammatanti ‘‘mante dhārenti mante vācentī’’ti kho, vāseṭṭha, idaṃ tena samayena hīnasammataṃ. Tadetarahi seṭṭhasammatanti taṃ idāni ‘‘ettake mante dhārenti ettake mante vācentī’’ti seṭṭhasammataṃ jātaṃ. Brāhmaṇamaṇḍalassāti brāhmaṇagaṇassa.
132. Lửa than được dập tắt, khói được dập tắt: không có than và khói lửa vì không có thức ăn để có thể nấu nướng rồi nhai nuốt. Chày được đặt xuống: không có việc giã gạo vì không có thức ăn để giã rồi nấu nướng. Trong khi tầm cầu vật thực: tìm kiếm cháo và cơm bằng cách đi khất thực. Dân chúng, sau khi nhìn thấy các vị này đây: Dân chúng sau khi nhìn thấy các vị ấy. Trong khi không kham nổi: không thể chịu đựng, tức là không thể kham nhẫn. Làm các sách: họ là những người biên soạn và dạy về ba bộ Vệ Đà. Sinh sống: thường trú. Có bản Pāḷī là “acchenti” có nghĩa cũng tương tự. Được xem là thấp thỏi: Này các Vāseṭṭha, vào lúc bấy giờ, “quần thể Bà-la-môn” ghi nhớ các chú thuật (và) dạy về chú thuật” được xem là thấp kém. Việc ấy hiện nay được xem là cao thượng: Hiện nay “các Bà-la-môn ghi nhớ chừng ấy, (và) dạy chú thuật chừng ấy” thì điều đó được xem là cao thượng. Quần thể Bà-la-môn: Tập thể Bà-la-môn.
133. Methunaṃ dhammaṃ samādāyāti methunadhammaṃ samādiyitvā. Visukammantepayojesunti gorakkha vāṇijakammādike vissute uggate kammante payojesuṃ.
133. Đã chấp nhận pháp đôi lứa: Đã chấp nhận pháp đôi lứa. Đã gắn bó với các ngành nghề khác nhau: Mọi người gắn bó với các ngành nghề phổ biến như chăn nuôi bò và buôn bán, v.v.
134. Suddā suddāti tena luddācārakammakhuddācārakammunā suddaṃ suddaṃ lahuṃ lahuṃ kucchitaṃ gacchanti, vinassantīti attho. Ahu khoti hoti kho.
134. Các Thủ-đà-la, các Thủ-đà-la (lao công): này được giải thích rằng các Thủ-đà-la đi theo cách đáng khinh, tức là làm giảm giá trị nhanh chóng, được gọi là “Thủ-đà-la, Thủ-đà-la” bởi vì nghề nghiệp họ làm thấp kém và nghề nghiệp họ làm nhỏ nhoi. Đã có: có.
135. Sakaṃdhammaṃ garahamānoti na setacchattaṃ ussāpanamattena sujjhituṃ sakkāti evaṃ attano khattiyadhammaṃ nindamāno. Esa nayo sabbattha. ‘‘Imehi kho, vāseṭṭha, catūhi maṇḍalehī’’ti iminā imaṃ dasseti ‘‘samaṇamaṇḍalaṃ nāma visuṃ natthi, yasmā pana na sakkā jātiyā sujjhituṃ, attano attano sammāpaṭipattiyā visuddhi hoti. Tasmā imehi catūhi maṇḍalehi samaṇamaṇḍalassa abhinibbatti hoti. Imāni maṇḍalāni samaṇamaṇḍalaṃ anuvattanti, anuvattantāni ca dhammeneva anuvattanti, no adhammena. Samaṇamaṇḍalañhi āgamma sammāpaṭipattiṃ pūretvā suddhiṃ pāpuṇantī’’ti.
134. Chỉ trích pháp của mình: một số vị Sát-đế-lỵ chê bai lề lối của dòng dõi Sát-đế-lỵ của mình như vầy rằng: “Ai không thể thanh tịnh chỉ bằng việc cho dựng lên cây lọng trắng?” Cách thức này áp dụng cho các đoạn kế tiếp. “Này các Vāseṭṭha, đã có sự sanh lên của quần thể Sa-môn từ bốn quần thể này”, đức Thế Tôn thuyết lời này rằng “quần thể Sa-môn không có sự riêng biệt.” Nhưng bất cứ ai cũng thể thanh tịnh từ dòng dõi, sự thanh tịnh chỉ có được nhờ vào sự thực hành đúng đắn của chính mỗi cá nhân. Cho nên, có sự sanh lên của quần thể Sa-môn từ cả bốn quần thể này. Những quần thể này đều tuân theo quần thể Sa-môn, và các quần thể tuân theo đó cũng chỉ tuân theo Chánh pháp, chứ không tuân theo Tà pháp. Thật vậy, các chúng sanh nương vào quần thể Sa-môn thực hành chánh hạnh đang đạt được sự thanh tịnh như vậy.
Giảng về uế hạnh
136. Idāni yathājātiyā na sakkā sujjhituṃ, sammāpaṭipattiyāva sujjhanti, tamatthaṃ pākaṭaṃ karonto khattiyopi kho, vāseṭṭhāti desanaṃ ārabhi. Tattha micchādiṭṭhikammasamādānahetūti micchādiṭṭhivasena samādinnakammahetu, micchādiṭṭhikammassa vā samādānahetu.
136. Bây giờ, đức Thế Tôn, khi muốn làm rõ ý rằng– bất kỳ ai cũng không thể thanh tịnh từ dòng dõi, mà các chúng sanh chỉ có thể thanh tịnh bằng sự thực hành đúng đắn, nên mới bắt đầu thuyết rằng: “Này các Vāseṭṭha, có vị Sát-đế-lỵ, v.v.” Ở đấy, Do nhân thọ trì nghiệp do tà kiến: Do nhân là việc thọ trì nghiệp do tác động của tà kiến. Hoặc là, do nhân thọ trì của nghiệp do tà kiến.
137. Dvayakārīti kālena kusalaṃ karoti, kālena akusalanti evaṃ ubhayakārī. Sukhadukkhappaṭisaṃvedī hotīti ekakkhaṇe ubhayavipākadānaṭṭhānaṃ nāma natthi. Yena pana akusalaṃ bahuṃ kataṃ hoti, kusalaṃ mandaṃ, so taṃ kusalaṃ nissāya khattiyakule vā brāhmaṇakule vā nibbattati. Atha naṃ akusalakammaṃ kāṇampi karoti khujjampi pīṭhasappimpi. So rajjassa vā anaraho hoti, abhisittakāle vā evaṃbhūto bhoge paribhuñjituṃ na sakkoti. Aparassa maraṇakāle dve balavamallā viya te dvepi kusalākusalakammāni upaṭṭhahanti. Tesu akusalaṃ balavataraṃ hoti, taṃ kusalaṃ paṭibāhitvā tiracchānayoniyaṃ nibbattāpeti. Kusalakammampi pavattivedanīyaṃ hoti. Tamenaṃ maṅgalahatthiṃ vā karonti maṅgalaassaṃ vā maṅgalausabhaṃ vā. So sampattiṃ anubhavati . Idaṃ sandhāya vuttaṃ ‘‘sukhadukkhappaṭisaṃvedī hotī’’ti.
136. Có cả hai hạnh: người thực hành cả hai hạnh như vầy: có lúc làm việc thiện, có lúc làm việc bất thiện. Có sự cảm nghiệm lạc và khổ: Không có trường hợp nào cho quả ở cả hai phía trong cùng một sát-na. Hơn nữa, người nào đã tạo nhiều nghiệp bất thiện, ít nghiệp thiện, người ấy nương nhờ nghiệp thiện đó đã sanh vào dòng dõi Sát-đế-lỵ hoặc Bà-la-môn. Khi đó, nghiệp ác kia sẽ khiến người ấy trở thành người mù lòa, khiếm khuyết, tàn tật. Người ấy không xứng đáng với vương vị, hoặc người có bản thể như vậy vào lúc tấn phong cũng không thể hưởng thụ trọn vẹn tài sản. Sau đó, vào lúc lâm chung của vị ấy cả nghiệp thiện và nghiệp bất thiện đều hiện khởi giống như hai lực sĩ mạnh mẽ. Trong số hai nghiệp đó, nghiệp bất thiện có năng lực mạnh hơn nên đã ngăn cản nghiệp thiện, khiến cho chúng sanh đó đọa vào loài bàng sanh. Còn nghiệp thiện là nghiệp mà chúng sanh phải thọ hưởng trong thời bình nhật. Nghiệp thiện đó tạo ra được voi cát tường, ngựa cát tường, hoặc bò mộng cát tường, và người đó được thụ hưởng những tài sản ấy. Đức Thế Tôn muốn đề cập đến thiện nghiệp này mới nói rằng: “Có sự cảm nghiệm lạc và khổ”.
Giảng về sự tu tập bảy nhóm pháp góp phần vào việc giác ngộ
138. Sattannaṃ bodhipakkhiyānanti ‘‘cattāro satipaṭṭhānā’’ti ādikoṭṭhāsavasena sattannaṃ, paṭipāṭiyā pana sattatiṃsāya bodhipakkhiyānaṃ dhammānaṃ. Bhāvanamanvāyāti bhāvanaṃ anugantvā, paṭipajjitvāti attho. Parinibbāyatīti kilesaparinibbānena parinibbāyati. Iti bhagavā cattāro vaṇṇe dassetvā vinivattetvā paṭividdhacatusaccaṃ khīṇāsavameva devamanussesu seṭṭhaṃ katvā dassesi.
138. Bảy nhóm pháp góp phần vào việc giác ngộ: ba mươi bảy pháp góp phần vào việc giác ngộ được chia thành nhóm theo thứ tự do tác động phần pháp bắt đầu bằng “bốn sự thiết lập niệm”. Nhờ sự tu tập: đã theo sự tu tập, có nghĩa là đã thực hành (theo đúng đường lối). Chứng Hữu Dư Niết Bàn: Diệt tận bởi sự diệt hoàn toàn phiền não. Đức Thế Tôn sau khi thuyết giảng về bốn giai cấp, (Ngài) đã quay lại thuyết về bậc Lậu Tận đã thấu triệt bốn Chân Lý rằng “(vị ấy) là bậc cao quý ở chư Thiên và nhân loại”.
140. Idāni tamevatthaṃ lokasammatassa brahmunopi vacanadassanānusārena daḷhaṃ katvā dassento imesañhi vāseṭṭha catunnaṃ vaṇṇānantiādimāha. ‘‘Brahmunāpesā’’tiādi ambaṭṭhasutte vitthāritaṃ. Iti bhagavā ettakena iminā kathāmaggena seṭṭhacchedakavādameva dassetvā suttantaṃ vinivattetvā arahattanikūṭena desanaṃ niṭṭhāpesi. Attamanā vāseṭṭhabhāradvājāti vāseṭṭhabhāradvāja sāmaṇerāpi hi sakamanā tuṭṭhamanā ‘‘sādhu, sādhū’’ti bhagavato bhāsitaṃ abhinandiṃsu. Idameva suttantaṃ āvajjantā anumajjantā saha paṭisambhidāhi arahattaṃ pāpuṇiṃsūti.
140. Bây giờ, trong khi thuyết giảng để củng cố ý nghĩa đó y theo lời nói và quan điểm của vị Phạm Thiên vốn được thế gian khen ngợi, nên Ngài mới nói rằng: “Này các Vāseṭṭha, bởi vì vị nào trong số bốn giai cấp này…” Kệ ngôn này được thuyết bởi Phạm Thiên Sunaṅkumāra v.v, đã được giải thích chi tiết trong Kinh Ambaṭṭha. Như thế, đức Thế Tôn đã thuyết giảng về học thuyết phá vỡ bản thể người cao quý bằng kệ ngôn về Đạo này chỉ bấy nhiêu, rồi Ngài trở lại kết thúc pháp thoại bằng đỉnh cảo là quả vị A-ra-hán. Sa-di Vāseṭṭha và Bhāradvājā có tâm hoan hỷ: Thật vậy, Sa-di Vāseṭṭha và Bhāradvājā cùng nhau hoan hỷ, đã tán thành lời dạy của đức Thế Tôn rằng: “Lành thay! Lành thay!” Cả hai vị ấy trong khi đang hướng tâm nhận biết theo bài Kinh này, đã chứng đạt phẩm vị A-ra-hán cùng với Tứ Tuệ Phân Tích.
Giải thích Kinh Khởi Nguyên Của Thế Giới được chấm dứt – Kinh thứ tư (27)
Trong Chú Giải Trường Bộ Kinh là Sumaṅgalavilāsī.
-
1 nāḷī = 2 pattha (pattha là lượng chứa của hai bàn tay bụm lại) ↑