Giải Thích Đại Kinh Thiết Lập Niệm

(Mahāsatipaṭṭhānasuttavaṇṇanā (22))

Xem Trường Bộ Kinh – Đại niệm xứ (Đại Kinh Thiết Lập Niệm)

  1. Evaṃme sutanti mahāsatipaṭṭhānasuttaṃ. Tatrāyamapubbapadavaṇṇanā – ekāyano ayaṃ, bhikkhave, maggoti kasmā bhagavā idaṃ suttamabhāsi? Kururaṭṭhavāsīnaṃ gambhīradesanāpaṭiggahaṇasamatthatāya. Kururaṭṭhavāsino kira bhikkhū bhikkhuniyo upāsakā upāsikāyo utupaccayādisampannattā tassa raṭṭhassa sappāyautupaccayasevanena niccaṃ kallasarīrā kallacittā ca honti. Te cittasarīrakallatāya anuggahitapaññābalā gambhīrakathaṃ paṭiggahetuṃ samatthā honti. Tena nesaṃ bhagavā imaṃ gambhīradesanāpaṭiggahaṇasamatthataṃ sampassanto ekavīsatiyā ṭhānesu kammaṭṭhānaṃ arahatte pakkhipitvā idaṃ gambhīratthaṃ mahāsatipaṭṭhānasuttaṃ abhāsi. Yathā hi puriso suvaṇṇacaṅkoṭakaṃ labhitvā tattha nānāpupphāni pakkhipeyya, suvaṇṇamañjūsaṃ vā pana labhitvā sattaratanāni pakkhipeyya, evaṃ bhagavā kururaṭṭhavāsiparisaṃ labhitvā gambhīradesanaṃ desesi. Tenevettha aññānipi gambhīratthāni imasmiṃ dīghanikāye mahānidānaṃ majjhimanikāye satipaṭṭhānaṃ, sāropamaṃ, rukkhopamaṃ, raṭṭhapālaṃ, māgaṇḍiyaṃ, āneñjasappāyanti aññānipi suttāni desesi.
    Đại Kinh Thiết Lập Niệm bắt đầu với câu– ‘Tôi đã nghe như vầy…’ Ở đây, bài Kinh này được giải thích theo trình tự như sau – ‘Này các tỳ khưu đây là con đường độc đạo…’ vì sao đức Thế Tôn thuyết bài Kinh này? Lý do là người dân xứ Kuru có khả năng lĩnh hội những Pháp thoại sâu sắc. Được biết rằng người dân xứ Kuru—dù là tỳ khưu, tỳ khưu ni, cận sự nam, và cận sự nữ—đều có thân thể tráng kiện và tâm trí sẵn sàng nhờ sống trong những điều kiện thuận lợi như khí hậu và chỗ ở lý tưởng, v.v, bởi vì xứ sở đó đầy đủ những yếu tố như thời tiết, khí hậu thuận lợi. v.v. Người dân Kuru có sức mạnh của trí tuệ được hỗ trợ bởi thân thể tráng kiện và tâm đã sẵn sàng nên có khả năng lĩnh hội những Pháp thoại sâu sắc. Vì thế, khi thấy người dân Kuru có đủ năng lực để thấu hiểu Giáo Pháp, đức Thế Tôn đã đưa hai mươi mốt vị trí nghiệp xứ (đề mục thiền định) vào quả vị A-ra-hán để thuyết giảng Đại Kinh Thiết Lập Niệm—một bài Kinh có ý nghĩa thâm sâu này cho hội chúng xứ Kuru. Hành động này của đức Thế Tôn được ví như một người có chiếc hộp vàng, cẩn thận đặt vào đó nhiều loại hoa khác nhau, hoặc nếu một người có chiếc hộp vàng đặt vào đó bảy loại châu báu; Cũng vậy, đức Thế Tôn, sau khi có được hội chúng xứ Kuru, ngài đã thuyết giảng Pháp thoại sâu sắc. Vì lý do đó, trong Trường Bộ Kinh, ngài còn thuyết giảng thêm những bài Kinh khác có ý nghĩa sâu sắc như Kinh Mahānidāna; Trong Trung Bộ Kinh, các bài Kinh như Satipaṭṭhāna, Sāropama, Rukkhopama, Raṭṭhapāla, Māgandiya và Āneñjasappāya.

Apica tasmiṃ janapade catasso parisā pakatiyāva satipaṭṭhānabhāvanānuyogamanuyuttā viharanti, antamaso dāsakammakaraparijānāpi satipaṭṭhānapaṭisaṃyuttameva kathaṃ kathenti. Udakatitthasuttakantanaṭṭhānādīsupi niratthakakathā nāma nappavattati. Sace kāci itthī ‘‘amma, tvaṃ kataraṃ satipaṭṭhānabhāvanaṃ manasikarosī’’ti pucchitā ‘‘na kiñcī’’ti vadati, taṃ garahanti ‘‘dhiratthu tava jīvitaṃ, jīvamānāpi tvaṃ matasadisā’’ti. Atha naṃ ‘‘mā dāni puna evamakāsī’’ti ovaditvā aññataraṃ satipaṭṭhānaṃ uggaṇhāpenti. Yā pana ‘‘ahaṃ asukasatipaṭṭhānaṃ nāma manasikaromī’’ti vadati, tassā ‘‘sādhu sādhū’’ti sādhukāraṃ katvā ‘‘tava jīvitaṃ sujīvitaṃ, tvaṃ nāma manussattaṃ pattā, tavatthāya sammāsambuddho uppanno’’tiādīhi pasaṃsanti. Na kevalañcettha manussajātikāva satipaṭṭhānamanasikārayuttā, te nissāya viharantā tiracchānagatāpi.

Và hơn nữa, bốn hội chúng trong xứ sở Kuru ai cũng sống thường xuyên tu tập bốn sự thiết lập niệm một cách bình thường. Ngay cả những người nô lệ và những người lao động cũng chỉ nói về những câu chuyện liên quan đến bốn sự thiết lập niệm. Thậm chí ở tại bến nước hay ở nơi quay chỉ, cũng không nói đến những chuyện vô ích. Nếu như một phụ nữ nào đó bị hỏi rằng: “Này cô, cô đang tác ý tu tập sự thiết lập niệm nào? Cô ấy nói rằng: “không thực hành gì cả”, người dân Kuru sẽ chê trách cô ta rằng: “Cuộc sống của cô thật đáng chê trách, dầu cô còn sống cũng như người đã chết rồi!” Khi ấy, sau khi nhắc nhở cho cô rằng “kể từ đây đừng làm như vậy nữa” rồi cho cô ta học một trong các sự thiết lập niệm. Nhưng nếu người nữ nào nói rằng: “Tôi tác ý thực hành sự thiết lập niệm đó,” đã ban lời khen ngợi rằng: “Tốt lành thay! Tốt lành thay!” đến nàng, họ tán thán rằng: “Kiếp sống của nàng thật là cao quý biết dường nào! Cô xứng danh đạt đến bản thể loài người. Bậc Chánh đẳng Chánh giác đã xuất hiện (trên thế gian) vì lợi ích thật sự cho cô.” Trong câu này không chỉ riêng người dân Kuru được sanh ra làm người gắn liền với tác ý tu tập sự thiết lập niệm, mà cả loài bàn sanh cũng sống nương nhờ người dân Kuru (tác ý tu tập sự thiết lập niệm tương tự).

Tatridaṃ vatthu – eko kira naṭako suvapotakaṃ gahetvā sikkhāpento vicarati. So bhikkhunupassayaṃ upanissāya vasitvā gamanakāle suvapotakaṃ pamussitvā gato. Taṃ sāmaṇeriyo gahetvā paṭijaggiṃsu. Buddharakkhito tissa nāmaṃ akaṃsu. Taṃ ekadivasaṃ purato nisinnaṃ disvā mahātherī āha – ‘‘Buddharakkhitā’’ti. Kiṃ, ayyeti? Atthi te koci bhāvanāmanasikāroti? Natthi, ayyeti. Āvuso, pabbajitānaṃ santike vasantena nāma vissaṭṭhaattabhāvena bhavituṃ na vaṭṭati, kocideva manasikāro icchitabbo, tvaṃ pana aññaṃ na sakkhissasi, ‘‘aṭṭhi aṭṭhī’’ti sajjhāyaṃ karohīti. So theriyā ovāde ṭhatvā ‘‘aṭṭhi aṭṭhī’’ti sajjhāyanto carati.

Ở đấy có câu chuyện như sau – Kể rằng một vũ công đã bắt được một con chim vẹt và dạy nó nói tiếng người (bản thân đi biểu diễn múa ở những nơi khác). Vũ công đó sống nương nhờ chỗ cư ngụ của một vị tỳ khưu ni, lúc đi đến những nơi khác đã hoàn toàn quên mất con chim vẹt. Các sa-di ni đã bắt nó nuôi và đặt tên là Buddharakkhita. Vào một ngày nọ, ni trưởng thấy nó đậu ở trước mặt mới gọi nó là Buddharakkhita. – Con chim vẹt đáp rằng: “Có chuyện gì, thưa mẹ?” – “Con có tác ý thực hành (đề mục thiền) gì không?” – “Dạ không, thưa mẹ.” – “Con sống trong trú xứ của các bậc xuất gia, sống buông thả bản thân thì thật không thích hợp, mà nên ước muốn tác ý đến một (đề mục thiền) nào đó, tuy nhiên con không cần chú ý đến điều gì khác, hãy ghi nhớ rằng “Xương, xương” là đủ. Con chim vẹt ấy đã vững trú vào lời giáo huấn của vị trưởng lão ni chỉ ghi nhớ rằng “xương, xương” (và) đi.

Taṃ ekadivasaṃ pātova toraṇagge nisīditvā bālātapaṃ tapamānaṃ eko sakuṇo nakhapañjarena aggahesi. So ‘‘kiri kirī’’ti saddamakāsi. Sāmaṇeriyo sutvā ‘‘ayye buddharakkhito sakuṇena gahito, mocema na’’nti leḍḍuādīni gahetvā anubandhitvā mocesuṃ. Taṃ ānetvā purato ṭhapitaṃ therī āha – ‘‘buddharakkhita, sakuṇena gahitakāle kiṃ cintesī’’ti? Na, ayye, aññaṃ kiñci cintesiṃ, aṭṭhipuñjova aṭṭhipuñjaṃ gahetvā gacchati, katarasmiṃ ṭhāne vippakirissatīti, evaṃ ayye aṭṭhipuñjameva cintesinti. Sādhu, sādhu, buddharakkhita, anāgate bhavakkhayassa te paccayo bhavissatīti. Evaṃ tattha tiracchānagatāpi satipaṭṭhānamanasikārayuttā. Tasmā nesaṃ bhagavā satipaṭṭhānabuddhimeva janento idaṃ suttamabhāsi.

Một ngày nọ, con chim vẹt đậu trên đỉnh cửa để sưởi nắng. Một con diều hâu chộp lấy nó bằng móng vuốt. Con chim vẹt cất lên tiếng kêu “kiri, kiri”. Các sa-di ni sau khi nghe cũng la lên: “Các chị ơi, con vẹt Buddharakkhita bị diều hâu chộp bắt đi rồi, chúng ta hãy cứu nó,” đã nhặt lấy những cục đất, v.v, và đuổi theo diều hâu cho đến khi diều hâu thả (con vẹt) ra. Các sa-di ni đã đưa nó đến đặt trước mặt ni trưởng hỏi rằng: “Này Buddharakkhita trong lúc bị diều hâu chộp bắt đi con nghĩ điều gì?” – “Thưa mẹ, con không nghĩ đến bất cứ điều gì cả mà con chỉ nghĩ đến bộ xương (rằng) chính bộ xương đã đưa bộ xương đi, vương vãi khắp nơi dù ở bất cứ nơi đâu.” – trưởng lão ni đã ban lời tán thán rằng “Lành thay! Lành thay! Buddharakkhita, điều đó sẽ trở thành duyên để chấm dứt kiếp sống (loài bàn sanh) của con trong thời vị lai.” Như vậy, ngay cả loài bàn sanh trong xứ Kuru ấy cũng (thường xuyên) gắn bó với tác ý (thực hành) sự thiết lập niệm. Vì thế, đức Thế Tôn đã biết đến sự phát triển và lan truyền của Tứ sự thiết lập niệm đối với người dân xứ Kuru ấy nên đã thuyết giảng bài Kinh này.

Tattha ekāyanoti ekamaggo. Maggassa hi – Bahūni nāmāni.

‘‘Maggo pantho patho pajjo, añjasaṃ vaṭumāyanaṃ;

Nāvā uttarasetū ca, kullo ca bhisisaṅkamo’’ti.

Trong bài Kinh đó, độc đạo là con đường độc nhất (con đường chỉ có một lối đi). Thật vậy có rất nhiều con đường là –

“Đạo lộ, đường lộ, con đường, con lộ, lộ trình, lối đi,

Đường đi, chiếc thuyền (đường thủy), cầu vượt, chiếc bè, chiếc phao, ngõ đi qua.

Svāyamidha ayananāmena vutto, tasmā ekāyano ayaṃ, bhikkhave, maggoti ettha ekamaggo ayaṃ, bhikkhave, maggo na dvidhā pathabhūtoti evamattho daṭṭhabbo. Atha vā ekena ayitabboti ekāyano. Ekenāti gaṇasaṅgaṇikaṃ pahāya vūpakaṭṭhena pavivittacittena. Ayitabbo paṭipajjitabbo, ayanti vā etenāti ayano, saṃsārato nibbānaṃ gacchantīti attho. Ekassa ayano ekāyano. Ekassāti seṭṭhassa. Sabbasattaseṭṭho ca bhagavā, tasmā bhagavatoti vuttaṃ hoti. Kiñcāpi hi tena aññepi ayanti, evaṃ santepi bhagavatova so ayano tena uppāditattā. Yathāha ‘‘so hi, brāhmaṇa, bhagavā anuppannassa maggassa uppādetā’’tiādi (ma. ni. 3.79). Ayatīti vā ayano, gacchati pavattatīti attho. Ekasmiṃ ayanoti ekāyano, imasmiññeva dhammavinaye pavattati, na aññatthāti vuttaṃ hoti. Yathāha – ‘‘imasmiṃ kho, subhadda, dhammavinaye ariyo aṭṭhaṅgiko maggo upalabbhatī’’ti (dī. ni. 2.214). Desanābhedoyeva heso, atthato pana ekova. Apica ekaṃ ayatīti ekāyano. Pubbabhāge nānāmukhabhāvanānayappavattopi aparabhāge ekaṃ nibbānameva gacchatīti vuttaṃ hoti. Yathāha brahmā sahampati –

Ekāyanaṃ jātikhayantadassī, Maggaṃ pajānāti hitānukampī;

Etena maggena tariṃsu pubbe, Tarissanti ye ca taranti oghanti. (saṃ. ni. 5.409);

Ở đây, con đường này đây ngài nói với tên gọi là ‘con đường’. Vì thế, ‘này các tỳ khưu, con đường này là con đường độc đạo’ ở đây nên hiểu ý nghĩa như vầy này các tỳ khưu con đường này là con đường độc đạo, không phải là con đường hai ngã rẽ.’ Hoặc hơn nữa, ‘độc đạo’ là con đường cần phải đi một mình. ‘Độc nhất’ tức là người đã lìa bỏ việc giao thiệp với đám đông, với (thân) sống tách biệt, với tâm sống viễn ly. Nên đi là nên đi trên con đường, hoặc ‘con đường’ với ý nghĩa là phương tiện đi, có nghĩa là từ vòng sanh tử luân hồi đi đến Niết Bàn. Độc đạo là con đường của hạng người ưu việt. Ưu việt: là của hạng người tối thượng nhất trong tất cả chúng sanh, và đức Thế Tôn ấy là tối thượng hơn tất cả chúng sanh. Vì thế, điều này đã được nói rằng ‘là con đường của đức Thế Tôn.’ Thật vậy, cả những chúng sanh khác mặc dù đi theo con đường đó, tuy nhiên con đường đó cũng là con đường của chính đức Thế Tôn, bởi vì là con đường đã được ngài làm cho hiện khởi. Giống như đã nói (trong bài Kinh Gopaka Moggallāna) ‘Này Bà-la-môn, bởi vì đức Thế Tôn ấy là người làm hiện khởi đạo lộ chưa được hiện khởi,’ (ma. ni. 3.79). Hoặc đường để đi gọi là con đường, có nghĩa là đi, vận hành. Con đường duy nhất trong Pháp và Luật gọi là độc đạo, điều này được nói rằng: con đường vận hành trong chính Pháp và Luật này, không vận hành trong Tôn giáo khác. Giống như đã nói (trong bài Kinh Mahāparinibbāna) – ‘Này Subhadda, Thánh đạo có 8 chi phần chỉ tìm được trong Pháp và Luật này(dī. ni. 2.214). Hai ý nghĩa này chỉ khác nhau về cách diễn đạt, nhưng ý nghĩa thì như nhau. Và hơn nữa, con đường để đi một lần gọi là ‘độc đạo’. Điều này được nói rằng: con đường mặc dù được vận hành thông qua nhiều phương pháp hành thiền khác nhau ở giai đoạn ban đầu, nhưng cuối cùng cũng đưa đến cùng một nơi là Niết Bàn. Giống như Phạm thiên Sahampati đã nói (trong Tương Ưng Bộ – Đại Phẩm) rằng:

“Vị nhìn thấy sự tiêu hoại và chấm dứt của sanh, có lòng thương tưởng đến điều lợi ích, nhận biết con đường độc đạo. Trong thời quá khứ các vị đã vượt qua, (trong thời vị lai) các vị sẽ vượt qua, và (trong thời hiện tại) các vị đang vượt qua dòng lũ bằng con đường này. (saṃ. ni. 5.409);

Keci pana ‘‘na pāraṃ diguṇaṃ yantī’’ti gāthānayena yasmā ekavāraṃ nibbānaṃ gacchati, tasmā ‘‘ekāyano’’ti vadanti, taṃ na yujjati. Imassa hi atthassa sakiṃ ayanoti iminā byañjanena bhavitabbaṃ. Yadi pana ekaṃ ayanamassa ekā gati pavattīti evaṃ atthaṃ yojetvā vucceyya, byañjanaṃ yujjeyya, attho pana ubhayathāpi na yujjati. Kasmā? Idha pubbabhāgamaggassa adhippetattā. Kāyādicatuārammaṇappavatto hi pubbabhāgasatipaṭṭhānamaggo idhādhippeto, na lokuttaro, so ca anekavārampi ayati, anekañcassa ayanaṃ hoti.

Những một số vị nói theo phương thức của kệ ngôn rằng: “Mọi người không đi đến bờ hai lần”, vì lý do đó, con người đi đến Niết Bàn một lần duy nhất, cho nên đạo lộ ấy mới gọi là ‘con đường đi một lần’, lời này không đúng. Bởi vì ý nghĩa này cần phải có văn tự như vầy ‘sakiṃ ayano – con đường đi một lần.’ Nhưng nếu liên kết ý nghĩa có thể nói như vầy rằng sự đi một lần, tức là sự di chuyển một lần của đạo ấy đang vận hành thì văn tự có thể đúng, tuy nhiên ý nghĩa không đúng cả hai cách. Tại sao? Bởi vì ở đây ngài chỉ muốn lấy đến Đạo ở phần ban đầu. Thật vậy, ở đây ngài chỉ muốn đề cập đến sự thiết lập niệm là con đường ban đầu (mà) vận hành theo bốn đối tượng có Thân, v.v., không phải Đạo Siêu Thế, và Đạo ở phần ban đầu ấy đi nhiều lần, cả sự đi của Đạo ấy cũng không phải chỉ có một lần.

Sự đàm luận Pháp của các Đại Trưởng lão

Pubbepi ca imasmiṃ pade mahātherānaṃ sākacchā ahosiyeva. Tipiṭakacūḷanāgatthero pubbabhāgasatipaṭṭhānamaggoti āha. Ācariyo panassa tipiṭakacūḷasumatthero missakamaggoti āha. Pubbabhāgo bhanteti? Missako, āvusoti. Ācariye pana punappunaṃ bhaṇante appaṭibāhitvā tuṇhī ahosi. Pañhaṃ avinicchinitvāva uṭṭhahiṃsu. Athācariyatthero nahānakoṭṭhakaṃ gacchanto ‘‘mayā missakamaggo kathito, cūḷanāgo pubbabhāgamaggoti ādāya voharati, ko nu kho ettha nicchayo’’ti suttantaṃ ādito paṭṭhāya parivattento ‘‘yo hi koci, bhikkhave, ime cattāro satipaṭṭhāne evaṃ bhāveyya satta vassānī’’ti imasmiṃ ṭhāne sallakkhesi. Lokuttaramaggo uppajjitvā satta vassāni tiṭṭhamāno nāma natthi, mayā vutto missakamaggo na labbhati. Cūḷanāgena diṭṭho pubbabhāgamaggova labbhatīti ñatvā aṭṭhamiyaṃ dhammasavane saṅghuṭṭhe agamāsi.

Liên quan đến ‘con đường độc đạo’ này trước kia các vị đại trưởng lão đã từng có cuộc đàm luận. Trưởng lão Cūḷanāga bậc thông thuộc Tipiṭaka đã nói: sự thiết lập niệm là con đường ban đầu. (Ý ngài muốn nói rằng sự thiết lập niệm là Đạo Hiệp Thế, Hiệp thế ở đây cần phải hiểu là con đường thuộc về thế gian hay còn nằm trong Tam giới). Còn Trưởng lão Cūḷasuma bậc thông thuộc Tipiṭaka là thầy của Trưởng lão Cūḷanāga lại nói: Con đường hỗn hợp. (Ý ngài muốn nói là Đạo Hiệp Thế và Đạo Siêu Thế). (Học trò) ‘Bạch ngài, sự thiết lập niệm là con đường ban đầu.’ – (Vị thầy) ‘Này con, đó là con đường hỗn hợp. Nhưng khi vị thầy nói lặp đi lặp lại, người học trò đã không phản đối lại (chính lời nói ấy) đành giữ im lặng. Sau khi không thể giải quyết được vấn đề cà thầy và trò đều đã đứng dậy. Sau đó, trưởng lão là vị thầy trên đường đi tới phòng tắm đã nghĩ rằng: ‘Ta nói rằng ‘con đường hỗn hợp,’ còn Cūḷanāga giữ lập trường nói rằng: ‘con đường là phần ban đầu, vậy thì vấn đề này nên giải quyết thế nào? Trong khi đọc lại bài Kinh từ đầu thì xác định được điểm này: ‘Này các tỳ khưu, bất cứ người nào tu tập bốn sự thiết lập niệm này như vậy trong bảy năm.’ Ngài biết rằng (tâm) Đạo Siêu Thế đã sanh khởi, vững trú đến bảy năm là không có, (đạo hỗn hợp) mà ta đã nói là không tồn tại (bởi vì tâm đạo chỉ kéo dài một sát-na và tâm đó không bao giờ sanh trở lại). Còn ‘con đường là phần ban đầu’ được thấy bởi Cūḷanāga là có tồn tại, khi vị ấy tuyên bố việc lắng nghe pháp vào ngày mồng tám của mỗi nửa tháng thì trưởng lão Cūḷasuma cũng đi đến giảng đường.

Porāṇakattherā kira piyadhammasavanā honti, saddaṃ sutvāva ‘‘ahaṃ paṭhamaṃ, ahaṃ paṭhama’’nti ekappahāreneva osaranti. Tasmiñca divase cūḷanāgattherassa vāro, tena dhammāsane nisīditvā bījaniṃ gahetvā pubbagāthāsu vuttāsu therassa āsanapiṭṭhiyaṃ ṭhitassa etadahosi – ‘‘raho nisīditvā na vakkhāmī’’ti. Porāṇakattherā hi anusūyakā honti. Na attano rucimeva ucchubhāraṃ viya evaṃ ukkhipitvā vicaranti, kāraṇameva gaṇhanti, akāraṇaṃ vissajjenti. Tasmā thero ‘‘āvuso, cūḷanāgā’’ti āha. So ācariyassa viya saddoti dhammaṃ ṭhapetvā ‘‘kiṃ bhante’’ti āha. Āvuso, cūḷanāga, mayā vutto missakamaggo na labbhati, tayā vutto pubbabhāgasatipaṭṭhānamaggova labbhatīti. Thero cintesi – ‘‘amhākaṃ ācariyo sabbapariyattiko tepiṭako sutabuddho, evarūpassāpi nāma bhikkhuno ayaṃ pañho āluḷeti, anāgate mama bhātikā imaṃ pañhaṃ āluḷessantīti suttaṃ gahetvā imaṃ pañhaṃ niccalaṃ karissāmī’’ti paṭisambhidāmaggato ‘‘ekāyanamaggo vuccati pubbabhāgasatipaṭṭhānamaggo’’.

Nghe ràng các vị trưởng lão thời xưa là những vị yêu thích việc nghe Pháp, khi nghe tiếng thông báo đều đồng loạt thốt lên rằng: ‘tôi trước, tôi trước’. Và ngày hôm đó đến phiên trưởng lão Cūḷanāga, sau khi ngồi lên Pháp tọa ngài đã cầm lấy cây quạt rồi độc lên câu kệ mở đầu thì trưởng lão là vị thầy đứng ở phía sau Pháp tọa đã suy nghĩ rằng – “sau khi ngồi ở chỗ khuất ta sẽ không nói gì’. Bời vì các vị trưởng lão thời xưa không có lòng đố kỵ, không đưa chính sở thích của bản thân ra làm gánh nặng như vác cây mía, chỉ giữ lấy điều hợp lý, trừ bỏ điều không hợp lý. Vì thế, trưởng lão Cūḷasuma đã gọi: “Này hiền giả Cūḷanāga.” Nghe được giọng giống như giọng của thầy mình gọi nên đã ngưng thuyết Pháp (và) vội trả lời: ‘Bạch thầy! có chuyện gì vậy?’ – ‘Này hiền giả Cūḷanāga, điều ta đã nói về con đường hỗn hợp là không đúng, còn điều mà con đã nói sự thiết lập niệm là con đường ban đầu thì đúng. Trưởng lão Cūḷanāga nghĩ rằng – ‘Thầy của ta là bậc thông thuộc toàn bộ Pháp học, là bậc uyên thâm Tam Tạng, vị tỳ khưu có hình thức như vậy vẫn còn nhầm lẫn trong vấn đề này, trong tương lai các vị Pháp sư sẽ còn nhầm lẫn về vấn đề này, (vì thế) ta sẽ lấy bài Kinh làm cơ sở để giải quyết vấn đề này, không để nhầm lẫn về sau nữa,” trong Vô Ngại Giải Đạo “sự thiết lập niệm là con đường ban đầu gọi là con đường độc đạo”. Ngài đã dẫn chứng (Pháp Cú – Tiếu Bộ) để biểu thị –

Maggānaṭṭhaṅgiko seṭṭho, saccānaṃ caturo padā;

Virāgo seṭṭho dhammānaṃ, dvipadānañca cakkhumā.

Eseva maggo natthañño, dassanassa visuddhiyā;

Etañhi tumhe paṭipajjatha, mārasenappamaddanaṃ;

Etañhi tumhe paṭipannā, dukkhassantaṃ karissathāti. (dha. pa. 273-275) –

Suttaṃ āharitvā ṭhapesi.

Trong số các đạo lộ thì đạo lộ có Tám Chi Phần là thù thắng nhất. Trong số các Chân lý thì Chân lý Tứ Thánh Đế là thù thắng nhất; Trong số các Pháp thì không luyến ái là thù thắng nhất. Và trong số các loài hai chân, bậc Hữu Nhãn (đức Như Lai) là thù thắng nhất.

Chỉ có đạo lộ này, không có đạo lộ nào khác đưa đến sự thanh tịnh của nhận thức; Vì thế, các vị hãy thực hành đạo lộ này, (chính đạo lộ ấy) có sự tiêu diệt các đạo binh của Ma Vương. Bởi vì khi đã thực hành đạo lộ này, các ngươi sẽ làm chấm dứt khổ đau” (dha. pa. 273-275). –

Maggoti kenaṭṭhena maggo? Nibbānagamanaṭṭhena nibbānatthikehi magganīyaṭṭhena ca. Sattānaṃ visuddhiyāti rāgādīhi malehi abhijjhāvisamalobhādīhi ca upakkilesehi kiliṭṭhacittānaṃ sattānaṃ visuddhatthāya. Tathā hi imināva maggena ito satasahassakappādhikānaṃ catunnaṃ asaṅkhyeyyānaṃ upari ekasmiṃyeva kappe nibbatte taṇhaṅkaramedhaṅkarasaraṇaṅkaradīpaṅkaranāmake buddhe ādiṃ katvā sakyamunipariyosānā aneke sammāsambuddhā anekasatā paccekabuddhā gaṇanapathaṃ vītivattā ariyasāvakā cāti ime sattā sabbe cittamalaṃ pavāhetvā paramavisuddhiṃ pattā. Rūpamalavasena pana saṃkilesavodānapaññattiyeva natthi. Tathā hi –

Đạo lộ gọi là con đường với ý nghĩa như thế nào? Với ý nghĩa đi đến Niết Bàn, và với ý nghĩa người ao ước Niết Bàn có thể tầm cầu. Đưa đến sự thanh tịnh cho tất cả chúng sanh: vì lợi ích đối với sự thanh tịnh của tất cả chúng sanh có tâm bị ô uế do bị nhơ nhớp bởi luyến ái, v.v. và bị uế nhiễm bởi tham đắm và tà tham, v.v. Thật vậy, những chúng sanh này là trong vô số bậc Chánh đẳng Chánh giác từ thời đức Phật Taṇhaṅkara, đức Phật Medhaṅkara, đức Phật Saraṇaṅkara và đức Phật Dīpaṅkara, cả 4 vị viên tịch Niết Bàn trong cùng một kiếp, bắt đầu từ bốn a-tăng-kỳ và một trăm ngàn kiếp, từ kiếp này cho đến kiếp đức Phật Sakyamunī là cuối cùng, hàng trăm vị Phật Độc Giác, chư Thánh Thinh văn vượt qua cách thức tính đếm đã thả trôi mọi cấu uế của tâm, đã đạt đến sự thanh tịnh cao thượng do thực hành đạo lộ này. Hơn nữa, việc quy định về sự ô nhiễm và sự trong sạch về phương diện sắc là không có. Thật vậy –

‘‘Rūpena saṃkiliṭṭhena, saṃkilissanti māṇavā;

Rūpe suddhe visujjhanti, anakkhātaṃ.

Cittena saṃkiliṭṭhena, saṃkilissanti māṇavā;

Citte suddhe visujjhanti, iti vuttaṃ mahesinā’’.

Yathāha – ‘‘cittasaṃkilesā, bhikkhave, sattā saṃkilissanti, cittavodānā visujjhantī’’ti. saṃ. ni. 3.100. Tañca cittavodānaṃ iminā satipaṭṭhānamaggena hoti. Tenāha ‘‘sattānaṃ visuddhiyā’’ti.

“Khi sắc bị ô nhiễm, chúng sanh bị ô nhiễm. Khi sắc trong sạch, chúng sanh trong sạch, điều này không được nói bởi bậc Đại Ẩn Sĩ. Khi tâm bị ô nhiễm, chúng sanh bị ô nhiễm. Khi tâm trong sạch, chúng sanh trong sạch, bậc Đại Ẩn Sĩ đã nói như thế.”

Như đã nói (trong Tương Ưng – Khandhavāravagga) – “Này các tỳ khưu, tất cả chúng sanh ô nhiễm do tâm bị cấu uế, thanh tịnh do tâm trong sạch’. saṃ. ni. 3.100. Và sự thanh tịnh của tâm có được do con đường là sự thiết lập niệm này. Vì lý do ấy, đức Thế Tôn đã nói rằng: ‘Đưa đến sự thanh tịnh cho tất cả chúng sanh’.

Sokaparidevānaṃ samatikkamāyāti sokassa ca paridevassa ca samatikkamāya pahānāyāti attho, ayañhi maggo bhāvito santatimahāmattādīnaṃ viya sokasamatikkamāya, paṭācārādīnaṃ viya paridevasamatikkamāya saṃvattati. Tenāha ‘‘sokaparidevānaṃ samatikkamāyā’’ti. Kiñcāpi hi santatimahāmatto –

‘‘Yaṃ pubbe taṃ visodhehi, pacchā te mātu kiñcanaṃ;

Majjhe ce no gahessasi, upasanto carissasī’’ti. (su. ni. 945);

Imaṃ gāthaṃ sutvāva saha paṭisambhidāhi arahattaṃ patto.

Đưa đến sự vượt khỏi sầu muộn và bi lụy: đưa đến sự vượt khỏi sầu muộn và bi lụy, có nghĩa là đưa đến sự dứt bỏ, bởi vì con đường này được tu tập đưa đến sự vượt khỏi sầu muộn giống như sự sầu muộn của quan đại thần Santati v.v., và vượt khỏi bi lụy, giống như Paṭācārā, v.v. Do vậy, đức Thế Tôn mới nói rằng ‘Đưa đến sự vượt khỏi sầu muộn và bi lụy’. Thật vậy, quan đại thần Santati sau khi nghe kệ ngôn này –

Điều gì trước đây (quá khứ), ngươi hãy làm cho khô héo điều ấy. Chớ có bất cứ điều gì sanh khởi đến ngươi sau này (vị lai). Nếu ngươi không nắm lấy ở khoảng giữa (hiện tại), ngươi sẽ sống được an tịnh. (su. ni. 945);

Vị ấy đã đạt đến quả vị A-ra-hán cùng với các Tuệ Phân Tích.

Paṭācārā –

‘‘Na santi puttā tāṇāya, na pitā nāpi bandhavā;

Antakenādhipannassa, natthi ñātīsu tāṇatā’’ti. (dha. pa. 288);

Imaṃ gāthaṃ sutvā sotāpattiphale patiṭṭhitā. Yasmā pana kāyavedanācittadhammesu kañci dhammaṃ anāmasitvā bhāvanā nāma natthi, tasmā tepi imināva maggena sokaparideve samatikkantāti veditabbā.

Paṭācārā –

Không phải những người con đem lại sự bảo vệ, không phải người cha mà cũng không phải các quyến thuộc. Đối với người đã bị cái chết chế ngự thì không có sự bảo vệ ở các thân quyến. (dha. pa. 288);

Sau khi nghe kệ ngôn này thì Paṭācārā đã an trú trong quả vị Nhập Lưu. Hơn nữa, tu tập không chạm đến bất kỳ pháp nào trong Thân, Thọ, Tâm và Pháp là không có. Do đó, nên biết rằng (quan đại thần Santati và Paṭācārā) sự vượt khỏi sầu muộn và bi luỵ bằng chính con đường này.

Dukkhadomanassānaṃ atthaṅgamāyāti kāyikadukkhassa cetasikadomanassassa cāti imesaṃ dvinnaṃ atthaṅgamāya, nirodhāyāti attho. Ayañhi maggo bhāvito tissattherādīnaṃ viya dukkhassa, sakkādīnaṃ viya ca domanassassa atthaṅgamāya saṃvattati.

Đưa đến sự biến mất của khổ và ưu: Có nghĩa là đưa đến sự diệt tận, đưa đến sự biến mất cả 2 điều này là khổ thuộc thân và ưu thuộc tâm. Bởi vì, người tu tập con đường này sẽ đưa đến sự biến mất của khổ như trưởng lão Tissa v.v, và sự biến mất của ưu như Vua trời Sakka v.v.

Sự đau khổ của trưởng lão Tissa

Tatrāyaṃ atthadīpanā – sāvatthiyaṃ kira tisso nāma kuṭumbikaputto cattālīsa hiraññakoṭiyo pahāya pabbajitvā agāmake araññe viharati. Tassa kaniṭṭhabhātu bhariyā ‘‘gacchatha, naṃ jīvitā voropethā’’ti pañcasate core pesesi. Te gantvā theraṃ parivāretvā nisīdiṃsu. Thero āha – ‘‘kasmā āgatattha upāsakā’’ti? Taṃ jīvitā voropessāmāti. Pāṭibhogaṃ me upāsakā, gahetvā ajjekarattiṃ jīvitaṃ dethāti. Ko te, samaṇa, imasmiṃ ṭhāne pāṭibhogo bhavissatīti? Thero mahantaṃ pāsāṇaṃ gahetvā dve ūruṭṭhīni bhinditvā ‘‘vaṭṭati upāsakā pāṭibhogo’’ti āha. Te apakkamitvā caṅkamanasīse aggiṃ katvā nipajjiṃsu. Therassa vedanaṃ vikkhambhetvā sīlaṃ paccavekkhato parisuddhaṃ sīlaṃ nissāya pītipāmojjaṃ uppajji. Tato anukkamena vipassanaṃ vaḍḍhento tiyāmarattiṃ samaṇadhammaṃ katvā aruṇuggamane arahattaṃ patto imaṃ udānaṃ udānesi –

Sự giảng giải ý nghĩa về hai câu chuyện ấy như sau – Nghe rằng trong thành Sāvatthī, con trai của Kuṭumbika tên là Tissa đã dứt ra bốn mươi koṭi đồng tiền vàng để xuất gia, sống ở trong rừng, không phải ở trong làng. Vợ của em trai ngài đã phái năm trăm tên cướp đi (và) ra lệnh rằng: ‘Hãy đi, đoạt lấy mạng sống của người đó’. Bọn họ đã đến và ngồi xung quanh trưởng lão. – Trưởng lão bèn hỏi – “Các thiện nam đến đây để làm gì?’ – ‘Chúng tôi đến đây để đoạt lấy mạng sống của ngài’. – Các thiên nam xin hãy bảo đảm cho tôi, sau khi bắt lấy hãy cho tôi sống thêm một đêm nữa. – Này Sa-môn, ai sẽ bảo lãnh cho ngài trong tình huống như thế này? – Trưởng lão sau khi lấy một hòn đá lớn đã đập gãy xương cả hai chân, rồi nói rằng: ‘Này các thiện nam, sự bảo lãnh này có đủ không?’ – Bọn cướp vẫn không tránh đi, mà nhóm lửa nằm ngủ gần chỗ đi kinh hành. Trưởng lão sau khi chế ngự được cảm thọ đã suy xét về giới hạnh y cứ vào giới thanh tịnh khởi lên hỷ và hân hoan. Giai đoạn tiếp theo ngài phát triển Minh sát thực hành Sa-môn Pháp suốt đêm trong canh thứ ba khi bình minh vừa ló dạng ngài đã đạt được phẩm vị A-ra-hán, và đã thốt lên lời cảm hứng (rằng):

‘‘Ubho pādāni bhinditvā, saññapessāmi vo ahaṃ;

Aṭṭiyāmi harāyāmi, sarāgamaraṇaṃ ahaṃ.

Evāhaṃ cintayitvāna, yathābhūtaṃ vipassisaṃ;

Sampatte aruṇuggamhi, arahattamapāpuṇi’’nti.

“Tôi đã đập gãy cả hai chân, để thực hiện lời hứa với các ngươi. Tôi cảm thấy khó chịu, tôi cảm thấy hổ thẹn với cái chết vẫn còn có luyến ái. Khi tôi suy tư như vậy, tôi đã thấy rõ theo đúng theo thực thể, đến khi bình minh vừa ló dạng tôi đã chứng đắc quả vị A-ra-hán.”

Sự đau khổ của ba mươi vị tỳ khưu

Aparepi tiṃsa bhikkhū bhagavato santike kammaṭṭhānaṃ gahetvā araññavihāre vassaṃ upagantvā ‘‘āvuso, tiyāmarattiṃ samaṇadhammova kātabbo, na aññamaññassa santikaṃ āgantabba’’nti vatvā vihariṃsu. Tesaṃ samaṇadhammaṃ katvā paccūsasamaye pacalāyantānaṃ eko byaggho āgantvā ekekaṃ bhikkhuṃ gahetvā gacchati. Na koci ‘‘maṃ byaggho gaṇhī’’ti vācampi nicchāresi. Evaṃ pañcasu dasasu bhikkhūsu khāditesu uposathadivase ‘‘itare, āvuso, kuhi’’nti pucchitvā ñatvā ca ‘‘idāni gahitena gahitomhīti vattabba’’nti vatvā vihariṃsu.

Nhóm ba mươi vị tỳ khưu khác sau khi học đề mục thiền định trong sự hiện diện của đức Thế Tôn đã sống an cư mùa mưa ở ngôi tịnh xá trong rừng, đã thỏa thuận với nhau rằng: ‘Này các hiền giả, chúng ta cần phải thực hành Sa-môn Pháp suốt đêm trọn đủ 3 canh và không nên đi đến trú xứ của nhau,’ rồi mỗi vị an trú một nơi. Khi các vị thực hành Sa-môn Pháp, vào lúc hừng sáng rơi vào trạng thái ngủ thất thì bị một con hổ đã đến vồ lấy lần lượt từng vị tỳ khưu mang đi ăn thịt, nhưng không có bất kỳ một vị nào thốt lên dầu chỉ một lời rằng: “con hổ đã vồ lấy tôi.” Như vậy các vị tỳ khưu bị hổ ăn thịt hết mười lăm vị đến ngày Uposatha mới hỏi rằng: “này hiền giả, những vị còn lại đâu rồi?’sau khi biết chuyện đã nói với nhau rằng: “Kể từ bây giờ, khi bị hổ vồ cần phải kêu lên ‘tôi đã bị hổ vồ’ rồi tiếp tục an trú.

Atha aññataraṃ daharabhikkhuṃ purimanayeneva byaggho gaṇhi. So ‘‘byaggho bhante’’ti āha. Bhikkhū kattaradaṇḍe ca ukkāyo ca gahetvā mocessāmāti anubandhiṃsu. Byaggho bhikkhūnaṃ agatiṃ chinnataṭaṭṭhānamāruyha taṃ bhikkhuṃ pādaṅguṭṭhakato paṭṭhāya khādituṃ ārabhi. Itarepi ‘‘idāni sappurisa, amhehi kattabbaṃ natthi, bhikkhūnaṃ viseso nāma evarūpe ṭhāne paññāyatī’’ti āhaṃsu. So byagghamukhe nipannova taṃ vedanaṃ vikkhambhetvā vipassanaṃ vaḍḍhento yāva gopphakā khāditasamaye sotāpanno hutvā, yāva jaṇṇukā khāditasamaye sakadāgāmī, yāva nābhiyā khāditasamaye anāgāmī hutvā, hadayarūpe akhāditeyeva saha paṭisambhidāhi arahattaṃ patvā imaṃ udānaṃ udānesi –

Sau đó con hổ đã vồ lấy một vị tỳ khưu trẻ theo chính cách thức trước. – Vị ấy đã kêu lên ‘con hổ thưa ngài’. Các vị tỳ khưu đã cầm gậy và đuốc đuổi theo với ý định khiến cho nó thả vị tỳ khưu trẻ ra. Con hổ chạy lên núi đá con đường mà các vị tỳ khưu không thể đi được (và) bắt đầu ăn thịt vị tỳ khưu ấy từ dưới ngón chân. Những vị còn lại nói rằng: ‘Bậc chân nhân, bây giờ phận sự mà chúng ta cần phải làm không có, trạng thái cao quý của các vị tỳ khưu xuất hiện trong trường hợp có hình thức như vậy.” Vị tỳ khưu trẻ ấy ngay trong lúc đang nằm trong miệng hổ, sau khi chế ngự cảm thọ đau đớn (vị ấy) đã phát triển Minh sát trong lúc con hổ ăn đến mắt cá chân (vị ấy đã chứng đắc) quả vị Nhập Lưu, trong lúc con hổ ăn đến đầu gối (vị ấy đã chứng đắc) quả vị Nhất Lai, trong lúc con hổ ăn đến bụng (vị ấy đã chứng đắc) quả vị Bất Lai, trong lúc con hổ ăn vẫn chưa đến trái tim vị ấy đã chứng đắc quả vị A-ra-hán cùng với các tuệ phân tích, và đã thốt lên lời cảm hứng (rằng):

‘‘Sīlavā vatasampanno, paññavā susamāhito;

Muhuttaṃ pamādamanvāya, byagghenoruddhamānaso.

Pañjarasmiṃ gahetvāna, silāya uparī kato;

Kāmaṃ khādatu maṃ byaggho, aṭṭhiyā ca nhārussa ca;

Kilese khepayissāmi, phusissāmi vimuttiya’’nti.

Ta có giới, đầy đủ tánh hạnh, có tuệ, khéo được định tĩnh. Do một chút xao lãng, có tâm không nghĩ ác đối với con hổ, nó đã vồ lấy trong nanh vuốt, rồi đưa lên đặt trên tảng đá.

Dù con hổ ăn ta như ý muốn,  đến tận xương và gân; ta sẽ diệt trừ phiền não và sẽ đạt đến giải sự thoát.”

Sự đau khổ của trưởng lão của Pītamalla

Aparopi pītamallatthero nāma gihikāle tīsu rajjesu paṭākaṃ gahetvā tambapaṇṇidīpaṃ āgamma rājānaṃ passitvā raññā katānuggaho ekadivasaṃ kilañjakāpaṇasāladvārena gacchanto ‘‘rūpaṃ, bhikkhave, na tumhākaṃ, taṃ pajahatha, taṃ vo pahīnaṃ dīgharattaṃ hitāya sukhāya bhavissatī’’ti saṃ. ni. 3.33-34; na tumhākavākyaṃ sutvā cintesi ‘‘neva kira rūpaṃ attano, na vedanā’’ti. So taṃyeva aṅkusaṃ katvā nikkhamitvā mahāvihāraṃ gantvā pabbajjaṃ yācitvā pabbajito upasampanno dvemātikā paguṇā katvā tiṃsa bhikkhū gahetvā gabalavāliyaaṅgaṇaṃ gantvā samaṇadhammaṃ akāsi. Pādesu avahantesu jaṇṇukehi caṅkamati.

Một vị tỳ khưu khác là trưởng lão Pītamalla khi còn là cư sĩ,  đã cầm lấy ngọn cờ đi đến hòn đảo Tambapaṇṇī qua ba triều đại, vào yết kiến đức vua, và nhận được sự hỗ trợ của đức vua. Một ngày nọ, trong khi đi ngang qua giảng đường Kilañjakāpaṇa sau khi nghe đoạn Kinh ‘Không Phải Của Các Ông’ (trong Tương Ưng Uẩn, phẩm Khandhavāra) rằng: “Này các tỳ khưu, sắc không phải của các ông; hãy từ bỏ chúng. Sắc mà các ông đã từ bỏ, (sự từ bỏ ấy) sẽ đem lại an lạc và hạnh phúc lâu dài cho các ông,” saṃ. ni. 3.33-34; đã khởi lên suy nghĩ rằng: ‘Quả thực, không những sắc không phải của ta mà thọ cũng không phải của ta.’ Vị ấy đã lấy đoạn Kinh đó làm chủ đề, sau khi rời khởi (tư gia) đã đi đến ngôi Đại Tự xin xuất gia (và) tu lên bậc trên. Sau khi tinh thông hai Mātikā ngài đã đưa ba mươi vị tỳ khưu đến Điện Thờ Gavaravāliya thực hành Sa-môn Pháp. Khi đôi chân của ngài sưng tấy (không thể đi nổi nữa) thì ngài đi kinh hành bằng hai đầu gối. Vào đêm hôm ấy, một người thợ săn đã nhầm ngài với một con nai nên mới phóng ngọn lao đi. Ngọn lao đã đâm trúng (và) xuyên qua ngài, ngài cho người thợ săn rút mũi lao ra, lấy một nắm cỏ để đậy vết thương lại và dìu ngài ngồi xuống bề mặt tảng đá, đã cho hắn thực hiện cơ hội, ngài đã phát triển Minh sát, và đã đạt đến quả vị A-ra-hán cùng với các tuệ phân tích, ngài ra hiệu cho các tỳ khưu đến bằng tiếng tằng hắng và đã thốt lên lời cảm hứng này rằng:

‘‘Bhāsitaṃ buddhaseṭṭhassa, sabbalokaggavādino;

Na tumhākamidaṃ rūpaṃ, taṃ jaheyyātha bhikkhavo.

Aniccā vata saṅkhārā, uppādavayadhammino;

Uppajjitvā nirujjhanti, tesaṃ vūpasamo sukho’’ti.

“Lời nói của đức Phật tối thượng, vị thuyết giảng Pháp cao thượng cho tất của chúng sanh, ngài thuyết rằng: Này các tỳ khưu, sắc này không phải của các ông, các ông hãy từ bỏ chúng.

Quả thật, các pháp hữu vi là vô thường, có tánh sanh diệt, chúng sanh lên rồi hoại diệt, sự tĩnh lặng của pháp hữu vi là Niết Bàn an lạc.”

Evaṃ tāva ayaṃ maggo tissattherādīnaṃ viya dukkhassa atthaṅgamāya saṃvattati.

Như vậy, con đường này vận hành đưa đến sự biến mất của khổ giống như câu chuyện của trưởng lão Tissa, v.v. trước.

Thọ ưu (Khổ Tâm) của Vua trời Sakka

Sakko pana devānamindo attano pañcavidhapubbanimittaṃ disvā maraṇabhayasantajjito domanassajāto bhagavantaṃ upasaṅkamitvā pañhaṃ pucchi. So upekkhāpañhavissajjanāvasāne asītisahassāhi devatāhi saddhiṃ sotāpattiphale patiṭṭhāsi. Sā cassa upapatti puna pākatikāva ahosi.

Hơn nữa, Vua trời Sakka sau khi nhìn thấy năm điềm báo trước của mình, bị đe dọa bởi sự sợ hãi cái chết đã khởi lên sự buồn phiền, sau khi đến gặp đức Thế Tôn để hỏi các câu hỏi. Vị ấy đã an trú vào Nhập Lưu Quả cùng với tám ngàn vị Thiên nhân do mãnh lực việc giải thích về thọ xả. Và ngài đã sanh trở lại trạng thái như trước.

Thọ ưu của Thiên tử Subrahma

Subrahmāpi devaputto accharāsahassaparivuto saggasampattiṃ anubhoti. Tattha pañcasatā accharāyo rukkhato pupphāni ocinantiyo cavitvā niraye uppannā.

Luôn cả Thiên tử Subrahma thọ hưởng sự thành tựu cõi trời cùng với một nghìn Tiên nữ vây quanh. Trong số một ngàn Tiên nữ ấy, có năm trăm Tiên nữ mải mê hái hoa từ cây Thiên hoa đã mệnh chung rồi sanh vào địa ngục.

So ‘‘kiṃ imā cirāyantī’’ti upadhārento tāsaṃ niraye nibbattanabhāvaṃ ñatvā ‘‘kittakaṃ nu kho mama āyū’’ti upaparikkhanto attano āyuparikkhayaṃ viditvā cavitvā tattheva niraye nibbattanabhāvaṃ disvā bhīto ativiya domanassajāto hutvā ‘‘imaṃ me domanassaṃ satthā vinayissati, na añño’’ti avasesā pañcasatā accharāyo gahetvā bhagavantaṃ upasaṅkamitvā pañhaṃ pucchi –

Thiên tử Subrahma trong lúc suy nghĩ rằng: “Tại sao các Tiên nữ này lại chậm trễ” sau khi biết được bản thể các nàng đã sanh vào địa ngục, mới trở lại suy xét tự thân rằng: “tuổi thọ của ta còn bao nhiêu nữa?’ đã biết được tuổi thọ của mình cũng sắp cạn kiệt, và sau khi nhìn thấy bản thể cũng sẽ sanh vào chính địa ngục ấy thì vô cùng kinh sợ đã khởi lên sự buồn phiền, nghĩ rằng ‘Không ai khác ngoài bậc Đạo Sư sẽ xua tan sự buồn phiền này của ta”, rồi đưa năm trăm Tiên nữ còn lại đến yết kiến đức Thế Tôn để hỏi câu hỏi (rằng):

‘‘Niccaṃ utrastamidaṃ cittaṃ, niccaṃ ubbiggidaṃ mano;

Anuppannesu kicchesu, atho uppatitesu ca;

Sace atthi anutrastaṃ, taṃ me akkhāhi pucchitoti. (saṃ. ni. 1.98);

Tato naṃ bhagavā āha –

‘‘Nāññatra bojjhā tapasā, nāññatrindriyasaṃvarā;

Nāññatra sabbanissaggā, sotthiṃ passāmi pāṇina’’nti. (saṃ. ni. 1.98);

So desanāpariyosāne pañcahi accharāsatehi saddhiṃ sotāpattiphale patiṭṭhāya taṃ sampattiṃ thāvaraṃ katvā devalokameva agamāsīti. Evaṃ ayaṃ maggo bhāvito sakkādīnaṃ viya domanassassa atthaṅgamāya saṃvattatīti veditabbo.

“Tâm này luôn sợ hãi, ý này luôn hoảng sợ. Với những phận sự chưa sanh, và những phận sự đã sanh. Nếu như có pháp không sợ hãi, xin đức Thế Tôn hãy giải đáp điều đó (sự không sợ hãi và không hoảng sợ) cho con.”(saṃ. ni. 1.98);

Sau đó, đức Thế Tôn đã giải đáp câu hỏi đó cho Thiên tử như sau:

Không ngoài sự hiểu biết và sự nhiệt tâm, không ngoài sự hộ trì các giác quan; Không ngoài sự buông bỏ tất cả, ta thấy các pháp ấy, đưa đến sự an toàn cho tất cả chúng sanh. (saṃ. ni. 1.98);

Khi bài thuyết giảng chấm dứt Thiên tử Subrahma đã an trú vào Nhập Lưu Quả cùng với năm trăm Tiên nữ, đã thiết lập bền vững sự thành tựu ấy, rồi quay trở về thế giới chư Thiên. Như vậy, bậc hiền trí nên biết răng: con đường này được tu tập vận hành đưa đến sự biến mất của ưu giống như ưu phiền của Vua trời Sakka.

Ñāyassa adhigamāyāti ñāyo vuccati ariyo aṭṭhaṅgiko maggo, tassa adhigamāya, pattiyāti vuttaṃ hoti. Ayañhi pubbabhāge lokiyo satipaṭṭhānamaggo bhāvito lokuttaramaggassa adhigamāya saṃvattati. Tenāha ‘‘ñāyassa adhigamāyā’’ti. Nibbānassa sacchikiriyāyāti taṇhāvānavirahitattā nibbānanti laddhanāmassa amatassa sacchikiriyāya, attapaccakkhatāyāti vuttaṃ hoti. Ayañhi maggo bhāvito anupubbena nibbānasacchikiriyaṃ sādheti. Tenāha ‘‘nibbānassa sacchikiriyāyā’’ti.

Đưa đến việc đạt được phương pháp: Thánh đạo có tám chi phần được gọi là phương pháp, đưa đến việc đạt được pháp ấy, ngài giải thích rằng: đưa đến chứng đắc. Bởi vì đạo lộ là sự thiết lập niệm thuộc Hiệp Thế ban đầu này đã được tu tập vận hành đưa đến việc đạt được của Đạo Siêu Thế. Vì thế, đức Thế Tôn mới thuyết rằng: “Đưa đến việc đạt được phương pháp”. Đưa đến việc chứng ngộ Niết Bàn: Ngài giải thích rằng: tự mình nhận thức rõ ràng, đưa đến việc chứng ngộ Bất Tử được gọi là Niết Bàn bởi trạng thái thoát khỏi tham ái trói buộc. Thật vậy, con đường này được tu tập làm cho việc chứng ngộ Niết Bàn hoàn thành theo tuần tự. Do đó, Thế Tôn mới thuyết rằng ‘Đưa đến việc chứng ngộ Niết Bàn’.

Tattha kiñcāpi ‘‘sattānaṃ visuddhiyā’’ti vutte sokasamatikkamādīni atthato siddhāneva honti, ṭhapetvā pana sāsanayuttikovide aññesaṃ na pākaṭāni, na ca bhagavā paṭhamaṃ sāsanayuttikovidaṃ janaṃ katvā pacchā dhammaṃ deseti. Tena teneva pana suttena taṃ taṃ atthaṃ ñāpeti. Tasmā idha yaṃ yaṃ atthaṃ ekāyanamaggo sādheti, taṃ taṃ pākaṭaṃ katvā dassento ‘‘sokaparidevānaṃ samatikkamāyā’’tiādimāha. Yasmā vā yā sattānaṃ visuddhi ekāyanamaggena saṃvattati, sā sokaparidevānaṃ samatikkamena hoti. Sokaparidevānaṃ samatikkamo dukkhadomanassānaṃ atthaṅgamena, dukkhadomanassānaṃ atthaṅgamo ñāyassādhigamena, ñāyassādhigamo nibbānassa sacchikiriyāya. Tasmā imampi kamaṃ dassento ‘‘sattānaṃ visuddhiyā’’ti vatvā ‘‘sokaparidevānaṃ samatikkamāyā’’tiādimāha.

Trong bài Kinh ấy, mặc dù khi đức Thế Tôn thuyết rằng: ‘đưa đến sự thanh tịnh cho các chúng sinh,’ thì sự vượt khỏi sầu muộn và bi lụy v.v, cũng đã hoàn tất về ý nghĩa, tuy nhiên trừ vị thông minh biết điều phù hợp của lời dạy thì không hiện rõ ở những người khác, và đức Thế Tôn đã không làm cho những người thông minh biết điều phù hợp của lời dạy trước mà thuyết giảng Giáo Pháp sau. Vả lại, đức Thế Tôn làm cho hiểu được ý nghĩa đó theo chính phương hướng ấy. Vì thế, ở đây con đường độc đạo thành tựu với ý nghĩa nào, thì ngài thuyết giảng ý nghĩa ấy cho hiện rõ nên mới nói rằng: “Đưa đến sự vượt khỏi sầu muộn và bi lụy”. Hoặc, sự thanh tịnh của các chúng sanh vận hành bởi con đường độc đạo, sự thanh tịnh ấy có được do sự vượt khỏi sầu muộn và bi lụy. Sầu muộn và bi lụy có được do sự biến mất của khổ và ưu; sự biến mất của khổ và ưu có được do việc đạt được phương pháp, việc đạt được phương pháp có được do việc chứng ngộ Niết Bàn. Do đó, trong khi thuyết giảng tuần tự việc này, mới nói rằng: ‘Đưa đến sự thanh tịnh của các chúng sanh’, rồi thuyết tiếp: ‘Đưa đến sự vượt khỏi sầu muộn và bi lụy”.

Apica vaṇṇabhaṇanametaṃ ekāyanamaggassa. Yatheva hi bhagavā – ‘‘dhammaṃ vo, bhikkhave, desessāmi ādikalyāṇaṃ majjhekalyāṇaṃ pariyosānakalyāṇaṃ sātthaṃ sabyañjanaṃ kevalaparipuṇṇaṃ parisuddhaṃ brahmacariyaṃ pakāsessāmi yadidaṃ chachakkānī’’ti (ma. ni. 3.420) chachakkadesanāya aṭṭhahi padehi vaṇṇaṃ abhāsi. Yathā ca ariyavaṃsadesanāya ‘‘cattārome, bhikkhave, ariyavaṃsā aggaññā rattaññā vaṃsaññā porāṇā asaṃkiṇṇā asaṃkiṇṇapubbā na saṅkīyanti na saṅkīyissanti, appaṭikuṭṭhā samaṇehi brāhmaṇehi viññūhī’’ti (a. ni. 4.28) navahi padehi vaṇṇaṃ abhāsi; evaṃ imassāpi ekāyanamaggassa sattānaṃ visuddhiyātiādīhi sattahi padehi vaṇṇaṃ abhāsi. Kasmāti ce, tesaṃ bhikkhūnaṃ ussāhajananatthaṃ. Vaṇṇabhāsanañhi sutvā te bhikkhū ‘‘ayaṃ kira maggo hadayasantāpabhūtaṃ sokaṃ, vācāvippalāpabhūtaṃ paridevaṃ, kāyikaasātabhūtaṃ dukkhaṃ, cetasikaasātabhūtaṃ domanassanti cattāro upaddave hanati, visuddhiṃ ñāyaṃ nibbānanti tayo visese āvahatī’’ti ussāhajātā imaṃ dhammadesanaṃ uggahetabbaṃ pariyāpuṇitabbaṃ dhāretabbaṃ, vācetabbaṃ, imañca maggaṃ bhāvetabbaṃ maññissanti. Iti tesaṃ bhikkhūnaṃ ussāhajananatthaṃ vaṇṇaṃ abhāsi. Kambalavāṇijādayo kambalādīnaṃ vaṇṇaṃ viya.

Nói cách khác, ‘sự thanh tịnh của tất cả chúng sanh’ v.v. đây là lời nói ca ngợi về ‘con đường độc đạo’. Cũng giống như đức Thế Tôn đã nói ca ngợi với tám câu bằng bài Kinh Sáu nhóm sáu như sau: ‘Này các tỳ khưu, ta sẽ thuyết pháp toàn hảo ở đoạn đầu, toàn hảo ở đoạn giữa, và toàn hảo ở đoạn cuối, giảng giải về Phạm hạnh thanh tịnh một cách trọn vẹn và đầy đủ, cùng với sự thành tựu về ý nghĩa, và cả thành tựu về văn tự’, là pháp có 6 nhóm, mỗi nhóm có 6 câu cùng tất cả các ông’. (ma. ni. 3.420); Và giống như nói ca ngợi với chín câu (trong Ariyavaṃsa) như sau: ‘Này các Tỳ khưu, bốn truyền thống bậc thánh được biết là cao cả, được biết lâu đời, được biết là dòng dõi Thánh nhân, truyền thống cổ sơ, quá khứ đã không bị lẫn lộn, không từng bị lẫn lộn, ở hiện tại không bị lẫn lộn, ở vị lại sẽ không bị lẫn lộn, không bị các Sa-môn, Bà-la-môn có trí khiển trách (a. ni. 4.28); tương tự như thế ấy đức Thế Tôn đã nói lời ca ngợi ‘con đường độc đạo’ với bảy câu rằng: ‘Đưa đến sự thanh tịnh của các chúng sanh, v.v.” Nếu hỏi rằng tại sao? – Để khởi lên sự nhiệt tâm cho các vị tỳ khưu ấy. Bởi vì các vị ấy sau khi nghe lời ca ngợi đã khởi lên sự nhiệt tâm: “Nghe rằng con đường này sát hại bốn sự bất hạnh – sầu muộn có tính chất thiêu đốt trái tim, bi lụy có tính chất than van khóc lóc bằng lời nói, khổ có tính chất đau đớn thuộc thân, ưu có tính chất đau đớn thuộc tâm, và mang lại ba ưu điểm đặc biệt: sự thanh tịnh, đưa đến việc đạt được phương pháp và Niết Bàn,” do vậy đã khởi lên sự nhiệt tâm nghĩ rằng: bài thuyết Pháp này cần phải được học tập, cần phải được ghi nhớ, cần phải được thuộc nằm lòng, cần phải được chỉ dạy và con đường này cần phải được tu tập.’ Đức Thế Tôn ca ngợi ‘con đường độc đạo’ để cho các vị tỳ khưu khởi lên sự nhiệt tâm với ý nghĩa như được giảng giải, giống như người lái buôn buôn bán len v.v, thì nói lời ca ngợi về chất lượng len v.v.

Yathā hi satasahassagghanikapaṇḍukambalavāṇijena ‘kambalaṃ gaṇhathā’ti ugghositepi asukakambaloti na tāva manussā jānanti. Kesakambalavāḷakambalādayopi hi duggandhā kharasamphassā kambalātveva vuccanti.

Khi người lái buôn buôn bán tấm vải len màu đỏ trị giá một trăm ngàn đồng tiền vàng quảng cáo rằng: “hãy mua vải len”, mọi người vẫn không biết trước được rằng: “vải len loại nào bởi vì tấm vải len được làm từ tóc người, hay tấm vải len được làm từ lông thú, v.v, nó có mùi hôi thối và khi chạm vào thô cứng nhưng đều được gọi là vải len.

Yadā pana tena gandhārako rattakambalo sukhumo ujjalo sukhasamphassoti ugghositaṃ hoti, tadā ye pahonti, te gaṇhanti. Ye nappahonti, tepi dassanakāmā honti; evameva ‘ekāyano, bhikkhave, ayaṃ maggo’ti vuttepi asukamaggoti na tāva pākaṭo hoti. Nānappakārakā hi aniyyānikamaggāpi maggātveva vuccanti. ‘‘Sattānaṃ visuddhiyā’’tiādimhi pana vutte ‘‘ayaṃ kira maggo cattāro upaddave hanati, tayo visese āvahatī’’ti ussāhajātā imaṃ dhammadesanaṃ uggahetabbaṃ pariyāpuṇitabbaṃ dhāretabbaṃ vācetabbaṃ, imañca maggaṃ bhāvetabbaṃ maññissantīti vaṇṇaṃ bhāsanto ‘‘sattānaṃ visuddhiyā’’tiādimāha. Yathā ca satasahassagghanikapaṇḍukambalavāṇijūpamā; evaṃ rattajambunadasuvaṇṇaudakappasādakamaṇiratanasuvisuddhamuttaratanapavāḷādivāṇijūpamādayopettha āharitabbā.

Còn khi nào họ quảng cáo rằng: vải len màu đỏ được làm từ xứ Gandhāra chất liệu vải mềm mại, sáng, mặc vào dễ chịu thoải mái, khi ấy người nào nếu có (đủ) tiền, người ấy (sẽ) mua. Còn người nào không đủ tiền, người ấy cũng muốn được chiêm ngưỡng; tương tự y như thế, thậm chí đức Thế Tôn thuyết rằng: ‘Này các tỳ khưu, đây là con đường độc đạo’ vẫn không hiện rõ trước rằng: ‘con đường nào’, bởi vì ngay cả con đường không dẫn dắt ra khỏi (khổ đau) có nhiều cách khác nhau cũng đều gọi là con đường. Nhưng khi đức Thế Tôn thuyết rằng ‘đưa đến sự thanh tịnh của các chúng sanh’, các vị tỳ khưu biết rằng: “Quả thật, con đường này sát hại bốn sự bất hạnh, và mang lại ba ưu điểm đặc biệt” đã khởi lên sự nhiệt tâm, suy nghĩ rằng: bài thuyết Pháp này cần phải được học tập, cần phải được ghi nhớ, cần phải được thuộc nằm lòng, cần phải được chỉ dạy và con đường này cần phải được tu tập.’ Cho nên, khi Thế Tôn nói lời ca ngợi (con đường độc đạo) đã thuyết rằng: ‘đưa đến sự thanh tịnh của các chúng sanh’. Và ví như người bán vải len màu vàng có giá trị hàng trăm ngàn đồng tiền vàng để so sánh; tương tự như vậy, nên đưa người bán vàng hồng tinh khiết của xứ Jambunada, vàng ròng, ngọc mānī tịnh thuỷ, ngọc trai trong suốt, vải lông thú, và ngọc san hô tinh khiết v.v.  đến để so sánh.

Yadidanti nipāto, ye imeti ayamassa attho. Cattāroti gaṇanaparicchedo. Tena na tato heṭṭhā, na uddhanti satipaṭṭhānaparicchedaṃ dīpeti. Satipaṭṭhānāti tayo satipaṭṭhānā satigocaropi tidhā paṭipannesu sāvakesu satthuno paṭighānunayavītivattatāpi, satipi. ‘‘Catunnaṃ , bhikkhave, satipaṭṭhānānaṃ samudayañca atthaṅgamañca desessāmi, taṃ suṇātha…pe… ko ca, bhikkhave, kāyassa samudayo. Āhārasamudayā kāyassa samudayo’’tiādīsu (saṃ. ni. 5.408) hi satigocaro satipaṭṭhānanti vuccati. Tathā ‘‘kāyo upaṭṭhānaṃ no sati, sati pana upaṭṭhānañceva sati cā’’tiādīsupi (paṭi. ma. 3.35). Tassattho – patiṭṭhāti asminti paṭṭhānaṃ. Kā patiṭṭhāti? Sati. Satiyā paṭṭhānaṃ satipaṭṭhānaṃ, padhānaṃ ṭhānanti vā paṭṭhānaṃ. Satiyā paṭṭhānaṃ satipaṭṭhānaṃ hatthiṭṭhānaassaṭṭhānādīni viya.

Yadidaṃ là một phân từ, có nghĩa là những cái này nào. Bốn (sự thiết lập niệm) xác định số lượng. Với số lượng ấy đức Thế Tôn đã chỉ ra sự giới hạn số lượng của sự thiết lập niệm không ít hơn (bốn) mà cũng không nhiều hơn (bốn). Sự thiết lập niệm: Ba sự thiết lập niệm là đối tượng của niệm, hoặc điều mà bậc Đạo Sư vượt qua sự bất bình và hoan hỷ đối với các đệ tử, vị thực hành ba điều cũng có, hoặc niệm cũng có. Thật vậy, đối tượng của niệm gọi là sự thiết lập niệm như sau: ‘Này chư Tỳ khưu, ta sẽ thuyết giảng sự sanh khởi và sự diệt tận của bốn sự thiết lập niệm, các ông hãy lắng nghe -nt- Này các tỳ khưu, do cái gì có sự sanh khởi của thân? Do sự sanh khởi của vật thực có sự sanh khởi của thân’. (saṃ. ni. 5.408); Một điều nữa, gọi là sự thiết lập niệm như sau: ‘Thân là sự thiết lập không phải là niệm, niệm vừa là sự thiết lập vừa là niệm’. (paṭi. ma. 3.35); Lời ấy có ý nghĩa như thế – sự thiết lập là nơi an trú. Cái gì an trú? Niệm. Nơi an trú của niệm gọi là sự thiết lập niệm. Hoặc là, sự an trú làm trưởng gọi là sự thiết lập. Sự an trú của niệm gọi là sự thiết lập niệm cũng giống như chỗ đứng của voi, hay chỗ đứng của ngựa.

‘‘Tayo satipaṭṭhānā yadariyo sevati, yadariyo sevamāno satthā gaṇamanusāsituṃ arahatī’’ti (ma. ni. 3.311) ettha tidhā paṭipannesu sāvakesu satthuno paṭighānunayavītivattatā ‘‘satipaṭṭhāna’’nti vuttā. Tassattho – paṭṭhapetabbato paṭṭhānaṃ, pavattayitabbatoti attho. Kena paṭṭhapetabbatoti? Satiyā. Satiyā paṭṭhānaṃ satipaṭṭhānaṃ. ‘‘Cattāro satipaṭṭhānā bhāvitā bahulīkatā satta sambojjhaṅge paripūrentī’’tiādīsu (ma. ni. 3.147) pana satiyeva ‘‘satipaṭṭhānaṃ’’ti vuccati. Tassattho – paṭṭhātīti paṭṭhānaṃ, upaṭṭhāti okkanditvā pakkhanditvā pattharitvā pavattatīti attho. Satiyeva satipaṭṭhānaṃ. Atha vā saraṇaṭṭhena sati, upaṭṭhānaṭṭhena paṭṭhānaṃ. Iti sati ca sā paṭṭhānaṃ cātipi satipaṭṭhānaṃ. Idamidhādhippetaṃ.

Ở đây, việc mà bậc Đạo Sư vượt qua sự bất bình và sự hoan hỷ đối với các vị đệ tử, vị thực hành 3 loại gọi là sự thiết lập niệm như trong Phật ngôn sau: “Có ba sự thiết lập niệm mà một bậc Thánh cần phải thực hành, và có thực hành (sự thiết lập niệm) ấy, bậc Thánh mới xứng là bậc Ðạo Sư giảng dạy cho Hội Chúng.’(ma. ni. 3.311); Lời này có ý nghĩa “sự an trú” vì nên được thiết lập, giải thích rằng: nên được tiến hành. Nên được thiết lập với cái gì? Với niệm. Sự an trú niệm là sự thiết lập niệm. Hơn nữa, chính niệm ấy được gọi là “sự thiết lập niệm” như sau: ‘Bốn sự thiết lập niệm được tu tập, được làm cho sung mãn khiến cho bảy giác chi được tròn đủ’ (ma. ni. 3.147); Lời ấy có ý nghĩa như sau – (pháp nào) an trú khắp, có nghĩa là đi vào an trú, là đã chìm sâu, đã tiến vào, đã đi tới, (pháp ấy) gọi là sự thiết lập. Chính niệm ấy gọi là sự thiết lập niệm. Hoặc hơn nữa, niệm với ý nghĩa là sự ghi nhớ, sự thiết lập với ý nghĩa là đi vào thiết lập. Như vậy, niệm và đi vào thiết lập (với lý do đó) gọi là sự thiết lập niệm. Ở đây, đức Thế Tôn muốn đề cập đến sự thiết lập niệm này.

Yadi evaṃ kasmā ‘‘satipaṭṭhānā’’ti bahuvacanaṃ? Satibahuttā. Ārammaṇabhedena hi bahukā etā satiyo. Atha maggoti kasmā ekavacanaṃ? Maggaṭṭhena ekattā. Catassopi hi etā satiyo maggaṭṭhena ekattaṃ gacchanti. Vuttañhetaṃ – ‘‘maggoti kenaṭṭhena maggo? Nibbānagamanaṭṭhena. Nibbānatthikehi magganīyaṭṭhena cā’’ti. Catassopi cetā aparabhāge kāyādīsu ārammaṇesu kiccaṃ sādhayamānā nibbānaṃ gacchanti, ādito paṭṭhāya ca nibbānatthikehi maggiyanti, tasmā catassopi eko maggoti vuccanti. Evañca sati vacanānusandhinā sānusandhikāva desanā hoti, ‘‘mārasenappamaddanaṃ, vo bhikkhave, maggaṃ desessāmi, taṃ suṇātha…pe… katamo ca, bhikkhave, mārasenappamaddano maggo? Yadidaṃ satta bojjhaṅgā’’tiādīsu (saṃ. ni. 5.224) viya. Yathā mārasenappamaddanoti ca, satta bojjhaṅgāti ca atthato ekaṃ, byañjanamevettha nānaṃ . Evaṃ ‘‘ekāyanamaggo’’ti ca ‘‘cattāro satipaṭṭhānā’’ti ca atthato ekaṃ, byañjanamevettha nānaṃ, tasmā maggaṭṭhena ekattā ekavacanaṃ. Ārammaṇabhedena satibahuttā bahuvacanaṃ veditabbaṃ.

Nếu vậy tại sao ‘sự thiết lập niệm’ là cách số nhiều? Bởi vì cần có nhiều niệm. Bởi vì, các niệm ấy có nhiều do sự khác biệt về đối tượng. Như vậy, tại sao ‘con đường’ cũng có nhiều nhưng lại là cách số ít. Bởi vì chỉ có một con đường duy nhất với ý nghĩa đạo lộ. Thật vậy, các niệm ấy dầu có ‘bốn’ nhưng cũng đi đến một con đường duy nhất với ý nghĩa đạo lộ. Như đã nói ‘con đường gọi là đạo lộ với ý nghĩa gì?’ Với ý nghĩa đi đến Niết Bàn, và với ý nghĩa người ao ước Niết Bàn có thể tầm cầu. Cả bốn niệm ấy hoàn thành phận sự trong các đối tượng có thân. v.v, đến Niết Bàn sau đó, và những người ao ước Niết Bàn cần phải thực hành từ ban đầu, vì thế, cả bốn niệm được gọi là con đường duy nhất. Và như vậy, bài thuyết cùng với sự liên kết có lời nói được nói với sự liên kết ‘niệm’ giống như: ‘Này các tỳ khưu, ta sẽ thuyết giảng con đường để tiêu diệt các đạo binh của Ma Vương, các ông hãy lắng nghe -nt- Này các tỳ khưu con đường để tiêu diệt các đạo binh của Ma Vương là gì? Tức là thất giác chi. (saṃ. ni. 5.224); Con đường tiêu diệt đạo quân Ma Vương và thất giác chi với ý nghĩa là một, chỉ khác nhau về văn tự. Cũng tương tự như thế “con đường độc đạo” và “bốn sự thiết lập niệm” với ý nghĩa cũng là một, chỉ khác nhau về văn tự. Vì thế, nên biết rằng ‘con đường’ là cách số ít, bởi vì là con đường duy nhất với ý nghĩa là đạo lộ; là cách số nhiều bởi vì có nhiều niệm do sự khác biệt về đối tượng.

Kasmā pana bhagavatā cattārova satipaṭṭhānā vuttā anūnā anadhikāti? Veneyyahitattā.

Vì sao đức Thế Tôn thuyết sự thiết lập niệm chỉ có bốn, không hơn (bốn) mà cũng không ít hơn (bốn)? Vì sự lợi ích cho chúng sanh có thể lãnh hội được Giáo lý.

Taṇhācaritadiṭṭhicaritasamathayānikavipassanāyānikesu hi mandatikkhavasena dvedhā dvedhā pavattesu veneyyesu mandassa taṇhācaritassa oḷārikaṃ kāyānupassanāsatipaṭṭhānaṃ visuddhimaggo, tikkhassa sukhumaṃ vedanānupassanāsatipaṭṭhānaṃ. Diṭṭhicaritassapi mandassa nātippabhedagataṃ cittānupassanāsatipaṭṭhānaṃ visuddhimaggo, tikkhassa atippabhedagataṃ dhammānupassanāsatipaṭṭhānaṃ visuddhimaggo. Samathayānikassa ca mandassa akicchena adhigantabbanimittaṃ paṭhamaṃ satipaṭṭhānaṃ visuddhimaggo, tikkhassa oḷārikārammaṇe asaṇṭhahanato dutiyaṃ. Vipassanāyānikassapi mandassa nātippabhedagatārammaṇaṃ tatiyaṃ, tikkhassa atippabhedagatārammaṇaṃ catutthaṃ. Iti cattārova vuttā anūnā anadhikāti.

Bởi vì đối với những chúng sanh có tánh tham ái, chúng sanh có tánh tà kiến, hành giả lấy Chỉ tịnh làm phương tiện, và hành giả lấy Minh sát làm phương tiện được diễn tiến mỗi nhóm thành hai do tác động tuệ yếu và tuệ mạnh. Sự thiết lập niệm để quan sát· thân có đối tượng thô là đạo lộ thanh tịnh đối với chúng sanh có thể lãnh hội được Giáo lý có tánh tham ái, có tuệ yếu; sự thiết lập niệm để quan sát thọ có đối tượng vi tế là đạo lộ thanh tịnh đối với chúng sanh có thể lãnh hội được Giáo lý có tánh tham ái, có tuệ mạnh. Sự thiết lập niệm để quan sát tâm có đối tượng không phân tách chi tiết là đạo lộ thanh tịnh đối với chúng sanh có thể lãnh hội được Giáo lý có tánh tà kiến, có tuệ yếu; Sự thiết lập niệm để quan sát Pháp có đối tượng được phân tách chi tiết là đạo lộ thanh tịnh đối với chúng sanh có thể lãnh hội được Giáo lý có tánh tà kiến, có tuệ mạnh. Và sự thiết lập niệm thứ nhất có hình tướng có thể chứng đắc không khó khăn là đạo lộ thanh tịnh của hành giả lấy Chỉ tịnh làm phương tiện, có tuệ yếu (độn căn); Sự thiết lập niệm thứ hai là đạo lộ thanh tịnh của hành giả lấy Chỉ tịnh làm phương tiện, có tuệ mạnh (lợi căn), bởi vì không an trú trong đối tượng thô. Sự thiết lập niệm thứ ba có đối tượng không phân tách chi tiết là đạo lộ thanh tịnh của hành giả lấy Minh sát làm phương tiện, có trí tuệ yếu (độn căn); sự thiết lập niệm thứ tư có các đối tượng được phân tách chi tiết là đạo lộ thanh tịnh của hành giả lấy Minh sát làm phương tiện, có tuệ mạnh (lợi căn). Như vậy cả bốn sự thiết lập niệm được nói đến không hơn không kém, như đã giảng giải.

Subha- sukha- nicca- attabhāva- vipallāsa-p-pahānatthaṃ vā. Kāyo hi asubho, tattha ca subhavipallāsavipallatthā sattā. Tesaṃ tattha asubhabhāvadassanena tassa vipallāsassa pahānatthaṃ paṭhamaṃ satipaṭṭhānaṃ vuttaṃ. Sukhaṃ niccaṃ attāti gahitesupi ca vedanādīsu vedanā dukkhā, cittaṃ aniccaṃ, dhammā anattā, tesu ca sukhaniccaattavipallāsavipallatthā sattā. Tesaṃ tattha dukkhādibhāvadassanena tesaṃ vipallāsānaṃ pahānatthaṃ sesāni tīṇi vuttānīti evaṃ subhasukhaniccaattabhāvavipallāsappahānatthaṃ vā cattārova vuttā anūnā anadhikāti veditabbā. Na kevalañca vipallāsappahānatthameva, atha kho caturoghayogāsavaganthaupādānaagatipahānatthampi catubbidhāhārapariññatthañca cattārova vuttāti veditabbā. Ayaṃ tāva pakaraṇanayo.

Hoặc thuyết sự thiết lập niệm có bốn nhằm mục đích dứt bỏ sự lầm tưởng về sự thanh tịnh, lạc, thường hằng và bản ngã. Thật vậy, thân là bất tịnh, nhưng các chúng sanh lầm tưởng là thanh tịnh trong thân ấy. Để chỉ ra tính chất bất tịnh cho các chúng sanh (ngài) đã thuyết sự thiết lập niệm thứ nhất nhằm mục đích dứt bỏ sự lầm tưởng ấy. Và trong thọ v.v. mà chúng sanh đã nắm lấy cho là lạc, là thường hằng, và là bản ngã; (cũng theo cách đó) thọ cũng là khổ, tâm là vô thường, các pháp là vô ngã, nhưng chúng sanh lầm tưởng cho là lạc, là thường hằng, là bản ngã. Nhưng các chúng sanh vẫn lầm tưởng là lạc, thừng hằng, v.v, trong thọ, tâm và pháp đó. Để chỉ ra tính chất khổ, v.v, trong thọ, tâm, pháp ấy cho các chúng sanh (ngài) mới thuyết ba sự thiết lập niệm còn lại nhằm mục đích dứt bỏ các sự lầm tưởng ấy. Vì thế, nên biết rằng (ngài) thuyết bốn sự thiết lập niệm không hơn không kém cũng nhằm mục đích dứt bỏ sự lầm tưởng về sự thanh tịnh, lạc, thường hằng và bản ngã như đã trình bày. Và không chỉ vì mục đích dứt bỏ sự lầm tưởng mà nên biết rằng thuyết cả bốn sự thiết lập niệm cũng nhằm mục đích dứt bỏ bốn dòng lũ, bốn sự gắn bó, bốn lậu hoặc, bốn sự trói buộc, bốn sự chấp thủ, bốn sự thiên vị và nhằm mục đích biết toàn diện bốn món vật thực. Nên hiểu phương pháp từ Kinh điển Pāḷī trước.

Aṭṭhakathāyaṃ pana saraṇavasena ceva ekattasamosaraṇavasena ca ekameva satipaṭṭhānaṃ ārammaṇavasena cattāroti etadeva vuttaṃ. Yathā hi catudvāre nagare pācīnato āgacchantā pācīnadisāya uṭṭhānakaṃ bhaṇḍaṃ gahetvā pācīnadvārena nagarameva pavisanti, dakkhiṇato. Pacchimato. Uttarato āgacchantā uttaradisāya uṭṭhānakaṃ bhaṇḍaṃ gahetvā uttaradvārena nagarameva pavisanti; evaṃ – sampadamidaṃ veditabbaṃ. Nagaraṃ viya hi nibbānamahānagaraṃ, dvāraṃ viya aṭṭhaṅgiko lokuttaramaggo, pācīnadisādayo viya kāyādayo.

Hơn nữa, theo Aṭṭhakathā ngài nói rằng: sự thiết lập niệm chỉ có một do tác động sự ghi nhớ và do tác động sự họp chung lại thành một có bốn do tác động của đối tượng. Ví như một thành phố có bốn cổng thành, người đang đi đến từ hướng Đông đã mang theo hàng hóa từ hướng Đông, đi vào thành phố qua cổng thành hướng Đông; Tương tự, đối với những ai qua cổng thành hướng Nam, hướng Tây và hướng Bắc. Người đang đi đến từ hướng Bắc đã mang theo hàng hóa từ hướng Bắc đi qua cổng thành hướng Bắc để vào thành phố; như vậy – ví nên biết dụ so sánh này cũng như thế. Thật vậy, thành phố lớn Niết Bàn giống như thành phố. Đạo Siêu Thế có Tám Chi Đạo giống như 4 cổng thành. Sự thiết lập niệm có Thân, v.v, giống như các phương hướng có phương Đông v.v.

Yathā pācīnato āgacchantā pācīnadisāya uṭṭhānakaṃ bhaṇḍaṃ gahetvā pācīnadvārena nagarameva pavisanti, evaṃ kāyānupassanāmukhena āgacchantā cuddasavidhena kāyānupassanaṃ bhāvetvā kāyānupassanābhāvanānubhāvanibbattena ariyamaggena ekaṃ nibbānameva osaranti. Yathā dakkhiṇato āgacchantā dakkhiṇāya disāya uṭṭhānakaṃ bhaṇḍaṃ gahetvā dakkhiṇadvārena nagarameva pavisanti, evaṃ vedanānupassanāmukhena āgacchantā navavidhena vedanānupassanaṃ bhāvetvā vedanānupassanābhāvanānubhāvanibbattena ariyamaggena ekaṃ nibbānameva osaranti. Yathā pacchimato āgacchantā pacchimadisāya uṭṭhānakaṃ bhaṇḍaṃ gahetvā pacchimadvārena nagarameva pavisanti, evaṃ cittānupassanāmukhena āgacchantā soḷasavidhena cittānupassanaṃ bhāvetvā cittānupassanābhāvanānubhāvanibbattena ariyamaggena ekaṃ nibbānameva osaranti. Yathā uttarato āgacchantā uttaradisāya uṭṭhānakaṃ bhaṇḍaṃ gahetvā uttaradvārena nagarameva pavisanti, evaṃ dhammānupassanāmukhena āgacchantā pañcavidhena dhammānupassanaṃ bhāvetvā dhammānupassanābhāvanānubhāvanibbattena ariyamaggena ekaṃ nibbānameva osaranti. Evaṃ saraṇavasena ceva ekattasamosaraṇavasena ca ekameva satipaṭṭhānaṃ ārammaṇavasena cattārova vuttāti veditabbā.

Giống như người đang đi đến từ cổng thành hướng Đông đã mang theo hàng hóa từ phương Đông thông qua cổng thành phía Đông để vào thành phố; Như vậy hành giả thực hành bằng lối vào quan sát thân đã tu tập việc quan sát thân với mười bốn phần để tiến vào một nơi chính là Niết Bàn bằng Thánh Đạo được khởi lên nhờ vào sức mạnh của việc quan sát thân. Giống như người đang đi từ hướng Nam mang theo hàng hóa từ phương Nam thông qua cổng thành phía Nam  đề vào thành phố. Như vậy, hành giả thực hành bằng lối vào quan sát thọ đã tu tập việc quan sát thọ với chín phần để tiến vào một nơi chính là Niết Bàn bằng Thánh Đạo được khởi lên nhờ vào sức mạnh của việc quan sát thọ. Giống như người đang đi từ hướng Tây đã mang theo hàng hóa từ phương Tây thông qua cổng thành phía Tây để đi vào thành phố. Như vậy, hành giả thực hành bằng lối vào quan sát tâm đã tu tập việc quan sát tâm với mười sáu phần để tiến vào một nơi chính là Niết Bàn bằng Thánh Đạo được khởi lên nhờ vào sức mạnh của việc quan sát tâm. Giống như người đang đi từ hướng Bắc đã mang theo hàng hóa từ phương bắc thông qua cổng thành phía Bắc để đi vào thành phố. Như vậy, hành giả bằng lối vào quan sát pháp đã tu tập quan sát pháp với năm phần để tiến vào một nơi chính là Niết Bàn bằng Thánh Đạo được khởi lên nhờ vào sức mạnh của việc quan sát pháp. Nên biết rằng ngài thuyết sự thiết lập niệm chỉ có một do tác động của sự ghi nhớ và do tác động sự họp chung lại một nơi, và có bốn do tác động của đối tượng như đã trình bày.

Katamecattāroti kathetukamyatā pucchā. Idhāti imasmiṃ sāsane. Bhikkhaveti dhammapaṭiggāhakapuggalālapanametaṃ. Bhikkhūti paṭipattisampādakapuggalanidassanametaṃ. Aññepi ca devamanussā paṭipattiṃ sampādentiyeva, seṭṭhattā pana paṭipattiyā bhikkhubhāvadassanato ca ‘‘bhikkhū’’ti āha. Bhagavato hi anusāsaniṃ sampaṭicchantesu bhikkhu seṭṭho, sabbappakārāya anusāsaniyā bhājanabhāvato. Tasmā seṭṭhattā ‘‘bhikkhū’’ti āha. Tasmiṃ gahite pana sesā gahitāva honti, rājagamanādīsu rājaggahaṇena sesaparisā viya. Yo ca imaṃ paṭipattiṃ paṭipajjati, so bhikkhu nāma hotīti paṭipattiyā bhikkhubhāvadassanatopi ‘‘bhikkhū’’ti āha. Paṭipannako hi devo vā hotu manusso vā, bhikkhūti saṅkhyaṃ gacchatiyeva yathāha–

‘‘Alaṅkato cepi samaṃ careyya,

Santo danto niyato brahmacārī;

Sabbesu bhūtesu nidhāya daṇḍaṃ,

So brāhmaṇo so samaṇo sa bhikkhū’’ti. (dha. pa. 142);

Có bốn là những gì? Là câu hỏi tự hỏi tự trả lời. Trong Pháp và Luật này: Trong Giáo Pháp này. Này các tỳ khưu đây là từ để gọi những cá nhân tiếp nhận Pháp. Các tỳ khưu: đây là từ để chỉ hạng người thành tựu với lối thực hành. Chư thiên và nhân loại cả những nhóm khác cũng duy trì việc thực hành đưa đến sự thành tựu. Hơn nữa, ngài đã nói là ‘tỳ khưu’ bởi tính chất người cao thượng và bởi chỉ ra bản thể vị tỳ khưu với việc thực hành. Bởi vì trong số các cá nhân tiếp nhận lời dạy của đức Thế Tôn thì tỳ khưu là cao cả, bởi vì như thể vật đựng chứa đựng những lời dạy ở nhiều khía cạnh khác nhau. Vì thế, ngài đã nói rằng ‘tỳ khưu’ bởi tính chất người cao cả. Hơn nữa, khi nắm lấy ‘tỳ khưu’, thì những người còn lại (Chư thiên và nhân loại) cũng được nắm lấy cả thảy, giống như trong việc ngự giá của đức vua, v.v, các quan cận thần còn lại cũng được bao hàm trong từ ‘hoàng gia’. Và người nào thực hành theo lối thực hành này, người ấy đều được gọi là tỳ khưu, vì lý do đó đức Thế Tôn đã nói là ‘tỳ khưu’ cũng chính vì chỉ ra bản thể tỳ khưu với việc thực hành. Thật vậy, người thực hành là Chư thiên hay là nhân loại thì cũng đều được gọi là ‘tỳ khưu’ cả thảy. Như đã được nói đến rằng –

Đến những người dầu đã được trang sức, nếu thường xuyên thực hành pháp, được trầm tĩnh, đã được rèn luyện, chắc chắn, thực hành Phạm hạnh, (vị ấy) đã buông bỏ sự hành hạ đối với tất cả chúng sanh, vị ấy là Bà-la-môn, vị ấy là Sa-môn, vị ấy là tỳ khưu. (dha. pa. 142);

Kāyeti rūpakāye. Rūpakāyo hi idha aṅgapaccaṅgānaṃ kesādīnañca dhammānaṃ samūhaṭṭhena hatthikāyarathakāyādayo viya kāyoti adhippeto. Yathā ca samūhaṭṭhena, evaṃ kucchitānaṃ āyaṭṭhena. Kucchitānañhi paramajegucchānaṃ so āyotipi kāyo. Āyoti uppattideso. Tatthāyaṃ vacanattho. Āyanti tatoti āyo. Ke āyanti? Kucchitā kesādayo. Iti kucchitānaṃ āyoti kāyo.

Trong thân la trong sắc thân. Thật vậy, sắc thân ở đây muốn đề cập đến ‘thân’ với ý nghĩa sự tập hợp các chi phần lớn nhỏ và các pháp như tóc, v.v, giống như thân voi và thân xe, v.v. Tương tự với ý nghĩa là sự tập hợp (của các chi phần lớn nhỏ), với ý nghĩa là nơi đến của những thứ đáng nhờm gớm cũng như vậy. Bởi vì thân này là nơi đến của những thứ đáng nhờm gớm, là những thứ vô cùng kinh tởm. Chính vì lý do ấy nên gọi là ‘thân’. Nơi đến là nơi sanh ra. Ở đấy, đây là ý nghĩa của lời nói: các thực tính đến từ thân ấy, nguyên nhân ấy thân ấy được gọi là nơi đến. Cái gì đến? Những thứ đáng nhờm gớm có tóc, v.v. Nơi đến bởi vì là chỗ đến của những thứ đáng nhờm gớm là như vậy.

Kāyānupassīti kāye anupassanasīlo kāyaṃ vā anupassamāno. Kāyeti ca vatvāpi puna kāyānupassīti dutiyakāyaggahaṇaṃ asammissato vavatthānaghanavinibbhogādidassanatthaṃ katanti veditabbaṃ. Tena na kāye vedanānupassī vā, cittadhammānupassī vā, atha kho kāyānupassīyevāti kāyasaṅkhāte vatthusmiṃ kāyānupassanākārasseva dassanena asammissato vavatthānaṃ dassitaṃ hoti. Tathā na kāye aṅgapaccaṅgavinimuttaekadhammānupassī, nāpi kesalomādivinimuttaitthipurisānupassī, yopi cettha kesalomādiko bhūtupādāyasamūhasaṅkhāto kāyo, tatthapi na bhūtupādāyavinimuttaekadhammānupassī, atha kho rathasambhārānupassako viya aṅgapaccaṅgasamūhānupassī, nagarāvayavānupassako viya kesalomādisamūhānupassī, kadalikkhandhapattavaṭṭivinibbhujako viya rittamuṭṭhiviniveṭhako viya ca bhūtupādāyasamūhānupassīyevāti nānappakārato samūhavaseneva kāyasaṅkhātassa vatthuno dassanena ghanavinibbhogo dassito hoti. Na hettha yathāvuttasamūhavinimutto kāyo vā itthī vā puriso vā añño vā koci dhammo dissati, yathāvuttadhammasamūhamatteyeva pana tathā tathā sattā micchābhinivesaṃ karonti. Tenāhu porāṇā –

Sự quan sát thân: hành giả thường có sự quan sát trên thân hoặc thường có sự quan sát nơi thân. Đức Thế Tôn mặc dù nói rằng ‘trong thân’ những (bậc trí giả) nên biết rằng ngài sử dụng từ  ‘thân’ lần thứ 2 ‘có sự quan sát thân’ thêm lần nữa; nhằm chỉ ra sự xác định và sự chia chẽ một khối, v.v, không để bị lẫn lộn. Vị tỳ khưu không phải quan sát thọ trên thân, mà cũng không phải quan sát tâm trên thân, hay quan sát pháp trên thân. Thật chất thì vị tỳ khưu chỉ có sự quan sát thân trên thân mà thôi, là thuyết giảng sự xác định không để bị lẫn lộn do việc nhìn thấy các biểu hiện có sự quan sát thân ở các đối tượng được coi là thân. Vì vị tỳ khưu không phải quan sát một pháp nào đó vượt ra ngoài các chi phần lớn nhỏ trong thân, và cũng không quan sát là người nữ, hoặc là người nam ngoại trừ tóc, lông, v.v. Và ở đây, thân nào được xem là sự gom họp lại của sắc tứ đạisắc y sinh có tóc, lông, v.v. Không phải quan sát một pháp vượt ra ngoài sắc tứ đạisắc y sinh, mà thực tế quan sát sự gom họp lại các chi phần lớn nhỏ trong chính thân ấy giống như quan sát các bộ phận của xe; quan sát sự tập hợp lại của tóc, lông, v.v, giống như việc xem xét các phần lớn nhỏ của thành phố; quan sát sự tập hợp lại của sắc tứ đại sắc ý đại sinh giống như bóc tách thân cây chuối từ cây chuối, và giống như mở bàn tay không ra, là thuyết giảng sự chia chẽ một khối bằng sự chỉ ra các đối tượng được coi là thân với chính sự gom họp lại từ nhiều cách thức khác nhau. Sự thật thì thân hoặc người nữ, hay người nam hoặc bất cứ pháp nào khác mà vượt ra khỏi sự gom họp lại như đã nói không xuất hiện trên thân ấy. Nhưng các chúng sanh cố chấp sai lệch như thế này thế kia trong thân vốn dĩ là nơi gom họp lại của các pháp như đã nói. Vì vậy các bậc trưởng thượng đã nói rằng –

‘‘Yaṃ passati na taṃ diṭṭhaṃ, yaṃ diṭṭhaṃ taṃ na passati;

Apassaṃ bajjhate mūḷho, bajjhamāno na muccatī’’ti. –

“Cái nào mà (vị ấy) đang thấy, cái đó không phải là cái mà (vị ấy) đã thấy. Cái nào mà (vị ấy) đã thấy; cái đó không phải là cái mà (vị ấy) đang thấy. Khi không thấy (theo đúng thực thế) mới bị mê muội khi bị bao trùm thì không thể giải thoát.’ –

Ghanavinibbhogādidassanatthanti vuttaṃ, ādisaddena cettha ayampi attho veditabbo. Ayañhi etasmiṃ kāye kāyānupassīyeva, na añña dhammānupassīti vuttaṃ hoti. Yathā anudakabhūtāyapi marīciyā udakānupassino honti, na evaṃ aniccadukkhānattaasubhabhūteyeva imasmiṃ kāye niccasukhaattasubhabhāvānupassī, atha kho kāyānupassī aniccadukkhānattaasubhākārasamūhānupassīyevāti vuttaṃ hoti. Atha vā yvāyaṃ parato ‘‘idha, bhikkhave, bhikkhu araññagato vā…pe… so satova assasatī’’tiādinā nayena assāsapassāsādicuṇṇikajātaaṭṭhikapariyosāno kāyo vutto, yo ca ‘‘idhekacco pathavīkāyaṃ aniccato anupassati, āpokāyaṃ tejokāyaṃ vāyokāyaṃ kesakāyaṃ lomakāyaṃ chavikāyaṃ cammakāyaṃ maṃsakāyaṃ rudhirakāyaṃ nhārukāyaṃ aṭṭhikāyaṃ aṭṭhimiñjakāya’’nti (paṭi. ma. 3.35) paṭisambhidāyaṃ kāyo vutto, tassa sabbassa imasmiññeva kāye anupassanato kāye kāyānupassīti evampi attho veditabbo.

Ngài nói lời này để chỉ ra sự chia chẽ một khối, v.v, và ở đây với từ bắt đầu, v.v, trong từ này nên biết ý nghĩa như sau: Bởi vì, vị tỳ khưu này chỉ có sự quan sát thân trên thân, ngài giải thích rằng: không phải quan sát pháp nào khác. Giống như mọi người nhìn thấy nước trong ảo ảnh, thậm chí ở nơi không có nước, tương tự như thế, (vị tỳ khưu) không có sự quan sát trạng thái vô thường, khổ não, vô ngã, bất tịnh trên thân này; rồi cho rằng thân này có trạng thái thường hằng, an lạc, vô ngã, thanh tịnh; khi ấy, quan sát thân ngài giải thích rằng chỉ quan sát sự gom họp lại của các biểu hiện là vô thường, khổ não, vô ngã và bất tịnh. Hoặc hơn nữa, thân này đây đã được nói trước đó có hơi thở vào, hơi thở ra, v.v, có xương cốt trở thành tro bụi là kết cuộc theo cách thức sau: “Ở đây, này các tỳ khưu, vị tỳ khưu đi đến khu rừng, …nt…  Trú niệm, vị ấy thở vào;” Và thân nào đã được Trưởng lão Sārīputtanói đến trong Phân Tích Đạo rằng: ‘Ở đây, một số vị tỳ khưu quan sát thân (được cấu thành bởi nguyên tố) đất, thân (được cấu thành bởi nguyên tố) nước, thân (được cấu thành bởi nguyên tố) lửa, thân (được cấu thành bởi nguyên tố) gió, thân (được cấu thành bởi) tóc, thân (được cấu thành bởi) lông, thân (được cấu thành bởi) da ngoài, thân (được cấu thành bởi) da trong, thân (được cấu thành bởi) thịt, thân (được cấu thành bởi) máu, thân (được cấu thành bởi) gân, thân (được cấu thành bởi) xương, thân (được cấu thành bởi) tủy xương là vô thường.” (paṭi. ma. 3.35); bậc trí nên nên biết ý nghĩa của thân ấy toàn bộ là như vầy rằng: vị tỳ khưu có sự quan sát thân trên thân bằng cách quan sát chín thân này.

Atha vā kāye ahanti vā mamanti vā evaṃ gahetabbassa yassa kassaci ananupassanato, tassa tasseva pana kesalomādikassa nānādhammasamūhassa anupassanato kāye kesādidhammasamūhasaṅkhātakāyānupassīti evamattho daṭṭhabbo. Apica ‘‘imasmiṃ kāye aniccato anupassati, no niccato’’tiādinā anukkamena paṭisambhidāyaṃ āgatanayassa sabbasseva aniccalakkhaṇādino ākārasamūhasaṅkhātassa kāyassa anupassanatopi kāye kāyānupassīti evampi attho daṭṭhabbo.

Hoặc hơn nữa, nên hiểu ý nghĩa này như vầy rằng: sự quan sát thân được xem là sự gom họp lại của các sắc pháp như tóc, v.v, trên thân, bởi không quan sát bất kỳ một phần nào có thể được xem là ‘ta’ là ‘của ta’ trên thân, nhưng sự quan sát chín thân ấy chỉ thấy là nơi gom họp lại của các pháp khác biệt như tóc, lông v.v. Tuy nhiên, nên hiểu ý nghĩa như vầy rằng: Có sự quan sát thân trên thân, ngay cả sự quan sát thân được gọi là nơi gom họp lại các biểu hiện có trạng thái vô thường, v.v. toàn bộ có cách thức được đề cập trong Phân Tích Đạo theo thứ tự Pāḷī như sau: ‘Có sự quan sát trên thân này là vô thường, không phải là thường, v.v.

Tathā hi ayaṃ kāye kāyānupassanāpaṭipadaṃ paṭipanno bhikkhu imaṃ kāyaṃ aniccānupassanādīnaṃ sattannaṃ anupassanānaṃ vasena aniccato anupassati, no niccato. Dukkhato anupassati, no sukhato. Anattato anupassati, no attato. Nibbindati, no nandati, virajjati, no rajjati, nirodheti, no samudeti, paṭinissajjati, no ādiyati. So taṃ aniccato anupassanto niccasaññaṃ pajahati, dukkhato anupassanto sukhasaññaṃ pajahati, anattato anupassanto attasaññaṃ pajahati, nibbindanto nandiṃ pajahati, virajjanto rāgaṃ pajahati, nirodhento samudayaṃ pajahati, paṭinissajjanto ādānaṃ pajahatīti veditabbo.

Thật vậy, vị tỳ khưu thực hành bằng sự thực hành về sự quan sát thân trên thân này quan sát thân này do tác động của bảy sự quan sát như sự quan sát về vô thường, v.v. quan sát là vô thường, không phải là thường còn; quan sát là khổ não, không phải là an lạc; quan sát là vô ngã, không phải là ngã; nhàm chán, không vui thích; lìa tham ái, không tham ái; làm cho diệt tận, không làm cho sanh khởi; từ bỏ, không nắm giữ. Trong khi quan sát là vô thường, (vị ấy) dứt bỏ sự nghĩ tưởng về thường; trong khi quan sát là khổ não, (vị ấy) dứt bỏ sự nghĩ tưởng về lạc; trong khi quan sát là vô ngã, (vị ấy) dứt bỏ sự suy tưởng về ngã; trong khi nhàm chán, (vị ấy) dứt bỏ sự vui thích; trong khi lìa tham ái, (vị ấy) dứt bỏ tham ái; trong khi làm cho diệt tận, (vị ấy) dứt bỏ nguồn sanh khởi; trong khi từ bỏ, (vị ấy) dứt bỏ sự nắm giữ. Nên biết lời giải thích như đã trình bày.

Viharatīti iriyati. Ātāpīti tīsu bhavesu kilese ātāpetīti ātāpo, vīriyassetaṃ nāmaṃ. Ātāpo assa atthīti ātāpī. Sampajānoti sampajaññasaṅkhātena ñāṇena samannāgato. Satimāti kāyapariggāhikāya satiyā samannāgato. Ayaṃ pana yasmā satiyā ārammaṇaṃ pariggahetvā paññāya anupassati, na hi sativirahitassa anupassanā nāma atthi, tenevāha – ‘‘satiñca khvāhaṃ, bhikkhave, sabbatthikaṃ vadāmī’’ti (saṃ. ni. 5.234). Tasmā ettha ‘‘kāye kāyānupassī viharatī’’ti ettāvatā kāyānupassanāsatipaṭṭhānaṃ vuttaṃ hoti. Atha vā yasmā anātāpino antosaṅkhepo antarāyakaro hoti, asampajāno upāyapariggahe anupāyaparivajjane ca sammuyhati, muṭṭhassati upāyāpariccāge anupāyāpariggahe ca asamattho hoti, tenassa taṃ kammaṭṭhānaṃ na sampajjati. Tasmā yesaṃ dhammānaṃ ānubhāvena taṃ sampajjati, tesaṃ dassanatthaṃ ‘‘ātāpī sampajāno satimā’’ti idaṃ vuttanti veditabbaṃ.

Sống: sinh hoạt. Có nhiệt tâm có ý nghĩa rằng thực tính nào thiêu đốt các phiền não trong 3 cõi thì thức tính ấy gọi là nhiệt tâm, đây là tên gọi của sự tinh tấn. Sự nhiệt tâm của vị ấy tồn tại thì (vị ấy) gọi là có nhiệt tâm. Có sự nhận biết rõ: vị có sự hội đủ với trí được xem là có sự nhận biết rõ. Có niệm: gắn liền với niệm để kiểm soát thân. Hơn nữa, vị tỳ khưu này xác định đối tượng bằng niệm, có sự quan sát bằng tuệ, bởi vì thông thường tuệ quan sát của người xa lìa niệm là không có. Chính vì thế đức Thế Tôn đã nói rằng: ‘Này các tỳ khưu, ta nói rằng niệm quả là có nhiều lợi ích về mọi mặt.” (saṃ. ni. 5.234); Cho nên, ở đây mới nói rằng ‘an trú có sự quan sát thân trên thân’, chỉ bấy nhiêu đó đức Thế Tôn đã thuyết về sự thiết lập niệm về quan sát thân. Hoặc hơn nữa, sự chán nản ở nội tâm gây nguy hại đến người không có sự nhiệt tâm, người không có sự nhận biết rõ (sẽ) quên lãng việc xác định các đường lối và trong việc loại bỏ những thứ không phải đường lối; người có niệm bị quên lãng là không có khả năng trong việc xác định các đường lối và trong việc từ bỏ những thứ không phải đường lối; Với nguyên nhân đó, nghiệp xứ ấy của vị ấy không thành tựu. Vì thế, nghiệp xứ ấy thành tựu nhờ năng lực của các Pháp nào, để thuyết giảng các Pháp ấy nên biết rằng đức Thế Tôn điều này; “có nhiệt tâm, có sự nhận thức rõ, có niệm”.

Iti kāyānupassanāsatipaṭṭhānaṃ sampayogaṅgañcassa dassetvā idāni pahānaṅgaṃ dassetuṃ vineyya loke abhijjhādomanassanti vuttaṃ. Tattha vineyyāti tadaṅgavinayena vā vikkhambhanavinayena vā vinayitvā. Loketi tasmiññeva kāye. Kāyo hi idha lujjanapalujjanaṭṭhena lokoti adhippeto. Yasmā panassa na kāyamatteyeva abhijjhādomanassaṃ pahīyati, vedanādīsupi pahīyatiyeva. Tasmā pañcapi upādānakkhandhā lokoti vibhaṅge vuttaṃ. Lokasaṅkhātattā vā tesaṃ dhammānaṃ atthuddhāranayenetaṃ vuttaṃ. Yaṃ panāha – ‘‘tattha katamo loko? Sveva kāyo loko’’ti, ayamevettha attho. Tasmiṃ loke abhijjhādomanassaṃ vineyyāti evaṃ sambandho daṭṭhabbo. Yasmā panettha abhijjhāggahaṇena kāmacchando, domanassaggahaṇena byāpādo saṅgahaṃ gacchati, tasmā nīvaraṇapariyāpannabalavadhammadvayadassanena nīvaraṇappahānaṃ vuttaṃ hotīti veditabbaṃ.

Sau khi thuyết giảng sự thiết lập niệm về quan sát thân và các yếu tố phối hợp là như thế, bây giờ để thuyết giảng yếu tố của sự dứt bỏ mới thuyết rằng ‘sau khi đã loại trừ tham đắm và ưu phiền ở thế gian’. Trong số những từ ấy, sau khi đã loại trừ: sau khi đã loại trừ với việc loại trừ do thay thế hoặc với việc loại trừ do chế ngự. Ở thế gian: trong chính thân này. Bởi vì, thân trong trường hợp này có ý đề cập đến thế gian với ý nghĩa bị tan rã và bị phân hủy. Như vậy, tham đắm và ưu phiền không chỉ được các hành giả dứt bỏ ở đối tượng trên thân, mà ngay cả thọ v.v, cũng được dứt bỏ. Vì thế, ngài đã nói trong Bộ Phân Tích rằng: ‘sự chấp thủ trong năm uẩn gọi là thế gian’. Hoặc, lời này được nói theo cách thức giảng giải ý nghĩa vì các Pháp ấy được xem là thế gian. Còn lời nào ngài nói rằng – ‘Thế gian là như thế nào? Thế gian cũng hính là thân”. Ở đây, điều này chính là ý nghĩa. Nên biết rằng sự liên hệ ý nghĩa như vầy rằng ‘sau khi đã loại trừ tham đắm và ưu phiền ở thế gian ấy.’ Hơn nữa,  ở đây ước muốn trong các dục được kết hợp với từ tham đắm, sân độc được kết hợp với ưu phiền, do đó nên biết rằng: việc dứt bỏ các pháp ngăn che với việc thuyết giảng Pháp đôi có sức mạnh hệ thuộc pháp ngăn che.

Visesena cettha abhijjhāvinayena kāyasampattimūlakassa anurodhassa, domanassavinayena pana kāyavipattimūlakassa virodhassa, abhijjhāvinayena ca kāye abhiratiyā, domanassavinayena kāyabhāvanāya anabhiratiyā, abhijjhāvinayena kāye abhūtānaṃ subhasukhabhāvādīnaṃ pakkhepassa, domanassavinayena ca kāye bhūtānaṃ asubhāsukhabhāvādīnaṃ apanayanassa ca pahānaṃ vuttaṃ. Tena yogāvacarassa yogānubhāvo yogasamatthatā ca dīpitā hoti. Yogānubhāvo hi esa, yadidaṃ anurodhavirodhavippamutto aratiratisaho abhūtapakkhepabhūtāpanayanavirahito ca hoti. Anurodhavirodhavippamutto cesa aratiratisaho abhūtaṃ apakkhipanto bhūtañca anapanento yogasamattho hotīti.

Và đặc biệt, trong bài kinh này nói đến việc dứt bỏ sự thỏa thích có sự hoàn hảo của thân là gốc rễ bằng sự loại trừ tham đắm, còn (việc dứt bỏ) sự bất mãn có sự hoàn hảo của thân là gốc rễ bằng sự loại trừ ưu phiền, và (việc dứt bỏ) sự vui thích ở thân bằng sự loại trừ tham đắm, (việc dứt bỏ) sự không vui thích trong việc tu tập quan sát thân bằng sự loại trừ ưu phiền, (việc dứt bỏ) của người đặt tính chất thanh tịnh và an lạc, v.v. không thật trong thân bằng sự loại trừ tham đắm, (việc dứt bỏ) việc đem ra khỏi tính chất bất tịnh và không an lạc, v.v, có thật trong thân bằng sự loại trừ ưu phiền. Với lời dạy ấy ngài đã nêu rõ sức mạnh của sự nỗ lực và bản thể có khả năng trong việc thực hành sự nỗ lực của hành giả. Thật vậy, sự mạnh của sự nỗ lực ấy, tức là làm cho thoát khỏi sự thỏa thích và sự bất mãn, là người đã chế ngự được sự ưa thích và không ưa thích, chế ngự sự thích thú và sự không thích thú, và loại bỏ đặt những thứ không thật vào và đưa những thứ có thật ra. Cũng hành giả ấy là vị đã được thoát khỏi sự thỏa thích và sự bất mãn, là vị đã chế ngự sự thích thú và sự không thích thú, không đặt những thứ không thật vào và cũng không đem những thứ có thật ra, (vị ấy) được gọi là vị có khả năng trong việc thực hành sự nỗ lực.

Aparo nayo ‘‘kāye kāyānupassī’’ti ettha anupassanāya kammaṭṭhānaṃ vuttaṃ. ‘‘Viharatī’’ti ettha vuttavihārena kammaṭṭhānikassa kāyapariharaṇaṃ, ‘‘ātāpī’’tiādīsu pana ātāpena sammappadhānaṃ, satisampajaññena sabbatthakakammaṭṭhānaṃ, kammaṭṭhānapariharaṇūpāyo vā. Satiyā vā kāyānupassanāvasena paṭiladdhasamatho, sampajaññena vipassanā abhijjhādomanassavinayena bhāvanābalaṃ vuttanti veditabbaṃ.

Còn điều khác nữa, ở đây thuyết đến nghiệp xứ với sự quan sát như sau ‘có sự quan sát thân trên thân’ này. Sự chăm sóc bản thân của hành giả thực hành nghiệp xứ với sự an trú pháp đã được nói ở đây rằng ‘an trú.’ Hơn nữa, có nhiệt tâm, v.v. nên biết rằng thuyết về chánh tinh tấn với sự nhiệt tâm, thuyết về nghiệp xứ mang lại lợi ích về mọi mặt hoặc sự chăm nom nghiệp xứ bằng niệm và sự nhận biết rõ; hoặc thuyết về Chỉ tịnh đã đạt được do mãnh lực quan sát thân bằng niệm; thuyết về Minh sát bằng sự nhận biết rõ; thuyết về sức mạnh của sự tu tập bằng việc loại bỏ tham lam và phiền muộn.

Vibhaṅge pana anupassīti tattha ‘‘katamā anupassanā? Yā paññā pajānanā vicayo pavicayo dhammavicayo sallakkhaṇā upalakkhaṇā paccupalakkhaṇā paṇḍiccaṃ kosallaṃ nepuññaṃ vebhabyā cintā upaparikkhā bhūrīmedhā pariṇāyikā vipassanā sampajaññaṃ patodo paññā paññindriyaṃ paññābalaṃ paññāsatthaṃ paññāpāsādo paññāāloko paññāobhāso paññāpajjoto paññāratanaṃ amoho dhammavicayo sammādiṭṭhi, ayaṃ vuccati anupassanā. Imāya anupassanāya upeto hoti samupeto upagato samupagato upapanno samannāgato, tena vuccati anupassīti. Viharatīti iriyati pavattati pāleti yapeti yāpeti carati viharati, tena vuccati viharatīti. Ātāpīti tattha katamaṃ ātāpaṃ? Yo cetasiko vīriyārambho nikammo parakkamo uyyāmo vāyāmo ussāho ussoḷhī thāmo dhiti asithilaparakkamatā anikkhittaddandatā anikkhittadhuratā dhurasampaggāhī vīriyaṃ vīriyindriyaṃ vīriyabalaṃ sammāvāyāmo, idaṃ vuccati ātāpaṃ. Iminā ātāpena upeto hoti…pe… samannāgato, tena vuccati ātāpīti. Sampajānoti tattha katamaṃ sampajaññaṃ? Yā paññā pajānanā vicayo pavicayo dhammavicayo sallakkhaṇā upalakkhaṇā paccupalakkhaṇā paṇḍiccaṃ kosallaṃ nepuññaṃ vebhabyā cintā upaparikkhā bhūrīmedhā pariṇāyikā vipassanā sampajaññaṃ patodo paññā paññindriyaṃ paññābalaṃ paññāsatthaṃ paññāpāsādo paññāāloko paññāobhāso paññāpajjoto paññāratanaṃ amoho dhammavicayo sammādiṭṭhi, idaṃ vuccati sampajaññaṃ. Iminā sampajaññena upeto hoti …pe… samannāgato, tena vuccati sampajānoti. Satimāti tattha katamā sati? Yā sati anussati paṭissati sati saraṇatā dhāraṇatā apilāpanatā asammusanatā sati satindriyaṃ satibalaṃ sammāsati, ayaṃ vuccati sati. Imāya satiyā upeto hoti…pe… samannāgato, tena vuccati satimāti.

Con trong Bộ Phân Tích, ‘có sự quan sát’ ở đây “việc quan sát là như thế nào?” Tuệ là sự nhận biết, kiến thức, sự chọn lựa, sự khám phá, sự chọn lựa pháp, sự quan sát, sự suy xét, sự phân biệt, sự thông thái, sự thông thạo, sự khôn khéo, sự thông suốt, sự cân nhắc, sự rõ ràng, sự hiểu biết rộng rãi, sự thông minh, pháp dẫn đầu, sự thấy rõ, sự tỉnh giác, vật xuyên thủng, tuệ là tuệ quyền, tuệ lực, tuệ là vũ khí, tuệ là lâu đài, tuệ là ánh sáng, tuệ là hào quang, tuệ là báu vật, là sự không si mê, sự chọn lựa pháp, chánh kiến. Điều này gọi là việc quan sát. Người đã tiến đến, đã tiến gần, đã tiến vào, đã tiến sát, đã đạt đến, đã đầy đủ, đã thành tựu bằng sự quan sát này, với lý do đó vị ấy gọi là có sự quan sát. An trú: sinh hoạt, vận hành, bảo hộ, hộ trì, bảo dưỡng, thực hành, trú ngụ, với lý do ấy gọi là an trú. Ở đây, có nhiệt tâm, thế nào là có nhiệt tâm? Là pháp thuộc về tâm, là sự ra sức tinh tấn, sự cố gắng, sự nỗ lực, sự siêng năng, sự tinh tấn, sự gắng sức, sự ráng sức, sự dõng mãnh, nghị lực, trạng thái không lơi lỏng sự nỗ lực, trạng thái không buông bỏ sự mong muốn, trạng thái không buông bỏ trách nhiệm, sự đề cao trách nhiệm, sự tinh tấn, tấn quyền, tấn lực, chánh tinh tấn, đây gọi là có sự nhiệt tâm. Người đã tiến đến, đã tiến gần, …nt… đã thành tựu sự nhiệt tâm này, với lý do đó người ấy gọi là có sự nhiệt tâm. Ở đây, có sự nhận biết rõ, thế nào là có sự nhận biết rõ? Tuệ là sự nhận biết, kiến thức, sự chọn lựa, sự khám phá, sự chọn lựa pháp, sự quan sát, sự suy xét, sự phân biệt, sự thông thái, sự thông thạo, sự khôn khéo, sự thông suốt, sự cân nhắc, sự rõ ràng, sự hiểu biết rộng rãi, sự thông minh, pháp dẫn đầu, sự thấy rõ, sự tỉnh giác, vật xuyên thủng, tuệ là tuệ quyền, tuệ lực, tuệ là vũ khí, tuệ là lâu đài, tuệ là ánh sáng, tuệ là hào quang, tuệ là báu vật, là sự không si mê, sự chọn lựa pháp, chánh kiến. Đây gọi là có sự nhận biết rõ. Người đã tiến đến, …nt… đã thành tựu với sự nhận biết rõ này, với lý do đó người ấy gọi là có sự nhận biết rõ. Ở đây, có niệm, thế nào là niệm? Niệm là sự tùy niệm, niệm hiện tiền; niệm là trạng thái ghi nhớ, trạng thái ghi nhận, trạng thái không lơ là, trạng thái không quên lãng; niệm là niệm quyền, niệm lực, chánh niệm; điều này được gọi là niệm. Người đã tiến đến, …nt… đã thành tựu niệm này, với lý do đó người ấy gọi là có niệm.

Vineyya loke abhijjhādomanassanti tattha katamo loko? Sveva kāyo loko. Pañcapi upādānakkhandhā loko, ayaṃ vuccati loko. Tattha katamā abhijjhā? Yo rāgo sārāgo anunayo anurodho nandī nandirāgo cittassa sārāgo, ayaṃ vuccati abhijjhā. Tattha katamaṃ domanassaṃ? Yaṃ cetasikaṃ asātaṃ cetasikaṃ dukkhaṃ cetosamphassajā asātā dukkhā vedanā, idaṃ vuccati domanassaṃ. Iti ayañca abhijjhā, idañca domanassaṃ imamhi loke vinītā honti paṭivinītā santā samitā vūpasamitā atthaṅgatā abbhatthaṅgatā appitā byappitā sositā visositā byantīkatā, tena vuccati vineyya loke abhijjhādomanassa’’nti (vibha. 357-362).

Đã loại bỏ tham đắm và ưu phiền ở thế gian: trong câu đó thế gian là như thế nào? chính thân ấy là thế gian, thế gian chính là năm thủ uẩn, đây gọi là thế gian. Ở đây, thế nào là tham đắm? Sự luyến ái, luyến ái mãnh liệt, sự say đắm, sự chiều chuộng, niềm vui, niềm vui và luyến ái, sự luyến ái mãnh liệt của tâm, đây gọi là tham đắm. Ở đây, thế nào là nỗi ưu phiền? là sự không khoan khoái thuộc về tâm, nỗi khổ sở thuộc về tâm, là sự không khoan khoái, khổ sở sanh lên do ý xúc đã được nhận biết, là cảm thọ không khoan khoái, khổ sở sanh lên do ý xúc, đây gọi là nỗi ưu phiền. Như vậy, cái này là tham đắm, và đây là nỗi ưu phiền ở thế gian này đã được loại bỏ, đã được tẩy trừ, an tịnh, đã được vắng lặng, đã được lắng dịu, đã đi đến sự dập tắt, đã đi đến sự tiêu tan, đã được khô cạn, đã được khô héo, đã được làm cho chấm dứt. Do đó, được gọi là đã loại bỏ tham đắm và ưu phiền ở thế gian. (vibha. 357-362);

Evametesaṃ padānaṃ attho vutto. Tena saha ayaṃ aṭṭhakathānayo yathā saṃsandati, evaṃ veditabbo. Ayaṃ tāva kāyānupassanāsatipaṭṭhānuddesassa atthavaṇṇanā.

Ý nghĩa của những câu ấy đã được nói như vậy, phương thức được đề cập trong Chú Giải này cũng với Pāḷī trong bộ Phân Tích ấy qua việc so sánh chúng, bậc trí nên hiểu như vậy. Sự giải thích ý nghĩa của phần nhập đề sự thiết lập niệm trên việc quan sát thân chỉ bấy nhiêu.

Idāni vedanāsu – citte – dhammesu dhammānupassī viharati…pe… vineyya loke abhijjhādomanassanti ettha vedanāsu vedanānupassīti evamādīsu vedanādīnaṃ puna vacane payojanaṃ kāyānupassanāyaṃ vuttanayeneva veditabbaṃ. Vedanāsu vedanānupassī. Citte cittānupassī. Dhammesu dhammānupassīti ettha pana vedanāti tisso vedanā, tā ca lokiyā eva. Cittampi lokiyaṃ, tathā dhammā. Tesaṃ vibhāgo niddesavāre pākaṭo bhavissati. Kevalaṃ panidha yathā vedanā anupassitabbā, tathā tā anupassanto ‘‘vedanāsu vedanānupassī’’ti veditabbo. Esa nayo cittadhammesupi. Kathañca vedanā anupassitabbāti? Sukhā tāva vedanā dukkhato, dukkhā sallato, adukkhamasukhā aniccato. Yathāha –

Bây giờ, sẽ lý giải câu: ‘(ở đây vị tỳ khưu) sống có sự quan sát thọ ở các thọ – sống có sự quan sát ở tâm ở tâm – sống có sự quan sát pháp ở các pháp …nt… sau khi đã loại trừ tham đắm và ưu phiền ở thế gian’. Hơn nữa, lợi ích về câu nói ở thọ, v.v. được bắt đầu như vầy rằng: “có sự quan sát thọ ở các thọ” nên biết theo cách thức đã được nói trong phần việc quan sát thân (Ở đây vị tỳ khưu) sống có sự quan sát thọ ở các thọ – sống có sự quan sát ở tâm ở tâm – sống có sự quan sát pháp ở các pháp này, lý giải như sau: thọ gồm ba thọ, và ba thọ ấy chỉ là Hiệp Thế. Ngay cả tâm cũng là Hiệp Thế, và các pháp cũng thế. Việc phân tích thọ-tâm-pháp sẽ xuất hiện trong phần giảng giải. Nhưng riêng ở đây, thọ cần được quan sát như thế nào, khi quan sát ba thọ cũng như thế ấy nên biết rằng: “có sự quan sát thọ ở các thọ”. Luôn cả việc quan sát tâm và việc quan sát pháp cũng áp dụng cách thức này. Và thọ cần được quan sát như thế nào? Trước tiên, thọ lạc cần được quan sát là khổ, khổ là mũi tên, không khổ không lạc là vô thường. Như đã nói–

‘‘Yo sukhaṃ dukkhato adda, dukkhamaddakkhi sallato;

Adukkhamasukhaṃ santaṃ, addakkhi naṃ aniccato;

Sa ve sammaddaso bhikkhu, upasanto carissatī’’ti. (saṃ. ni. 4.253);

Người nào đã thấy lạc là khổ, đã thấy khổ là mũi tên; không khổ không lạc hiện có, đã nhìn thấy thọ đó là vô thường; Người ấy là người có chánh kiến, sẽ đi đến tịch tịnh. (saṃ. ni. 4.253);

Sabbā eva cetā dukkhātipi anupassitabbā. Vuttañhetaṃ ‘‘yaṃkiñci vedayitaṃ, sabbaṃ taṃ dukkhasminti vadāmī’’ti (saṃ. ni. 4.259). Sukhadukkhatopi ca anupassitabbā. Yathāha ‘‘sukhā vedanā ṭhitisukhā vipariṇāmadukkhā’’ti (ma. ni. 1.464) sabbaṃ vitthāretabbaṃ. Apica aniccādisattānupassanāvasenapi anupassitabbā. Sesaṃ niddesavāreyeva pākaṭaṃ bhavissati. Cittadhammesupi cittaṃ tāva ārammaṇādhipatisahajātabhūmikamma– vipāka– kiriyādi– nānattabhedānaṃ aniccādisattānupassanānaṃ niddesavāre āgatasarāgādibhedānañca vasena anupassitabbaṃ. Dhammā salakkhaṇasāmaññalakkhaṇānaṃ suññatadhammassa aniccādisattānupassanānaṃ niddesavāre āgatasantāsantādibhedānañca vasena anupassitabbā. Sesaṃ vuttanayameva. Kāmañcettha yassa kāyasaṅkhāte loke abhijjhādomanassaṃ pahīnaṃ, tassa vedanādilokesupi taṃ pahīnameva. Nānāpuggalavasena pana nānācittakkhaṇikasatipaṭṭhānabhāvanāvasena ca sabbattha vuttaṃ. Yato vā ekattha pahīnaṃ sesesupi pahīnaṃ hoti. Tenevassa tattha pahānadassanatthampi evaṃ vuttanti veditabbanti.

Tất cả thọ này cần được quan sát là khổ. Bởi vì điều này đã được đức Thế Tôn nói rằng: ‘Bất cứ điều gì đã được cảm thọ, ta nói rằng toàn bộ điều đó đều là khổ’. (saṃ. ni. 4.259); Và cần được quan sát thọ là thọ lạc, là thọ khổ. Như (tỳ khưu Dhammadinna) đã nói: ‘Hiền giả Visakhā, đối với lạc thọ, cái gì trú là lạc, cái gì biến hoại là khổ’. (ma. ni. 1.464); Nên được giải thích chi tiết toàn bộ. Tuy nhiên, cần được quan sát do nhờ năng lực của bảy sự quan sát như sự quan sát về vô thường, v.v.Điều còn lại sẽ xuất hiện trong phần giảng giải. Trước hết, trong số tâm và pháp, thì tâm cần được quan sát do nhờ mãnh lực của các loại tâm khác nhau có đối tượng, chủ đạo, đồng sanh, cõi, nghiệp, quả, và duy tác, v.v, và do nhờ mãnh lực của các loại tâm có tâm hữu ái, v.v, đều được trình bày trong phần giảng giải của sự quan sát có sự quan sát về vô thường, v.v. Các pháp cần được quan sát do nhờ năng lực của trạng thái riêng và trạng thái chung, của giáo lý không tánh, và do nhờ năng lực của các thể loại Pháp chẳng hạn như Pháp có sự an tịnh đã đến trong phần giảng giải của bảy sự quan sát có sự quan sát về vô thường, v.v. Các từ còn lại có cách thức như đã trình bày. Vị nào đã dứt bỏ tham đắm và ưu phiền ở thế gian được xem là thân trong sự thiết lập niệm ở việc quan sát thân này, thì vì ấy cũng đã dứt bỏ tham đắm và ưu phiền ở thế gian là thọ, v.v, đó. Tuy nhiên, đức Thế Tôn vẫn thuyết sự dứt bỏ tham ái và ưu phiền trong tất cả sự thiết lập niệm về phương diện khác biệt của các cá nhân và về năng lực tu tập sự thiết lập niệm vận hành trong sự khác biệt của mỗi sát-na tâm. Hoặc, bởi vì tham đắm và ưu phiền đã được dứt bỏ trong sự thiết lập niệm thứ nhất thì cũng đã được dứt bỏ trong cả ba sự thiết lập niệm còn lại. Do đó, nên biết rằng sự dứt bỏ tham đắm và ưu phiền này được thuyết giảng như vậy nhằm mục đích chỉ ra sự dứt bỏ trong các sự thiết lập niệm của vị tỳ khưu ấy.

Giải thích về phần nhập đề được kết thúc

 

Giảng giải việc quan sát thân – phần hơi thở vào và hơi thả ra

  1. Idāni seyyathāpi nāma cheko vilīvakārako thūlakilañjasaṇhakilañjacaṅkoṭakapeḷāpuṭādīni upakaraṇāni kattukāmo ekaṃ mahāveṇuṃ labhitvā catudhā bhinditvā tato ekekaṃ veṇukhaṇḍaṃ gahetvā phāletvā taṃ taṃ upakaraṇaṃ kareyya, evameva bhagavā satipaṭṭhānadesanāya sattānaṃ anekappakāraṃ visesādhigamaṃ kattukāmo ekameva sammāsatiṃ ‘‘cattāro satipaṭṭhānā. Katame cattāro? Idha, bhikkhave, bhikkhu kāye kāyānupassī viharatī’’tiādinā nayena ārammaṇavasena catudhā bhinditvā tato ekekaṃ satipaṭṭhānaṃ gahetvā kāyaṃ vibhajanto ‘‘kathañca bhikkhave’’tiādinā nayena niddesavāraṃ vattumāraddho.
    Người thợ đan lát khéo léo, mong muốn làm ra những đồ dùng như chiếu tre sợi thô, chiếu tre sợi mịn, hộp tráp nhỏ, rương và sọt, v.v, sau khi có được một cây tre lớn đã chẻ ra thành làm 4 thanh, lấy mỗi thanh ra vót (tạo thành lát) và (đem lát đó ra) đan thành những đồ dùng cần thiết như thế nào; Đức Thế Tôn cũng tương tự y như vậy, lúc bấy giờ, đức Thế Tôn có ý định làm cho tất cả chúng sanh chứng ngộ sự chứng đắc đặc biệt thông qua việc thuyết giảng sự thiết lập niệm, phân tích một chánh niệm thành bốn phần do tác động về đối tượng theo cách thức sau: “Bốn sự thiết lập niệm, bốn (sự thiết lập niệm) là những gì? Ở đây, này các tỳ khưu, vị tỳ khưu sống có sự quan sát thân trên thân,’ sau khi nắm lấy mỗi một sự thiết lập niệm từ 4 sự thiết lập niệm như vậy, khi phân tích về thân mới bắt đầu giảng giải theo cách thức sau: “Và này các tỳ khưu, vị tỳ khưu…là thế nào?

Tattha kathañcātiādi vitthāretukamyatāpucchā. Ayaṃ panettha saṅkhepattho – bhikkhave, kena ca pakārena bhikkhu kāye kāyānupassī viharatīti? Esa nayo sabbapucchāvāresu. Idha bhikkhave bhikkhūti bhikkhave imasmiṃ sāsane bhikkhu. Ayañhettha idhasaddo sabbappakārakāyānupassanānibbattakassa puggalassa sannissayabhūtasāsanaparidīpano aññasāsanassa tathābhāvapaṭisedhano ca. Vuttañhetaṃ ‘‘idheva bhikkhave, samaṇo…pe… suññā parappavādā samaṇebhi aññehī’’ti (ma. ni. 1.139). Tena vuttaṃ ‘‘imasmiṃ sāsane bhikkhū’’ti.

Ở đây, ‘và như thế nào’ v.v. là câu hỏi nhằm mục đích giải thích chi tiết. Vậy thì ở đây ý nghĩa vắn tắt này như sau: “Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu sống có sự quan sát thân trên thân bằng phương pháp thế nào?” Trong tất cả các câu hỏi đều áp dụng cách thức này. Ở đây, này các tỳ khưu, vị tỳ khưu: này các tỳ khưu, vị tỳ khưu trong Giáo Pháp này. Tư ‘ở đây’ trong lời này là phương tiện để biểu thị Giáo Pháp, vốn là nơi nương nhờ tốt đẹp của những hạng người thực hành sự thiết lập niệm trên việc quan sát thân ở mọi phương diện được sanh khởi, và đồng thời cũng là phương tiện để phủ nhận bản thể không thật của những Giáo phái khác. Bởi vì việc này đã được đức Thế Tôn nói rằng: ‘Này các tỳ khưu chỉ trong giáo pháp này có Sa-môn thứ nhất …nt…. các Giáo phái khác trống rỗng, không có Sa-môn.’ (ma. ni. 1.139); Do đó, đức Thế Tôn đã nói rằng: ‘Vị tỳ khưu trong Giáo Pháp này’.

Araññagato vā rukkhamūlagato vā suññāgāragato vāti idamassa satipaṭṭhānabhāvanānurūpasenāsanapariggahaparidīpanaṃ. Imassa hi bhikkhuno dīgharattaṃ rūpādīsu ārammaṇesu anuvisaṭaṃ cittaṃ kammaṭṭhānavīthiṃ otarituṃ na icchati, kūṭagoṇayuttaratho viya uppathameva dhāvati. Tasmā seyyathāpi nāma gopo kūṭadhenuyā sabbaṃ khīraṃ pivitvā vaḍḍhitaṃ kūṭavacchaṃ dametukāmo dhenuto apanetvā ekamante mahantaṃ thambhaṃ nikhaṇitvā tattha yottena bandheyya. Athassa so vaccho ito cito ca vipphanditvā palāyituṃ asakkonto tameva thambhaṃ upanisīdeyya vā upanipajjeyya vā, evameva imināpi bhikkhunā dīgharattaṃ rūpārammaṇādirasapānavaḍḍhitaṃ duṭṭhacittaṃ dametukāmena rūpādiārammaṇato apanetvā araññaṃ vā rukkhamūlaṃ vā suññāgāraṃ vā pavisitvā tattha satipaṭṭhānārammaṇatthambhe satiyottena bandhitabbaṃ. Evamassa taṃ cittaṃ ito cito ca vipphanditvāpi pubbe āciṇṇārammaṇaṃ alabhamānaṃ satiyottaṃ chinditvā palāyituṃ asakkontaṃ tamevārammaṇaṃ upacārappanāvasena upanisīdati ceva upanipajjati ca. Tenāhu porāṇā –

(Ở đây, này các tỳ khưu,) vị tỳ khưu đi đến khu rừng, hoặc đi đến gốc cây, hoặc đi đến ngôi nhà trống: biểu thị việc xác định trú xứ thích hợp cho việc tu tập sự thiết lập niệm của vị tỳ khưu ấy. Bởi tâm của vị ấy từ lâu đã bị tản mác nơi các đối tượng như sắc, v.v, không mong muốn nhập vào lộ trình nghiệp xứ, luôn có xu hướng đi chệch khỏi con đường đã định, giống như chiếc xe bò được kéo bởi những con bò chưa thuần hóa. Do vậy, giống như người nuôi bò muốn thuần hóa một con bê khó thuần vốn bú sữa từ con bò mẹ không thuần cho đến khi trưởng thành, người ấy cần phải tách nó ra khỏi con bò mẹ, rồi đóng một cây cột lớn, buộc con bê vào cây cột đó bằng một sợi dây thừng. Khi ấy dù con bê có vùng vẫy chạy đi hướng này hay hướng khác, khi không thể thoát được, nó cũng ngồi hoặc nằm yên sát vào chính cây cột ấy; Tương tự y như vậy, vị tỳ khưu tu tập sự thiết lập niệm này với ý định điều phục tâm xấu xa đã được nuôi dưỡng lâu dài bởi sự say đắm trong các đối tượng có sắc, cần tách ra khỏi đối tượng chẳng hạn như đối tượng sắc, v.v, đã đi vào rừng hoặc đi đến gốc cây, hoặc đi đến ngôi nhà trống rồi dùng sợi dây là niệm, buộc vào cây cột là đối tượng của sự thiết lập niệm ấy. Tâm của vị ấy dầu có vùng vẫy mạnh theo hướng này hay hướng kia, nhưng khi không tìm được những đối tượng quen thuộc, tâm sẽ không thể cắt đứt sợi dây là niệm để chạy trốn, cũng sẽ gắn bó chặt chẽ trên chính đối tượng ấy nhờ vào năng lực của cận hành định (upacāra-samādhi) và an chỉ định (appanā-samādhi). Do đó, các bậc trưởng thượng đã nói rằng:

‘‘Yathā thambhe nibandheyya, vacchaṃ damaṃ naro idha; Bandheyyevaṃ sakaṃ cittaṃ, satiyārammaṇe daḷha’’nti. Vin.A. ii 12; D.A. ii 353; M.A. i 252;

Evamassa taṃ senāsanaṃ bhāvanānurūpaṃ hoti. Tena vuttaṃ ‘‘idamassa satipaṭṭhānabhāvanānurūpasenāsanapariggahaparidīpana’’nti.

“Cũng như người nuôi bò muốn thuần hóa con bê cần phải cột nó vào cột trụ, ở đây cũng tương tự như vậy; một người cần phải buộc chặt tâm của mình vào đối tượng bằng niệm. Vin.A. ii 12; D.A. ii 353; M.A. i 252;

Trú xứ đó là trú xứ thích hợp cho việc tu tập sự thiết lập niệm của vị tỳ khưu như thế. Vì vậy tôi mới nói rằng: “Lời này là phương tiện để biểu thị sự xác định trú xứ phù hợp đối với việc tu tập sự thiết lập niệm của vị tỳ khưu.

Apica yasmā idaṃ kāyānupassanāya muddhabhūtaṃ sabbabuddha– paccekabuddha– buddhasāvakānaṃ visesādhigama– diṭṭhadhammasukhavihāra– padaṭṭhānaṃ ānāpānassati-kammaṭṭhānaṃ itthipurisahatthiassādisaddasamākulaṃ gāmantaṃ apariccajitvā na sukaraṃ sampādetuṃ, saddakaṇṭakattā jhānassa. Agāmake pana araññe sukaraṃ yogāvacarena idaṃ kammaṭṭhānaṃ pariggahetvā ānāpānacatutthajjhānaṃ nibbattetvā tadeva jhānaṃ pādakaṃ katvā saṅkhāre sammasitvā aggaphalaṃ arahattaṃ pāpuṇituṃ. Tasmāssa anurūpasenāsanaṃ dassento bhagavā ‘‘araññagato vā’’tiādimāha.

Hơn nữa, bởi vì đề mục niệm hơi thở vốn dĩ là đỉnh cao trong việc quan sát thân, là nền tảng đưa đến việc chứng đắc cao quý và là sự sống an lạc ở hiện tại của chư Phật, chư Phật Độc Giác, chư Thinh Văn, điều này không dễ dàng thành tựu nếu không rời bỏ các thôn làng đầy tiếng ồn từ người nữ, người nam, voi, ngựa, v.v.,  bởi vì âm thanh là cái gai gây cản trở cho thiền. Nhưng hành giả sau khi xác định đề mục thiền định này, làm cho bậc thiền thứ tư có niệm hơi thở làm đối tượng khởi lên, làm cho chính bậc thiền đó trở thành nền tảng, quan sát các hành và đã đạt đến quả vị A-ra-hán, là quả vị tối thắng. Điều này sẽ thực hiện dễ dàng, nhưng chỉ trong rừng, nơi không có thôn làng. Do đó, đức Thế Tôn trong khi giảng giảng về trú xứ thích hợp đối với hành giả mới nói rằng: “Đi đến khu rừng hoặc, v.v.”

Vatthuvijjācariyo viya hi bhagavā. So yathā vatthuvijjācariyo nagarabhūmiṃ passitvā suṭṭhu upaparikkhitvā ‘‘ettha nagaraṃ māpethā’’ti upadisati, sotthinā ca nagare niṭṭhite rājakulato mahāsakkāraṃ labhati, evameva yogāvacarassa anurūpaṃ senāsanaṃ upaparikkhitvā ‘‘ettha kammaṭṭhānaṃ anuyuñjitabba’’nti upadisati. Tato tattha kammaṭṭhānaṃ anuyuñjantena yoginā anukkamena arahatte patte ‘‘sammāsambuddho vata so bhagavā’’ti mahantaṃ sakkāraṃ labhati.

Vì đức Thế Tôn được ví như một bậc thầy thông thạo về địa thế. Vị thầy thông thạo về địa thế sau khi nhìn thấy vùng đất thích hợp để xây dựng thành phố, đã cân nhắc kỹ lưỡng rồi đưa ra chỉ thị rằng: ‘các người hãy xây dựng thành phố ở đây’, và khi thành phố được xây xong một cách tốt đẹp (vị ấy) nhận được vinh dự lớn lao từ dòng dõi hoàng tộc; Cũng tương tự như thế ấy, đức Phật sau khi quan sát kỹ lưỡng trú xứ thích hợp cho hành giả, rồi chỉ dẫn rằng: “Trú xứ này hành giả nên thường xuyên thực hành đề mục thiền định.” Khi hành giả với sự gắn bó thường xuyên thực hành đề mục thiền định ở trú xứ ấy đã đạt đến quả vị A-ra-hán theo tuần tự, và ngài nhận được sự tôn kính trọng thể: ‘Đức Thế Tôn quả thật là bậc Chánh đẳng Chánh Giác’.

Ayaṃ pana bhikkhu dīpisadisoti vuccati. Yathā hi mahādīpirājā araññe tiṇagahanaṃ vā vanagahanaṃ vā pabbatagahanaṃ vā nissāya nilīyitvā vanamahiṃsagokaṇṇasūkarādayo mige gaṇhāti, evameva ayaṃ araññādīsu kammaṭṭhānaṃ anuyuñjanto bhikkhu yathākkamena cattāro magge ceva cattāri ariyaphalāni ca gaṇhāti. Tenāhu porāṇā –

Lại nữa, vị tỳ khưu này được ví như con báo. Cũng giống như vua báo to lớn sống ẩn núp sau những bụi cây rậm, hay sau những dãy ngọn núi trong rừng chờ bắt những con thú rừng như trâu rừng, bò rừng, lợn rừng, v.v., để ăn thịt; tương tự như thế ấy, vị tỳ khưu với sự gắn bó mật thiết tu tập nghiệp xứ ở trong rừng v.v, lần lượt nắm lấy bốn Thánh Đạo và bốn Thánh Quả. Đó là lý do tại sao bậc trưởng thượng nói rằng:

‘‘Yathāpi dīpiko nāma, nilīyitvā gaṇhatī mige;

Tathevāyaṃ buddhaputto, yuttayogo vipassako;

Araññaṃ pavisitvāna, gaṇhāti phalamuttama’’nti.

“Cũng giống như con báo sống ẩn núp chờ bắt những con thú rừng. Cũng tương tự như thế ấy con trai của đức Phật, vị có sự gắn bó mật thiết, vị thực hành Minh sát; đã đi vào khu rừng, rồi nắm lấy quả vị tối thượng;

Tenassa parakkamajavayoggabhūmiṃ araññasenāsanaṃ dassento bhagavā ‘‘araññagato vā’’tiādimāha. Ito paraṃ imasmiṃ tāva ānāpānapabbe yaṃ vattabbaṃ siyā, taṃ visuddhimagge vuttameva. Seyyathāpi, bhikkhave, dakkho bhamakāro vāti idañhi upamāmattameva iti ajjhattaṃ vā kāyeti idaṃ appanāmattameva ca tattha anāgataṃ, sesaṃ āgatameva.

Do đó, đức Thế Tôn khi thuyết giảng về trú xứ ở rừng là nơi thích hợp để thúc đẩy sự nhiệt tâm của hành giả ấy nên ngài mới nói rằng: ‘Đi đến khu rừng…’ Kể từ đây, trước hết trong phần niệm hơi thở này, những điều gì cần nói, những điều đó đã được nói trong tác phẩm Thanh Tịnh Đạo. Này các tỳ khưu, cũng giống như người thợ tiện hay học trò người thợ tiện lành nghề: đây chỉ lời nói dùng để so sánh. Như thế, vị ấy sống có sự quan sát thân ở thân thuộc nội phần: đây chỉ một trạng thái tập trung (appanā), và sự tập trung ấy không xuất hiện trong tác phẩm Thanh Tịnh Đạo ấy, chỉ xuất hiện những từ còn lại.

Yaṃ pana anāgataṃ, tattha dakkhoti cheko. Dīghaṃ vā añchantoti mahantānaṃ bherīpokkharādīnaṃ likhanakāle hatthe ca pāde ca pasāretvā dīghaṃ kaḍḍhanto. Rassaṃ vā añchantoti khuddakānaṃ dantasūcivedhakādīnaṃ likhanakāle mandamandaṃ rassaṃ kaḍḍhanto. Evameva khoti evaṃ ayampi bhikkhu addhānavasena ittaravasena ca pavattānaṃ assāsapassāsānaṃ vasena dīghaṃ vā assasanto dīghaṃ assasāmīti pajānāti …pe… passasissāmīti sikkhatīti. Tassevaṃ sikkhato assāsapassāsanimitte cattāri jhānāni uppajjanti, so jhānā vuṭṭhahitvā assāsapassāse vā pariggaṇhāti jhānaṅgāni vā.

Còn những từ vẫn chưa xuất hiện, người thông thạo: người thiện xảo. Trong khi kéo dây quay dài: việc duỗi tay, duỗi chân để kéo dây quay dài trong quá trình chế tác trống, đàn v.v. là đồ vật lớn. Trong khi kéo dây quay ngắn: kéo sợi dây quay ngắn trong quá trình gia công những món đồ nhỏ như ngà voi, và thanh cài cửa. Tương tự y như vậy: luôn cả vị tỳ khưu này cũng như thế trong khi hơi thở vào dài do tác động hơi thở vào và hơi thở ra diễn ra trong khoảng thời gian dài và ngắn, vị ấy biết rõ: ‘Tôi thở vào dài,’ …nt… ‘Cảm giác toàn thân, tôi sẽ thở ra’ vị ấy thực tập. Trong khi thực tập như vậy bốn tầng thiền khởi lên trong tướng hơi thở vào và hơi thở ra, vị ấy sau khi xuất khỏi thiền, (tiếp tục) tập trung vào hơi thở vào và hơi thở ra, hoặc các chi thiền.

Tattha assāsapassāsakammiko ‘‘ime assāsapassāsā kiṃ nissitā? Vatthunissitā. Vatthu nāma karajakāyo, karajakāyo nāma cattāri mahābhūtāni upādārūpañce’’ti evaṃ rūpaṃ pariggaṇhāti. Tato tadārammaṇe phassapañcamake nāmanti. Evaṃ nāmarūpaṃ pariggahetvā tassa paccayaṃ pariyesanto avijjādipaṭiccasamuppādaṃ disvā ‘‘paccayapaccayuppannadhammamattamevetaṃ, añño satto vā puggalo vā natthī’’ti vitiṇṇakaṅkho sappaccayanāmarūpe tilakkhaṇaṃ āropetvā vipassanaṃ vaḍḍhento anukkamena arahattaṃ pāpuṇāti. Idaṃ ekassa bhikkhuno yāva arahattā niyyānamukhaṃ.

Việc tập trung hơi thở vào và hơi thở ra ấy, vị tỳ khưu gắn bó vào đề mục thiền hơi thở vào và hơi thở ra xác định sắc như vầy rằng: “hơi thở vào và hơi thở ra này nương vào đâu (sanh khởi)? ‘Nương vào sắc vật (sanh khởi), sắc thân gọi là sắc vật, 4 sắc đại hiển và 24 sắc y đại sinh gọi là sắc thân’”. Tiếp đó, xác định danh pháp có xúc là yếu tố thứ năm có sắc ấy làm đối tượng. Sau khi xác định về danh sắc như vậy, (vị ấy) tìm kiếm duyên trợ của danh sắc ấy thấy Giáo Lý Duyên Khởi có vô minh, v.v, đã vượt khỏi sự nghi hoặc rằng: “Đây chỉ là duyên trợ và pháp phát sinh tùy thuộc vào các duyên trợ, không có chúng sinh hoặc cá nhân nào khác (từ hơi thở vào và hơi thở ra)’, gán vào 3 đặc tánh trong danh sắc với duyên trợ để thực hành Minh sát đạt được quả vị A-ra-hán theo tuần tự. Đây là con đường dẫn dắt ra khỏi khổ đau cho đến quả vị A-ra-hán của một vị tỳ khưu.

Jhānakammikopi ‘‘imāni jhānaṅgāni kiṃ nissitāni, vatthunissitāni, vatthu nāma karajakāyo jhānaṅgāni nāmaṃ, karajakāyo rūpa’’nti nāmarūpaṃ vavatthapetvā tassa paccayaṃ pariyesanto avijjādipaccayākāraṃ disvā ‘‘paccayapaccayuppannadhammamattamevetaṃ, añño satto vā puggalo vā natthī’’ti vitiṇṇakaṅkho sappaccayanāmarūpe tilakkhaṇaṃ āropetvā vipassanaṃ vaḍḍhento anukkamena arahattaṃ pāpuṇāti. Idamekassa bhikkhuno yāva arahattā niyyānamukhaṃ.

Vị tỳ khưu hành thiền xác định danh sắc rằng: ‘Những chi thiền này y cứ vào cái gì? ‘Chúng y cứ vào sắc vật. Sắc vật là sắc thân. Các chi thiền là danh pháp. Sắc nghiệp sanh là sắc pháp,’ trong khi tìm kiếm duyên trợ của danh sắc mới thấy Duyên Khởi có vô minh, v.v, (vị ấy) đã vượt khởi sự nghi hoặc rằng: ‘Đây chỉ là duyên trợ và pháp sanh khởi y cứ vào các duyên trợ, không có chúng sinh hay cá nhân nào khác’, gán ba đặc tánh vào danh sắc với duyên trợ để thực hành Minh sát, đạt được quả vị A-ra-hán theo tuần tự. Đây là con đường dẫn dắt ra khỏi khổ đau cho đến quả vị A-ra-hán của một vị tỳ khưu.

Iti ajjhattaṃ vāti evaṃ attano vā assāsapassāsakāye kāyānupassī viharati. Bahiddhā vāti parassa vā assāsapassāsakāye. Ajjhattabahiddhā vāti kālena attano, kālena parassa assāsapassāsakāye. Etenassa paguṇakammaṭṭhānaṃ aṭṭhapetvā aparāparaṃ sañcaraṇakālo kathito. Ekasmiṃ kāle panidaṃ ubhayaṃ na labbhati.

Như thế, … thuộc nội phần: vị ấy sống quan sát thân trên thân là hơi thở vào và hơi thở ra của mình như vậy. Hoặc ngoại phần: Sống quan sát thân trên thân là hơi thở vào và thở ra của người khác. Hoặc cả nội phần và ngoại phần: quan sát thân trên thân là hơi thở vào và hơi thở ra của mình hợp thời, và quan sát thân trên  thân là hơi thở vào và hơi thở ra của người khác hợp thời. Với lời này đức Thế Tôn nói đến thời điểm vị tỳ khưu ấy không dừng đề mục thiền được thực hiện rành rẽ (cho thân là hơi thở vào và hơi thở ra) chuyển động ra vào. Tuy nhiên, cả hai phận sự này không thể đạt được cùng một lúc.

Samudayadhammānupassīvāti yathā nāma kammārassa bhastañca gaggaranāḷiñca tajjañca vāyāmaṃ paṭicca vāto aparāparaṃ sañcarati, evaṃ bhikkhuno karajakāyañca nāsapuṭañca cittañca paṭicca assāsapassāsakāyo aparāparaṃ sañcarati. Kāyādayo dhammā samudayadhammā, te passanto ‘‘samudayadhammānupassī vā kāyasmiṃ viharatī’’ti vuccati. Vayadhammānupassī vāti yathā bhastāya apanītāya gaggaranāḷiyā bhinnāya tajje ca vāyāme asati so vāto nappavattati, evameva kāye bhinne nāsapuṭe viddhaste citte ca niruddhe assāsapassāsakāyo nāma nappavattatīti kāyādinirodhā assāsapassāsanirodhoti evaṃ passanto ‘‘vayadhammānupassī vā kāyasmiṃ viharatī’’ti vuccati. Samudayavayadhammānupassī vāti kālena samudayaṃ kālena vayaṃ anupassanto. Atthi kāyoti vā panassāti kāyova atthi, na satto, na puggalo, na itthī, na puriso, na attā, na attaniyaṃ, nāhaṃ, na mama, na koci, na kassacīti evamassa sati paccupaṭṭhitā hoti.

Hoặc sống có sự quan sát pháp sanh khởi ở thân: Giống như luồng gió dựa vào buồng nung của thợ rèn, ống thổi, và lực đẩy được tạo ra từ ống thổi đó mới dẫn chuyển tới lui; Tương tự như thế, thân là hơi thở vào và hơi thở ra y cứ sắc thân, khoang mũi và tâm của vị tỳ khưu mới chuyển động ra vào được. Các pháp có thân, v.v, mà có bản tánh được sanh lên, trong khi nhìn thấy chúng được gọi là “hoặc sống có sự quan sát pháp sanh khởi ở thân.” Hoặc sống có sự quan sát pháp hoại diệt ở thân: Khi ống bễ bị tháo ra, khi ống thổi bị vỡ, khi lực đẩy được tạo ra từ quạt thổi đó không còn thì luồng gió ấy không thể di chuyển; tương tự y như thế, khi thân hoại diệt, khi khoang mũi bị hỏng, khi tâm đã diệt thì cái gọi là thân tức là hơi thở vào và hơi thở ra cũng không hoạt động nữa.  Trong khi nhìn thấy như vầy rằng ‘hơi thở vào và hơi thở ra diệt’ do thân, v.v, diệt (như thế) ngài gọi là: ‘Hoặc sống có sự quan sát pháp hoại diệt ở thân’. Hoặc sống có sự quan sát pháp sanh khởi và hoại diệt ở thân: quan sát sự sanh khởi đúng thời, và sự hoại diệt đúng thời. Hoặc hơn nữa, niệm ‘có thân’: Niệm của vị tỳ khưu ấy được thiết lập như vầy rằng: chỉ có thân này, không phải chúng sanh, không phải cá nhân, không phải đàn bà, không phải đàn ông, không phải tự ngã, không phải ngã sở, không phải ta, không phải của ta, không phải ai cả, không phải của ai cả v.v, và cũng không phải của ai đó, như vậy niệm của vị ấy được thiết lập.

Yāvadevāti payojanaparicchedavavatthāpanametaṃ. Idaṃ vuttaṃ hoti – yā sā sati paccupaṭṭhitā hoti, sā na aññadatthāya. Atha kho yāvadeva ñāṇamattāya aparāparaṃ uttaruttari ñāṇapamāṇatthāya ceva satipamāṇatthāya ca, satisampajaññānaṃ vuḍḍhatthāyāti attho. Anissito ca viharatīti taṇhānissayadiṭṭhinissayānaṃ vasena anissitova viharati. Na ca kiñci loke upādiyatīti lokasmiṃ kiñci rūpaṃ vā…pe… viññāṇaṃ vā ‘‘ayaṃ me attā vā attaniyaṃ vā’’ti na gaṇhāti. Evampīti upari atthaṃ upādāya sampiṇḍanattho pi-kāro. Iminā pana padena bhagavā ānāpānapabbadesanaṃ niyyātetvā dasseti.

Chỉ để: Từ này được dùng để xác định giới hạn của lợi ích. Ở đây được nói là – niệm nào được thiết lập, thì (niệm) ấy không nhằm mục đích gì khác. (mà) thực chất, chỉ đơn thuần vì lợi ích của trí, và chỉ vì lợi ích ước lượng của trí ngày càng tăng trưởng hơn và chỉ vì lợi chỉ lợi ích ước lượng của niệm; có nghĩa là nhằm mục đích cho sự tăng trưởng của niệm và sự nhận biết rõ. Vị ấy sống không nương tựa: (vị ấy) an trú hoàn toàn không lệ thuộc do tác động của sự nương tựa vào tham ái và sự nương tựa vào tà kiến. Không chấp thủ vào bất cứ điều gì ở thế gian: (vị ấy) không nắm lấy bất cứ điều gì ở thế gian là sắc ….nt…. hoặc thức (cho rằng) ‘cái này là ngã, hoặc cái này thuộc về bản ngã’. Từ ‘pi’ trong từ ‘evampi’ được sử dụng với ý nghĩa là dựa trên nội dung phía trước để tổng hợp lại. Hơn nữ, với câu này đức Thế Tôn đã ban bài thuyết giảng pháp phần hơi thở vào và hơi thở ra.

Tattha assāsapassāsapariggāhikā sati dukkhasaccaṃ, tassā samuṭṭhāpikā purimataṇhā samudayasaccaṃ ubhinnaṃ appavatti nirodhasaccaṃ, dukkhaparijānano samudayapajahano nirodhārammaṇo ariyamaggo maggasaccaṃ. Evaṃ catusaccavasena ussakkitvā nibbutiṃ pāpuṇātīti idamekassa assāsapassāsavasena abhiniviṭṭhassa bhikkhuno yāva arahattā niyyānamukhanti.

Trong phần hơi thở vào và hơi thở ra ấy thì niệm ghi nhận hơi thở vào và hơi thở ra làm đối tượng là Khổ Đế. Tham ái quá khứ làm cho Khổ Đế thiết lập là Tập Đế. Sự không vận hành của cả hai (Khổ Đế và Tập Đế) là Diệt Đế. Thánh đạo biết toàn diện Khổ Đế, dứt bỏ Tập Đế và có Diệt Đế làm đối tượng là Đạo Đế. Như vậy, sau khi nỗ lực do nhờ năng lực Tứ Thánh Đế, vị ấy đi đến sự tịch diệt (Niết Bàn). Đây là con đường dẫn dắt ra khỏi khổ đau cho đến quả vị A-ra-hán của một vị tỳ khưu đã an trú nhờ vào tác động của hơi thở vào và hơi thở ra.

Giải thích phần hơi thở vào và hơi thở ra được kết thúc

 

Giải thích phần oai nghi

  1. Evaṃ assāsapassāsavasena kāyānupassanaṃ vibhajitvā idāni iriyāpathavasena vibhajituṃ puna caparantiādimāha. Tattha kāmaṃ soṇasiṅgālādayopi gacchantā ‘‘gacchāmā’’ti jānanti, na panetaṃ evarūpaṃ jānanaṃ sandhāya vuttaṃ. Evarūpañhi jānanaṃ sattūpaladdhiṃ na pajahati, attasaññaṃ na ugghāṭeti, kammaṭṭhānaṃ vā satipaṭṭhānabhāvanā vā na hoti. Imassa pana bhikkhuno jānanaṃ sattūpaladdhiṃ pajahati, attasaññaṃ ugghāṭeti kammaṭṭhānañceva satipaṭṭhānabhāvanā ca hoti. Idañhi ‘‘ko gacchati, kassa gamanaṃ, kiṃ kāraṇā gacchatī’’ti evaṃ sampajānanaṃ sandhāya vuttaṃ. Ṭhānādīsupi eseva nayo.
    Sau khi phân tích việc quan sát thân do nhờ hơi thở vào và hơi thở ra, bây giờ để phân tích dựa vào các oai nghi ngài mới nói rằng: Còn điều khác nữa. Trong phần oai nghi ấy ngay cả loài chó nhà, và loài cáo, v.v, trong khi đang đi cũng biết rằng ‘bản thân chúng đang đi’, tuy nhiên đức Thế Tôn không đề cập đến sự hiểu biết có hình thức như vậy. Bởi vì, sự hiểu biết có hình thức như vậy không dứt bỏ được quan niệm về chúng sanh, không diệt trừ được sự suy tưởng về ngã, không là đề mục thiền định hoặc sự tu tập sự thiết lập niệm. Còn sự hiểu biết của vị tỳ khưu này dứt bỏ được quan niệm về chúng sanh, diệt trừ được sự suy tưởng về ngã, và là để mục thiền định và cũng là tu tập sự thiết lập niệm. Và lời được nói đề cập đến sự nhận biết rõ như vầy rằng: “Ai đi? Việc đi của ai? Đi vì lý do gì?” Ngay cả những oai nghi khác có oai nghi đứng, v.v., cũng có cách thức tương tự.

Tattha ko gacchatīti? Na koci satto vā puggalo vā gacchati. Kassa gamananti? Na kassaci sattassa vā puggalassa vā gamanaṃ. Kiṃ kāraṇā gacchatīti? Cittakiriyavāyodhātuvipphārena gacchati. Tasmā esa evaṃ pajānāti – ‘‘gacchāmī’’ti cittaṃ uppajjati, taṃ vāyaṃ janeti, vāyo viññattiṃ janeti, cittakiriyavāyodhātuvipphārena sakalakāyassa purato abhinīhāro gamananti vuccati. Ṭhānādīsupi eseva nayo.

Tại đấy, ai đi? không phải chúng sanh hay hạng người nào đi cả. Việc đi của ai? không phải việc đi của chúng sanh hay hạng người nào cả. Đi vì lý do gì? Đi nhờ sự chuyển động của phong giới khởi lên từ tâm tố. Do đó, vị tỳ khưu này biết rõ như vầy – tâm sanh khởi ‘tôi đi’, tâm đó làm khởi lên chất gió, chất gió tạo ra sự chuyển động, sự đưa toàn thân tiến về phía trước nhờ sự chuyển động của phong giới khởi lên từ tâm tố, nên gọi là ‘đi’. Luôn cả oai nghi đứng v.v,  cũng áp dụng cách thức ấy.

Tatrāpi hi ‘‘tiṭṭhāmī’’ti cittaṃ uppajjati, taṃ vāyaṃ janeti, vāyo viññattiṃ janeti, cittakiriyavāyodhātuvipphārena sakalakāyassa koṭito paṭṭhāya ussitabhāvo ṭhānanti vuccati. ‘‘Nisīdāmī’’ti cittaṃ uppajjati, taṃ vāyaṃ janeti, vāyo viññattiṃ janeti, cittakiriyavāyodhātuvipphārena heṭṭhimakāyassa samiñjanaṃ uparimakāyassa ussitabhāvo nisajjāti vuccati. ‘‘Sayāmī’’ti cittaṃ uppajjati, taṃ vāyaṃ janeti, vāyo viññattiṃ janeti, cittakiriyavāyodhātuvipphārena sakalasarīrassa tiriyato pasāraṇaṃ sayananti vuccatīti.

Ngay cả oai nghi đứng ấy v.v, tâm sanh khởi ‘tôi đứng’, tâm đó làm khởi lên chất gió, chất gió tạo ra sự chuyển động, sự giữ thăng bằng của toàn bộ cơ thể từ lòng bàn chân cho đến đỉnh đầu, nhờ sự chuyển động của phong giới khởi lên từ tâm tố, điều này được gọi là ‘đứng’. Tâm sanh khởi ‘tôi ngồi’, tâm đó làm khởi lên chất gió, chất gió tạo ra sự chuyển động, sự gập phần dưới của cơ thể và việc giữ thẳng đứng phần trên của cơ thể do sự chuyển động của phong giới khởi lên từ tâm tố được gọi là ‘ngồi’. Tâm sanh khởi ‘tôi nằm, tâm đó làm khởi lên chất gió, chất gió tạo ra sự chuyển động, Việc duỗi toàn bộ cơ thể theo chiều dài nhờ sự chuyển động của phong giới khởi lên từ tâm tố được gọi là ‘nằm’.

Tassa evaṃ pajānato evaṃ hoti ‘‘satto gacchati, satto tiṭṭhatī’’ti vuccati, atthato pana koci satto gacchanto vā ṭhito vā natthi. Yathā pana ‘‘sakaṭaṃ gacchati, sakaṭaṃ tiṭṭhatī’’ti vuccati, na ca kiñci sakaṭaṃ nāma gacchantaṃ vā ṭhitaṃ vā atthi, cattāro pana goṇe yojetvā chekamhi sārathimhi pājente ‘‘sakaṭaṃ gacchati, sakaṭaṃ tiṭṭhatī’’ti vohāramattameva hoti, evameva ajānanaṭṭhena sakaṭaṃ viya kāyo, goṇā viya cittajavātā, sārathi viya cittaṃ. ‘‘Gacchāmi tiṭṭhāmī’’ti citte uppanne vāyodhātu viññattiṃ janayamānā uppajjati, cittakiriyavāyodhātuvipphārena gamanādīni pavattanti, tato ‘‘satto gacchati, satto tiṭṭhati, ahaṃ gacchāmi, ahaṃ tiṭṭhāmī’’ti vohāramattaṃ hoti. Tenāha –

Khi vị tỳ khưu biết rõ như vậy có ý nghĩ như vầy, được nói rằng “chúng sanh đang đi, chúng sanh đang đứng”. Nhưng về ý nghĩa thì ‘không có chúng sanh nào đang đi mà cũng không có chúng sanh nào đang đứng’. Cũng như nói rằng: “cỗ xe đang đi, cỗ xe đang dừng”, nhưng thật chất thì không có cỗ xe nào đang đi, mà cũng không có cỗ xe nào đang dừng, chỉ khi người đánh xe thiện xảo buộc bốn con bò vào cỗ xe và điều khiển chúng thì “cỗ xe mới đi, cỗ xe mới dừng” những lời nói ấy chỉ là sự quy ước giả định mà thôi; Tương tự như vậy, thân này giống như cỗ xe với ý nghĩa không có sự nhận thức, chất gió được tạo ra từ tâm tựa như con bò, và tâm tợ như người đánh xe. Khi tâm sanh khởi ‘tôi đi, tôi đứng’, phong giới tạo ra sự chuyển động liền sanh lên, các oai nghi co oai nghi đi được vận hành nhờ sự chuyển động của phong giới khởi lên từ tâm tố, từ đó “chúng sinh đi, chúng sinh đứng, tôi đi, tôi đứng,” những lời ấy chỉ là sự quy ước giả định mà thôi. Do đó, các bậc trưởng thượng đã nói rằng–

‘‘Nāvā mālutavegena, jiyāvegena tejanaṃ;

Yathā yāti tathā kāyo, yāti vātāhato ayaṃ.

Yantaṃ suttavaseneva, cittasuttavasenidaṃ;

Payuttaṃ kāyayantampi, yāti ṭhāti nisīdati.

Ko nāma ettha so satto, yo vinā hetupaccaye;

Attano ānubhāvena, tiṭṭhe vā yadi vā vaje’’ti.

Tasmā evaṃ hetupaccayavaseneva pavattāni gamanādīni sallakkhento esa gacchanto vā gacchāmīti pajānāti, ṭhito vā, nisinno vā, sayāno vā sayānomhīti pajānātīti veditabbo.

​​“Giống như con thuyền lướt đi nhờ lực đẩy của gió, mũi tên bay đi nhờ lực của dây; Cũng tương tự y như thế thân này đi được cũng nhờ vào sức gió bên trong.”

“Như sợi dây điều khiển được buộc vào lưng của con rối, cũng thế tâm được gắn kết với cơ thể. Chính tâm điều khiển mà cơ thể chuyển động, đứng lên, hoặc ngồi xuống.

“Trên thế gian này có chúng sanh nào, loại trừ các điều kiện hỗ trợ mà chúng sanh ấy (có thể) đứng hoặc (có thể) đi nhờ vào sức mạnh của chính mình?”

Do đó, nên biết rằng vị tỳ khưu này xác định các oai nghi có oai nghi đi, v.v, chỉ vận hành do nhờ tác động của nhân duyên như vầy, trong khi đi biết rõ “tôi đi”, hoặc trong khi đứng biết rõ “tôi đứng”, hoặc trong khi ngồi biết rõ “tôi ngồi”, hoặc trong khi nằm biết rõ “tôi đang nằm”.

Yathā yathā vā panassa kāyo paṇihito hoti, tathā tathā naṃ pajānātīti sabbasaṅgāhikavacanametaṃ. Idaṃ vuttaṃ hoti – yena yena vā ākārenassa kāyo ṭhito hoti, tena tena naṃ pajānāti. Gamanākārena ṭhitaṃ gacchatīti pajānāti. Ṭhānanisajjasayanākārena ṭhitaṃ sayānoti pajānātīti.

Hoặc thân của vị này được vận hành như thế nào thì biết rõ nó như thế ấy: Đấy là lời nói đã bao hàm tất cả oai nghi. Điều này được nói là – hoặc thân của hành giả duy trì với trạng thái nào (vị ấy) biết rõ thân ấy với biểu hiện ấy. Thân duy trì với trạng thái đi biết rõ ‘tôi đi’, thân duy trì với trạng thái đứng, ngồi, hoặc nằm biết rõ ‘tôi đứng’, ‘tôi ngồi’, hoặc ‘tôi nằm v.v.’

Iti ajjhattaṃ vāti evaṃ attano vā catuiriyāpathapariggaṇhanena kāye kāyānupassī viharati. Bahiddhā vāti parassa vā catuiriyāpathapariggaṇhanena. Ajjhattabahiddhā vāti kālena attano, kālena parassa catuiriyāpathapariggaṇhanena kāye kāyānupassī viharati. Samudayadhammānupassī vātiādīsu pana ‘‘avijjāsamudayā rūpasamudayo’’tiādinā (paṭi. ma. 1.49) nayena pañcahākārehi rūpakkhandhassa samudayo ca vayo ca nīharitabbo. Tañhi sandhāya idha ‘‘samudayadhammānupassī vā’’tiādi vuttaṃ. Atthi kāyoti vā panassātiādi vuttasadisameva.

Như vậy … thuộc nội phần: vị ấy sống có sự quan sát thân trên thân với sự xác định bốn oai nghi của chính mình. Như vậy … thuộc ngoại phần: Hoặc có sự quan sát bốn oai nghi của người khác. Hoặc thuộc nội phần và ngoại phần: Hoặc vị ấy sống quan sát thân trên thân với sự xác định bốn oai nghi của mình hợp thời, và của người khác hợp thời. Hoặc sống có sự quan sát pháp sanh khởi ở thân: sự sanh khởi và sự hoại diệt của sắc uẩn nên đem ra trình bày với năm biểu hiện theo phương pháp sau: ‘Do sự sanh khởi của vô minh có sự sanh khởi của sắc, v.v.’ (paṭi. ma. 1.49); Ở đây, đức Thế Tôn đề cập đến sự sanh và sự diệt ấy, đã nói rằng: ‘Hoặc sống có sự quan sát pháp sanh khởi ở thân.’ Hoặc hơn nữa, niệm “có thân”: Có nội dung như đã được trình bày trước đó.

Idha pana catuiriyāpathapariggāhikā sati dukkhasaccaṃ, tassā samuṭṭhāpikā purimataṇhā samudayasaccaṃ , ubhinnaṃ appavatti nirodhasaccaṃ, dukkhaparijānano samudayapajahano nirodhārammaṇo ariyamaggo maggasaccaṃ. Evaṃ catusaccavasena ussakkitvā nibbutiṃ pāpuṇātīti idamekassa catūiriyāpathapariggāhakassa bhikkhuno yāva arahattā niyyānamukhanti.

Trong phần oai nghi này, niệm xác định bốn oai nghi là Khổ Đế. Tham ái quá khứ làm cho niệm xác định bốn oai nghi được thiết lập là Tập Đế. Sự chấm dứt cả hai (Khổ Đế và Tập Đế) là Diệt Đế. Thánh đạo biết toàn diện Khổ Đế, dứt bỏ Tập Đế và có Diệt Đế làm đối tượng là Đạo Đế. Như vậy, hành giả sau khi nỗ lực do nhờ năng lực Tứ Thánh Đế đạt đến sự tịch diệt. Đây là con đường dẫn dắt ra khỏi khổ đau cho đến quả vị A-ra-hán của một vị tỳ khưu xác định bốn oai nghi.

Giải thích phần oai nghi  được kết thúc

 

Giải thích phần bốn việc nhận biết rõ

  1. Evaṃ iriyāpathavasena kāyānupassanaṃ vibhajitvā idāni catusampajaññavasena vibhajituṃ puna caparantiādimāha. Tattha abhikkantetiādīni sāmaññaphale vaṇṇitāni. Iti ajjhattaṃ vāti evaṃ catusampajaññapariggaṇhanena attano vā kāye, parassa vā kāye, kālena vā attano, kālena vā parassa kāye kāyānupassī viharati. Idhāpi samudayavayadhammānupassītiādīsu rūpakkhandhasseva samudayo ca vayo ca nīharitabbo. Sesaṃ vuttasadisameva.
    Sau khi giải thích việc quan sát thân dựa trên các oai nghi, bây giờ để phân tích thông qua bốn việc nhận biết rõ, ngài đã nói rằng: còn có điều khác nữa. Ở đây, khi bước tới bước lui: đã giải thích trong bài Kinh Sāmaññaphala. Như vậy … thuộc nội phần: vị ấy sống có sự quan sát thân trên thân của mình, hoặc trên thân của người khác, hoặc trên thân của mình hợp thời, hoặc trên thân của người khác hợp thời với việc xác định bốn sự nhận biết rõ như vậy. Luôn cả trong phần sự nhận biết rõ này, hoặc sống có sự quan sát pháp sanh khởi và hoại diệt ở thân: sự sanh khởi và sự hoại diệt của chính sắc uẩn ấy cũng nên đem ra để trình bày. Các từ còn lại cũng tương tự như đã nói.

Idha catusampajaññapariggāhikā sati dukkhasaccaṃ, tassā samuṭṭhāpikā purimataṇhā samudayasaccaṃ, ubhinnaṃ appavatti nirodhasaccaṃ, vuttappakāro ariyamaggo maggasaccaṃ. Evaṃ catusaccavasena ussakkitvā nibbutiṃ pāpuṇātīti idamekassa catusampajaññapariggāhakassa bhikkhuno vasena yāva arahattā niyyānamukhanti.

 Ở đây, niệm xác định bốn việc nhận biết rõ là Khổ Đế, tham ái quá khứ làm cho niệm xác định bốn việc nhận biết rõ được thiết lập là Tập Đế, sự không sanh khơi cả hai (Khổ Đế và Tập Đế) là Diệt Đế. Thánh đạo có cách đã nói là Đạo Đế. Hành giả sau khi nỗ lực do tác động Tứ Thánh Đế như vậy đạt đến sự tịch tịnh, đây là con đường dẫn dắt ra khỏi khổ đau cho đến quả vị A-ra-hán của một vị tỳ khưu xác định bốn việc nhận biết rõ.

Phần bốn việc nhận biết rõ – được kết thúc

 

Giải thích phần tác ý vật ghê tởm

  1. Evaṃ catusampajaññavasena kāyānupassanaṃ vibhajitvā idāni paṭikūlamanasikāravasena vibhajituṃ puna caparantiādimāha. Tattha imameva kāyantiādīsu yaṃ vattabbaṃ siyā, taṃ sabbaṃ sabbākārena vitthārato visuddhimagge kāyagatāsatikammaṭṭhāne vuttaṃ. Ubhatomukhāti heṭṭhā ca upari cāti dvīhi mukhehi yuttā. Nānāvihitassāti nānāvidhassa.
    Sau khi phân tích việc quan sát thân dựa trên bốn việc nhận thức rõ như vậy, bây giờ, để phân tích thông qua tác ý vật ghê tởm ngài đã nói rằng: “còn có điều khác nữa, v.v.” Trong phần đó, “chính thân này v.v,” từ nào cần được nói, tất cả những từ đó đã được nói đến trong phần đề mục thiền định về niệm hướng đến thân thuộc Thanh Tịnh Đạo với đầy đủ mọi khía cạnh một cách chi tiết. Có miệng ở cả hai đầu: (bao tải) buộc miệng ở hai đầu là miệng trên và miệng dưới. Nhiều loại khác nhau: Có nhiều loại khác nhau.

Idaṃ panettha opammasaṃsandanaṃ – ubhatomukhā putoḷi viya hi cātumahābhūtiko kāyo, tattha missetvā pakkhittanānāvidhadhaññaṃ viya kesādayo dvattiṃsākārā, cakkhumā puriso viya yogāvacaro, tassa taṃ putoḷiṃ muñcitvā paccavekkhato nānāvidhadhaññassa pākaṭakālo viya yogino dvattiṃsākārassa vibhūtakālo veditabbo. Iti ajjhattaṃ vāti evaṃ kesādipariggaṇhanena attano vā kāye, parassa vā kāye, kālena vā attano, kālena vā parassa kāye kāyānupassī viharati. Ito paraṃ vuttanayameva. Kevalañhi idha dvattiṃsākārapariggāhikā sati dukkhasaccanti evaṃ yojanaṃ katvā niyyānamukhaṃ veditabbaṃ. Sesaṃ purimasadisamevāti.

Trong vấn đề này có ví dụ so sánh như sau – Thân được cấu thành từ bốn đại (đất, nước, lửa, gió) giống như một cái bao tải có miệng ở hai đầu. Ba mươi hai bộ phận (của cơ thể) như tóc, v.v, được ví như nhiều loại hạt trộn lẫn với nhau trong chiếc bao tải ấy. Hành giả được ví như người đàn ông có đôi mắt tốt, thời điểm khi ba mươi hai bộ phận hiển lộ rõ ràng đối với hành giả thì nên biết rằng cũng giống như thời điểm hiện rõ của các loại hạt khác nhau đối với người nông dân khi mở chiếc bao ấy ra và xem xét. Như vậy …. thuộc nội phần: vị ấy sống có sự quan sát thân trên thân của chính mình, hoặc trên thân của người khác, hoặc trên thân của mình hợp thời, hoặc trên thân của người khác hợp thời bằng việc xác định tóc, v.v. Những từ tiếp theo trong đoạn này có thể áp dụng theo cách đã được nêu trước. Ở phần này điểm khác biệt duy nhất là cần được phối hợp ý nghĩa như sau– niệm ghi nhận ba mươi hai bộ phận là Khổ Đế, nên biết rằng đây là con đường dẫn dắt ra khỏi khổ đau. Những từ còn lại ngoài những từ đã giải thích thì tương tự những từ trước đó.

Phần tác ý vật ghê tởm được kết thúc

 

Giải thích phần tác ý nguyên tố

  1. Evaṃ paṭikūlamanasikāravasena kāyānupassanaṃ vibhajitvā idāni dhātumanasikāravasena vibhajituṃ puna caparantiādimāha. Tatthāyaṃ opammasaṃsandanena saddhiṃ atthavaṇṇanā – yathā koci goghātako vā tasseva vā bhattavetanabhato antevāsiko gāviṃ vadhitvā vinivijjhitvā catasso disā gatānaṃ mahāpathānaṃ saṅkhāte catumahāpathe koṭṭhāsaṃ koṭṭhāsaṃ katvā nisinno assa, evameva bhikkhu catunnaṃ iriyāpathānaṃ yena kenaci ākārena ṭhitattā yathāṭhitaṃ, yathāṭhitattā ca yathāpaṇihitaṃ kāyaṃ ‘‘atthi imasmiṃ kāye pathavīdhātu…pe… vāyodhātū’’ti evaṃ paccavekkhati.
    Sau khi phân tích việc quan sát thân thông qua dựa vào tác ý vật ghê tởm như vậy, giờ đây để phân tích dựa vào tác ý nguyên tố ngài đã nhắc đến rằng “còn có điều khác nữa, v.v.” Trong phần này, ngài giải thích ý nghĩa cùng với một ẩn dụ như sau: Cũng giống như một số người đồ tể hoặc học trò của người đồ tể lành nghề được nuôi dưỡng nhờ vào vật thực và tiền thù lao, sau khi giết chết con bò cái phân chia thành từng phần rồi ngồi ở ngã tư đường lớn, chỗ giao nhau giữa các con đường lớn nơi có thể đi được cả bốn hướng; tương tự như vậy vị tỳ khưu xem xét thân này dựa trên cách sắp xếp trong trạng thái vững chắc gắn liền với một trong bốn biểu hiện của bốn oai nghi (đi, đứng, nằm, ngồi), theo cách được bố trí và theo cách được vận hành như vầy: “Trong thân này có nguyên tố đất, ….nt…. nguyên tố gió.’”

Kiṃ vuttaṃ hoti – yathā goghātakassa gāviṃ posentassāpi āghātanaṃ āharantassāpi āharitvā tattha bandhitvā ṭhapentassapi vadhentassāpi vadhitaṃ mataṃ passantassāpi tāvadeva gāvīti saññā na antaradhāyati, yāva naṃ padāletvā bilaso na vibhajati. Vibhajitvā nisinnassa panassa gāvīti saññā antaradhāyati, maṃsasaññā pavattati. Nāssa evaṃ hoti – ‘‘ahaṃ gāviṃ vikkiṇāmi, ime gāviṃ harantī’’ti. Atha khvassa ‘‘ahaṃ maṃsaṃ vikkiṇāmi, ime maṃsaṃ haranti’’ cceva hoti; evameva imassāpi bhikkhuno pubbe bālaputhujjanakāle gihibhūtassāpi pabbajitassāpi tāvadeva sattoti vā puggaloti vā saññā na antaradhāyati, yāva imameva kāyaṃ yathāṭhitaṃ yathāpaṇihitaṃ ghanavinibbhogaṃ katvā dhātuso na paccavekkhati. Dhātuso paccavekkhato panassa sattasaññā antaradhāyati, dhātuvaseneva cittaṃ santiṭṭhati. Tenāha bhagavā – ‘‘‘imameva kāyaṃ yathāṭhitaṃ yathāpaṇihitaṃ dhātuso paccavekkhati ‘atthi imasmiṃ kāye pathavīdhātu āpodhātu tejodhātu vāyodhātū’ti. Seyyathāpi, bhikkhave, dakkho goghātako vā…pe… vāyodhātū’’ti.

Ngài giải thích như thế nào? Ngài giải thích rằng – Cũng giống như người đồ tể đang nuôi con bò cái, hoặc dẫn đến lò mổ, hoặc sau khi dẫn đến đã trói lại tại đó, hoặc đang giết thịt, hoặc nhìn thấy con bò cái đã bị giết, thì suy nghĩ: con bò cái chưa biến mất cho đến khi người ấy xẻ ra thành từng phần, nhưng khi người ấy xẻ ra từng phần thì suy nghĩ: ‘con bò đã biến mất’. Chỉ nghĩ về ‘thịt con bò’ người ấy không nghĩ rằng: ‘ta bán con bò cái, những người này mua con bò cái’. Thực chất người ấy nghĩ rằng: “ta bán thịt bò, những người này mua thịt bò”; vị tỳ khưu này cũng tương tự như vậy, trước đây khi còn là phàm phu ngu ngu muội dầu là cư sĩ, hay người xuất gia thì suy nghĩ: ‘chúng sanh hoặc cá nhân’ vẫn không biến mất ngay tại thời điểm không xem xét thân này theo cách được bố trí, theo cách được vận hành tách ra từ một khối về khía cạnh nguyên tố. Còn khi vị ấy xem xét về bản chất các nguyên tố thì suy nghĩ về chúng sanh biến mất, tâm được an trú theo bản chất các nguyên tố. Do đó, đức Thế Tôn mới nói rằng: “Vị tỳ khưu xem xét chính thân này theo cách được bố trí, theo cách được vận hành về khía cạnh nguyên tố: ‘Ở thân này có nguyên tố đất, nguyên tố nước, nguyên tố lửa, nguyên tố gió’. Cũng giống như người đồ tể hoặc học trò của người đồ tể lành nghề hoặc -nt-  nguyên tố gió.’”

Goghātako viya hi yogī, gāvīti saññā viya sattasaññā, catumahāpatho viya catuiriyāpatho, bilaso vibhajitvā nisinnabhāvo viya dhātuso paccavekkhaṇanti ayamettha pāḷivaṇṇanā. Kammaṭṭhānakathā pana visuddhimagge vitthāritā.

Thật vậy, hành giả giống như người đồ tể, suy nghĩ về chúng sanh tương tự như suy nghĩ về con bò, bốn oai nghi được ví như con đường giao nhau nơi có bốn ngã, việc xem xét thân dựa trên bản chất các nguyên tố được ví như (hành động) người đồ tể phân chia thịt thành từng phần. Đây là sự giải thích ý nghĩa của từ Pāḷī liên quan đến tác ý về các nguyên tố. Bên cạnh đó, ngài đã giải thích chi tiết lời dạy liên quan đến các đề mục thiền định trong Thanh Tịnh Đạo.

Iti ajjhattaṃ vāti evaṃ catudhātupariggaṇhanena attano vā kāye, parassa vā kāye, kālena vā attano, kālena vā parassa kāye kāyānupassī viharati. Ito paraṃ vuttanayameva. Kevalañhi idha catudhātupariggāhikā sati dukkhasaccanti evaṃ yojanaṃ katvā niyyānamukhaṃ veditabbaṃ, sesaṃ purimasadisamevāti.

Như vậy …nt… thuộc nội phần: vị ấy sống có sự quan sát thân trên thân của mình, hoặc của người khác, quan sát thân trên thân của mình hợp thời, hoặc trong thân của người khác hợp thời với sự quan sát về bốn nguyên tố. Các câu tiếp theo kể từ đây đều có cách thức như đã đề cập. Ở phần này điểm khác biệt duy nhất là cần được phối hợp ý nghĩa như vầy – niệm ghi nhận bốn nguyên tố là Khổ Đế, nên biết rằng đây là con đường dẫn dắt ra khỏi khổ đau. Những từ còn lại ngoài những từ đã được giải thích thì tương tự những từ trước đó.

Giải thích tác ý nguyên tố được kết thúc

 

Giải thích việc quan sát tử thi ở bãi tha ma

  1. Evaṃ dhātumanasikāravasena kāyānupassanaṃ vibhajitvā idāni navahi sivathikapabbehi vibhajituṃ puna caparantiādimāha. Tattha seyyathāpi passeyyāti yathā passeyya. Sarīranti matasarīraṃ. Sivathikāya chaḍḍitanti susāne apaviddhaṃ. Ekāhaṃ matassa assāti ekāhamataṃ. Dvīhaṃ matassa assāti dvīhamataṃ. Tīhaṃ matassa assāti tīhamataṃ. Kammārabhastā viya vāyunā uddhaṃ jīvitapariyādānā yathānukkamaṃ samuggatena sūnabhāvena uddhumātattā uddhumātaṃ, uddhumātameva uddhumātakaṃ. Paṭikūlattā vā kucchitaṃ uddhumātanti uddhumātakaṃ. Vinīlaṃ vuccati viparibhinnavaṇṇaṃ, vinīlameva vinīlakaṃ. Paṭikūlattā vā kucchitaṃ vinīlanti vinīlakaṃ. Maṃsussadaṭṭhānesu rattavaṇṇassa pubbasannicayaṭṭhānesu setavaṇṇassa yebhuyyena ca nīlavaṇṇassa nīlaṭṭhānesu nīlasāṭakapārutasseva chavasarīrassetaṃ adhivacanaṃ. Paribhinnaṭṭhānehi navahi vā vaṇamukhehi vissandamānapubbaṃ vipubbaṃ, vipubbameva vipubbakaṃ. Paṭikūlattā vā kucchitaṃ vipubbanti vipubbakaṃ. Vipubbakaṃ jātaṃ tathābhāvaṃ gatanti vipubbakajātaṃ.
    Sau khi phân tích việc quan sát thân thông qua việc quán bốn nguyên tố như vậy, bây giờ để phân tích chín loại tử thi ở bãi tha ma mới nói rằng– “còn có điều khác nữa”. Ở đấy, cũng giống như … nhìn thấy: cũng giống như nhìn thấy. Thân xác: thi thể của người chết. Bị quăng bỏ ở bãi tha ma: bị quăng bỏ ở nghĩa địa; Thi thể đã chết một ngày là đã chết một ngày; Thi thể đã chết hai ngày gọi là đã chết hai ngày; Thi thể đã chết ba ngày gọi là đã chết ba ngày. Giống như túi bơm của người thợ kim hoàng bị phồng lên bởi khí, cũng vậy thi thể bị trương sình, bởi vì là một thi thể đã sưng phồng, và là một thi thể đang trong giai đoạn phân hủy theo trình tự kể từ khi chấm dứt mạng sống, thi thể phồng to đó được gọi là thi thể đã bị trương sình. Hoặc là, thi thể phồng to đáng ghê tởm bởi vì là vật có tính chất đáng nhờm gớm (vì lý do đó) gọi là thi thể đã bị trương sình. Thi thể có các màu sắc khác nhau pha lẫn xanh đen gọi là thi thể có màu xanh, chính thi thể có màu xanh ấy gọi là thi thể đã đổi màu xanh. Hoặc là, thi thể có màu xanh thật đáng kinh tởm bởi có tính chất vật ghê tởm nên gọi là thi thể đã đổi màu xanh. Điều này là đồng nghĩa với thi thể có màu đỏ ở vùng da thịt bị sưng phồng, có màu trắng ở chỗ có mủ bị tích tụ lại, và hầu hết là màu xanh ở những vùng đáng lẽ có màu xanh như thể được phủ lại với tấm vải màu xanh. Thi thể tiết ra nước vàng từ các vết nứt ở chín lỗ trên cơ thể gọi là thi thể có trạng thái chảy nước vàng. Chính thi thể tiết ra nước vàng gọi là có trạng thái chảy nước vàng. Vả lại, trạng thái chảy nước vàng đáng kinh tởm bởi có tính chất vật ghê tởm nên mới gọi là thi thể có trạng thái chảy nước vàng. Thi thể đã chuyển sang giai đoạn chảy nước vàng, đã đi đến tính chất như thế gọi là thi thể đã có trạng thái chảy nước vàng.

So imameva kāyanti so bhikkhu imaṃ attano kāyaṃ tena kāyena saddhiṃ ñāṇena upasaṃharati upaneti. Kathaṃ? Ayampi kho kāyo evaṃdhammo evaṃbhāvī evaṃanatītoti. Idaṃ vuttaṃ hoti – āyu, usmā, viññāṇanti imesaṃ tiṇṇaṃ dhammānaṃ atthitāya ayaṃ kāyo ṭhānagamanādikhamo hoti imesaṃ pana vigamā ayampi evaṃdhammo evaṃpūtikasabhāvoyeva, evaṃbhāvī evaṃuddhumātādibhedo bhavissati, evaṃanatīto evaṃuddhumātādibhāvaṃ anatikkantoti.

Vị ấy so sánh chính thân này (với tử thi ấy): vị tỳ khưu ấy đã đem chính thân này so sánh với tử thi ấy bằng trí tuệ. So sánh như thế nào? So sanh như vầy: “Thân này cũng có tính chất giống như vậy, có bản chất như vậy, không thể vượt qua điều ấy”. Điều này được nói là— Thân này có thể chịu đựng để đứng, đi lại, v.v, nhờ vào sự tồn tại của ba Pháp này là tuổi thọ (āyu), hơi ấm (usma), và thức (viññāṇa). Tuy nhiên, khi ba yếu tố này tách rời, thân thể này cũng có tính chất như vậy: là có bản chất thối rữa như vậy; Có bản chất như vậy: sẽ trở nên trương sình như vậy, v.v. Không vượt qua điều ấy: không thoát khỏi tính chất trương sình như vậy, v.v.

Iti ajjhattaṃ vāti evaṃ uddhumātādipariggahaṇena attano vā kāye, parassa vā kāye, kālena vā attano, kālena vā parassa kāye kāyānupassī viharati.

Như vậy …. thuộc nội phần: vị ấy sống có sự quan sát thân trên thân của mình, hoặc trên thân của người khác, quan sát thân của mình hợp thời, hoặc trên thân của người khác hợp thời với sự quán chiếu tử thi bị trương sình, v.v, như vậy.

Khajjamānanti udarādīsu nisīditvā udaramaṃsaoṭṭhamaṃsaakkhikūṭādīni luñcitvā luñcitvā khādiyamānaṃ. Samaṃsalohitanti sāvasesamaṃsalohitayuttaṃ. Nimaṃsalohitamakkhitanti maṃse khīṇepi lohitaṃ na sussati, taṃ sandhāya vuttaṃ ‘‘nimaṃsalohitamakkhita’’nti. Aññenāti aññena disābhāgena. Hatthaṭṭhikanti catusaṭṭhibhedampi hatthaṭṭhikaṃ pāṭiyekkaṃ pāṭiyekkaṃ vippakiṇṇaṃ. Pādaṭṭhikādīsupi eseva nayo.

Đang bị ăn: Thi thể bị các loài quạ, kền kền v.v, ăn thịt, sau khi chộp lấy các bộ phận trên cơ thể như bụng, v.v, chúng đã kéo thịt ở bụng, thịt ở môi, nhãn cầu, v.v, ra ăn. Vẫn còn thịt và máu: Vẫn còn thịt và máu, tức là thi thể vẫn còn sót lại thịt và máu. Dù không còn thịt nhưng bị lấm lem bởi máu: Dù không còn thịt nhưng bị lắm lem bởi máu, tức là khi thịt đã hết, nhưng máu vẫn chưa bị khô; đức Thế Tôn ám chỉ đến trạng thái này nên mới nói rằng: “Dù không còn thịt nhưng bị lấm lem bởi máu”. Các hướng: ở các phương hướng khác; Xương bàn tay: xương bàn tay có đến 64 loại nằm vương vãi khắp nơi, luôn cả xương bàn chân v.v., cũng có tình trạng tương tự.

Terovassikānīti atikkantasaṃvaccharāni. Pūtīnīti abbhokāse ṭhitāni vātātapavuṭṭhisamphassena terovassikāneva pūtīni honti, antobhūmigatāni pana cirataraṃ tiṭṭhanti. Cuṇṇakajātānīti cuṇṇaṃ cuṇṇaṃ hutvā vippakiṇṇāni. Sabbattha so imamevāti vuttanayena khajjamānādīnaṃ vasena yojanā kātabbā. Iti ajjhattaṃ vāti evaṃ khajjamānādipariggaṇhanena yāva cuṇṇakabhāvā attano vā kāye, parassa vā kāye kālena vā attano, kālena vā parassa kāye kāyānupassī viharati.

Đã hơn một năm: (thời gian) đã trải qua hơn một năm. Hôi thối mục nát: đã hơn một năm các mẩu xương đặt ở ngoài trời bị hôi thối mục nát do tiếp xúc với gió, nắng và mưa, trong khi đó những mẩu xương nằm dưới mặt đất tồn tại lâu hơn. Trở thành bột: rã nát thành bột và vương vãi khắp nơi. Nên liên kết ý nghĩa trong toàn bộ câu do tác động “đang bị các loài vật ăn, v.v,” theo phương thức đã được trình bày— “Vị tỳ khưu so sánh chính thân này với tử thi ấy”. Như vậy …. thuộc nội phần: vị ấy sống có sự quan sát thân trên thân của mình, hoặc trên thân của người khác, quan sát thân của mình hợp thời, hoặc trên thân của người khác hợp thời với sự quán chiếu thi thể đang bị ăn thịt cho đến khi hôi thối mục nát trở thành bột như vậy.

Idha pana ṭhatvā navasivathikā samodhānetabbā. Ekāhamataṃ vāti hi ādinā nayena vuttā sabbāpi ekā, kākehi vā khajjamānantiādikā ekā, aṭṭhikasaṅkhalikaṃ samaṃsalohitaṃ nhārusambandhanti ekā, nimaṃsalohitamakkhitaṃ nhārusambandhanti ekā, apagatamaṃsalohitaṃ nhārusambandhanti ekā, aṭṭhikāni apagatasambandhānītiādikā ekā aṭṭhikāni setāni saṅkhavaṇṇapaṭibhāgānīti ekā, puñjakitāni terovassikānīti ekā, pūtīni cuṇṇakajātānīti ekāti.

Hơn nữa, quan sát chín giai đoạn phân hủy của tử thi cần tổng hợp ở đây được nói theo phương thức bắt đầu như sau– (1) Thi thể đã chết một ngày, toàn bộ phần này là một phần; (2) đang bị các chim quạ ăn, v.v, là một phần; (3) bộ xương với thịt và máu, được kết lại với nhau bằng những sợi gân là một phần; (4) bộ xương không còn thịt, bị lấm lem bởi máu, được kết lại với nhau bằng những sợi gân là một phần; (5) “bộ xương, thịt và máu đã không còn, được kết lại với nhau bằng những sợi gân là một phần”; (6) các mẩu xương không còn các sự gắn kết, v.v, là một phần; (7) các mẩu xương màu trắng tương tự màu vỏ sò là một phần; (8) các mẩu xương được chất thành đống đã hơn một năm là một phần; (9) các mẩu xương hôi thối, trở thành bột là một phần.

Evaṃ kho, bhikkhaveti idaṃ navasivathikā dassetvā kāyānupassanaṃ niṭṭhapento āha. Tattha navasivathikapariggāhikā sati dukkhasaccaṃ, tassā samuṭṭhāpikā purimataṇhā samudayasaccaṃ, ubhinnaṃ appavatti nirodhasaccaṃ, dukkhaparijānano samudayapajahano nirodhārammaṇo ariyamaggo maggasaccaṃ. Evaṃ catusaccavasena ussakkitvā nibbutiṃ pāpuṇātīti idaṃ navasivathikapariggāhakānaṃ bhikkhūnaṃ yāva arahattā niyyānamukhanti.

Sau khi thuyết giảng việc quan sát chín giai đoạn phân hủy của tử thi để kết thúc việc quan sát thân ngài đã nói rằng– “Này các tỳ khưu, … là như vậy.” Ở đấy, niệm quan sát chín giai đoạn phân hủy của tử thi làm đối tượng là Khổ Đế. Tham ái quá khứ khiến niệm ấy sanh khởi là Tập Đế. Sự không xuất hiện cả hai (Khổ Đế và Tập Đế) là Diệt Đế. Thánh đạo biết toàn diện Khổ, dứt bỏ Tập, có Diệt làm đối tượng là Đạo Đế. Sau khi nỗ lực do nhờ tác động của bốn Đế như vậy vị ấy đạt đến sự tịch tịnh, đây là con đường dẫn dắt ra khỏi khổ đau cho đến chứng đắc quả vị A-ra-hán của các vị tỳ khưu quan sát chín giai đoạn phân hủy của tử thi.

Quan sát chín giai đoạn phân hủy của tử thi được kết thúc

 

Ettāvatā ca ānāpānapabbaṃ, iriyāpathapabbaṃ, catusampajaññapabbaṃ, paṭikūlamanasikārapabbaṃ, dhātumanasikārapabbaṃ, navasivathikapabbānīti cuddasapabbā kāyānupassanā niṭṭhitā hoti. Tattha ānāpānapabbaṃ, paṭikūlamanasikārapabbanti imāneva dve appanākammaṭṭhānāni, sivathikānaṃ pana ādīnavānupassanāvasena vuttattā sesāni dvādasāpi upacārakammaṭṭhānānevāti.

Và việc quan sát thân có mười bốn phần là— Phần niệm hơi thở, phần oai nghi, bốn việc nhận thức rõ, phần tác ý vật ghê tởm, phần quan sát chín giai đoạn phân hủy của tử thi, kết thúc phần quan sát thân chỉ bấy nhiêu. Ở đấy, hai phần này là phần hơi thở và phần tác ý vật ghê tởm là đề mục thiền định đưa đến an chỉ định, còn mười hai phần còn lại là đề mục thiền định chỉ đưa đến cận định, bởi vì thi thể ở bãi tha ma được nói do tác động quán xét về tai hại.

Việc quan sát thân được kết thúc

 

Giải thích việc quan sát thọ

  1. Evaṃ bhagavā cuddasavidhena kāyānupassanāsatipaṭṭhānaṃ kathetvā idāni navavidhena vedanānupassanaṃ kathetuṃ kathañca, bhikkhavetiādimāha. Tattha sukhaṃ vedananti kāyikaṃ vā cetasikaṃ vā sukhaṃ vedanaṃ vedayamāno ‘‘ahaṃ sukhaṃ vedanaṃ vedayāmī’’ti pajānātīti attho. Tattha kāmaṃ uttānaseyyakāpi dārakā thaññapivanādikāle sukhaṃ vedayamānā ‘‘sukhaṃ vedanaṃ vedayāmā’’ti pajānanti, na panetaṃ evarūpaṃ jānanaṃ sandhāya vuttaṃ. Evarūpañhi jānanaṃ sattūpaladdhiṃ na jahati, attasaññaṃ na ugghāṭeti, kammaṭṭhānaṃ vā satipaṭṭhānabhāvanā vā na hoti. Imassa pana bhikkhuno jānanaṃ sattūpaladdhiṃ jahati, attasaññaṃ ugghāṭeti, kammaṭṭhānañceva satipaṭṭhānabhāvanā ca hoti. Idañhi ‘‘ko vedayati, kassa vedanā, kiṃ kāraṇā vedanā’’ti evaṃ sampajānavediyanaṃ sandhāya vuttaṃ.
    Đức Thế Tôn sau khi thuyết giảng sự thiết lập niệm ở việc quan sát thân với mười bốn phương pháp như vậy, giờ đây để việc quan sát thọ với chín phương pháp nên ngài đã nói rằng: “Và này các tỳ khưu, vị tỳ khưu…là thế nào” Ở đấy, thọ lạc: (vị tỳ khưu) trong khi cảm giác thọ lạc thuộc về thân hoặc thuộc về tâm, biết rõ rằng: “Tôi cảm giác thọ lạc.” Trong câu đó, ngay cả đứa trẻ sơ sinh còn đang ẵm ngửa khi cảm giác hạnh phúc trong lúc bú sữa, v.v, cũng biết rõ rằng: “tôi cảm giác thọ lạc”, nhưng điều ấy không đề cập đến sự hiểu biết có hình thức như vậy. Bởi vì sự hiểu biết có hình thức như thế không thể loại bỏ quan niệm về chúng, không thể nhổ bỏ sự suy tưởng về ngã, không là đề mục thiền định mà cũng không là sự tu tập về thiết lập niệm. Còn sự hiểu biết của vị tỳ khưu có thể loại bỏ được quan điểm chúng sanh, nhổ bỏ được sự suy tưởng về ngã, là đề mục thiền định, và cũng là sự tu tập về thiết lập niệm. Sự hiểu biết này đức Thế Tôn nói đề cập đến cảm giác thọ lạc cùng với sự nhận thức rõ như vầy: “Ai đang cảm giác? Cảm thọ của ai? Cảm thọ do nguyên nhân gì?”.

Tattha ko vedayatīti na koci satto vā puggalo vā vedayati. Kassa vedanāti na kassaci sattassa vā puggalassa vā vedanā. Kiṃ kāraṇā vedanāti vatthuārammaṇāva panassa vedanā, tasmā esa evaṃ pajānāti ‘‘taṃ taṃ sukhādīnaṃ vatthuṃ ārammaṇaṃ katvā vedanāva vedayati taṃ pana vedanāya pavattiṃ upādāya’ahaṃ vedayāmī’ti vohāramattaṃ hotī’’ti. Evaṃ vatthuṃ ārammaṇaṃ katvā vedanāva vedayatīti sallakkhento esa ‘‘sukhaṃ vedanaṃ vedayāmīti pajānātī’’ti veditabbo cittalapabbate aññataratthero viya.

Ở đây, ai cảm thọ: không phải chúng sanh hoặc cá nhân nào cảm thọ. Cảm thọ của ai: Không phải cảm thọ của chúng sanh, hoặc cá nhân nào cả. Cảm thọ do nguyên nhân gì?: Hơn nữa, cảm thọ của vị tỳ khưu chỉ có vật làm đối tượng, vì vậy vị ấy biết rõ rằng: “các chúng sanh cảm giác cảm thọ bởi vì đã biến vật trở thành nơi thiết lập của thọ có thọ lạc ấy v.v, làm đối tượng; thêm vào đó, việc nói ‘tôi cảm giác cảm thọ’ chỉ là sự quy ước do nắm giữ sự vận hành của thọ. Vị ấy khi quan sát: “các chúng sanh cảm giác cảm thọ do đã biến vật trở thành đối tượng như vậy,” nên biết rằng “vị ấy biết rõ rằng ‘tôi cảm giác thọ lạc,’” tương tự như câu chuyện về vị trưởng lão khác cư ngụ ở Cittalapabbata.

Thero kira aphāsukakāle balavavedanāya nitthunanto aparāparaṃ parivattati, tameko daharo āha – ‘‘kataraṃ vo, bhante, ṭhānaṃ rujjatī’’ti. Āvuso, pāṭiyekkaṃ rujjanaṭṭhānaṃ nāma natthi, vatthuṃ ārammaṇaṃ katvā vedanāva vedayatīti. Evaṃ jānanakālato paṭṭhāya adhivāsetuṃ vaṭṭati no, bhanteti. Adhivāsemi, āvusoti. Adhivāsanā, bhante, seyyoti. Thero adhivāsesi. Vāto yāva hadayā phālesi, mañcake antāni rāsikatāni ahesuṃ. Thero daharassa dassesi ‘‘vaṭṭatāvuso, ettakā adhivāsanā’’ti. Daharo tuṇhī ahosi. Thero vīriyasamataṃ yojetvā saha paṭisambhidāhi arahattaṃ pāpuṇitvā samasīsī hutvā parinibbāyi.

Được biết rằng trưởng lão đau đớn quằn quại với những cảm thọ mãnh liệt trong cơn bạo bệnh. Một vị tỳ khưu trẻ đã hỏi: “Thưa ngài, ngài đau ở đâu?” – Trưởng lão đáp: “Này hiền giả, không có chỗ đau cụ thể, chỉ có cảm thọ được cảm giác sau khi biến vật trở thành đối tượng”. Vị tỳ khưu trẻ tiếp tục hỏi: “Thưa ngài, từ thời điểm hiểu rõ như vậy, việc kham nhẫn có phải là thích hợp không? Trưởng lão đáp: Này hiền giả, tôi sẽ kham nhẫn. Vị tỳ khưu trẻ nói: Thưa ngài, kham nhẫn là điều tốt đẹp. – Trưởng lão đã kiên trì chịu đựng. (Cơn bệnh trở nên trầm trọng) luồng khí lan tới tận trái tim, ruột của trưởng lão bị đẩy ra ngoài chất thành đóng trên giường. Trưởng lão chỉ cho vị tỳ khưu trẻ thấy và nói rằng: “Này hiền giả, sự kham nhẫn như thế này có thích hợp không?” – Vị tỳ khưu trẻ đã im lặng. – Trưởng lão tiếp tục duy trì sự tinh tấn đều đặn, cuối cùng chứng đắc quả vị A-ra-hán cùng với các tuệ phân tích, sau khi trở thành bậc đắc đạo tột mạng ngài đã viên tịch Niết Bàn.

Yathā ca sukhaṃ, evaṃ dukkhaṃ…pe… nirāmisaṃ adukkhamasukhaṃ vedanaṃ vedayamāno ‘‘nirāmisaṃ adukkhamasukhaṃ vedanaṃ vedayāmī’’ti pajānāti. Iti bhagavā rūpakammaṭṭhānaṃ kathetvā arūpakammaṭṭhānaṃ kathento yasmā phassavasena cittavasena vā kathiyamānaṃ pākaṭaṃ na hoti, andhakāraṃ viya khāyati, vedanānaṃ pana uppattipākaṭatāya vedanāvasena pākaṭaṃ hoti, tasmā sakkapañhe viya idhāpi vedanāvasena arūpakammaṭṭhānaṃ kathesi. Tattha ‘‘duvidhañhi kammaṭṭhānaṃ rūpakammaṭṭhānaṃ arūpakammaṭṭhānañcā’’tiādi kathāmaggo sakkapañhe vuttanayeneva veditabbo.

Và lạc như thế nào, khổ như thế đó -nt- khi cảm giác thọ không khổ không lạc không thuộc vật chất, biết rõ (rằng): “Tôi cảm giác thọ không khổ không lạc, không thuộc vật chất’. Đức Thế Tôn sau khi thuyết sắc nghiệp xứ như vậy, khi thuyết giảng vô sắc nghiệp xứ, nhưng bởi vì được thuyết giảng do tác động của Xúc và do tác động của Tâm nên đề mục thiền định không hiện hữu, xuất hiện như bị che phủ. Thay vào đó, sự khởi lên của các thọ trở nên rõ ràng, đề mục thiền định trở nên rõ ràng do tác động của thọ. Vì thế, vô sắc nghiệp xứ được thuyết giảng do tác động của thọ ngay cả trong bài Kinh này cũng như trong bài Kinh Sakka Vấn Đạo. Lời nói về đạo trong bài Kinh này đây nên biết theo cách thức đã được nói trong bài Kinh Sakka Vấn Đạo như sau: “Thật vậy, nghiệp xứ có hai loại là sắc nghiệp xứ và vô sắc nghiệp xứ.”

Tattha sukhaṃ vedanantiādīsu ayaṃ aparopi pajānanapariyāyo, sukhaṃ vedanaṃ vedayāmīti pajānātīti sukhavedanākkhaṇe dukkhavedanāya abhāvato sukhaṃ vedanaṃ vedayamāno ‘‘sukhaṃ vedanaṃyeva vedayāmī’’ti pajānāti. Tena yā pubbe bhūtapubbā dukkhavedanā, tassa idāni abhāvato imissā ca sukhāya vedanāya ito paṭhamaṃ abhāvato vedanā nāma aniccā adhuvā vipariṇāmadhammā, itiha tattha sampajāno hoti. Vuttampi cetaṃ bhagavatā – 

Ở đây, thọ lạc, v.v, này có một phương pháp nhận biết khác, biết rõ rằng: “tôi cảm giác thọ lạc”, trong khi cảm giác thọ lạc thì ở sát-na thọ lạc không tồn tại thọ khổ, biết rõ rằng: ‘tôi đang cảm giác thọ lạc’. Những cảm thọ khổ xảy ra trước đây trong quá khứ nay không còn hiện hữu, và trước đây cũng không có sự hiện hữu của cảm giác thọ lạc này. Như vậy, cảm thọ vốn dĩ là vô thường, không bền vững và có bản chất biến hoại. Do đó, hành giả có sự nhận biết rõ bản chất của thọ ấy là như thế. Và điều này đã được đức Thế Tôn nói rằng –

‘‘Yasmiṃ, aggivessana, samaye sukhaṃ vedanaṃ vedeti, neva tasmiṃ samaye dukkhaṃ vedanaṃ vedeti, na adukkhamasukhaṃ vedanaṃ vedeti, sukhaṃyeva tasmiṃ samaye vedanaṃ vedeti. Yasmiṃ, aggivessana, samaye dukkhaṃ…pe… adukkhamasukhaṃ vedanaṃ vedeti, neva tasmiṃ samaye sukhaṃ vedanaṃ vedeti, na dukkhaṃ vedanaṃ vedeti, adukkhamasukhaṃyeva tasmiṃ samaye vedanaṃ vedeti. Sukhāpi, kho, aggivessana, vedanā aniccā saṅkhatā paṭiccasamuppannā khayadhammā vayadhammā virāgadhammā nirodhadhammā. Dukkhāpi, kho…pe… adukkhamasukhāpi kho, aggivessana, vedanā aniccā…pe… nirodhadhammā. Evaṃ passaṃ, aggivessana, sutavā ariyasāvako sukhāyapi vedanāya nibbindati, dukkhāyapi vedanāya nibbindati, adukkhamasukhāyapi vedanāya nibbindati, nibbindaṃ virajjati, virāgā vimuccati, vimuttasmiṃ ‘vimuttamī’ti ñāṇaṃ hoti, ‘khīṇā jāti, vusitaṃ brahmacariyaṃ, kataṃ karaṇīyaṃ, nāparaṃ itthattāyā’ti pajānātī’’ti (ma. ni. 2.205).

“Này Aggivessana, trong khi cảm giác lạc thọ, chính khi ấy không cảm giác khổ thọ, không cảm giác thọ không khổ không lạc, chỉ cảm giác lạc thọ; Này Aggivessana, trong khi cảm giác khổ thọ, -nt- cảm giác thọ không khổ không lạc, chính khi ấy không cảm giác lạc thọ, không cảm giác khổ thọ, chỉ cảm giác thọ không khổ không lạc; Này Aggivessana, lạc thọ là vô thường, được tạo tác, được sanh khởi theo điều kiện, có bản chất tan rã, có bản chất hoại diệt, có bản chất lụi tàn, có bản chất diệt tận; cả khổ thọ -nt- luôn cả không khổ không lạc thọ, này Aggivessana, đều là vô thường -nt- có bản chất diệt tận; Thấy vậy, này Aggivessana, vị Ða văn Thánh đệ tử nhàm chán lạc thọ, nhàm chán khổ thọ, nhàm chán thọ không khổ không lạc, do nhàm chán (vị ấy) không có tham dục. do không tham dục (vị ấy) được giải thoát. Khi đã được giải thoát, trí khởi lên rằng: ‘Đã được giải thoát.’ (vị ấy) biết rõ rằng: ‘‘Sự tái sanh đã cạn kiệt, Phạm hạnh đã sống, việc cần làm đã làm, không còn gì khác (phải làm) đối với bản thể A-ra-hán này nữa.’” (ma. ni. 2.205);

Sāmisaṃ vā sukhantiādīsu sāmisā sukhā nāma pañcakāmaguṇāmisasannissitā cha gehasitasomanassavedanā. Nirāmisā sukhā nāma cha nekkhammasitasomanassavedanā. Sāmisā dukkhā nāma cha gehasitadomanassavedanā. Nirāmisā dukkhā nāma cha nekkhammasitadomanassavedanā. Sāmisā adukkhamasukhā nāma cha gehasitaupekkhāvedanā. Nirāmisā adukkhamasukhā nāma cha nekkhammasitaupekkhāvedanā. Tāsaṃ vibhāgo sakkapañhe vuttoyeva.

Hoặc….thọ lạc liên hệ vật chất v.v. Sáu cảm thọ hỷ tâm liên hệ đến tại gia, năm loại dục lạc liên quan đến vật chất gọi là thọ lạc liên hệ vật chất. Sáu cảm thọ vui mừng liên hệ đến xuất ly gọi là thọ lạc không liên hệ vật chất. Sáu cảm thọ ưu tâm liên hệ đến tại gia gọi là khổ thọ liên hệ vật chất. Sáu cảm thọ ưu tâm liên hệ đến xuất ly gọi là khổ thọ không liên hệ vật chất. Sáu cảm thọ xả tâm liên hệ đến tại gia gọi là thọ không khổ không lạc liên hệ vật chất. Sáu cảm thọ xả tâm liên hệ đến xuất ly gọi là thọ không khổ không lạc không liên hệ vật chất. Hơn nữa, sự phân loại các cảm thọ ấy đã được nói đến trong Kinh Sakka Vấn Đạo.

Iti ajjhattaṃ vāti evaṃ sukhavedanādipariggaṇhanena attano vā vedanāsu, parassa vā vedanāsu, kālena vā attano, kālena vā parassa vedanāsu vedanānupassī viharati. Samudayavayadhammānupassī vāti ettha pana avijjāsamudayā vedanāsamudayo’’tiādīhi (paṭi. ma. 1.50); pañcahi pañcahi ākārehi vedanānaṃ samudayañca vayañca passanto ‘‘samudayadhammānupassī vā vedanāsu viharati, vayadhammānupassī vā vedanāsu viharati, kālena samudayadhammānupassī vā vedanāsu, kālena vayadhammānupassī vā vedanāsu viharatī’’ti veditabbo. Ito paraṃ kāyānupassanāyaṃ vuttanayameva. Kevalañhi idha vedanāpariggāhikā sati dukkhasaccanti evaṃ yojanaṃ katvā vedanāpariggāhakassa bhikkhuno niyyānamukhaṃ veditabbaṃ, sesaṃ tādisamevāti.

Như vậy …. thuộc nội phần: vị ấy sống có sự quan sát thọ trên các thọ của mình, hoặc trên các thọ của người khác, hoặc trên các thọ của mình hợp thời, hoặc trên thân của người khác hợp thời. Hoặc sống có sự quan sát pháp sanh khởi và hoại diệt: Trong khi nhìn thấy sự sanh khởi và hoại diệt ở các thọ với năm biểu hiện mỗi phần (như sau) ‘do sự sanh khởi của vô minh, có sự sanh khởi của thọ, v.v.’ paṭi. ma. 1.50; nên biết rằng: “Hoặc sống có sự quan sát pháp sanh khởi trên các thọ, hoặc sống có sự quan sát pháp hoại diệt trên các thọ, hoặc sống có sự quan sát pháp sanh khởi trên các thọ hợp thời, hoặc sống có sự quan sát pháp hoại diệt trên các thọ hợp thời.” Câu tiếp theo có cách thức như đã nói trong phần việc quan sát thân. Tuy nhiên, ở phần này, điểm khác biệt duy nhất là ý nghĩa nên phối hợp như vầy– niệm ghi nhận thọ (làm đối tượng) là Khổ Đế. Nên biết rằng đây là con đường dẫn dắt ra khỏi khổ đau của vị tỳ khưu xác định thọ (làm đối tượng), các từ còn lại có ý nghĩa tương tự.

Việc quan sát thọ – được kết thúc

 

Giải thích việc quan sát tâm

  1. Evaṃ navavidhena vedanānupassanāsatipaṭṭhānaṃ kathetvā idāni soḷasavidhena cittānupassanaṃ kathetuṃ kathañca, bhikkhavetiādimāha. Tattha sarāganti aṭṭhavidhalobhasahagataṃ. Vītarāganti lokiyakusalābyākataṃ. Idaṃ pana yasmā sammasanaṃ na dhammasamodhānaṃ tasmā idha ekapadepi lokuttaraṃ na labbhati. Sesāni cattāri akusalacittāni neva purimapadaṃ na pacchimapadaṃ bhajanti. Sadosanti duvidhadomanassasahagataṃ. Vītadosanti lokiyakusalābyākataṃ. Sesāni dasa akusalacittāni neva purimapadaṃ, na pacchimapadaṃ bhajanti. Samohanti vicikicchāsahagatañceva, uddhaccasahagatañcāti duvidhaṃ. Yasmā pana moho sabbākusalesu uppajjati, tasmā sesānipi idha vaṭṭantiyeva. Imasmiññeva hi duke dvādasākusalacittāni pariyādinnānīti. Vītamohanti lokiyakusalābyākataṃ. Saṅkhittanti thinamiddhānupatitaṃ. Etañhi saṅkuṭitacittaṃ nāma. Vikkhittanti uddhaccasahagataṃ, etañhi pasaṭacittaṃ nāma.
    Sau khi thuyết giảng sự thiết lập niệm ở việc quan sát niệm với chín phương pháp, bây giờ, để thuyết về mười sáu phương pháp của việc quan sát tâm, ngài nói rằng: “Và này các tỳ khưu, vị tỳ khưu sống có sự quan sát tâm trên tâm là thế nào?” Ở đấy, tâm có luyến ái: Tâm đi chúng với tám thứ tâm tham. Đã xa lìa luyến ái: Tâm thiện và tâm vô ký thuộc Hiệp Thế. Tuy nhiên, việc quan sát ở trường hợp này không phải là sự liên kết các pháp, do đó tâm đã xa lìa luyến ái này không bao gồm bất kỳ tâm Siêu Thế nào, dù chỉ một câu. Bốn tâm bất thiện còn lại không được xếp vào mệnh đề đầu và cũng không được xếp vào mệnh đề sau. Tâm có sân hận: hai thứ tâm đi chung với thọ ưu. Tâm đã xa lìa sân hận: Tâm thiện và tâm vô ký thuộc Hiếp Thế. Mười tâm bất thiện còn lại không được xếp vào mệnh đề đầu và cũng không được xếp vào mệnh đề sau. Tâm có si mê: hai thứ tâm là tâm đi chung với hoài nghi và tâm đi chung với phóng dật. Tuy nhiên, bởi vì tâm si có thể sanh khởi trong tất cả tâm bất thiện, cho nên các tâm bất thiện còn lại cũng được xếp vào nhóm này (tâm có si mê). Thật vậy, mười hai tâm bất thiện đều được tập hợp lại trong chính trong nhóm đôi này. Tâm đã xa lìa si mê: tâm thiện và tâm vô ký thuộc Hiệp Thế. Tâm bị thâu hẹp: Tâm rơi vào trạng thái dã dượi, buồn ngủ. Thật vậy, tâm rơi vào trạng thái này được gọi là tâm bị thâu hẹp. Tâm bị tán loạn: Tâm đi chung với phóng dật, tâm đi chung với phóng dật ấy được gọi là tâm bị tán loạn.

Mahaggatanti rūpārūpāvacaraṃ. Amahaggatanti kāmāvacaraṃ. Sauttaranti kāmāvacaraṃ. Anuttaranti rūpāvacaraṃ arūpāvacarañca. Tatrāpi sauttaraṃ rūpāvacaraṃ, anuttaraṃ arūpāvacarameva. Samāhitanti yassa appanāsamādhi upacārasamādhi vā atthi. Asamāhitanti ubhayasamādhivirahitaṃ. Vimuttanti tadaṅgavikkhambhanavimuttīhi vimuttaṃ. Avimuttanti ubhayavimuttivirahitaṃ. Samucchedapaṭippassaddhinissaraṇavimuttīnaṃ pana idha okāsova natthi.

Tâm đại hành: Tâm Sắc giới và tâm Vô sắc giới. Tâm không đại hành: Tâm Dục giới. Tâm hữu thượng: Tâm Dục giới. Tâm vô thượng: Tâm Sắc giới và tâm Vô sắc giới. Ngay cả trong những tâm ấy thì tâm hữu thượng là tâm Sắc giới, còn tâm vô thượng chính là tâm Vô sắc giới. Tâm định tĩnh: tâm có cận định hoặc an chỉ định. Tâm không định tĩnh: tâm không có 2 định trên. Tâm được giải thoát: Tâm đã giải thoát bằng sự giải thoát do áp chế và sự giải thoát do chế ngự. Tâm không được giải thoát: tâm không có 2 sự giải thoát trên. Còn sự giải thoát nhờ đoạn trừ, sự giải thoát nhờ an tịnh và sự giải thoát nhờ xuất ly không có cơ hội ở đây.

Iti ajjhattaṃ vāti evaṃ sarāgādipariggahaṇena yasmiṃ yasmiṃ khaṇe yaṃ yaṃ cittaṃ pavattati, taṃ taṃ sallakkhento attano vā citte, parassa vā citte, kālena vā attano, kālena vā parassa citte cittānupassī viharati. Samudayavayadhammānupassīti ettha pana ‘‘avijjāsamudayā viññāṇasamudayo’’ti (paṭi. ma. 1.50) evaṃ pañcahi pañcahi ākārehi viññāṇassa samudayo ca vayo ca nīharitabbo. Ito paraṃ vuttanayameva. Kevalañhi idha cittapariggāhikā sati dukkhasaccanti evaṃ yojanaṃ katvā cittapariggāhakassa bhikkhuno niyyānamukhaṃ veditabbaṃ. Sesaṃ tādisamevāti.

Như vậy …. thuộc nội phần: hành giả quan sát tâm trong từng sát-na bằng sự quan sát tâm có luyến ái v.v., như vậy gọi là  sống có sự quan sát tâm trên tâm của mình, hoặc trên tâm của người khác, hoặc trên tâm của mình hợp thời, hoặc trên tâm của người khác hợp thời. Hơn nữa, ở đấy– hoặc sống có sự quan sát pháp sanh khởi và hoại diệt: Nên đem sự sanh khởi và hoại diệt của thức ra để so sánh mỗi phần với năm biểu hiện như vầy ‘do sự sanh khởi của vô minh, có sự sanh khởi của thức’. (paṭi. ma. 1.50); Câu tiếp theo có cách thức như đã trình bày trước đó. Tuy nhiên, ở phần này, điểm khác biệt duy nhất là ý nghĩa nên phối hợp như vầy– niệm ghi nhận tâm (làm đối tượng) là Khổ Đế. Nên biết rằng đây là con đường dẫn dắt ra khỏi khổ đau của vị tỳ khưu xác định tâm làm đối tượng, các từ còn lại có ý nghĩa tương tự.

Việc quan sát tâm – được kết thúc

 

Giải thích việc quan sát pháp

  1. Evaṃ soḷasavidhena cittānupassanāsatipaṭṭhānaṃ kathetvā idāni pañcavidhena dhammānupassanaṃ kathetuṃ kathañca, bhikkhavetiādimāha. Apica bhagavatā kāyānupassanāya suddharūpapariggaho kathito, vedanācittānupassanāhi suddhaarūpapariggaho. Idāni rūpārūpamissakapariggahaṃ kathetuṃ ‘‘kathañca, bhikkhave’’tiādimāha. Kāyānupassanāya vā rūpakkhandhapariggahova kathito, vedanānupassanāya vedanākkhandhapariggahova, cittānupassanāya viññāṇakkhandhapariggahova idāni saññāsaṅkhārakkhandhapariggahampi kathetuṃ ‘‘kathañca, bhikkhave’’tiādimāha.
    Sau khi thuyết giảng sự thiết lập niệm ở việc quan sát tâm với mười sáu phương pháp, bây giờ, để thuyết việc quan sát pháp với năm phương pháp (ngài) mới nói rằng: “Và này các tỳ khưu, vị tỳ khưu sống có sự quan sát pháp ở các pháp là thế nào?” Và hơn nữa, (đức Thế Tôn) thuyết sự xác định thuần về sắc bằng việc quan sát thân, sự xác định thuần về vô sắc bằng việc quan sát thọ và việc quan sát tâm. Bây giờ, để thuyết sự xác định hỗn hợp giữa sắc và vô sắc (ngài) mới nói rằng: “Và này các tỳ khưu, vị tỳ khưu sống có sự quan sát pháp ở các pháp là thế nào?” Hoặc, đức Thế Tôn thuyết sự xác định sắc uẩn bằng việc quan sát thân, sự xác định thọ uẩn bằng việc quan sát thọ, sự xác định thức uẩn bằng việc quan sát tâm. Bây giờ, để thuyết cả sự xác định tưởng uẩn và hành uẩn (ngài) mới nói rằng: “Và này các tỳ khưu, vị tỳ khưu sống có sự quan sát pháp ở các pháp là thế nào?

Tattha santanti abhiṇhasamudācāravasena saṃvijjamānaṃ. Asantanti asamudācāravasena vā pahīnattā vā asaṃvijjamānaṃ. Yathā cāti yena kāraṇena kāmacchandassa uppādo hoti. Tañca pajānātīti tañca kāraṇaṃ pajānāti. Iti iminā nayena sabbapadesu attho veditabbo.

Trong số những từ đó, đang hiện hữu: đang tồn tại do tác động lan tỏa liên tục. Không hiện hữu: không tồn tại do tác động không lan tỏa, hoặc do trạng thái đã dứt bỏ. Như thế nào: sự mong muốn về dục sanh khởi do nguyên nhân nào? Biết rõ điều ấy: biết rõ nguyên nhân đó. Như vậy, nên biết ý nghĩa ở mỗi câu theo chính cách thức này.

Tattha subhanimitte ayonisomanasikārena kāmacchandassa uppādo hoti. Subhanimittaṃ nāma subhampi subhanimittaṃ, subhārammaṇampi subhanimittaṃ. Ayonisomanasikāro nāma anupāyamanasikāro uppathamanasikāro anicce niccanti vā, dukkhe sukhanti vā, anattani attāti vā, asubhe subhanti vā manasikāro. Taṃ tattha bahulaṃ pavattayato kāmacchando uppajjati. Tenāha bhagavā – ‘‘atthi, bhikkhave, subhanimittaṃ, tattha ayonisomanasikārabahulīkāro, ayamāhāro anuppannassa vā kāmacchandassa uppādāya uppannassa vā kāmacchandassa bhiyyobhāvāya vepullāyā’’ti (saṃ. ni. 5.232).

Ở đấy, sự mong muốn về dục được sanh khởi do tác ý không đúng đường lối đến hiện tướng đẹp. Những thứ đẹp đẽ, hay những đối tượng xinh đẹp gọi là hiện tướng đẹp. Tác ý không đúng phương pháp, hay tác ý không đúng đường lối, chính là tác ý vô thường nghĩ là thường, khổ nghĩ là an lạc, vô ngã nghĩ là ngã, hoặc bất tịnh nghĩ là tịnh gọi là tác ý không đúng đường lối. Khi thực hành tác ý không đúng đường lối này đến hiện tướng đẹp thường xuyên thì sự ước muốn về dục sanh khởi. Do đó, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Có, này các tỳ khưu, hiện tướng về cái đẹp, ở đấy tác ý không đúng đường lối được thực hiện thường xuyên đến hiện tướng đẹp ấy, đây là thức ăn khiến những ước muốn về dục chưa sanh khởi được sanh khởi, hay ước muốn về dục đã sanh khởi được tăng trưởng, được lớn mạnh,” (saṃ. ni. 5.232);

Asubhanimitte pana yonisomanasikārenassa pahānaṃ hoti. Asubhanimittaṃ nāma asubhampi asubhārammaṇampi. Yonisomanasikāro nāma upāyamanasikāro pathamanasikāro anicce aniccanti vā dukkhe dukkhanti vā anattani anattāti vā asubhe asubhanti vā manasikāro, taṃ tattha bahulaṃ pavattayato kāmacchando pahīyati. Tenāha bhagavā – ‘‘atthi, bhikkhave, asubhanimittaṃ, tattha yonisomanasikārabahulīkāro, ayamanāhāro anuppannassa vā kāmacchandassa anuppādāya uppannassa vā kāmacchandassa pahānāyā’’ti (saṃ. ni. 5.232).

Hơn nữa, sự ước muốn về dục được dứt bỏ nhờ tác ý đúng đường lối đến hiện tướng bất tịnh. Những thứ không đẹp đẽ hoặc những đối tượng không xinh đẹp gọi là hiện tướng bất tịnh. Tác ý đúng phương pháp, hay tác ý đúng đường lối, chính là tác ý vô thường là vô thường, khổ đau là khổ đau, vô ngã là vô ngã, hoặc bất tịnh là bất tịnh gọi là tác ý đúng đường lối. khi thực hành tác ý đúng đường lối này đến hiện tướng bất tịnh thường xuyên thì sự ước muốn về dục được dứt bỏ. Do đó, đức Thế Tôn đã nói rằng – “Có, này các tỳ khưu, hiện tướng bất tịnh, ở đây tác ý đúng đường lối được thực hiện nhiều lần, thời chính cái này là thức ăn làm cho những ước muốn về dục chưa sanh khởi sẽ không sanh khởi, hay những ước muốn về dục đã sanh được dứt bỏ” (saṃ. ni. 5.232);

Apica cha dhammā kāmacchandassa pahānāya saṃvattanti asubhanimittassa uggaho, asubhabhāvanānuyogo, indriyesu guttadvāratā, bhojane mattaññutā, kalyāṇamittatā, sappāyakathāti. Dasavidhañhi asubhanimittaṃ uggaṇhantassāpi kāmacchando pahīyati, bhāventassāpi indriyesu pihitadvārassāpi catunnaṃ pañcannaṃ ālopānaṃ okāse sati udakaṃ pivitvā yāpanasīlatāya bhojanamattaññunopi. Teneva vuttaṃ –

Thêm nữa, sáu pháp vận hành dẫn đến việc dứt bỏ những ước muốn về dục là (1) học tập về hiện tướng bất tịnh; (2) thường xuyên tu tập về hiện tướng bất tịnh; (3) có sự phòng vệ ở các giác quan; (4) có sự biết chừng mực ở vật thực; (5) có bạn lành; (6) lắng nghe và thảo luận những vấn đề phù hợp. Khi hành giả học tập mười hiện tướng bất tịnh trong giai đoạn này những ước muốn về dục được dứt bỏ. Tương tự, khi hành giả thường xuyên thực hành hiện tướng bất tịnh, đóng kín cánh cửa ở các giác quan, hoặc biết chừng mực ở vật thực—chằng hạn như ngừng ăn thêm bốn đến năm vắt cơm (sau cùng) và uống nước vậy là đủ để duy trì cơ thể—cũng có thể dứt bỏ được những ước muốn về dục. Do đó, ngài đã nói rằng–

‘‘Cattāro pañca ālope, abhutvā udakaṃ pive;

Alaṃ phāsuvihārāya, pahitattassa bhikkhuno’’ti. (theragā. 983);

Nên ngưng không ăn bốn, năm vắt cơm (sau cùng) và nên uống nước, chỉ bấy nhiêu thôi là đủ cho sự sống thoải mái của vị tỳ khưu bản tánh cương quyết. (theragā. 983);

Asubhakammikatissattherasadise asubhabhāvanārate kalyāṇamitte sevantassapi kāmacchando pahīyati, ṭhānanisajjādīsu dasaasubhanissitasappāyakathāya pahīyati, tena vuttaṃ – ‘‘cha dhammā kāmacchandassa pahānāya saṃvattantī’’ti. Imehi pana chahi dhammehi pahīnakāmacchandassa arahattamaggena āyatiṃ anuppādo hotīti pajānāti.

Cả vị tỳ khưu thân cận với các bạn lành, hoan hỷ trong việc tu tập quán bất tịnh, như trưởng lão Tissa thực hành quán bất tịnh cũng có thể dứt bỏ những ước muốn về dục. Thậm chí, thông qua việc đàm luận về những vấn đề phù hợp y cứ mười đề mục quán bất tịnh trong các oai nghi như đứng, ngồi, v.v, cũng có thể dứt bỏ những ước muốn về dục. Do đó, ngài đã nói rằng: “Sáu pháp vận hành để dứt bỏ những ước muốn về dục”. Vị ấy biết rõ rằng: Sự ước muốn về dục được dứt bỏ với 6 pháp này, sẽ không sanh khởi tiếp tục trong thời vị lai bởi A-ra-hán đạo.

Paṭighanimitte ayonisomanasikārena pana byāpādassa uppādo hoti. Tattha paṭighampi paṭighanimittaṃ , paṭighārammaṇampi paṭighanimittaṃ. Ayonisomanasikāro sabbattha ekalakkhaṇova. Taṃ tasmiṃ nimitte bahulaṃ pavattayato byāpādo uppajjati. Tenāha bhagavā – ‘‘atthi, bhikkhave, paṭighanimittaṃ, tattha ayonisomanasikārabahulīkāro, ayamāhāro anuppannassa vā byāpādassa uppādāya uppannassa vā byāpādassa bhiyyobhāvāya vepullāyā’’ti (saṃ. ni. 5.232).

Lại nữa, sân hận sanh khởi do tác ý không đúng đường lối đến hiện tướng thù nghịch. Trong trường hợp này, sự bất bình hoặc đối tượng làm khởi phát sư bất bình đều được gọi là hiện tướng thù nghịch trong cụm từ ‘hiện tướng thù nghịch’ ấy. Tác ý không đúng đường lối có chung tướng trạng trong các Pháp. Khi thực hành tác ý không đúng đường lối đến hiện tướng thù nghịch ấy thường xuyên thì sân hận sanh khởi. Do đó, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Có, này các tỳ khưu, hiện tướng thù nghịch, ở đây tác ý không đúng đường lối được thực hiện nhiều lần, thời chính cái này là thức ăn làm cho sân hận chưa sanh khởi được sanh khởi, hay sân hận đã sanh khởi được tăng trưởng, được lớn mạnh,” (saṃ. ni. 5.232);

Mettāya pana cetovimuttiyā yonisomanasikārenassa pahānaṃ hoti. Tattha mettāti vutte appanāpi upacāropi vaṭṭati. Cetovimuttīti appanāva. Yonisomanasikāro vuttalakkhaṇova. Taṃ tattha bahulaṃ pavattayato byāpādo pahīyati. Tenāha bhagavā – ‘‘atthi, bhikkhave, mettā cetovimutti, tattha yonisomanasikārabahulīkāro, ayamāhāro anuppannassa vā byāpādassa anuppādāya uppannassa vā byāpādassa pahānāyā’’ti (saṃ. ni. 5.232).

Tuy nhiên, sân hận ấy được dứt bỏ do tác ý đúng đường lối với từ-tâm giải-thoát. Ở đây, khi nói đến ‘từ-tâm’ thì cả cận định và cả an chỉ định đều phù hợp. Từ-tâm giải-thoát chính là an chỉ định. Có tác ý đúng đường lối là tướng trạng đã được trình bày. Khi thực hành tác ý đúng đường lối đến hiện tướng thù nghịch thường xuyên thì sân hận được dứt bỏ. Do đó, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Có, này các tỳ khưu, từ-tâm giải-thoát, ở đây tác ý đúng đường lối được thực hiện nhiều lần, thời chính cái này là thức ăn làm cho sân hận chưa sanh khởi sẽ không sanh khởi, hay sân hận đã sanh khởi được đoạn tận”. (saṃ. ni. 5.232);

Apica cha dhammā byāpādassa pahānāya saṃvattanti mettānimittassa uggaho mettābhāvanānuyogo kammassakatāpaccavekkhaṇā paṭisaṅkhānabahulatā kalyāṇamittatā sappāyakathāti. Odissakaanodissakadisāpharaṇānañhi aññataravasena mettaṃ uggaṇhantassāpi byāpādo pahīyati, odhisoanodhisopharaṇavasena mettaṃ bhāventassāpi. ‘‘Tvaṃ etassa kuddho kiṃ karissasi, kimassa sīlādīni vināsetuṃ sakkhissasi, nanu tvaṃ attano kammena āgantvā attano kammeneva gamissasi, parassa kujjhanaṃ nāma vītaccitaṅgāra tattaaya salākagūthādīni gahetvā paraṃ paharitukāmatāsadisaṃ hoti. Esopi tava kuddho kiṃ karissati, kiṃ te sīlādīni vināsetuṃ sakkhissati, esa attano kammena āgantvā attano kammeneva gamissati, appaṭicchitapaheṇakaṃ viya paṭivātaṃ khittarajomuṭṭhi viya ca etassevesa kodho matthake patissatī’’ti evaṃ attano ca parassa ca kammassakataṃ paccavekkhatopi, ubhayakammassakataṃ paccavekkhitvā paṭisaṅkhāne ṭhitassāpi, assaguttattherasadise mettābhāvanārate kalyāṇamitte sevantassāpi byāpādo pahīyati. Ṭhānanisajjādīsu mettānissitasappāyakathāyapi pahīyati. Tena vuttaṃ – ‘‘cha dhammā byāpādassa pahānāya saṃvattantī’’ti. Imehi pana chahi dhammehi pahīnassa byāpādassa anāgāmimaggena āyatiṃ anuppādo hotīti pajānāti.

Lại nữa, sáu pháp vận hành dẫn đến việc dứt bỏ sân hận là: (1) học tập hiện tướng tâm từ; (2) thường xuyên thực hành về đề mục tâm từ; (3) quán xét đến bản thể các chúng sanh đều có nghiệp riêng của mình; (4) phải suy xét thật nhiều về nghiệp; (5) thân cận với bạn lành (6) lắng nghe và thảo luận những vấn đề phù hợp. Ngay cả khi hành giả học tập tâm từ do tác động rải tâm từ khắp các phương hướng dù cụ thể hoặc không cụ thể, tương tự, khi hành giả tu tập tâm từ đo tác động rải tâm từ khắp các phương hướng cụ thể hoặc không cụ thể, cũng dứt bỏ được sân hận. Sự sân hận được dứt bỏ khi hành giả quán xét đến bản thể của chính mình và người khác đều có nghiệp lực riêng như vầy– “Ngươi phẫn nộ hắn, ngươi sẽ làm được gì? Ngươi có thể làm cho giới hạnh của hắn bị hư hoại sao? Ngươi đã đến theo nghiệp của ngươi, cũng sẽ đi theo nghiệp của ngươi, không phải sao? Sự thù hận kẻ khác cũng giống như việc một người cầm lấy cục than đang cháy, thanh sắt đang nóng đỏ và phân uế, v.v, với ý định làm hại người khác. Hoặc nếu hắn nổi giận với ngươi, hắn sẽ làm gì được ngươi? Hắn có thể làm cho giới hạnh của ngươi hư hoại chăng? Hắn đến do nghiệp của hắn và cũng sẽ đi theo nghiệp của hắn tương tự; Cơn nóng giận đó sẽ đổ lên đầu của chính hắn giống như đồ vật được gửi đi mà không có ai nhận (đồ vật đó sẽ được trả lại người gửi) và giống như ném một nắm bụi bay ngược chiều gió (nắm bụi sẽ bị thổi ngược lại người ném)”. Sau khi xem xét về nghiệp đã tạo của cả hai (hành giả) đã an trú trong sự xem xét đó; thân cận bạn lành, những người hoan hỷ trong  sự tu tập tâm từ chẳng hạn như trưởng lão Assagutta—cũng dứt bỏ được sân hận. Ngay cả việc đàm luận về các vấn đề phù hợp liên quan đến đề mục tâm từ trong các oai nghi như đứng hoặc ngồi, v.v, cũng đứt bỏ được sân hận. Do đó, ngài mới nói rằng: “Sáu pháp này vận hành để dứt bỏ sự sân hận”. Hành giả biết rõ rằng: hơn nữa, sân hận được dứt bỏ nhờ sáu pháp này sẽ không sanh khởi tiếp tục bởi A-na-hàm đạo.

Aratiādīsu ayonisomanasikārena thinamiddhassa uppādo hoti. Tandī nāma kāyālasiyatā. Vijambhitā nāma kāyavinamanā. Bhattasammado nāma bhattamucchā bhattapariḷāho. Cetaso līnattaṃ nāma cittassa līnākāro. Imesu aratiādīsu ayonisomanasikāraṃ bahulaṃ pavattayato thinamiddhaṃ uppajjati. Tenāha – ‘‘atthi, bhikkhave, arati tandī vijambhitā bhattasammado cetaso līnattaṃ, tattha ayonisomanasikārabahulīkāro, ayamāhāro anuppannassa vā thinamiddhassa uppādāya, uppannassa vā thinamiddhassa bhiyyobhāvāya vepullāyā’’ti (saṃ. ni. 5.232).

Hôn trầm, thụy miên sanh khởi do tác ý không đúng đường lối trong các pháp có sự bất mãn, v.v. Sự lười biếng của cơ thể gọi là sự biếng nhác. Sự vặn vẹo của cơ thể là sự uể oải. Sự đờ đẫn do vật thực, sự nóng nảy do thức ăn là trạng thái ngây ngất sau bữa ăn. Trạng thái co rút của tâm là trạng thái trì trệ của tâm. Khi thực hành tác ý không đúng đường lối trong sự bất mãn, v.v, thường xuyên thì sự dã dượi và buồn ngủ sanh khởi. Do đó, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Có, này các tỳ khưu, sự bất mãn, sự biếng nhác, sự uể oải, trạng thái ngây ngất sau bữa ăn, trạng thái trì trệ của tâm, ở đây tác ý không đúng đường lối được thực hiện nhiều lần, thời chính cái này là thức ăn khiến cho hôn trầm, thuỵ miên chưa sanh khởi được sanh khởi; hay hôn trầm, thuỵ miên đã sanh khởi được tăng trưởng, được lớn mạnh”. (saṃ. ni. 5.232);

Ārambhadhātuādīsu pana yonisomanasikārenassa pahānaṃ hoti. Ārambhadhātu nāma paṭhamārambhavīriyaṃ. Nikkamadhātu nāma kosajjato nikkhantatāya tato balavataraṃ. Parakkamadhātu nāma paraṃ paraṃ ṭhānaṃ akkamanato tatopi balavataraṃ. Imasmiṃ tippabhede vīriye yonisomanasikāraṃ bahulaṃ pavattayato thinamiddhaṃ pahīyati. Tenāha – ‘‘atthi, bhikkhave, ārambhadhātu nikkamadhātu parakkamadhātu, tattha yonisomanasikārabahulīkāro, ayamāhāro anuppannassa vā thinamiddhassa anuppādāya, uppannassa vā thinamiddhassa pahānāyā’’ti (saṃ. ni. 5.232).

Hơn nữa, sự dã dượi và buồn ngủ được dứt bỏ bởi tác ý đúng đường lối trong các pháp có tinh cần giới, v.v, Sự ra sức nỗ lực ban đầu gọi là tinh cần giới. Sự nỗ lực có sức mạnh hơn tinh cần giới ấy do đã vượt qua sự lười biếng gọi là tinh tấn giới. Sự nỗ lực có sức mạnh vượt trội hơn hẳn tinh tấn giới ấy do vượt qua các vị trí khác gọi là dõng mãnh giới. Khi thực hành tác ý đúng đường lối trong ba sự nỗ lực này thường xuyên sẽ từ bỏ được sự dã dượi và buồn ngủ. Do đó, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Có, này các tỳ khưu, tinh cần giới, tinh tấn giới, dõng mãnh giới, ở đây tác ý đúng đường lối được thực hiện nhiều lần, thời chính cái này là thức ăn làm cho sự dã dượi và buồn ngủ chưa sanh khởi không sanh khởi, hay sự dã dượi và buồn ngủ đã sanh khởi được dứt bỏ”. (saṃ. ni. 5.232);

Apica cha dhammā thinamiddhassa pahānāya saṃvattanti – atibhojane nimittaggāho, iriyāpathasamparivattanatā, ālokasaññāmanasikāro, abbhokāsavāso, kalyāṇamittatā, sappāyakathāti. Āharahatthaka tatravaṭṭaka alaṃsāṭaka kākamāsaka bhuttavamitakabhojanaṃ bhuñjitvā rattiṭṭhānadivāṭṭhāne nisinnassa hi samaṇadhammaṃ karoto thinamiddhaṃ mahāhatthī viya ottharantaṃ āgacchati, catupañcaālopaokāsaṃ pana ṭhapetvā pānīyaṃ pivitvā yāpanasīlassa bhikkhuno taṃ na hotīti evaṃ atibhojane nimittaṃ gaṇhantassāpi thinamiddhaṃ pahīyati. Yasmiṃ iriyāpathe thinamiddhaṃ okkamati, tato aññaṃ parivattentassāpi, rattiṃ candālokadīpālokaukkāloke divā sūriyālokaṃ manasikarontassāpi, abbhokāse vasantassāpi, mahākassapattherasadise pahīnathinamiddhe kalyāṇamitte sevantassāpi thinamiddhaṃ pahīyati. Ṭhānanisajjādīsu dhutaṅganissitasappāyakathāyapi pahīyati. Tena vuttaṃ – ‘‘cha dhammā thinamiddhassa pahānāya saṃvattantī’’ti. Imehi pana chahi dhammehi pahīnassa thinamiddhassa arahattamaggena āyatiṃ anuppādo hotīti pajānāti.

Lại nữa, sáu pháp đưa đến để dứt bỏ sự dã dượi và buồn ngủ là (1) Việc xác định dấu hiệu ở phần thức ăn dư thừa (tiết chế trong việc thọ dụng); (2) việc thay đổi oai nghi; (3) tác ý đến tưởng ánh sáng ; (4) ở nơi thoáng đãng (như ở ngoài trời); (5) thân cận bạn lành; (6) lắng nghe và thảo luận những vấn đề phù hợp. Bởi vì, sau khi thọ dụng vật thực (quá mức không tiết độ) như Bà-la-môn Āharahatthaka, Bhuttavamitaka, Tatravaṭṭaka, Ālaṃsāṭakaka và Bà-la-môn Kākamāsaka đã ngồi xuống ở chỗ nghỉ ban đêm và chỗ nghỉ ban ngày để thực hành Sa-môn pháp (thì) sự dã dượi và buồn ngủ đến bao trùm lên tựa như con voi to lớn đè lên. Ngược lại, sự dã dượi và buồn ngủ sẽ không xuất hiện đối với vị tỳ khưu không cho phép thọ dụng bốn-năm vắt cơm sau cùng và uống nước để duy trì thân thể ở trạng thái cân bằng; khi hành giả xác định dấu hiệu thức ăn dư thừa như vậy, (sẽ) dứt bỏ được hôn trầm và thuỵ miên; Ngoài ra, khi hành giả chìm vào sự dã dượi và buồn ngủ ở oai nghi nào, (thì) thay đổi sang oai nghi khác từ oai nghi đó; hoặc khi tác ý đến ánh sáng mặt trăng, ánh sáng của những ngọn đèn và ánh sáng của những ngọn đuốc vào ban đêm và ánh sáng mặt trời vào ban ngày, hay những nơi thoáng đãng (như ở ngoài trời); hoặc thân cận bạn lành vị đã dứt bỏ được sự dã dượi và buồn ngủ chẳng hạn như trưởng lão Mahākassapa cũng giúp vị ấy từ bỏ được sự dã dượi và buồn ngủ. Ngay cả với việc thảo luận các vấn đề phù hợp liên quan đến hạnh đầu đà (dhutaṅga) trong các oai nghi như đứng hoặc ngồi, v.v, cũng dứt bỏ được sự dã dượi và buồn ngủ. Do đó, đức Thế Tôn đã nói rằng: “sáu pháp vận hành để dứt bỏ sự dã dượi và buồn ngủ”. Lại nữa, hành giả biết rõ rằng: sự dã dượi và buồn ngủ được dứt bỏ nhờ sáu pháp này sẽ không sanh khởi tiếp tục bởi A-ra-hán đạo.

Cetaso avūpasame ayonisomanasikārena uddhaccakukkuccassa uppādo hoti. Avūpasamo nāma avūpasantākāro. Uddhaccakukkuccamevetaṃ atthato. Tattha ayonisomanasikāraṃ bahulaṃ pavattayato uddhaccakukkuccaṃ uppajjati. Tenāha ‘‘atthi, bhikkhave, cetaso avūpasamo, tattha ayonisomanasikārabahulīkāro, ayamāhāro anuppannassa vā uddhaccakukkuccassa uppādāya uppannassa vā uddhaccakukkuccassa bhiyyobhāvāya vepullāyā’’ti (saṃ. ni. 5.232).

Việc sanh ra của sự phóng dật và hối hận do tác ý không đúng đường lối trong sự không vắng lặng của tâm. Trạng thái tâm không tĩnh lặng gọi là không vắng lặng. Điều này có ý nghĩa là sự phóng và hối hận. Ơ đấy, khi thực hành tác ý không đúng đường lối  thường xuyên thì sự phóng dật và hối hận sanh khởi. Do đó, đức thế Tôn đã nói rằng: “Có, này các tỳ khưu, sự không vắng lặng của tâm, ở đây tác ý không đúng đường lối được thực hiện nhiều lần, thời chính cái này là thức ăn làm cho sự phóng dật và hối hận chưa sanh khởi được sanh khởi, hay sự phóng dật và hối hận đã sanh khởi được tăng trưởng, được lớn mạnh”. (saṃ. ni. 5.232);

Samādhisaṅkhāte pana cetaso vūpasame yonisomanasikārenassa pahānaṃ hoti. Tenāha – ‘‘atthi, bhikkhave, cetaso vūpasamo, tattha yonisomanasikārabahulīkāro, ayamāhāro anuppannassa vā uddhaccakukkuccassa anuppādāya, uppannassa vā uddhaccakukkuccassa pahānāyā’’ti. (saṃ. ni. 5.232).

Hơn nữa, việc dứt bỏ của sự phóng dật và hối hận nhờ tác ý đúng đường lối trong sự vắng lặng của tâm được xem là định tâm. Do đó, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Có, này các tỳ khưu, sự vắng lặng của tâm, ở đây tác ý đúng đường lối được thực hiện nhiều lần, thời chính cái này là thức ăn làm cho sự phóng dật và hối hận chưa sanh khởi sẽ không sanh khởi, hay sự phóng dật và hối hận đã sanh được dứt bỏ”. (saṃ. ni. 5.232);

Apica cha dhammā uddhaccakukkuccassa pahānāya saṃvattanti bahussutatā paripucchakatā vinaye pakataññutā vuddhasevitā kalyāṇamittatā sappāyakathāti. Bāhussaccenapi hi ekaṃ vā dve vā tayo vā cattāro vā pañca vā nikāye pāḷivasena atthavasena ca uggaṇhantassāpi uddhaccakukkuccaṃ pahīyati. Kappiyākappiyaparipucchābahulassāpi, vinayapaññattiyaṃ ciṇṇavasibhāvatāya pakataññunopi, vuḍḍhe mahallakatthere upasaṅkamantassāpi, upālittherasadise vinayadhare kalyāṇamitte sevantassāpi uddhaccakukkuccaṃ pahīyati, ṭhānanisajjādīsu kappiyākappiyanissitasappāyakathāyapi pahīyati. Tena vuttaṃ – ‘‘cha dhammā uddhaccakukkuccassa pahānāya saṃvattantī’’ti. Imehi pana chahi dhammehi pahīne uddhaccakukkucce uddhaccassa arahattamaggena kukkuccassa anāgāmimaggena āyatiṃ anuppādo hotīti pajānāti.

Lại nữa, sáu pháp vận hành để dứt trừ phóng dật và hối hận là (1) Nghe nhiều (đa văn); (2) ham thích hỏi han; (3) hiểu biết rành rẽ trong giới luật; (4) thân cận bậc trưởng thượng (những vị cao niên tinh thông giới luật); (5) thân cận bạn lành; (6) lắng nghe và thảo luận các vấn đề phù hợp. Thật vậy, nhờ việc nghe nhiều, hành giả sau khi học tập một, hai, ba, bốn hoặc năm bộ Kinh bao gồm cả Chánh Tạng Pāḷi và Chú giải, (vị ấy) dứt bỏ được sự phóng dật và hối hận; Vị tỳ khưu thường xuyên đặt câu hỏi về những điều được phép và không được phép, vị thiện xảo do có sự thông thạo các quy định về giới luật vốn đã được tích lũy; thân cận bậc trưởng thượng là những vị trưởng lão cao niên lạp trưởng, hoặc thân cận bạn lành, vị rành rẽ về giới luật chẳng hạn như trưởng lão Upālī sẽ dứt bỏ được sự phóng dật và hối hận; Ngoài ra, với việc thảo luận các vấn đề liên quan đến điều được phép và không được phép trong các oai nghi đứng hoặc ngồi, v.v, cũng dứt bỏ được sự phóng dật và hối hận.  Do đó, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Sáu pháp vận hành để dứt bỏ sự phóng dật và hối hận”. Lại nữa, hành giả biết rõ rằng: sự phóng dật và hối hận từ bỏ được nhờ sáu pháp này, sự phóng dật không sanh khởi tiếp tục bởi A-ra-hán đạo, còn sự hối hận không sanh khởi tiếp tục bởi A-na-hàm đạo.

Vicikicchāṭhānīyesu dhammesu ayonisomanasikārena vicikicchāya uppādo hoti. Vicikicchāṭhānīyā dhammā nāma punappunaṃ vicikicchāya kāraṇattā vicikicchāva. Tattha ayonisomanasikāraṃ bahulaṃ pavattayato vicikicchā uppajjati. Tenāha – ‘‘atthi, bhikkhave, vicikicchāṭhānīyā dhammā, tattha ayonisomanasikārabahulīkāro, ayamāhāro anuppannāya vā vicikicchāya uppādāya, uppannāya vā vicikicchāya bhiyyobhāvāya vepullāyā’’ti (saṃ. ni. 5.232).

Việc sanh khởi của sự hoài nghi do tác ý không đúng đường lối trong các pháp trú xứ của hoài nghi. Sự hoài nghi vì là nguyên nhân của sự nghi ngờ thường xuyên, được gọi là pháp trú xứ của hoài nghi. Khi thực hành tác ý không đúng đường lối ở các pháp trú xứ của hoài nghi ấy thường xuyên thì sự hoài nghi sanh khởi. Do đó, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Có, này các tỳ khưu, các pháp trú xứ của hoài nghi, ở đấy tác ý không đúng đường lối được thực hiện nhiều lần, thời chính cái này là thức ăn khiến cho hoài nghi chưa sanh khởi được sanh khởi, hay hoài nghi đã sanh khởi được tăng trưởng, được lớn mạnh”. (saṃ. ni. 5.232);

Kusalādidhammesu yonisomanasikārena panassā pahānaṃ hoti, tenāha – ‘‘atthi, bhikkhave, kusalākusalā dhammā sāvajjānavajjā dhammā sevitabbāsevitabbā dhammā hīnapaṇītā dhammā kaṇhasukkasappaṭibhāgā dhammā. Tattha yonisomanasikārabahulīkāro, ayamāhāro, anuppannāya vā vicikicchāya anuppādāya; uppannāya vā vicikicchāya pahānāyā’’ti. (saṃ. ni. 5.232).

Tuy nhiên, sự hoài nghi ấy được dứt bỏ nhờ tác ý đúng đường lối ở các pháp có pháp thiện, v.v. Do đó, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Có, này các tỳ khưu, các pháp thiện và pháp bất thiện, pháp đáng bị quở trách và không đáng bị quở trách, pháp nên được thân cận và không nên được thân cận, các pháp hạ liệt và các pháp thù thắng, các pháp đen và các pháp trắng, ở đây tác ý đúng đường lối được thực hiện nhiều lần, thời chính cái này là thức ăn khiến cho hoài nghi chưa sanh khởi không sanh khởi, hay hoài nghi đã sanh được dứt bỏ”. (saṃ. ni. 5.232);

Apica cha dhammā vicikicchāya pahānāya saṃvattanti bahussutatā, paripucchakatā, vinaye pakataññutā, adhimokkhabahulatā, kalyāṇamittatā, sappāyakathāti. Bāhussaccenapi hi ekaṃ vā…pe… pañca vā nikāye pāḷivasena ca atthavasena ca uggaṇhantassāpi vicikicchā pahīyati, tīṇi ratanāni ārabbha paripucchābahulassāpi, vinaye ciṇṇavasībhāvassāpi, tīsu ratanesu okappaniyasaddhāsaṅkhāta-adhimokkhabahulassāpi, saddhādhimutte vakkalittherasadise kalyāṇamitte sevantassāpi vicikicchā pahīyati, ṭhānanisajjādīsu tiṇṇaṃ ratanānaṃ guṇanissitasappāyakathāyapi pahīyati. Tena vuttaṃ – ‘‘cha dhammā vicikicchāya pahānāya saṃvattantī’’ti. Imehi pana chahi dhammehi pahīnāya vicikicchāya sotāpattimaggena āyatiṃ anuppādo hotīti pajānāti.

Lại nữa, sáu pháp vận hành để dứt bỏ sự hoài nghi là (1) nghe nhiều (đa văn); (2) ham thích hỏi han; (3) hiểu biết rành rẽ trong giới luật; (4) phần nhiều có sự quyết định chắc chắn; (5) thân cận bạn lành; (6) lắng nghe và thảo luân những vấn đề phù hợp. Vì vậy, nhờ nghe nhiều hành giả sau khi học tập một một bộ Kinh -nt- hoặc năm bộ Kinh gồm Chánh Tạng Pāḷi và Chú giải (vị ấy) dứt bỏ được sự hoài nghi; Vị thường xuyên ưa thích hỏi những vấn đề liên quan đến Tam Bảo; có sự rành rẽ trong giới luật do đã được tích lũy; phần lớn có sự quyết định chắc chắn được xem là có lòng tin bất thối chuyển nơi Tam Bảo; hoặc thân cận bạn lành chẳng hạn như trưởng lão Vakkali – vị có tín thắng giải – cũng sẽ dứt bỏ được sự hoài nghi; ngay cả việc thảo luận về các vấn đề liên quan đến ân đức Tam Bảo trong các oai nghi như đứng hoặc ngồi, v.v, cũng dứt bỏ được hoài nghi. Do đó, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Sáu pháp vận hành để dứt bỏ hoài nghi”. Lại nữa, hành giả biết rõ rằng: “Sự hoài nghi được dứt bỏ nhờ 6 pháp này, hoài nghi không sanh khởi tiếp tục bởi Nhập Lưu đạo.

Iti ajjhattaṃ vāti evaṃ pañcanīvaraṇapariggaṇhanena attano vā dhammesu, parassa vā dhammesu, kālena vā attano, kālena vā parassa dhammesu dhammānupassī viharati. Samudayavayā panettha subhanimittaasubhanimittādīsu ayonisomanasikārayonisomanasikāravasena pañcasu nīvaraṇesu vuttāyeva nīharitabbā. Ito paraṃ vuttanayameva. Kevalañhi idha nīvaraṇapariggāhikā sati dukkhasaccanti evaṃ yojanaṃ katvā nīvaraṇapariggāhakassa bhikkhuno niyyānamukhaṃ veditabbaṃ. Sesaṃ tādisamevāti.

Như vậy … thuộc nội phần: vị ấy sống có sự quan sát pháp trên các pháp của mình, hoặc trên các pháp của người khác, hoặc trên các pháp của mình hợp thời, hoặc trên các pháp của người khác hợp thời bằng việc xác định năm pháp ngăn che như vậy. Nhưng ở đây, sự sanh khởi và hoại diệt trong câu ‘sống có sự quan sát pháp sanh khởi và hoại diệt’ đã được đề cập trong năm pháp ngăn che do tác động tác ý không đúng đường lối và tác ý đúng đường lối đến hiện tướng đẹp và hiện tướng bất tịnh, v.v. Bậc trí nên đem đến để so sánh (để làm rõ hơn). Câu tiếp theo cũng có cách thức như đã nói trước. Ở phần này điểm khác biệt duy nhất là cần được phối hợp ý nghĩa như sau– niệm xác định năm pháp ngăn che là Khổ Đế, nên biết rằng đây là con đường dẫn dắt ra khỏi khổ đau của vị tỳ khưu xác định năm pháp ngăn che (làm đối tượng). Những từ còn lại tương tự.

Phần năm pháp ngăn che – được kết thúc

 

Giải thích phần uẩn

  1. Evaṃ pañcanīvaraṇavasena dhammānupassanaṃ vibhajitvā idāni pañcakkhandhavasena vibhajituṃ puna caparantiādimāha. Tattha pañcasu upādānakkhandhesūti upādānassa khandhā upādānakkhandhā, upādānassa paccayabhūtā dhammapuñjā dhammarāsayoti attho. Ayamettha saṅkhepo. Vitthārato pana khandhakathā visuddhimagge vuttā. Iti rūpanti idaṃ rūpaṃ, ettakaṃ rūpaṃ, na ito paraṃ rūpaṃ atthīti sabhāvato rūpaṃ pajānāti. Vedanādīsupi eseva nayo. Ayamettha saṅkhepo, vitthārena pana rūpādīni visuddhimagge khandhakathāyameva vuttāni. Iti rūpassa samudayoti evaṃ avijjāsamudayādivasena pañcahākārehi rūpassa samudayo. Iti rūpassa atthaṅgamoti evaṃ avijjānirodhādivasena pañcahākārehi rūpassa atthaṅgamo. Vedanādīsupi eseva nayo. Ayamettha saṅkhepo, vitthāro pana visuddhimagge udayabbayañāṇakathāya vutto.
    Sau khi phân tích việc quan sát pháp với năm pháp ngăn che như vậy, bây giờ, để phân tích năm uẩn ngài đã nói rằng: “còn có điều khác nữa…”. Ở đây, “về năm thủ uẩn: là các uẩn đưa đến thủ, gọi là thủ uẩn; nghĩa là “năm khối pháp, năm đống pháp có tính chất là duyên đưa đến chấp thủ. Ở đây nội dung này là phần tóm tắt. Còn chi tiết về uẩn đã được giải thích trong Thanh Tịnh Đạo. Thế này là sắc: biết rõ sắc có thực tính rằng: “đây là sắc, sắc có chừng này, không có sắc nào khác ngoài sắc này”. Cả trong thọ v.v, cũng áp dụng cách này. Ở đây nội dung này là phần tóm tắt. Còn chi tiết về sắc đã được giảng giải trong Khandhakathā thuộc bộ Thanh Tịnh Đạo. Thế này là sự sanh khởi của sắc: sự sanh khởi của sắc với năm biểu hiện do sự sanh khởi của vô minh, v.v, như vậy. Thế này là sự diệt của sắc: sự diệt của sắc với năm biểu hiện do sự diệt tận của vô minh v.v. Ngay cả trong thọ cũng áp dụng cách này. Ở đây nội dung này là phần tóm tắt. Còn chi tiết đã được giảng giải ở phần ‘trí về sanh diệt’ trong bộ Thanh Tịnh Đạo.

Iti ajjhattaṃ vāti evaṃ pañcakkhandhapariggaṇhanena attano vā dhammesu, parassa vā dhammesu, kālena vā attano, kālena vā parassa dhammesu dhammānupassī viharati. Samudayavayā panettha ‘‘avijjāsamudayā rūpasamudayo’’tiādīnaṃ (paṭi. ma. 1.50); pañcasu khandhesu vuttānaṃ paññāsāya lakkhaṇānaṃ vasena nīharitabbā. Ito paraṃ vuttanayameva. Kevalañhi idha khandhapariggāhikā sati dukkhasaccanti evaṃ yojanaṃ katvā khandhapariggāhakassa bhikkhuno niyyānamukhaṃ veditabbaṃ. Sesaṃ tādisamevāti.

Như vậy… thuộc nội phần: vị ấy sống có sự quan sát pháp trên các pháp của mình, hoặc trên các pháp của người khác, hoặc trên các pháp của mình hợp thời, hoặc trên các pháp của người khác hợp thời bằng việc xác định năm thủ uẩn như vậy. Ở trường hợp này, sự sanh khởi và hoại diệt nên được đem ra so sánh với năm mươi tướng trạng được nói ở năm uẩn như sau: “do sự sanh khởi của vô minh có sự sanh khởi của sắc”. (paṭi. ma. 1.50); Những từ còn lại ngoài những từ này áp dụng theo cách đã nói. Ở phần này điểm khác biệt duy nhất là cần được phối hợp ý nghĩa như vầy – niệm ghi nhận năm uẩn là Khổ Đế, nên biết rằng đây là con đường dẫn dắt ra khỏi khổ đau của vị tỳ khưu xác định năm uẩn (làm đối tượng). Những từ còn lại tương tự.

Phần uẩn được kết thúc

 

Giải thích phần xứ

  1. Evaṃ pañcakkhandhavasena dhammānupassanaṃ vibhajitvā idāni āyatanavasena vibhajituṃ puna caparantiādimāha. Tattha chasu ajjhattikabāhiresu āyatanesūti cakkhu sotaṃ ghānaṃ jivhā kāyo manoti imesu chasu ajjhattikesu, rūpaṃ saddo gandho raso phoṭṭhabbo dhammoti imesu chasu bāhiresu. Cakkhuñca pajānātīti cakkhupasādaṃ yāthāvasarasalakkhaṇavasena pajānāti. Rūpe ca pajānātīti bahiddhā catusamuṭṭhānikarūpañca yāthāvasarasalakkhaṇavasena pajānāti. Yañca tadubhayaṃ paṭicca uppajjati saṃyojananti yañca taṃ cakkhuṃ ceva rūpe cāti ubhayaṃ paṭicca, Kāmarāgasaṃyojanaṃ paṭigha, māna, diṭṭhi, vicikicchā, sīlabbataparāmāsa, bhavarāga, issā, macchariya, avijjāsaṃyojananti dasavidhaṃ saṃyojanaṃ uppajjati, tañca yāthāvasarasalakkhaṇavasena pajānāti.
    Sau khi phân tích việc quan sát pháp do tác động của năm uẩn, bây giờ, để phân tích Xứ, ngài đã nói như sau: “còn có điều khác nữa”. Trong số những câu ấy, đối với các pháp về sáu nội và ngoại xứ: Sáu nội xứ này là–mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý; sáu ngoại xứ này là–sắc, thanh, khí, vị, xúc và pháp. Biết rõ con mắt: (vị ấy) biết rõ thần kinh nhãn nhờ vào tướng trạng cùng với chức năng của chúng đúng theo thực thể. Biết rõ các sắc: (vị ấy) biết rõ các sắc có bốn nguồn sanh khởi (nghiệp, quý tiết, tâm và vật thực) ở bên ngoài nhờ vào tướng trạng cùng với chức năng của chúng đúng theo thực thể. Và sự ràng buộc sanh lên tùy thuộc vào cả hai nơi ấy: Mười sự ràng buộc là— sự ràng buộc của ái dục, sự ràng buộc của bất bình, sự ràng buộc của ngã mạn, sự ràng buộc của tà kiến, sự ràng buộc của hoài nghi, sự ràng buộc của giới cấm thủ, sự ràng buộc của hữu ái, sự ràng buộc của ganh tị, sự ràng buộc của bỏn xẻn và sự ràng buộc của vô minh thì sự ràng buộc sanh lên tùy thuộc vào cả hai nơi ấy là– con mắt và các sắc, và biết rõ mười sự ràng buộc đó nhờ vào tướng trạng cùng với chức năng của chúng đúng theo thực thể.

Kathaṃ panetaṃ uppajjatīti? Cakkhudvāre tāva āpāthagataṃ iṭṭhārammaṇaṃ kāmassādavasena assādayato abhinandato kāmarāgasaṃyojanaṃ uppajjati. Aniṭṭhārammaṇe kujjhato paṭighasaṃyojanaṃ uppajjati. ‘‘Ṭhapetvā maṃ ko añño etaṃ ārammaṇaṃ vibhāvetuṃ samattho atthī’’ti maññato mānasaṃyojanaṃ uppajjati. Etaṃ rūpārammaṇaṃ niccaṃ dhuvanti gaṇhato diṭṭhisaṃyojanaṃ uppajjati. ‘‘Etaṃ rūpārammaṇaṃ satto nu kho, sattassa nu kho’’ti vicikicchato vicikicchāsaṃyojanaṃ uppajjati. ‘‘Sampattibhave vata no idaṃ sulabhaṃ jāta’’nti bhavaṃ patthentassa bhavarāgasaṃyojanaṃ uppajjati. ‘‘Āyatimpi evarūpaṃ sīlabbataṃ samādiyitvā sakkā laddhu’’nti sīlabbataṃ samādiyantassa sīlabbataparāmāsasaṃyojanaṃ uppajjati. ‘‘Aho vata taṃ rūpārammaṇaṃ aññe na labheyyu’’nti usūyato issāsaṃyojanaṃ uppajjati. Attanā laddhaṃ rūpārammaṇaṃ aññassa maccharāyato macchariyasaṃyojanaṃ uppajjati. Sabbeheva sahajātaaññāṇavasena avijjāsaṃyojanaṃ uppajjati.

Hơn nữa, sự ràng buộc này sanh lên như thế nào? Sanh lên như vầy– trước tiên, tại lộ nhãn môn, sự ràng buộc của ái dục sanh lên khi một người có sự hài lòng, có sự thích thú trong đối tượng khả ái đã đến xuất hiện qua lộ nhãn môn do sự ưa thích trong các dục. Sự ràng buộc của bất bình sanh lên khi một người bực bội với đối tượng bất khả ái. Sự ràng buộc của ngã mạn sanh lên khi một người có suy nghĩ rằng: “Ngoại trừ ta thì không có ai khác có thể cảm nghiệm đối tượng ấy”. Sự ràng buộc của tà kiến sanh lên khi nắm lấy đối tượng sắc nghĩ rằng: là thường hằng, bền vững. Sự ràng buộc của hoài nghi sanh lên khi có sự phân vân: “Đối tượng sắc này có phải là một chúng sanh? hay là của chúng sanh”. Sự ràng buộc của hữu ái sanh lên khi mong muốn rằng: “Đối tượng này chắc chắn ta sẽ dễ dàng đạt được ở thế giới có sự thuận lợi”. Sự ràng buộc của giới cấm thủ sanh lên khi chấp chặt vào giới và phận sự, nghĩ rằng: “Nhờ hành trì giới và phận sự này, ta có thể đạt được đối tượng sắc có hình thức như vậy trong tương lai”. Sự ràng buộc của ganh tị sanh lên khi có sự đố kỵ rằng “Ôi! những kẻ khác không nên có được các đối tượng sắc có hình thức như thế này”. Sự ràng buộc của bỏn xẻn sanh lên khi có sự ích kỷ đối với người khác về đối tượng sắc mà mình sở hữu. Sự ràng buộc của vô minh sanh lên khi không biết rõ do năng lực không hiểu biết các pháp đồng sanh với hết thảy tất cả điều này (mắt và các sắc).

Yathā ca anuppannassāti yena kāraṇena asamudācāravasena anuppannassa tassa dasavidhassāpi saṃyojanassa uppādo hoti, tañca kāraṇaṃ pajānāti. Yathā ca uppannassāti appahīnaṭṭhena pana samudācāravasena vā uppannassa tassa dasavidhassāpi saṃyojanassa yena kāraṇena pahānaṃ hoti, tañca kāraṇaṃ pajānāti. Yathā ca pahīnassāti tadaṅgavikkhambhanappahānavasena pahīnassāpi tassa dasavidhassa saṃyojanassa yena kāraṇena āyatiṃ anuppādo hoti, tañca pajānāti. Kena kāraṇena panassa āyatiṃ anuppādo hoti? Diṭṭhi– vicikicchā– sīlabbataparāmāsa– issā– macchariya– bhedassa tāva pañcavidhassa saṃyojanassa sotāpattimaggena āyatiṃ anuppādo hoti. Kāmarāga-paṭighasaṃyojanadvayassa oḷārikassa sakadāgāmimaggena, aṇusahagatassa anāgāmimaggena, māna– bhavarāga– avijjāsaṃyojanattayassa arahattamaggena āyatiṃ anuppādo hoti. Sotañca pajānāti sadde cātiādīsupi eseva nayo. Apicettha āyatanakathā vitthārato visuddhimagge āyatananiddese vuttanayeneva veditabbā.

Chưa được sanh lên là như thế nào: Mười sự ràng buộc đó vẫn chưa sanh lên do tác động của sự không kiểm soát được sanh lên bởi nguyên nhân nào? vị ấy biết rõ nguyên nhân ấy; Đã được sanh lên là như thế nào: Mười sự ràng buộc ấy đã được sanh lên với ý nghĩa vẫn chưa dứt bỏ, hoặc do tác động của sự kiểm soát được dứt bỏ do nhân nào? vị ấy biết rõ nhân ấy; Đã được dứt bỏ là như thế nào : mười sự ràng buộc ấy đã được dứt trừ nhờ tác động của sự từ bỏ do thay thế và sự từ bỏ do chế ngự đã không sanh lên trong tương lai bởi nguyên nhân nào? vị ấy biết rõ nhân ấy. Việc không sanh lên trong tương lai của mười sự ràng buộc do nhân gì? Trước hết, việc không sanh lên trong tương lai của năm sự ràng buộc là– tà kiến, hoài nghi, giới cấm thủ, ganh tị và bỏn xẻn do Đạo Nhập Lưu; Hai sự ràng buộc là– sự ràng buộc của ái dục và sự ràng buộc của bất bình có tính chất thô thiển sẽ không sanh lên do Đạo Nhất Lai; Còn có tính chất vi tế không sanh lên do Đạo Bất Lai. Ba sự ràng buộc là– sự ràng buộc của ngã mạn, sự ràng buộc của hữu ái và sự ràng buộc của vô mình không sanh lên trong tương lai do Đạo A-ra-hán , (vị ấy) biết rõ nhân ấy.Tương tự, vị ấy biết rõ tai, biết rõ các thinh, v.v.: cũng áp dụng cách này. Hơn nữa, lời thuyết giảng về Xứ ở đây nên hiểu chi tiết theo cách đã trình bày ở phần diễn giải về Xứ trong bộ Thanh Tịnh Đạo.

Iti ajjhattaṃ vāti evaṃ ajjhattikāyatanapariggaṇhanena attano vā dhammesu bāhirāyatanapariggaṇhanena parassa vā dhammesu, kālena vā attano, kālena vā parassa dhammesu dhammānupassī viharati. Samudayavayā panettha ‘‘avijjāsamudayā cakkhusamudayo’’ti rūpāyatanassa rūpakkhandhe, arūpāyatanesu manāyatanassa viññāṇakkhandhe, dhammāyatanassa sesakkhandhesu vuttanayena nīharitabbā. Lokuttaradhammā na gahetabbā. Ito paraṃ vuttanayameva. Kevalañhi idha āyatanapariggāhikā sati dukkhasaccanti evaṃ yojanaṃ katvā āyatanapariggāhakassa bhikkhuno niyyānamukhaṃ veditabbaṃ. Sesaṃ tādisamevāti.

Như vậy … hoặc ngoại phần: vị ấy sống có sự quan sát pháp trên các pháp của mình với việc xác định nội xứ, hoặc trên các pháp của người khác với việc xác định ngoại xứ, hoặc trên các pháp của mình hợp thời, hoặc trên các pháp của người khác hợp thời như vậy. Sự sanh khởi và sự hoại diệt trong phần Xứ này nên được đem đến so sánh với phần Sắc xứ thuộc Sắc uẩn, Ý xứ trong Vô sắc xứ thuộc Thức uẩn, Pháp xứ thuộc các uẩn còn lại rằng: “do sự sanh khởi của vô minh có sự sanh khởi của mắt”, không nên nắm giữ là Pháp Siêu Thế. Các câu từ tiếp theo có cách thức như đã trình bày. Ở phần này điểm khác biệt duy nhất là cần được phối hợp ý nghĩa như vầy – niệm ghi nhận các Xứ (làm đối tượng) là Khổ Đế, nên biết rằng đây là con đường dẫn dắt ra khỏi khổ đau của vị tỳ khưu xác định Xứ (làm đối tượng). Những từ còn lại tương tự.

Giảng giải phần Xứ được kết thúc

 

Giảng giải phần giác chi

  1. Evaṃ cha ajjhattikabāhirāyatanavasena dhammānupassanaṃ vibhajitvā idāni bojjhaṅgavasena vibhajituṃ puna caparantiādimāha. Tattha bojjhaṅgesūti bujjhanakasattassa aṅgesu. Santanti paṭilābhavasena saṃvijjamānaṃ. Satisambojjhaṅganti satisaṅkhātaṃ sambojjhaṅgaṃ. Ettha hi sambujjhati āraddhavipassakato paṭṭhāya yogāvacaroti Yāya vā so satiādikāya sattadhammasāmaggiyā sambujjhati kilesaniddāto uṭṭhāti, saccāni vā paṭivijjhati, sā dhammasāmaggī sambodhi. Tassa sambodhissa, tassā vā sambodhiyā aṅganti sambojjhaṅgaṃ. Tena vuttaṃ – ‘‘satisaṅkhātaṃ sambojjhaṅga’’nti. Sesasambojjhaṅgesupi imināva nayena vacanattho veditabbo.
    Sau khi phân tích việc quan sát pháp do tác động sáu nội và ngoại xứ như vậy, giờ đây, để phân tích về các giác chi, ngài đã nói rằng: “Còn có điều khác nữa, v.v.” Ở đây, giác chi là những yếu tố của chúng sanh giác ngộ. Đang hiện hữu: Hiện hữu bởi sự thành tựu. Niệm giác chi: yếu tố giác ngộ được gọi là niệm. Chính ở đây, hành giải thấy rõ hoàn toàn từ lúc bắt đầu thực hành Minh sát được gọi là sự giác ngộ hoàn toàn. Hoặc vị ấy tỉnh dậy từ giấc ngủ phiền não thấy rõ hoàn toàn hoặc thấu triệt các Chân lý bằng bảy pháp hòa hợp nào có niệm, v.v, (thì) pháp hòa hợp ấy gọi là sự giác ngộ hoàn toàn. Yếu tố của người tỉnh thức ấy, hoặc pháp hòa hợp là phương tiện đánh thức ấy được gọi là giác chi. Do đó, ngài đã nói rằng: “Giác chi được gọi là niệm”. Cả các giác chỉ còn cũng nên hiểu ý nghĩa của từ theo chính cách thức này.

Asantanti appaṭilābhavasena avijjamānaṃ. Yathā ca anupannassātiādīsu pana satisambojjhaṅgassa tāva ‘‘atthi, bhikkhave, satisambojjhaṅgaṭṭhānīyā dhammā, tattha yonisomanasikārabahulīkāro, ayamāhāro anuppannassa vā satisambojjhaṅgassa uppādāya, uppannassa vā satisambojjhaṅgassa bhiyyobhāvāya vepullāya bhāvanāya pāripūriyā saṃvattatī’’ti (saṃ. ni. 5.232) evaṃ uppādo hoti. Tattha satiyeva satisambojjhaṅgaṭṭhānīyā dhammā. Yonisomanasikāro vuttalakkhaṇoyeva. Taṃ tattha bahulaṃ pavattayato satisambojjhaṅgo uppajjati.

Không hiện hữu: Không hiện hữu do không thành tựu. Chưa sanh lên là như thế nào,v.v, trước tiên, niệm giác chi sanh khởi như vầy: “Có, này các tỳ khưu, có các pháp trú xứ cho niệm giác chi, ở đây tác ý đúng đường lối được thực hiện nhiều lần, thời chính cái này là thức ăn khiến cho niệm giác chi chưa sanh khởi được sanh khởi, hay niệm giác chi đã sanh khởi được vận hành đưa đến sự tăng trưởng, sự phát triển, sự tu tập và làm cho trọn vẹn.” (saṃ. ni. 5.232); Trong các pháp đó, chính  niệm ấy được gọi là pháp trú xứ cho niệm giác chi. Tác ý đúng đường lối có tướng trạng như đã được trình bày. Ở đây, khi tác ý đúng đường lối được thực hiện nhiều lần thời niệm giác chi sanh khởi.

Apica cattāro dhammā satisambojjhaṅgassa uppādāya saṃvattanti satisampajaññaṃ muṭṭhassatipuggalaparivajjanatā upaṭṭhitassatipuggalasevanatā tadadhimuttatāti. Abhikkantādīsu hi sattasu ṭhānesu satisampajaññena, bhattanikkhittakākasadise muṭṭhassatipuggale parivajjanena, tissadattattheraabhayattherasadise upaṭṭhitassatipuggale sevanena, ṭhānanisajjādīsu satisamuṭṭhāpanatthaṃ ninnapoṇapabbhāracittatāya ca satisambojjhaṅgo uppajjati. Evaṃ catūhi kāraṇehi uppannassa panassa arahattamaggena bhāvanāpāripūri hotīti pajānāti.

Thêm nữa, bốn pháp được vận hành đưa đến sự sanh khởi của niệm giác chi gồm (1) có niệm và sự nhận biết rõ; (2) tránh xa những người có niệm bị quên lãng; (3) gần gũi những người có niệm được thiết lập; (4) tâm luôn hướng đến niệm giác chi ấy. Thật vậy, niệm giác chi sanh khởi nhờ có niệm và sự nhận biết rõ trong bảy trường hợp như ‘bước tới”; với việc tránh xa những kẻ có niệm bị quên lãng cũng giống như loài quạ cất giữ thức ăn; gần gũi những người có niệm được thiết lập chẳng hạn như trưởng lão Tissadatta và trưởng lão Abhaya v.v. Và với bản thể vị có tâm hướng đến để thiết niệm niệm trong các oai nghi như đứng hoặc ngồi, v.v. Vị ấy biết rõ rằng– niệm giác chi đã khơi lên nhờ bốn nguyên nhân như vậy, được phát triển trọn vẹn bởi Đạo A-ra-hán.

Dhammavicayasambojjhaṅgassa pana ‘‘atthi, bhikkhave, kusalākusalā dhammā…pe… kaṇhasukkasappaṭibhāgā dhammā, tattha yonisomanasikārabahulīkāro, ayamāhāro anuppannassa vā dhammavicayasambojjhaṅgassa uppādāya, uppannassa vā dhammavicayasambojjhaṅgassa bhiyyobhāvāya vepullāya bhāvanāya pāripūriyā saṃvattatī’’ti (saṃ. ni. 5.232) evaṃ uppādo hoti.

Lại nữa, việc sanh lên của trạch pháp giác chi như vầy: “Có, này các tỳ khưu, các pháp thiện và bất thiên -nt- các pháp đen và trắng, ở đây tác ý đúng đường lối được thực hiện nhiều lần, thời chính cái này là thức ăn khiến cho trạch pháp giác chi chưa sanh khởi được sanh khởi, hoặc trạch pháp giác chi đã sanh khởi được vận hành đưa đến sự tăng trưởng, sự phát triển, sự tu tập và làm cho trọn vẹn.” (saṃ. ni. 5.232);

Apica satta dhammā dhammavicayasambojjhaṅgassa uppādāya saṃvattanti paripucchakatā vatthuvisadakiriyā indriyasamattapaṭipādanā duppaññapuggalaparivajjanā paññavanta-puggalasevanā gambhīrañāṇacariya–  paccavekkhaṇā tadadhimuttatāti. Tattha paripucchakatāti khandha– dhātu– āyatana– indriya– bala– bojjhaṅga– maggaṅga– jhānaṅga-samathavipassanānaṃ atthasannissitaparipucchābahulatā. Vatthuvisadakiriyāti ajjhattikabāhirānaṃ vatthūnaṃ visadabhāvakaraṇaṃ. Yadā hissa kesanakhalomāni dīghāni honti, sarīraṃ vā ussannadosañceva sedamalamakkhitañca, tadā ajjhattikaṃ vatthu avisadaṃ hoti aparisuddhaṃ. Yadā pana cīvaraṃ jiṇṇaṃ kiliṭṭhaṃ duggandhaṃ hoti, senāsanaṃ vā uklāpaṃ, tadā bāhiravatthu avisadaṃ hoti aparisuddhaṃ. Tasmā kesādichedāpanena uddhaṃvirecanaadhovirecanādīhi sarīrasallahukabhāvakaraṇena ucchādananahāpanena ca ajjhattikavatthu visadaṃ kātabbaṃ. Sūcikammadhovanarajanaparibhaṇḍakaraṇādīhi bāhiravatthu visadaṃ kātabbaṃ. Etasmiñhi ajjhattikabāhire vatthumhi avisade uppannesu cittacetasikesu ñāṇampi avisadaṃ hoti aparisuddhaṃ aparisuddhāni dīpakapallavaṭṭitelāni nissāya uppannadīpasikhāya obhāso viya. Visade pana ajjhattikabāhire vatthumhi uppannesu cittacetasikesu ñāṇampi visadaṃ hoti parisuddhāni dīpakapallavaṭṭitelāni nissāya uppannadīpasikhāya obhāso viya. Tena vuttaṃ ‘‘vatthuvisadakiriyā dhammavicayasambojjhaṅgassa uppādāya saṃvattatī’’ti.

Lại nữa, bảy pháp được vận hành đưa đến sự sanh khởi của trạch pháp giác chi gồm– (1) ham thích học hỏi; (2) làm sạch sẽ vật bên trong và bên ngoài; (3) điều chỉnh các Quyền được cân bằng; (4) tránh xa những người có tuệ kém; (5) gần gũi những người có tuệ; (6) quán xét lại hành vi của tri sâu sắc; (7) hướng tâm vào trạch pháp giác chi. Trong số bảy pháp đó, bản thể vị thường xuyên tìm hiểu và đặt câu hỏi về các vấn đề liên quan đến ý nghĩa của uẩn, xứ, giới, quyền, lực, giác chi, chi đạo, chi thiền, Chỉ tịnh và Minh sát gọi là ham thích học hỏi. Cần được làm sạch sẽ vật bên trong và bên ngoài gọi là làm sạch vật bên trong và bên ngoài. Khi nào tóc, râu và móng dài, hoặc cơ thể bị bẩn, hôi hám bởi mồ hôi và chất nhờn; khi đó vật bên trong không sạch sẽ, không trong sạch. Còn khi nào y phục đã cũ, rách, dơ bẩn, bốc mùi hoặc chỗ ở dơ bẩn, bừa bộn; khi ấy vật bên ngoài không được sạch sẽ, không trong sạch. Do đó, cần giữ sạch vật bên trong bằng việc cạo râu, tóc, v.v, làm cho cơ thể được thoải mái, tẩy rửa bụi bẩn toàn thân từ trên xuống dưới và  kỳ cọ sạch sẽ, tắm rửa để loại bỏ mùi hôi. Đồng thời, cần làm sạch sẽ vật bên ngoài bằng cách khâu vá, nhuộm và giặt giũ (y phục cũ, rách), và thực hiện xông bình bát, v.v. Bởi lẽ, khi cả vật bên trong và vật bên ngoài không sạch sẽ, thì khi tâm và tâm sở sanh khởi, trí cũng không trong sáng; (điều này) giống như ánh sáng của ngọn đèn phát ra (mờ đục) do tim đèn và dầu không sạch. Ngược lại, khi vật bên trong và vật bên ngoài đều được làm sạch, thì khi tâm và tâm sở sanh khởi, trí cũng trở nên trong sáng; (điều này) giống như ánh sáng của ngọn đèn phát ra (sáng rõ) do tim đèn và dầu sạch. Do đó, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Việc làm vật sạch sẽ vận hành đưa đến sự sanh khởi của trạch pháp giác chi”.

Indriyasamattapaṭipādanā nāma saddhādīnaṃ indriyānaṃ samabhāvakaraṇaṃ. Sace hissa saddhindriyaṃ balavaṃ hoti, itarāni mandāni, tato vīriyindriyaṃ paggahakiccaṃ, satindriyaṃ upaṭṭhānakiccaṃ, samādhindriyaṃ avikkhepakiccaṃ, paññindriyaṃ dassanakiccaṃ kātuṃ na sakkoti. Tasmā taṃ dhammasabhāvapaccavekkhaṇena vā, yathā vā manasikaroto balavaṃ jātaṃ, tathā amanasikārena hāpetabbaṃ. Vakkalittheravatthu cettha nidassanaṃ. Sace pana vīriyindriyaṃ balavaṃ hoti, atha saddhindriyaṃ adhimokkhakiccaṃ kātuṃ na sakkoti, na itarāni itarakiccabhedaṃ. Tasmā taṃ passaddhādibhāvanāya hāpetabbaṃ. Tatrāpi soṇattherassa vatthu dassetabbaṃ. Evaṃ sesesupi ekassa balavabhāve sati itaresaṃ attano kiccesu asamatthatā veditabbā.

Việc điều chỉnh các Quyền gồm Tín quyền, v.v, để đạt được trạng thái cân bằng gọi là việc điều chỉnh các Quyền được cân bằng. Nếu Tín quyền trở nên mạnh mẽ trong khi các Quyền còn lại yếu, khi đó Tấn quyền không thể thực hiện phận sự bảo hộ tâm; Niệm quyền không thể thực hiện chức năng ghi nhớ nơi các đối tượng; Định quyền không thể thực hiện được phận sự không tản mạn và Tuệ quyền không thể thực hiện phận sự thấy. Do đó, khi chú ý đến Tín quyền qua việc suy xét đến thực tính pháp hoặc bằng cách nào Tín quyền trở nên mạnh mẽ có thể kìm hãm nhờ không chú ý bằng cách ấy. Trong trường hợp này, câu chuyện về trưởng lão Vakkali là ví dụ. Tuy nhiên, nếu Tấn quyền trở nên mạnh mẽ, khi đó Tín quyền không thể thực hiện được phận sự quyết định chắc chắn, các Quyền còn lại cũng không thể thực hiện phận sự của mình. Do đó, cần phải kìm hãm Tấn quyền ấy bằng việc tu tập tịnh giác chi, v.v. Trong trường hợp này, nên trình bày câu chuyện của trưởng lão Soṇa là ví dụ. Các Quyền còn lại cũng tương tự như vậy, nên biết rằng khi một Quyền trở nên mạnh mẽ, thì các Quyền còn lại không thể thực hiện phận sự của chính nó.

Visesato panettha saddhāpaññānaṃ samādhivīriyānañca samataṃ pasaṃsanti. Balavasaddho hi mandapañño mudhappasanno hoti, avatthusmiṃ pasīdati. Balavapañño mandasaddho kerāṭikapakkhaṃ bhajati, bhesajjasamuṭṭhito viya rogo atekiccho hoti. Cittuppādamatteneva kusalaṃ hotīti atidhāvitvā dānādīni akaronto niraye uppajjati. Ubhinnaṃ samatāya vatthusmiṃyeva pasīdati. Balavasamādhiṃ pana mandavīriyaṃ samādhissa kosajjapakkhattā kosajjaṃ abhibhavati. Balavavīriyaṃ mandasamādhiṃ vīriyassa uddhaccapakkhattā uddhaccaṃ abhibhavati. Samādhi pana vīriyena saṃyojito kosajje patituṃ na labhati, vīriyaṃ samādhinā saṃyojitaṃ uddhacce patituṃ na labhati. Tasmā tadubhayaṃ samaṃ kātabbaṃ. Ubhayasamatāya hi appanā hoti.

Đặc biệt, trong vấn đề này, ngài nhấn mạnh sự cân bằng giữa đức tin với trí tuệ, cũng như định với tinh tấn. Bởi vì người có đức tin mạnh nhưng có trí tuệ yếu dễ rơi vào niềm tin mù quáng, niềm tin không có cơ sở. Người có trí tuệ mạnh nhưng đức tin yếu thường có khuynh hướng lệch lạc cũng giống như bệnh tật không thể chữa trị do sai thuốc, người ấy nghĩ rằng: thiện nghiệp có được chỉ với ý định khởi tâm, mà không cần tạo các việc lành như bố thí v.v, (với suy nghĩ như vậy) người ấy bị tái sanh vào địa ngục. Khi cả hai (đức tin và trí tuệ) cân bằng thì người ấy chỉ đặt niềm tin nơi Tam Bảo. Hơn nữa, định mạnh nhưng tinh tấn yếu, sự lười biếng sẽ chi phối bởi trạng thái định thuộc về phía của sự lười biếng. Khi tinh tấn mạnh nhưng định yếu, phóng dật sẽ chế ngự, vì tinh tấn thuộc về phía của phóng dật. Vả lại, định phối hợp với tinh tấn sẽ không bị rơi vào sự lười biếng. (Và ngược lại), tinh tấn phối hợp với định sẽ không rơi vào sự phóng dật. Do đó, cần phải làm cho hai quyền ấy được cân bằng. Vì chỉ khi định và tinh tấn cân bằng, an chỉ định mới được thiết lập.

Apica samādhikammikassa balavatīpi saddhā vaṭṭati. Evaṃ saddahanto okappento appanaṃ pāpuṇissati. Samādhipaññāsu pana samādhikammikassa ekaggatā balavatī vaṭṭati. Evañhi so appanaṃ pāpuṇāti. Vipassanākammikassa paññā balavatī vaṭṭati. Evañhi so lakkhaṇapaṭivedhaṃ pāpuṇāti. Ubhinnaṃ pana samatāyapi appanā hotiyeva. Sati pana sabbattha balavatī vaṭṭati. Sati hi cittaṃ uddhaccapakkhikānaṃ saddhāvīriyapaññānaṃ vasena uddhaccapātato, kosajjapakkhikena ca samādhinā kosajjapātato rakkhati. Tasmā sā loṇadhūpanaṃ viya sabbabyañjanesu, sabbakammikaamacco viya ca, sabbarājakiccesu sabbattha icchitabbā. Tenāha – ‘‘sati ca pana sabbatthikā vuttā bhagavatā, kiṃ kāraṇā? Cittañhi satipaṭisaraṇaṃ, ārakkhapaccupaṭṭhānā ca sati, na vinā satiyā cittassa paggahaniggaho hotī’’ ti.

Tuy nhiên, đức tin mạnh là (yếu tố) cần thiết đối với hành giả tu tập thiền định. Khi có đức tin và sự tin tưởng vững chắc như vậy, vị ấy sẽ đạt được an chỉ định. Hơn nữa, định và tuệ cùng với nhất hành có năng lực mạnh là (yếu tố) cần thiết đối với hành giả tu tập thiền định. Bởi vì, vị ấy đạt được trạng thái an chỉ định nhờ vào định tâm như vậy. Tuệ mạnh là phù hợp đối với hành giả tu tập thiền minh sát. Bởi vì, vị ấy đạt đến sự thấu triệt tam tướng bằng tuệ như vậy. Tuy nhiên, trạng thái an chỉ định có được khi cả hai (đức tin và tuệ) cân bằng hoàn toàn. Ngoài ra, niệm có năng lực mạnh là cần thiết cho tất cả. Bởi vì niệm hộ trì tâm khỏi rơi vào phóng dật do tác động của đức tin, tinh tấn và tuệ thuộc về phía phóng dật; hộ trì tâm khỏi rơi vào sự lười biếng do định tâm thuộc về phía của sự lười biếng. Do đó, niệm nên được ước muốn đối với tất cả, giống như muối là thành phần không thể thiếu khi nêm nếm các món canh, và giống như viên quan đại thần am hiểu về mọi việc triều chính là cần thiết cho tất cả công việc của triều đình. Chính vì lý do đó, đức Thế Tôn mới nói rằng: – “Và hơn nữa, niệm nên được ước muốn đối với tất cả. tại sao? Bởi vì tâm có niệm là nơi trú ẩn, và niệm có sự bảo vệ là thành tựu, và không có niệm thì không có sự nâng đỡ và chế ngự tâm”.

Duppaññapuggalaparivajjanā nāma khandhādibhede anogāḷhapaññānaṃ dummedhapuggalānaṃ ārakā parivajjanaṃ. Paññavantapuggalasevanā nāma samapaññāsalakkhaṇapariggāhikāya udayabbayapaññāya samannāgatapuggalasevanā. Gambhīrañāṇacariyapaccavekkhaṇā nāma gambhīresu khandhādīsu pavattāya gambhīrapaññāya pabhedapaccavekkhaṇā. Tadadhimuttatā nāma ṭhānanisajjādīsu dhammavicayasambojjhaṅgasamuṭṭhāpanatthaṃ ninnapoṇapabbhāracittatā. Evaṃ uppannassa pannassa arahattamaggena bhāvanāpāripūri hotīti pajānāti.

Việc tránh xa những người ngu si, không có tuệ thấm nhuần về sự phân tích các uẩn v.v, gọi là tránh xa những người có tuệ kém. Thân cận những người thành tựu với tuệ về sự sanh diệt được xác định thông qua năm mươi tướng trạng gọi là thân cận với người có tuệ. Quán chiếu sự khác biệt với trí tuệ thâm sâu về sự vận hành của các uẩn v.v, có thực tính sâu sắc gọi là quán xét lại hành vi của tri thâm sâu. Trạng thái tâm có khuynh hướng xuôi theo nhằm mục đích thiết lập trạch pháp giác chi trong các oai nghi như ngồi và đứng v.v, gọi là hướng tâm vào trạch pháp giác chi. Vị ấy biết rõ trạch pháp giác chi sanh khởi như vậy được tu tập trọn vẹn bởi Đạo A-ra-hán.

Vīriyasambojjhaṅgassa ‘‘atthi, bhikkhave, ārambhadhātu nikkamadhātu parakkamadhātu, tattha yonisomanasikārabahulīkāro, ayamāhāro anuppannassa vā vīriyasambojjhaṅgassa uppādāya, uppannassa vā vīriyasambojjhaṅgassa bhiyyobhāvāya vepullāya bhāvanāya pāripūriyā saṃvattatī’’ti (saṃ. ni. 5.232) evaṃ uppādo hoti.

Việc sanh khởi của tinh tinh tấn giác chi như vầy— “Có, này các tỳ khưu, tinh cần giới, tinh tấn giới và dõng mãnh giới, ở đây tác ý đúng đường lối được thực hiện nhiều lần, thời chính cái này là thức ăn đưa đến sự sanh khởi của tinh tấn giác chi chưa sanh khởi, hoặc tinh tấn giác chi đã sanh khởi được vận hành đưa đến sự tăng trưởng, sự phát triển, sự tu tập và làm cho trọn vẹn”. (saṃ. ni. 5.232);

Apica ekādasa dhammā vīriyasambojjhaṅgassa uppādāya saṃvattanti apāyabhayapaccavekkhaṇatā ānisaṃsadassāvitā gamanavīthipaccavekkhaṇatā piṇḍapātāpacāyanatā dāyajjamahattapaccavekkhaṇatā satthumahattapaccavekkhaṇatā jātimahattapaccavekkhaṇatā sabrahmacārimahattapaccavekkhaṇatā kusītapuggalaparivajjanatā āraddhavīriyapuggalasevanatā tadadhimuttatāti.

Và hơn nữa, mười một pháp vận hành đưa đến sự sanh khởi của tinh tấn giác chi gồm— (1) quán chiếu sự sợ hãi trong khổ cảnh; (2) thấy được sự lợi ích; (3) quán xét về hành trình đi đến; (4) tôn trọng vật thực cúng dường của thiện tín; (5) quán xét về sự vĩ đại của việc thừa hưởng tài sản; (6) quán xét về tính chất có bậc Đạo Sư là vĩ đại; (7) quán xét sự cao quý của dòng dõi; (8) quán xét tính chất có Phạm hạnh là vĩ đại; (9) tránh xa những người lười biếng; (10) Thân cận với những người nỗ lực tinh tấn; (11) hướng tâm đến tinh tấn giác chi ấy.

Tattha nirayesu pañcavidhabandhanakammakāraṇato paṭṭhāya mahādukkhaṃ anubhavanakālepi, tiracchānayoniyaṃ jālakhipanakumīnādīhi gahitakālepi, pājanakaṇṭakādippahāratunnassa sakaṭavahanādikālepi, pettivisaye anekānipi vassasahassāni ekaṃ buddhantarampi khuppipāsāhi āturībhūtakālepi, kālakañcikaasuresu saṭṭhihatthaasītihatthappamāṇena aṭṭhicammamatteneva attabhāvena vātātapādidukkhānubhavanakālepi na sakkā vīriyasambojjhaṅgaṃ uppādetuṃ, ayameva te bhikkhu kālo vīriyakaraṇāyāti evaṃ apāyabhayaṃ paccavekkhantassāpi vīriyasambojjhaṅgo uppajjati.

Trong số mười một pháp ấy, vào thời điểm chịu đựng khổ đau lớn lao kể từ khi lãnh chịu hình phạt ‘trói buộc năm cách’ ở địa ngục; trong lúc bị bắt bằng lưới, lồng và bẫy sập, v.v, hoặc trong lúc bị xua đuổi, đâm xuyên bởi những loại vũ khí sắc nhọn như cây xiên, v.v, và thậm chí bị buộc phải kéo xe khi sanh làm súc sanh; hoặc trong lúc phải chịu sự đau đớn khổ sở do đói khát trong nhiều nghìn năm, hoặc khoảng thời gian giữa hai vị Phật khi sinh vào loài ngạ quỷ; hoặc đối mặt với khổ đau vì sức gió, sức nóng, v.v, với thể thể chỉ còn da bọc xương cao khoảng sáu mươi cánh tay hoặc tám mươi cánh tay trong nhóm a-tu-la Kālakañcika, (trong những hoàn cảnh đó) tinh tấn giác chi không thể khởi lên; Này các tỳ khưu, chính thời gian này là lúc thực hành sự tinh tấn để tinh tấn giác chi được sanh khởi ngay cả khi quán xét sự sợ hãi trong các khổ cảnh như vậy.

Na sakkā kusītena navalokuttaradhammaṃ laddhuṃ, āraddhavīriyeneva sakkā ayamānisaṃso vīriyassāti evaṃ ānisaṃsadassāvinopi uppajjati. Sabbabuddhapaccekabuddhamahāsāvakehi te gatamaggo gantabbo, so ca na sakkā kusītena gantunti evaṃ gamanavīthiṃ paccavekkhantassāpi uppajjati. Ye taṃ piṇḍapātādīhi upaṭṭhahanti, ime te manussā neva ñātakā, na dāsakammakarā, nāpi taṃ nissāya jīvissāmāti te paṇītāni cīvarādīni denti. Atha kho attano kārānaṃ mahapphalataṃ paccāsīsamānā denti. Satthārāpi ‘‘ayaṃ ime paccaye paribhuñjitvā kāyadaḷhībahulo sukhaṃ viharissatī’’ti na evaṃ sampassatā tuyhaṃ paccayā anuññātā. Atha kho ‘‘ayaṃ ime paribhuñjamāno samaṇadhammaṃ katvā vaṭṭadukkhato muccissatī’’ti te paccayā anuññātā, so dāni tvaṃ kusīto viharanto na taṃ piṇḍaṃ apacāyissati. Āraddhavīriyasseva hi piṇḍapātāpacāyanaṃ nāma hotīti evaṃ piṇḍapātāpacāyanaṃ paccavekkhantassāpi uppajjati ayyamittattherassa viya.

Tinh tấn giác chi được sanh khởi ngay cả khi hành giả thấy lợi ích như vầy— “những kẻ lười biếng không thể đạt được chín Pháp Siêu Thế, chỉ có những người tinh cần tinh tấn mới có thể (đạt được chín pháp siêu thế)”, đây chính là lợi ích của tinh tấn. Tinh tấn giác chi được sanh khởi ngay cả khi quán xét về hành trình đi đến như vầy: “Cần đi trên con đường mà chư Phật, chư Độc Giác Phật và chư Thánh Thinh Văn Đại Đệ Tử đã đi qua, con đường này không dành cho những kẻ lười biếng”. Ngay cả khi hành giả quán xét đến sự tôn trọng đối với vật thực cúng dường của thiện tín như vầy— Những người nào phục vụ ta bằng các món vật dụng như vật thực, v.v, những người này đây không phải là thân quyến mà cũng không phải nô lệ làm công, những người ấy không phải cúng dường các món vật dụng như y phục, v.v, thượng hạng đến ngươi với suy nghĩ rằng: sẽ nương nhờ ngươi để nuôi mạng. Thực tế, họ cúng dường với hy vọng việc họ đã làm mang lại quả báo lớn lao. Ngay cả bậc Đạo Sư cũng không suy xét như vầy— “Vị tỳ khưu sau thọ dụng các món vật dụng này sẽ có cơ thể cường tráng (và) sống an lạc,” rồi cho phép thọ dụng những món vật dụng ấy đến vị ấy; Thực ra, ngài suy xét rằng— “Vị tỳ khưu thọ dụng các món vật dụng này để thực hành Sa-môn Pháp sẽ thoát khỏi khổ đau trong luân hồi,’ mới cho phép họ thọ dụng các món vật dụng ấy. Nhưng giờ đây, ngươi lại lười biếng, không tôn trọng các vật thí đó; Bởi sự tôn trọng đối với vật thực cúng dường của thiện tín chỉ tồn tại nơi người tinh cần tinh tấn. Tinh tấn giác chi được khởi lên, giống như của trưởng lão Ayyamitta.

Thero kira kassakaleṇe nāma paṭivasati. Tassa ca gocaragāme ekā mahāupāsikā theraṃ puttaṃ katvā paṭijaggati. Sā ekadivasaṃ araññaṃ gacchantī dhītaraṃ āha – ‘‘amma, asukasmiṃ ṭhāne purāṇataṇḍulā, asukasmiṃ sappi, asukasmiṃ khīraṃ, asukasmiṃ phāṇitaṃ, tava bhātikassa ayyamittassa āgatakāle bhattaṃ pacitvā khīrasappiphāṇitehi saddhiṃ dehi, tvañca bhuñjeyyāsi. Ahaṃ pana hiyyo pakkapārivāsikabhattaṃ kañjiyena bhuttāmhī’’ti. Divā kiṃ bhuñjissasi ammā,ti? Sākapaṇṇaṃ pakkhipitvā kaṇataṇḍulehi ambilayāguṃ pacitvā ṭhapehi ammāti.

Kể rằng trưởng lão Ayyamitta cư ngụ trong thạch động Kassaka. Và một bà đại tín nữ trong ngôi làng là khu vực đi khất thực của trưởng lão, đã chăm ngài giống như con ruột. Một hôm bà đi vào rừng mới đã dặn con gái — “Con ơi, cơm đã nấu chín để ở kia; sữa ở chỗ đó; bơ lỏng ở chỗ này; và mật mía ở chỗ đấy. Khi nào sư huynh của con, trưởng lão Ayyamitta đến thì con hãy trộn vật thực cúng dường cùng với sữa, bơ và mật mía; rồi con cũng nên ăn luôn. Còn mẹ, mẹ đã ăn phần cơm nguội để đêm qua”. Con gái hỏi– ‘Thế buổi trưa mẹ sẽ dùng gì?’ Con hãy lấy gạo vỡ nấu cháo chua thêm ít rau cải muối rồi để đó cho mẹ.

Thero cīvaraṃ pārupitvā pattaṃ nīharantova taṃ saddaṃ sutvā attānaṃ ovadi ‘‘mahāupāsikā kira kañjiyena pārivāsikabhattaṃ bhuñji, divāpi kaṇapaṇṇambilayāguṃ bhuñjissati , tuyhaṃ atthāya pana purāṇataṇḍulādīni ācikkhati, taṃ nissāya kho panesā neva khettaṃ na vatthuṃ na bhattaṃ na vatthaṃ paccāsīsati, tisso pana sampattiyo patthayamānā deti, tvaṃ etissā tā sampattiyo dātuṃ sakkhissasi, na sakkhissasīti, ayaṃ kho pana piṇḍapāto tayā sarāgena sadosena samohena na sakkā gaṇhitu’’nti pattaṃ thavikāya pakkhipitvā gaṇṭhikaṃ muñcitvā nivattitvā kassakaleṇameva gantvā pattaṃ heṭṭhāmañce cīvaraṃ cīvaravaṃse ṭhapetvā ‘‘arahattaṃ apāpuṇitvā na nikkhamissāmī’’ti vīriyaṃ adhiṭṭhahitvā nisīdi. Dīgharattaṃ appamatto hutvā nivutthabhikkhu vipassanaṃ vaḍḍhetvā purebhattameva arahattaṃ patvā vikasamānamiva padumaṃ mahākhīṇāsavo sitaṃ karontova nisīdi. Leṇadvāre rukkhamhi adhivatthā devatā –

Trưởng lão đã đắp y, chuẩn bị lấy bát (từ trong túi đựng bát) ra, sau khi nghe lời nói đó liền tự nhắc nhở bản thân rằng— “Nghe rằng bà đại tín nữ đã ăn phần cơm nguội để qua đêm, thậm chí vào buổi trưa bà sẽ ăn cháo chua với rau cải muối, bà đã dặn con gái chuẩn bị thức ăn gồm cơm đã nấu chín, v.v, cho ta. Tuy nhiên, bà không ao ước ruộng vườn, vật thực hay vải vóc từ ta; mà chỉ mong cầu đạt được ba loại tài sản (Nhân sản, Thiên sản và Thánh sản) nên bà mới cúng dường đến ta. Liệu ta có thể ban cho bà ấy những thứ tài sản đó hay không thể? Ngài suy nghĩ rằng– Vật thực cúng dường này thật không thể nhận lãnh với tâm vẫn còn ái luyến, sân hận và si mê”, ngài đặt bình bát trở lại túi đựng bát, nới lỏng y, quay trở về thạch động Kassaka cất bình bát dưới giường, máng y lên sào treo y, rồi ngồi xuống phát nguyện sự tinh tấn rằng– “Nếu không chứng đắc quả vị A-ra-hán, ta sẽ không rời khỏi thạch động này”. Là vị không phóng dật suốt đêm, sau khi phát triển minh sát, ngài đã đạt quả vị A-ra-hán ngay trước bữa sáng, trở thành bậc Đại Lậu Tận, ngài ngồi mỉm cười tựa như hoa sen vừa hé nở, đi ra khỏi thạch động. Chư thiên trú ngụ trên cây gần cửa động liền thốt lên lời Cảm Hứng Ngữ rằng—

Namo te purisājañña, namo te purisuttama;

Yassa te āsavā khīṇā, dakkhiṇeyyosi mārisā’’ti.

Udānaṃ udānetvā ‘‘bhante, piṇḍāya paviṭṭhānaṃ tumhādisānaṃ arahantānaṃ bhikkhaṃ datvā mahallakitthiyo dukkhā muccissantī’’ti āha. Thero uṭṭhahitvā dvāraṃ vivaritvā kālaṃ olokento ‘‘pātoyevā’’ti ñatvā pattacīvaramādāya gāmaṃ pāvisi.

‘Thưa bậc siêu nhân, tôi xin đảnh lễ ngài; thưa bậc tối thượng nhân, tôi xin đảnh lễ ngài. Tôi xin đảnh lễ vị có các lậu hoặc đã cạn kiệt. Thưa  ngài, ngài là bậc xứng đáng được cúng dường’.

Rồi nói rằng: “Thưa ngài, sau khi cúng dường đồ ăn khất thực đến các vị A-ra-hán đang tầm cầu thức ăn như ngài, các bà đại tín nữ sẽ thoát khỏi khổ đau.” Trưởng lão sau khi đứng dậy đã mở cửa, trong khi xem thời gian đã biết rằng “vẫn còn sớm,” liền mang y bát đi vào làng.

Dārikāpi bhattaṃ sampādetvā ‘‘idāni me bhātā āgamissati, idāni āgamissatī’’ti dvāraṃ olokayamānā nisīdi. Sā there gharadvāraṃ sampatte pattaṃ gahetvā sappiphāṇitayojitassa khīrapiṇḍapātassa pūretvā hatthe ṭhapesi. Thero ‘‘sukhaṃ hotū’’ti anumodanaṃ katvā pakkāmi. Sāpi taṃ olokayamānā aṭṭhāsi. Therassa hi tadā ativiya parisuddho chavivaṇṇo ahosi, vippasannāni indriyāni, mukhaṃ bandhanā pavuttatālapakkaṃ viya ativiya virocittha.

Còn phía cô gái đã chuẩn bị xong thức ăn, ngồi nhìn ra cửa với suy nghĩ rằng: “Một lát nữa sư huynh sẽ đến, một lát nữa sư huynh sẽ đến”. Khi trưởng lão vừa bước đến cửa, cô ấy liền cầm lấy bình bát, đổ đầy thức ăn hòa với sữa được trộn với bơ lỏng và mật mía, đặt nó vào tay của ngài. Trưởng lão đã nói lời tuỳ hỷ: ‘Nguyện cho cô hãy được sự an lạc’ rồi rời đi. Còn cô đứng nhìn ngài. Bởi vì, lúc bấy giờ màu da của trưởng lão vô cùng trong sáng, các giác quan vô cùng thanh tịnh, và khuôn mặt của Ngài vô cùng rực rỡ tựa như trái chà là chính vừa rời khỏi cuống.

Mahāupāsikā araññā āgantvā ‘‘kiṃ, amma, bhātiko te āgato’’ti pucchi. Sā sabbaṃ taṃ pavattiṃ ārocesi. Upāsikā ‘‘ajja mama puttassa pabbajitakiccaṃ matthakaṃ patta’’nti ñatvā ‘‘abhiramati te, amma, bhātā buddhasāsane, na ukkaṇṭhatī’’ti āha.

Bà đại tín nữ sau khi trở về từ rừng đã hỏi rằng: “Con ơi, sư huynh của con có đến không?” Cô ấy đã thuật lại toàn bộ sự việc diễn ra cho mẹ nghe. Bà đã hiểu ra: “Hôm nay phận sự xuất gia của con trai ta đã đạt đến cứu cánh”. Bà lão vui mừng nói: “Con ơi, sư huynh của con vui thích trong Giáo Pháp của Đức Phật, không bất mãn.”

Mahantaṃ kho panetaṃ cc satta ariyadhanāni nāma, taṃ na sakkā kusītena gahetuṃ. Yathā hi vippaṭipannaṃ puttaṃ mātāpitaro ‘‘ayaṃ amhākaṃ aputto’’ti paribāhiraṃ karonti, so tesaṃ accayena dāyajjaṃ na labhati, evaṃ kusītopi idaṃ ariyadhanadāyajjaṃ na labhati, āraddhavīriyova labhatīti dāyajjamahattaṃ paccavekkhatopi uppajjati.

Quả thật tài sản thừa kế của bậc Đạo Sư có phong phú, chính là Thất Thánh Sản. Tuy nhiên, tài sản này không thể giữ lấy bởi kẻ lười biếng. Giống như cha mẹ từ bỏ đứa con hành động sai trái, và coi đó là người ngoài: “đây không phải là con trai của chúng tôi”, khi họ qua đời, người con ấy không nhận được phần tài sản thừa kế. Cũng tương tự như vậy, kẻ lười biếng cũng không nhận được tài sản thừa kế của bậc Thánh. Chỉ có những người tinh cần tinh tấn mới có thể nhận được; ngay cả khi quán xét sự thừa kế tài sản là lớn lao như vậy, tinh tấn giác chi cũng khởi lên.

Mahā kho pana te satthā, satthuno hi te mātukucchismiṃ paṭisandhigaṇhanakālepi abhinikkhamanepi abhisambodhiyampi dhammacakkappavattana– yamakapāṭihāriya– devorohana– āyusaṅkhāravossajjanesupi parinibbānakālepi dasasahassilokadhātu akampittha, yuttaṃ nu te evarūpassa satthu sāsane pabbajitvā kusītena bhavitunti evaṃ satthumahattaṃ paccavekkhatopi uppajjati.

Tinh tấn giác chi cũng khởi lên đối với hành giả quán xét về sự vĩ đại của bậc Đạo Sư như vầy: ‘Bậc Đạo Sư của ngươi thật vĩ đại từ giây phút bậc Đạo Sự nhập mẫu thai, hay khi ra đi tầm cầu đạo giải thoát, hoặc trong lúc chứng đạt vô thượng Chánh Đẳng Giác, hay vào lúc chuyển vận bánh xe pháp, hoặc thời điểm thị hiện song thông, trong lúc trở về từ thiên giới, hoặc ngay khi buông bỏ thọ hành, cho đến giây phút viên tịch Niết Bàn — (mỗi một sự kiện) đều làm cả mười nghìn thế giới đều rung chuyển chấn động mạnh. Ngươi xuất gia trong Giáo Pháp của bậc Đạo Sư có hình thức như vậy lại trở thành kẻ lười biếng thích hợp hay chăng?”

Jātiyāpi tvaṃ idāni na lāmakajātiko, asambhinnāya mahāsammatapaveṇiyā āgata ukkākarājavaṃse jātosi, suddhodanamahārājassa ca mahāmāyādeviyā ca nattā, rāhulabhaddassa kaniṭṭho, tayā nāma evarūpena jinaputtena hutvā na yuttaṃ kusītena viharitunti evaṃ jātimahattaṃ paccavekkhatopi uppajjati.

Tinh tấn giác chi sanh khởi đối với hành giả quán xét đến sự cao quý của dòng dõi như vầy— “Bây giờ trong dòng dõi này ngươi xuất thân từ dòng dõi của vua Mahāsammata thượng đẳng không bị trộn lẫn huyết thống khác, được sinh ra trong dòng tộc của Vua Ukkāka, Đại vương Suddhodana và Hoàng hậu Mahāmāyā là nội tổ của ta, là ngươi là em trai của hoàng tử Rāhula thiện lành, người được gọi là con trai của bậc Chiến thắng có hình thức như vậy, sống với sự lười biếng thật không thích hợp.

Sāriputtamahāmoggallānā ceva asīti ca mahāsāvakā vīriyeneva lokuttaradhammaṃ paṭivijjhiṃsu, tvaṃ etesaṃ sabrahmacārīnaṃ maggaṃ paṭipajjasi, na paṭipajjasīti evaṃ sabrahmacārimahattaṃ paccavekkhatopi uppajjati.

Tinh tấn giác chi sanh khởi đối với hành giả quán xét đến tính chất có bạn đồng Phạm hạnh là vĩ đại như vầy: “Trưởng lão Sāriputta, trưởng lão Mahāmoggallāna và tám mươi đại đệ tử đã thấu triệt Pháp Siêu Thế hoàn toàn nhờ sự tinh tấn. người sẽ đi theo con đường của những bạn đồng Phạm hạnh ấy hay sẽ không hành theo.”

Kucchiṃ pūretvā ṭhitaajagarasadise vissaṭṭhakāyikacetasikavīriye kusītapuggale parivajjantassāpi āraddhavīriye pahitatte puggale sevantassāpi ṭhānanisajjādīsu vīriyuppādanatthaṃ ninnapoṇapabbhāracittassāpi uppajjati. Evaṃ uppannassa panassa arahattamaggena bhāvanāpāripūri hotīti pajānāti.

Tinh tấn giác chi khởi lên khi hành giả tránh xa kẻ biếng nhác, những người đã từ bỏ sự tinh tấn của thân và tâm, những người như vậy giống như con trăn nằm bất động sau khi ăn no bụng. Thân cận với những người có sự ra sức tinh tấn; và những người có tâm hướng về, nghiêng theo nhằm mục đích làm cho tinh tấn khởi lên trong các oai nghi như đứng, ngồi, v.v. Vị ấy biết rõ rằng: Tinh tấn giác chi đã sanh khởi với biểu hiện như vậy được sự phát triển trọn vẹn bởi Đạo A-ra-hán.

Pītisambojjhaṅgassa ‘‘atthi, bhikkhave, pītisambojjhaṅgaṭṭhānīyā dhammā, tattha yonisomanasikārabahulīkāro, ayamāhāro anuppannassa vā pītisambojjhaṅgassa uppādāya, uppannassa vā pītisambojjhaṅgassa bhiyyobhāvāya vepullāya bhāvanāya pāripūriyā saṃvattatī’’ti (saṃ. ni. 5.232) evaṃ uppādo hoti. Tattha pītiyeva pītisambojjhaṅgaṭṭhānīyā dhammā nāma. Tassā uppādakamanasikāro yonisomanasikāro nāma.

Hỷ giác chi sanh khởi theo phương thức như vầy: “Có, này các tỳ khưu, các pháp trú xứ cho hỷ giác chi, ở đây tác ý đúng đường lối được thực hiện nhiều lần, điều này là thức ăn khiến cho hỷ giác chi chưa sanh khởi được sanh khởi, hoặc hỷ giác chi đã sanh khởi được vận hành đưa đến sự tăng trưởng, sự phát triển, sự tu tập và làm cho trọn vẹn”. (saṃ. ni. 5.232); Ở đây, chính hỷ được gọi là pháp trú xứ cho hỷ giác chi trong Chánh văn Pāḷī ấy. Tác ý làm cho hỷ sanh khởi gọi là “tác ý đúng đường lối”.

Apica ekādasa dhammā pītisambojjhaṅgassa uppādāya saṃvattanti buddhānussati, dhamma, saṅgha, sīla, cāga, devatānussati upasamānussati lūkhapuggalaparivajjanatā siniddhapuggalasevanatā pasādanīyasuttantapaccavekkhaṇatā tadadhimuttatāti.

Và thêm nữa mười một pháp vận hành đưa đến sự sanh khởi của hỷ giác chi gồm— (1) tùy niệm ân đức Phật; (2) tùy niệm ân đức Pháp; (3) tùy niệm ân đức Tăng; (4) tùy niệm giới; (5) tùy niệm thí; (6) tùy niệm ân đức chư Thiên; (7) tùy niệm ân đức Niết Bàn; (8) tránh xa kẻ thô lỗ; (9) thân cận người thanh tịnh; (10) suy xét những bài Kinh truyền cảm hứng cho tâm trong sạch; (11) hướng tâm đến hỷ giác chi ấy.

Buddhaguṇe anussarantassāpi hi yāva upacārā sakalasarīraṃ pharamāno pītisambojjhaṅgo uppajjati, dhammasaṅghaguṇe anussarantassāpi, dīgharattaṃ akhaṇḍaṃ katvā rakkhitaṃ catupārisuddhisīlaṃ paccavekkhantassāpi, gihinopi dasasīlaṃ pañcasīlaṃ pañcavekkhantassāpi, dubbhikkhabhayādīsu paṇītabhojanaṃ sabrahmacārīnaṃ datvā ‘‘evaṃ nāma adamhā’’ti cāgaṃ paccavekkhantassāpi, gihinopi evarūpe kāle sīlavantānaṃ dinnadānaṃ paccavekkhantassāpi, yehi guṇehi samannāgatā devatā devattaṃ pattā, tathārūpānaṃ guṇānaṃ attani atthitaṃ paccavekkhantassāpi, samāpattiyā vikkhambhitā kilesā saṭṭhipi sattatipi vassāni na samudācarantīti paccavekkhantassāpi, cetiyadassana– bodhidassana– theradassanesu asakkaccakiriyāya saṃsūcitalūkhabhāve buddhādīsu pasādasinehābhāvena gadrabhapiṭṭhe rajasadise lūkhapuggale parivajjantassāpi, buddhādīsu pasādabahule muducitte siniddhapuggale sevantassāpi, ratanattayaguṇaparidīpake pasādanīyasuttante paccavekkhantassāpi, ṭhānanisajjādīsu pītiuppādanatthaṃ ninnapoṇapabbhāracittassāpi uppajjati. Evaṃ uppannassa panassa arahattamaggena bhāvanāpāripūri hotīti pajānāti.

Thât vậy, hành giả tu tập hỷ giác chi khi tùy niệm ân đức Phật, hỷ giác chi lan tỏa khắp châu thân cận định sanh khởi; Tương tự, khi hành giả tùy niệm ân đức của Pháp và Tăng, hỷ giác chi cũng được phát sinh; Hành giả quán xét về bốn thanh tịnh giới đã được thọ trì lâu dài không bị gián đoạn, hỷ giác chi được sanh khởi; và ngay cả người cư sĩ khi suy xét về năm giới hay mười giới; Trong lúc khan hiếm vật thực, v.v, tôi đã dâng các món ăn ngon đến các vị đồng Phạm hạnh, hành giả quán xét về sự dứt bỏ rằng– “tôi đã dâng các món ăn như vậy”; cũng như người cư sĩ suy xét về việc bố thí vật phẩm đến các vị có giới hạnh trong lúc như vậy; Chư thiên được thành tựu với các đức hạnh nào để đạt được bản thể chư thiên, hành giả quán xét đến các đức hạnh như thế ấy cũng có nơi tự thân; hành giả quán xét rằng– thậm chí những phiền não được áp chế không bộc phát dù với thiền chứng suốt sáu mươi năm, thậm chí bảy mươi năm; hoặc tránh xa những kẻ thô lỗ bởi không thể hiện sự tôn kính khi nhìn thấy Bảo tháp, nhìn thấy cây Bồ-đề hoặc nhìn thấy các trưởng lão, bởi họ không có niềm tin và sự yêu quý đối với đức Phật, v.v, giống như bụi trên lưng con la. Ngược lại, thân cận với  người thanh tịnh, có tâm mềm mại và có lòng tin sâu sắc vào đức Phật v.v. Suy xét về những bài Kinh trình bày về ân đức Tam Bảo là nền tảng của sự tôn kính; hoặc có tâm hướng về, nghiêng theo đưa đến sự sanh khởi của hỷ trong các oai nghi như đứng, ngồi v.v, hỷ giác chi được sanh khởi. Hành giả biết rõ rằng– hỷ giác chi đã sanh khởi với các biểu hiện như vậy, được tăng trưởng trọn vẹn bởi Đạo A-ra-hán.

Passaddhisambojjhaṅgassa ‘‘atthi, bhikkhave, kāyapassaddhi cittapassaddhi, tattha yonisomanasikārabahulīkāro, ayamāhāro anuppannassa vā passaddhisambojjhaṅgassa uppādāya, uppannassa vā passaddhisambojjhaṅgassa bhiyyobhāvāya vepullāya bhāvanāya pāripūriyā saṃvattatī’’ti evaṃ uppādo hoti.

Sự sanh khởi của an tịnh giác chi như vầy: “Có, này các tỳ khưu, tịnh thân và tịnh tâm. Ở đây, tác ý đúng đường lối được thực hiện nhiều lần, thời chính điều này là thức ăn khiến cho an tịnh giác chi chưa sanh khởi được sanh khởi, hay an tịnh giác chi đã sanh khởi được vận hành đưa đến sự tăng trưởng, sự phát triển, sự tu tập và làm cho trọn vẹn

Apica satta dhammā passaddhisambojjhaṅgassa uppādāya saṃvattanti paṇītabhojanasevanatā utusukhasevanatā iriyāpathasukhasevanatā majjhattapayogatā sāraddhakāyapuggalaparivajjanatā passaddhakāyapuggalasevanatā tadadhimuttatāti.

Và thêm nữa, bảy pháp được vận hành đưa đến sự sanh khởi của an tịnh giác chi gồm– (1) thọ dụng những loại thực phẩm mềm dễ tiêu hoá; (2) tiếp xúc với khí hậu dễ chịu; (3) thực hiện các oai nghi thích hợp; (4) thực hành sự quân bình; (5) tránh xa những người có thân tâm bất ổn; (6) thân cận những người có thân tâm an tịnh; (7) hướng tâm theo an tịnh giác chi.

Paṇītañhi siniddhaṃ sappāyabhojanaṃ bhuñjantassāpi, sītuṇhesu ca utūsu ṭhānādīsu ca iriyāpathesu sappāyautuñca iriyāpathañca sevantassāpi passaddhi uppajjati. Yo pana mahāpurisajātiko sabbautuiriyāpathakkhamo hoti, na taṃ sandhāyetaṃ vuttaṃ. Yassa sabhāgavisabhāgatā atthi, tasseva visabhāge utuiriyāpathe vajjetvā sabhāge sevantassa uppajjati. Majjhattapayogo vuccati attano ca parassa ca kammassakatāpaccavekkhaṇā. Iminā majjhattapayogena uppajjati. Yo leḍḍudaṇḍādīhi paraṃ viheṭhayamāno vicarati, evarūpaṃ sāraddhakāyaṃ puggalaṃ parivajjantassāpi, saṃyatapādapāṇiṃ passaddhakāyaṃ puggalaṃ sevantassāpi, ṭhānanisajjādīsu passaddhiuppādanatthāya ninnapoṇapabbhāracittassāpi uppajjati. Evaṃ uppannassa panassa arahattamaggena bhāvanāpāripūri hotīti pajānāti.

Thật vậy, hành giả tu tập khinh an giác chi khi thọ dụng vật thực phù hợp, mềm và ngon; khi hành giả tiếp xúc khí hậu thích hợp, dù là mùa đông hay mùa hè, hoặc thực hiện các oai nghi thoải mái đứng hay ngồi v.v. thì an tịnh giác chi sanh khởi. Tuy nhiên, điều này không đề cập đến các vị có tướng trạng của bậc đại nhân, những người vốn có khả năng chịu đựng mọi thời tiết và tư thế. Khi có thời tiết và oai nghi thích hợp và không thích hợp, sau khi tránh xa những điều kiện không thuận lợi, tiếp xúc với điều kiện phù hợp sẽ làm cho khinh an giác chi được sanh khởi. Khi hành giả quán xét về nghiệp sở hữu của bản thân và của người khác, điều này được gọi là thực hành sự quân bình, nhờ đó an tịnh giác chi được sanh khởi. Hơn nữa, an tịnh giác chi cũng sanh khởi ở những người tránh xa các cá nhân có thân tâm bất ổn gây tổn thương đối với người khác như ném đá, hay dùng gậy gộc; Ngược lại, an tịnh giác chi cũng sanh khởi ở những ai thường thân cận với các vị có thân tâm an tịnh, kiểm soát được hành động của tay chân và giữ được sự bình ổn trong tâm trí. Và có tâm hướng về, nghiêng theo nhằm mục đích làm cho sanh khởi an tịnh giác chi trong các oai nghi như đứng, ngồi, v.v. an tịnh giác chi được sanh khởi. Hành giả biết rõ rằng an tịnh giác chi đã sanh khởi với những biểu hiện như vậy, được phát triển trọn vẹn bởi Đạo A-ra-hán.

Samādhisambojjhaṅgassa ‘‘atthi, bhikkhave, samathanimittaṃ abyagganimittaṃ, tattha yonisomanasikārabahulīkāro, ayamāhāro, anuppannassa vā samādhisambojjhaṅgassa uppādāya, uppannassa vā samādhisambojjhaṅgassa bhiyyobhāvāya vepullāya bhāvanāya pāripūriyā saṃvattatī’’ti (saṃ. ni. 5.232) evaṃ uppādo hoti. Tattha samathova samathanimittaṃ avikkhepaṭṭhena ca abyagganimittanti.

Sự sanh khởi của định giác chi như vầy: “Có, này các tỳ khưu, chỉ tịnh tướng và bất loạn tướng. Ở đây, tác ý đúng đường lối được thực hiện nhiều lần, thời chính điều này là thức ăn khiến cho định giác chi chưa sanh khởi được sanh khởi, hay định giác chi đã sanh khởi được vận hành đưa đến sự tăng trưởng, sự phát triển, sự tu tập và làm cho trọn vẹn”. (saṃ. ni. 5.232); Ở đây, chỉ tinh tướng cũng chính là định, và bất loạn tướng với ý nghĩa bất phóng dật.    

Apica ekādasa dhammā samādhisambojjhaṅgassa uppādāya saṃvattanti vatthuvisadakiriyatā indriyasamattapaṭipādanatā nimittakusalatā samaye cittassa paggaṇhanatā samaye cittassa niggaṇhanatā samaye sampahaṃsanatā samaye ajjhupekkhanatā asamāhitapuggalaparivajjanatā samāhitapuggalasevanatā jhānavimokkhapaccavekkhaṇatā tadadhimuttatāti. Tattha vatthuvisadakiriyatā ca indriyasamattapaṭipādanatā ca vuttanayeneva veditabbā.

Và lại nữa, mười một pháp được vận hành đưa đến sự sanh khởi của định giác chi  gồm— (1) làm cho thân thể và chỗ ở được sạch sẽ, (2) điều chỉnh các giác quan luôn cân bằng, (3) khéo léo trong các tướng, (4) hỗ trợ tâm vào lúc cần hỗ trợ; (5) chế ngự tâm vào lúc cần chế ngự, (6) làm tâm vui sướng hợp thời, (7) tâm quân bình hợp thời, (8) tránh xa những người có tâm không định tĩnh , (9) kết giao với những bậc có tâm định tĩnh, (10) quán xét về thiền và sự giải thoát và (11) hướng tâm đến định giác chi. Trong mười một pháp ấy, việc làm cho thân thể và chỗ ở được sạch sẽ,điều chỉnh các giác quan luôn cân bằng nên hiểu theo cách đã trình bày.

Nimittakusalatā nāma kasiṇanimittassa uggahaṇakusalatā. Samaye cittassa paggaṇhanatāti yasmiṃ samaye atisithilavīriyatādīhi līnaṃ cittaṃ hoti, tasmiṃ samaye dhammavicayavīriyapītisambojjhaṅgasamuṭṭhāpanena tassa paggaṇhanaṃ. Samaye cittassa paggaṇhanatāti yasmiṃ samaye āraddhavīriyatādīhi uddhataṃ cittaṃ hoti, tasmiṃ samaye passaddhisamādhiupekkhāsambojjhaṅgasamuṭṭhāpanena tassa niggaṇhanaṃ. Samaye sampahaṃsanatāti yasmiṃ samaye cittaṃ paññāpayogamandatāya vā upasamasukhānadhigamena vā nirassādaṃ hoti, tasmiṃ samaye aṭṭhasaṃvegavatthupaccavekkhaṇena saṃvejeti. Aṭṭha saṃvegavatthūni nāma jāti jarā byādhi maraṇāni cattāri, apāyadukkhaṃ pañcamaṃ, atīte vaṭṭamūlakaṃ dukkhaṃ, anāgate vaṭṭamūlakaṃ dukkhaṃ, paccuppanne āhārapariyeṭṭhimūlakaṃ dukkhanti. Ratanattayaguṇānussaraṇena ca pasādaṃ janeti, ayaṃ vuccati ‘‘samaye sampahaṃsanatā’’ti.

Thiện xảo trong việc học tập các tướng của biến xứ làm đối tượng gọi là khéo léo trong các tướng. Vào lúc nào tâm thụ động do có sự tinh tấn yếu ớt v.v, vào lúc đó bằng việc thiết lập trạch pháp giác chi, tinh tấn giác chi và hỷ giác chi gọi là hỗ trợ tâm vào lúc cần hỗ trợ. Ngược lại, khi nào tâm phóng dật do tinh cần tinh tấn quá mức v.v, khi ấy sự chế ngự tâm với việc thiết lập an tịnh giác giác chi, định giác chi và xả giác chi gọi là chế ngự tâm vào lúc tâm cần chế ngự. Vào lúc nào tâm không hài lòng do trí tuệ và sự tinh tấn yếu kém, hoặc do không đạt được hạnh phúc phát sanh từ sự yên tĩnh, vào lúc đó hành giả cần kích động tâm bằng cách suy xét tám yếu tố gây xúc động mạnh. Tám yếu tố gây xúc động mạnh – có bốn là khổ do sanh ra, khổ do già, khổ do bệnh, khổ do chấm dứt mạng sống, khổ do sanh vào các khổ cảnh là thứ năm, khổ ở vị lai có luân hồi làm gốc, khổ ở quá khứ có luân hồi làm gốc, và khổ ở hiện tại có luân hoài làm gốc (thêm 3 khổ này thành tám). Ngoài ra, hành giả nên làm sanh khởi niềm tin với việc tùy niệm ân đức Tam Bảo, điều này được gọi là làm cho tâm vui sướng hợp thời.

Samaye ajjhupekkhanatā nāma yasmiṃ samaye sammāpaṭipattiṃ āgamma alīnaṃ anuddhataṃ anirassādaṃ ārammaṇe samappavattaṃ samathavīthipaṭipannaṃ cittaṃ hoti, tadāssa paggahaniggahasampahaṃsanesu na byāpāraṃ āpajjati, sārathi viya samappavattesu assesu. Ayaṃ vuccati – ‘‘samaye ajjhupekkhanatā’’ti. Asamāhitapuggalaparivajjanatā nāma upacāraṃ vā appanaṃ vā appattānaṃ vikkhittacittānaṃ puggalānaṃ ārakā parivajjanaṃ. Samāhitapuggalasevanā nāma upacārena vā appanāya vā samāhitacittānaṃ sevanā bhajanā payirupāsanā. Tadadhimuttatā nāma ṭhānanisajjādīsu samādhiuppādanatthaṃyeva ninnapoṇapabbhāracittatā. Evañhi paṭipajjato esa uppajjati. Evaṃ uppannassa panassa arahattamaggena bhāvanāpāripūri hotīti pajānāti.

Tâm quân bình hợp thời là— vào lúc nào tâm đạt đến sự thực hành đúng đắn, không lui sụt, không phóng dật, vui thích, vận hành đều đặn trong đối tượng, diễn tiến trong lộ trình thiền định; vào lúc đó không cần phải nỗ lực trợ giúp, chế ngự hay làm cho tâm thêm vui vẻ, cũng giống như người xa phu không cần cố gắng thêm khi ngựa đã chạy đều. Đây được gọi là – “tâm quân bình hợp thời”. Tránh xa, không tiếp xúc với những người có tâm tán loạn, không đạt được cận định hoặc an chỉ định gọi là tránh xa những người có tâm không định tĩnh. Ngược lại, thân cận, cộng sự và giao lưu với những người có tâm định tĩnh nhờ cận định và an chỉ định gọi là thân cận với những người có tâm định tĩnh. Trạng thái người có tâm hướng đến, nghiêng theo nhằm mục đích làm sanh khởi định trong các oai nghi như đứng, ngồi, v.v, gọi là hướng tâm đến định giác chi. Bởi vì, khi hành giả thực hành như vậy định giác chi đó được sanh khởi. Hành giả biết rõ rằng – định giác chi đã sanh khởi với các biểu hiện như vậy được tu tập trọn vẹn bởi Đạo A-ra-hán.

Upekkhāsambojjhaṅgassa ‘‘atthi, bhikkhave, upekkhāsambojjhaṅgaṭṭhānīyā dhammā, tattha yonisomanasikārabahulīkāro, ayamāhāro anuppannassa vā upekkhāsambojjhaṅgassa uppādāya, uppannassa vā upekkhāsambojjhaṅgassa bhiyyobhāvāya vepullāya bhāvanāya pāripūriyā saṃvattatī’’ti (saṃ. ni. 5.232) evaṃ uppādo hoti. Tattha upekkhāva upekkhāsambojjhaṅgaṭṭhānīyā dhammā nāma.

Sự sanh khởi của xả giác chi như vầy: “Có, này các tỳ khưu, có các pháp trú xứ cho xả giác chi. Ở đây, tác ý đúng đường lối được thực hiện thường xuyên, thời chính cái này là thức ăn khiến cho xả giác chi chưa sanh khởi được sanh khởi, hoặc xả giác chi đã sanh khởi được vận hành đưa đến sự tăng trưởng, sự phát triển, sự tu tập và làm cho đầy đủ”. (saṃ. ni. 5.232); Ở đây, chính xả gọi là các pháp trú xứ cho xả giác chi.

Apica pañca dhammā upekkhāsambojjhaṅgassa uppādāya saṃvattanti sattamajjhattatā saṅkhāramajjhattatā sattasaṅkhārakelāyanapuggalaparivajjanatā sattasaṅkhāramajjhattapuggalasevanatā tadadhimuttatāti.

Và thêm nữa, năm pháp vận hành đưa đến sự sanh khởi của xả giác chi— (1) giữ tâm trung dung đối với người, (2) giữ tâm trung dung đối với đời, (3) tránh xa những người nặng lòng với người, với đời, (4) thân cận với những người có tâm trung dung đối với người, với đời và (5) tâm hướng đến xả giác chi.

Tattha dvīhākārehi sattamajjhattataṃ samuṭṭhāpeti ‘‘tvaṃ attano kammena āgantvā attanova kammena gamissasi, esopi attanova kammena āgantvā attanova kammena gamissati, tvaṃ kaṃ kelāyasī’’ti evaṃ kammassakatāpaccavekkhaṇena, ‘‘paramatthato sattoyeva natthi, so tvaṃ kaṃ kelāyasī’’ti evaṃ nissattapaccavekkhaṇena cāti. Dvīhevākārehi saṅkhāramajjhattataṃ samuṭṭhāpeti – ‘‘idaṃ cīvaraṃ anupubbena vaṇṇavikāratañceva jiṇṇabhāvañca upagantvā pādapuñchanacoḷakaṃ hutvā yaṭṭhikoṭiyā chaḍḍanīyaṃ bhavissati, sace panassa sāmiko bhaveyya, nāssa evaṃ vinassituṃ dadeyyā’’ti evaṃ assāmikabhāvapaccavekkhaṇena ca, ‘‘anaddhaniyaṃ idaṃ tāvakālika’’nti evaṃ tāvakālikabhāvapaccavekkhaṇena cāti. Yathā ca cīvare, evaṃ pattādīsupi yojanā kātabbā.

Trong năm pháp ấy, hành giả tu tập xả giác chi phải giữ tâm trung dung đối với người qua hai biểu hiện như vầy: (a) Suy xét về sở hữu nghiệp như vầy: “ta đã đến với nghiệp của mình và sẽ đi với nghiệp của mình; tương tự họ cũng đã đến với nghiệp của họ và cũng sẽ đi với nghiệp của chính họ, vậy thì ta bám víu vào điều gì? (b) Suy xét về bản thể phi chúng sanh như vầy: “Theo Pháp Chân Đế thì không có chúng sanh nào, vậy thì ta còn dính mắc điều gì?” giữ tâm trung đung đối với đời qua hai biểu hiện như vầy: (a) Suy xét rằng vô chủ sở hữu như vầy: “Tấm y này sẽ đi đến tính chất phai màu, cũ kỹ, trở thành miếng giẻ lau chân, và cuối cùng sẽ bị vứt bỏ bằng đầu cây gậy. Nếu như tấm y này có chủ sở hữu thực sự, người ấy sẽ không để nó bị hư hỏng như thế; (b) Suy xét về tính chất tạm bợ như vầy: “Cái này không bền lâu, có tính chất tạm thời.” Và trong y phục (suy xét) thế nào, luôn cả với bình bát cũng nên thực hiện suy xét tương tự thế ấy.

Sattasaṅkhārakelāyanapuggalaparivajjanatāti ettha yo puggalo gihi vā attano puttadhītādike, pabbajito vā attano antevāsikasamānupajjhāyakādike mamāyati, sahattheneva nesaṃ kesacchedanasūcikammacīvaradhovanarajanapattapacanādīni karoti, muhuttampi apassanto ‘‘asuko sāmaṇero kuhiṃ asuko daharo kuhi’’nti bhantamigo viya ito cito ca oloketi, aññena kesacchedanādīnaṃ atthāya ‘‘muhuttaṃ asukaṃ pesethā’’ti yāciyamānopi ‘‘amhepi taṃ attano kammaṃ na kārema, tumhe naṃ gahetvā kilamessathā’’ti na deti, ayaṃ sattakelāyano nāma.

Tránh xa những người nặng lòng với người, với đời: Ở đây, hạng người nào là gia chủ bị dính mắc vào con trai, con gái, v.v, là ‘của tôi’, hoặc người xuất gia yêu mến các học trò và người cùng chung vị giáo thọ là của tôi v.v., làm đủ mọi công việc như cắt tóc, may vá, giặt nhuộm quần áo, rửa bát, v.v, của mọi người với chính đôi tay của mình không nhìn thấy dầu chỉ trong chốc lát liền lo lắng, hỏi rằng – “Vị sa-di kia đi đâu rồi? Còn vị tỳ khưu trẻ kia đi đâu?” nhìn tới nhìn lui giống như con nai gặp hoảng loạn. Ngay cả khi người khác nài xin rằng: “xin hãy cho vị tỳ khưu trẻ hoặc vị sa-di kia đến để giúp một số việc như cạo tóc, v.v. một lát thôi,” nhưng vi ấy cũng không đồng ý, và nói rằng: “Nếu các ông đưa họ đi, họ sẽ trở nên mệt mỏi. Vậy chúng tôi không thực hiện công việc của mình sao?” đây gọi là nặng lòng với người.

Yo pana cīvarapattathālakakattarayaṭṭhiādīni mamāyati, aññassa hatthena parāmasitumpi na deti, tāvakālikaṃ yācito ‘‘mayampi idaṃ mamāyantā na paribhuñjāma, tumhākaṃ kiṃ dassāmā’’ti vadati, ayaṃ saṅkhārakelāyano nāma. Yo pana tesu dvīsupi vatthūsu majjhatto udāsino, ayaṃ sattasaṅkhāramajjhatto nāma. Iti ayaṃ upekkhāsambojjhaṅgo evarūpaṃ sattasaṅkhārakelāyanapuggalaṃ ārakā parivajjantassāpi, sattasaṅkhāramajjhattapuggalaṃ sevantassāpi, ṭhānanisajjādīsu taduppādanatthaṃ ninnapoṇapabbhāracittassāpi uppajjati. Evaṃ uppannassa panassa arahattamaggena bhāvanāpāripūri hotīti pajānāti.

Còn người nào dính mắc vào bình bát, y phục, túi đựng bình bát, và cây gậy v.v., nghĩ rằng là của tôi, đến nỗi người khác dùng tay chạm vào cũng không cho, và khi được hỏi mượn thì liền từ chối và nói rằng: “Chúng tôi cần sử dụng những món đồ, chúng tôi còn chưa sử dụng, làm sao chúng tôi có thể cho các ngài được? đây được gọi là là nặng lòng với đời. Còn người nào giữ tâm trung dung, ở chính giữa với cả 2 yếu tố trên thì đây gọi là trung dung đối với người và với đời. Cũng vậy, xả giác chi này sanh khởi nơi những người tránh xa với các cá nhân nặng lòng với người và với đời; Ngược lại, thân cận, cộng sự, kết giao với những vị có tâm trung dung đối với người và với đời; Đồng thời, người có tâm hướng đến, nghiêng về vận hành làm cho sanh khởi xả giác chi trong các oai nghi như đứng, ngồi, v.v. Xả giác chi được sanh khởi. Hành giả biết rõ rằng– Xả giác chi đã sanh khởi với biểu hiện như vậy, được tu tập trọn vẹn bởi Đạo A-la-hán.

Iti ajjhattaṃ vāti evaṃ attano vā satta sambojjhaṅge pariggaṇhitvā, parassa vā, kālena vā attano, kālena vā parassa sambojjhaṅge pariggaṇhitvā dhammesu dhammānupassī viharati. Samudayavayā panettha sambojjhaṅgānaṃ nibbattinirodhavasena veditabbā. Ito paraṃ vuttanayameva. Kevalañhi idha bojjhaṅgapariggāhikā sati dukkhasaccanti evaṃ yojanaṃ katvā bojjhaṅgapariggāhakassa bhikkhuno niyyānamukhaṃ veditabbaṃ. Sesaṃ tādisamevāti.

Như vậy … thuộc nội phần: Vị ấy sống có sự quan sát pháp trên các pháp do xác định bảy giác chi của tự thân, hoặc của người khác, hoặc xác định bảy giác chi của mình hợp thời, hoặc của người khác hợp thời. Còn đối với sự sanh khởi và sự hoại diệt trong phần giác chi này nên biết rằng do tác động của sự sanh và diệt của các giác chi. Những từ khác tương tự như đã trình bày. Ở phần này điểm khác biệt duy nhất là cần được phối hợp ý nghĩa như sau– niệm xác định các giác chi làm đối tượng là Khổ Đế, nên biết rằng đây là con đường dẫn dắt ra khỏi khổ đau của vị tỳ khưu xác định các giác chi làm đối tượng. Những từ còn tương tự.

Phần giác chi được kết thúc

 

Giải thích phần Tứ Thánh Đế

  1. Evaṃ sattabojjhaṅgavasena dhammānupassanaṃ vibhajitvā idāni catusaccavasena vibhajituṃ puna caparantiādimāha. Tattha idaṃ dukkhanti yathābhūtaṃ pajānātīti ṭhapetvā taṇhaṃ tebhūmakadhamme ‘‘idaṃ dukkha’’nti yathāsabhāvato pajānāti, tasseva kho pana dukkhassa janikaṃ samuṭṭhāpikaṃ purimataṇhaṃ ‘‘ayaṃ dukkhasamudayo’’ti, ubhinnaṃ appavattinibbānaṃ ‘‘ayaṃ dukkhanirodho’’ti, dukkhaparijānanaṃ samudayapajahanaṃ nirodhasacchikaraṇaṃ ariyamaggaṃ ‘‘ayaṃ dukkhanirodhagāminipaṭipadā’’ti yathāsabhāvato pajānātīti attho. Avasesā ariyasaccakathā ṭhapetvā jātiādīnaṃ padabhājanakathaṃ visuddhimagge vitthāritāyeva.
    Sau khi phân tích việc quan sát pháp do tác động Thất Giác Chi. Bây giờ, để phân tích về Tứ Đế, ngài đã nói rằng: “còn có điều khác nữa…” Ở đây, vị ấy biết rõ: “Đây là Khổ” đúng theo thực thể: Vị ấy biết rõ đúng theo thực tính pháp vận hành trong ba cõi, ngoại trừ Tham ái rằng – ‘Đây là Khổ’. Vị ấy biết rõ đúng theo thực tính Tham ái tồn tại trước khiến cho chính Khổ ấy sanh khởi rằng: “Đây là nhân sanh khổ”. Vị ấy biết rõ đúng theo thực tính Niết Bàn, sự không vận hành của cả hai (Khổ và nhân sanh khổ) rằng: “Đây là sự diệt tận Khổ”. Vị ấy biết rõ đúng theo thực tính Thánh Đạo là nhân biết toàn diện Khổ, dứt bỏ nhân sanh Khổ, tác chứng sự diệt tận rằng: ‘Đây là lối thực hành đưa đến sự diệt tận Khổ’. Phần các Đế còn lại, ngoại trừ phần phân tích từ ngữ liên quan đến sự sanh ra, v.v., đã được trình bày chi tiết trong bộ Thanh Tịnh Đạo.

Giải thích phần diễn giải về Khổ Đế

  1. Padabhājane pana katamā ca, bhikkhave, jātīti bhikkhave, yā jātipi dukkhāti evaṃ vuttā jāti, sā katamāti evaṃ sabbapucchāsu attho veditabbo. Yā tesaṃ tesaṃ sattānanti idaṃ ‘‘imesaṃ nāmā’’ti niyamābhāvato sabbasattānaṃ pariyādānavacanaṃ. Tamhi tamhi sattanikāyeti idampi sabbasattanikāyapariyādānavacanaṃ jananaṃ jāti savikārānaṃ paṭhamābhinibbattakkhandhānametaṃ adhivacanaṃ. Sañjātīti idaṃ tassā eva upasaggamaṇḍitavevacanaṃ. Sā eva anupaviṭṭhākārena okkamanaṭṭhena Nibbattisaṅkhātena abhinibbattanaṭṭhena abhinibbatti. Iti ayaṃ catubbidhāpi sammutikathā nāma. Khandhānaṃ pātubhāvoti ayaṃ pana paramatthakathā. Ekavokārabhavādīsu ekacatupañcabhedānaṃ khandhānaṃyeva pātubhāvo, na puggalassa, tasmiṃ pana sati puggalo pātubhūtoti vohāramattaṃ hoti. Āyatanānaṃ paṭilābhoti āyatanāni pātubhavantāneva paṭiladdhāni nāma honti, so tesaṃ pātubhāvasaṅkhāto paṭilābhoti attho.
    Hơn nữa, khi phân tích từ ngữ “Và này các tỳ khưu, sanh là như thế nào?” Này các tỳ khưu, sanh nào được nói như vầy “sanh là khổ”, sanh ấy là như thế nào? Cần làm rõ ý nghĩa toán câu hỏi như vậy. Của các hạng chúng sanh khác nhau: đây là lời xác định mang tính tổng quát cho tất cả chúng sanh mà không định rõ– “thuộc về nhóm chúng sanh nào cụ thể”. Ở từng tập thể chúng sanh khác nhau: đây cũng là lời xác định tổng quát toàn bộ nhóm chúng sanh. Sự sanh ra gọi là sanh, đây là tên gọi của Uẩn được tạo ra lần đầu tiên cùng với sự thay đổi. Sự sanh khởi: đây là từ đồng nghĩa với chính từ ‘sự sanh ra’, nhưng được thêm vào tiền tố. Chính sự sanh khởi này gọi là sự hạ sanh với ý nghĩa ‘đi vào’, với biểu hiện ‘bước vào’ theo trình tự. Sự hạ sanh với ý nghĩa ‘được tạo ra’, điều này được xem là được sanh ra. Cả bốn khái niệm này đều được nói theo Chế Định. Sự hiện khởi các uẩn: Đây là khái niệm được nói theo Pháp Chân Đế. Sự hiện khởi các Uẩn được chia thành Nhất uẩn, Tứ uẩn và Ngũ uẩn, tùy thuộc vào nhóm chúng sanh mà có một uẩn, v.v, (tuy nhiên) đây không phải sự hiện khởi của hạng người, nhưng khi có sự hiện khởi đó thì theo Chế Định được gọi là sự hiện khởi của hạng người. Sự thành tựu các xứ: Chính sự hiện khởi của các xứ được gọi là ‘đã đạt được’, mang ý nghĩa là sự thành tựu, điều này được xem là sự hiện khởi của các xứ.
  2. Jarāti sabhāvaniddeso. Jīraṇatāti ākārabhāvaniddeso. Khaṇḍiccantiādi vikāraniddeso. Daharakālasmiñhi dantā samasetā honti. Teyeva paripaccante anukkamena vaṇṇavikāraṃ āpajjitvā tattha tattha pattanti. Atha patitañca ṭhitañca upādāya khaṇḍitadantā khaṇḍitā nāma. Khaṇḍitānaṃ bhāvo khaṇḍiccanti vuccati. Anukkamena paṇḍarabhūtāni kesalomāni palitāni nāma. Palitāni sañjātāni assāti palito, palitassa bhāvo pāliccaṃ. Jarāvātappahārena sositamaṃsalohitatāya valiyo tacasmiṃ assāti valittaco, tassa bhāvo valittacatā. Ettāvatā dantakesalomatacesu vikāradassanavasena pākaṭībhūtā pākaṭajarā dassitā.
    Sự già: diễn giải thực tính. Hiện tượng lão hóa: diễn giải tính chất, biểu hiện. Sự rụng răng: diễn giải sự thay đổi. Quả thật vậy, khi còn trẻ thì hàm răng thường trắng đều. Khi về già, những chiếc răng ấy dần đổi màu và rụng đi theo thời gian tại những vị trí đó. Hơn nữa, răng rụng không chỉ ám chỉ những chiếc răng đã rụng, mà cả những chiếc răng còn lại cũng được gọi là ‘sự rụng răng’. Trạng thái của răng bị gãy rụng này được gọi là ‘sự rụng răng’. Tóc và lông dần bạc trắng theo tuổi tác được gọi là bạc tóc. Tóc bạc xuất hiện cùng với sự già yếu của con người, và do đó người ấy được gọi là ‘người có tóc bạc.’ Trạng thái của hạng người có tóc bạc được gọi là ‘tình trạng bạc tóc’. Những nếp nhăn trên da của người đó xuất hiện do sự khô héo của thịt và máu do tác động của gió lão hóa. Vì thế, người ấy được gọi là ‘người có da nhăn.’ Trạng thái của người có làn da nhăn này được gọi là tình trạng da nhăn. Chỉ với những lời ngắn gọn ấy đức Thế Tôn đã trình bày một cách rõ ràng về sự già, biểu hiện một cách hiển nhiên qua sự thay đổi ở răng, tóc, lông và da.

Yatheva hi udakassa vā vātassa vā aggino vā tiṇarukkhādīnaṃ saṃbhaggapalibhaggatāya vā jhāmatāya vā gatamaggo pākaṭo hoti, na ca so gatamaggo tāneva udakādīni, evameva jarāya dantādīnaṃ khaṇḍiccādivasena gatamaggo pākaṭo, cakkhuṃ ummiletvāpi gayhati, na ca khaṇḍiccādīneva jarā. Na hi jarā cakkhuviññeyyā hoti. Yasmā pana jaraṃ pattassa āyu hāyati, tasmā jarā ‘‘āyuno saṃhānī’’ti phalūpacārena vuttā. Yasmā daharakāle suppasannāni sukhumampi attano visayaṃ sukheneva ca gaṇhanasamatthāni cakkhādīni indriyāni jaraṃ pattassa paripakkāni ālulitāni avisadāni oḷārikampi attano visayaṃ gahetuṃ asamatthāni honti, tasmā ‘‘indriyānaṃ paripāko’’tipi phalūpacāreneva vuttā.

Hướng đi của gió hoặc lửa được hiển lộ cũng do gió thổi chạm ngọn cỏ hoặc cây cối đổ ngã, hoặc lửa cháy. Tuy nhiên, bản thân hướng đi của gió và lửa vốn dĩ không thể nhìn thấy; Đường đi của sự già yếu cũng tương tự như vậy, chỉ có thể nhận biết được nhờ tình trạng răng gãy và những biểu hiện khác ở 32 bộ phận của cơ thể như răng, v.v. Dù con người có mở mắt, vẫn không thể nắm bắt được sự già nua như biểu hiện răng rụng, v.v. Bởi vì bản chất của sự già nua không thế nhận biết được bằng mắt. Tuy nhiên, khi con người bước vào giai đoạn già yếu, tuổi thọ dần suy giảm, vì vậy, đức Thế Tôn mới nói đến sự gần kề với kết quả— “sự rút ngắn của tuổi thọ” gọi là già. Hơn nữa, khi còn trẻ, các giác quan như mắt, v.v., thường sáng rõ và nhạy bén, có thể dễ dàng tiếp nhận các đối tượng của mình dù vi tế. Nhưng khi đến tuổi già, các giác quan trở nên già cỗi, mờ nhạt, không còn sáng rõ, và không thể tiếp nhận những đối tượng của mình dù thô. Vì vậy, đức Thế Tôn mới nói đến sự gần kề ới kết quả—  ‘sự suy nhược của các căn’ gọi là già.

  1. Maraṇaniddese yanti maraṇaṃ sandhāya napuṃsakaniddeso, yaṃ maraṇaṃ cutīti vuccati, cavanatāti vuccatīti ayamettha yojanā. Tattha cutīti sabhāvaniddeso. Cavanatāti ākārabhāvaniddeso. Maraṇaṃ pattassa khandhā bhijjanti ceva antaradhāyanti ca adassanaṃ gacchanti, tasmā taṃ bhedo antaradhānanti vuccati. Maccumaraṇanti maccumaraṇaṃ, na khaṇikamaraṇaṃ. Kālakiriyāti maraṇakālakiriyā. Ayaṃ sabbāpi sammutikathāva. Khandhānaṃ bhedoti ayaṃ pana paramatthakathā. Ekavokārabhavādīsu ekacatupañcabhedānaṃ khandhānaṃyeva bhedo, na puggalassa, tasmiṃ pana sati puggalo matoti vohāramattaṃ hoti.
    Diễn giải về sự chết: ‘yaṃ’ đề cập đến sự chết, được sử dụng là danh từ trung tính (không thuộc nam tính hay nữ tính trong ngữ pháp). Ở đây, từ ‘yaṃ’ này cần được kết hợp ý nghĩa như sau– ‘sự chết’ được gọi là sự từ trần, và được gọi là ‘sự tiêu hoại’, Ở đây, ‘sự từ trần’ diễn giải đến thực tính. ‘Sự tiêu hoại’ diễn giải tính chất, biểu hiện. Khi con người đi đến sự chết các uẩn đều phân rã và biến mất, không nhìn thấy, vì thế sự chết ấy gọi là sự phân ra, sự biến mất. Sự tử vong sự chết chóc: sự tử vong và sự chết chóc, không phải trạng thái chết tạm thời. Sự hết thời kỳ: chết gọi là sự hết thời kỳ. Toàn bộ những khái niệm này đều nói theo Chế Định. Sự tan rã các uẩn: còn điều này nói theo Chân Đế. Sự tan rã của các uẩn được phần thành Nhất uẩn, Tứ uẩn và Ngũ uẩn. Trong nhóm chúng sanh mà có một uẩn, v.v, không phải sự tan rã của hạng người, mà khi có sự tập hợp của uẩn thì theo Chế Định gọi là ‘người chết’.

Kaḷevarassa nikkhepoti attabhāvassa nikkhepo. Maraṇaṃ pattassa hi niratthaṃva kaliṅgaraṃ attabhāvo patati, tasmā taṃ kaḷevarassa nikkhepoti vuttaṃ. Jīvitindriyassa upacchedo pana sabbākārato paramatthato maraṇaṃ. Etadeva sammutimaraṇanti pi vuccati. Jīvitindriyupacchedameva hi gahetvā lokiyā ‘‘tisso mato, phusso mato’’ti vadanti.

Sự bỏ lại xác thân gọi là sự bỏ lại thân xác. Thật vậy, khi con người đi đến sự chết, thân xác ngã xuống cũng giống như khúc cây vô dụng. Vì vậy, sự chết được gọi là ‘sự bỏ lại thân xác.’ Còn sự gián đoạn của mạng quyền, khi nói theo Chân Đế với mọi biểu hiện cũng là sự chết. Chính sự chết ấy được gọi là ‘sự chết theo Chế Định.’ Người đời chỉ nắm lấy sự gián đoạn của mạng quyền mới nói rằng rằng– ‘Tissa đã chết, Phussa đã chết.’

  1. Byasanenāti ñātibyasanādīsu yena kenaci byasanena. Dukkhadhammenāti vadhabandhādinā dukkhakāraṇena. Phuṭṭhassāti ajjhotthaṭassa abhibhūtassa. Sokoti yo ñātibyasanādīsu vā vadhabandhanādīsu vā aññatarasmiṃ sati tena abhibhūtassa uppajjati socanalakkhaṇo soko. Socitattanti socitabhāvo. Yasmā panesa abbhantare sosento parisosento uppajjati, tasmā antosoko antoparisokoti vuccati.
    Sự rủi ro: Với bất cứ một sự rủi ro nào trong số các sự rủi ro như sự rủi ro về thân quyến, v.v. Sự đau khổ: Nhân sanh của khổ có sát hại và giam cầm, v.v. Bị tác động: đã bị áp đảo, đã bị chế ngự. Sự sầu muộn: sự sầu muộn có sự buồn rầu là tướng trạng, khởi lên đối với hạng người bị rủi ro như sự rủi ro về thân quyến, v.v, hoặc nguyên nhân của khổ như sát hại, giam cầm, v.v nào đó chế ngự. Trạng thái buồn phiền: trạng thái buồn phiền. Hơn nữa, chính sự buồn phiền ấy sanh khởi khiến nội tâm bị buồn thảm, nội tâm bị sầu muộn, vì thế mới gọi là sự sầu muộn ở nội tâm, sự buồn thảm ở nội tâm.
  2. ‘‘Mayhaṃ dhītā, mayhaṃ putto’’ti evaṃ ādissa ādissa devanti paridevanti etenāti ādevo. Taṃ taṃ vaṇṇaṃ parikittetvā devanti etenāti Tato parā dve tasseva bhāvaniddesā.
    Sự than vãn: Mọi người thường chấp giữ như vầy: “Đây là con gái của tôi, đây là con trai của tôi,” họ than vãn vì sự chấp giữ đó. Chính vì vậy, sự chấp giữ đó được gọi là nguyên nhân của sự phàn nàn. Mọi người thường ca ngợi về những giá trị này nọ (của con cháu hay tài sản, danh vọng) từ sự chấp giữ đó; Vì thế, nguyên nhân đó được gọi là nguyên nhân của sự than vãn. Cả hai từ (sự kể lể và sự kêu gào), không chỉ dừng lại ở đó mà còn là từ ngữ biểu thị trạng thái kể lể và trạng thái kêu gào.
  3. Kāyikanti kāyapasādavatthukaṃ. Dukkhamanaṭṭhena dukkhaṃ. Asātanti amadhuraṃ. Kāyasamphassajaṃ dukkhanti kāyasamphassato jātaṃ dukkhaṃ. Asātaṃ vedayitanti amadhuraṃ vedayitaṃ.
    Thuộc về thân: có thần kinh thân làm chỗ thiết lập. Với ý nghĩa khó kham nhẫn được gọi là khổ đau. Không thoải mái: không ngọt ngào. Khổ đau sanh lên do thân xúc: Khổ đau sanh lên do thân xúc. Được nhận biết là không thoải mái: Được cảm nhận là không ngọt ngào.
  4. Cetasikanti cittasampayuttaṃ. Sesaṃ dukkhe vuttanayameva.
    Thuộc tâm: (Thọ ưu) tương ưng với tâm, bao gồm ưu phiền. Từ còn lại được nói theo cách đã trình bày ở Khổ.
  5. Āyāsoti saṃsīdanavisīdanākārappatto cittakilamatho. Balavataraṃ āyāso upāyāso. Tato parā dve attattaniyābhāvadīpakā bhāvaniddesā.
    Sự lo âu: sự mệt nhọc về tâm đạt đến biểu hiện là sự suy sụp và nản lòng. Sự lo âu với trạng thái mạnh mẽ được gọi là sự thất vọng. Cả hai từ này là trạng thái bồn chồn và trạng thái tuyệt vọng ấy là các yếu tố thuộc về tự thân phản ánh tính chất và chỉ ra trạng thái.
  6. Jātidhammānanti jātisabhāvānaṃ. Icchā uppajjatīti taṇhā uppajjati. Aho vatāti patthanā. Na kho panetaṃ icchāyāti evaṃ jātiyā anāgamanaṃ vinā maggabhāvanaṃ na icchāya pattabbaṃ. Idampīti etampi upari sesāni upādāya pikāro. Yampicchanti yenapi dhammena alabbhaneyyavatthuṃ icchanto na labhati, taṃ alabbhaneyya vatthumhi icchanaṃ dukkhaṃ. Esa nayo sabbattha.
    Là đối tượng của sanh: Có sự sanh là thực tính. Ước muốn như vầy khởi lên: Tham ái sanh khởi. Ôi sao!: sự ước mong. Tuy nhiên, điều ấy không thể đạt được do ước muốn: Điều đó là việc không đi đến sanh, cá nhân không thể đạt được do sự ước muốn ngoại trừ sự thực hành Đạo Lộ. Đây chính là: luôn cả điều này. ‘Pi’ trong từ ‘idampi’ đề cập đến từ ngữ còn lại ở trước. Sự ước muốn điều nào: cá nhân ước muốn điều không thể đạt được sẽ không đạt được, bởi vì bản chất nào của sự ước muốn những điều không thể đạt được sẽ không đạt được thì bản chất đó đều là khổ. Cách thức này áp dụng cho các đoạn kế tiếp
  7. Khandhaniddese rūpañca taṃ upādānakkhandho cāti rūpupādānakkhandho evaṃ sabbattha.
    Trong phần Khandha-niddesa thì sắc ấy và thủ uẩn được gọi là sắc thủ uẩn, ở mỗi uẩn đều nên biết như vậy.

Sự diễn giải Chân lý về nhân sanh Khổ

  1. Yāyaṃ taṇhāti yā ayaṃ taṇhā. Ponobbhavikāti punabbhavakaraṇaṃ punobbhavo, punobbhavo sīlaṃ assāti ponobbhavikā. Nandīrāgena saha gatāti nandīrāgasahagatā. Nandīrāgena saddhiṃ atthato ekattameva gatāti vuttaṃ hoti. Tatratatrābhinandinīti yatra yatra attabhāvo, tatra tatra abhinandinī. Rūpādīsu vā ārammaṇesu tatra tatra abhinandinī, rūpābhinandinī sadda, gandha, rasa, phoṭṭhabba, dhammābhinandinīti attho. Seyyathidanti nipāto. Tassa sā katamā ceti attho. Kāme taṇhā kāmataṇhā, pañcakāmaguṇikarāgassetaṃ nāmaṃ. Bhave taṇhā bhavataṇhā, bhavapatthanāvasena uppannassa sassatadiṭṭhisahagatassa rūpārūpabhavarāgassa ca jhānanikantiyā cetaṃ adhivacanaṃ. Vibhave taṇhā vibhavataṇhā, ucchedadiṭṭhisahagatarāgassetaṃ adhivacanaṃ.
    Điều này là tham ái: điều này là tham ái. Liên quan đến tái sanh: Được phân tích là việc tạo ra một kiếp sống mới, được gọi là kiếp sống mới. Kiếp sống mới đó là bản chất tự nhiên của tham ái. Vì vậy, tham ái đó được gọi là ‘liên quan đến tái sanh’. Đồng hành với sự vui thích: tham ái khởi lên cùng với sự dục vọng, do tác động của sự thích thú. Được giải thích rằng— Tham ái ấy mang ý nghĩa đồng nghĩa với chính sự vui thích. Có sự thích thú nơi này nơi nọ: có sự thích thú ở đối tượng này đối tượng nọ, tự ngã vui thích ở chỗ nào, tham ái cũng vui thích ở chỗ ấy. Nói một cách khác, tham ái thường vui thích trong các đối tượng có sắc, thanh, v.v, gọi ở chỗ này chỗ nọ. Giải thích rằng vui thích trong sắc, vui thích trong âm thanh, mùi, vị, xúc và đối tượng pháp. Tức là: là một phân từ. ‘tức là’ ấy mang ý nghĩa rằng ‘nếu có câu hỏi rằng: ‘tham ái ấy như thế nào?’ Tham ái trong Dục gọi là Dục ái, Dục ái này là tên gọi của ái luyến liên quan đến năm loại dục. Tham ái trong Hữu gọi là Hữu ái, Hữu ái này là tên gọi của ái luyến trong Sắc hữu và Vô sắc hữu đồng sanh với Thường kiến khởi lên bởi sự ước muốn trong Hữu và sự vui thích trong Thiền. Tham ái trong Phi hữu gọi là Phi hữu ái, Phi hữu ái này là tên gọi của ái luyến đồng sanh với Đoạn kiến.

Idāni tassā taṇhāya vatthuṃ vitthārato dassetuṃ sā kho panesātiādimāha. Tattha uppajjatīti jāyati. Nivisatīti punappunaṃ pavattivasena patiṭṭhahati. Yaṃ loke piyarūpaṃ sātarūpanti yaṃ lokasmiṃ piyasabhāvañceva madhurasabhāvañca.

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn để thuyết về nền tảng (nơi thiết lập) nơi khởi lên của tham ái ấy một cách chi tiết mới thuyết rằng ‘Hơn nữa, này các tỳ khưu, tham ái ấy…’ Trong số những lời ấy, sanh lên: sanh khởi. Trụ lại: Được thiết lập bởi sự vận hành thường xuyên. Ở đời, vật nào có bản chất đáng yêu, có bản chất dễ chịu: bản chất đáng yêu và bản chất đáng mến ở đời

Cakkhu loketiādīsu lokasmiñhi cakkhādīsu mamattena abhiniviṭṭhā sattā sampattiyaṃ patiṭṭhitā attano cakkhuṃ ādāsatalādīsu nimittaggahaṇānusārena vippasannaṃ pañcapasādaṃ suvaṇṇavimāne ugghāṭitamaṇisīhapañjaraṃ viya maññanti, sotaṃ rajatapanāḷikaṃ viya, pāmaṅgasuttaṃ viya ca maññanti, ‘‘tuṅganāsā’’ti laddhavohāraṃ ghānaṃ vaṭṭitvā ṭhapitaharitālavaṭṭaṃ viya maññanti, jivhaṃ rattakambalapaṭalaṃ viya mudusiniddhamadhurasadaṃ maññanti, kāyaṃ sālalaṭṭhiṃ viya, suvaṇṇatoraṇaṃ viya ca maññanti, manaṃ aññesaṃ manena asadisaṃ uḷāraṃ maññanti. Rūpaṃ suvaṇṇakaṇikārapupphādivaṇṇaṃ viya, saddaṃ mattakaravīka kokilamandadhamitamaṇivaṃsanigghosaṃ viya, attanā paṭiladdhāni catusamuṭṭhānikagandhārammaṇādīni ‘‘kassaññassa evarūpāni atthī’’ti maññanti. Tesaṃ evaṃ maññamānānaṃ tāni cakkhādīni piyarūpāni ceva sātarūpāni ca honti. Atha nesaṃ tattha anuppannā ceva taṇhā uppajjati, uppannā ca taṇhā punappunaṃ pavattivasena nivisati. Tasmā bhagavā ‘‘cakkhu loke piyarūpaṃ sātarūpaṃ, etthesā taṇhā uppajjamānā uppajjatī’’tiādimāha. Tattha uppajjamānāti yadā uppajjamānā hoti, tadā ettha uppajjatīti attho. Esa nayo sabbattha.

Ở đời, con mắt là (mắt là vật có bản chất đáng yêu, có bản chất dễ chịu), v.v, —thực tế, chúng sinh thường chấp trước vào con mắt, v.v, ở đời đối với bản chất của mình được thiết lập nơi vật sở hữu, họ tưởng tượng đôi mắt của mình, có cả năm giác quan được trong sáng tựa như ô cửa sổ ngọc ma-ni được hé mở trong cung điện vàng giống như nhìn nhận hiện tướng (hình ảnh) phản chiếu chiếc gương; Họ tưởng tượng lỗ tai giống như ống bạc và tựa như sợi chỉ xâu dây chuỗi được buộc lại; họ tưởng tượng lỗ mũi được miêu tả là ‘sống mũi cao’ giống như trụ hùng hoàng đã được tạo hình và dựng lên. Họ tưởng tượng cái lưỡi mềm mại, sạch sẽ, sẵn sàng nhận lấy vị ngon, tựa như bề mặt tấm vải Kambala màu đỏ; họ tưởng tượng cơ thể tựa như cây Sāla trẻ, hoặc như một cột trụ bằng vàng. Họ tưởng tượng ý (của mình) là cao quý, không giống như với ý của bất kỳ người nào khác. Họ nghĩ sắc như thể có màu da tựa như hoa Kaṇikāra vàng, v.v; họ nghĩ âm thanh được ví như tiếng hót của chim Karavīka và chim cu gáy, đầy mê hoặc, cùng với tiếng ngân vang nhẹ nhàng của cây sáo ngọc. Họ nghĩ đối tượng mùi, v.v, có bốn nguồn sanh khởi mà bản thân đạt được, đối tượng có hình thức như vậy còn của người nào khác nữa? Khi các chúng sanh suy nghĩ như thế, các giác quan như mắt và v.v., là vật có bản chất đáng yêu, có bản chất dễ chịu. Trong trường hợp đó, tham ái của các chúng sanh chưa sanh khởi được sanh khởi ở tại con mắt ấy, và tham ái đã sanh khởi sẽ trụ lại thông qua sự vận hành lặp đi lặp lại. Vì vậy, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Ở đời, mắt là vật có bản chất đáng yêu, có bản chất dễ chịu, tham ái ấy trong khi sanh lên thì sanh lên ở nơi này, trong khi trụ lại thì trụ lại ở nơi này, v.v.” Ở đó, trong khi sanh lên thì sanh lên…: tham ái ấy khi sanh lên ở tại thời điểm nào thì cũng đều sanh lên ở con mắt này tại thời điểm ấy. Cách thức này áp dụng cho các đoạn kế tiếp.

Sự diễn giải Chân lý về sự diệt tận Khổ

  1. Asesavirāganirodhotiādīni sabbāni nibbānavevacanāneva. Nibbānañhi āgamma taṇhā asesā virajjati nirujjhati, tasmā taṃ ‘‘tassāyeva taṇhāya asesavirāganirodho’’ti vuccati. Nibbānañca āgamma taṇhā cajiyati paṭinissajjiyati vimuccati na allīyati, tasmā nibbānaṃ ‘‘cāgo paṭinissaggo mutti anālayo’’ti vuccati. Ekameva hi nibbānaṃ, nāmāni panassa sabbasaṅkhatānaṃ nāmapaṭipakkhavasena anekāni honti. Seyyathidaṃ, asesavirāgo asesanirodho cāgo paṭinissaggo mutti anālayo rāgakkhayo dosakkhayo mohakkhayo taṇhakkhayo anuppādo appavattaṃ animittaṃ appaṇihitaṃ anāyūhanaṃ appaṭisandhi anupapatti agati ajātaṃ ajaraṃ abyādhi amataṃ asokaṃ aparidevaṃ anupāyāsaṃ asaṃkiliṭṭhanti.
    Là sự xa lìa luyến ái và sự diệt tận hoàn toàn, v.v tất cả đều là những từ đồng nghĩa của Niết Bàn. Thật vậy, tham ái đạt đến Niết-bàn được diệt tận và lìa xa hoàn toàn, không còn sót lại. Vì vậy, Niết Bàn ấy được gọi là sự xa lìa luyến ái và sự diệt tận hoàn toàn của chính tham ái ấy.” Thêm vào đó, tham ái đến Niết Bàn được xả bỏ, được buông bỏ, được thoát khỏi, không dính líu; do đó, Niết Bàn được gọi là “sự xả bỏ, sự buông bỏ, sự thoát khỏi, sự không dính líu”. Bởi vì, Niết Bàn chỉ có một trạng thái duy nhất, tuy nhiên tên gọi của Niết Bàn lại rất đa dạng, chúng hoàn toàn đối lập với tên gọi của các Pháp Hữu Vi. Tức là— Niết Bàn là trạng thái xa lìa hoàn toàn, diệt tận không còn sót lại, sự xả bỏ, sự buông bỏ, sự thoát khỏi, sự không dính líu, sự diệt trừ ái luyến, sự diệt trừ sân, sự diệt trừ si, sự diệt trừ tham ái, sự không tái sanh, không có vận hành, không hiện tướng, không có ước nguyện, không nghiệp tích trữ, không mầm tái sanh, không tục sanh, sự không sanh lên, không cảnh giới tái sanh, sự không sanh ra, sự không già, sự không bệnh, sự không chết, sự không sầu muộn, sự không than vãn, sự không thất vọng, sự không nhiễm ô.

Idāni maggena chinnāya nibbānaṃ āgamma appavattipattāyapi ca taṇhāya yesu vatthūsu tassā uppatti dassitā, tattheva abhāvaṃ dassetuṃ sā kho panesātiādimāha. Tattha yathā puriso khette jātaṃ tittaalābuvalliṃ disvā aggato paṭṭhāya mūlaṃ pariyesitvā chindeyya, sā anupubbena milāyitvā apaññattiṃ gaccheyya. Tato tasmiṃ khette tittaalābu niruddhā pahīnāti vucceyya, evameva khette tittaalābu viya cakkhādīsu taṇhā. Sā ariyamaggena mūlacchinnā nibbānaṃ āgamma appavattiṃ gacchati. Evaṃ gatā pana tesu vatthūsu khette tittaalābu viya na paññāyati.

Lúc bấy giờ, để thuyết về sự không tồn tại của toàn bộ tham ái đã bị cắt đứt bởi Đạo đạt đến tính chất không còn vận hành do đã chạm đến Niết Bàn trong vật-vatthu được đức Thế Tôn thuyết rằng: chính tham ái ấy sanh khởi nên ngài mới nói rằng: “Hơn nữa, chinh tham ái ấy…” (Cần hiểu ý nghĩa của câu nói ấy như sau) ví như một người phát hiện ra cây dây leo bầu đắng mọc trong ruộng, nắm lấy từ trên ngọn lần tìm đến gốc rễ rồi cắt bỏ toàn bộ. Cây dây leo ấy sẽ khô héo dần đi đến tính chất không hiện hữu. Khi đó, người ta nói rằng cây dây leo bầu đắng trong ruộng đã bị diệt tận và bị dứt bỏ. Tham ái trong con mắt, v.v., cũng được ví như cây dây leo bầu đắng trong ruộng. Tham ái đó đã bị cắt tận gốc bằng Đạo A-ra-hán và đi đến trạng thái không vận hành do đã đạt đến Niết Bàn.

Yathā ca aṭavito core ānetvā nagarassa dakkhiṇadvāre ghāteyyuṃ, tato aṭaviyaṃ corā matāti vā māritāti vā vucceyyuṃ, evaṃ aṭaviyaṃ corā viya cakkhādīsu taṇhā. Sā dakkhiṇadvāre corā viya nibbānaṃ āgamma niruddhattā nibbāne niruddhā. Evaṃ niruddhā panetesu vatthūsu aṭaviyaṃ corā viya na paññāyati, tenassā tattheva nirodhaṃ dassento ‘‘cakkhu loke piyarūpaṃ sātarūpaṃ, etthesā taṇhā pahīyamānā pahīyati, ettha nirujjhamānā nirujjhatī’’tiādimāha.

Hơn nữa, tham ái đã đạt đến trạng thái không vận hành như vậy sẽ không còn hiện hữu trong các đối tượng ấy, cũng giống như dây leo bầu đắng không còn xuất hiện trên cánh đồng. Tương tự, ví như một nhóm người đưa tên cướp từ rừng sâu về, và giết hắn tại cổng phía Nam của thành phố. Lúc đó, mọi người có thể nói rằng tên cướp từ rừng đã chết hoặc đã bị giết. Cũng như thế, tham ái trong con mắt, tai, v.v., được ví như tên cướp ở trong rừng. Tham ái đó được cho là đã bị diệt tận chính trong Niết Bàn, bởi khi đã đạt đến Niết Bàn, tham ái đã hoàn toàn diệt tận, giống như tên cướp bị giết tại cổng thành phía Nam.

Sự diễn giải Chân lý về lối thực hành đưa đến sự diệt tận Khổ

  1. Ayamevāti aññamaggapaṭikkhepanatthaṃ niyamanaṃ. Ariyoti taṃ taṃ maggavajjhehi kilesehi ārakattā ariyabhāvakarattā ca ariyo. Dukkhe ñāṇantiādinā catusaccakammaṭṭhānaṃ dassitaṃ. Tattha purimāni dve saccāni vaṭṭaṃ, pacchimāni vivaṭṭaṃ. Tesu bhikkhuno vaṭṭe kammaṭṭhānābhiniveso hoti, vivaṭṭe natthi abhiniveso. Purimāni hi dve saccāni ‘‘pañcakkhandhā dukkhaṃ, taṇhā samudayo’’ti evaṃ saṅkhepena ca ‘‘katame pañcakkhandhā, rūpakkhandho’’tiādinā nayena vitthārena ca ācariyassa santike uggaṇhitvā vācāya punappunaṃ parivattento yogāvacaro kammaṃ karoti. Itaresu pana dvīsu saccesu nirodhasaccaṃ iṭṭhaṃ kantaṃ manāpaṃ, maggasaccaṃ iṭṭhaṃ kantaṃ manāpanti evaṃ savanena kammaṃ karoti. So evaṃ karonto cattāri saccāni ekapaṭivedheneva paṭivijjhati ekābhisamayena abhisameti. Dukkhaṃ pariññāpaṭivedhena paṭivijjhati, samudayaṃ pahānapaṭivedhena, nirodhaṃ sacchikiriyāpaṭivedhena, maggaṃ bhāvanāpaṭivedhena paṭivijjhati. Dukkhaṃ pariññābhisamayena…pe… maggaṃ bhāvanābhisamayena abhisameti. Evamassa pubbabhāge dvīsu saccesu uggaha– paripucchā– savana– dhāraṇa– sammasana– paṭivedho hoti, dvīsu pana savanapaṭivedhoyeva. Aparabhāge tīsu kiccato paṭivedho hoti, nirodhe ārammaṇapaṭivedho. Paccavekkhaṇā pana pattasaccassa hoti. Ayañca ādikammiko, tasmā sā idha na vuttā.
    Đây chính là: là từ mang ý nghĩa khẳng định để phủ nhận các đạo lộ khác. Cao thượng: Đạo lộ được gọi là cao thượng bởi trạng thái xa lìa mọi phiền não mà chính đạo lộ đó có thể ‘giết’ và trạng thái tạo ra bản thể bậc Thánh. Ngài thuyết giảng đề mục thiền định về Tứ Đế thông qua câu ‘sự biết về Khổ, v.v.’ Trong Tứ Đế ấy, hai Chân lý đầu tiên (Khổ – Tập) thuộc luân hồi; còn hai Chân lý sau (Diệt – Đạo) là vượt luân hồi. Ở đây, sự cố chấp vào đề mục thiền định của vị tỳ khưu tồn tại ở Chân lý luân hồi, nhưng sự cố chấp không tồn tại ở Chân lý vượt luân hồi. Bởi vì, các hành giả đã được học tập hai Chân lý đầu tiên ở trú xứ của các thầy với sự tóm lược như vầy: “Ngũ uẩn là Khổ, và tham ái là nguồn gốc của Khổ.” Đồng thời, được giải thích chi tiết theo phương thức sau— “Ngũ uẩn là gì? là sắc uẩn, v.v,” hành giả khi đọc tụng lập đi lập lại bằng lời, được gọi là thực hành công việc trong hai Chân lý đó.” Phần còn lại trong hai Chân lý này, vị hành giả chỉ thực hành công việc thông qua sự lắng nghe. Như vậy, Chân lý về sự diệt tận Khổ thật đáng mong muốn, đáng ao ước, đáng hài lòng; Chân lý về lối thực hành đưa đến sự diệt tận Khổ cũng đáng mong muốn, đáng ao ước, đáng hài lòng. Trong khi thực hành như vậy vị ấy thấu triệt tất cả bốn Chân lý bằng sự hiểu biết rõ ràng duy nhất, lãnh hội với sự lãnh hội duy nhất. Cụ thể, thấu triệt Chân lý về Khổ với sự thấu triệt là biết toàn diện, thấu triệt Chân lý về nhân sanh Khổ với sự thấu triệt là sự dứt bỏ, thấu triệt Chân lý về sự diệt tận Khổ với sự thấu triệt là sự tác chứng, thấu triệt về lối thực hành đưa đến sự diệt tận Khổ với sự thấu triệt là sự tu tập. Ban đầu hành giả có trí thấu triệt hai Chân lý đầu tiên thông qua sự học hành, sự hỏi han, sự lắng nghe, sự ghi nhớ và sự suy xét. Còn hai Chân lý sau hành giả có trí thấu triệt chỉ thông qua sức mạnh của việc lắng nghe. Phần sau mới có trí thấu triệt ba Chân lý từ phận sự, và có sự thấu triệt đối tượng ở Chân lý về sự diệt tận Khổ. Trí quán xét lại có nơi hành giả đã chứng ngộ Chân lý. Và vị này là vị bắt đầu thực hiện sự tinh tấn, do đó, ở đây không nói đến trí quán xét lại.

Imassa ca bhikkhuno pubbe pariggahato ‘‘dukkhaṃ parijānāmi, samudayaṃ pajahāmi, nirodhaṃ sacchikaromi, maggaṃ bhāvemī’’ti ābhogasamannāhāra-manasikāra-paccavekkhaṇā natthi, pariggahato paṭṭhāya hoti. Aparabhāge pana dukkhaṃ pariññātameva …pe… maggo bhāvitova hoti. Tattha dve saccāni duddasattā gambhīrāni, dve gambhīrattā duddasāni. Dukkhasaccañhi uppattito pākaṭaṃ, khāṇukaṇṭakapahārādīsu ‘‘aho dukkha’’nti vattabbatampi āpajjati. Samudayampi khāditukāmatābhuñjitukāmatādivasena uppattito pākaṭaṃ. Lakkhaṇapaṭivedhato pana ubhayampi gambhīraṃ. Iti tāni duddasattā gambhīrāni. Itaresaṃ pana dvinnaṃ dassanatthāya payogo bhavaggagahaṇatthaṃ hatthappasāraṇaṃ viya avīciphusanatthaṃ pādappasāraṇaṃ viya satadhā bhinnassa vālassa koṭiyā koṭipādanaṃ viya ca hoti. Iti tāni gambhīrattā duddasāni. Evaṃ duddasattā gambhīresu gambhīrattā ca duddasesu catūsu saccesu uggahādivasena pubbabhāgañāṇuppattiṃ sandhāya idaṃ dukkhe ñāṇantiādi vuttaṃ. Paṭivedhakkhaṇe pana ekameva taṃ ñāṇaṃ hoti.

Hơn nữa, khi vị tỳ khưu này nhận biết ở phần đầu, sự tư niệm, sự thu nhiếp, sự tác ý, sự quán chiếu rằng: ‘Tôi biết toàn diện về Khổ, tôi dứt bỏ về nhân sanh Khổ, tôi tác chứng sự diệt tận, tôi tu tập về đạo lộ” vẫn không có; có được kể từ việc nhận biết. Tuy nhiên, ở phần sau, Khổ được gọi là đã biết toàn diện, nhân sanh Khổ được gọi là đã từ bỏ, sự diệt tận Khổ được gọi là đã tác chứng, và đạo được gọi là đã tu tập. Trong các Chân lý đó, hai Chân lý đầu tiên được gọi là thâm sâu vì khó nhận thấy, còn hai Chân lý sau được gọi là khó nhận thấy bởi vì tính chất thâm sâu. Thật vậy, Chân lý về Khổ đã hiện diện ngay từ khi sanh ra, đến mức người ta nói rằng: “Ôi, khổ quá!” trong lúc bị gốc cây hay gai đâm, v.v. Ngay cả Chân lý về nhân sanh Khổ cũng đã hiện khởi từ khi sinh ra, do tác động mong muốn như muốn ăn, muốn nhai, v.v. Tuy nhiên, cả hai Chân lý này vẫn được gọi là thâm sâu bởi trạng thái và sự thấu triệt (khó đạt được). Hai Chân lý này được gọi là thâm sâu bởi tính chất khó thấy là như vậy. Hơn nữa, sự nỗ lực để nhận ra hai Chân lý còn lại cũng giống như việc duỗi cánh tay để nắm lấy cảnh giới tột cùng của hiện hữu hay duỗi chân để chạm vào địa ngục A-Tỳ, cũng giống như việc lấy đầu sợi tóc với đầu sợi tóc chẻ thành bảy phần và gắn chúng lại với nhau. Hai Chân lý về sau (Diệt Đế và Đạo Đế) được gọi là khó thấy bởi vì chúng thâm sâu, chính là như thế. Đức Thế Tôn đã thuyết rằng: “Đây là sự biết về khổ, v.v.” Ngài ám chỉ sự sanh khởi của trí ở phần khởi đầu trong Tứ Thánh Đế, được xem là thâm sâu bởi vì khó thấy và được gọi là khó thấy bởi vì tính chất thâm sâu, do tác động của sự học tập, v.v, là như vậy. Còn ở sát-na thấu triệt, trí quán xét lại chỉ có một.

Nekkhammasaṅkappādayo kāma-byāpāda-vihiṃsāviramaṇasaññānaṃ nānattā pubbabhāge nānā, maggakkhaṇe pana imesu tīsu ṭhānesu uppannassa akusalasaṅkappassa padapacchedato anuppattisādhanavasena maggaṅgaṃ pūrayamāno ekova kusalasaṅkappo uppajjati. Ayaṃ sammāsaṅkappo nāma.

Sự tư duy liên quan đến xuất ly, v.v, khác nhau ở phần đầu do sự nhận thức về việc tránh xa dục lạc, sân hận và hãm hại có tính chất khác nhau. Tuy nhiên, tại sát-na Đạo chỉ có thiện tư duy khởi lên để làm cho các chi Đạo được hoàn bị, bằng cách thành tựu sự không sanh khởi của bất thiện tư duy trong ba trường hợp này, vì đã cắt đứt con đường của bất thiện tư duy. Đây được gọi là Chánh Tư Duy.

Musāvādāveramaṇiādayopi musāvādādīhi viramaṇasaññānaṃ nānattā pubbabhāge nānā, maggakkhaṇe pana imesu catūsu ṭhānesu uppannāya akusaladussīlyacetanāya padapacchedato anuppattisādhanavasena maggaṅgaṃ pūrayamānā ekāva kusalaveramaṇī uppajjati. Ayaṃ sammāvācā nāma.

Ngay cả các thiện pháp với ý định tránh xa sự nói dối, v.v., cũng khác nhau ở phần đầu bởi sự nhận thức trong việc tránh xa sự nói dối, v.v., có tính chất khác nhau. Tuy nhiên, tại sát-na Đạo, chỉ có ý định kiêng tránh thuộc thiện duy nhất khởi lên để làm cho các chi Đạo được hoàn bị, bằng cách thành tựu sự không sanh khởi của ý định bất thiện liên quan đến giới tồi đã sanh khởi ơ bốn trường hợp này, vì đã cắt đứt con đường ấy. Đây được gọi là Chánh Ngữ.

Pāṇātipātāveramaṇiādayopi pāṇātipātādīhi viramaṇasaññānaṃ nānattā pubbabhāge nānā, maggakkhaṇe pana imesu tīsu ṭhānesu uppannāya akusaladussīlyacetanāya akiriyato padapacchedato anuppattisādhanavasena maggaṅgaṃ pūrayamānā ekāva kusalaveramaṇī uppajjati, ayaṃ sammākammanto nāma.

Ngay cả các thiện pháp với ý định từ bỏ sát sinh, v.v., cũng khác nhau ở phần đoạn đầu, bởi sự nhận thức về việc từ bỏ sát sinh, v.v., có tính chất khác nhau. Tuy nhiên, tại sát-na Đạo, chỉ có ý định kiêng tránh thuộc thiện duy nhất sanh khởi để làm cho các chi Đạo được hoàn bị, bằng cách thành tựu sự không sanh khởi ý định bất thiện liên quan đến giới tồi đã sanh khởi trong ba trường hợp này, vì đã cắt đứt con đường ấy. Đây được gọi là Chánh Nghiệp.

Micchāājīvanti khādanīyabhojanīyādīnaṃ atthāya pavattitaṃ kāyavacīduccaritaṃ. Pahāyāti vajjetvā. Sammāājīvenāti buddhapasatthena ājīvena. Jīvitaṃ kappetīti jīvitappavattiṃ pavatteti. Sammāājīvopi kuhanādīhi viramaṇasaññānaṃ nānattā pubbabhāge nānā, maggakkhaṇe pana imesuyeva sattasu ṭhānesu uppannāya micchājīvadussīlyacetanāya padapacchedato anuppattisādhanavasena maggaṅgaṃ pūrayamānā ekāva kusalaveramaṇī uppajjati, ayaṃ sammāājīvo nāma.

Tà mạng bao gồm các uế hạnh về thân, uế hạnh về khẩu vận hành vì lợi ích vật thực loại cứng loại mềm, v.v. Từ bỏ: nghĩa là tránh xa. Bằng chánh mạng: với việc nuôi mạng được đức Phật ca ngợi. Duy trì sự sống: duy trì việc nuôi mạng. Chánh mạng khác biệt ở phần đầu bởi sự nhận thức về việc tránh xa những uế hạnh như nói dối, v.v., có tính chất khác nhau. Tuy nhiên, tại sát-na Đạo, chỉ có ý định kiêng tránh thuộc thiện duy nhất sanh khởi để làm cho các chi Đạo được hoàn bị, bằng cách thành tựu sự không sanh khởi ý định trì giới xấu xa liên quan đến tà mạng đã sanh khởi trong bảy trường hợp (ba uế hạnh về thân và bốn uế hạnh về khẩu), vì đã cắt đứt con đường này, điều này được gọi là Chánh Mạng.

 Anuppannānanti ekasmiṃ vā bhave tathārūpe vā ārammaṇe attano na uppannānaṃ. Parassa pana uppajjamāne disvā ‘‘aho vata me evarūpā pāpakā akusaladhammā na uppajjeyyu’’nti evaṃ anuppannānaṃ pāpakānaṃ akusalānaṃ dhammānaṃ anuppādāya. Chandaṃ janetīti tesaṃ anuppādakapaṭipattisādhakaṃ vīriyachandaṃ janeti. Vāyamatīti vāyāmaṃ karoti. Vīriyaṃ ārabhatīti vīriyaṃ pavatteti. Cittaṃ paggaṇhātīti vīriyena cittaṃ paggahitaṃ karoti. Padahatīti kāmaṃ taco ca nhāru ca aṭṭhi ca avasissatūti padahanaṃ pavatteti.

Chưa được sanh khởi: chưa được sanh khởi đối với bản thân trong một kiếp hoặc ở đối tượng nào đó. Tuy nhiên, sau khi thấy các pháp bất thiện đang sanh khởi nơi người khác (hành giả làm sanh khởi sự mong muốn, rồi gắng sức, khởi sự tinh tấn, nắm chặt và xác định tâm) để không cho các ác bất thiện chưa sanh khởi như sau: “Mong sao! các pháp bất thiện có hình thức như vậy không thể sanh khởi nơi ta.” Làm sanh khởi sự mong muốn: khởi lên sự hài lòng trong sự nỗ lực, để hoàn thành việc thực hành, không để cho các ác bất thiện ấy sanh khởi. Gắng sức: thực hiện sự chuyên cần. Khởi sự tinh tấn: duy trì sự tinh tấn. Nâng đỡ tâm: thực hiện nâng đỡ tâm bằng sự tinh tấn. Thiết lập: duy trì việc thiết lập sự tinh tấn dù chỉ còn lại da, gân, xương cũng không từ bỏ nỗ lực.

Uppannānanti samudācāravasena attano uppannapubbānaṃ. Idāni tādise na uppādessāmīti tesaṃ pahānāya chandaṃ janeti. Anuppannānaṃ kusalānanti appaṭiladdhānaṃ paṭhamajjhānādīnaṃ. Uppannānanti tesaṃyeva paṭiladdhānaṃ. Ṭhitiyāti punappunaṃ uppattipabandhavasena ṭhitatthaṃ. Asammosāyāti avināsanatthaṃ. Bhiyyobhāvāyāti uparibhāvāya. Vepullāyāti vipulabhāvāya. Bhāvanāya pāripūriyāti bhāvanāya paripūraṇatthaṃ. Ayampi sammāvāyāmo anuppannānaṃ akusalānaṃ anuppādanādicittānaṃ nānattā pubbabhāge nānā, maggakkhaṇe pana imesuyeva catūsu ṭhānesu kiccasādhanavasena maggaṅgaṃ pūrayamānaṃ ekameva kusalavīriyaṃ uppajjati. Ayaṃ sammāvāyāmo nāma.

Đã được sanh khởi: đã từng sanh khởi đối với bản thân do tác động hành vi. Làm sanh khởi sự mong muốn nhằm dứt bỏ các ác bất thiện ấy, (với suy nghĩ) rằng— “Giờ đây, ta sẽ không để các ác bất thiện như thế sanh khởi nữa.” Các thiện pháp chưa được sanh khởi: đề cập đến các thiện pháp như sơ thiền, v.v., mà bản thân vẫn chưa đạt được. Đã được sanh khởi: là các thiện pháp mà bản thân đã đạt được. Để duy trì: Để duy trì do mãnh lực sanh lên liên tục, thường xuyên. Để không cho sút giảm: để không bị mất mát. Để tăng trưởng thêm: Để tăng trưởng thêm nữa. Về việc lớn mạnh: Vì sự phát triển trọn vẹn. Về việc tu tập, về việc làm cho đầy đủ: về việc tu tập, về việc làm cho tròn đủ. Ngay cả chánh tinh tấn này cũng khác nhau trong giai đoạn ban đầu, bởi tâm suy nghĩ không cho sanh khởi các bất thiện chưa sanh khởi , v.v., có tính chất khác biệt. Tuy nhiên, tại sát-na Đạo, chỉ có sự nỗ lực thuộc về thiện sanh khởi để làm cho các chi Đạo được hoàn bị, bằng cách hoàn thành phận sự trong bốn trường hợp này. Đây được gọi là Chánh Tinh Tấn.

Sammāsatipi kāyādipariggāhakacittānaṃ nānattā pubbabhāge nānā, maggakkhaṇe pana catūsu ṭhānesu kiccasādhanavasena maggaṅgaṃ pūrayamānā ekāva sati uppajjati. Ayaṃ sammāsati nāma.

Ngay cả chánh niệm cũng khác nhau trong giai đoạn ban đầu, bởi tâm xác định các đối tượng như thân, v.v., là có tính chất khác nhau. Tuy nhiên, tại sát-na Đạo, chỉ có một niệm duy nhất khởi lên để làm cho các chi Đạo được hoàn bị, bằng cách hoàn thành phận sự trong bốn trường hợp. Đây được gọi là Chánh Niệm.

Jhānāni pubbabhāgepi maggakkhaṇepi nānā, pubbabhāge samāpattivasena nānā, maggakkhaṇe nānāmaggavasena. Ekassa hi paṭhamamaggo paṭhamajjhāniko hoti, dutiyamaggādayopi paṭhamajjhānikā vā dutiyajjhānādīsu aññatarajhānikā vā. Ekassapi paṭhamamaggo dutiyādīnaṃ aññatarajhāniko hoti, dutiyādayopi dutiyādīnaṃ aññatarajjhānikā vā paṭhamajjhānikā vā. Evaṃ cattāropi maggā jhānavasena sadisā vā asadisā vā ekaccasadisā vā honti. Ayaṃ panassa viseso pādakajjhānaniyamena hoti.

Các tầng thiền khác nhau cả trong giai đoạn ban đầu và ngay tại sát-na của Đạo. Ở giai đoạn ban đầu, sự khác biệt do tác động các thiền chứng. Trong sát-na Đạo, sự khác biệt do tác động của Đạo. Thật vậy, Sơ Đạo của một sát-na Đạo có Sơ thiền làm nền tảng, Nhị Đạo trở đi có thể có Sơ thiền làm nền tảng, hoặc bất kỳ tầng thiền nào đó từ Nhị thiền, v.v, làm nền tảng. Sơ Đạo thuộc một sát-na Đạo có bất kỳ tầng thiền nào đó thuộc Nhị thiền, v.v, làm nền tảng, luôn cả Nhị Đạo trở đi cũng có một trong bất kỳ tầng thiền nào đó thuộc Nhị thiền trở lên làm nền tảng, hoặc có Sơ thiền làm nền tảng. Cả bốn Đạo nói theo tầng thiền có trường hợp giống nhau, có trường hợp khác nhau, và cũng có trường hợp chỉ giống nhau một phần là như vậy. Điều này là sự khác biệt của Đạo đó, được xác định dựa trên các tầng thiền làm nền tảng.

Pādakajjhānaniyamena tāva paṭhamajjhānalābhino paṭhamajjhānā vuṭṭhāya vipassantassa uppanno maggo paṭhamajjhāniko hoti. Maggaṅgabojjhaṅgāni panettha paripuṇṇāneva honti. Dutiyajjhānato vuṭṭhāya vipassantassa uppanno dutiyajjhāniko hoti. Maggaṅgāni panettha satta honti. Tatiyajjhānato vuṭṭhāya vipassantassa uppanno tatiyajjhāniko. Maggaṅgāni panettha satta, bojjhaṅgāni cha honti. Esa nayo catutthajjhānato vuṭṭhāya yāva nevasaññānāsaññāyatanaṃ.

Nên được giải thích dựa trên tầng thiền làm nền tảng trước, Đạo khởi lên đối với hành giả đã đạt được Sơ thiền, sau khi xuất khỏi Sơ thiền vị ấy thực hành Minh sát, như vậy được gọi là có Sơ thiền làm nền tảng. Hơn nữa, ở đây các chi Đạo và giác chi hoàn toàn được đầy đủ và trọn vẹn trong Sơ thiền. Đạo khởi lên đối với hành giả đã đạt được Nhị thiền, sau khi xuất khỏi Nhị thiền vị ấy thực hành Minh sát, như vậy được gọi là có Nhị thiền làm nền tảng. Còn chi Đạo trong Nhị thiền này có bảy chi. Đạo khởi lên đối với hành giả xuất khỏi Tam thiền và thực hành Minh sát, được gọi là có Tam thiền làm nền tảng. Các chi Đạo trong Tam thiền này có bảy chi, nhưng giác chi chỉ có sáu chi. Đối với hành giả xuất rời khỏi Tứ thiền cho đến tầng thiền Phi tưởng Phi phi tưởng xứ, cũng tương tự như vậy.

Āruppe catukkapañcakajjhānaṃ uppajjati, tañca lokuttaraṃ, no lokiyanti vuttaṃ, ettha kathanti? Etthāpi paṭhamajjhānādīsu yato vuṭṭhāya sotāpattimaggaṃ paṭilabhitvā arūpasamāpattiṃ bhāvetvā so āruppe uppanno, taṃ jhānikāvassa tattha tayo maggā uppajjanti. Evaṃ pādakajjhānameva niyameti.

Các tầng thiền thuộc nhóm bốn và nhóm năm sanh khởi trong thiền Vô sắc, và các tầng thiền đó được gọi là Siêu Thế, không phải Hiệp Thế. Các tầng thiền bắt đầu từ Sơ thiền là như thế nào? – Ngay cả các tầng thiền bắt đầu từ Sơ thiền, hành giả xuất khỏi tầng thiền nào, sau khi đạt được Đạo Nhập Lưu, đã thực hành thiền Vô sắc, và sanh vào cõi Vô sắc, cả ba Đạo có thiền ấy làm nền tảng sanh khởi đối với hành giả trong cõi Vô sắc đó. Ngài định rõ Đạo có thiền làm nền tảng là như vậy.

Keci pana therā ‘‘vipassanāya ārammaṇabhūtā khandhā niyamentī’’ti vadanti. Keci ‘‘puggalajjhāsayo niyametī’’ti vadanti. Keci ‘‘vuṭṭhānagāminivipassanā niyametī’’ti vadanti. Tesaṃ vādavinicchayo visuddhimagge vuṭṭhānagāminivipassanādhikāre vuttanayeneva veditabbo.

Nhưng một số vị trưởng lão cho rằng— “Định rõ các uẩn làm đối tượng của Minh sát. Một số vị khác lại cho rằng— “Định rõ khuynh hướng cá nhân.” Một số vị khác nữa cho rằng— “Định rõ Minh sát đưa đến sự xuất ly.” Việc phân tích quan điểm của các vị trưởng lão ấy cần được hiểu theo phương thức đã được trình bày trong phần nói về Minh sát đưa đến sự xuất ly trong bộ Thanh Tịnh Đạo.

Ayaṃ vuccati, bhikkhave, sammāsamādhīti ayaṃ pubbabhāge lokiyo aparabhāge lokuttaro sammāsamādhīti vuccati.

Này các tỳ khưu, đây được gọi là chánh định: Pháp này phần đầu là Hiệp Thế, phần sau gọi là Siêu Thế.

Iti ajjhattaṃ vāti evaṃ attano vā cattāri saccāni pariggaṇhitvā, parassa vā, kālena vā attano, kālena vā parassa cattāri saccāni pariggaṇhitvā dhammesu dhammānupassī viharati. Samudayavayā panettha catunnaṃ saccānaṃ yathāsambhāvato uppattinivattivasena veditabbā. Ito paraṃ vuttanayameva. Kevalañhi idha catusaccapariggāhikā sati dukkhasaccanti evaṃ yojanaṃ katvā saccapariggāhakassa bhikkhuno niyyānamukhaṃ veditabbaṃ, sesaṃ tādisamevāti.

Như vậy….thuộc nội phần: Vị ấy sống có sự quán xét pháp trên các pháp nhờ vào việc xác định bốn chân lý của mình, của người khác, hoặc xác định bốn chân lý của mình hợp thời, của người khác hợp thời như vậy. Còn sự sanh khởi và hoại diệt trong phần bốn chân lý này nên được hiểu bởi sự sanh và diệt của bốn chân lý đúng theo sự thật (Pháp Chân Đế). Những từ khác có cách thức như đã trình bày. Ở phần này điểm khác biệt duy nhất là cần được phối hợp ý nghĩa như sau– niệm xác định bốn chân lý làm đối tượng là Khổ Đế, nên biết rằng đây là con đường dẫn dắt ra khỏi khổ đau của vị tỳ khưu xác định bốn chân lý làm đối tượng. Những từ còn tương tự.

Phần bốn chân lý được kết thúc

 

  1. Ettāvatā ānāpānapabbaṃ catuiriyāpathapabbaṃ catusampajaññapabbaṃ dvattiṃsākāraṃ catudhātuvavatthānaṃ navasivathikā vedanānupassanā cittānupassanā nīvaraṇapariggaho khandhapariggaho āyatanapariggaho bojjhaṅgapariggaho saccapariggahoti ekavīsati kammaṭṭhānāni. Tesu ānāpānaṃ dvattiṃsākāraṃ navasivathikāti ekādasa appanākammaṭṭhānāni honti. Dīghabhāṇakamahāsīvatthero pana ‘‘navasivathikā ādīnavānupassanāvasena vuttā’’ti āha. Tasmā tassa matena dveyeva appanākammaṭṭhānāni, sesāni upacārakammaṭṭhānāni. Kiṃ panetesu sabbesu abhiniveso jāyatīti? Na jāyati. Iriyāpathasampajaññanīvaraṇabojjhaṅgesu hi abhiniveso na jāyati, sesesu jāyatīti. Mahāsīvatthero panāha ‘‘etesupi abhiniveso jāyati. Ayañhi ‘atthi nu kho me cattāro iriyāpathā udāhu natthi, atthi nu kho me catusampajaññaṃ udāhu natthi, atthi nu kho me pañcanīvaraṇā udāhu natthi, atthi nu kho me sattabojjhaṅgā udāhu natthī’ti evaṃ pariggaṇhāti. Tasmā sabbattha abhiniveso jāyatī’’ti.
    Chỉ bấy nhiêu mà Đức Thế Tôn đã thuyết giảng hai mươi mốt đề mục thiền định, gồm: Phần niệm hơi thở, phần bốn oai nghi, phần bốn việc nhận biết rõ, ba mươi hai thể trược, phân tích tứ đại, quan sát chín khía cạnh bất tịnh của tử thi, việc quan sát thọ, việc quan sát tâm, việc xác định pháp ngăn che, việc xác định năm uẩn, việc xác định xứ, việc xác định giác chi, việc xác định bốn đế. Trong số hai mươi mốt đề mục thiền định ấy, thì mười một đề mục thiền định là— niệm hơi thở, ba mươi hai thể trược, quan sát chín khía cạnh bất tịnh của tử thi thuộc đề mục thiền định đưa đến an chỉ định. Nhưng trưởng lão, vị biên soạn bộ Dīghanikāya nói rằng: “Đức Thế Tôn nói rằng quan sát chín khía cạnh bất tịnh của tử thi do tác động việc quán xét về tai hại”. Do đó, theo quan điểm của ngài, chỉ có niệm hơi thở và ba mươi hai thể trược là đề mục thiền định đưa đến an chỉ định, còn lại là đề mục thiền định đưa đến cận định. Sự cố chấp có khởi lên trong tất cả các đề mục thiền định hay không? — Không phải là không sanh khởi. Sự cố chấp không khởi lên trong các oai nghi, sự nhận biết rõ, các pháp ngăn che và các giác chi; nhưng khởi lên trong các đề mục thiền định còn lại. Tuy nhiên, theo Đại trưởng lão Mahāsiva, sự cố chấp cũng sanh khởi trong cả những đối tượng thiền định nói trên, vì hành giả xác định như vầy— “Bốn oai nghi có hiện hữu nơi ta hay không?; Bốn sự nhận biết rõ có hiện hữu nơi ta hay không?; Năm pháp ngăn che có hiện hữu nơi ta hay không?; Bảy giác chi có hiện hữu nơi ta hay không?” Do đó, sự cố chấp khởi lên trong tất cả các đề mục thiền định.

Yo hi koci, bhikkhaveti yo hi koci, bhikkhave, bhikkhu vā bhikkhunī vā upāsako vā upāsikā vā. Evaṃ bhāveyyātiādito paṭṭhāya vuttena bhāvanānukkamena bhāveyya. Pāṭikaṅkhanti paṭikaṅkhitabbaṃ icchitabbaṃ avassaṃbhāvīti attho. Aññāti arahattaṃ. Sati vā upādiseseti upādānasese vā sati aparikkhīṇe. Anāgāmitāti anāgāmibhāvo.

Này các tỳ khưu, bất cứ người nào: bất cứ ai dù là tỳ khưu, tỳ khưu ni, cận sự nam, hay cận sự nữ; Tu tập bốn sự thiết lập niệm này như vậy: cần phải thực hành theo trình tự tu tập thiền định đã được trình bày ngay từ đầu. Được chờ đợi: đáng được mong chờ, đáng được ước muốn, trạng thái chắc chắn. Trí giải thoát: phẩm vị A-ra-hán; Hoặc nếu còn dư sót: hoặc nếu vẫn còn dư sót (còn dư y quả uẩn) vẫn chưa hoàn toàn cạn kiệt (phiền não, v.v.,). Phẩm vị Bất Lai: Bản thể bậc thánh Bất Lai.

Evaṃ sattannaṃ vassānaṃ vasena sāsanassa niyyānikabhāvaṃ dassetvā puna tato appatarepi kāle dassento tiṭṭhantu, bhikkhavetiādimāha. Sabbampi cetaṃ majjhimassa veneyyapuggalassa vasena vuttaṃ, tikkhapaññaṃ pana sandhāya ‘‘pātova anusiṭṭho sāyaṃ visesaṃ adhigamissati, sāyaṃ anusiṭṭho pāto visesaṃ adhigamissatī’’ti vuttaṃ.

Sau khi thuyết giảng pháp dẫn dắt ra khỏi khổ đau trong thời gian bảy năm như vậy, để chỉ ra thời gian thực hành ngắn hơn nữa ngài mới nói rằng— “Này các tỳ khưu, hãy bỏ qua, v.v,.” và tất cả những lời nói ấy đức Thế Tôn nói dành cho hạng người có thể lãnh hội được giáo lý trung bình. Còn để cập đến đến những hạng người có tuệ sắc bén ngài nói rằng: “Những hạng người tiếp nhận lời dạy vào buổi sáng sẽ chứng đắc ân đức cao thượng vào buổi chiều; tiếp nhận lời dạy vào buổi chiều cũng sẽ chứng đắc ân đức cao thượng vào buổi sáng.

Iti bhagavā ‘‘evaṃ niyyānikaṃ, bhikkhave, mama sāsana’’nti dassetvā ekavīsatiyāpi ṭhānesu arahattanikūṭena desitaṃ desanaṃ niyyātento ‘‘ekāyano ayaṃ, bhikkhave, maggo…pe… iti yaṃ taṃ vuttaṃ, idametaṃ paṭicca vutta’’nti āha. Sesaṃ uttānatthamevāti. Desanāpariyosāne pana tiṃsa bhikkhusahassāni arahatte patiṭṭhahiṃsūti.

Đức Thế Tôn sau khi thuyết rằng: “Này các tỳ khưu, giáo pháp của Ta dẫn dắt người thực hành thoát khỏi mọi khổ đau” là như vậy, khi thuyết giảng bài pháp với đỉnh cao là bản thể A-ra-hán kết thúc ở hai mươi mốt trường hợp, mới nói rằng— “Này các tỳ khưu, đây là con đường độc đạo đưa đến sự thanh tịnh cho các chúng sinh, đưa đến sự vượt qua hẳn sầu và bi, đưa đến sự biến mất của khổ và ưu, đưa đến việc đạt được phương pháp, đưa đến việc chứng ngộ Niết Bàn, tức là ‘bốn sự thiết lập niệm,’ điều được nói là như thế, và điều này được nói liên quan đến điều ấy.” Những lời còn lại đều mang ý nghĩa đơn giản. Khi pháp thoại chấm dứt ba mươi nghìn vị tỳ khưu an trú vào quả vị A-ra-hán.

Giải thích Đại Kinh Thiết Lập Niệm được kết thúc – Kinh thứ chín (22)

Trong Chú Giải Trường Bộ Kinh là Sumaṅgalavilāsī.