Giảng giải Kinh Phạm Võng (Mạng lưới cao thượng) – Phần mở đầu

(Sīlakkhandhavagga)

Sumaṃgalavilāsinī – Giảng Giải Kinh Trường Bộ

  Xem Trường Bộ Kinh – Kinh Phạm Võng

Sīlakkhandhavagga – Phẩm Giới Uẩn

Kính đảnh lễ đức Thế Tôn, bậc A-ra-hán, đấng Chánh đẳng Chánh giác

 

Phần Mở Đầu – Ganthārambhakathā

 

Karuṇāsītalahadayaṃ, paññāpajjotavihatamohatamaṃ.

Sanarāmaralokagaruṃ, vande sugataṃ gativimuttaṃ.

Con xin đảnh lễ bậc Thiện Thệ, vị đã giải thoát khỏi các cảnh giới tái sanh[1] có trái tim mát mẻ cùng với lòng bi mẫn, sự tâm tối bởi si mê đã được phá tan bởi ngọn đèn trí tuệ, là bậc thầy của chư thiên cùng với loài người.

Buddhopi buddhabhāvaṃ, bhāvetvā ceva sacchikatvā ca.

Yaṃ upagato gatamalaṃ[2], vande tamanuttaraṃ dhammaṃ.

Chính Đức Phật đã phát triển và đã chứng ngộ bản thể của vị Phật, chứng đạt các Pháp nào mà xa lìa mọi trần cấu, con xin đảnh lễ Giáo Pháp tối thượng đó.

Sugatassa orasānaṃ, puttānaṃ mārasenamathanānaṃ.

Aṭṭhannampi samūhaṃ, sirasā vande ariyasaṅghaṃ.

Con xin đê đầu đảnh lễ chư Thánh Tăng, những người con đã được sinh ra của bậc Thiện Thệ,  tập hợp tám hạng người tính đơn (gồm bốn Đạo và bốn Quả), người đã nghiền nát các đạo binh của Ma Vương.

Iti me pasannamatino, ratanattayavandanāmayaṃ puññaṃ.

Yaṃ suvihatantarāyo, hutvā tassānubhāvena.

Phước báu nào được thành tựu do việc đảnh lễ Tam Bảo có ở nơi con, người có đức tin trong sạch; Do nhờ oai lực của phước báu đó, nguyện cho con tránh khỏi mọi nguy hiểm.

Dīghassa dīghasuttaṅkitassa, nipuṇassa āgamavarassa.

Buddhānubuddhasaṃvaṇṇitassa, saddhāvahaguṇassa.

Atthappakāsanatthaṃ, aṭṭhakathā ādito vasisatehi.

Pañcahi yā saṅgītā, anusaṅgītā ca pacchāpi.

Chú-giải nào đã được 500 vị Thánh A-ra-hán trùng tụng lần đầu tiên và trùng tụng lại sau đó, nhằm mục đích làm sáng tỏ ý nghĩa của Trường Bộ Kinh được đánh dấu với những bài Kinh có kích thước dài, chi tiết xinh đẹp, tuyệt vời hơn (về kết quả) những bộ Kinh khác được đức Phật và chư Thánh Thinh văn đệ tử tán dương mang lại giá trị trong việc vun bồi đức tin.

Sīhaḷadīpaṃ pana ābhatātha, vasinā Mahāmahindena.

Ṭhapitā Sīhaḷabhāsāya, Dīpavāsīnamatthāya.

Apanetvāna tatohaṃ, Sīhaḷabhāsaṃ manoramaṃ bhāsaṃ.

Tantinayānucchavikaṃ, āropento vigatadosaṃ.

Samayaṃ avilomento, therānaṃ theravaṃsapadīpānaṃ[3].

Sunipuṇavinicchayānaṃ, mahāvihāre nivāsīnaṃ.

Hitvā punappunāgatamatthaṃ, atthaṃ pakāsayissāmi.

Sujanassa ca tuṭṭhatthaṃ, ciraṭṭhitatthañca dhammassa.

Tuy nhiên, (Chú giải) đã được mang đến đảo Sīhaḷa bởi đại đức Mahinda (trong khi ngài) cư ngụ ở nói đó, rồi biên soạn lại bằng ngôn ngữ Sīhaḷa vì lợi ích cho tất cả người dân sống trên hòn đảo ấy. Sau đó, tôi mới dịch từ ngôn ngữ Sīhaḷa sang ngôn ngữ Magadha, chính xác (phù hợp với) nguyên tắc ngôn ngữ (Tam Tạng), không trái ngược (so với văn tự) vào thời kỳ của đại đức, người trở thành ngọn đèn của dòng dõi trưởng lão suy xét vô cùng sâu sắc, cho những vị cư trú ở tu viện lớn. Lược bỏ nội dung được lặp đi lặp lại nhiều lần, rồi giảng giải ý nghĩa vì mục đích (đem lại) sự thỏa mãn của các bậc hiền nhân và vì sự trường tồn của Giáo Pháp.

Sīlakathā dhutadhammā, kammaṭṭhānāni ceva sabbāni.

Cariyāvidhānasahito, jhānasamāpattivitthāro.

Sabbā ca abhiññāyo, paññāsaṅkalananicchayo[4] ceva.

Khandhadhātāyatanindriyāni, ariyāni ceva cattāri.

Saccāni paccayākāradesanā, suparisuddhanipuṇanayā.

Avimuttatantimaggā, vipassanā bhāvanā ceva.

Lời nói về giới, các Pháp đầu đà, và tất cả đề mục hành thiền, chi tiết về tầng thiền và sự chứng đạt, cùng với các phương pháp thực hành theo 6 khuynh hướng (tánh). Và tất cả các thắng trí, và sự phán đoán được thu thập bằng trí tuệ. Uẩn, Giới-dhātu, Xứ, Quyền, và bốn Chân lý. Việc thuyết giảng về pháp có điều kiện trợ sanh bằng những phương pháp hoàn toàn thanh tịnh và vô cùng vi tế, không nằm ngoài Kinh điển, và cả việc thực hành Minh sát.

Iti pana sabbaṃ yasmā, visuddhimagge mayā suparisuddhaṃ.

Vuttaṃ tasmā bhiyyo, na taṃ[5] idha vicārayissāmi.

“majjhe visuddhimaggo, esa catunnampi āgamānañhi.

Ṭhatvā pakāsayissati, tattha yathā bhāsitaṃ atthaṃ”.

Icceva kato tasmā, tampi gahetvāna saddhimetāya.

Aṭṭhakathāya vijānatha, dīghāgamanissitaṃ atthanti.

Thật vậy, toàn bộ những điều đó, đã được tôi trình bày trong bộ Thanh Tịnh Đạo vô cùng rõ ràng; Do vậy, ở đây tôi sẽ không xét đến điều đó thêm nữa. Bộ Thanh Tịnh Đạo này đã được đặt ở giữa bốn bộ Kinh[6], sau khi đã được biên soạn, nó sẽ được giải thích ở đây, y theo ý nghĩa của ngôn ngữ (trong 4 bộ Kinh đó). Do đó, đã được thực hiện như thế, mong tất cả các vị hãy cầm lấy bộ Thanh Tịnh Đạo cùng với Chú-giải này, để hiểu được ý nghĩa liên hệ với Trường Bộ.

 

Nidānakathā – Lời Giới Thiệu

Tattha dīghāgamo nāma sīlakkhandhavaggo, mahāvaggo, pāthikavaggoti[7] vaggato tivaggo hoti; suttato catuttiṃsasuttasaṅgaho. Tassa[8] vaggesu sīlakkhandhavaggo ādi, suttesu Brahmajālaṃ. Brahmajālassāpi “evaṃ me sutan”tiādikaṃ āyasmatā Ānandena paṭhamamahāsaṅgītikāle vuttaṃ nidānamādi.

Ở đây, Dīghāgama (Trường Bộ Kinh) có 3 phẩm là Sīlakkhandhavagga – Phẩm Giới Uẩn, Mahāvagga – Đại Phẩm, Pāthikavagga – Phẩm Pāthika; nói theo Kinh có 34 bài Kinh. Trong các Phẩm đó thì Phẩm Giới Uẩn là phẩm đầu tiên, trong tất cả các bài Kinh thì bài Kinh Brahmajāla [Phạm Võng, hay Mạng Lưới Cao Thượng] là bài Kinh đầu tiên. Trong bài Kinh Brahmajāla, được bắt đầu bằng: “Tôi đã nghe như vầy…” đó là lời chứng nhận được nói bởi đại đức Ānanda vào thời kỳ đại kết tập lần thứ nhất.

 

Paṭhamamahāsaṅgītikathā – Việc Triệu Tập Kết Tập Lần Thứ Nhất.

Paṭhamamahāsaṅgīti nāma cesā kiñcāpi vinayapiṭake tantimārūḷhā, nidānakosallatthaṃ pana idhāpi evaṃ veditabbā. Dhammacakkappavattanañhi ādiṃ katvā yāva Subhaddaparibbājakavinayanā katabuddhakicce, Kusinārāyaṃ upavattane Mallānaṃ sālavane yamakasālānamantare Visākhapuṇṇamadivase[9] paccūsasamaye anupādisesāya nibbānadhātuyā parinibbute Bhagavati lokanāthe, Bhagavato dhātubhājanadivase sannipatitānaṃ sattannaṃ bhikkhusatasahassānaṃ saṅghatthero āyasmā Mahākassapo sattāhaparinibbute Bhagavati Subhaddena vuḍḍhapabbajitena — “alaṃ, āvuso, mā socittha, mā paridevittha, sumuttā mayaṃ tena mahāsamaṇena, upaddutā ca homa — ‘idaṃ vo kappati, idaṃ vo na kappatī’ti, idāni pana mayaṃ yaṃ icchissāma, taṃ karissāma, yaṃ na icchissāma na taṃ karissāmā”ti[10] vuttavacanamanussaranto, īdisassa ca saṅghasannipātassa puna dullabhabhāvaṃ maññamāno, “ṭhānaṃ kho panetaṃ vijjati, yaṃ pāpabhikkhū ‘atītasatthukaṃ pāvacanan’ti maññamānā pakkhaṃ labhitvā nacirasseva saddhammaṃ antaradhāpeyyuṃ, yāva ca dhammavinayo tiṭṭhati, tāva anatītasatthukameva pāvacanaṃ hoti. Vuttañhetaṃ bhagavatā —

Cuộc kết tập lần thứ nhất này, mặc dù đã được ghi lại trong Tạng Luật, thật như vậy cũng nên hiểu ý nghĩa này vì sự khéo léo trong phần giới thiệu. Khi đức Thế Tôn là bậc lãnh đạo thế gian, ngài đã thực hành tất cả các phận sự của một vị Phật tính từ lúc chuyển vận bánh xe Pháp cho đến khi tế độ du sĩ ngoại đạo Subhadda rồi viên tịch Nibbāna trong cảnh giới Nibbāna không còn dư sót lúc gần hừng sáng vào ngày trăng tròn Visākha ở khoảng giữa hai cây Sālā trong khu rừng Sālā xứ Mallā gần thành Kusinārā, Đại đức Mahākassapa, giữa Tăng chúng gồm bảy trăm ngàn vị Tỳ khưu đã vân tập vào ngày phân chia Xá-lợi của Đức Thế Tôn, suy nghĩ đến những lời nói được nói bởi Subhadda, vị xuất gia lúc tuổi già sau khi đức Phật viên tịch Nibbāna được bảy ngày (nói rằng): “Thôi đi! Này các hiền giả, các ông chớ có buồn rầu, chớ có than vãn nữa. Chúng ta được hoàn toàn thoát khỏi vị đại Sa-môn ấy rồi. Và chúng ta đã bị làm khó dễ rằng: ‘Điều này được phép cho các ngươi, điều này không được phép cho các ngươi.’ Giờ đây, chúng ta sẽ làm những điều chúng ta thích, chúng ta sẽ không làm những điều chúng ta không thích.” Ngài suy xét thấy rằng hội họp của Tăng chúng một số lượng nhiều như vầy sẽ rất khó lặp lại, trong khi suy nghĩ: “các tỳ khưu xấu xa vì cho rằng ‘giáo pháp đã không còn Thầy,’ sẽ kết thành phe đảng và không bao lâu sẽ làm cho Chánh pháp biến mất. Chừng nào Pháp và Luật còn tồn tại, chừng đó giáo pháp vẫn được xem là có Thầy’”. Điều này được đức Thế Tôn thuyết rằng:

‘Yo vo, Ānanda, mayā dhammo ca vinayo ca desito paññatto, so vo mamaccayena satthā’ti[11].

‘Yaṃnūnāhaṃ dhammañca vinayañca saṅgāyeyyaṃ, yathayidaṃ sāsanaṃ addhaniyaṃ assa ciraṭṭhitikaṃ’.

Yañcāhaṃ bhagavatā —

‘Dhāressasi pana me tvaṃ, Kassapa, sāṇāni paṃsukūlāni nibbasanānī’ti[12] vatvā cīvare sādhāraṇaparibhogena.

‘Này Ānanda, Pháp và Luật nào đã được thuyết giảng, đã được quy định bởi Ta, Pháp và Luật ấy, sau khi Ta tịch diệt, là bậc Đạo Sư của các ngươi.’

‘Hay là ta nên trùng tụng Pháp và Luật, nhờ thế Giáo Pháp có thể được lưu truyền và tồn tại lâu dài’.

Và chính ta được đức Thế Tôn thuyết rằng: –

‘Này Kassapa, ông có thể bận được tấm y thô cũ rách được làm từ các mảnh vải bị quăng bỏ của ta không?” (điều này) nói đến việc sử dụng chung y phục.

‘Ahaṃ, bhikkhave, yāvadeva[13] ākaṅkhāmi vivicceva kāmehi vivicca akusalehi dhammehi savitakkaṃ savicāraṃ vivekajaṃ pītisukhaṃ paṭhamaṃ jhānaṃ upasampajja viharāmi; Kassapopi, bhikkhave, yāvadeva, ākaṅkhati vivicceva kāmehi vivicca akusalehi dhammehi savitakkaṃ savicāraṃ vivekajaṃ pītisukhaṃ paṭhamaṃ jhānaṃ upasampajja viharatī’ti[14].

Này chư Tỳ khưu, cho đến khi nào Ta mong muốn, ngay sau khi viễn ly khỏi các dục, viễn ly khỏi các bất thiện pháp, chứng đạt và an trú thiền thứ nhất, có tầm, có tứ, có hỷ lạc sanh lên do sự tách ly; Này chư Tỳ khưu, Kassapa cũng vậy, cho đến khi nào, (vị ấy) mong muốn, ngay sau khi viễn ly khỏi các dục, viễn ly khỏi các bất thiện pháp, chứng đạt và an trú thiền thứ nhất, có tầm, có tứ, có hỷ lạc sanh lên do sự viễn ly.

Evamādinā nayena navānupubbavihārachaḷabhiññāppabhede uttarimanussadhamme attanā samasamaṭṭhapanena ca anuggahito, tathā ākāse pāṇiṃ cāletvā alaggacittatāya ceva candopamapaṭipadāya ca pasaṃsito, tassa kimaññaṃ āṇaṇyaṃ[15] bhavissati. Nanu maṃ Bhagavā rājā viya sakakavacaissariyānuppadānena attano kulavaṃsappatiṭṭhāpakaṃ puttaṃ ‘saddhammavaṃsappatiṭṭhāpako me ayaṃ bhavissatī’ti, mantvā iminā asādhāraṇena anuggahena anuggahesi, imāya ca uḷārāya pasaṃsāya pasaṃsīti cintayanto dhammavinayasaṅgāyanatthaṃ bhikkhūnaṃ ussāhaṃ janesi. Yathāha —

Suy tư rằng: “[Ta] đã được Đức Thế Tôn ưu ái, đặt ngang hàng với chính Ngài về các pháp thượng nhân, bao gồm 9 sự an trú theo tuần tự và về 6 thắng trí v.v, theo phương thức bắt đầu như thế. Hơn thế nữa, được tán thán là vị có tâm không vướng bận việc gia đình, giống như rung lắc tay trong hư không và với đạo lộ thực hành như mặt trăng, việc giúp đỡ và tán thán y như của ta. Vậy, ngoài việc kết tập [Pháp và Luật], còn có cách nào khác để ta đáp đền ân đức này? Đức Thế Tôn biết đến ta không phải sao? Giống như đức vua truyền trao lại Long bào và vương quyền của mình cho hoàng tử, người sẽ bảo vệ dòng dõi, (cũng vậy) ‘Kassapa này sẽ trở thành người củng cố về dòng dõi Chánh Pháp của ta”, Suy tư như vậy, Ngài (Mahākassapa) đã khơi dậy lòng nhiệt thành nơi chư Tỳ khưu để tiến hành kết tập Pháp và Luật. Như lời kể rằng:

“Atha kho āyasmā Mahākassapo bhikkhū āmantesi — ‘ekamidāhaṃ, āvuso, samayaṃ pāvāya kusināraṃ addhānamaggappaṭipanno mahatā bhikkhusaṅghena saddhiṃ pañcamattehi bhikkhusatehī”ti[16] sabbaṃ Subhaddakaṇḍaṃ vitthārato veditabbaṃ. Atthaṃ panassa mahāparinibbānāvasāne āgataṭṭhāneyeva kathayissāma.

“Khi ấy, đại đức Mahākassapa đã bảo chư Tỳ khưu rằng – ‘Này các sư đệ, vào lúc ấy ta đang thực hiện cuộc hành trình đường xa từ Pāvā đi Kusinārā cùng với đại chúng tỳ khưu có số lượng năm trăm vị Tỳ khưu.’ Toàn bộ chương Subhadda, bậc hiền nhân nên hiểu một cách chi tiết. Tuy nhiên, tôi sẽ nói về nội dung của chương Subhadda ấy ra vào lúc kết thúc bài Kinh Đại Bát Nibbāna.

Tato paraṃ āha —

“Handa mayaṃ, āvuso, dhammañca vinayañca saṅgāyāma, pure adhammo dippati[17], dhammo paṭibāhiyyati[18]; pure avinayo dippati, vinayo paṭibāhiyyati; pure adhammavādino balavanto honti, dhammavādino dubbalā honti, pure avinayavādino balavanto honti, vinayavādino dubbalā hontī”ti.[19]

Kể từ đó, đại đức Mahākassapa đã nói rằng –

“Này các sư đệ, vậy chúng ta hãy trùng tụng Pháp và Luật trước khi điều phi Pháp phát triển và Pháp bị suy tàn, trước khi điều phi Luật phát triển và Luật bị suy tàn, trước khi những kẻ nói về phi Pháp trở nên mạnh mẽ và những người nói về Pháp yếu đi, trước khi những kẻ nói về phi Luật trở nên mạnh mẽ và những người nói về Luật yếu đi.”

Bhikkhū āhaṃsu — “tena hi, bhante, thero bhikkhū uccinatū”ti. Thero pana sakalanavaṅgasatthusāsanapariyattidhare puthujjanasotāpannasakadāgāmianāgāmi sukkhavipassaka khīṇāsavabhikkhū anekasate, anekasahasse ca vajjetvā tipiṭakasabbapariyattippabhedadhare paṭisambhidāppatte mahānubhāve yebhuyyena bhagavato etadaggaṃ āropite tevijjādibhede khīṇāsavabhikkhūyeva ekūnapañcasate pariggahesi. Ye sandhāya idaṃ vuttaṃ — “Atha kho āyasmā Mahākassapo ekenūnāni[20] pañca arahantasatāni uccinī”ti.[21]

Chư Tỳ khưu đã nói rằng – “Thưa ngài, chính vì điều ấy xin vị đại đức hãy tuyển chọn các tỳ khưu.”

Bấy giờ, Trưởng lão (Mahākassapa) đã bỏ qua hàng trăm, hàng ngàn vị Tỳ khưu khác—dù họ là phàm phu, Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, hay cả những bậc A-la-hán Thuần quán (sukkhavipassaka) đã thông thuộc toàn bộ Cửu phần giáo pháp (navaṅga-satthusāsana) của Đức Đạo Sư.

Thay vào đó, Ngài chỉ tuyển chọn 499 vị. Tất cả các vị này đều là những bậc A-la-hán đã chứng đắc Tứ Tuệ Phân Tích (Paṭisambhidā), có đại oai lực, thông suốt toàn bộ Tam Tạng, và phần lớn là những vị đã được Đức Thế Tôn tuyên dương là bậc nhất trong các lĩnh vực như Tam minh (Tevijja).

Chính sự kiện này đã được ghi lại rằng:  “Khi ấy đại đức Mahākassapa đã tuyển chọn năm trăm vị Thánh A-ra-hán thiếu một (tức bốn trăm chín mươi chín vị)”

Kissa pana thero ekenūnamakāsīti? Āyasmato Ānandattherassa okāsakaraṇatthaṃ. Tenahāyasmatā sahāpi, vināpi, na sakkā dhammasaṅgītiṃ kātuṃ. So hāyasmā sekkho sakaraṇīyo, tasmā sahāpi na sakkā. Yasmā panassa kiñci[23] dasabaladesitaṃ[24] suttageyyādikaṃ appaccakkhaṃ nāma natthi. Yathāha —

“Dvāsīti[25] buddhato gaṇhiṃ, dve sahassāni bhikkhuto.

Caturāsīti sahassāni, ye me dhammā pavattino”ti.[26]  Tasmā vināpi na sakkā.

Vì sao trưởng lão [Mahākassapa] lại tuyển chọn thiếu một vị? Nhằm tạo cơ hội cho đại đức Ānanda. Bởi vì cần phải có đại đức Ānanda, (nếu như) thiếu (đại đức Ānanda), thì không thể thực hiện cuộc kết tập về Giáo Pháp. Do đại đức Ānanda là vị Hữu học vẫn còn phận sự cần phải làm nên mới không thể tham gia. Mà cũng không thể vắng mặt ngài, vì không có một lời dạy nào của Đấng Thập Lực—từ Kinh (Sutta) đến Kệ (Geyya)—mà ngài không trực tiếp am tường. Như lời [ngài đã nói]

“Tám mươi hai ngàn [pháp] tôi nhận từ Phật,
Hai ngàn [pháp] nữa từ chư Tỳ khưu.
Tổng cộng tám mươi bốn ngàn pháp,
Là kho tàng Pháp mà tôi nắm vững.”

Cho nên, nếu loại bỏ đại đức Ānanda thì không thể thực hiện được.

Yadi evaṃ sekkhopi samāno dhammasaṅgītiyā bahukārattā therena uccinitabbo assa, atha kasmā na uccinitoti? Parūpavādavivajjanato. Thero hi āyasmante Ānande ativiya vissattho ahosi, tathā hi naṃ sirasmiṃ palitesu jātesupi ‘na vāyaṃ[27] kumārako mattamaññāsī’ti[28], kumārakavādena ovadati. Sakyakulappasuto cāyasmā Tathāgatassa bhātā cūḷapituputto. Tattha keci bhikkhū chandāgamanaṃ viya maññamānā — “bahū asekkhapaṭisambhidāppatte bhikkhū ṭhapetvā Ānandaṃ sekkhapaṭisambhidāppattaṃ thero uccinī”ti upavadeyyuṃ. Taṃ parūpavādaṃ parivajjento, ‘Ānandaṃ vinā dhammasaṅgītiṃ na sakkā kātuṃ, bhikkhūnaṃyeva naṃ anumatiyā gahessāmī’ti na uccini.

Nếu như vậy, mặc dù đại đức vẫn còn là vị Hữu học, cũng xứng đáng được chọn lựa bởi vị đại đức vì là người có nhiều sự trợ giúp trong việc kết tập, nhưng tại sao vị ấy lại không được chọn lựa? Bởi vì để tránh lời khiển trách của người khác. Thật sự thì trưởng lão [Mahākassapa] vô cùng thân thiết với đại đức Ānanda, ngay cả khi tóc bạc mọc trên đầu của đại đức Ānanda (tuy nhiên) thì trưởng lão [Mahākassapa] vẫn gọi ngài với từ đứa bé trai trong câu sau ‘đứa bé trai này không biết chừng mực”, và hơn nữa đại đức Ānanda sanh trong dòng dõi Sakya là em trai của đức Như Lai, là con trai của Hoàng thúc. Trong việc lựa chọn Ānanda ấy một số vị Tỳ khưu suy nghĩ giống như kiểu thiên vị vì thương họ sẽ khiển trách rằng: – “Trưởng lão Mahākassapa không để ý đến nhiều vị Tỳ khưu Vô học chứng đắc bốn tuệ phân tích rồi tuyển chọn đại đức Ānanda bậc Hữu học chứng đắc tứ tuệ phân tích.” Để tránh lời khiển trách ấy, đại đức Mahākassapa đã không tuyển chọn (đại đức Ānanda do xét thấy rằng): ‘(nếu) không có đại đức Ānanda thì không thể thực hiện cuộc kết tập về Giáo Pháp, ta sẽ chấp nhận vị ấy với sự cho phép của chư Tỳ khưu’.

Atha sayameva bhikkhū Ānandassatthāya theraṃ yāciṃsu. Yathāha —

“Bhikkhū āyasmantaṃ Mahākassapaṃ etadavocuṃ — ‘Ayaṃ, bhante, āyasmā Ānando kiñcāpi sekkho abhabbo chandā dosā mohā bhayā agatiṃ gantuṃ, bahu cānena Bhagavato santike dhammo ca vinayo ca pariyatto, tena hi, bhante, thero āyasmantampi ānandaṃ uccinatū’ti. atha kho āyasmā mahākassapo āyasmantampi ānandaṃ uccinī”ti.[29]

Khi ấy chư Tỳ khưu cùng nhau khẩn cầu đại đức [Mahākassapa] chọn đại đức Ānanda. Như đã nói –

“Các vị Tỳ khưu đã nói với đại đức Mahākassapa điều này: – “Thưa ngài, đại đức Ānanda này tuy còn là bậc Hữu Học nhưng cũng không đi đến cảnh giới tái sanh bởi tham, bởi sân, bởi si mê, bởi sợ hãi. Và vị này thuộc lòng nhiều Pháp và Luật từ đức Thế Tôn. Thưa ngài, chính vì điều ấy xin trưởng lão hãy vì lòng từ mẫn tuyển chọn luôn cả đại đức Ānanda.”

Evaṃ bhikkhūnaṃ anumatiyā uccinitena tenāyasmatā saddhiṃ pañcatherasatāni ahesuṃ.

Atha kho therānaṃ bhikkhūnaṃ etadahosi — “kattha nu kho mayaṃ dhammañca vinayañca saṅgāyeyyāmā”ti? atha kho therānaṃ bhikkhūnaṃ etadahosi — “rājagahaṃ kho mahāgocaraṃ pahūtasenāsanaṃ, yaṃnūna mayaṃ rājagahe vassaṃ vasantā dhammañca vinayañca saṅgāyeyyāma, na aññe bhikkhū rājagahe vassaṃ upagaccheyyun”ti[30].

Theo phương thức đã nói mới có năm trăm vị trưởng lão tính cả đại đức Ānanda được đại đức [Mahākassapa] tuyển chọn với sự cho phép của chư Tỳ khưu.

Sau đó, các vị Tỳ khưu trưởng lão đã khởi ý điều này: – “Chúng ta nên trùng tụng Pháp và Luật ở đâu?” Khi ấy, các vị Tỳ khưu trưởng lão đã khởi ý điều này: “Thành Rājagaha quả là có khu vực khất thực rộng lớn, có nhiều chỗ trú ngụ; vậy thì chúng ta có thể trùng tụng Pháp và Luật trong khi an cư mùa mưa ở thành Rājagaha, chư tỳ khưu khác không thể đi đến an cư mùa mưa ở thành Rājagaha?”

Kasmā pana nesaṃ etadahosi? “idaṃ pana amhākaṃ thāvarakammaṃ, koci visabhāgapuggalo saṅghamajjhaṃ pavisitvā ukkoṭeyyā”ti. Athāyasmā Mahākassapo ñattidutiyena kammena sāvesi —

Tại sao những vị Tỳ khưu trưởng lão ấy khởi ý điều như vậy? Bởi vì những vị Tỳ khưu trưởng lão ấy có những suy nghĩ đối lập nhau rằng: “việc trùng tụng Pháp và Luật này là hành động lâu dài của chúng ta, một số hạng người đối nghịch sau khi vào giữa Hội Chúng có thể khơi lại”. Sau đó, đại đức Mahākassapa thông báo đến chư Tỳ khưu biết bằng hành sự với lời thông báo đến lần thứ hai.

“Suṇātu me, āvuso saṅgho, yadi saṅghassa pattakallaṃ saṅgho imāni pañca bhikkhusatāni sammanneyya Rājagahe vassaṃ vasantāni[31] dhammañca vinayañca saṅgāyituṃ, na aññehi bhikkhūhi rājagahe vassaṃ vasitabban”ti. esā ñatti.

“Suṇātu me, āvuso saṅgho, saṅgho imāni pañcabhikkhusatāni sammanna”ti ‘rājagahe vassaṃ vasantāni dhammañca vinayañca saṅgāyituṃ, na aññehi bhikkhūhi rājagahe vassaṃ vasitabbanti. yassāyasmato khamati imesaṃ pañcannaṃ bhikkhusatānaṃ sammuti[32]’ Rājagahe vassaṃ vasantānaṃ dhammañca vinayañca saṅgāyituṃ, na aññehi bhikkhūhi rājagahe vassaṃ vasitabbanti, so tuṇhassa; yassa nakkhamati, so bhāseyya.

“Sammatāni saṅghena imāni pañcabhikkhusatāni rājagahe vassaṃ vasantāni dhammañca vinayañca saṅgāyituṃ, na aññehi bhikkhūhi rājagahe vassaṃ vasitabbanti, khamati saṅghassa, tasmā tuṇhī, evametaṃ dhārayāmī”ti.[33]

“Này các sư đệ, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên chỉ định năm trăm vị Tỳ khưu này để trùng tụng Pháp và Luật trong khi an cư mùa mưa ở thành Rājagaha, những vị Tỳ khưu khác không được an cư mùa mưa ở thành Rājagaha.” Đây là lời đề nghị.

Này các sư đệ, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Hội chúng chỉ định năm trăm vị Tỳ khưu này để trùng tụng Pháp và Luật trong khi an cư mùa mưa ở thành Rājagaha, ‘các Tỳ khưu khác không được an cư mùa mưa ở thành Rājagaha.’ Vị nào đồng ý việc chỉ định năm trăm vị tỳ khưu này để trùng tụng Pháp và Luật trong khi an cư mùa mưa ở thành Rājagaha, ‘các vị Tỳ khưu khác không được an cư mùa mưa ở thành Rājagaha’ xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.

Năm trăm vị Tỳ khưu này đã được hội chúng chỉ định để trùng tụng Pháp và Luật trong khi an cư mùa mưa ở thành Rājagaha, ‘các Tỳ khưu khác không được an cư mùa mưa ở thành Rājagaha.’ Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”

Ayaṃ pana kammavācā Tathāgatassa parinibbānato ekavīsatime divase katā. Bhagavā hi visākhapuṇṇamāyaṃ paccūsasamaye parinibbuto, athassa sattāhaṃ suvaṇṇavaṇṇaṃ sarīraṃ gandhamālādīhi pūjayiṃsu. Evaṃ sattāhaṃ sādhukīḷanadivasā nāma ahesuṃ. Tato sattāhaṃ citakāya agginā jhāyi, sattāhaṃ sattipañjaraṃ katvā sandhāgārasālāyaṃ[34] dhātupūjaṃ kariṃsūti, ekavīsati divasā gatā. Jeṭṭhamūla-sukkapakkha-pañcamiyaṃyeva dhātuyo bhājayiṃsu. Etasmiṃ dhātubhājanadivase sannipatitassa mahābhikkhusaṅghassa Subhaddena vuḍḍhapabbajitena kataṃ anācāraṃ ārocetvā vuttanayeneva ca bhikkhū uccinitvā ayaṃ kammavācā katā.

Tuyên ngôn hành sự này đại đức Mahākassapa thực hiện vào ngày thứ 21 sau khi đấng Như Lai viên tịch Nibbāna.

Việc này là vì: Đức Thế Tôn nhập diệt vào lúc rạng đông ngày trăng tròn tháng Visākha. Sau đó, trong bảy ngày, người ta đã cử hành lễ cúng dường kim thân sắc vàng của Ngài với hương và hoa. Như vậy, đã có bảy ngày được gọi là “ngày lễ tôn kính” (sādhukīḷanadivasā).

Tiếp theo, kim thân được hỏa táng trong bảy ngày. Sau đó, Các vị vua xứ Malla dựng một hàng rào bằng giáo và cử hành lễ cúng dường Xá-lợi tại giảng đường Sandhāgāra trong bảy ngày nữa.

Như vậy, hai mươi mốt ngày đã trôi qua. Vào đúng ngày mùng 5 của thượng tuần (sukkapakkha) tháng Jeṭṭhamūla, Xá-lợi đã được phân chia.

Vào chính ngày phân chia Xá-lợi đó, trước Đại Tăng chúng đã vân tập, [Đại đức Mahākassapa] đã trình bày về hành vi không đúng đắn của Tỳ khưu già Subhadda. Sau đó, Ngài tuyển chọn các vị Tỳ khưu theo phương thức đã được thuật lại, và Tuyên ngôn hành sự này đã được thực hiện.

Imañca pana kammavācaṃ katvā thero bhikkhū āmantesi — “āvuso, idāni tumhākaṃ cattālīsa divasā okāso kato, tato paraṃ ‘ayaṃ nāma no palibodho atthī’ti, vattuṃ na labbhā, tasmā etthantare yassa rogapalibodho vā ācariyupajjhāyapalibodho vā mātāpitupalibodho vā atthi, pattaṃ vā pana pacitabbaṃ, cīvaraṃ vā kātabbaṃ, so taṃ palibodhaṃ chinditvā taṃ karaṇīyaṃ karotū”ti.

Hơn nữa sau khi thực hiện tuyên ngôn hành sự này trưởng lão đã nói chư Tỳ khưu biết rằng: – “Này các sư đệ, bây giờ tôi cho các sư đệ thời gian bốn mươi ngày kể từ ngày hôm nay trở đi, các sư đệ không được nói rằng: ‘tôi vẫn có sự vướng bận thế này’, vì thế, trong khoảng thời gian này, vị nào còn vướng bận về bệnh tật, về thầy Bổn sư (ācariya) và thầy Tế độ (upajjhāya), hay về cha mẹ; hoặc cần phải nung bát hay may y, thì hãy giải quyết những vướng bận đó và hoàn tất các việc cần làm ấy đi.”

Evañca pana vatvā thero attano pañcasatāya parisāya parivuto Rājagahaṃ gato. Aññepi mahātherā attano attano parivāre gahetvā sokasallasamappitaṃ mahājanaṃ assāsetukāmā taṃ taṃ disaṃ pakkantā. Puṇṇatthero pana sattasatabhikkhuparivāro ‘Tathāgatassa parinibbānaṭṭhānaṃ āgatāgataṃ mahājanaṃ assāsessāmī’ti Kusinārāyaṃyeva aṭṭhāsi.

Nói vậy rồi, Trưởng lão cùng với 500 vị trong hội chúng của mình lên đường đến thành Rājagaha (Vương Xá). Các vị Đại Trưởng lão khác cũng dẫn theo đoàn tùy tùng của mình, rồi tỏa đi các phương, với mong muốn an ủi dân chúng đang chìm trong sầu muộn.

Riêng Trưởng lão Puṇṇa, cùng với 700 Tỳ khưu tùy tùng, đã quyết định ở lại chính tại Kusinārā, với ý nguyện: “Ta sẽ ở lại để an ủi những người dân đến và đi tại nơi Đức Như Lai nhập diệt.”

Āyasmā Ānando yathā pubbe aparinibbutassa, evaṃ parinibbutassāpi bhagavato sayameva pattacīvaramādāya pañcahi bhikkhusatehi saddhiṃ yena sāvatthi tena cārikaṃ pakkāmi. Gacchato gacchato panassa parivārā bhikkhū gaṇanapathaṃ vītivattā. Tenāyasmatā gatagataṭṭhāne mahāparidevo ahosi . Anupubbena pana sāvatthimanuppatte there Sāvatthivāsino manussā “Thero kira āgato”ti sutvā gandhamālādihatthā paccuggantvā — “Bhante[35], Ānanda, pubbe Bhagavatā saddhiṃ āgacchatha, ajja kuhiṃ bhagavantaṃ ṭhapetvā āgatatthā”tiādīni vadamānā parodiṃsu. Buddhassa Bhagavato parinibbānadivase viya mahāparidevo ahosi.

Còn đại đức Ānanda đã cầm lấy bình bát và mang y phục của đức Thế Tôn dầu ngài đã viên tịch Nibbāna giống như ngài vẫn chưa tịch diệt Nibbāna đi đến thành Sāvatthī cùng với chùng Tỳ khưu 500 vị. Khi đại đức Ānanda đang đi thì hội chúng Tỳ khưu càng ngày càng trở nên nhiều hơn đến mức không thể đếm được. Ở khu vực nơi đại đức Ānanda bước đi đều có tiếng than khóc to lớn. Trong khi trưởng lão đi đến thành Sāvatthī thì mọi người trong thành Sāvatthī đều biết rằng “Trưởng lão Ānanda đã đến” đã cùng nhau cầm vật thơm và tràng hoa v.v, đến tiếp rước, sau đó khóc lóc than vãn rằng: “Kính bạch ngài Ānanda, trước đây ngài đến cùng với đức Thế Tôn, sao hôm nay ngài đã bỏ đức Thế Tôn ở đâu mà chỉ đến một mình vậy?” Đã có sự than khóc to lớn giống như ngày viên tịch Nibbāna của đức Thế Tôn.

Tatra sudaṃ āyasmā Ānando aniccatādipaṭisaṃyuttāya dhammiyākathāya taṃ mahājanaṃ saññāpetvā jetavanaṃ pavisitvā Dasabalena vasitagandhakuṭiṃ vanditvā dvāraṃ vivaritvā mañcapīṭhaṃ nīharitvā papphoṭetvā gandhakuṭiṃ sammajjitvā milātamālākacavaraṃ chaḍḍetvā mañcapīṭhaṃ atiharitvā puna yathāṭhāne ṭhapetvā bhagavato ṭhitakāle karaṇīyaṃ vattaṃ sabbamakāsi. Kurumāno ca nhānakoṭṭhaka[36] sammajjana-udakupaṭṭhāpanādikālesu gandhakuṭiṃ vanditvā — “Nanu Bhagavā, ayaṃ tumhākaṃ nhānakālo, ayaṃ dhammadesanākālo, ayaṃ bhikkhūnaṃ ovādadānakālo, ayaṃ sīhaseyyakappanakālo[37], ayaṃ mukhadhovanakālo”tiādinā nayena paridevamānova akāsi, yathā taṃ bhagavato guṇagaṇāmatarasaññutāya patiṭṭhitapemo ceva akhīṇāsavo ca anekesu ca jātisatasahassesu aññamaññassūpakārasañjanitacittamaddavo. Tamenaṃ aññatarā devatā — “bhante, Ānanda, tumhe evaṃ paridevamānā kathaṃ aññe assāsessathā”ti saṃvejesi. So tassā vacanena saṃviggahadayo santhambhitvā tathāgatassa parinibbānato pabhuti ṭhānanisajjabahulattā ussannadhātukaṃ kāyaṃ samassāsetuṃ dutiyadivase khīravirecanaṃ pivitvā vihāreyeva nisīdi. Yaṃ sandhāya Subhena māṇavena pahitaṃ māṇavakaṃ etadavoca —

Khi đó, [tại Sāvatthī], Đại đức Ānanda đã dùng một bài pháp thoại về vô thường để an ủi đại chúng. Sau đó, ngài vào tu viện Jetavana, đảnh lễ Hương Thất (Gandhakuṭi) nơi Đấng Thập Lực từng an trú. Ngài mở cửa, mang giường ghế ra ngoài phủi bụi, quét dọn sạch sẽ, vứt bỏ hoa héo và rác, rồi kê lại giường ghế vào đúng vị trí cũ. Ngài đã làm tất cả mọi phận sự như thể Đức Thế Tôn vẫn còn tại thế.

Trong khi làm những việc như quét dọn nhà tắm và chuẩn bị nước, ngài không khỏi than khóc trong lòng: “Bạch Đức Thế Tôn, giờ này đáng lẽ là giờ Ngài đi tắm, giờ này là giờ Ngài thuyết pháp, giờ này là giờ Ngài ban giáo huấn cho chư Tỳ khưu, giờ này là giờ Ngài nhập thế nằm của sư tử, giờ này là giờ Ngài rửa mặt…”

Ngài than khóc đến như vậy là vì: ngài có tình yêu thương sâu đậm, được vun bồi từ việc cảm nhận hương vị bất tử trong các ân đức của Phật; ngài vẫn chưa phải là bậc A-la-hán; và ngài có một trái tim mềm mỏng, được hun đúc qua vô số kiếp tương trợ lẫn nhau.

Thấy vậy, một vị thiên nữ đã khiến ngài thức tỉnh bằng lời nói: “Bạch Đại đức Ānanda, ngài cứ than khóc như thế thì làm sao an ủi được người khác?”

Được lời ấy làm cho chấn động, ngài Ānanda đã nén lòng lại. Vào ngày hôm sau, để làm dịu cơ thể vốn đang xáo động do phải đứng và ngồi quá nhiều kể từ khi Đức Như Lai nhập diệt, ngài đã uống một liều thuốc xổ có pha sữa rồi nghỉ ngơi tại tịnh xá.

Chính vì vừa uống thuốc, nên khi người thanh niên do Subha phái đến, ngài đã nói rằng:

“Akālo, kho māṇavaka, atthi me ajja bhesajjamattā pītā, appeva nāma svepi upasaṅkameyyāmā”ti[38].

“Này cậu thanh niên trẻ, không phải là thời điểm thích hợp, hôm nay, ta đã uống một lượng thuốc xổ. Có lẽ vào ngày mai chúng ta có thể đi”

Dutiyadivase Cetakattherena pacchāsamaṇena gantvā subhena māṇavena puṭṭho imasmiṃ Dīghanikāye Subhasuttaṃ nāma dasamaṃ suttaṃ abhāsi.

Atha Ānandatthero Jetavanamahāvihāre khaṇḍaphullappaṭisaṅkharaṇaṃ kārāpetvā upakaṭṭhāya vassūpanāyikāya bhikkhusaṅghaṃ ohāya Rājagahaṃ gato tathā aññepi dhammasaṅgāhakā bhikkhūti. Evañhi gate, te sandhāya ca idaṃ vuttaṃ — “atha kho therā bhikkhū rājagahaṃ agamaṃsu, dhammañca vinayañca saṅgāyitun”ti.[39] Te Āsaḷhīpuṇṇamāyaṃ[40] uposathaṃ katvā pāṭipadadivase sannipatitvā vassaṃ upagacchiṃsu.

Vào ngày hôm sau, Đại đức Ānanda, với Trưởng lão Cetaka làm thị giả, đã đến gặp thanh niên Subha. Sau khi được Subha đặt câu hỏi, ngài đã thuyết bài kinh thứ mười trong Trường Bộ Kinh, tức là Kinh Subha.

Sau đó, khi mùa an cư sắp đến, Trưởng lão Ānanda đã cho người sửa chữa những chỗ hư hỏng tại Đại tịnh xá Jetavana, rồi từ biệt Tăng chúng để lên đường đến thành Rājagaha. Các vị Tỳ khưu khác, những người sẽ tham gia kết tập, cũng làm tương tự.

Chính việc họ cùng đi đến đó đã được ghi lại trong kinh văn rằng: “Bấy giờ, các vị Trưởng lão Tỳ khưu đã đi đến thành Rājagaha để kết tập Pháp và Luật.”

Các vị ấy đã cử hành lễ Bố-tát (Uposatha) vào ngày rằm tháng Āsaḷha. Vào ngày hôm sau (tức ngày mùng một của hạ tuần), các ngài đã tập hợp lại để chính thức nhập hạ (an cư mùa mưa).

 

Chuẩn Bị Thực Hiện Cuộc Đại Kết Tập Lần Thứ Nhất

Tena kho pana samayena Rājagahaṃ parivāretvā aṭṭhārasa mahāvihārā honti, te sabbepi chaḍḍitapatitauklāpā ahesuṃ. Bhagavato hi parinibbāne sabbepi bhikkhū attano attano pattacīvaramādāya vihāre ca pariveṇe ca chaḍḍetvā agamaṃsu. Tattha katikavattaṃ kurumānā therā bhagavato vacanapūjanatthaṃ titthiyavādaparimocanatthañca — ‘Paṭhamaṃ māsaṃ khaṇḍaphullappaṭisaṅkharaṇaṃ karomā’ti cintesuṃ. Titthiyā hi evaṃ vadeyyuṃ — “Samaṇassa Gotamassa sāvakā satthari ṭhiteyeva vihāre paṭijaggiṃsu, parinibbute chaḍḍesuṃ, kulānaṃ mahādhanapariccāgo vinassatī”ti. Tesañca vādaparimocanatthaṃ cintesunti vuttaṃ hoti. Evaṃ cintayitvā ca pana katikavattaṃ kariṃsu. Yaṃ sandhāya vuttaṃ —

Vào lúc bấy giờ, có 18 Đại Tự xung quanh thành Rājagaha, toàn bộ những tu viện ấy đều có rác bẩn quăng bỏ rải rác khắp nơi. Bởi vì trong thời gian viên tịch Nibbāna của đức Thế Tôn các vị Tỳ khưu ai cũng ôm bình bát và y phục của mình rời bỏ chùa và phòng ốc để ra đi. Khi ấy các vị trưởng lão khi đưa ra quyết định cùng với việc trùng tu lại những ngôi chùa ấy đã khởi ý (điều này) rằng – “Chúng ta cần phải sửa chữa lại những nơi bị hư hỏng vào tháng thứ nhất của mùa an cư” nhằm mục đích cung kính lời dạy của đức Thế Tôn và để tránh khỏi những lời chỉ trích của ngoại đạo. Bởi vì nhóm ngoại đạo có thể nói lời chỉ trích như vầy – “Các Thinh văn đệ tử của Sa-môn Gotama chỉ gìn giữ các tu viện khi bậc Đạo Sư còn tại thế, nhưng khi ngài viên tịch Nibbāna rồi thì cùng nhau từ bỏ, việc bố thí số lượng lớn của cải của các gia đình sẽ bị hủy hoại theo cách này.” Giải thích rằng các trưởng lão khởi ý điều này cũng vì để tránh những lời chỉ trích của bọn ngoại đạo ấy. Khi khởi ý như vậy đã đồng thuận với nhau, ngài muốn đề cập đến lời đồng thuận ấy đã nói rằng –

“Atha kho therānaṃ bhikkhūnaṃ etadahosi — Bhagavatā, kho āvuso, khaṇḍaphullappaṭisaṅkharaṇaṃ vaṇṇitaṃ, handa mayaṃ, āvuso, paṭhamaṃ māsaṃ khaṇḍaphullappaṭisaṅkharaṇaṃ karoma, majjhimaṃ māsaṃ sannipatitvā dhammañca vinayañca saṅgāyissāmā”ti[41].

“Khi ấy, các Tỳ khưu trưởng lão đã bàn bạc điều này: – Này các đại đức, việc sửa chữa lại chỗ bị hư hỏng đã được đức Thế Tôn khen ngợi. Này các đại đức, vậy chúng ta hãy sửa chữa những nơi bị hư hỏng vào tháng thứ nhất [mùa an cư], chúng ta sẽ tụ họp lại rồi trùng tụng Pháp và Luật vào tháng giữa [mùa an cư].”

Te dutiyadivase gantvā rājadvāre aṭṭhaṃsu. Rājā āgantvā vanditvā — “Kiṃ bhante, āgatatthā”ti attanā kattabbakiccaṃ pucchi. Therā aṭṭhārasa mahāvihārapaṭisaṅkharaṇatthāya hatthakammaṃ paṭivedesuṃ. Rājā hatthakammakārake manusse adāsi. Therā paṭhamaṃ māsaṃ sabbavihāre paṭisaṅkharāpetvā rañño ārocesuṃ — “Niṭṭhitaṃ, mahārāja, vihārapaṭisaṅkharaṇaṃ, idāni dhammavinayasaṅgahaṃ karomā”ti. “Sādhu bhante visaṭṭhā karotha[42], mayhaṃ āṇācakkaṃ, tumhākañca dhammacakkaṃ hotu, āṇāpetha, bhante, kiṃ karomī”ti. “Saṅgahaṃ karontānaṃ bhikkhūnaṃ sannisajjaṭṭhānaṃ mahārājā”ti. “Kattha karomi, bhante”ti? “Vebhārapabbatapasse Sattapaṇṇiguhādvāre[43] kātuṃ yuttaṃ mahārājā”ti.

Vào ngày thứ 2 các Tỳ khưu trưởng lão đã đi đến đứng ở cổng thành, vua Ajātasattu đi đến đảnh lễ rồi hỏi đến công việc cần phải làm của mình – “Thưa ngài, ngài đến có việc gì?” Các trưởng lão đã trình với đức vua về nguồn lao động thủ công nhằm mục đích sửa chữa lại 18 Đại Tự bị hư hỏng. – Vua đã ban cho người lao động thủ công lành nghề. – Các trưởng lão đã sửa chữa lại toàn bộ các tu viện vào tháng thứ nhất mùa mưa, dâng lên cho đức vua Ajātasattu – “Tâu đại vương, việc sửa chữa lại các tu viện đã hoàn tất, bây giờ, chúng tôi thực hiện việc trùng tụng Pháp và Luật”. – “Lành thay thưa ngài, các ngài hãy yên tâm thực hiện, phần vương quốc (là nhiệm vụ) của trẫm, còn phần chuyển vận pháp (là nhiệm vụ) của các ngài, trẫm cần phải làm những gì (trong trường hợp này)? Hãy ra lệnh cho trẫm, thưa ngài.” – “Tâu đại vương, xin ngài hãy khởi sự cho hội trường dành cho hội chúng thực hiện việc trùng tụng.” – “Thưa ngài, làm ở chỗ nào?” – “Tâu đại vương, nên làm ở trong hang động Sattapaṇṇi bên cạnh ngọn núi Vebhāra”.

“Sādhu, bhante”ti kho rājā Ajātasattu Vissakammunā[44] nimmitasadisaṃ suvibhattabhittithambhasopānaṃ, nānāvidha-mālākamma-latākamma-vicittaṃ, abhibhavantamiva rājabhavanavibhūtiṃ, avahasantamiva devavimānasiriṃ, siriyā niketanamiva[45] ekanipātatitthamiva ca devamanussanayanavihaṃgānaṃ, lokarāmaṇeyyakamiva sampiṇḍitaṃ daṭṭhabbasāramaṇḍaṃ maṇḍapaṃ kārāpetvā vividhakusumadāmolambakaviniggalantacāruvitānaṃ nānāratanavicitta[46] maṇikoṭṭimatalamiva ca, naṃ nānāpupphūpahāravicittasupariniṭṭhitabhūmikammaṃ brahmavimānasadisaṃ alaṅkaritvā, tasmiṃ mahāmaṇḍape pañcasatānaṃ bhikkhūnaṃ anagghāni pañca kappiyapaccattharaṇasatāni paññapetvā, dakkhiṇabhāgaṃ nissāya uttarābhimukhaṃ therāsanaṃ, maṇḍapamajjhe puratthābhimukhaṃ buddhassa bhagavato āsanārahaṃ dhammāsanaṃ paññapetvā, dantakhacitaṃ bījaniñcettha ṭhapetvā, bhikkhusaṅghassa ārocāpesi — “niṭṭhitaṃ, bhante, mama kiccan”ti.

– Đức vua Ājātasattu có dòng suy nghĩ rằng “Lành thay, thưa ngài” rồi truyền lệnh cho xây dựng Maṇḍapa [hội trường] được tô điểm với những đồ vật trang trí tuyệt đẹp đáng chiêm ngưỡng, có hình dáng tựa như tòa nhà được Thiên tử Vissakamma hóa hiện có vách, cột trụ và cầu thang được bố trí một cách khéo léo, có nhiều màu sắc rực rỡ được trang hoàng hình vòng hoa, trang hoàng hình tua đa dạng, nhìn ngắm như thế lấn át vẻ đẹp của cung điện hoàng gia, đẹp đẽ và thanh tao như đang giễu cợt vẻ đẹp của thiên cung, trông như thế nơi đây là nơi hội tụ của những điều may mắn, y như bến bãi là nơi quy tụ của đàn chim, là ánh nhìn của tất cả chư Thiên và nhân loại, giống như những bức tranh tuyệt mỹ đáng chiêm ngưỡng ở thế gian được tập hợp lại ở cùng một nơi, có trần nhà xinh đẹp làm xao xuyến ánh nhìn như thể nhả ra nhiều loại bông hoa khác nhau và chuỗi ngọc trai nhìn trông như thể mặt đất bằng phẳng được cải thiện bởi hồng ngọc, được trang trí bằng nhiều loại châu báu khác nhau, có bệ (bục) được hoàn thiện một cách hoàn chỉnh khéo léo với nhiều loại bông hoa lễ bái khác nhau, đã được trang hoàng trang trí gần giống với Phạm Thiên Cung, cho sắp đặt 500 chỗ ngồi đúng luật có giá trị không thể ước tính ở trong hội trường lớn dành cho 500 vị Tỳ khưu, chỗ ngồi của các vị trưởng lão được quay mặt về hướng Bắc, quay lưng về hướng Nam, cho sắp đặt chỗ ngồi thuyết giảng Giáo Pháp thích hợp cho việc ngồi đối với đức Phật, đối với đức Thế Tôn được quay mặt về hướng Đông ở chính giữa hội trường, đặt chiếc quạt được lắp cán ngà voi trên Pháp Tọa ấy, xong cho thông báo với hội chúng Tỳ khưu rằng: – “Bạch các ngài, trẫm đã hoàn thành nhiệm vụ”.

Tasmiñca pana divase ekacce bhikkhū āyasmantaṃ Ānandaṃ sandhāya evamāhaṃsu — “Imasmiṃ bhikkhusaṅghe eko bhikkhu vissagandhaṃ vāyanto vicaratī”ti. Thero taṃ sutvā “imasmiṃ bhikkhusaṅghe añño vissagandhaṃ vāyanto vicaraṇakabhikkhu nāma natthi, addhā ete maṃ sandhāya vadantī”ti saṃvegaṃ āpajji. Ekacce naṃ āhaṃsuyeva — “sve āvuso, Ānanda, sannipāto, tvañca sekkho sakaraṇīyo, tena te na yuttaṃ sannipātaṃ gantuṃ, appamatto hohī”ti.

Cũng trong ngày hôm ấy, liên quan đến đại đức Ānanda một số vị Tỳ khưu đã nói như vầy (rằng): “Trong hội chúng Tỳ khưu này có một vì Tỳ khưu đi du hành thoang thoảng mùi tanh.” Trưởng lão sau khi nghe được lời ấy đã đạt được sự động tâm – “Vị Tỳ khưu khác được xem là đi du hành thoang thoảng mùi tanh không có trong hội chúng Tỳ khưu này”, chắc có lẽ họ nói đến Ta. Một số vị Tỳ khưu nói với đại đức Ānanda rằng: “Đại đức Ānanda, đại hội sẽ diễn ra vào ngày mai, tuy nhiên ngài vẫn còn là bậc Hữu học, có phận sự cần phải làm, vì thế ngài không nên đi vào hội họp, ngài hãy là người không xao lãng”.

 

Đại Đức Ānanda Chứng Đắc Phẩm Vị A-ra-hán

Atha kho āyasmā Ānando — ‘sve sannipāto, na kho metaṃ patirūpaṃ yvāhaṃ sekkho samāno sannipātaṃ gaccheyyan’ti, bahudeva-rattiṃ kāyagatāya satiyā vītināmetvā rattiyā paccūsasamaye caṅkamā orohitvā vihāraṃ pavisitvā “nipajjissāmī”ti kāyaṃ āvajjesi, dve pādā bhūmito muttā, apattañca sīsaṃ bimbohanaṃ[47], etasmiṃ antare anupādāya āsavehi cittaṃ vimucci. Ayañhi āyasmā caṅkamena bahi vītināmetvā visesaṃ nibbattetuṃ asakkonto cintesi — “nanu maṃ bhagavā etadavoca — ‘katapuññosi tvaṃ, Ānanda, padhānamanuyuñja, khippaṃ hohisi anāsavo’ti[48] . Buddhānañca kathādoso nāma natthi, mama pana accāraddhaṃ vīriyaṃ, tena me cittaṃ uddhaccāya saṃvattati, handāhaṃ vīriyasamataṃ yojemī”ti, caṅkamā orohitvā pādadhovanaṭṭhāne ṭhatvā pāde dhovitvā vihāraṃ pavisitvā mañcake nisīditvā, “thokaṃ vissamissāmī”ti kāyaṃ mañcake apanāmesi. Dve pādā bhūmito muttā, sīsaṃ bimbohanamappattaṃ, etasmiṃ antare anupādāya āsavehi cittaṃ vimuttaṃ, catuiriyāpathavirahitaṃ therassa arahattaṃ. Tena “imasmiṃ sāsane anipanno anisinno aṭṭhito acaṅkamanto ko bhikkhu arahattaṃ patto”ti vutte “Ānandatthero”ti vattuṃ vaṭṭati.

Khi ấy, đại đức Ānanda nghĩ rằng – “Ngày mai là đại hội, việc ta sẽ đi đến đại hội khi vẫn còn là bậc Hữu học thật không thích đáng cho ta!”

Ngài đã dành phần lớn đêm đó để hành trì pháp niệm thân (kāyagatāsati). Đến lúc rạng đông, ngài rời con đường kinh hành, trở vào tịnh xá với ý định nằm xuống. Khi ngài vừa ngả người, hai chân vừa rời khỏi mặt đất, đầu chưa kịp chạm vào gối, ngay trong khoảnh khắc đó, tâm ngài đã hoàn toàn giải thoát khỏi các lậu hoặc, không còn chấp thủ.

[Giải thích thêm về quá trình này như sau]:

Thực ra, dù đã kinh hành suốt đêm, Tôn giả vẫn không thể đắc được đạo quả cao hơn. Ngài bèn suy ngẫm: “Chẳng phải Đức Thế Tôn đã từng dạy ta rằng: ‘Này Ānanda, ngươi đã có công đức sẵn rồi, hãy tinh tấn nỗ lực, không bao lâu nữa ngươi sẽ thành bậc Vô lậu’ đó sao? Lời Chư Phật không thể sai. Vậy thì, có lẽ sự tinh tấn của ta đã quá căng thẳng (accāraddhaṃ), khiến cho tâm sinh trạo cử (uddhacca). Thôi được, giờ ta sẽ điều chỉnh lại cho quân bình.”

Nghĩ vậy, ngài rời đường kinh hành, đến chỗ rửa chân, sau khi rửa chân xong liền vào tịnh xá. Ngài ngồi xuống giường và tự nhủ: “Ta sẽ nghỉ ngơi một lát,” rồi ngả lưng xuống.

Hai chân vừa rời khỏi mặt đất, đầu chưa chạm vào gối – ngay trong khoảnh khắc đó, tâm ngài đã giải thoát khỏi các lậu hoặc, không còn chấp thủ. Sự chứng đắc A-la-hán của Tôn giả đã diễn ra bên ngoài cả bốn oai nghi (đi, đứng, ngồi, nằm).

Vì thế, khi có người hỏi: “Trong giáo pháp này, có vị Tỳ khưu nào chứng đắc A-la-hán mà không phải trong tư thế đi, đứng, ngồi, hay nằm không?”

Phải nói rằng: “Đó chính là Trưởng lão Ānanda.”

Atha therā bhikkhū dutiyadivase pañcamiyaṃ kāḷapakkhassa[49] katabhattakiccā pattacīvaraṃ paṭisāmetvā dhammasabhāyaṃ sannipatiṃsu. Atha kho āyasmā ānando arahā samāno sannipātaṃ agamāsi. Kathaṃ agamāsi? “idānimhi sannipātamajjhaṃ pavisanāraho”ti haṭṭhatuṭṭhacitto ekaṃsaṃ cīvaraṃ katvā bandhanā muttatālapakkaṃ viya, paṇḍukambale nikkhittajātimaṇi viya, vigatavalāhake nabhe samuggatapuṇṇacando viya, bālātapasamphassavikasitareṇupiñjaragabbhaṃ padumaṃ viya ca, parisuddhena pariyodātena sappabhena sassirīkena ca mukhavarena attano arahattappattiṃ ārocayamāno viya agamāsi. Atha naṃ disvā āyasmato mahākassapassa etadahosi — “sobhati vata bho arahattappatto Ānando, sace satthā dhareyya, addhā ajjānandassa sādhukāraṃ dadeyya, handa, dānissāhaṃ satthārā dātabbaṃ sādhukāraṃ dadāmī”ti, tikkhattuṃ sādhukāramadāsi.

Khi ấy, vào ngày hôm sau, tức ngày mùng 5 hạ tuần (ngày 20 âm lịch), các vị Trưởng lão Tỳ khưu, sau khi đã dùng bữa và cất y bát, liền tụ họp tại Pháp đường. Bấy giờ, Tôn giả Ānanda, nay đã là một bậc A-la-hán, cũng đi đến Đại hội.

Ngài đã đến như thế nào?

Với tâm tràn ngập hân hoan vì nghĩ rằng: “Giờ đây, ta đã xứng đáng bước vào giữa hội chúng,” ngài đắp y chỉnh tề và bước đi.

Ngài thanh thoát như trái thốt nốt chín tự rụng khỏi cuống;
Rực rỡ như viên bảo ngọc đặt trên tấm len quý màu sáng;
Vằng vặc như vầng trăng rằm giữa bầu trời không một gợn mây;
Tươi thắm như đóa sen hồng, có nhụy hoa vàng óng, hé nở trong ánh nắng ban mai.

Ngài bước đi, gương mặt cao quý, thanh tịnh, trong sáng, rạng ngời và đầy uy nghiêm, tựa như đang không lời tuyên bố về sự chứng đắc A-la-hán của mình.

Thấy vậy, Tôn giả Mahākassapa liền khởi lên ý nghĩ: “Ôi, Tôn giả Ānanda khi đã đắc quả A-la-hán trông thật tỏa sáng! Nếu Bậc Đạo Sư còn tại thế, chắc chắn hôm nay Ngài sẽ ban lời tán thán cho Ānanda. Thôi được, ta sẽ thay Bậc Đạo Sư ban lời tán thán ấy.”

Nghĩ rồi, ngài thốt lên lời tán thán “Lành thay!” ba lần.

Majjhimabhāṇakā pana vadanti — “Ānandatthero attano arahattappattiṃ ñāpetukāmo bhikkhūhi saddhiṃ nāgato, bhikkhū yathāvuḍḍhaṃ attano attano pattāsane nisīdantā ānandattherassa āsanaṃ ṭhapetvā nisinnā. Tattha keci evamāhaṃsu — ‘etaṃ āsanaṃ kassā’ti? ‘ānandassā’ti. ‘Ānando pana kuhiṃ gato’ti? Tasmiṃ samaye thero cintesi — ‘idāni mayhaṃ gamanakālo’ti. Tato attano ānubhāvaṃ dassento pathaviyaṃ nimujjitvā attano āsaneyeva attānaṃ dassesī”ti, ākāsena gantvā nisīdītipi eke. yathā vā tathā vā hotu. sabbathāpi taṃ disvā āyasmato mahākassapassa sādhukāradānaṃ[50] yuttameva.

Còn Majjhimabhāṇakā [những vị trùng tuyên Trung Bộ] đã nói rằng – “Trưởng lão Ānanda mong muốn để cho hội chúng biết được chuyện bản thân đã đắc chứng A-ra-hán mới không đi chung với chư Tỳ khưu, chư Tỳ khưu trong khi ngồi trên chỗ ngồi dành riêng cho mỗi cá nhân theo thứ tự thâm niên [hạ-lạp] cũng đã ngồi trừ chỗ ngồi của trưởng lão Ānanda ra. Trong số các vị Tỳ khưu ấy hỏi rằng – ‘Đó là chỗ ngồi của ai? ‘Của trưởng lão Ānanda’. ‘Trưởng lão Ānanda đã đi đâu rồi?’ Lúc bấy giờ trưởng lão nghĩ rằng – ‘Bây giờ là thời điểm thích hợp ta nên đi’. Lúc đó, khi thể hiện oai lực của mình, ngài đã lặn vào trong lòng đất rồi hiện thân ngay trên tọa của mình”, một số vị khác lại nói rằng: ‘ngài Ānanda đã đi đến bằng đường không trung rồi ngồi trên tọa cụ của mình’. Dù thế nào đi chăng nữa thì việc đại đức Mahākassapa sau khi nhìn thấy đại đức Ānanda đã bày tỏ hành động tán thán hoàn toàn phù hợp theo mọi hình thức.

Evaṃ āgate pana tasmiṃ āyasmante[51] Mahākassapatthero bhikkhū āmantesi — “āvuso, kiṃ[52] paṭhamaṃ saṅgāyāma, dhammaṃ vā vinayaṃ vā”ti? Bhikkhū āhaṃsu — “Bhante, Mahākassapa,[53] vinayo nāma buddhasāsanassa āyu. Vinaye ṭhite sāsanaṃ ṭhitaṃ[54] nāma hoti. Tasmā paṭhamaṃ vinayaṃ saṅgāyāmā”ti. “Kaṃ dhuraṃ katvā”ti? “āyasmantaṃ Upālin”ti. “kiṃ Ānando nappahotī”ti? “No nappahoti”. Api ca kho pana Sammāsambuddho dharamānoyeva vinayapariyattiṃ nissāya āyasmantaṃ Upāliṃ etadagge ṭhapesi — “Etadaggaṃ, bhikkhave, mama sāvakānaṃ bhikkhūnaṃ vinayadharānaṃ yadidaṃ upālī”ti[55]. ‘Tasmā Upālittheraṃ pucchitvā vinayaṃ saṅgāyāmā’ti.

Khi đại đức Ānanda đến như vậy, trưởng lão Mahākassapa đã bảo chư Tỳ khưu rằng – “Này các sư đệ, chúng ta sẽ trùng tụng phần nào trước, Pháp hay Luật? Chư Tỳ khưu đã đáp rằng – “Bạch ngài Mahākassapa, Luật là mạng sống của Giáo Pháp. Khi nào Luật còn tồn tại thì Giáo Pháp còn tồn tại”; do đó, chúng ta nên trùng tụng Luật trước tiên. – Nên giao trách nhiệm cho vị nào? – “Cho đại đức Upāli”. Ngài hỏi xen vào “đại đức Ānanda không thể hay sao?” – “Không phải không thể”. Cũng vì khi bậc Chánh đẳng Chánh giác còn tại thế đã  thiết lập đại đức Upālī vào vị thế tối thắng do việc học tập về Luật (rằng): “Này chư Tỳ khưu, vị đứng đầu trong số các Tỳ khưu đệ tử thông hiểu về Luật của Như Lai, tức là Upāli”. Vì thế, chúng ta cần phải hỏi trưởng lão Upāli trùng tụng Luật.’

Tato thero vinayaṃ pucchanatthāya attanāva attānaṃ sammanni. Upālittheropi vissajjanatthāya sammanni. Tatrāyaṃ pāḷi — atha kho āyasmā Mahākassapo saṅghaṃ ñāpesi —

“Suṇātu me, āvuso, saṅgho, yadi saṅghassa pattakallaṃ,

Ahaṃ Upāliṃ vinayaṃ puccheyyan”ti.

Āyasmāpi Upāli saṅghaṃ ñāpesi —

“Suṇātu me, bhante, saṅgho, yadi saṅghassa pattakallaṃ,

Ahaṃ āyasmatā mahākassapena vinayaṃ puṭṭho vissajjeyyan”ti.[56]

Sau đó, trưởng lão Mahākassapa đã đích thân chỉ định cho chính mình để hỏi Luật. Trưởng lão Upāli đã đích thân chỉ định cho chính mình để trả lời về Luật. Trong việc chỉ định đó có Pāḷī như sau – Khi ấy đại đức Mahākassapa đã thông báo đến hội chúng rằng –

“Này các sư đệ, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, tôi sẽ hỏi đại đức Upāli về Luật.”

Đại đức Upāli cũng đã thông báo đến hội chúng rằng: –

“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, khi được đại đức Mahākassapa hỏi về Luật tôi sẽ trả lời.”

Evaṃ attānaṃ sammannitvā āyasmā Upāli uṭṭhāyāsanā ekaṃsaṃ cīvaraṃ katvā there bhikkhū vanditvā dhammāsane nisīdi dantakhacitaṃ bījaniṃ[57] gahetvā, tato Mahākassapatthero therāsane nisīditvā āyasmantaṃ Upāliṃ vinayaṃ pucchi. “Paṭhamaṃ āvuso, Upāli, pārājikaṃ kattha paññattan”ti? “Vesāliyaṃ, bhante”ti. “Kaṃ ārabbhā”ti? “Sudinnaṃ kalandaputtaṃ ārabbhā”ti. “kismiṃ vatthusmin”ti? “Methunadhamme”ti.

Sau khi đại đức Upāli (đích thân) chỉ định cho chính mình như vậy đã từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp (thượng) y một bên vai, đảnh lễ các Tỳ khưu trưởng lão, rồi ngồi lên Pháp toạ cầm lấy chiếc quạt được lắp cán ngà voi. Sau đó, ngài Mahākassapa đã ngồi xuống trên chỗ ngồi của vị trưởng lão và đã hỏi ngài Upāli rằng: – “Này sư đệ Upāli, điều Bất Cộng Trụ thứ nhất đã được đức Thế Tôn quy định ở đâu?” – “Bạch ngài, ở Vesālī.” – “Liên quan đến ai?” – “Liên quan đến Sudinna, con trai của Kalandaka.” – Về sự việc gì? – Về việc thực hiện việc đôi lứa.

“Atha kho āyasmā Mahākassapo āyasmantaṃ Upāliṃ paṭhamassa pārājikassa vatthumpi pucchi, nidānampi pucchi, puggalampi pucchi, paññattimpi pucchi, anupaññattimpi pucchi, āpattimpi pucchi, anāpattimpi pucchi”[58]. Puṭṭho puṭṭho āyasmā Upāli vissajjesi.

“Sau đó, ngài Mahākassapa đã hỏi ngài Upāli về sự việc, đã hỏi về nguyên do, đã hỏi về nhân sự, đã hỏi về điều quy định, đã hỏi về điều quy định thêm, đã hỏi về cách thức phạm tội, và đã hỏi về cách thức không phạm tội của điều Bất Cộng Trụ thứ nhất.” Vị trưởng lão Upāli đã lần lượt trả lời mỗi khi được hỏi (bởi trưởng lão Mahākassapa).

Kiṃ panettha paṭhamapārājike kiñci apanetabbaṃ vā pakkhipitabbaṃ vā atthi natthīti? Apanetabbaṃ natthi. Buddhassa hi Bhagavato bhāsite apanetabbaṃ nāma natthi. Na hi Tathāgatā ekabyañjanampi niratthakaṃ vadanti. Sāvakānaṃ pana devatānaṃ vā bhāsite apanetabbampi hoti, taṃ dhammasaṅgāhakattherā apanayiṃsu. Pakkhipitabbaṃ pana sabbatthāpi atthi, tasmā yaṃ yattha pakkhipituṃ yuttaṃ, taṃ[59] pakkhipiṃsuyeva. Kiṃ pana tanti? ‘Tena samayenā’ti vā, ‘tena kho pana samayenā’ti vā, ‘atha khoti vā’, ‘evaṃ vutteti’ vā, ‘etadavocā’ti vā, evamādikaṃ sambandhavacanamattaṃ. Evaṃ pakkhipitabbayuttaṃ pakkhipitvā pana — “Idaṃ paṭhamapārājikan”ti ṭhapesuṃ. Paṭhamapārājike saṅgahamārūḷhe pañca arahantasatāni saṅgahaṃ āropita-nayen’eva gaṇasajjhāyamakaṃsu — “tena samayena Buddho Bhagavā verañjāyaṃ viharatī”ti. Tesaṃ sajjhāyāraddhakāleyeva sādhukāraṃ dadamānā viya mahāpathavī udakapariyantaṃ katvā akampittha.

Vậy, trong giới Pārājika (Bất Cộng Trụ) thứ nhất này, có điều gì cần bỏ bớt hay thêm vào không?

Về việc bỏ bớt thì không có. Thật vậy, trong lời dạy của Đức Phật, Đấng Thế Tôn, không có gì cần phải loại bỏ, bởi vì các Đấng Như Lai không bao giờ nói dù chỉ một âm tiết vô ích. Tuy nhiên, trong lời nói của các vị Thinh văn hay chư Thiên thì có thể có những phần cần lược bỏ, và các vị Trưởng lão kết tập (Dhammasaṅgāhaka-therā) [60] đã lược bỏ chúng.

Còn về việc thêm vào thì ở đâu cũng cần. Do đó, các vị Trưởng lão đã thêm vào những gì phù hợp ở những chỗ cần thiết.

Những gì được thêm vào đó là gì? Đó chỉ là những từ nối để liên kết các đoạn văn, chẳng hạn như: ‘Vào thuở ấy’ (Tena samayena), ‘Lại nữa, vào lúc bấy giờ’ (tena kho pana samayenā), ‘Khi ấy’ (atha kho), ‘Khi được nói vậy’ (evaṃ vutte), hay ‘Ngài đã dạy điều này’ (etadavoca).

Sau khi thêm vào những từ nối cần thiết như vậy, các ngài đã xác lập: “Đây là giới Pārājika thứ nhất.”

Khi giới Pārājika thứ nhất được đưa vào hệ thống kết tập, năm trăm vị A-la-hán đã đồng thanh tụng đọc lại đúng theo trình tự đã được sắp xếp: “Vào thuở ấy, Đức Phật, Đấng Thế Tôn, đang trú tại Verañjā…”

Ngay khoảnh khắc các ngài bắt đầu tụng đọc, đại địa, cho đến tận cùng là biển cả, đã rung chuyển mạnh mẽ, tựa như đang reo mừng tán thán.

Eteneva nayena sesāni tīṇi pārājikāni saṅgahaṃ āropetvā “idaṃ pārājikakaṇḍan”ti ṭhapesuṃ. Terasa saṅghādisesāni “terasakan”ti ṭhapesuṃ. Dve sikkhāpadāni “aniyatānī”ti ṭhapesuṃ. tiṃsa sikkhāpadāni “nissaggiyāni pācittiyānī”ti ṭhapesuṃ. Dvenavuti sikkhāpadāni “pācittiyānī”ti ṭhapesuṃ. Cattāri sikkhāpadāni “pāṭidesanīyānī”ti ṭhapesuṃ. Pañcasattati sikkhāpadāni “sekhiyānī”ti ṭhapesuṃ. satta dhamme “adhikaraṇasamathā”ti ṭhapesuṃ. Evaṃ sattavīsādhikāni[61] dve sikkhāpadasatāni “mahāvibhaṅgo”ti kittetvā ṭhapesuṃ. Mahāvibhaṅgāvasānepi purimanayeneva mahāpathavī akampittha.

Dhammasaṅgāhaka-therā đã hoàn tất việc kết tập 3 điều Bất Cộng Trụ còn lại bằng chính phương thức ấy rồi quy định rằng: “Đây là chương Bất Cộng Trụ”. Các vị đã quy định mười ba điều Tăng Tàng là “Chương Mười Ba Pháp”, hai điều học là “Bất Định”, ba mươi điều học là “Ưng Xả Đối Trị”, chín mươi hai điều học là “Ưng Đối Trị”, bốn điều học là “Ưng Phát Lộ”, bảy mươi lăm điều học là “Ưng Học Pháp”, và bảy pháp là “Các pháp dàn xếp tranh tụng”. Sau khi định danh hai trăm hai mươi bảy điều học, đã quy định rằng: “Đại Phân Tích” như thế. Đại địa cầu cũng đã rúng động y như cách trước.

Tato bhikkhunīvibhaṅge aṭṭha sikkhāpadāni “pārājikakaṇḍaṃ nāma idan”ti ṭhapesuṃ. Sattarasa sikkhāpadāni “sattarasakan”ti ṭhapesuṃ. Tiṃsa sikkhāpadāni “nissaggiyāni pācittiyānī”ti ṭhapesuṃ. Chasaṭṭhisatasikkhāpadāni “pācittiyānī”ti ṭhapesuṃ. Aṭṭha sikkhāpadāni “pāṭidesanīyānī”ti ṭhapesuṃ. Pañcasattati sikkhāpadāni “sekhiyānī”ti ṭhapesuṃ. Satta dhamme “adhikaraṇasamathā”ti ṭhapesuṃ. Evaṃ tīṇi sikkhāpadasatāni cattāri ca sikkhāpadāni “bhikkhunīvibhaṅgo”ti kittetvā — “ayaṃ ubhato vibhaṅgo nāma catusaṭṭhibhāṇavāro”ti ṭhapesuṃ. Ubhatovibhaṅgāvasānepi vuttanayeneva mahāpathavikampo ahosi[62].

Sau đó, ở bộ Phân Tích Giới Tỳ Khưu Ni, các vị đã quy định tám điều học là: “Đây là Chương Bất Cộng Trụ”. Đã quy định mười bảy điều học là “Chương Mười Bảy Pháp”, ba mươi điều học là “Ưng Xả Đối Trị”, một trăm sáu mươi sáu điều học là “Ưng Đối Trị”, tám điều học là “Ưng Phát Lộ”, bảy mươi lăm điều học là “Ưng Học Pháp”, bảy pháp là “Các pháp dàn xếp tranh tụng.” Sau khi định danh ba trăm mười một điều học, đã quy định rằng: “Phân Tích Giới Tỳ Khưu Ni” như vậy – “Phân Tích này gọi là Phân Tích Luật Lưỡng Phái có sáu mươi bốn tụng phẩm [bhāṇavāra]. Cũng bằng chính phương thức đã nói, ngay sau khi hoàn tất việc kết tập bộ Phân Tích Luật Lưỡng Phái thì quả đại địa cầu đã rúng động.

Etenevupāyena asītibhāṇavāraparimāṇaṃ khandhakaṃ, pañcavīsatibhāṇavāraparimāṇaṃ parivārañca saṅgahaṃ āropetvā “idaṃ vinayapiṭakaṃ nāmā”ti ṭhapesuṃ . Vinayapiṭakāvasānepi vuttanayeneva mahāpathavikampo ahosi. Taṃ āyasmantaṃ Upāliṃ paṭicchāpesuṃ — “āvuso, imaṃ tuyhaṃ nissitake vācehī”ti. Vinayapiṭakasaṅgahāvasāne Upālitthero dantakhacitaṃ bījaniṃ nikkhipitvā dhammāsanā orohitvā there bhikkhū vanditvā attano pattāsane nisīdi.

Chính bằng phương thức ấy sau khi hoàn tất việc kết tập bộ Hợp Phần [Đại Phẩm và Tiểu Phẩm] gồm có tám mươi tụng phẩm và bộ Tập Yếu gồm có 25 tụng phẩm, sau khi đã hoàn tất việc kết tập đã quy định rằng: “Đây là Tạng Luật”. Cũng bằng chính phương thức đã nói, ngay sau khi hoàn tất việc kết tập về Luật thì quả đại địa cầu đã rúng động. Các vị đã ủy thác cho đại đức Upāli việc truyền tụng – “ Này sư đệ, hãy dạy lại Luật Tạng này cho các đệ tử của đệ”. Vào lúc hoàn tất việc kết tập Tạng Luật trưởng lão Upāli đã đặt xuống chiếc quạt được lắp cán ngà voi, từ Pháp tọa bước xuống, đảnh lễ các vị tỳ khưu trưởng lão, rồi ngồi xuống chỗ ngồi của bản thân.

Vinayaṃ saṅgāyitvā dhammaṃ saṅgāyitukāmo āyasmā Mahākassapo bhikkhū pucchi — “Dhammaṃ saṅgāyante hi kaṃ puggalaṃ dhuraṃ katvā dhammo saṅgāyitabbo”ti? bhikkhū — “Ānandattheraṃ dhuraṃ katvā”ti āhaṃsu.

Atha kho āyasmā Mahākassapo saṅghaṃ ñāpesi —

“Suṇātu me, āvuso, saṅgho, yadi saṅghassa pattakallaṃ,

Ahaṃ Ānandaṃ dhammaṃ puccheyyan”ti.

Atha kho āyasmā Ānando saṅghaṃ ñāpesi —

“Suṇātu me, bhante, saṅgho, yadi saṅghassa pattakallaṃ,

Ahaṃ āyasmatā Mahākassapena dhammaṃ puṭṭho vissajjeyyan”ti.

Sau khi đã kết tập xong Luật, ngài Mahākassapa có ý muốn kết tập Pháp nên đã hỏi các vị Tỳ khưu rằng: – Trong số các vị chuyên trùng tụng Pháp, nên giao trách nhiệm cho cá nhân nào rồi mới nên trùng tụng Pháp [Tạng Kinh và Tạng Abhidhamma]? Các vị Tỳ khưu đã trả lời: – Nên giao trách nhiệm cho trưởng lão Ānanda.

Khi ấy, đại đức Mahākassapa đã thông báo đến hội chúng rằng: –

“Này các sư đệ, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, tôi sẽ hỏi đại đức Ānanda về Pháp.”

Khi ấy, đại đức Ānanda cũng đã thông báo đến hội chúng rằng: –

“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, khi được đại đức Mahākassapa hỏi về Pháp tôi sẽ trả lời.”

Atha kho āyasmā Ānando uṭṭhāyāsanā ekaṃsaṃ cīvaraṃ katvā there bhikkhū vanditvā dhammāsane nisīdi dantakhacitaṃ bījaniṃ gahetvā. Atha kho āyasmā Mahākassapo bhikkhū pucchi — “kataraṃ, āvuso, piṭakaṃ paṭhamaṃ saṅgāyāmā”ti? “Suttantapiṭakaṃ, bhante”ti. “Suttantapiṭake catasso saṅgītiyo, tāsu paṭhamaṃ kataraṃ saṅgītin”ti? “Dīghasaṅgītiṃ, bhante”ti. “Dīghasaṅgītiyaṃ catutiṃsa suttāni, tayo vaggā, tesu paṭhamaṃ kataraṃ vaggan”ti? “Sīlakkhandhavaggaṃ, bhante”ti. “Sīlakkhandhavagge terasa suttantā, tesu paṭhamaṃ kataraṃ suttan”ti? “Brahmajālasuttaṃ nāma bhante, tividhasīlālaṅkataṃ, nānāvidhamicchājīvakuha lapanādividdhaṃsanaṃ, dvāsaṭṭhidiṭṭhijālaviniveṭhanaṃ, dasasahassilokadhātukampanaṃ[63], taṃ paṭhamaṃ saṅgāyāmā”ti.

Khi ấy, đại đức Ānanda đã từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp (thượng) y một bên vai, đảnh lễ các vị tỳ khưu trưởng lão, rồi ngồi xuống Pháp tọa cầm lấy chiếc quạt được lắp cán ngà voi. Bấy giờ, Tôn giả Mahākassapa hỏi chư Tỳ khưu:
– Này hiền giả, chúng ta sẽ kết tập Tạng nào trước?
– Bạch ngài, Tạng Kinh.
– Trong Tạng Kinh có bốn cuộc kết tập, trong đó trước hết là cuộc nào?
– Bạch ngài, là cuộc kết tập Trường Bộ.
– Trường Bộ có ba mươi bốn bài kinh, chia làm ba phẩm. Trong đó, chúng ta kết tập phẩm nào trước?
– Bạch ngài, phẩm Sīlakkhandha (Giới Uẩn).
– Trong phẩm Giới Uẩn có mười ba bài kinh. Trong số ấy, trước hết là bài nào?
– Bạch ngài, là Kinh Brahmajāla: được trang sức bởi ba loại giới; phá tan các kiểu sống tà mạng với những lời nói quanh co, lừa dối, phù phiếm; tháo gỡ tấm lưới gồm sáu mươi hai kiến chấp; làm rung chuyển mười ngàn thế giới. Chúng ta hãy kết tập bài Kinh Brahmajāla trước.

Atha kho āyasmā Mahākassapo āyasmantaṃ Ānandaṃ etadavoca, “Brahmajālaṃ, āvuso Ānanda, kattha bhāsitan”ti? “Antarā ca, bhante, Rājagahaṃ antarā ca Nāḷandaṃ rājāgārake Ambalaṭṭhikāyan”ti. “kaṃ ārabbhā”ti ? “Suppiyañca paribbājakaṃ, brahmadattañca māṇavan”ti. “Kismiṃ vatthusmin”ti? “Vaṇṇāvaṇṇe”ti. Atha kho āyasmā Mahākassapo āyasmantaṃ Ānandaṃ brahmajālassa nidānampi pucchi, puggalampi pucchi, vatthumpi pucchi[64]. Āyasmā ānando vissajjesi. Vissajjanāvasāne pañca arahantasatāni gaṇasajjhāyamakaṃsu. Vuttanayeneva ca pathavikampo ahosi.

Khi ấy, đại đức Mahākassapa đã hỏi đại đức Ānanda rằng, – “Này sư đệ Ānanda, kinh Mạng Lưới Cao Thượng [Brahmajāla] đã được thuyết tại đâu?” – “Bạch ngài, ở giữa Rājagaha và Nalandā trong vườn thượng uyển Ambalaṭṭhikā.” – “Có liên quan đến ai?” – “Liên quan đến du sĩ ngoại đạo Suppiya và thanh niên Brahmadatta.” – “Về sự việc gì?” – “Về việc khen ngợi và khiển trách”. Sau đó, ngài Mahākassapa đã hỏi ngài Ānanda về duyên khởi, cũng đã hỏi về nhân sự, đồng thời cũng hỏi về câu chuyện của bài Kinh Mạng Lưới Cao Thượng. Trưởng lão Ānanda đã trả lời. Khi ngài đã trả lời xong, năm trăm vị Ā-ra-hán đã đồng thanh lặp lại. Cũng bằng chính phương thức đã nói, quả đại địa cầu đã rúng động.

Evaṃ Brahmajālaṃ saṅgāyitvā tato paraṃ “Sāmaññaphalaṃ, pan’āvuso Ānanda, kattha bhāsitan”ti-ādinā nayena pucchāvissajjanānukkamena saddhiṃ brahmajālena sabbepi terasa suttante saṅgāyitvā — “ayaṃ sīlakkhandhavaggo nāmā”ti kittetvā ṭhapesuṃ.

Sau khi kết tập xong bài kinh Brahmajāla như vậy kế đó các vị đã trùng tụng hết toàn bộ 13 bài kinh (và) cả bài kinh Brahmajāla tuần tự thứ lớp vấn và đáp theo phương thức lần lượt như sau: – “Này sư đệ Ānanda, kinh Sa Môn Quả [Sāmaññaphala] đã được (đức Thế Tôn) thuyết ở đâu?” – Sau khi định danh, đã quy định rằng: “Phẩm này là Phẩm Giới Uẩn”.

Tadanantaraṃ mahāvaggaṃ, tadanantaraṃ Pāthikavagganti, evaṃ tivaggasaṅgahaṃ catutiṃsasuttapaṭimaṇḍitaṃ catusaṭṭhibhāṇavāraparimāṇaṃ tantiṃ saṅgāyitvā “ayaṃ dīghanikāyo nāmā”ti vatvā āyasmantaṃ Ānandaṃ paṭicchāpesuṃ — “āvuso, imaṃ tuyhaṃ nissitake vācehī”ti.

Các vị đã trùng tụng (Trường Bộ Kinh) có 64 tụng phẩm, gồm có 34 bài Kinh, được xếp thành ba Phẩm như vầy – tiếp theo Tiểu Phẩm là Đại Phẩm, sau (Đại Phẩm) là Phẩm Pāthika, đã nói rằng: “Đây gọi là Trường Bộ Kinh” rồi ủy thác cho trưởng lão Ānanda việc truyền tụng: – “Này sư đệ Ānanda, hãy dạy lại bộ kinh này cho các đệ tử của đệ.”

Tato anantaraṃ asītibhāṇavāraparimāṇaṃ Majjhimanikāyaṃ saṅgāyitvā dhammasenāpatisāriputtattherassa nissitake paṭicchāpesuṃ — “imaṃ tumhe pariharathā”ti.

Tato anantaraṃ satabhāṇavāraparimāṇaṃ Saṃyuttanikāyaṃ saṅgāyitvā Mahākassapattheraṃ paṭicchāpesuṃ — “bhante, imaṃ tumhākaṃ nissitake vācethā”ti.

Tato anantaraṃ vīsatibhāṇavārasataparimāṇaṃ Aṅguttaranikāyaṃ saṅgāyitvā Anuruddhattheraṃ paṭicchāpesuṃ — “imaṃ tumhākaṃ nissitake vācethā”ti.

Ngay lập tức sau đó, các vị đã trùng tụng Trung Bộ Kinh gồm có tám mươi tụng phẩm rồi ủy thác cho các đệ tử của vị Tướng Quân Chánh Pháp Sārīputta: “Các ngươi hãy bảo quản bộ Kinh này”.

Ngay lập tức sau đó, các vị đã trùng tụng Tương Ưng Bộ Kinh gồm có một trăm tụng phẩm rồi ủy thác cho trưởng lão Mahākassapa: “Bạch ngài, xin ngài hãy dạy lại bộ Kinh này cho các đệ tử của ngài”.

Ngay lập tức sau đó, các vị đã trùng tụng Tăng Chi Bộ Kinh gồm có một trăm hai mươi tụng phẩm rồi ủy thác cho trưởng lão Anuruddha: “Hãy dạy lại bộ Kinh này cho các đệ tử của ngài”.

Tato anantaraṃ Dhammasaṅgaha Vibhaṅga Dhātukathā Puggalapaññatti Kathāvatthu Yamaka Paṭṭhānaṃ Abhidhammoti vuccati. Evaṃ saṃvaṇṇitaṃ sukhumañāṇagocaraṃ tantiṃ saṅgāyitvā — “idaṃ abhidhammapiṭakaṃ nāmā”ti vatvā pañca arahantasatāni sajjhāyamakaṃsu. Vuttanayeneva pathavikampo ahosīti.

Tiếp đó, các ngài kết tập bảy bộ luận sau: Dhammasaṅgaṇī (Pháp Tụ), Vibhaṅga (Phân Tích), Dhātukathā (Nguyên Chất Ngữ), Puggalapaññatti (Nhân Chế Định), Kathāvatthu (Ngữ Tông), Yamaka (Song Đối), và Paṭṭhāna (Vị Trí). Toàn bộ bảy bộ này được gọi là Vi Diệu Pháp (Abhidhamma).

Sau khi kết tập xong bộ kinh văn này—vốn là cảnh giới của trí tuệ vi tế và hằng được tán thán—các ngài đã tuyên bố: “Đây chính là Tạng Vi Diệu Pháp (Abhidhammapiṭaka).”

Bấy giờ, năm trăm vị A-la-hán đã đồng thanh tụng đọc lại toàn bộ tạng này.

Và cũng như đã thuật lại trước đó, đại địa lại một lần nữa rung chuyển.

Tato paraṃ Jātakaṃ, Niddeso, Paṭisambhidāmaggo, Apadānaṃ, Suttanipāto, Khuddakapāṭho, Dhammapadaṃ, Udānaṃ, Itivuttakaṃ, Vimānavatthu, Petavatthu, Theragāthā, Therīgāthāti imaṃ tantiṃ saṅgāyitvā “khuddakagantho nāmāyan”ti ca vatvā “abhidhammapiṭakasmiṃyeva saṅgahaṃ āropayiṃsū”ti dīghabhāṇakā vadanti. majjhimabhāṇakā pana “Cariyāpiṭakabuddhavaṃsehi saddhiṃ sabbampetaṃ khuddakaganthaṃ nāma suttantapiṭake pariyāpannan”ti vadanti.

Sau đó, các ngài tiếp tục kết tập các bộ kinh sau đây: Jātaka (Chuyện Tiền Thân), Niddesa (Diễn Giải), Paṭisambhidāmagga (Phân Tích Đạo), Apadāna (Thánh Nhân Ký Sự), Suttanipāta (Kinh Tập), Khuddakapāṭha (Tiểu Tụng), Dhammapada (Pháp Cú), Udāna (Phật Tự Thuyết), Itivuttaka (Phật Thuyết Như Vầy), Vimānavatthu (Chuyện Thiên Cung), Petavatthu (Chuyện Ngạ Quỷ), Theragāthā (Trưởng Lão Kệ), và Therīgāthā (Trưởng Lão Ni Kệ).

Về việc phân loại các bộ kinh này, có hai quan điểm khác nhau:

  1. Các vị chuyên tụng Trường Bộ (dīghabhāṇakā) cho rằng: Sau khi kết tập các bộ kinh trên, họ gọi chúng là “Tiểu Bộ” (khuddakagantha) và xếp chúng vào Tạng Vi Diệu Pháp (abhidhammapiṭaka).

  2. Trong khi đó, các vị chuyên tụng Trung Bộ (majjhimabhāṇakā) lại nói rằng: Toàn bộ các bộ kinh này, cùng với Hạnh Tạng (Cariyāpiṭaka) và Phật Sử (Buddhavaṃsa), đều được gọi chung là Tiểu Bộ và thuộc về Tạng Kinh (suttantapiṭaka).

Evametaṃ sabbampi buddhavacanaṃ rasavasena ekavidhaṃ, dhammavinayavasena duvidhaṃ, paṭhamamajjhimapacchimavasena tividhaṃ. Tathā piṭakavasena. nikāyavasena pañcavidhaṃ, aṅgavasena navavidhaṃ, dhammakkhandhavasena caturāsītisahassavidhanti veditabbaṃ.

Như vậy, toàn bộ lời Phật dạy (buddhavacana) cần được hiểu qua các cách phân loại như sau:

  • Xét về hương vị (rasa), thì chỉ có một: đó là vị giải thoát (vimuttirasa).
  • Xét vềphương diện, thì có hai: Pháp và Luật (Dhamma-Vinaya).
  • Xét vềthời kỳ, thì có ba: thời kỳ đầu, thời kỳ giữa, và thời kỳ cuối.
  • Xét về Tạng (Piṭaka), cũng có ba: Kinh Tạng, Luật Tạng và Luận Tạng.
  • Xét về bộ (Nikāya), thì có năm: Trường Bộ, Trung Bộ, Tương Ưng Bộ, Tăng Chi Bộ, và Tiểu Bộ.
  • Xét về thể loại (Aṅga), thì có chín.
  • Xét về Pháp uẩn (Dhammakkhandha), thì có tám mươi bốn ngàn.

Kathaṃ rasavasena ekavidhaṃ? Yañhi Bhagavatā anuttaraṃ Sammāsambodhiṃ abhisambujjhitvā yāva anupādisesāya nibbānadhātuyā parinibbāyati, etthantare pañcacattālīsavassāni devamanussanāgayakkhādayo anusāsantena vā paccavekkhantena vā vuttaṃ, sabbaṃ taṃ ekarasaṃ vimuttirasameva hoti. Evaṃ rasavasena ekavidhaṃ.

Lời nói của đức Phật khi nói về vị chỉ có một (là có ý nghĩa) thế nào? Thật vậy, lời nào kể từ khi đức Thế Tôn chứng đạt vô thượng Chánh đẳng Chánh giác cho đến khi ngài nhập vô dư Nibbāna trong cảnh giới Nibbāna không còn dư sót, trong suốt khoảng thời gian bốn mươi lăm năm ấy tất cả những lời ấy ngài giảng dạy cho chư Thiên, nhân loại, loài rồng, Dạ-xoa, v.v. nhằm mục đích giáo huấn hoặc phê phán chỉ có một vị là vị giải thoát mà thôi. Lời dạy của đức Phật có 1 là ‘vị’ được tính như thế.

Kathaṃ dhammavinayavasena duvidhaṃ? sabbameva cetaṃ dhammo ceva vinayo cāti saṅkhyaṃ gacchati. Tattha vinayapiṭakaṃ vinayo, avasesaṃ buddhavacanaṃ dhammo. Tenevāha “yannūna mayaṃ dhammañca vinayañca saṅgāyeyyāmā”ti[65]. “Ahaṃ Upāliṃ vinayaṃ puccheyyaṃ, Ānandaṃ dhammaṃ puccheyyan”ti ca. Evaṃ dhammavinayavasena duvidhaṃ.

Lời nói của đức Phật có hai phần khi nói về Pháp và Luật (là có ý nghĩa) thế nào? Thật vậy toàn bộ lời dạy của đức Thế Tôn được xem là Pháp và Luật. Trong Pháp và Luật ấy, Luật tức là Tạng Luật, phần còn lại về lời dạy của đức Phật gọi là Pháp. Vì lý đó đó trưởng lão Mahākassapa đã nói rằng: “Hay là chúng ta nên trùng tụng Pháp và Luật” và nói rằng: “Tôi sẽ hỏi Luật cùng đại đức Upāli, (và) sẽ hỏi Pháp cùng đại đức Ānanda.” Lời dạy của đức Phật có 2 là ‘Pháp và Luật’ được tính như thế.

Kathaṃ paṭhamamajjhimapacchimavasena tividhaṃ? Sabbameva hidaṃ paṭhamabuddhavacanaṃ, majjhimabuddhavacanaṃ, pacchimabuddhavacananti tippabhedaṃ hoti. Tattha —

“Anekajātisaṃsāraṃ, sandhāvissaṃ anibbisaṃ.

Gahakāraṃ gavesanto, dukkhā jāti punappunaṃ.

Gahakāraka diṭṭhosi, puna gehaṃ na kāhasi.

Sabbā te phāsukā bhaggā, gahakūṭaṃ visaṅkhataṃ.

Visaṅkhāragataṃ cittaṃ, taṇhānaṃ khayamajjhagā”ti.[66]

Lời nói của đức Phật có ba phần khi nói về Phần Đầu, Phần Giữa, và Phần Kết (là có ý nghĩa) thế nào? Bởi vì toàn bộ có 3 phần riêng biệt là lời nói đầu tiên của đức Phật, lời nói của đức Phật thuộc phần giữa, lời nói cuối cùng của đức Phật. Trong 3 phần riêng biệt này –

“Trong khi ta tìm kiếm người thợ làm nhà (bản thân), khi không gặp được ta đã trải qua sự luân chuyển trong vòng luân hồi trong vô số kiếp sống không ngừng nghỉ. Sự tái sanh diễn ra thường xuyên là khổ đau.

Hỡi người thợ làm nhà (bản thân), ngươi đã bị ta nhìn thấy. Ngươi sẽ không xây dựng nhà (bản thân) của ta được nữa. Tất cả các rường cột của ngươi đã bị ta bẽ gãy, mái nhà (vô minh) đã bị phá tan. Tâm (của ta) đã đi đến sự không còn tạo tác (đạt đến Nibbāna), Ta đã chứng đạt sự diệt tận của các tham ái.”

Idaṃ paṭhamabuddhavacanaṃ. Keci “yadā have pātubhavanti dhammā”ti[67] khandhake udānagāthaṃ vadanti. Esā pana pāṭipadadivase sabbaññubhāvappattassa somanassamayañāṇena paccayākāraṃ paccavekkhantassa uppannā udānagāthāti veditabbā.

Yaṃ pana parinibbānakāle abhāsi — “handa dāni, bhikkhave, āmantayāmi vo, vayadhammā saṅkhārā, appamādena sampādethā”ti[68] idaṃ pacchimabuddhavacanaṃ. ubhinnamantare yaṃ vuttaṃ, etaṃ majjhimabuddhavacanaṃ nāma. Evaṃ paṭhamamajjhimapacchimabuddhavacanavasena tividhaṃ.

Đây là lời nói đầu tiên của đức Phật. Một số vị đề cập đến lời kệ cảm hứng trong Hợp Phần: “Giờ đây quả thực các Pháp đã hiện khởi!” Điều này cần được hiểu rằng là lời kệ cảm hứng được khởi lên (trong trí Ngài), khi đang quán xét về lý duyên khởi với tâm trí đang tràn ngập niềm hân hoan của sự chứng đạt quả vị Toàn Giác vào ngày trăng tròn.

Hơn nữa, lời nói được đức Thế Tôn thuyết vào thời điểm gần thời điểm vô dư Niết Bàn rằng: “Này các Tỳ khưu, giờ đây ta khuyên dạy các ngươi – Pháp hữu vi có bản tánh hoại diệt là thường, các ngươi hãy chân chánh thực hành để đạt đến sự thành tựu viên mãn cùng với sự không dễ duôi,” đó là lời nói cuối cùng của đức Phật. Điều gì được đức Thế Tôn thuyết vào khoảng giữa của hai thời điểm ấy [phần đầu và phần cuối] được gọi là lời dạy của đức Phật thuộc Phần Giữa. Lời dạy của đức Phật có 3 là ‘Phần Đầu, Phần Giữa, và Phần Kết’ được tính như thế.

Kathaṃ piṭakavasena tividhaṃ? Sabbampi cetaṃ vinayapiṭakaṃ suttantapiṭakaṃ abhidhammapiṭakanti tippabhedameva hoti. Tattha paṭhamasaṅgītiyaṃ saṅgītañca asaṅgītañca sabbampi samodhānetvā ubhayāni pātimokkhāni, dve vibhaṅgā, dvāvīsati[69] khandhakā, soḷasaparivārāti — idaṃ vinayapiṭakaṃ nāma. Brahmajālādicatuttiṃsasuttasaṅgaho Dīghanikāyo, Mūlapariyāyasuttādidiyaḍḍhasatadvesuttasaṅgaho Majjhimanikāyo, Ooghataraṇasuttādisattasuttasahassasattasatadvāsaṭṭhisuttasaṅgaho Saṃyuttanikāyo, Cittapariyādānasuttādinavasuttasahassapañcasatasattapaññāsasuttasaṅgaho Aṅguttaranikāyo, Khuddakapāṭha Dhammapada Udāna Itivuttaka Suttanipāta Vimānavatthu Petavatthu Theragāthā Therīgāthā Jātaka Niddesa Paṭisambhidāmagga[70] Apadāna Buddhavaṃsa Cariyāpiṭakavasena pannarasappabhedo Khuddakanikāyoti idaṃ Suttantapiṭakaṃ nāma. Dhammasaṅgaho, Vibhaṅgo, Dhātukathā, Puggalapaññatti, Kathāvatthu, Yamakaṃ, Paṭṭhānanti — idaṃ Abhidhammapiṭakaṃ nāma. Tattha —

Lời nói của đức Phật có ba phần khi nói về Tạng (là có ý nghĩa) thế nào? Bởi vì toàn bộ gồm có ba phần riêng biệt: Tạng Luật, Tạng Kinh, và Tạng Vi Diệu Pháp. Trong 3 Tạng ấy, sau khi đã tổng hợp toàn bộ Phật ngôn được trùng tụng trong cuộc kết tập lần thứ nhất và được trùng tụng sau đó là hai bộ Giới Bổn, hai bộ Phân Tích, 82 Hợp Phần, 16 phần Tập Yếu – đây gọi là Tạng Luật. Trường Bộ Kinh có số lượng bài kinh là 34 bài Kinh bắt đầu với bài Kinh Mạng Lưới Cao Thượng [Brahmajāla] v.v. Trung Bộ Kinh có số lượng bài kinh là 152 bài kinh bắt đầu với bài kinh Pháp Môn Căn Bản v.v. Tương Ưng Bộ Kinh có số lượng bài kinh là bảy ngàn bảy trăm sáu mươi hai bài kinh bắt đầu với bài Kinh Vượt Bộc Lưu v.v. Tăng Chi Bộ Kinh có số lượng bài kinh là chín ngàn năm trăm năm mươi bài kinh bắt đầu với bài kinh Sự Xâm Chiếm và Ngự Trị Tâm [Cittapariyādāna], Tiểu Bộ với mười lăm phần khác biệt gồm có Tiểu Tụng, Pháp Cú, Phật Tự Thuyết, Phật Thuyết Như Vầy, Kinh Tập, Chuyện Thiên Cung, Chuyện Ngạ Quỷ, Trưởng Lão Kệ, Trưởng Lão Ni Kệ , Chuyện Tiền Thân, Diễn Giải, Phân Tích Đạo, Thánh Nhân Ký Sự, Phật Sử, Hạnh Tạng, đây gọi là Tạng Kinh. Bộ Pháp Tụ, Bộ Phân Tích, Bộ Nguyên Chất Ngữ, Bộ Nhân Chế Định, Bộ Ngữ Tông , Bộ Song Đối, và Bộ Vị Trí, “đây gọi là Tạng Vi Diệu Pháp.”

 

Giải Thích Từ ‘Vinaya – Luật’

Tattha – “Vividhavisesanayattā, vinayanato ceva kāyavācānaṃ.

Vinayatthavidūhi ayaṃ, vinayo vinayoti akkhāto”.

Vividhā hi ettha pañcavidhapātimokkhuddesapārājikādi satta āpattikkhandhamātikā vibhaṅgādippabhedā nayā. Visesabhūtā ca daḷhīkammasithilakaraṇappayojanā anupaññattinayā. kāyikavācasikājjhācāranisedhanato cesa kāyaṃ vācañca vineti, tasmā vividhanayattā visesanayattā kāyavācānaṃ vinayanato ceva vinayoti akkhāto. Tenetametassa vacanatthakosallatthaṃ vuttaṃ —

“Vividhavisesanayattā, vinayanato ceva kāyavācānaṃ.

Vinayatthavidūhi ayaṃ, vinayo vinayoti akkhāto”.

Trong Tạng Luật có đoạn kệ rằng: “Luật này được các bậc thông hiểu gọi là ‘Luật’ (Vinaya), vì có những phương pháp đa dạng và đặc biệt, và vì nó điều phục thân và khẩu.”

Bởi vì trong Tạng Luật này có nhiều cách thức khác nhau là có 5 cách tụng đọc giới bổn Pātimokkha 7 sự phạm tội, chương có Bất Cộng Trụ [Pārājika], Mẫu Đề và Phân Tích là phần riêng biệt, còn điều quy định thêm là cách đặc biệt có kết quả làm cho điều quy định ban đầu của đức Phật trở nên vững chắc và dễ uốn nắn và Luật này để rèn luyện thân và khẩu, bởi vì ngăn chặn hành vi vi phạm thông qua thân và khẩu, vì thế tôi mới nói là ‘Luật – Vinaya’ do có nhiều cách thức khác biệt, do có cách thức đặc biệt và do rèn luyện thân và khẩu. Do đó, để thể hiện sự thông suốt về ý nghĩa của từ này (vacanattha-kosalla), đoạn kệ được nhắc lại: “Luật này được các bậc thông hiểu gọi là ‘Luật’ (Vinaya), vì có những phương pháp đa dạng và đặc biệt, và vì nó điều phục thân và khẩu.”

 

Giải Thích Từ ‘Sutta – Kinh’

Itaraṃ pana —

“Atthānaṃ sūcanato suvuttato, savanatotha sūdanato.

Suttāṇā suttasabhāgato ca, suttanti [71]akkhātaṃ.

Tañhi attatthaparatthādibhede atthe sūceti. Suvuttā cettha atthā, veneyyajjhāsayānulomena[72] vuttattā. Savati cetaṃ atthe sassamiva phalaṃ, pasavatīti vuttaṃ hoti. Sūdati cetaṃ[73] dhenu viya khīraṃ, paggharāpetīti vuttaṃ hoti. Suṭṭhu ca ne tāyati, rakkhatīti vuttaṃ hoti. suttasabhāgañcetaṃ, yathā hi tacchakānaṃ suttaṃ pamāṇaṃ hoti, evametampi viññūnaṃ. Yathā ca suttena saṅgahitāni pupphāni na vikirīyanti, na viddhaṃsīyanti, evameva tena saṅgahitā atthā. Tenetametassa vacanatthakosallatthaṃ vuttaṃ —

“Atthānaṃ sūcanato, suvuttato savanatotha sūdanato.

Suttāṇā suttasabhāgato ca, suttanti akkhātan”ti.

Hơn nữa, ngoài ra Kinh –

Mặt khác, đối với Tạng Kinh (Sutta), có đoạn kệ rằng:

“Kinh được gọi là ‘Kinh’ (Sutta) vì nó:
Chỉ bày các nghĩa, lại được khéo nói ra,
Vì nó sản sinh, tuôn chảy (điều lợi ích),
Vì nó bảo vệ tốt, và vì tương đồng với sợi chỉ.”

Giải thích:

Đoạn kệ trên được giải thích như sau:

  1. Chỉ bày (sūcanato): Kinh điển chỉ bày (sūceti) các loại ý nghĩa (attha) khác nhau, như lợi ích cho bản thân và lợi ích cho người khác.

  2. Khéo nói (suvuttato): Các ý nghĩa trong Kinh được khéo nói (suvuttā), vì chúng được thuyết giảng phù hợp với căn cơ và khuynh hướng của chúng sanh cần được giáo hóa.

  3. Sản sinh (savanato): Kinh sản sinh (savati) ra các lợi ích, giống như đất tốt trổ sinh hoa màu (sassa).

  4. Tuôn chảy (sūdanato): Kinh tuôn chảy (sūdati) các lợi ích, giống như con bò mẹ cho dòng sữa (khīra).

  5. Bảo vệ tốt (suttāṇā): Kinh bảo vệ (tāyati) một cách tốt đẹp (suṭṭhu) cho những ai thực hành theo, tức là gìn giữ và che chở cho họ.

  6. Tương đồng với sợi chỉ (suttasabhāgato): Ý này có hai khía cạnh:

    • Giống như sợi chỉ mực (sutta) của người thợ mộc là thước đo (pamāṇaṃ) cho công việc của họ, Kinh điển cũng là thước đo cho các bậc hiền trí.
    • Giống như những đóa hoa được sợi chỉ (sutta) xâu lại sẽ không bị rơi rớt, phân tán, các ý nghĩa được Kinh điển hệ thống lại cũng được gìn giữ vẹn toàn như vậy.

Vì những lý do trên, để thể hiện sự thông suốt về ý nghĩa của từ này, đoạn kệ được nhắc lại:

“Kinh được gọi là ‘Kinh’ (Sutta) vì nó:
Chỉ bày các nghĩa, lại được khéo nói ra,
Vì nó sản sinh, tuôn chảy (điều lợi ích),
Vì nó bảo vệ tốt, và vì tương đồng với sợi chỉ.”

 

Giải Thích Từ ‘Abhidhamma – Vi Diệu Pháp’

Itaro pana —

“yaṃ ettha vuḍḍhimanto, salakkhaṇā pūjitā paricchinnā.

Vuttādhikā ca dhammā, abhidhammo tena akkhāto”.

Ayañhi abhisaddo vuḍḍhilakkhaṇapūjitaparicchinnādhikesu dissati. Tathā hesa “Bāḷhā me dukkhā vedanā abhikkamanti, no paṭikkamantī”tiādīsu[74] vuḍḍhiyaṃ āgato. “Yā tā rattiyo abhiññātā abhilakkhitā”tiādīsu[75] salakkhaṇe. “Rājābhirājā manujindo”tiādīsu[76] pūjite. “Paṭibalo vinetuṃ abhidhamme abhivinaye”tiādīsu[77] paricchinne. aññamaññasaṅkaravirahite dhamme ca vinaye cāti vuttaṃ hoti. “abhikkantena vaṇṇenā”tiādīsu[78] adhike

Mặt khác, về “Vi Diệu Pháp” (Abhidhamma), có kệ rằng:

“Những pháp ở đây vì có sự tăng trưởng,
vì có dấu hiệu rõ rệt, vì đáng được tôn kính, vì được phân định,
và vì vượt trội; nên được gọi là Vi Diệu Pháp.”

Giải thích:

  • Tiền tố “abhi-” được dùng trong các nghĩa: tăng trưởng, đặc tướng (có dấu hiệu phân biệt), tôn quý (đáng tôn), phân định (riêng rành, không lẫn), và vượt trội.

    • “Abhi-” với nghĩa tăng trưởng: như câu “Này các hiền giả, các thọ khổ dữ dội đang đến dồn dập nơi tôi, không lui sụt.”
    • Với nghĩa có dấu hiệu (được đánh dấu/ghi nhận): “Những đêm được biết rõ, được ghi dấu…”
    • Với nghĩa tôn quý: “Vua của các vua, Chúa tể loài người…”
    • Với nghĩa phân định (riêng rành): “Có khả năng hướng dẫn về Thắng Pháp, về Thắng Luật” — nghĩa là trong Pháp và Luật, tách bạch, không lẫn lộn nhau.
    • Với nghĩa vượt trội: như trong “với vẻ đẹp tuyệt hảo (màu sắc thù thắng).”

Ettha ca “rūpūpapattiyā maggaṃ bhāveti”[79], “mettāsahagatena cetasā ekaṃ disaṃ pharitvā viharatī”tiādinā[80] nayena vuḍḍhimantopi dhammā vuttā. “Rūpārammaṇaṃ vā saddārammaṇaṃ vā”tiādinā[81] nayena ārammaṇādīhi lakkhaṇīyattā salakkhaṇāpi. “sekkhā dhammā, asekkhā dhammā, lokuttarā dhammā”tiādinā[82] nayena pūjitāpi, pūjārahāti adhippāyo. “Phasso hoti, vedanā hotī”tiādinā[83] nayena sabhāvaparicchinnattā paricchinnāpi. “Mahaggatā dhammā, appamāṇā dhammā,[84] anuttarā dhammā”tiādinā[85] nayena adhikāpi dhammā vuttā. Tenetametassa vacanatthakosallatthaṃ vuttaṃ —

  • Do vậy, trong Vi Diệu Pháp, các pháp được gọi là:

    • “có sự tăng trưởng” (vuḍḍhimanta) theo lối: “Vị ấy tu tập con đường dẫn đến sinh lên cõi Sắc…”, “Với tâm câu hữu với từ, vị ấy thấm nhuần một phương rồi an trú…”
    • “có dấu hiệu (đặc tướng) rõ rệt” (salakkhaṇa) theo lối: “Hoặc cảnh sắc, hoặc cảnh thanh…” — vì được nhận diện bởi đối tượng v.v.
    • “đáng tôn kính” (pūjita; ý là đáng được kính lễ) theo lối: “Các pháp hữu học, các pháp vô học, các pháp siêu thế…”
    • “được phân định” (paricchinna) theo lối: “Có xúc, có thọ…” — vì được xác định theo thực tánh riêng (sabhāva), ranh giới rõ rệt.
    • “vượt trội” (adhika) theo lối: “Các pháp quảng đại, các pháp vô lượng, các pháp vô thượng…”

Kết lại, để hiển bày sự khéo thông nghĩa của danh từ này, nói rằng:

“Những pháp ở đây vì có sự tăng trưởng,
vì có dấu hiệu rõ rệt, vì đáng được tôn kính, vì được phân định,
và vì vượt trội; nên được gọi là Vi Diệu Pháp.”

Yaṃ panettha avisiṭṭhaṃ, taṃ —

“Piṭakaṃ piṭakatthavidū, pariyattibbhājanatthato āhu.

Tena samodhānetvā, tayopi vinayādayo ñeyyā”.

Pariyattipi hi “mā piṭakasampadānenā”tiādīsu[86] piṭakanti vuccati. “Atha puriso āgaccheyya kudālapiṭakamādāyā”tiādīsu[87] yaṃ kiñci bhājanampi. Tasmā ‘piṭakaṃ piṭakatthavidū pariyattibhājanatthato āhu.

Phần còn lại (chưa giải thích) được nói như sau:

“Các bậc thấu hiểu ý nghĩa của ‘Tạng’ gọi là ‘Tạng’
vì nghĩa là pháp học (pariyatti) và vì nghĩa là vật chứa đựng.
Do vậy, bằng cách gom nhóm theo nghĩa ấy,
ba Tạng – Luật v.v. – được nhận biết.”

Giải thích:

  • Từ “piṭaka” (Tạng) được dùng theo hai nghĩa:

    1. Nghĩa “pháp học” (pariyatti): như trong câu “Chớ có dựa vào ‘sự đạt được Tạng’ (piṭaka-sampadāna)…” – ở đây “piṭaka” chỉ toàn bộ phần học (pariyatti).
    2. Nghĩa “vật chứa đựng”: như trong câu “Giả sử có người đến, mang theo cái thúng đựng cuốc (kudāla-piṭaka)…”, ở đây “piṭaka” là đồ đựng.
  • Vì thế, những vị hiểu ý của từ “Tạng” nói “piṭaka” theo cả hai nghĩa: vừa là pháp học (pariyatti), vừa là vật chứa (bhājana). Do lấy hai nghĩa này làm chuẩn mà “gom nhóm” (samodhānetvā), nên biết có ba Tạng: Luật Tạng, Kinh Tạng, và Luận Tạng (bắt đầu là Luật…).

Idāni ‘tena samodhānetvā tayopi vinayādayo ñeyyā’ ’ti, tena evaṃ duvidhatthena piṭakasaddena saha samāsaṃ katvā vinayo ca so piṭakañca pariyattibhāvato, tassa tassa atthassa bhājanato cāti vinayapiṭakaṃ, yathāvutteneva nayena suttantañca taṃ piṭakañcāti suttantapiṭakaṃ, abhidhammo ca so piṭakañcāti abhidhammapiṭakanti. Evamete tayopi vinayādayo ñeyyā. Evaṃ ñatvā ca punapi tesuyeva piṭakesu nānappakārakosallatthaṃ —

“Desanāsāsanakathābhedaṃ tesu yathārahaṃ.

Sikkhāppahānagambhīrabhāvañca paridīpaye.

Pariyattibhedaṃ sampattiṃ, vipattiñcāpi yaṃ yahiṃ.

Pāpuṇāti yathā bhikkhu, tampi sabbaṃ vibhāvaye”.

Bây giờ, câu “Do gom nhóm theo nghĩa ấy nên biết ba Tạng: bắt đầu là Luật…” được giải thích như sau. Lấy ngay chính danh từ “piṭaka” (Tạng) với hai nghĩa đã nói (pháp học và vật chứa), đem kết hợp trong danh từ ghép:

  • “Luật” và “Tạng”: vì là phần pháp học (pariyatti), và vì là “vật chứa” các ý nghĩa tương ứng của Luật, nên gọi là “Luật Tạng” (Vinayapiṭaka).
  • Cũng theo cách đó, “Kinh” và “Tạng” thành “Kinh Tạng” (Suttantapiṭaka).
  • “Vi Diệu Pháp” và “Tạng” thành “Vi Diệu Pháp Tạng” (Abhidhammapiṭaka).

Như vậy nên biết ba Tạng: Luật, Kinh, Vi Diệu Pháp.

Và khi đã hiểu như thế, để nêu rõ thêm các khía cạnh khéo thông đa dạng ở ngay trong ba Tạng ấy, (có kệ):

“Trong các Tạng ấy, tùy trường hợp,
ta sẽ làm sáng tỏ sự phân chia:
bài thuyết (desanā), lời dạy (sāsana), và phần nghị luận (kathā);
cũng như giới (sikkhā), sự đoạn trừ (appahāna), và tính thâm sâu (gambhīrabhāva).

Ta cũng sẽ phân minh
các loại pháp học (pariyattibheda),
những thành tựu (sampatti) và những thất bại (vipatti)
mà một tỳ-kheo đạt hay rơi vào,
trong Tạng nào, bởi nhân gì – tất cả điều ấy, ta sẽ biện giải.”

Tatrāyaṃ paridīpanā vibhāvanā ca. etāni hi tīṇi piṭakāni yathākkamaṃ āṇā-vohāra-paramattha-desanā, yathāparādha-yathānuloma-yathādhamma-sāsanāni, saṃvarāsaṃvara-diṭṭhiviniveṭhana-nāmarūpaparicchedakathāti ca vuccanti. Ettha hi vinayapiṭakaṃ āṇārahena bhagavatā āṇābāhullato desitattā āṇādesanā, suttantapiṭakaṃ vohārakusalena bhagavatā vohārabāhullato desitattā vohāradesanā, abhidhammapiṭakaṃ paramatthakusalena bhagavatā paramatthabāhullato desitattā paramatthadesanāti vuccati.

Ở đây, phần “làm sáng tỏ và biện giải” là như sau. Ba Tạng ấy, theo thứ tự, cũng được gọi là:

  • “thuyết giảng theo mệnh lệnh – theo quy ước – theo chân đế” (ānā–vohāra–paramattha–desanā),
  • “giáo giới tùy theo lỗi – tùy theo căn tánh thuận hợp – tùy theo pháp” (yathāparādha–yathānuloma–yathādhamma–sāsanā),
  • và “các loại nghị luận: về chế ngự/không chế ngự – về tháo gỡ tà kiến – về phân định danh–sắc” (saṃvarā–asaṃvara–, diṭṭhi–viniveṭhana–, nāmarūpa–pariccheda–kathā).

Trong đó:

  • Vinaya Piṭaka được gọi là “ānā–desanā” (thuyết giảng theo mệnh lệnh), vì được Thế Tôn – bậc thích hợp để ban hành lệnh – thuyết dạy với sự phong phú các điều chế định (āṇā-bāhulla).
  • Suttanta Piṭaka được gọi là “vohāra–desanā” (thuyết giảng theo ngôn ngữ quy ước), vì được Thế Tôn – bậc thiện xảo về ngôn ngữ – thuyết dạy với sự phong phú các lối nói quy ước (vohāra-bāhulla).
  • Abhidhamma Piṭaka được gọi là “paramattha–desanā” (thuyết giảng theo chân đế), vì được Thế Tôn – bậc thiện xảo về chân đế – thuyết dạy với sự phong phú các pháp chân đế (paramattha-bāhulla).

Tathā paṭhamaṃ — ‘ye te pacurāparādhā sattā, te yathāparādhaṃ ettha sāsitā’ti yathāparādhasāsanaṃ, dutiyaṃ — ‘anekajjhāsayānusayacariyādhimuttikā sattā yathānulomaṃ ettha sāsitā’ti yathānulomasāsanaṃ, tatiyaṃ — ‘dhammapuñjamatte “ahaṃ mamā”ti saññino sattā yathādhammaṃ ettha sāsitā’ti yathādhammasāsananti vuccati.

Cũng như vậy, ba Tạng lần lượt được gọi là:

  • Tạng thứ nhất là “giáo giới tùy theo lỗi” (yathāparādha-sāsanā): vì “những chúng sanh nào có nhiều sai phạm, thì ngay tại đây họ được giáo giới tùy theo mức lỗi của mình”.

  • Tạng thứ hai là “giáo giới tùy thuận căn cơ” (yathānuloma-sāsanā): vì “những chúng sanh có muôn loại xu hướng tâm, tùy miên và nết hạnh khác nhau, tùy theo khuynh hướng ấy, họ được giáo giới tại đây”.

  • Tạng thứ ba là “giáo giới tùy theo pháp” (yathādhamma-sāsanā): vì “những chúng sanh chấp thủ với tri giác ‘ta, của ta’ trên chỉ-một-bó-cụm các pháp, thì tại đây họ được giáo giới đúng theo pháp (chân đế)”.

Tathā paṭhamaṃ — ajjhācārapaṭipakkhabhūto saṃvarāsaṃvaro ettha kathitoti saṃvarāsaṃvarakathā. Saṃvarāsaṃvaroti khuddako ceva mahanto ca saṃvaro, kammākammaṃ viya, phalāphalaṃ viya ca, dutiyaṃ — “dvāsaṭṭhidiṭṭhipaṭipakkhabhūtā diṭṭhiviniveṭhanā ettha kathitā”ti diṭṭhiviniveṭhanakathā, tatiyaṃ — “rāgādipaṭipakkhabhūto nāmarūpaparicchedo ettha kathito”ti nāmarūpaparicchedakathāti vuccati.

Cũng như vậy, ba Tạng lần lượt được gọi là:

  • Tạng thứ nhất là “nghị luận về chế ngự và không chế ngự” (saṃvara-asaṃvara-kathā): vì ở đây được thuyết về “chế ngự/không chế ngự” đối trị sự phi pháp (ajjhācāra). “Saṃvara-asaṃvara” gồm cả sự chế ngự nhỏ và lớn, tương tự như phân biệt việc làm và không làm, hay quả và không quả.

  • Tạng thứ hai là “nghị luận về tháo gỡ tà kiến” (diṭṭhi-viniveṭhana-kathā): vì ở đây được thuyết sự tháo gỡ (gỡ rối) tà kiến, đối trị sáu mươi hai kiến chấp.

  • Tạng thứ ba là “nghị luận về phân định danh–sắc” (nāmarūpa-pariccheda-kathā): vì ở đây được thuyết sự phân định danh và sắc, đối trị tham ái v.v.

Tīsupi cetesu tisso sikkhā, tīṇi pahānāni, catubbidho ca gambhīrabhāvo veditabbo. tathā hi vinayapiṭake visesena adhisīlasikkhā vuttā, suttantapiṭake adhicittasikkhā, abhidhammapiṭake adhipaññāsikkhā.

Trong cả ba Tạng này, nên biết có: ba học (tisso sikkhā), ba sự đoạn trừ (tīṇi pahānāni), và bốn mặt thâm sâu (catubbidho gambhīrabhāvo). Thật vậy:

  • Trong Luật tạng (Vinayapiṭaka) được nói nổi bật về Thắng Giới (adhisīla-sikkhā).
  • Trong Kinh tạng (Suttantapiṭaka) được nói nổi bật về Thắng Tâm (adhicitta-sikkhā).
  • Trong Vi Diệu Pháp tạng (Abhidhammapiṭaka) được nói nổi bật về Thắng Tuệ (adhipaññā-sikkhā).

Vinayapiṭake ca vītikkamappahānaṃ, kilesānaṃ vītikkamapaṭipakkhattā sīlassa. suttantapiṭake pariyuṭṭhānappahānaṃ, pariyuṭṭhānapaṭipakkhattā samādhissa. abhidhammapiṭake anusayappahānaṃ, anusayapaṭipakkhattā paññāya. Paṭhame ca tadaṅgappahānaṃ, itaresu vikkhambhana-samucchedappahānāni. Paṭhame ca duccaritasaṃkilesappahānaṃ, itaresu taṇhādiṭṭhisaṃkilesappahānaṃ[88].

Về ba sự đoạn trừ:

  • Trong Luật tạng là đoạn trừ mức “vi phạm” (vītikkama-pahāna), vì giới đối trị mức thô (vītikkama) của phiền não.
  • Trong Kinh tạng là đoạn trừ mức “khởi lên/xâm chiếm” (pariyuṭṭhāna-pahāna), vì định đối trị mức trung (pariyuṭṭhāna).
  • Trong Vi Diệu Pháp tạng là đoạn trừ mức “tùy miên” (anusaya-pahāna), vì tuệ đối trị mức vi tế (anusaya).

Về cách đoạn trừ:

  • Ở tạng thứ nhất là “đoạn trừ theo chi phần” (tadaṅga-pahāna).
  • Ở hai tạng còn lại là “đoạn trừ bằng đè nén” (vikkhambhana-pahāna) “đoạn trừ tận gốc” (samuccheda-pahāna).

Về đối tượng ô nhiễm được đoạn trừ:

  • Ở tạng thứ nhất là đoạn trừ các cấu uế do ác hạnh (duccarita-saṅkilesa: thân, khẩu, ý).
  • Ở hai tạng còn lại là đoạn trừ các cấu uế do tham ái và kiến chấp (taṇhā–diṭṭhi–saṅkilesa).

Ekamekasmiñcettha catubbidhopi dhammatthadesanā paṭivedhagambhīrabhāvo veditabbo. Tattha dhammoti tanti[89]. Atthoti tassāyeva attho. Desanāti tassā manasā vavatthāpitāya tantiyā desanā. Paṭivedhoti tantiyā tantiatthassa ca yathābhūtāvabodho. Tīsupi cetesu ete dhammatthadesanāpaṭivedhā. yasmā sasādīhi viya mahāsamuddo mandabuddhīhi dukkhogāḷhā alabbhaneyyapatiṭṭhā ca, tasmā gambhīrā. evaṃ ekamekasmiṃ ettha catubbidhopi gambhīrabhāvo veditabbo.

Và trong mỗi Tạng này, nên biết có bốn phương diện thâm sâu: thâm sâu về Pháp (dhamma), về Nghĩa (attha), về Thuyết giảng (desanā), và về Thấu triệt (paṭivedha).

Trong đó:

  • Pháp chính là Thánh điển (tanti).
  • Nghĩa là ý nghĩa của chính Thánh điển ấy.
  • Thuyết giảng là việc giảng dạy Thánh điển ấy sau khi đã được tâm kiến lập và sắp đặt.
  • Thấu triệt là sự thấu suốt như thật (yathābhūta-avabodho) cả Thánh điển và ý nghĩa của Thánh điển.

Cả ba Tạng đều có những phương diện (Pháp, Nghĩa, Thuyết giảng, Thấu triệt) này. Vì đối với những người trí tuệ nông cạn, chúng khó dò đến đáy và không thể tìm được chỗ đứng (dukkhogāḷhā alabbhaneyyapatiṭṭhā ca), cũng như đại dương đối với các loài vật nhỏ như thỏ v.v.; do đó chúng được gọi là ‘thâm sâu’ (gambhīrā).

Như vậy, trong mỗi một Tạng, nên hiểu có bốn phương diện thâm sâu như thế.

Aparo nayo, dhammoti hetu. Vuttañhetaṃ — “hetumhi ñāṇaṃ dhammapaṭisambhidā”ti[90]. Atthoti hetuphalaṃ, vuttañhetaṃ — “hetuphale ñāṇaṃ atthapaṭisambhidā”ti[91]. Desanāti paññatti, yathā dhammaṃ dhammābhilāpoti adhippāyo. anulomapaṭilomasaṅkhepavitthārādivasena vā kathanaṃ. Paṭivedhoti abhisamayo, so ca lokiyalokuttaro visayato asammohato ca, atthānurūpaṃ dhammesu, dhammānurūpaṃ atthesu, paññattipathānurūpaṃ paññattīsu avabodho. Tesaṃ tesaṃ vā tattha tattha vuttadhammānaṃ paṭivijjhitabbo salakkhaṇasaṅkhāto aviparītasabhāvo.

Theo một cách giải thích khác:

  • Pháp (dhamma) là nhân (hetu). Như có lời dạy: “Trí tuệ về nhân là Pháp phân tích tuệ” (dhammapaṭisambhidā).
  • Nghĩa (attha) là quả của nhân (hetuphala). Như có lời dạy: “Trí tuệ về quả của nhân là Nghĩa phân tích tuệ” (atthapaṭisambhidā).
  • Thuyết giảng (desanā) là sự chế định (paññatti), với ý nghĩa là việc trình bày pháp đúng theo pháp. Hoặc, đó là cách luận giải theo lối thuận và nghịch (anuloma-paṭiloma), tóm tắt và chi tiết (saṅkhepa-vitthāra), v.v.
  • Thấu triệt (paṭivedha) là sự chứng ngộ (abhisamayo). Sự chứng ngộ này, xét về phương diện đối tượng và sự không mê mờ, có hai loại: hiệp thế và siêu thế. Đó là sự liễu tri:
    • pháp tương ứng với nghĩa,
    • nghĩa tương ứng với pháp,
    • các chế định tương ứng với con đường của chế định.
      Hoặc, (thấu triệt cũng là) thực tánh không sai lệch (aviparīta-sabhāvo) của các pháp được nói đến, vốn được gọi là tự tướng (salakkhaṇa), là điều cần phải được thấu suốt.

Idāni yasmā etesu piṭakesu yaṃ yaṃ dhammajātaṃ vā atthajātaṃ vā, yā cāyaṃ yathā yathā ñāpetabbo attho sotūnaṃ ñāṇassa abhimukho hoti, tathā tathā tadatthajotikā desanā, yo cettha aviparītāvabodhasaṅkhāto paṭivedho, tesaṃ tesaṃ vā dhammānaṃ paṭivijjhitabbo salakkhaṇasaṅkhāto aviparītasabhāvo. Sabbampetaṃ anupacitakusalasambhārehi duppaññehi sasādīhi viya mahāsamuddo dukkhogāḷhaṃ alabbhaneyyapatiṭṭhañca, tasmā gambhīraṃ. evampi ekamekasmiṃ ettha catubbidhopi gambhīrabhāvo veditabbo.

Giờ đây, nên hiểu rằng trong các Tạng này:

  • Có những phạm trù Pháp (nhân) và những phạm trù Nghĩa (quả).
  • Có sự thuyết giảng (desanā) làm sáng tỏ ý nghĩa ấy theo cách hướng đến được trí tuệ của người nghe.
  • Có sự thấu triệt (paṭivedha), tức là sự liễu tri không sai lệch, hay chính là thực tánh không sai lệch (aviparīta-sabhāvo) — tức tự tướng (salakkhaṇa) — của các pháp, là điều cần được thấu suốt.

Tất cả những điều này, đối với những người trí tuệ yếu kém, chưa tích lũy đủ các tư lương thiện lành, thì khó có thể vào sâu và không tìm được chỗ nương, cũng như đại dương đối với các loài vật nhỏ như thỏ. Vì thế, chúng được gọi là ‘thâm sâu’.

Cũng vậy, nơi mỗi Tạng, nên hiểu có đủ cả bốn phương diện thâm sâu như thế.

Ettāvatā ca —

“Desanāsāsanakathā, bhedaṃ tesu yathārahaṃ.

Sikkhāppahānagambhīra, bhāvañca paridīpaye”ti —

Ayaṃ gāthā vuttatthāva hoti.

“Pariyattibhedaṃ sampattiṃ, vipattiñcāpi yaṃ yahiṃ.

Pāpuṇāti yathā bhikkhu, tampi sabbaṃ vibhāvaye”ti —

Ettha pana tīsu piṭakesu tividho pariyattibhedo daṭṭhabbo. Tisso hi pariyattiyo — alagaddūpamā, nissaraṇatthā, bhaṇḍāgārikapariyattīti.

Với những gì đã trình bày, ý nghĩa của bài kệ sau đây đã được làm rõ:

“Hãy làm sáng tỏ về Thuyết giảng, Giáo huấn, Luận giải,
Cùng sự khác biệt giữa chúng một cách thích đáng,
Và bản chất của Học giới, sự Đoạn trừ, cùng tính Thâm sâu.”

Giờ đây, đối với bài kệ:

“Cũng hãy làm rõ tất cả các loại Pháp học,
Sự thành tựu và cả sự thất bại mà một vị Tỳ-khưu,
Có thể đạt được trong mỗi Tạng, và bằng cách thức nào.”

Về điểm này, nên biết có ba loại Pháp học (pariyatti) trong ba Tạng. Thật vậy, có ba loại Pháp học là:

  1. Pháp học ví như (cách bắt) rắn độc (alagaddūpamā).
  2. Pháp học vì mục đích giải thoát (nissaraṇatthā).
  3. Pháp học của người giữ kho (bhaṇḍāgārikapariyatti).

Và chỉ bấy nhiêu –

Phải nên trình bày phần thuyết giảng, phần giáo lý, phần lời nói, và phần học giới, phần dứt trừ, phần có tính chất thâm sâu thích hợp trong các Tạng ấy”.

Đến đây, bài kệ:

“Trình bày phần thuyết giảng, phần giáo huấn, phần biện luận; và làm sáng tỏ, tùy theo chỗ thích hợp nơi các Tạng, về: học (sikkhā), đoạn trừ (pahāna), và các mặt thâm sâu (gambhīra-bhāva)”

được hiểu đúng như nghĩa đã nêu.

Và bài kệ tiếp:

“Vị Tỷ-kheo đạt đến, ở nơi nào, phần thành tựu hay phần không thành tựu của Pháp-học; đạt đến bằng phương thức nào; thì nên phân tích làm rõ tất cả những điều ấy”

Này đây, trong ba Tạng, nên thấy có ba hạng “Pháp-học” (pariyatti) theo cách phân loại ba bậc:

  • Pháp-học “ví như nắm rắn” (alagaddūpamā-pariyatti): người học sai cách, nắm pháp như nắm đuôi rắn độc, tự hại mình.
  • Pháp-học “hướng đến xuất ly” (nissaraṇattha-pariyatti): người học nhằm mục đích thoát ly khổ, ra khỏi luân hồi.
  • Pháp-học “kho tàng” (bhaṇḍāgārika-pariyatti): bậc A-la-hán thọ trì để giữ gìn và duy trì kho tàng Pháp bảo của Đức Phật.

Tattha yā duggahitā, upārambhādihetu pariyāpuṭā, ayaṃ alagaddūpamā. Uaṃ sandhāya vuttaṃ “Seyyathāpi, bhikkhave, puriso alagaddatthiko alagaddagavesī alagaddapariyesanaṃ caramāno, so passeyya mahantaṃ alagaddaṃ, tamenaṃ bhoge vā naṅguṭṭhe vā gaṇheyya, tassa so alagaddo paṭiparivattitvā[92] hatthe vā bāhāyaṃ vā aññatarasmiṃ vā aṅgapaccaṅge ḍaṃseyya, so tato nidānaṃ maraṇaṃ vā nigaccheyya, maraṇamattaṃ vā dukkhaṃ. Taṃ kissa hetu? Duggahitattā, bhikkhave, alagaddassa. Evameva kho, bhikkhave, idhekacce moghapurisā dhammaṃ pariyāpuṇanti, suttaṃ … pe … vedallaṃ, te taṃ dhammaṃ pariyāpuṇitvā tesaṃ dhammānaṃ paññāya atthaṃ na upaparikkhanti, tesaṃ te dhammā paññāya atthaṃ anupaparikkhataṃ na nijjhānaṃ khamanti, te upārambhānisaṃsā ceva dhammaṃ pariyāpuṇanti, itivādappamokkhānisaṃsā ca, yassa catthāya dhammaṃ pariyāpuṇanti, tañcassa atthaṃ nānubhonti, tesaṃ te dhammā duggahitā dīgharattaṃ ahitāya dukkhāya saṃvattanti. taṃ kissa hetu? duggahitattā, bhikkhave, dhammānan”[93]ti.

Ở đây, hạng người nào học Pháp Học sai lệch, là học tập vì mục đích chỉ trích người khác v.v, thì Pháp Học này ví như người bắt rắn độc phần đuôi được đức Thế Tôn nói đề cập như sau: “Này chư Tỳ khưu, ví như một người ưa thích bắt rắn, tìm cầu con rắn, kẻ khắp chỗ để tìm con rắn, người đó thấy một con rắn nước lớn, và người đó bắt con rắn ấy ở lưng hay ở đuôi, con rắn ấy có thể quay lại cắn người đó ở tay hoặc ở cánh tay hay ở bất kỳ chi phần lớn nhỏ nào của cơ thể của người ấy, và người đó có thể do nhân này mà bị chết hay bị đau khổ gần như chết. Vì sao vậy? Này chư Tỳ khưu, vì người ấy bắt con rắn sai cách. Cũng vậy này các Tỳ khưu, ở đây có một số người rỗng không học pháp, như Kinh …nt… Phương quảng. Sau khi học các pháp này, những kẻ rông không không suy xét ý nghĩa những pháp ấy với trí tuệ, họ học các pháp chỉ vì lợi ích, vì mục đích muốn chỉ trích người khác, và vì lợi ích muốn thoát khỏi sự vu khống ấy, nên mới học tập Giáo Pháp. Những kẻ rỗng không học tập Pháp vì lợi ích của Pháp nào cũng không không đạt được mục tiêu của Pháp đó hướng đến, những Pháp ấy họ nắm giữ sai lạc nên đưa đến bất hạnh, đau khổ lâu dài. Vì sao vậy? Này các Tỳ khưu, vì các Pháp ấy những kẻ rỗng không học tập sai đường lối.”

Yā pana suggahitā sīlakkhandhādipāripūriṃyeva ākaṅkhamānena pariyāpuṭā, na upārambhādihetu, ayaṃ nissaraṇatthā. Yaṃ sandhāya vuttaṃ — “Tesaṃ te dhammā suggahitā dīgharattaṃ hitāya sukhāya saṃvattanti. taṃ kissa hetu? suggahitattā, bhikkhave, dhammānan”ti (ma. ni. 1.239).

Còn loại Pháp-học được nắm giữ đúng đắn (suggahitā), do người học ước muốn viên mãn các uẩn công đức như Giới uẩn v.v. (sīlakkhandhādi-pāripūri), chứ không nhằm các mục đích như bắt bẻ, chỉ trích v.v. (na upārambhādi-hetu), thì đây là Pháp-học “vì mục đích xuất ly” (nissaraṇatthā).

Vì thế mới nói:
“Những pháp của họ, khi được nắm giữ đúng đắn, sẽ đưa đến lợi ích và an lạc lâu dài. Vì sao vậy? Này các Tỷ-kheo, vì các pháp ấy đã được nắm giữ đúng đắn.” (MN I 239)

Yaṃ pana pariññātakkhandho pahīnakileso bhāvitamaggo paṭividdhākuppo sacchikatanirodho khīṇāsavo kevalaṃ paveṇīpālanatthāya vaṃsānurakkhaṇatthāya pariyāpuṇāti, ayaṃ bhaṇḍāgārikapariyattīti.

Còn bậc A-ra-hán có uẩn đã được biết toàn diện, có phiền não đã dứt trừ, có Đạo đã được tu tập, có Thánh Quả A-ra-hán đã thấu triệt, có sự diệt tận đã tác chứng, học tập Pháp Học nào nhằm mục đích gìn giữ truyền thống, nhằm mục đích duy trì dòng dõng Phật, đây gọi là học tập Pháp học cốt để giữ gìn, duy trì kho tàng Pháp bảo của Đức Phật.

Vinaye pana suppaṭipanno bhikkhu sīlasampadaṃ nissāya tisso vijjā pāpuṇāti, tāsaṃyeva ca tattha pabhedavacanato. Sutte suppaṭipanno samādhisampadaṃ nissāya cha abhiññā pāpuṇāti, tāsaṃyeva ca tattha pabhedavacanato. Abhidhamme suppaṭipanno paññāsampadaṃ nissāya catasso paṭisambhidā pāpuṇāti, tāsañca[94] tattheva pabhedavacanato, evametesu suppaṭipanno yathākkamena imaṃ vijjāttayachaḷabhiññācatuppaṭisambhidābhedaṃ sampattiṃ pāpuṇāti.

  • Còn đối với Luật tạng, vị Tỷ-kheo khéo thực hành (suppaṭipanno), nương vào sự thành tựu về Giới (sīla-sampadā), đạt được Tam minh (tisso vijjā); và ở đó chính Tam minh ấy cũng được nói theo các phương diện phân loại của chúng.
  • Đối với Kinh tạng, vị khéo thực hành, nương vào sự thành tựu về Định (samādhi-sampadā), đạt được Sáu thắng trí (cha abhiññā); và ở đó chính Sáu thắng trí ấy cũng được nói theo các phương diện phân loại của chúng.
  • Đối với Vi diệu pháp tạng, vị khéo thực hành, nương vào sự thành tựu về Tuệ (paññā-sampadā), đạt được Bốn tuệ phân tích (catasso paṭisambhidā); và ở đó chính bốn tuệ ấy cũng được nói theo các phương diện phân loại của chúng.

Như vậy, nơi ba Tạng, vị khéo thực hành lần lượt đạt được sự thành tựu được phân loại thành: Tam minh, Sáu thắng trí, và Bốn tuệ phân tích.

Vinaye pana duppaṭipanno anuññāta-sukhasamphassāttharaṇapāvuraṇādi-phassasāmaññato paṭikkhittesu upādinnakaphassādīsu anavajjasaññī hoti. Vuttampi hetaṃ — “Tathāhaṃ bhagavatā dhammaṃ desitaṃ ājānāmi, yathā ye me antarāyikā dhammā antarāyikā vuttā bhagavatā, te paṭisevato nālaṃ antarāyāyā”ti[95]. Tato dussīlabhāvaṃ pāpuṇāti. Sutte duppaṭipanno — “Cattāro me, bhikkhave, puggalā santo saṃvijjamānā”tiādīsu[96] adhippāyaṃ ajānanto duggahitaṃ gaṇhāti, yaṃ sandhāya vuttaṃ — “Attanā duggahitena amhe ceva abbhācikkhati, attānañca khaṇati, bahuñca apuññaṃ pasavatī”ti[97]. Tato micchādiṭṭhitaṃ pāpuṇāti. Abhidhamme duppaṭipanno dhammacintaṃ atidhāvanto acinteyyānipi cinteti. Tato cittakkhepaṃ pāpuṇāti, vuttañhetaṃ — “Cattārimāni, bhikkhave, acinteyyāni, na cintetabbāni, yāni cintento ummādassa vighātassa bhāgī assā”ti[98]. Evametesu duppaṭipanno yathākkamena imaṃ dussīlabhāva micchādiṭṭhitā cittakkhepabhedaṃ vipattiṃ pāpuṇātī”ti.

  • Còn trong Luật tạng, vị Tỷ-kheo hành trì không khéo (duppaṭipanno) xem những xúc chạm thuộc loại được Đức Phật cho phép vì tiện nghi an ổn như nệm, trải, y phủ v.v. (anuññāta-sukha-samphassa: āttharaṇa, pāvuraṇa, v.v.) là “tương tự” với những xúc chạm bị cấm có tính chấp thủ như xúc do vật nhận lãnh, ưa thích v.v. (upādinnaka-phassa-ādi), nên khởi tưởng “không lỗi” (anavajja-saññī) đối với các xúc chạm vốn bị cấm ấy. Đã được nói rằng: “Này chư Hiền, ta hiểu pháp do Thế Tôn thuyết như vầy: những pháp được Thế Tôn nói là chướng ngại, nếu ta thực hành, thì không đủ sức trở thành chướng ngại cho ta.” Do vậy, vị ấy rơi vào ác giới (dussīlabhāva).

  • Trong Kinh tạng, vị hành trì không khéo, khi gặp các đoạn như “Này các Tỷ-kheo, có bốn hạng người hiện hữu…” v.v., không hiểu được chủ ý (adhippāya), bèn nắm bắt sai (duggahita). Vì thế mới có lời dạy: “Do tự mình nắm bắt sai, người ấy vu cáo cả chúng ta, tự đào hố cho mình, và tạo ra nhiều bất thiện nghiệp.” Từ đó, vị ấy rơi vào tà kiến (micchādiṭṭhi).

  • Trong Vi diệu pháp tạng, vị hành trì không khéo, chạy theo suy luận pháp (dhammacintā) quá đà, còn suy nghĩ cả những điều không thể nghĩ (acinteyya). Từ đó, vị ấy rơi vào cuồng loạn tâm (cittakkhepa). Quả thật đã dạy: “Này các Tỷ-kheo, có bốn điều không thể nghĩ bàn; không nên nghĩ bàn; ai nghĩ bàn đến thì sẽ phần nào rơi vào điên loạn và khổ bức.”

Như vậy, trong ba Tạng, vị hành trì không khéo, theo thứ tự, rơi vào các sự thất bại (vipatti) phân loại thành: ác giới, tà kiến, và cuồng loạn tâm.

Ettāvatā ca —

“Pariyattibhedaṃ sampattiṃ, vipattiñcāpi yaṃ yahiṃ.

Pāpuṇāti yathā bhikkhu, tampi sabbaṃ vibhāvaye”ti –

Ayampi gāthā vuttatthāva[99] hoti. Evaṃ nānappakārato piṭakāni ñatvā tesaṃ vasenetaṃ buddhavacanaṃ tividhanti ñātabbaṃ.

Đến đây, bài kệ:

“Phàm vị Tỷ-kheo, ở nơi nào, đạt đến loại Pháp-học nào,
sự thành tựu nào, và cả sự thất bại nào, bằng phương thức nào,
thì hãy làm sáng tỏ tất cả những điều ấy.”

cũng được hiểu đúng như nghĩa đã nêu.

Như vậy, sau khi nhận biết các Tạng theo nhiều phương diện sai khác, nên biết rằng, tùy theo các Tạng ấy, lời Phật dạy (buddhavacana) được phân ba: Kinh, Luật, và Vi diệu pháp.

Kathaṃ nikāyavasena pañcavidhaṃ? Sabbameva cetaṃ dīghanikāyo, majjhimanikāyo, saṃyuttanikāyo, aṅguttaranikāyo, khuddakanikāyoti pañcappabhedaṃ hoti. Tattha katamo dīghanikāyo? Tivaggasaṅgahāni brahmajālādīni catuttiṃsa suttāni.

“Catuttiṃseva suttantā, tivaggo yassa saṅgaho.

Esa dīghanikāyoti, paṭhamo anulomiko”ti.

Kasmā panesa Dīghanikāyoti vuccati? Dīghappamāṇānaṃ suttānaṃ samūhato nivāsato ca. Samūhanivāsā hi nikāyoti[100] vuccanti. “nāhaṃ, bhikkhave, aññaṃ ekanikāyampi samanupassāmi evaṃ cittaṃ, yathayidaṃ, bhikkhave, tiracchānagatā pāṇā”[101] , Poṇikanikāyo Cikkhallikanikāyoti[102] evamādīni cettha sādhakāni sāsanato lokato ca. Evaṃ sesānampi nikāyabhāve vacanattho veditabbo.

Hỏi: Theo phân loại “Bộ” (nikāya), làm sao thành năm loại?

Đáp: Tất cả phần này được phân thành năm bộ: Trường Bộ (Dīgha-nikāya), Trung Bộ (Majjhima-nikāya), Tương Ưng Bộ (Saṃyutta-nikāya), Tăng Chi Bộ (Aṅguttara-nikāya) và Tiểu Bộ (Khuddaka-nikāya).

Trong đó, thế nào là Trường Bộ? Gồm ba mươi bốn bài kinh, khởi đầu là Kinh Phạm Võng (Brahmajāla), được gom thành ba phẩm (tivagga-saṅgaha).

Bài kệ:

“Bộ nào có ba mươi bốn kinh, được thu gom thành ba phẩm,
ấy là Trường Bộ; đây là định nghĩa đầu tiên, thuận chiều.”

Vì sao gọi là Trường Bộ (Dīgha-nikāya)? Vì là tập hợp (samūha) và nơi lưu trú (nivāsa) của những bài kinh có độ dài lớn. Thực vậy, “tập hợp và nơi lưu trú” được gọi là nikāya. Chứng cứ cho cách dùng này có trong lời dạy: “Này các Tỷ-kheo, Ta không thấy một bộ nào (eka-nikāya) có tâm như vậy, như là, này các Tỷ-kheo, loài hữu tình thuộc thú bàng sinh”; và trong cách nói ở thế gian như “Bộ Poṇika, Bộ Cikkhallika.” Theo cách ấy, ý nghĩa từ ngữ xác lập “tính bộ” cũng nên được hiểu tương tự đối với các bộ còn lại.

Katamo Majjhimanikāyo? Majjhimappamāṇāni pañcadasavaggasaṅgahāni mūlapariyāyasuttādīni diyaḍḍhasataṃ dve ca suttāni.

“Diyaḍḍhasatasuttantā, dve ca suttāni yattha so.

Nikāyo majjhimo pañca, dasavaggapariggaho”ti.

Thế nào là Trung Bộ Kinh? Bộ Kinh có một trăm năm mươi hai bài kinh bắt đầu với bài kinh Căn Bản Pháp Môn v.v, được kết tập thành mười lăm chương.

Bộ Kinh nào có một trăm năm mươi hai bài kinh, được kết tập thành mười lăm chương. Bộ Kinh đó gọi là Trung Bộ Kinh

Katamo Saṃyuttanikāyo? Devatāsaṃyuttādivasena kathitāni Oghataraṇādīni satta suttasahassāni satta ca suttasatāni dvāsaṭṭhi ca suttāni.

“Sattasuttasahassāni, sattasuttasatāni ca.

Dvāsaṭṭhi ceva suttantā, eso saṃyuttasaṅgaho”ti.

Thế nào là Tương Ưng Bộ Kinh? Bộ Kinh có bảy ngàn bảy trăm sáu mươi hai bài kinh bắt đầu với bài kinh Vượt Bộc Lưu v.v, được thuyết khi nói về Tương Ưng Thiên v.v.

Bộ Kinh có bảy ngàn bảy trăm sáu mươi hai bài kinh được kết tập thành Tương Ưng Bộ.”

Katamo Aṅguttaranikāyo? Ekekāṅgātirekavasena kathitāni Cittapariyādānādīni nava suttasahassāni pañca suttasatāni sattapaññāsañca suttāni.

“Nava suttasahassāni, pañca suttasatāni ca.

Sattapaññāsa suttāni, saṅkhyā aṅguttare ayan”ti.

Thế nào là Tăng Chi Bộ Kinh? Bộ Kinh có chín ngàn năm trăm năm mươi bảy bài kinh bắt đầu với bài kinh Sự Xâm Chiếm và Chế Ngự Tâm [Cittapariyādānā] được thuyết do tác động của việc thêm vào mỗi phần một chi phần.

Số lượng bài kinh trong Tăng Chi Bộ này là chín ngàn năm trăm năm mươi bảy bài kinh.

Katamo Khuddakanikāyo? sakalaṃ vinayapiṭakaṃ, abhidhammapiṭakaṃ, khuddakapāṭhādayo ca pubbe dassitā pañcadasappabhedā, ṭhapetvā cattāro nikāye avasesaṃ buddhavacanaṃ.

“Ṭhapetvā caturopete, nikāye dīghāadike.

Tadaññaṃ buddhavacanaṃ, nikāyo khuddako mato”ti.

Evaṃ nikāyavasena pañcavidhaṃ.

Thế nào là Tiểu Bộ Kinh? Toàn bộ Tạng Luật, toàn bộ Tạng Vi Diệu Pháp, mười lăm phần riêng biệt có Tiểu Bộ v.v, và Phật ngôn còn lại ngoại trừ 4 Bộ Kinh.

Ngoại trừ 4 Bộ Kinh có Trường Bộ v.v, thì Phật ngôn khác còn lại ngài gọi là Tiểu Bộ. Như vậy, Phật ngôn có 5 phần khi nói về Nikaya [Bộ Kinh].

Kathaṃ aṅgavasena navavidhaṃ? sabbameva hidaṃ Suttaṃ, Geyyaṃ, Veyyākaraṇaṃ, Gāthā, Udānaṃ, Itivuttakaṃ, Jātakaṃ, Abbhutadhammaṃ, Vedallanti navappabhedaṃ hoti. Tattha Ubhatovibhaṅga-niddesa-khandhaka-parivārā, Suttanipāte Maṅgalasutta-ratanasutta-nālakasutta-tuvaṭṭakasuttāni ca aññampi ca suttanāmakaṃ tathāgatavacanaṃ suttanti veditabbaṃ. Sabbampi sagāthakaṃ suttaṃ Geyyanti veditabbaṃ. Visesena Saṃyuttake sakalo pi sagāthakavaggo. Sakalampi Abhidhammapiṭakaṃ niggāthakaṃ suttaṃ yañca aññampi aṭṭhahi aṅgehi asaṅgahitaṃ Buddhavacanaṃ taṃ Veyyākaranan’ti veditabbaṃ. Dhammapadaṃ Theragāthā Therigāthā Suttanipāte no suttanāmikā suddhikagāthā ca Gāthā’ti veditabbā. Somanassañāṇamayikagāthāpaṭisaṃyuttā dve asīti suttantā Udānan’ti veditabbaṃ. “Vuttañhetaṃ bhagavatā”tiādinayappavattā[103] dasuttarasatasuttantā Itivuttakanti veditabbaṃ. apaṇṇakajātakādīni paññāsādhikāni pañcajātakasatāni ‘Jātakan’ti veditabbaṃ. “Cattārome, bhikkhave, acchariyā abbhutā dhammā ānande”tiādinayappavattā[104] sabbepi acchariyabbhutadhammapaṭisaṃyuttasuttantā Abbhutadhammanti veditabbaṃ. Cūḷavedalla Mahāvedalla Sammādiṭṭhi Sakkapañha Saṅkhārabhājaniya Mahāpuṇṇamasuttādayo[105] sabbepi vedañca tuṭṭhiñca laddhā laddhā pucchitasuttantā vedallan’ti veditabbaṃ. evaṃ aṅgavasena navavidhaṃ.

Thế nào là có chín phần khi nói về Thể [Aṅga]? Bởi vì toàn bộ gồm có chín hình thức khác biệt, đó là Kinh [sutta], Ứng Tụng [Geyya], Ký Thuyết [Veyyākaraṇa], Kệ Ngôn [Gāthā], Phật Tự Thuyết [Udāna], Phật Thuyết Như Vậy [Itivuttaka], Bổn Sanh [Jātaka], Abbhūtadhamma [Pháp Kỳ Diệu Phi Thường], và Phương Quảng [Vedalla]. Trong trường hợp này, Phân Tích Luật Lưỡng Phái, Diễn Giải, Hợp Phần, Tập Yếu, các bài kinh như Hạnh Phúc Kinh, Kinh Châu Báu, Kinh Nalaka, Kinh Tuvaṭaka trong Kinh Tập, và các lời dạy của đức Như Lai có tựa đề là Kinh thì được xếp vào thể Sutta. Các bài kinh có xen các bài kệ vào nên biết là thể Geyya; đặc biệt toàn bộ Thiên Có Kệ trong Tương Ưng Bộ nên biết là thể Geyya. Toàn bộ Tạng Vi Diệu Pháp, các bài kinh không có các bài kệ, và các lời dạy khác của đức Phật không được xếp vào tám thể trên thì Phật ngôn ấy nên biết là thể Veyyākaraṇa. Pháp Cú, Trưởng Lão Kệ, Trưởng Lão Ni Kệ và thuần về kệ không được gọi là Kinh trong Kinh Tập nên biết là thể Gāthā. Tám mươi hai bài kinh phối hợp với các bài kệ do tuệ giác đồng sanh với thọ hỷ nên biết là thể Udāna. Một trăm mười bài kinh được giới thiệu bằng: “Đức Thế Tôn thuyết về điều ấy như vầy” thì được xếp vào thể Itivuttaka. Năm trăm năm mươi Bổn Sanh bắt đầu bằng Bổn Sanh Apannaka nên biết là thể Jātaka. Tất cả các bài kinh gắn liền với những câu chuyện chưa từng có (được) xuất hiện toàn bộ đều kỳ diệu phi thường và được giới thiệu theo phương thức như sau: “Này các Tỳ khưu, có bốn pháp kỳ diệu phi thường ở Ānanda,” nên biết là thể Abbhūtadhamma. Tất cả các bài kinh được hỏi và tất cả đều được liên tục ghi nhận trong sự hiểu biết và hoan hỷ như các bài kinh Cullavedalla, Mahāvedalla, Sammādiṭṭhi, Sakkapañhā, Saṅkhārabhājaniya, Mahāpuṇṇama, v.v…được xếp vào thể Vedalla. Như thế lời Phật dạy có chín phần khi đề cập đến Thể.

Kathaṃ dhammakkhandhavasena caturāsītisahassavidhaṃ? Sabbameva cetaṃ buddhavacanaṃ —

“Dvāsīti buddhato gaṇhiṃ, dve sahassāni bhikkhuto.

Caturāsīti sahassāni, ye me dhammā pavattino”ti.[106]

Hỏi: Theo phương diện “Pháp uẩn” (dhammakkhandha), làm sao thành tám mươi bốn ngàn?

Đáp: Toàn bộ lời Phật dạy (buddhavacana) được tính như sau, y theo lời Trưởng lão Ānanda:

“Ta thọ học từ Đức Phật tám mươi hai ngàn pháp,
và từ bậc Trưởng lão Tỷ-kheo hai ngàn pháp.
Tổng cộng là tám mươi bốn ngàn pháp đang được lưu hành nơi ta.”

Evaṃ paridīpitadhammakkhandhavasena caturāsītisahassappabhedaṃ hoti. Tattha ekānusandhikaṃ suttaṃ eko dhammakkhandho. Yaṃ anekānusandhikaṃ, tattha anusandhivasena dhammakkhandhagaṇanā. Gāthābandhesu pañhāpucchanaṃ eko dhammakkhandho, vissajjanaṃ eko. abhidhamme ekamekaṃ tikadukabhājanaṃ, ekamekañca cittavārabhājanaṃ, ekameko dhammakkhandho. Vinaye atthi vatthu, atthi mātikā, atthi padabhājanīyaṃ, atthi antarāpatti, atthi āpatti, atthi anāpatti, atthi tikacchedo. tattha ekameko koṭṭhāso ekameko dhammakkhandhoti veditabbo. evaṃ dhammakkhandhavasena caturāsītisahassavidhaṃ.

Như vậy, theo cách phân loại dựa trên Pháp uẩn (dhammakkhandha) đã được trình bày, (lời Phật dạy) có tám mươi bốn ngàn loại. Cụ thể như sau:

  • Một bài kinh chỉ có một chủ đề (ekānusandhika) được tính là một pháp uẩn. Với bài kinh có nhiều chủ đề (anekānusandhika), việc đếm pháp uẩn được tính theo số lượng chủ đề.
  • Trong các phần được soạn bằng kệ (gāthābandha), câu hỏi là một pháp uẩn, câu trả lời là một pháp uẩn.
  • Trong Vi diệu pháp tạng, mỗi một phần phân tích Tam đề (tika-bhājana), Nhị đề (duka-bhājana), và mỗi một phần phân tích theo chương tâm (cittavāra-bhājana) là một pháp uẩn.
  • Trong Luật tạng, thì có phần câu chuyện [vatthu], có phần tiêu đề [mātikā], có phần phân tích từ ngữ [padabhājanīyaṃ], có phần phạm tội [antarāpatti], có phần không phạm tội [anāpatti], và tam đoạn phân định (tikaccheda). Trong đó, mỗi một phần như vậy (ekameko koṭṭhāso) được hiểu là một pháp uẩn.

Như vậy, theo cách tính Pháp uẩn, (lời Phật dạy) có tám mươi bốn ngàn loại.

Evametaṃ abhedato rasavasena ekavidhaṃ, bhedato dhammavinayādivasena duvidhādibhedaṃ buddhavacanaṃ saṅgāyantena Mahākassapappamukhena vasīgaṇena “ayaṃ dhammo, ayaṃ vinayo, idaṃ paṭhamabuddhavacanaṃ, idaṃ majjhimabuddhavacanaṃ, idaṃ pacchimabuddhavacanaṃ, idaṃ vinayapiṭakaṃ, idaṃ suttantapiṭakaṃ, idaṃ abhidhammapiṭakaṃ, ayaṃ dīghanikāyo … pe … ayaṃ khuddakanikāyo, imāni suttādīni navaṅgāni, imāni caturāsīti dhammakkhandhasahassānī”ti, imaṃ pabhedaṃ vavatthapetvāva saṅgītaṃ. Na kevalañca imameva, aññampi uddānasaṅgaha vaggasaṅgaha peyyālasaṅgaha ekakanipāta dukanipātādinipātasaṅgaha saṃyuttasaṅgaha paṇṇāsasaṅgahādi anekavidhaṃ tīsu piṭakesu sandissamānaṃ saṅgahappabhedaṃ vavatthapetvā eva sattahi māsehi saṅgītaṃ

Như vậy, theo phương diện “không phân chia” thì (giáo pháp) là một vị (rasa) duy nhất; còn theo phương diện “phân chia”, thì tùy theo Pháp–Luật v.v. mà thành hai loại trở lên. Khi kết tập, hội chúng các bậc thiện xảo do Trưởng lão Mahākassapa đứng đầu đã xác lập rành rẽ các phân loại như sau rồi mới trùng tụng: “Đây là Pháp (dhamma), đây là Luật (vinaya); đây là lời Phật dạy thuộc phần đầu (paṭhama-buddhavacana), đây là phần giữa (majjhima-buddhavacana), đây là phần cuối (pacchima-buddhavacana); đây là Tạng Luật, đây là Tạng Kinh, đây là Tạng Vi diệu pháp; đây là Trường Bộ … đây là Tiểu Bộ; đây là chín chi (nāvanga) bắt đầu từ Kinh (sutta) v.v.; đây là tám mươi bốn ngàn pháp uẩn (dhammakkhandha).” Không chỉ vậy, các ngài còn xác lập nhiều dạng “tổng tập” (saṅgaha) khác nữa thấy hiện trong cả ba Tạng, như: tổng tập Uddāna, tổng tập Vagga, tổng tập Peyyāla, tổng tập theo “Một pháp” (Ekakanipāta), “Hai pháp” (Dukanipāta) v.v., tổng tập theo “Tương ưng”, tổng tập theo “Năm mươi” v.v. Sau khi phân định các hệ thống tổng tập ấy, việc kết tập được hoàn tất trong bảy tháng.

Saṅgītipariyosāne cassa — “Idaṃ Mahākassapattherena Dasabalassa sāsanaṃ pañcavassasahassaparimāṇakālaṃ pavattanasamatthaṃ katan”ti sañjātappamodā sādhukāraṃ viya dadamānā ayaṃ mahāpathavī udakapariyantaṃ katvā anekappakāraṃ kampi saṅkampi sampakampi sampavedhi, anekāni ca acchariyāni pāturahesunti.

Ayaṃ paṭhamamahāsaṅgīti nāma. Yā loke — “Satehi pañcahi katā, tena pañcasatāti ca. Thereheva katattā ca, therikāti pavuccatī”ti.[107]

Vào lúc kết thúc cuộc kết tập, đại địa này, vòng quanh tận đến mé nước, rung chuyển nhiều cách: chấn động, rung lắc, rung chuyển mạnh, phát chấn kinh; và nhiều điều kỳ diệu hiện bày, như thể bày tỏ hoan hỷ tán thán: “Giáo huấn của Đấng Thập Lực này đã được Trưởng lão Mahākassapa làm cho có khả năng vận hành trọn đủ suốt năm ngàn năm.”

Cuộc ấy được gọi là “Đại kết tập lần thứ nhất”. Ở đời, vì được năm trăm vị làm nên nên gọi là “cuộc (kết tập) của năm trăm”, và vì chính các vị Trưởng lão thực hiện nên gọi là “Therī/Theriya (của chư Trưởng lão)”.

Phần Giới Thiệu Kết Thúc



[1] 5 cảnh giới tái sanh là địa ngục, ngạ quỷ, bàng sanh, nhân loại, và chư thiên.

[2] Ka. vigatamalaṃ

[3] Syā. theravaṃsappadīpānaṃ, Sī. theravaṃsapadīpānaṃ

[4] Syā. paññāsakalavinicchayo, Sī. paññāsaṅkhalananicchayo, ka. paññāsaṅgahanicchayo

[5] ka. netaṃ

[6] Trường Bộ Kinh, Trung Bộ Kinh, Tương Ưng Bộ Kinh, Tăng Chi Bộ Kinh

[7] Sī. Pāṭikavaggoti, Syā. Pātiyavaggoti

[8] Ka. Tesu

[9] Syā. Visākhapuṇṇamadivase

[10] cūḷava. 43

[11] dī. ni. 2.216

[12] saṃ. ni. 2.154

[13] Sī, Syā. Yāvadeva Saṃ 1. 412 piṭṭhe.

[14] saṃ. ni. 2.152

[15] Sī, Syā. Ānaṇyaṃ

[16] cūḷava. 437

[17] Ka. Dibbati, Vi 4. 481 piṭṭhe.

[18] Sī, Syā. Paṭibāhīyati

[19] cūḷava. 437

[20] Sī. Ekenunā

[21] cūḷava. 437

[22] Bởi vì toàn bộ lời dạy bao gồm chín hình thức khác biệt là Kinh [sutta], Ứng Tụng [Geyya], Ký Thuyết [Veyyākaraṇa], Kệ Ngôn [Gāthā], Phật Tự Thuyết (Udāna), Phật Thuyết Như Vậy [Itivuttaka], Bổn Sanh [Jātaka], Abbhūtadhamma [Kỳ Diệu Phi Thường], và Phương Quảng [Vedalla]

[23] Ka. Yaṃ kiñci

[24] Ka. Dasabalena desitaṃ

[25] Sī. Dvāsītiṃ

[26] theragā. 1027

[27] Syā. Nevāyaṃ

[28] saṃ. ni. 2.154

[29] cūḷava. 437

[30] cūḷava. 437

[31] Sī. Vasantā

[32] Syā. Sammati

[33] cūḷava. 438

[34] Sī, Syā, I. Santhāgārasālāyaṃ, Ma-Ṭṭha 2. 173 piṭṭhepi.

[35] Syā. Nanu bhante

[36] Sī. Nahānakoṭṭhaka

[37] Sī. Sīhaseyyaṃ kappanakālo, Syā. sīhaseyyākappanakālo

[38] dī. ni. 1.447

[39] cūḷava. 438

[40] Syā. Āsāḷhapuṇṇamāyaṃ

[41] cūḷava. 438

[42] Sī. Vissatthā, Syā. Visaṭṭha

[43] Sī. Sattapaṇṇiiguhadvāre, Syā. Sattapaṇṇaguhādvāre

[44] Syā. Vissukammunā, Ka. Visukammunā

[45] Syā, Ka. Jalantamiva

[46] Sī, Syā. Ratanavicitta

[47] Syā. Bibbohanaṃ

[48] dī. ni. 2.207

[49] Sī, Syā. Pakkhassa

[50] Syā. Sādhukārassa dānaṃ

[51] Ka. Āyasmā

[52] Syā, Ka. Kaṃ

[53] Vi-ṭṭha 1.11; Theragāthā-ṭṭha 1. 476; Khuddakapāṭha-ṭṭha 82 piṭṭhesupi.

[54] Ka. ṭhitaṃ nāma

[55] a. ni. 1.228

[56] cūḷava. 439

[57] Sī, Syā, I. Vījaniṃ

[58] cūḷava. 439

[59] Sī, Syā. Tampi

[60] Dhammasaṅgāhaka-therā: Danh hiệu dành cho các vị Tỳ khưu trưởng lão thực hiện cuộc đại hội trùng tụng Pháp và Luật. Chư vị thỉnh thoảng có thêm vào Kinh điển một số chi tiết để giảng giải hoặc tóm tắt những gì đã trùng tuyên.

[61] Sī, Ka. Vīsādhikāni

[62] Sī, Syā. Mahāpaṭhavī akampittha

[63] Sī, Syā. dasasahassīlokadhātukampanaṃ

[64] cūḷava. 440

[65]  cūḷava. 437

[66] dha. pa. 153-54

[67] mahāva. 1

[68] dī. ni. 2.218

[69] Syā. Dvāsīti

[70] Sī, Syā. Paṭisambhidā

[71] Sī, Syā. suttaṃ suttanti

[72] Syā. Nulomavasena

[73] Sī. Sūdati. Syā, Sī. sūdati atthe

[74] ma. ni. 3.389

[75] ma. ni. 1.49

[76] ma. ni. 2.399

[77] mahāva. 85

[78] vi. va. 819

[79] dha. sa. 251

[80] vibha. 642

[81] dha. sa. 1

[82] dha. sa. tikamātikā 11, dukamātikā 12

[83] dha. sa. 1

[84] dha. sa. tikamātikā 11

[85] dha. sa. dukamātikā 11

[86] a. ni. 3.66

[87] a. ni. 3.70

[88] Sī, Abhi-Ṭṭha 1.23. piṭṭhepi. Taṇhādiṭṭhisaṃkilesānaṃ pahānaṃ

[89] Vi-Ṭṭha 1.18 piṭṭhe. Pāḷi

[90] vibha. 720

[91] vibha. 720

[92] Ka. Paṭinivattitvā

[93] ma. ni. 1.238

[94] Syā. Tāsaṃyeva

[95] ma. ni. 1.234

[96] a. ni. 4.5

[97] ma. ni. 1.236

[98] a. ni. 4.77

[99] Ka. Abhi-Ṭṭha 1. 25; Vi-Ṭṭha 1. 21 piṭṭhesu passitabbaṃ. Vuttatthāva

[100] Sī. Nikāyāti

[101] saṃ. ni. 2.100

[102] Pāṇini 3. 3. 41 sutte.

[103] Khu 1.195 piṭṭhādīsu

[104] dī. ni. 2.209

[105] Sī. Suttantādayo

[106] Khu 2. 347 piṭṭhe Theragāthāyaṃ

[107] Vi-Ṭṭha 1. 23 piṭṭhepi.