Giảng giải Kinh Phạm Võng (Mạng lưới cao thượng) – Phần mở đầu
(Sīlakkhandhavagga)Sumaṃgalavilāsinī – Giảng Giải Kinh Trường Bộ
Xem Trường Bộ Kinh – Kinh Phạm Võng
Sīlakkhandhavagga – Phẩm Giới Uẩn
Kính đảnh lễ đức Thế Tôn, bậc A-ra-hán, đấng Chánh đẳng Chánh giác
Phần Mở Đầu – Ganthārambhakathā
Karuṇāsītalahadayaṃ, paññāpajjotavihatamohatamaṃ.
Sanarāmaralokagaruṃ, vande sugataṃ gativimuttaṃ.
Con xin đảnh lễ bậc Thiện Thệ, vị đã giải thoát khỏi các cảnh giới tái sanh[1] có trái tim mát mẻ cùng với lòng bi mẫn, sự tâm tối bởi si mê đã được phá tan bởi ngọn đèn trí tuệ, là thầy của thế gian cùng với chư Thiên và loài người.
Buddhopi buddhabhāvaṃ, bhāvetvā ceva sacchikatvā ca.
Yaṃ upagato gatamalaṃ[2], vande tamanuttaraṃ dhammaṃ.
Chính Đức Phật đã tu tập và đã tác chứng trở thành bản thể của vị Phật, chứng đạt các Pháp nào mà xa lìa mọi cấu uế, con xin đảnh lễ Giáo Pháp tối thượng đó.
Sugatassa orasānaṃ, puttānaṃ mārasenamathanānaṃ.
Aṭṭhannampi samūhaṃ, sirasā vande ariyasaṅghaṃ.
Con xin đê đầu đảnh lễ chư Thánh Tăng, những người con đã được sinh ra của bậc Thiện Thệ, tập hợp tám hạng người tính đơn (gồm bốn Đạo và bốn Quả), người đã nghiền nát các đạo binh của Ma Vương.
Iti me pasannamatino, ratanattayavandanāmayaṃ puññaṃ.
Yaṃ suvihatantarāyo, hutvā tassānubhāvena.
Phước báu nào được thành tựu do việc đảnh lễ Tam Bảo có ở nơi con, người có đức tin trong sạch, mong cho con tránh khỏi mọi hiểm nguy nhờ vào oai lực của phước báu đó hãy tiêu diệt hoàn toàn điều ấy.
Dīghassa dīghasuttaṅkitassa, nipuṇassa āgamavarassa.
Buddhānubuddhasaṃvaṇṇitassa, saddhāvahaguṇassa.
Atthappakāsanatthaṃ, aṭṭhakathā ādito vasisatehi.
Pañcahi yā saṅgītā, anusaṅgītā ca pacchāpi.
Chú-giải nào đã được 500 vị Thánh A-ra-hán trùng tụng lần đầu tiên và trụng tụng lại sau đó, vì mục đích giải thích ý nghĩa của Trường Bộ Kinh được đánh dấu với những bài Kinh có kích thước dài, chi tiết xinh đẹp, tuyệt vời hơn (về kết quả) những bộ Kinh khác được đức Phật và chư Thánh Thinh văn đệ tử tán dương mang lại giá trị trong việc vun bồi đức tin.
Sīhaḷadīpaṃ pana ābhatātha, vasinā Mahāmahindena.
Ṭhapitā Sīhaḷabhāsāya, Dīpavāsīnamatthāya.
Apanetvāna tatohaṃ, Sīhaḷabhāsaṃ manoramaṃ bhāsaṃ.
Tantinayānucchavikaṃ, āropento vigatadosaṃ.
Samayaṃ avilomento, therānaṃ theravaṃsapadīpānaṃ[3].
Sunipuṇavinicchayānaṃ, mahāvihāre nivāsīnaṃ.
Hitvā punappunāgatamatthaṃ, atthaṃ pakāsayissāmi.
Sujanassa ca tuṭṭhatthaṃ, ciraṭṭhitatthañca dhammassa.
Tuy nhiên, đã được mang đến đảo Sīhaḷa bởi đại đức Mahinda (trong khi ngài) cư ngụ ở nói đó, rồi biên soạn lại bằng ngôn ngữ Sīhaḷa vì lợi ích cho tất cả người dân sống trên hòn đảo ấy. Sau đó, tôi mới dịch từ ngôn ngữ Sīhaḷa sang ngôn ngữ Magadha, chính xác (phù hợp với) nguyên tắc ngôn ngữ (Tam Tạng), không trái ngược (so với văn tự) vào thời kỳ của đại đức, người trở thành ngọn đèn của dòng dõi trưởng lão suy xét vô cùng sâu sắc, cho những vị cư trú ở tu viện lớn. Lược bỏ nội dung được lặp đi lặp lại nhiều lần, rồi giảng giải ý nghĩa vì mục đích (đem lại) sự thỏa mãn của các bậc hiền nhân và vì sự trường tồn của Giáo Pháp.
Sīlakathā dhutadhammā, kammaṭṭhānāni ceva sabbāni.
Cariyāvidhānasahito, jhānasamāpattivitthāro.
Sabbā ca abhiññāyo, paññāsaṅkalananicchayo[4] ceva.
Khandhadhātāyatanindriyāni, ariyāni ceva cattāri.
Saccāni paccayākāradesanā, suparisuddhanipuṇanayā.
Avimuttatantimaggā, vipassanā bhāvanā ceva.
Lời nói về giới, các Pháp đầu đà, và tất cả đề mục hành thiền, chi tiết về các thiền chứng đi cùng với phương pháp thực hành theo 6 khuynh hướng-cariyā, và tất cả các thắng trí, và toàn bộ sự phán đoán bằng trí tuệ. Uẩn, Giới-dhātu, Xứ, Quyền, Tứ Thánh đế, Pháp có điều kiện trợ sanh, bằng những phương pháp rõ ràng và rất chi tiết, không nằm ngoài Kinh điển, và kể cả việc thực hành Minh sát.
Iti pana sabbaṃ yasmā, visuddhimagge mayā suparisuddhaṃ.
Vuttaṃ tasmā bhiyyo, na taṃ[5] idha vicārayissāmi.
“majjhe visuddhimaggo, esa catunnampi āgamānañhi.
Ṭhatvā pakāsayissati, tattha yathā bhāsitaṃ atthaṃ”.
Icceva kato tasmā, tampi gahetvāna saddhimetāya.
Aṭṭhakathāya vijānatha, dīghāgamanissitaṃ atthanti.
Thật vậy, toàn bộ những điều đã trình bày, tôi đã nói trong bộ Thanh Tịnh Đạo rất rõ ràng, vì thế ở đây tôi sẽ không giải thích thêm bất cứ gì nữa. Bộ Thanh Tịnh Đạo này được đặt ở giữa bốn bộ Kinh[6], sau khi đã được biên soạn, nó sẽ được giải thích ở đây, y theo ý nghĩa của ngôn ngữ (trong 4 bộ Kinh đó). Do đó, đã được thực hiện như thế, mong tất cả các vị hãy cầm lấy bộ Thanh Tịnh Đạo cùng với Chú-giải này, hiểu được ý nghĩa liên hệ với Trường Bộ.
Nidānakathā – Lời Giới Thiệu
Tattha dīghāgamo nāma sīlakkhandhavaggo, mahāvaggo, pāthikavaggoti[7] vaggato tivaggo hoti; suttato catuttiṃsasuttasaṅgaho. Tassa[8] vaggesu sīlakkhandhavaggo ādi, suttesu Brahmajālaṃ. Brahmajālassāpi “evaṃ me sutan”tiādikaṃ āyasmatā Ānandena paṭhamamahāsaṅgītikāle vuttaṃ nidānamādi.
Ở đây, Dīghāgama (Trường Bộ Kinh) có 3 phẩm là Sīlakkhandhavagga – Phẩm Giới Uẩn, Mahāvagga – Đại Phẩm, Pāthikavagga – Phẩm Pāthika; nói theo Kinh có 34 bài Kinh. Trong các Phẩm đó thì Phẩm Giới Uẩn là phẩm đầu tiên, trong tất cả các bài Kinh thì bài Kinh Brahmajāla [Phạm Võng, hay Mạng Lưới Cao Thượng] là bài Kinh đầu tiên. Trong bài Kinh Brahmajāla, được bắt đầu bằng: “Tôi đã nghe như vầy…” đó là lời giới thiệu được nói bởi đại đức Ānanda trong kỳ kiết tập lần thứ nhất.
Paṭhamamahāsaṅgītikathā – Việc Triệu Tập Kết Tập Lần Thứ Nhất.
Paṭhamamahāsaṅgīti nāma cesā kiñcāpi vinayapiṭake tantimārūḷhā, nidānakosallatthaṃ pana idhāpi evaṃ veditabbā. Dhammacakkappavattanañhi ādiṃ katvā yāva Subhaddaparibbājakavinayanā katabuddhakicce, Kusinārāyaṃ upavattane Mallānaṃ sālavane yamakasālānamantare Visākhapuṇṇamadivase[9] paccūsasamaye anupādisesāya nibbānadhātuyā parinibbute Bhagavati lokanāthe, Bhagavato dhātubhājanadivase sannipatitānaṃ sattannaṃ bhikkhusatasahassānaṃ saṅghatthero āyasmā Mahākassapo sattāhaparinibbute Bhagavati Subhaddena vuḍḍhapabbajitena — “alaṃ, āvuso, mā socittha, mā paridevittha, sumuttā mayaṃ tena mahāsamaṇena, upaddutā ca homa — ‘idaṃ vo kappati, idaṃ vo na kappatī’ti, idāni pana mayaṃ yaṃ icchissāma, taṃ karissāma, yaṃ na icchissāma na taṃ karissāmā”ti[10] vuttavacanamanussaranto, īdisassa ca saṅghasannipātassa puna dullabhabhāvaṃ maññamāno, “ṭhānaṃ kho panetaṃ vijjati, yaṃ pāpabhikkhū ‘atītasatthukaṃ pāvacanan’ti maññamānā pakkhaṃ labhitvā nacirasseva saddhammaṃ antaradhāpeyyuṃ, yāva ca dhammavinayo tiṭṭhati, tāva anatītasatthukameva pāvacanaṃ hoti. Vuttañhetaṃ bhagavatā —
Cuộc kết tập lần thứ nhất này, mặc dù đã đưa Pāḷi vào trong Luật Tạng, thật như vậy cũng nên hiểu ý nghĩa này vì sự khéo léo trong phần giới thiệu. Khi đức Thế Tôn là bậc lãnh đạo thế gian, ngài đã thực hành tất cả các phận sự của một vị Phật tính từ lúc chuyển vận bánh xe Pháp cho đến khi tế độ du sĩ ngoại đạo Subhadda rồi viên tịch Nibbāna trong cảnh giới Nibbāna không còn dư sót lúc gần hừng sáng vào ngày trăng tròn Visākha ở khoảng giữa hai cây Sālā trong khu rừng Sālā xứ Mallā gần thành Kusinārā, đại đức Mahākassapa là đại đức của hội chúng ước chừng khoảng tám trăm ngàn vị tụ hội vào ngày phân chia Xá-lợi của đức Thế Tôn, suy nghĩ đến những lời nói được nói bởi Subhadda, vị xuất gia lúc tuổi già sau khi đức Phật viên tịch Nibbāna được bảy ngày (nói rằng): “Thôi đi! Này các hiền giả, các ông chớ có buồn rầu, chớ có than vãn nữa. Chúng ta được hoàn toàn thoát khỏi vị đại Sa-môn ấy rồi. Và chúng ta đã bị làm khó dễ rằng: ‘Điều này được phép cho các ngươi, điều này không được phép cho các ngươi.’ Giờ đây, chúng ta sẽ làm những điều chúng ta thích, chúng ta sẽ không làm những điều chúng ta không thích.” Ngài suy xét thấy rằng hội họp của Tăng chúng một số lượng nhiều như vầy sẽ rất khó lặp lại, trong khi suy nghĩ: “các tỳ khưu xấu xa khởi ý rằng ‘Lời dạy của đấng Đạo Sư trong quá khứ (còn hiện nay chúng ta không có bậc Đạo Sư)’ chẳng bao lâu nữa, phe nhóm những kẻ không biết sẽ cùng nhau hủy hoại Chánh Pháp dẫn đến sự nguy hại, trường hợp này được biết đến, cho đến khi nào Pháp và Luật còn tồn tại, cho đến khi ấy lời dạy của bậc không được cho là ở quá khứ (vẫn còn ở hiện tại)’”. Điều này được đức Thế Tôn thuyết rằng:
‘Yo vo, Ānanda, mayā dhammo ca vinayo ca desito paññatto, so vo mamaccayena satthā’ti[11].
‘Yaṃnūnāhaṃ dhammañca vinayañca saṅgāyeyyaṃ, yathayidaṃ sāsanaṃ addhaniyaṃ assa ciraṭṭhitikaṃ’.
Yañcāhaṃ bhagavatā —
‘Dhāressasi pana me tvaṃ, Kassapa, sāṇāni paṃsukūlāni nibbasanānī’ti[12] vatvā cīvare sādhāraṇaparibhogena.
‘Này Ānanda, Pháp và Luật nào đã được thuyết giảng, đã được quy định bởi Ta, Pháp và Luật ấy, sau khi Ta tịch diệt, là bậc Đạo Sư của các ngươi.’
‘Hay là ta nên trùng tụng Pháp và Luật, nhờ thế Giáo Pháp có thể được lưu truyền và tồn tại lâu dài’.
Và chính ta được đức Thế Tôn thuyết rằng: –
‘Này Kassapa, ông có thể bận được tấm y thô cũ rách được làm từ các mảnh vải bị quăng bỏ của ta không?” (điều này) nói đến việc sử dụng chung y phục.
‘Ahaṃ, bhikkhave, yāvadeva[13] ākaṅkhāmi vivicceva kāmehi vivicca akusalehi dhammehi savitakkaṃ savicāraṃ vivekajaṃ pītisukhaṃ paṭhamaṃ jhānaṃ upasampajja viharāmi; Kassapopi, bhikkhave, yāvadeva, ākaṅkhati vivicceva kāmehi vivicca akusalehi dhammehi savitakkaṃ savicāraṃ vivekajaṃ pītisukhaṃ paṭhamaṃ jhānaṃ upasampajja viharatī’ti[14].
Này chư Tỳ khưu, cho đến khi nào Ta mong muốn, ngay sau khi viễn ly khỏi các dục, viễn ly khỏi các bất thiện pháp, chứng đạt và an trú thiền thứ nhất, có tầm, có tứ, có hỷ lạc sanh lên do sự tách ly; ngay cả Kassapa, này chư Tỳ khưu, cho đến khi nào, (vị ấy) mong muốn, ngay sau khi viễn ly khỏi các dục, viễn ly khỏi các bất thiện pháp, chứng đạt và an trú thiền thứ nhất, có tầm, có tứ, có hỷ lạc sanh lên do sự viễn ly.
Evamādinā nayena navānupubbavihārachaḷabhiññāppabhede uttarimanussadhamme attanā samasamaṭṭhapanena ca anuggahito, tathā ākāse pāṇiṃ cāletvā alaggacittatāya ceva candopamapaṭipadāya ca pasaṃsito, tassa kimaññaṃ āṇaṇyaṃ[15] bhavissati. Nanu maṃ Bhagavā rājā viya sakakavacaissariyānuppadānena attano kulavaṃsappatiṭṭhāpakaṃ puttaṃ ‘saddhammavaṃsappatiṭṭhāpako me ayaṃ bhavissatī’ti, mantvā iminā asādhāraṇena anuggahena anuggahesi, imāya ca uḷārāya pasaṃsāya pasaṃsīti cintayanto dhammavinayasaṅgāyanatthaṃ bhikkhūnaṃ ussāhaṃ janesi. Yathāha —
Và đặt vị ấy vào địa vị ngang bằng với ngài về pháp bậc thượng nhân, sự khác biệt về 9 sự an trú theo tuần tự và về 6 thắng trí v.v, theo phương thức bắt đầu như thế, vị ấy được sự giúp đỡ. Hơn thế nữa, được tán thán là vị có tâm không vướng bận việc gia đình, giống như rung lắc tay trong hư không và với đạo lộ thực hành như mặt trăng, việc giúp đỡ và tán thán y như của ta. Phận sự khác ngoài việc trùng tụng (Tam Tạng) khiến ta thoát khỏi trạng thái này sẽ có gì nào? Đức Thế Tôn biết đến ta không phải sao? Giống như đức vua truyền trao lại Long bào và vương quyền của mình cho hoàng tử, người sẽ bảo vệ dòng dõi, (cũng vậy) ‘Kassapa này sẽ trở thành người củng cố về dòng dõi Chánh Pháp của ta”, được giúp đỡ với sự trợ giúp không phổ biến này, và tán thán với việc khen ngợi cao thượng này, khơi dậy sự nhiệt tâm cho chư Tỳ khưu cốt để trùng tụng Pháp và Luật. Như đã nói –
“Atha kho āyasmā Mahākassapo bhikkhū āmantesi — ‘ekamidāhaṃ, āvuso, samayaṃ pāvāya kusināraṃ addhānamaggappaṭipanno mahatā bhikkhusaṅghena saddhiṃ pañcamattehi bhikkhusatehī”ti[16] sabbaṃ Subhaddakaṇḍaṃ vitthārato veditabbaṃ. Atthaṃ panassa mahāparinibbānāvasāne āgataṭṭhāneyeva kathayissāma.
“Khi ấy, đại đức Mahākassapa đã bảo chư Tỳ khưu rằng – ‘Này các sư đệ, vào lúc ấy ta đang thực hiện cuộc hành trình đường xa từ Pāvā đi Kusinārā cùng với đại chúng tỳ khưu có số lượng năm trăm vị Tỳ khưu.’ Toàn bộ chương Subhadda, bậc hiền nhân nên hiểu một cách chi tiết. Tuy nhiên, tôi sẽ nói về nội dung của chương Subhadda ấy ra vào lúc kết thúc bài Kinh Đại Bát Nibbāna.
Tato paraṃ āha —
“Handa mayaṃ, āvuso, dhammañca vinayañca saṅgāyāma, pure adhammo dippati[17], dhammo paṭibāhiyyati[18]; pure avinayo dippati, vinayo paṭibāhiyyati; pure adhammavādino balavanto honti, dhammavādino dubbalā honti, pure avinayavādino balavanto honti, vinayavādino dubbalā hontī”ti.[19]
Kể từ đó, đại đức Mahākassapa đã nói rằng –
“Này các sư đệ, vậy chúng ta hãy trùng tụng Pháp và Luật trước khi điều phi Pháp phát triển và Pháp bị suy tàn, trước khi điều phi Luật phát triển và Luật bị suy tàn, trước khi những kẻ nói về phi Pháp trở nên mạnh mẽ và những người nói về Pháp yếu đi, trước khi những kẻ nói về phi Luật trở nên mạnh mẽ và những người nói về Luật yếu đi.”
Bhikkhū āhaṃsu — “tena hi, bhante, thero bhikkhū uccinatū”ti. Thero pana sakalanavaṅgasatthusāsanapariyattidhare puthujjanasotāpannasakadāgāmianāgāmi sukkhavipassaka khīṇāsavabhikkhū anekasate, anekasahasse ca vajjetvā tipiṭakasabbapariyattippabhedadhare paṭisambhidāppatte mahānubhāve yebhuyyena bhagavato etadaggaṃ āropite tevijjādibhede khīṇāsavabhikkhūyeva ekūnapañcasate pariggahesi. Ye sandhāya idaṃ vuttaṃ — “Atha kho āyasmā Mahākassapo ekenūnāni[20] pañca arahantasatāni uccinī”ti.[21]
Chư Tỳ khưu đã nói rằng – “Thưa ngài, chính vì điều ấy xin vị đại đức hãy tuyển chọn các tỳ khưu.” Còn phía đại đức ngoại trừ phàm nhân, bậc Thánh Nhập-lưu, bậc Thánh Nhất-lai, bậc Thành Bất-lai và bậc Thánh A-ra-hán thuần quán hành giả [sukkhavipassaka] lầu thông Pháp học là toàn bộ lời dạy của bậc Đạo sư được chia làm chín thể [navaṅga-satthusāsana][22] số lượng nhiều trăm nhiều ngàn vị chỉ lựa chọn những vị A-ra-hán nhóm Tam minh v.v, lầu thông Pháp học là toàn bộ Tam Tạng, đã chứng đắc bốn tuệ phân tích có đại oai lực, phần lớn được đức Thế Tôn tán dương là vị đứng đầu. Liên quan đến ai, điều này đã được nói rằng – “Khi ấy đại đức Mahākassapa đã tuyển chọn năm trăm vị Thánh A-ra-hán thiếu một (tức bốn trăm chín mươi chín vị)”
Kissa pana thero ekenūnamakāsīti? Āyasmato Ānandattherassa okāsakaraṇatthaṃ. Tenahāyasmatā sahāpi, vināpi, na sakkā dhammasaṅgītiṃ kātuṃ. So hāyasmā sekkho sakaraṇīyo, tasmā sahāpi na sakkā. Yasmā panassa kiñci[23] dasabaladesitaṃ[24] suttageyyādikaṃ appaccakkhaṃ nāma natthi. Yathāha —
“Dvāsīti[25] buddhato gaṇhiṃ, dve sahassāni bhikkhuto.
Caturāsīti sahassāni, ye me dhammā pavattino”ti.[26] Tasmā vināpi na sakkā.
Vì sao trưởng lão [Mahākassapa] lại tuyển chọn thiếu một vị? Nhằm tạo cơ hội cho đại đức Ānanda. Bởi vì cần phải có đại đức Ānanda, (nếu như) thiếu (đại đức Ānanda), thì không thể thực hiện cuộc kết tập về Giáo Pháp. Do đại đức Ānanda là vị Hữu học vẫn còn phận sự cần phải làm nên mới không thể tham gia. Tuy nhiên, bất cứ hình thức [Thể-aṅga] nào có Sutta và Geyya v.v, đã được đấng Thập Lực thuyết giảng không có gì đại đức Ānanda không hiểu. Như đã nói –
“Các Pháp nào có sự vận hạnh cùng tôi, các Pháp đó tôi đã tiếp nhận tám mươi hai ngàn từ đức Phật, hai ngàn từ vị Tỳ khưu, (tổng cộng) tám mươi bốn ngàn Pháp (uẩn).” Cho nên, nếu loại bỏ đại đức Ānanda thì không thể thực hiện được.
Yadi evaṃ sekkhopi samāno dhammasaṅgītiyā bahukārattā therena uccinitabbo assa, atha kasmā na uccinitoti? Parūpavādavivajjanato. Thero hi āyasmante Ānande ativiya vissattho ahosi, tathā hi naṃ sirasmiṃ palitesu jātesupi ‘na vāyaṃ[27] kumārako mattamaññāsī’ti[28], kumārakavādena ovadati. Sakyakulappasuto cāyasmā Tathāgatassa bhātā cūḷapituputto. Tattha keci bhikkhū chandāgamanaṃ viya maññamānā — “bahū asekkhapaṭisambhidāppatte bhikkhū ṭhapetvā Ānandaṃ sekkhapaṭisambhidāppattaṃ thero uccinī”ti upavadeyyuṃ. Taṃ parūpavādaṃ parivajjento, ‘Ānandaṃ vinā dhammasaṅgītiṃ na sakkā kātuṃ, bhikkhūnaṃyeva naṃ anumatiyā gahessāmī’ti na uccini.
Nếu như vậy, mặc dù đại đức vẫn còn là vị Hữu học, cũng xứng đáng được chọn lựa bởi vị đại đức vì là người có nhiều sự trợ giúp trong việc kết tập, nhưng tại sao vị ấy lại không được chọn lựa? Bởi vì để tránh lời khiển trách của người khác. Thật sự thì trưởng lão [Mahākassapa] vô cùng thân thiết với đại đức Ānanda, ngay cả khi tóc bạc mọc trên đầu của đại đức Ānanda (tuy nhiên) thì trưởng lão [Mahākassapa] vẫn gọi ngài với từ đứa bé trai trong câu sau ‘đứa bé trai này không biết chừng mực”, và hơn nữa đại đức Ānanda sanh trong dòng dõi Sakya là em trai của đức Như Lai, là con trai của Hoàng thúc. Trong việc lựa chọn Ānanda ấy một số vị Tỳ khưu suy nghĩ giống như kiểu thiên vị vì thương họ sẽ khiển trách rằng: – “Trưởng lão Mahākassapa không để ý đến nhiều vị Tỳ khưu Vô học chứng đắc bốn tuệ phân tích rồi tuyển chọn đại đức Ānanda bậc Hữu học chứng đắc tứ tuệ phân tích.” Để tránh lời khiển trách ấy, đại đức Mahākassapa đã không tuyển chọn (đại đức Ānanda do xét thấy rằng): ‘(nếu) không có đại đức Ānanda thì không thể thực hiện cuộc kết tập về Giáo Pháp, ta sẽ chấp nhận vị ấy với sự cho phép của chư Tỳ khưu’.
Atha sayameva bhikkhū Ānandassatthāya theraṃ yāciṃsu. Yathāha —
“Bhikkhū āyasmantaṃ Mahākassapaṃ etadavocuṃ — ‘Ayaṃ, bhante, āyasmā Ānando kiñcāpi sekkho abhabbo chandā dosā mohā bhayā agatiṃ gantuṃ, bahu cānena Bhagavato santike dhammo ca vinayo ca pariyatto, tena hi, bhante, thero āyasmantampi ānandaṃ uccinatū’ti. atha kho āyasmā mahākassapo āyasmantampi ānandaṃ uccinī”ti.[29]
Khi ấy chư Tỳ khưu cùng nhau khẩn cầu đại đức [Mahākassapa] chọn đại đức Ānanda. Như đã nói –
“Các vị Tỳ khưu đã nói với đại đức Mahākassapa điều này: – “Thưa ngài, đại đức Ānanda này tuy còn là bậc Hữu Học nhưng cũng không đi đến cảnh giới tái sanh bởi tham, bởi sân, bởi si mê, bởi sợ hãi. Và vị này thuộc lòng nhiều Pháp và Luật từ đức Thế Tôn. Thưa ngài, chính vì điều ấy xin trưởng lão hãy vì lòng từ mẫn tuyển chọn luôn cả đại đức Ānanda.”
Evaṃ bhikkhūnaṃ anumatiyā uccinitena tenāyasmatā saddhiṃ pañcatherasatāni ahesuṃ.
Atha kho therānaṃ bhikkhūnaṃ etadahosi — “kattha nu kho mayaṃ dhammañca vinayañca saṅgāyeyyāmā”ti? atha kho therānaṃ bhikkhūnaṃ etadahosi — “rājagahaṃ kho mahāgocaraṃ pahūtasenāsanaṃ, yaṃnūna mayaṃ rājagahe vassaṃ vasantā dhammañca vinayañca saṅgāyeyyāma, na aññe bhikkhū rājagahe vassaṃ upagaccheyyun”ti[30].
Theo phương thức đã nói mới có năm trăm vị trưởng lão tính cả đại đức Ānanda được đại đức [Mahākassapa] tuyển chọn với sự cho phép của chư Tỳ khưu.
Sau đó, các vị Tỳ khưu trưởng lão đã khởi ý điều này: – “Chúng ta nên trùng tụng Pháp và Luật ở đâu?” Khi ấy, các vị Tỳ khưu trưởng lão đã khởi ý điều này: “Thành Rājagaha quả là có khu vực khất thực rộng lớn, có nhiều chỗ trú ngụ; vậy thì chúng ta có thể trùng tụng Pháp và Luật trong khi an cư mùa mưa ở thành Rājagaha, chư tỳ khưu khác không thể đi đến an cư mùa mưa ở thành Rājagaha?”
Kasmā pana nesaṃ etadahosi? “idaṃ pana amhākaṃ thāvarakammaṃ, koci visabhāgapuggalo saṅghamajjhaṃ pavisitvā ukkoṭeyyā”ti. Athāyasmā Mahākassapo ñattidutiyena kammena sāvesi —
Tại sao những vị Tỳ khưu trưởng lão ấy khởi ý điều như vậy? Bởi vì những vị Tỳ khưu trưởng lão ấy có những suy nghĩ đối lập nhau rằng: “việc trùng tụng Pháp và Luật này là hành động lâu dài của chúng ta, một số hạng người đối nghịch sau khi vào giữa Hội Chúng có thể khơi lại”. Sau đó, đại đức Mahākassapa thông báo đến chư Tỳ khưu biết bằng hành sự với lời thông báo đến lần thứ hai.
“Suṇātu me, āvuso saṅgho, yadi saṅghassa pattakallaṃ saṅgho imāni pañca bhikkhusatāni sammanneyya Rājagahe vassaṃ vasantāni[31] dhammañca vinayañca saṅgāyituṃ, na aññehi bhikkhūhi rājagahe vassaṃ vasitabban”ti. esā ñatti.
“Suṇātu me, āvuso saṅgho, saṅgho imāni pañcabhikkhusatāni sammanna”ti ‘rājagahe vassaṃ vasantāni dhammañca vinayañca saṅgāyituṃ, na aññehi bhikkhūhi rājagahe vassaṃ vasitabbanti. yassāyasmato khamati imesaṃ pañcannaṃ bhikkhusatānaṃ sammuti[32]’ Rājagahe vassaṃ vasantānaṃ dhammañca vinayañca saṅgāyituṃ, na aññehi bhikkhūhi rājagahe vassaṃ vasitabbanti, so tuṇhassa; yassa nakkhamati, so bhāseyya.
“Sammatāni saṅghena imāni pañcabhikkhusatāni rājagahe vassaṃ vasantāni dhammañca vinayañca saṅgāyituṃ, na aññehi bhikkhūhi rājagahe vassaṃ vasitabbanti, khamati saṅghassa, tasmā tuṇhī, evametaṃ dhārayāmī”ti.[33]
“Này các sư đệ, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên chỉ định năm trăm vị Tỳ khưu này để trùng tụng Pháp và Luật trong khi an cư mùa mưa ở thành Rājagaha, những vị Tỳ khưu khác không được an cư mùa mưa ở thành Rājagaha.” Đây là lời đề nghị.
Này các sư đệ, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Hội chúng chỉ định năm trăm vị Tỳ khưu này để trùng tụng Pháp và Luật trong khi an cư mùa mưa ở thành Rājagaha, ‘các Tỳ khưu khác không được an cư mùa mưa ở thành Rājagaha.’ Vị nào đồng ý việc chỉ định năm trăm vị tỳ khưu này để trùng tụng Pháp và Luật trong khi an cư mùa mưa ở thành Rājagaha, ‘các vị Tỳ khưu khác không được an cư mùa mưa ở thành Rājagaha’ xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Năm trăm vị Tỳ khưu này đã được hội chúng chỉ định để trùng tụng Pháp và Luật trong khi an cư mùa mưa ở thành Rājagaha, ‘các Tỳ khưu khác không được an cư mùa mưa ở thành Rājagaha.’ Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
Ayaṃ pana kammavācā Tathāgatassa parinibbānato ekavīsatime divase katā. Bhagavā hi visākhapuṇṇamāyaṃ paccūsasamaye parinibbuto, athassa sattāhaṃ suvaṇṇavaṇṇaṃ sarīraṃ gandhamālādīhi pūjayiṃsu. Evaṃ sattāhaṃ sādhukīḷanadivasā nāma ahesuṃ. Tato sattāhaṃ citakāya agginā jhāyi, sattāhaṃ sattipañjaraṃ katvā sandhāgārasālāyaṃ[34] dhātupūjaṃ kariṃsūti, ekavīsati divasā gatā. Jeṭṭhamūla-sukkapakkha-pañcamiyaṃyeva dhātuyo bhājayiṃsu. Etasmiṃ dhātubhājanadivase sannipatitassa mahābhikkhusaṅghassa Subhaddena vuḍḍhapabbajitena kataṃ anācāraṃ ārocetvā vuttanayeneva ca bhikkhū uccinitvā ayaṃ kammavācā katā.
Tuyên ngôn hành sự này đại đức Mahākassapa thực hiện vào ngày thứ 21 sau khi đấng Như Lai viên tịch Nibbāna. Vì đức Thế Tôn viên tịch Nibbāna lúc trời hừng sáng vào ngày trăng tròn Visākha, khi ấy hội chúng của đức Phật đã lễ bái kim thân có màu sắc tựa như màu vàng rồng bằng các vật thơm và tràng hoa v.v, suốt 7 ngày. Vào ngày lễ hội thánh thiện cũng diễn ra 7 ngày tương tự. Sau đó, ngọn lửa từ lễ hỏa táng vẫn không dập tắt suốt 7 ngày. Các vị vua xứ Malla đã làm hàng rào chắn để cúng dường Xá-lợi ở tại giảng đường Sandhāgāra suốt 7 ngày, như thế tổng cộng 21 ngày. Hội chúng của đức Phật có Bà-la-môn Doṇa thực hiện nhiệm vụ phân chia Xá-lợi vào đúng ngày mùng 5 thượng huyền tháng Jeṭṭhamūla. Đại đức Mahākassapa tuyển chọn các vị Tỳ khưu xong rồi tụng đọc tuyên ngôn hành sự theo cách thức được ngài trình bày về hành vi không thích đáng của Tỳ khưu già Subhadda đã tạo đối với đại chúng chư Tỳ khưu đến tụ hội vào ngày phân chia Xá-lợi đó.
Imañca pana kammavācaṃ katvā thero bhikkhū āmantesi — “āvuso, idāni tumhākaṃ cattālīsa divasā okāso kato, tato paraṃ ‘ayaṃ nāma no palibodho atthī’ti, vattuṃ na labbhā, tasmā etthantare yassa rogapalibodho vā ācariyupajjhāyapalibodho vā mātāpitupalibodho vā atthi, pattaṃ vā pana pacitabbaṃ, cīvaraṃ vā kātabbaṃ, so taṃ palibodhaṃ chinditvā taṃ karaṇīyaṃ karotū”ti.
Hơn nữa sau khi thực hiện tuyên ngôn hành sự này trưởng lão đã nói chư Tỳ khưu biết rằng: – “Này các sư đệ, bây giờ tôi cho các sư đệ thời gian bốn mươi ngày kể từ ngày hôm nay trở đi, các sư đệ không được nói rằng: ‘tôi vẫn có sự vướng bận thế này’, vì thế, trong vòng 40 ngày (kể từ ngày hôm nay) vị nào vẫn còn có sự vướng bận về bệnh tật và sợ hãi, (hay) có sự vướng bận về thầy dạy học và thầy tế độ, (hay) có sự vướng bận về mẹ và cha, hoặc hơn nữa bình bát cần được đốt, y phục cần được may, sau khi vị ấy đã cắt đứt sự vướng bận ấy, hãy làm việc cần làm đó.”
Evañca pana vatvā thero attano pañcasatāya parisāya parivuto Rājagahaṃ gato. Aññepi mahātherā attano attano parivāre gahetvā sokasallasamappitaṃ mahājanaṃ assāsetukāmā taṃ taṃ disaṃ pakkantā. Puṇṇatthero pana sattasatabhikkhuparivāro ‘Tathāgatassa parinibbānaṭṭhānaṃ āgatāgataṃ mahājanaṃ assāsessāmī’ti Kusinārāyaṃyeva aṭṭhāsi.
Và hơn nữa, sau khi nói như vậy trưởng lão được vây quanh bởi hội chúng của mình chừng 500 vị đi đến thành Rājagaha. Kể cả những vị đại trưởng lão khác cũng đưa hội chúng của mình đi ai cũng ước muốn an ủi động viên đại chúng, những người chất chứa đầy nỗi buồn, đi về hướng đó. Còn trưởng lão Puṇṇa có Tỳ khưu tùy tùng khoảng 700 vị đã cư trú ở trong thành Kusināra với ước muốn “An ủi động viên đại chúng đi đã cùng nhau đến nơi tịch diệt Nibbāna của đấng Như Lai.”
Āyasmā Ānando yathā pubbe aparinibbutassa, evaṃ parinibbutassāpi bhagavato sayameva pattacīvaramādāya pañcahi bhikkhusatehi saddhiṃ yena sāvatthi tena cārikaṃ pakkāmi. Gacchato gacchato panassa parivārā bhikkhū gaṇanapathaṃ vītivattā. Tenāyasmatā gatagataṭṭhāne mahāparidevo ahosi . Anupubbena pana sāvatthimanuppatte there Sāvatthivāsino manussā “Thero kira āgato”ti sutvā gandhamālādihatthā paccuggantvā — “Bhante[35], Ānanda, pubbe Bhagavatā saddhiṃ āgacchatha, ajja kuhiṃ bhagavantaṃ ṭhapetvā āgatatthā”tiādīni vadamānā parodiṃsu. Buddhassa Bhagavato parinibbānadivase viya mahāparidevo ahosi.
Còn đại đức Ānanda đã cầm lấy bình bát và mang y phục của đức Thế Tôn dầu ngài đã viên tịch Nibbāna giống như ngài vẫn chưa tịch diệt Nibbāna đi đến thành Sāvatthī cùng với chùng Tỳ khưu 500 vị. Khi đại đức Ānanda đang đi thì hội chúng Tỳ khưu càng ngày càng trở nên nhiều hơn đến mức không thể đếm được. Ở khu vực nơi đại đức Ānanda bước đi đều có tiếng than khóc to lớn. Trong khi trưởng lão đi đến thành Sāvatthī thì mọi người trong thành Sāvatthī đều biết rằng “Trưởng lão Ānanda đã đến” đã cùng nhau cầm vật thơm và tràng hoa v.v, đến tiếp rước, sau đó khóc lóc than vãn rằng: “Kính bạch ngài Ānanda, trước đây ngài đến cùng với đức Thế Tôn, sao hôm nay ngài đã bỏ đức Thế Tôn ở đâu mà chỉ đến một mình vậy?” Đã có sự than khóc to lớn giống như ngày ngày viên tịch Nibbāna của đức Thế Tôn.
Tatra sudaṃ āyasmā Ānando aniccatādipaṭisaṃyuttāya dhammiyākathāya taṃ mahājanaṃ saññāpetvā jetavanaṃ pavisitvā Dasabalena vasitagandhakuṭiṃ vanditvā dvāraṃ vivaritvā mañcapīṭhaṃ nīharitvā papphoṭetvā gandhakuṭiṃ sammajjitvā milātamālākacavaraṃ chaḍḍetvā mañcapīṭhaṃ atiharitvā puna yathāṭhāne ṭhapetvā bhagavato ṭhitakāle karaṇīyaṃ vattaṃ sabbamakāsi. Kurumāno ca nhānakoṭṭhaka[36] sammajjana-udakupaṭṭhāpanādikālesu gandhakuṭiṃ vanditvā — “Nanu Bhagavā, ayaṃ tumhākaṃ nhānakālo, ayaṃ dhammadesanākālo, ayaṃ bhikkhūnaṃ ovādadānakālo, ayaṃ sīhaseyyakappanakālo[37], ayaṃ mukhadhovanakālo”tiādinā nayena paridevamānova akāsi, yathā taṃ bhagavato guṇagaṇāmatarasaññutāya patiṭṭhitapemo ceva akhīṇāsavo ca anekesu ca jātisatasahassesu aññamaññassūpakārasañjanitacittamaddavo. Tamenaṃ aññatarā devatā — “bhante, Ānanda, tumhe evaṃ paridevamānā kathaṃ aññe assāsessathā”ti saṃvejesi. So tassā vacanena saṃviggahadayo santhambhitvā tathāgatassa parinibbānato pabhuti ṭhānanisajjabahulattā ussannadhātukaṃ kāyaṃ samassāsetuṃ dutiyadivase khīravirecanaṃ pivitvā vihāreyeva nisīdi. Yaṃ sandhāya Subhena māṇavena pahitaṃ māṇavakaṃ etadavoca —
Kể rằng ở thành Sāvatthī sau khi đại đức Ānanda giảng dạy cho đại chúng hiểu về Dhammikathā gắn liền với tính chất vô thường v.v, rồi đi vào tu viện Jetavana đã đảnh lễ Hương Thất nơi đấng Thập Lực an trú, mở cánh cửa, mang giường và ghế ra ngoài, quét dọn Hương Thất, vứt rác và hoa khô, sau đó mang giường và ghế trở lại đặt lại vào chỗ cũ, đã làm mọi nhiệm vụ là bổn phận cần phải thực hiện trong suốt quãng thời gian đức Thế Tôn còn duy trì thọ mạng và khi làm nhiệm vụ cũng đều đảnh lễ Hương Thất, trong lúc làm nhiệm vụ có việc quét dọn nhà tắm và đặt bình nước v.v, vừa làm nhiệm vụ vừa nhớ tiếc rằng: “Kính bạch đức Thế Tôn, thời gian này là thời gian đi tắm của ngài không phải sao? Thời gian này là thời gian thuyết Pháp, thời gian ban lời giáo huấn đến chư Tỳ khưu, thời gian này là thời gian hoàn thành tư thế nằm của loài sư tử, thời gian này là thời gian rửa mặt không phải sao? Những lý do này do vì đại đức Ānanda là người có sự yêu thương sâu sắc đối với đức Thế Tôn, do tính chất người hiểu biết được hương vị bất tử kết hợp ân đức Phật và vẫn chưa chứng đắc quả vị A-ra-hán, là vị có tâm dịu dàng sanh ra cùng nhau, trợ giúp cho nhau nhiều trăm ngàn kiếp. Một vị Thiên đã khiến cho đại đức Ānanda sầu não bằng lời nói rằng: “Kính bạch ngài, đại đức Ānanda, ngài than vãn như vậy làm sao an ủi động viên người khác?” Đại đức Ānanda cảm thấy động tâm với lời nói của vị Thiên ấy, đã cố uống thuốc xổ trộn sữa vào ngày thứ 2 nhằm mục đích làm cho thân giới nặng nề trở nên nhẹ nhàng, bởi vì kể từ khi đấng Như Lai viên tịch Niết Bàn ngài phải đứng nhiều và ngồi nhiều, ngài chỉ ngồi ở tu viện Jetavana, đại đức Ānanda uống thuốc xổ trộn với sữa loại nào, ngài ám chỉ thuốc xổ trộn với sữa loại đó đã nói với thanh niên trẻ được thanh niên Subha sai đi (rằng) –
“Akālo, kho māṇavaka, atthi me ajja bhesajjamattā pītā, appeva nāma svepi upasaṅkameyyāmā”ti[38].
“Này cậu thanh niên trẻ, không phải là thời điểm thích hợp, hôm nay, ta đã uống một lượng thuốc xổ. Có lẽ vào ngày mai chúng ta có thể đi”
Dutiyadivase Cetakattherena pacchāsamaṇena gantvā subhena māṇavena puṭṭho imasmiṃ Dīghanikāye Subhasuttaṃ nāma dasamaṃ suttaṃ abhāsi.
Atha Ānandatthero Jetavanamahāvihāre khaṇḍaphullappaṭisaṅkharaṇaṃ kārāpetvā upakaṭṭhāya vassūpanāyikāya bhikkhusaṅghaṃ ohāya Rājagahaṃ gato tathā aññepi dhammasaṅgāhakā bhikkhūti. Evañhi gate, te sandhāya ca idaṃ vuttaṃ — “atha kho therā bhikkhū rājagahaṃ agamaṃsu, dhammañca vinayañca saṅgāyitun”ti.[39] Te Āsaḷhīpuṇṇamāyaṃ[40] uposathaṃ katvā pāṭipadadivase sannipatitvā vassaṃ upagacchiṃsu.
Vào ngày thứ 2 đại đức Ānanda có trưởng lão Cetaka là Sa-môn hầu cận bị thanh niên Subha vấn hỏi đã nói ở bài Kinh thứ 10 là bài Kinh Subha trong Trường Bộ Kinh này.
Trưởng lão Ānanda yêu cầu sửa chữa lại những nơi bị hư hỏng ở đại tu viện Jetavana khi sắp tới ngày vào ngày an cư mùa mưa, đại đức xin từ biệt hội chúng Tỳ khưu để đến thành Rājagaha, ngay cả các Tỳ khưu khác thực hiện trùng tụng Giáo Pháp cũng đi theo. Thực ra ý ngài muốn nói đến các Tỳ khưu đã đến thành Rājagaha như vậy, và đã nói điều này: – “Sau đó, các Tỳ khưu trưởng lão đã đi đến thành Rājagaha để trùng tụng Pháp và Luật.” Các Tỳ khưu trưởng lão ấy đã thực hiện lễ Uposatha vào ngày 15 trăng tròn tháng Āsaḷha tụ họp để an cư mùa mưa vào ngày 16 trăng tròn.
Chuẩn Bị Thực Hiện Cuộc Đại Kết Tập Lần Thứ Nhất
Tena kho pana samayena Rājagahaṃ parivāretvā aṭṭhārasa mahāvihārā honti, te sabbepi chaḍḍitapatitauklāpā ahesuṃ. Bhagavato hi parinibbāne sabbepi bhikkhū attano attano pattacīvaramādāya vihāre ca pariveṇe ca chaḍḍetvā agamaṃsu. Tattha katikavattaṃ kurumānā therā bhagavato vacanapūjanatthaṃ titthiyavādaparimocanatthañca — ‘Paṭhamaṃ māsaṃ khaṇḍaphullappaṭisaṅkharaṇaṃ karomā’ti cintesuṃ. Titthiyā hi evaṃ vadeyyuṃ — “Samaṇassa Gotamassa sāvakā satthari ṭhiteyeva vihāre paṭijaggiṃsu, parinibbute chaḍḍesuṃ, kulānaṃ mahādhanapariccāgo vinassatī”ti. Tesañca vādaparimocanatthaṃ cintesunti vuttaṃ hoti. Evaṃ cintayitvā ca pana katikavattaṃ kariṃsu. Yaṃ sandhāya vuttaṃ —
Vào lúc bấy giờ, có 18 Đại Tự xung quanh thành Rājagaha, toàn bộ những tu viện ấy đều có rác bẩn quăng bỏ rải rác khắp nơi. Bởi vì trong thời gian viên tịch Nibbāna của đức Thế Tôn các vị Tỳ khưu ai cũng ôm bình bát và y phục của mình rời bỏ chùa và phòng ốc để ra đi. Khi ấy các vị trưởng lão khi đưa ra quyết định cùng với việc trùng tu lại những ngôi chùa ấy đã khởi ý (điều này) rằng – “Chúng ta cần phải sửa chữa lại những nơi bị hư hỏng vào tháng thứ nhất của mùa an cư” nhằm mục đích cung kính lời dạy của đức Thế Tôn và để tránh khỏi những lời chỉ trích của ngoại đạo. Bởi vì nhóm ngoại đạo có thể nói lời chỉ trích như vầy – “Các Thinh văn đệ tử của Sa-môn Gotama chỉ gìn giữ các tu viện khi bậc Đạo Sư còn tại thế, nhưng khi ngài viên tịch Nibbāna rồi thì cùng nhau từ bỏ, việc bố thí số lượng lớn của cải của các gia đình sẽ bị hủy hoại theo cách này.” Giải thích rằng các trưởng lão khởi ý điều này cũng vì để tránh những lời chỉ trích của bọn ngoại đạo ấy. Khi khởi ý như vậy đã đồng thuận với nhau, ngài muốn đề cập đến lời đồng thuận ấy đã nói rằng –
“Atha kho therānaṃ bhikkhūnaṃ etadahosi — Bhagavatā, kho āvuso, khaṇḍaphullappaṭisaṅkharaṇaṃ vaṇṇitaṃ, handa mayaṃ, āvuso, paṭhamaṃ māsaṃ khaṇḍaphullappaṭisaṅkharaṇaṃ karoma, majjhimaṃ māsaṃ sannipatitvā dhammañca vinayañca saṅgāyissāmā”ti[41].
“Khi ấy, các Tỳ khưu trưởng lão đã bàn bạc điều này: – Này các đại đức, việc sửa chữa lại chỗ bị hư hỏng đã được đức Thế Tôn khen ngợi. Này các đại đức, vậy chúng ta hãy sửa chữa những nơi bị hư hỏng vào tháng thứ nhất [mùa an cư], chúng ta sẽ tụ họp lại rồi trùng tụng Pháp và Luật vào tháng giữa [mùa an cư].”
Te dutiyadivase gantvā rājadvāre aṭṭhaṃsu. Rājā āgantvā vanditvā — “Kiṃ bhante, āgatatthā”ti attanā kattabbakiccaṃ pucchi. Therā aṭṭhārasa mahāvihārapaṭisaṅkharaṇatthāya hatthakammaṃ paṭivedesuṃ. Rājā hatthakammakārake manusse adāsi. Therā paṭhamaṃ māsaṃ sabbavihāre paṭisaṅkharāpetvā rañño ārocesuṃ — “Niṭṭhitaṃ, mahārāja, vihārapaṭisaṅkharaṇaṃ, idāni dhammavinayasaṅgahaṃ karomā”ti. “Sādhu bhante visaṭṭhā karotha[42], mayhaṃ āṇācakkaṃ, tumhākañca dhammacakkaṃ hotu, āṇāpetha, bhante, kiṃ karomī”ti. “Saṅgahaṃ karontānaṃ bhikkhūnaṃ sannisajjaṭṭhānaṃ mahārājā”ti. “Kattha karomi, bhante”ti? “Vebhārapabbatapasse Sattapaṇṇiguhādvāre[43] kātuṃ yuttaṃ mahārājā”ti.
Vào ngày thứ 2 các Tỳ khưu trưởng lão đã đi đến đứng ở cổng thành, vua Ajātasattu đi đến đảnh lễ rồi hỏi đến công việc cần phải làm của mình – “Thưa ngài, ngài đến có việc gì?” Các trưởng lão đã trình với đức vua về nguồn lao động thủ công nhằm mục đích sửa chữa lại 18 Đại Tự bị hư hỏng. – Vua đã ban cho người lao động thủ công lành nghề. – Các trưởng lão đã sửa chữa lại toàn bộ các tu viện vào tháng thứ nhất mùa mưa, dâng lên cho đức vua Ajātasattu – “Tâu đại vương, việc sửa chữa lại các tu viện đã hoàn tất, bây giờ, chúng tôi thực hiện việc trùng tụng Pháp và Luật”. – “Lành thay thưa ngài, các ngài hãy yên tâm thực hiện, phần vương quốc (là nhiệm vụ) của trẫm, còn phần chuyển vận pháp (là nhiệm vụ) của các ngài, trẫm cần phải làm những gì (trong trường hợp này)? Hãy ra lệnh cho trẫm, thưa ngài.” – “Tâu đại vương, xin ngài hãy khởi sự cho hội trường dành cho hội chúng thực hiện việc trùng tụng.” – “Thưa ngài, làm ở chỗ nào?” – “Tâu đại vương, nên làm ở trong hang động Sattapaṇṇi bên cạnh ngọn núi Vebhāra”.
“Sādhu, bhante”ti kho rājā Ajātasattu Vissakammunā[44] nimmitasadisaṃ suvibhattabhittithambhasopānaṃ, nānāvidha-mālākamma-latākamma-vicittaṃ, abhibhavantamiva rājabhavanavibhūtiṃ, avahasantamiva devavimānasiriṃ, siriyā niketanamiva[45] ekanipātatitthamiva ca devamanussanayanavihaṃgānaṃ, lokarāmaṇeyyakamiva sampiṇḍitaṃ daṭṭhabbasāramaṇḍaṃ maṇḍapaṃ kārāpetvā vividhakusumadāmolambakaviniggalantacāruvitānaṃ nānāratanavicitta[46] maṇikoṭṭimatalamiva ca, naṃ nānāpupphūpahāravicittasupariniṭṭhitabhūmikammaṃ brahmavimānasadisaṃ alaṅkaritvā, tasmiṃ mahāmaṇḍape pañcasatānaṃ bhikkhūnaṃ anagghāni pañca kappiyapaccattharaṇasatāni paññapetvā, dakkhiṇabhāgaṃ nissāya uttarābhimukhaṃ therāsanaṃ, maṇḍapamajjhe puratthābhimukhaṃ buddhassa bhagavato āsanārahaṃ dhammāsanaṃ paññapetvā, dantakhacitaṃ bījaniñcettha ṭhapetvā, bhikkhusaṅghassa ārocāpesi — “niṭṭhitaṃ, bhante, mama kiccan”ti.
– Đức vua Ājātasattu có dòng suy nghĩ rằng “Lành thay, thưa ngài” rồi truyền lệnh cho xây dựng Maṇḍapa [hội trường] được tô điểm với những đồ vật trang trí tuyệt đẹp đáng chiêm ngưỡng, có hình dáng tựa như tòa nhà được Thiên tử Vissakamma hóa hiện có vách, cột trụ và cầu thang được bố trí một cách khéo léo, có nhiều màu sắc rực rỡ được trang hoàng hình vòng hoa, trang hoàng hình tua đa dạng, nhìn ngắm như thế lấn át vẻ đẹp của cung điện hoàng gia, đẹp đẽ và thanh tao như đang giễu cợt vẻ đẹp của thiên cung, trông như thế nơi đây là nơi hội tụ của những điều may mắn, y như bến bãi là nơi quy tụ của đàn chim, là ánh nhìn của tất cả chư Thiên và nhân loại, giống như những bức tranh tuyệt mỹ đáng chiêm ngưỡng ở thế gian được tập hợp lại ở cùng một nơi, có trần nhà xinh đẹp làm xao xuyến ánh nhìn như thể nhả ra nhiều loại bông hoa khác nhau và chuỗi ngọc trai nhìn trông như thể mặt đất bằng phẳng được cải thiện bởi hồng ngọc, được trang trí bằng nhiều loại châu báu khác nhau, có bệ (bục) được hoàn thiện một cách hoàn chỉnh khéo léo với nhiều loại bông hoa lễ bái khác nhau, đã được trang hoàng trang trí gần giống với Phạm Thiên Cung, cho sắp đặt 500 chỗ ngồi đúng luật có giá trị không thể ước tính ở trong hội trường lớn dành cho 500 vị Tỳ khưu, chỗ ngồi của các vị trưởng lão được quay mặt về hướng Bắc, quay lưng về hướng Nam, cho sắp đặt chỗ ngồi thuyết giảng Giáo Pháp thích hợp cho việc ngồi đối với đức Phật, đối với đức Thế Tôn được quay mặt về hướng Đông ở chính giữa hội trường, đặt chiếc quạt được lắp cán ngà voi trên Pháp Tọa ấy, xong cho thông báo với hội chúng Tỳ khưu rằng: – “Bạch các ngài, trẫm đã hoàn thành nhiệm vụ”.
Tasmiñca pana divase ekacce bhikkhū āyasmantaṃ Ānandaṃ sandhāya evamāhaṃsu — “Imasmiṃ bhikkhusaṅghe eko bhikkhu vissagandhaṃ vāyanto vicaratī”ti. Thero taṃ sutvā “imasmiṃ bhikkhusaṅghe añño vissagandhaṃ vāyanto vicaraṇakabhikkhu nāma natthi, addhā ete maṃ sandhāya vadantī”ti saṃvegaṃ āpajji. Ekacce naṃ āhaṃsuyeva — “sve āvuso, Ānanda, sannipāto, tvañca sekkho sakaraṇīyo, tena te na yuttaṃ sannipātaṃ gantuṃ, appamatto hohī”ti.
Cũng trong ngày hôm ấy, liên quan đến đại đức Ānanda một số vị Tỳ khưu đã nói như vầy (rằng): “Trong hội chúng Tỳ khưu này có một vì Tỳ khưu đi du hành thoang thoảng mùi tanh.” Trưởng lão sau khi nghe được lời ấy đã đạt được sự động tâm – “Vị Tỳ khưu khác được xem là đi du hành thoang thoảng mùi tanh không có trong hội chúng Tỳ khưu này”, chắc có lẽ họ nói đến Ta. Một số vị Tỳ khưu nói với đại đức Ānanda rằng: “Đại đức Ānanda, đại hội sẽ diễn ra vào ngày mai, tuy nhiên ngài vẫn còn là bậc Hữu học, có phận sự cần phải làm, vì thế ngài không nên đi vào hội họp, ngài hãy là người không xao lãng”.
Đại Đức Ānanda Chứng Đắc Phẩm Vị A-ra-hán
Atha kho āyasmā Ānando — ‘sve sannipāto, na kho metaṃ patirūpaṃ yvāhaṃ sekkho samāno sannipātaṃ gaccheyyan’ti, bahudeva-rattiṃ kāyagatāya satiyā vītināmetvā rattiyā paccūsasamaye caṅkamā orohitvā vihāraṃ pavisitvā “nipajjissāmī”ti kāyaṃ āvajjesi, dve pādā bhūmito muttā, apattañca sīsaṃ bimbohanaṃ[47], etasmiṃ antare anupādāya āsavehi cittaṃ vimucci. Ayañhi āyasmā caṅkamena bahi vītināmetvā visesaṃ nibbattetuṃ asakkonto cintesi — “nanu maṃ bhagavā etadavoca — ‘katapuññosi tvaṃ, Ānanda, padhānamanuyuñja, khippaṃ hohisi anāsavo’ti[48] . Buddhānañca kathādoso nāma natthi, mama pana accāraddhaṃ vīriyaṃ, tena me cittaṃ uddhaccāya saṃvattati, handāhaṃ vīriyasamataṃ yojemī”ti, caṅkamā orohitvā pādadhovanaṭṭhāne ṭhatvā pāde dhovitvā vihāraṃ pavisitvā mañcake nisīditvā, “thokaṃ vissamissāmī”ti kāyaṃ mañcake apanāmesi. Dve pādā bhūmito muttā, sīsaṃ bimbohanamappattaṃ, etasmiṃ antare anupādāya āsavehi cittaṃ vimuttaṃ, catuiriyāpathavirahitaṃ therassa arahattaṃ. Tena “imasmiṃ sāsane anipanno anisinno aṭṭhito acaṅkamanto ko bhikkhu arahattaṃ patto”ti vutte “Ānandatthero”ti vattuṃ vaṭṭati.
Khi ấy, đại đức Ānanda nghĩ rằng – “Ngày mai là đại hội, việc ta sẽ đi đến đại hội khi vẫn còn là bậc Hữu học thật không thích đáng cho ta!” Rồi (ngài) đã dành thời gian với niệm vận hành trong thân [kāyagatāsati] gần trọn đêm, vào lúc hừng sáng của đêm (ngài) bước ra khỏi từ chỗ đi kinh hành vào tu viện (khởi ý rằng) “ta sẽ nằm xuống” rồi nghiêng thân hình, cả hai chân vừa mới giở lên khỏi mặt đất, nhưng đầu vẫn chưa kịp chạm gối, trong khoảng thời gian ấy tâm đã được thoát khỏi các lậu hoặc, không còn chấp thủ. Đại đức Ānanda đã dành thời gian ở bên ngoài với niệm vận hành trong thân [kāyagatāsati] nhưng không thế làm cho ân đức cao thượng sanh khởi đã khởi ý rằng – “Không phải đức Thế Tôn đã thuyết cùng ta rồi sao? – ‘Này Ānanda, ngươi đã tạo phước (trong quá khứ), ngươi hãy sốt sắng thực hành sự nỗ lực, không bao lâu nữa ngươi sẽ trở thành bậc Vô Lậu [bậc Thánh A-ra-hán].” Chư Phật không nói sai, nhưng ta ra sức nỗ lực quá nhiều, vì thế tâm của ta mới dẫn đến trạo cử, trường hợp này phối hợp với sự tinh tấn vừa đủ” suy nghĩ như vậy rồi (ngài) bước ra khỏi chỗ đi kinh hành, đứng ở chỗ rửa chân, sau khi rửa chân đã bước vào tu viện, ngồi trên giường, (khởi ý rằng) “ta sẽ nghỉ ngơi một chút” rồi nghiêng thân hình ở trên giường, cả hai chân vừa mới giở lên khỏi mặt đất, (nhưng) đầu vẫn chưa kịp chạm gối, trong khoảng thời gian ấy tâm đã được thoát khỏi các lậu hoặc, không còn chấp thủ, bản thể A-ra-hán của trưởng lão Ānanda đã loại ra khỏi bốn oai nghi. Vì thế, khi được hỏi lẫn nhau rằng: “Trong Giáo Pháp này vị Tỳ khưu nào không nằm, không đứng, không đi kinh hành, những vẫn chứng đắc quả vị A-ra-hán?” Cần phải trả lời “Trưởng lão Ānanda”.
Atha therā bhikkhū dutiyadivase pañcamiyaṃ kāḷapakkhassa[49] katabhattakiccā pattacīvaraṃ paṭisāmetvā dhammasabhāyaṃ sannipatiṃsu. Atha kho āyasmā ānando arahā samāno sannipātaṃ agamāsi. Kathaṃ agamāsi? “idānimhi sannipātamajjhaṃ pavisanāraho”ti haṭṭhatuṭṭhacitto ekaṃsaṃ cīvaraṃ katvā bandhanā muttatālapakkaṃ viya, paṇḍukambale nikkhittajātimaṇi viya, vigatavalāhake nabhe samuggatapuṇṇacando viya, bālātapasamphassavikasitareṇupiñjaragabbhaṃ padumaṃ viya ca, parisuddhena pariyodātena sappabhena sassirīkena ca mukhavarena attano arahattappattiṃ ārocayamāno viya agamāsi. Atha naṃ disvā āyasmato mahākassapassa etadahosi — “sobhati vata bho arahattappatto Ānando, sace satthā dhareyya, addhā ajjānandassa sādhukāraṃ dadeyya, handa, dānissāhaṃ satthārā dātabbaṃ sādhukāraṃ dadāmī”ti, tikkhattuṃ sādhukāramadāsi.
Khi ấy, vào ngày thứ 2 kể từ ngày đại đức Ānanda chứng đắc phẩm vị A-ra-hán là ngày 20 thuộc hạ huyền các Tỳ khưu trưởng lão sau khi hoàn tất việc thọ dụng vật thực, cất giữ bình bát và y phục rồi hội họp trong Pháp đường. Sau đó, đại đức Ānanda đã đi đến đại hội, trong khi đã là vị A-la-hán. Ngài đã đi như thế nào? Đại đức Ānanda có sự hoan hỷ rằng: “Bây giờ ta là người thích hợp đi đến giữa đại hội” đã đắp (thượng) y một bên vai có trạng thái tựa như trái thốt nốt chín, có trạng thái tựa như hồng ngọc được đặt trên tấm vải len màu vàng, có trạng thái tựa như mặt trăng tròn ngày rằm trôi lơ lửng trên bầu trời không có mây đen, và có trạng thái tựa như hoa sen có nhị và cánh hoa đỏ đang nở rộ dưới ánh nắng dịu nhẹ, như thể nói ra câu chuyện mà bản thân đã đắc chứng quả vị A-ra-hán bằng khẩu cao quý, bằng sự thanh tịnh, bằng sự tinh khiết, có hào quang chói sáng đã đi đến nơi chư Tăng tụ hội. Khi ấy, đại đức Mahākassapa sau khi nhìn thấy đại đức Ānanda như thế đã có sự cảm nhận rằng: “Này các sư đệ, đại đức Ānanda đã đắc chứng A-ra-hán, thật sự xinh đẹp, nếu như bậc Đạo Sư còn tại thế, ngài cũng sẽ ban lời tùy hỷ cùng đại đức Ānanda vào ngày hôm nay, bây giờ, ta sẽ ban lời tùy hỷ mà bậc Đạo Sư đáng lẽ ban cho đại đức Ānanda”, rồi nói lên lời tùy hỷ 3 lần.
Majjhimabhāṇakā pana vadanti — “Ānandatthero attano arahattappattiṃ ñāpetukāmo bhikkhūhi saddhiṃ nāgato, bhikkhū yathāvuḍḍhaṃ attano attano pattāsane nisīdantā ānandattherassa āsanaṃ ṭhapetvā nisinnā. Tattha keci evamāhaṃsu — ‘etaṃ āsanaṃ kassā’ti? ‘ānandassā’ti. ‘Ānando pana kuhiṃ gato’ti? Tasmiṃ samaye thero cintesi — ‘idāni mayhaṃ gamanakālo’ti. Tato attano ānubhāvaṃ dassento pathaviyaṃ nimujjitvā attano āsaneyeva attānaṃ dassesī”ti, ākāsena gantvā nisīdītipi eke. yathā vā tathā vā hotu. sabbathāpi taṃ disvā āyasmato mahākassapassa sādhukāradānaṃ[50] yuttameva.
Còn Majjhimabhāṇakā [những vị trùng tuyên Trung Bộ] đã nói rằng – “Trưởng lão Ānanda mong muốn để cho hội chúng biết được chuyện bản thân đã đắc chứng A-ra-hán mới không đi chung với chư Tỳ khưu, chư Tỳ khưu trong khi ngồi trên chỗ ngồi dành riêng cho mỗi cá nhân theo thứ tự thâm niên [hạ-lạp] cũng đã ngồi trừ chỗ ngồi của trưởng lão Ānanda ra. Trong số các vị Tỳ khưu ấy hỏi rằng – ‘Đó là chỗ ngồi của ai? ‘Của trưởng lão Ānanda’. ‘Trưởng lão Ānanda đã đi đâu rồi?’ Lúc bấy giờ trưởng lão nghĩ rằng – ‘Bây giờ là thời điểm thích hợp ta nên đi’. Lúc đó, khi thể hiện oai lực của mình, ngài đã lặn vào trong lòng đất rồi hiện thân ngay trên tọa của mình”, một số vị khác lại nói rằng: ‘ngài Ānanda đã đi đến bằng đường không trung rồi ngồi trên tọa cụ của mình’. Dù thế nào đi chăng nữa thì việc đại đức Mahākassapa sau khi nhìn thấy đại đức Ānanda đã bày tỏ hành động tán thán hoàn toàn phù hợp theo mọi hình thức.
Evaṃ āgate pana tasmiṃ āyasmante[51] Mahākassapatthero bhikkhū āmantesi — “āvuso, kiṃ[52] paṭhamaṃ saṅgāyāma, dhammaṃ vā vinayaṃ vā”ti? Bhikkhū āhaṃsu — “Bhante, Mahākassapa,[53] vinayo nāma buddhasāsanassa āyu. Vinaye ṭhite sāsanaṃ ṭhitaṃ[54] nāma hoti. Tasmā paṭhamaṃ vinayaṃ saṅgāyāmā”ti. “Kaṃ dhuraṃ katvā”ti? “āyasmantaṃ Upālin”ti. “kiṃ Ānando nappahotī”ti? “No nappahoti”. Api ca kho pana Sammāsambuddho dharamānoyeva vinayapariyattiṃ nissāya āyasmantaṃ Upāliṃ etadagge ṭhapesi — “Etadaggaṃ, bhikkhave, mama sāvakānaṃ bhikkhūnaṃ vinayadharānaṃ yadidaṃ upālī”ti[55]. ‘Tasmā Upālittheraṃ pucchitvā vinayaṃ saṅgāyāmā’ti.
Khi đại đức Ānanda đến như vậy, trưởng lão Mahākassapa đã bảo chư Tỳ khưu rằng – “Này các sư đệ, chúng ta sẽ trùng tụng phần nào trước, Pháp hay Luật? Chư Tỳ khưu đã đáp rằng – “Bạch ngài Mahākassapa, Luật là mạng sống của Giáo Pháp. Khi nào Luật còn tồn tại thì Giáo Pháp còn tồn tại”; do đó, chúng ta nên trùng tụng Luật trước tiên. – Nên giao trách nhiệm cho vị nào? – “Cho đại đức Upāli”. Ngài hỏi xen vào “đại đức Ānanda không thể hay sao?” – “Không phải không thể”. Cũng vì khi bậc Chánh đẳng Chánh giác còn tại thế đã thiết lập đại đức Upālī vào vị thế tối thắng do việc học tập về Luật (rằng): “Này chư Tỳ khưu, vị đứng đầu trong số các Tỳ khưu đệ tử thông hiểu về Luật của Như Lai, tức là Upāli”. Vì thế, chúng ta cần phải hỏi trưởng lão Upāli trùng tụng Luật.’
Tato thero vinayaṃ pucchanatthāya attanāva attānaṃ sammanni. Upālittheropi vissajjanatthāya sammanni. Tatrāyaṃ pāḷi — atha kho āyasmā Mahākassapo saṅghaṃ ñāpesi —
“Suṇātu me, āvuso, saṅgho, yadi saṅghassa pattakallaṃ,
Ahaṃ Upāliṃ vinayaṃ puccheyyan”ti.
Āyasmāpi Upāli saṅghaṃ ñāpesi —
“Suṇātu me, bhante, saṅgho, yadi saṅghassa pattakallaṃ,
Ahaṃ āyasmatā mahākassapena vinayaṃ puṭṭho vissajjeyyan”ti.[56]
Sau đó, trưởng lão Mahākassapa đã đích thân chỉ định cho chính mình để hỏi Luật. Trưởng lão Upāli đã đích thân chỉ định cho chính mình để trả lời về Luật. Trong việc chỉ định đó có Pāḷī như sau – Khi ấy đại đức Mahākassapa đã thông báo đến hội chúng rằng –
“Này các sư đệ, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, tôi sẽ hỏi đại đức Upāli về Luật.”
Đại đức Upāli cũng đã thông báo đến hội chúng rằng: –
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, khi được đại đức Mahākassapa hỏi về Luật tôi sẽ trả lời.”
Evaṃ attānaṃ sammannitvā āyasmā Upāli uṭṭhāyāsanā ekaṃsaṃ cīvaraṃ katvā there bhikkhū vanditvā dhammāsane nisīdi dantakhacitaṃ bījaniṃ[57] gahetvā, tato Mahākassapatthero therāsane nisīditvā āyasmantaṃ Upāliṃ vinayaṃ pucchi. “Paṭhamaṃ āvuso, Upāli, pārājikaṃ kattha paññattan”ti? “Vesāliyaṃ, bhante”ti. “Kaṃ ārabbhā”ti? “Sudinnaṃ kalandaputtaṃ ārabbhā”ti. “kismiṃ vatthusmin”ti? “Methunadhamme”ti.
Sau khi đại đức Upāli (đích thân) chỉ định cho chính mình như vậy đã từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp (thượng) y một bên vai, đảnh lễ các Tỳ khưu trưởng lão, rồi ngồi lên Pháp toạ cầm lấy chiếc quạt được lắp cán ngà voi. Sau đó, ngài Mahākassapa đã ngồi xuống trên chỗ ngồi của vị trưởng lão và đã hỏi ngài Upāli rằng: – “Này sư đệ Upāli, điều Bất Cộng Trụ thứ nhất đã được đức Thế Tôn quy định ở đâu?” – “Bạch ngài, ở Vesālī.” – “Liên quan đến ai?” – “Liên quan đến Sudinna, con trai của Kalandaka.” – Về sự việc gì? – Về việc thực hiện việc đôi lứa.
“Atha kho āyasmā Mahākassapo āyasmantaṃ Upāliṃ paṭhamassa pārājikassa vatthumpi pucchi, nidānampi pucchi, puggalampi pucchi, paññattimpi pucchi, anupaññattimpi pucchi, āpattimpi pucchi, anāpattimpi pucchi”[58]. Puṭṭho puṭṭho āyasmā Upāli vissajjesi.
“Sau đó, ngài Mahākassapa đã hỏi ngài Upāli về sự việc, đã hỏi về nguyên do, đã hỏi về nhân sự, đã hỏi về điều quy định, đã hỏi về điều quy định thêm, đã hỏi về cách thức phạm tội, và đã hỏi về cách thức không phạm tội của điều Bất Cộng Trụ thứ nhất.” Vị trưởng lão Upāli đã lần lượt trả lời mỗi khi được hỏi (bởi trưởng lão Mahākassapa).
Kiṃ panettha paṭhamapārājike kiñci apanetabbaṃ vā pakkhipitabbaṃ vā atthi natthīti? Apanetabbaṃ natthi. Buddhassa hi Bhagavato bhāsite apanetabbaṃ nāma natthi. Na hi Tathāgatā ekabyañjanampi niratthakaṃ vadanti. Sāvakānaṃ pana devatānaṃ vā bhāsite apanetabbampi hoti, taṃ dhammasaṅgāhakattherā apanayiṃsu. Pakkhipitabbaṃ pana sabbatthāpi atthi, tasmā yaṃ yattha pakkhipituṃ yuttaṃ, taṃ[59] pakkhipiṃsuyeva. Kiṃ pana tanti? ‘Tena samayenā’ti vā, ‘tena kho pana samayenā’ti vā, ‘atha khoti vā’, ‘evaṃ vutteti’ vā, ‘etadavocā’ti vā, evamādikaṃ sambandhavacanamattaṃ. Evaṃ pakkhipitabbayuttaṃ pakkhipitvā pana — “Idaṃ paṭhamapārājikan”ti ṭhapesuṃ. Paṭhamapārājike saṅgahamārūḷhe pañca arahantasatāni saṅgahaṃ āropita-nayen’eva gaṇasajjhāyamakaṃsu — “tena samayena Buddho Bhagavā verañjāyaṃ viharatī”ti. Tesaṃ sajjhāyāraddhakāleyeva sādhukāraṃ dadamānā viya mahāpathavī udakapariyantaṃ katvā akampittha.
Vậy thì ở đây trong điều Bất Cộng Trụ ở trong Luật Tạng này có điều gì cần được lược bỏ hoặc điều gì cần được thêm vào hay không? Điều cần được lược bỏ không có. Vì điều cần được loại bỏ trong kim ngôn của đức Phật Thế Tôn là không có. Bởi các đức Như Lai không thuyết điều không liên quan đến lợi ích dầu chỉ một từ. Tuy nhiên, câu cú cần được lược bỏ trong lời nói của các vị Thinh văn, hay của các chư Thiên thì có, Dhammasaṅgāhaka-therā[60] đã lược bỏ điều đó. Còn câu cú nào cần được thêm vào, dầu là kim ngôn của đức Phật, hay lời nói của chư Thinh văn và cả lời nói của chư Thiên, do đó, câu nào cần được thêm vào trong Pháp thoại nào thì Dhammasaṅgāhaka-therā cũng đã thêm vào. Những câu cú nào được thêm vào? Những câu cú được thêm vào ấy chỉ là những câu (cụm tụ) liên kết phần trước với phần sau chẳng hạn như ‘lúc bấy giờ’, hoặc ‘vào lúc bấy giờ’, hoặc ‘sau đó’, hoặc ‘đã được nói…như vậy’, hoặc ‘đã nói…điều này’. Hơn nữa Dhammasaṅgāhaka-therā đã thêm vào những cụm từ cần được thêm vào như vậy rồi quy định rằng: ‘Đây là điều Bất Cộng Trụ thứ nhất”. Trong khi điều Bất Cộng Trụ thứ nhất được kết tập theo thứ tự thì năm trăm vị Tỳ khưu A-ra-hán đã đồng thanh lặp lại đúng y theo thứ tự đã được sắp xếp ở phần kết tập (như sau) – “Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại Verañjā”. Chính trong lúc năm trăm vị A-ra-hán ấy bắt đầu tụng đọc thì quả đại địa cầu với nước biển bao bọc xung quanh đã rúng động y như đang bày tỏ sự tán thưởng.
Eteneva nayena sesāni tīṇi pārājikāni saṅgahaṃ āropetvā “idaṃ pārājikakaṇḍan”ti ṭhapesuṃ. Terasa saṅghādisesāni “terasakan”ti ṭhapesuṃ. Dve sikkhāpadāni “aniyatānī”ti ṭhapesuṃ. tiṃsa sikkhāpadāni “nissaggiyāni pācittiyānī”ti ṭhapesuṃ. Dvenavuti sikkhāpadāni “pācittiyānī”ti ṭhapesuṃ. Cattāri sikkhāpadāni “pāṭidesanīyānī”ti ṭhapesuṃ. Pañcasattati sikkhāpadāni “sekhiyānī”ti ṭhapesuṃ. satta dhamme “adhikaraṇasamathā”ti ṭhapesuṃ. Evaṃ sattavīsādhikāni[61] dve sikkhāpadasatāni “mahāvibhaṅgo”ti kittetvā ṭhapesuṃ. Mahāvibhaṅgāvasānepi purimanayeneva mahāpathavī akampittha.
Dhammasaṅgāhaka-therā đã hoàn tất việc kết tập 3 điều Bất Cộng Trụ còn lại bằng chính phương thức ấy rồi quy định rằng: “Đây là chương Bất Cộng Trụ”. Các vị đã quy định mười ba điều Tăng Tàng là “Chương Mười Ba Pháp”, hai điều học là “Bất Định”, ba mươi điều học là “Ưng Xả Đối Trị”, chín mươi hai điều học là “Ưng Đối Trị”, bốn điều học là “Ưng Phát Lộ”, bảy mươi lăm điều học là “Ưng Học Pháp”, và bảy pháp là “Các pháp dàn xếp tranh tụng”. Sau khi định danh hai trăm hai mươi bảy điều học, đã quy định rằng: “Đại Phân Tích” như thế. Đại địa cầu cũng đã rúng động y như cách trước.
Tato bhikkhunīvibhaṅge aṭṭha sikkhāpadāni “pārājikakaṇḍaṃ nāma idan”ti ṭhapesuṃ. Sattarasa sikkhāpadāni “sattarasakan”ti ṭhapesuṃ. Tiṃsa sikkhāpadāni “nissaggiyāni pācittiyānī”ti ṭhapesuṃ. Chasaṭṭhisatasikkhāpadāni “pācittiyānī”ti ṭhapesuṃ. Aṭṭha sikkhāpadāni “pāṭidesanīyānī”ti ṭhapesuṃ. Pañcasattati sikkhāpadāni “sekhiyānī”ti ṭhapesuṃ. Satta dhamme “adhikaraṇasamathā”ti ṭhapesuṃ. Evaṃ tīṇi sikkhāpadasatāni cattāri ca sikkhāpadāni “bhikkhunīvibhaṅgo”ti kittetvā — “ayaṃ ubhato vibhaṅgo nāma catusaṭṭhibhāṇavāro”ti ṭhapesuṃ. Ubhatovibhaṅgāvasānepi vuttanayeneva mahāpathavikampo ahosi[62].
Sau đó, ở bộ Phân Tích Giới Tỳ Khưu Ni, các vị đã quy định tám điều học là: “Đây là Chương Bất Cộng Trụ”. Đã quy định mười bảy điều học là “Chương Mười Bảy Pháp”, ba mươi điều học là “Ưng Xả Đối Trị”, một trăm sáu mươi sáu điều học là “Ưng Đối Trị”, tám điều học là “Ưng Phát Lộ”, bảy mươi lăm điều học là “Ưng Học Pháp”, bảy pháp là “Các pháp dàn xếp tranh tụng.” Sau khi định danh ba trăm mười một điều học, đã quy định rằng: “Phân Tích Giới Tỳ Khưu Ni” như vậy – “Phân Tích này gọi là Phân Tích Luật Lưỡng Phái có sáu mươi bốn tụng phẩm [bhāṇavāra]. Cũng bằng chính phương thức đã nói, ngay sau khi hoàn tất việc kết tập bộ Phân Tích Luật Lưỡng Phái thì quả đại địa cầu đã rúng động.
Etenevupāyena asītibhāṇavāraparimāṇaṃ khandhakaṃ, pañcavīsatibhāṇavāraparimāṇaṃ parivārañca saṅgahaṃ āropetvā “idaṃ vinayapiṭakaṃ nāmā”ti ṭhapesuṃ . Vinayapiṭakāvasānepi vuttanayeneva mahāpathavikampo ahosi. Taṃ āyasmantaṃ Upāliṃ paṭicchāpesuṃ — “āvuso, imaṃ tuyhaṃ nissitake vācehī”ti. Vinayapiṭakasaṅgahāvasāne Upālitthero dantakhacitaṃ bījaniṃ nikkhipitvā dhammāsanā orohitvā there bhikkhū vanditvā attano pattāsane nisīdi.
Chính bằng phương thức ấy sau khi hoàn tất việc kết tập bộ Hợp Phần [Đại Phẩm và Tiểu Phẩm] gồm có tám mươi tụng phẩm và bộ Tập Yếu gồm có 25 tụng phẩm, sau khi đã hoàn tất việc kết tập đã quy định rằng: “Đây là Tạng Luật”. Cũng bằng chính phương thức đã nói, ngay sau khi hoàn tất việc kết tập về Luật thì quả đại địa cầu đã rúng động. Các vị đã ủy thác cho đại đức Upāli việc truyền tụng – “ Này sư đệ, hãy dạy lại Luật Tạng này cho các đệ tử của đệ”. Vào lúc hoàn tất việc kết tập Tạng Luật trưởng lão Upāli đã đặt xuống chiếc quạt được lắp cán ngà voi, từ Pháp tọa bước xuống, đảnh lễ các vị tỳ khưu trưởng lão, rồi ngồi xuống chỗ ngồi của bản thân.
Vinayaṃ saṅgāyitvā dhammaṃ saṅgāyitukāmo āyasmā Mahākassapo bhikkhū pucchi — “Dhammaṃ saṅgāyante hi kaṃ puggalaṃ dhuraṃ katvā dhammo saṅgāyitabbo”ti? bhikkhū — “Ānandattheraṃ dhuraṃ katvā”ti āhaṃsu.
Atha kho āyasmā Mahākassapo saṅghaṃ ñāpesi —
“Suṇātu me, āvuso, saṅgho, yadi saṅghassa pattakallaṃ,
Ahaṃ Ānandaṃ dhammaṃ puccheyyan”ti.
Atha kho āyasmā Ānando saṅghaṃ ñāpesi —
“Suṇātu me, bhante, saṅgho, yadi saṅghassa pattakallaṃ,
Ahaṃ āyasmatā Mahākassapena dhammaṃ puṭṭho vissajjeyyan”ti.
Sau khi đã kết tập xong Luật, ngài Mahākassapa có ý muốn kết tập Pháp nên đã hỏi các vị Tỳ khưu rằng: – Trong số các vị chuyên trùng tụng Pháp, nên giao trách nhiệm cho cá nhân nào rồi mới nên trùng tụng Pháp [Tạng Kinh và Tạng Abhidhamma]? Các vị Tỳ khưu đã trả lời: – Nên giao trách nhiệm cho trưởng lão Ānanda.
Khi ấy, đại đức Mahākassapa đã thông báo đến hội chúng rằng: –
“Này các sư đệ, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, tôi sẽ hỏi đại đức Ānanda về Pháp.”
Khi ấy, đại đức Ānanda cũng đã thông báo đến hội chúng rằng: –
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, khi được đại đức Mahākassapa hỏi về Pháp tôi sẽ trả lời.”
Atha kho āyasmā Ānando uṭṭhāyāsanā ekaṃsaṃ cīvaraṃ katvā there bhikkhū vanditvā dhammāsane nisīdi dantakhacitaṃ bījaniṃ gahetvā. Atha kho āyasmā Mahākassapo bhikkhū pucchi — “kataraṃ, āvuso, piṭakaṃ paṭhamaṃ saṅgāyāmā”ti? “Suttantapiṭakaṃ, bhante”ti. “Suttantapiṭake catasso saṅgītiyo, tāsu paṭhamaṃ kataraṃ saṅgītin”ti? “Dīghasaṅgītiṃ, bhante”ti. “Dīghasaṅgītiyaṃ catutiṃsa suttāni, tayo vaggā, tesu paṭhamaṃ kataraṃ vaggan”ti? “Sīlakkhandhavaggaṃ, bhante”ti. “Sīlakkhandhavagge terasa suttantā, tesu paṭhamaṃ kataraṃ suttan”ti? “Brahmajālasuttaṃ nāma bhante, tividhasīlālaṅkataṃ, nānāvidhamicchājīvakuha lapanādividdhaṃsanaṃ, dvāsaṭṭhidiṭṭhijālaviniveṭhanaṃ, dasasahassilokadhātukampanaṃ[63], taṃ paṭhamaṃ saṅgāyāmā”ti.
Khi ấy, đại đức Ānanda đã từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp (thượng) y một bên vai, đảnh lễ các vị tỳ khưu trưởng lão, rồi ngồi xuống Pháp tọa cầm lấy chiếc quạt được lắp cán ngà voi. Sau đó, trưởng lão Mahākassapa đã hỏi chư Tỳ khưu rằng: “Này các sư đệ, chúng ta sẽ trùng tụng Tạng nào trước?” “Thưa ngài, Tạng Kinh trước”. – “Trong Tạng Kinh có bốn phần (cần phải) kết tập (là trùng tụng về Trường Bộ Kinh, trùng tụng về Trung Bộ Kinh, trùng tụng về Tương Ưng Bộ Kinh, trùng tụng về Tăng Chi Bộ Kinh, còn Tiêu Bộ Kinh có Tạng Luật được gom chung nên mới không được tính ở trường hợp này), trong những phần này chúng ta sẽ trùng tụng phần nào trước?” – “Thưa ngài, trùng tụng Trường Bộ Kinh trước”. – “Trong Trường Bộ Kinh có ba mươi bốn bài Kinh, ba Phẩm, trong các Phẩm đó chúng ta sẽ trùng tụng Phẩm nào trước?” – “Thưa ngài, Phẩm Giới Uẩn trước” – “Trong Phẩm Giới Uẩn có mười ba bài Kinh, trong những bài Kinh đó chúng ta sẽ trùng tụng bài Kinh nào trước?” – “Bạch ngài, là bài Kinh Brahmajāla, được tô điểm với ba loại giới, tiêu diệt sự lường gạt và việc nói lảm nhảm thuộc nhiều loại tà mạng, việc tháo gỡ mạng lưới là sáu mươi hai loại tà kiến, làm cho mười ngàn thế giới bị rúng động, chúng ta hãy trùng tụng bài Kinh Brahmajāla trước”.
Atha kho āyasmā Mahākassapo āyasmantaṃ Ānandaṃ etadavoca, “Brahmajālaṃ, āvuso Ānanda, kattha bhāsitan”ti? “Antarā ca, bhante, Rājagahaṃ antarā ca Nāḷandaṃ rājāgārake Ambalaṭṭhikāyan”ti. “kaṃ ārabbhā”ti ? “Suppiyañca paribbājakaṃ, brahmadattañca māṇavan”ti. “Kismiṃ vatthusmin”ti? “Vaṇṇāvaṇṇe”ti. Atha kho āyasmā Mahākassapo āyasmantaṃ Ānandaṃ brahmajālassa nidānampi pucchi, puggalampi pucchi, vatthumpi pucchi[64]. Āyasmā ānando vissajjesi. Vissajjanāvasāne pañca arahantasatāni gaṇasajjhāyamakaṃsu. Vuttanayeneva ca pathavikampo ahosi.
Khi ấy, đại đức Mahākassapa đã hỏi đại đức Ānanda rằng, – “Này sư đệ Ānanda, kinh Mạng Lưới Cao Thượng [Brahmajāla] đã được thuyết tại đâu?” – “Bạch ngài, ở giữa Rājagaha và Nalandā trong vườn thượng uyển Ambalaṭṭhikā.” – “Có liên quan đến ai?” – “Liên quan đến du sĩ ngoại đạo Suppiya và thanh niên Brahmadatta.” – “Về sự việc gì?” – “Về việc khen ngợi và khiển trách”. Sau đó, ngài Mahākassapa đã hỏi ngài Ānanda về duyên khởi, cũng đã hỏi về nhân sự, đồng thời cũng hỏi về câu chuyện của bài Kinh Mạng Lưới Cao Thượng. Trưởng lão Ānanda đã trả lời. Khi ngài đã trả lời xong, năm trăm vị Ā-ra-hán đã đồng thanh lặp lại. Cũng bằng chính phương thức đã nói, quả đại địa cầu đã rúng động.
Evaṃ Brahmajālaṃ saṅgāyitvā tato paraṃ “Sāmaññaphalaṃ, pan’āvuso Ānanda, kattha bhāsitan”ti-ādinā nayena pucchāvissajjanānukkamena saddhiṃ brahmajālena sabbepi terasa suttante saṅgāyitvā — “ayaṃ sīlakkhandhavaggo nāmā”ti kittetvā ṭhapesuṃ.
Sau khi kết tập xong bài kinh Brahmajāla như vậy kế đó các vị đã trùng tụng hết toàn bộ 13 bài kinh (và) cả bài kinh Brahmajāla tuần tự thứ lớp vấn và đáp theo phương thức lần lượt như sau: – “Này sư đệ Ānanda, kinh Sa Môn Quả [Sāmaññaphala] đã được (đức Thế Tôn) thuyết ở đâu?” – Sau khi định danh, đã quy định rằng: “Phẩm này là Phẩm Giới Uẩn”.
Tadanantaraṃ mahāvaggaṃ, tadanantaraṃ Pāthikavagganti, evaṃ tivaggasaṅgahaṃ catutiṃsasuttapaṭimaṇḍitaṃ catusaṭṭhibhāṇavāraparimāṇaṃ tantiṃ saṅgāyitvā “ayaṃ dīghanikāyo nāmā”ti vatvā āyasmantaṃ Ānandaṃ paṭicchāpesuṃ — “āvuso, imaṃ tuyhaṃ nissitake vācehī”ti.
Các vị đã trùng tụng (Trường Bộ Kinh) có 64 tụng phẩm, gồm có 34 bài Kinh, được xếp thành ba Phẩm như vầy – tiếp theo Tiểu Phẩm là Đại Phẩm, sau (Đại Phẩm) là Phẩm Pāthika, đã nói rằng: “Đây gọi là Trường Bộ Kinh” rồi ủy thác cho trưởng lão Ānanda việc truyền tụng: – “Này sư đệ Ānanda, hãy dạy lại bộ kinh này cho các đệ tử của đệ.”
Tato anantaraṃ asītibhāṇavāraparimāṇaṃ Majjhimanikāyaṃ saṅgāyitvā dhammasenāpatisāriputtattherassa nissitake paṭicchāpesuṃ — “imaṃ tumhe pariharathā”ti.
Tato anantaraṃ satabhāṇavāraparimāṇaṃ Saṃyuttanikāyaṃ saṅgāyitvā Mahākassapattheraṃ paṭicchāpesuṃ — “bhante, imaṃ tumhākaṃ nissitake vācethā”ti.
Tato anantaraṃ vīsatibhāṇavārasataparimāṇaṃ Aṅguttaranikāyaṃ saṅgāyitvā Anuruddhattheraṃ paṭicchāpesuṃ — “imaṃ tumhākaṃ nissitake vācethā”ti.
Ngay lập tức sau đó, các vị đã trùng tụng Trung Bộ Kinh gồm có tám mươi tụng phẩm rồi ủy thác cho các đệ tử của vị Tướng Quân Chánh Pháp Sārīputta: “Các ngươi hãy bảo quản bộ Kinh này”.
Ngay lập tức sau đó, các vị đã trùng tụng Tương Ưng Bộ Kinh gồm có một trăm tụng phẩm rồi ủy thác cho trưởng lão Mahākassapa: “Bạch ngài, xin ngài hãy dạy lại bộ Kinh này cho các đệ tử của ngài”.
Ngay lập tức sau đó, các vị đã trùng tụng Tăng Chi Bộ Kinh gồm có một trăm hai mươi tụng phẩm rồi ủy thác cho trưởng lão Anuruddha: “Hãy dạy lại bộ Kinh này cho các đệ tử của ngài”.
Tato anantaraṃ Dhammasaṅgaha Vibhaṅga Dhātukathā Puggalapaññatti Kathāvatthu Yamaka Paṭṭhānaṃ Abhidhammoti vuccati. Evaṃ saṃvaṇṇitaṃ sukhumañāṇagocaraṃ tantiṃ saṅgāyitvā — “idaṃ abhidhammapiṭakaṃ nāmā”ti vatvā pañca arahantasatāni sajjhāyamakaṃsu. Vuttanayeneva pathavikampo ahosīti.
Liền sau đó, các vị đã trùng tụng [Tạng Vi Diệu Pháp] có hành xứ [đối tượng] là trí vi tế được các bậc hiền trí tán thán như vầy: Bộ Pháp Tụ, Bộ Phân Tích, Bộ Nguyên Chất Ngữ, Bộ Nhân Chế Định, Bộ Ngữ Tông, Bộ Song Đối, và Bộ Vị Trí, ngài gọi là Vi Diệu Pháp. – đã nói rằng “Tạng này là Tạng Vi Diệu Pháp” năm trăm vị A-ra-hán đã đồng thanh lặp lại. Cũng bằng chính phương thức đã nói, quả đại địa cầu đã rúng động.
Tato paraṃ Jātakaṃ, Niddeso, Paṭisambhidāmaggo, Apadānaṃ, Suttanipāto, Khuddakapāṭho, Dhammapadaṃ, Udānaṃ, Itivuttakaṃ, Vimānavatthu, Petavatthu, Theragāthā, Therīgāthāti imaṃ tantiṃ saṅgāyitvā “khuddakagantho nāmāyan”ti ca vatvā “abhidhammapiṭakasmiṃyeva saṅgahaṃ āropayiṃsū”ti dīghabhāṇakā vadanti. majjhimabhāṇakā pana “Cariyāpiṭakabuddhavaṃsehi saddhiṃ sabbampetaṃ khuddakaganthaṃ nāma suttantapiṭake pariyāpannan”ti vadanti.
Tiếp đến phần khác, các vị đã trùng tụng ấy Pāḷī này: – Chuyện Tiền Thân, Diễn Giải, Phân Tích Đạo, Thánh Nhân Ký Sự, Kinh Tập, Tiểu Tụng, Pháp Cú , Phật Tự Thuyết, Phật Thuyết Như Vầy, Chuyện Thiên Cung, Chuyện Ngạ Quỷ, Trưởng Lão Kệ, Trưởng Lão Ni Kệ, các vị trùng tụng về Trường Bộ đã quy định rằng: “Đây gọi là Tiểu Bộ Kinh” và “các vị đã hoàn tất việc kết tập trong Tạng Vi Diệu Pháp tương tự”. Còn các vị trùng tụng về Trung Bộ đã nói rằng: ‘Toàn bộ Tiểu Bộ Kinh này với Hạnh Tạng và Phật Sử thuộc Tạng Kinh”.
Evametaṃ sabbampi buddhavacanaṃ rasavasena ekavidhaṃ, dhammavinayavasena duvidhaṃ, paṭhamamajjhimapacchimavasena tividhaṃ. Tathā piṭakavasena. nikāyavasena pañcavidhaṃ, aṅgavasena navavidhaṃ, dhammakkhandhavasena caturāsītisahassavidhanti veditabbaṃ.
Toàn bộ lời dạy của đức Phật nên được biết rằng: có một phần khi nói về vị [giải thoát], có hai phần khi nói về Pháp và Luật, có ba phần khi nói về Phần Đầu, Phần Giữa, và Phần Kết, cũng như vậy (có ba phần) khi nói về Tam Tạng [Piṭaka], có năm phần khi nói về Bộ Kinh [Nikāya], có chín phần khi nói về Thể Loại [Aṅga], có tám mươi bốn ngàn khi nói về Pháp Uẩn.
Kathaṃ rasavasena ekavidhaṃ? Yañhi Bhagavatā anuttaraṃ Sammāsambodhiṃ abhisambujjhitvā yāva anupādisesāya nibbānadhātuyā parinibbāyati, etthantare pañcacattālīsavassāni devamanussanāgayakkhādayo anusāsantena vā paccavekkhantena vā vuttaṃ, sabbaṃ taṃ ekarasaṃ vimuttirasameva hoti. Evaṃ rasavasena ekavidhaṃ.
Lời nói của đức Phật có một phần khi nói về vị (là có ý nghĩa) thế nào? Thật vậy, lời nào kể từ khi đức Thế Tôn chứng đạt vô thượng Chánh đẳng Chánh giác cho đến khi ngài nhập vô dư Nibbāna trong cảnh giới Nibbāna không còn dư sót, trong suốt khoảng thời gian bốn mươi lăm năm ấy tất cả những lời ấy ngài giảng dạy cho chư Thiên, nhân loại, loài rồng, Dạ-xoa, v.v. nhằm mục đích giáo huấn hoặc phê phán chỉ có một vị là vị giải thoát mà thôi. Lời dạy của đức Phật có 1 là ‘vị’ được tính như thế.
Kathaṃ dhammavinayavasena duvidhaṃ? sabbameva cetaṃ dhammo ceva vinayo cāti saṅkhyaṃ gacchati. Tattha vinayapiṭakaṃ vinayo, avasesaṃ buddhavacanaṃ dhammo. Tenevāha “yannūna mayaṃ dhammañca vinayañca saṅgāyeyyāmā”ti[65]. “Ahaṃ Upāliṃ vinayaṃ puccheyyaṃ, Ānandaṃ dhammaṃ puccheyyan”ti ca. Evaṃ dhammavinayavasena duvidhaṃ.
Lời nói của đức Phật có hai phần khi nói về Pháp và Luật (là có ý nghĩa) thế nào? Thật vậy toàn bộ lời dạy của đức Thế Tôn được xem là Pháp và Luật. Trong Pháp và Luật ấy, Luật tức là Tạng Luật, phần còn lại về lời dạy của đức Phật gọi là Pháp. Vì lý đó đó trưởng lão Mahākassapa đã nói rằng: “Hay là chúng ta nên trùng tụng Pháp và Luật” và nói rằng: “Tôi sẽ hỏi Luật cùng đại đức Upāli, (và) sẽ hỏi Pháp cùng đại đức Ānanda.” Lời dạy của đức Phật có 2 là ‘Pháp và Luật’ được tính như thế.
Kathaṃ paṭhamamajjhimapacchimavasena tividhaṃ? Sabbameva hidaṃ paṭhamabuddhavacanaṃ, majjhimabuddhavacanaṃ, pacchimabuddhavacananti tippabhedaṃ hoti. Tattha —
“Anekajātisaṃsāraṃ, sandhāvissaṃ anibbisaṃ.
Gahakāraṃ gavesanto, dukkhā jāti punappunaṃ.
Gahakāraka diṭṭhosi, puna gehaṃ na kāhasi.
Sabbā te phāsukā bhaggā, gahakūṭaṃ visaṅkhataṃ.
Visaṅkhāragataṃ cittaṃ, taṇhānaṃ khayamajjhagā”ti.[66]
Lời nói của đức Phật có ba phần khi nói về Phần Đầu, Phần Giữa, và Phần Kết (là có ý nghĩa) thế nào? Bởi vì toàn bộ có 3 phần riêng biệt là lời nói đầu tiên của đức Phật, lời nói của đức Phật thuộc phần giữa, lời nói cuối cùng của đức Phật. Trong 3 phần riêng biệt này –
“Trong khi ta tìm kiếm người thợ làm nhà (bản thân), khi không gặp được ta đã trải qua sự luân chuyển trong vòng luân hồi trong vô số kiếp sống không ngừng nghỉ. Sự tái sanh diễn ra thường xuyên là khổ đau.
Hỡi người thợ làm nhà (bản thân), ngươi đã bị ta nhìn thấy. Ngươi sẽ không xây dựng nhà (bản thân) của ta được nữa. Tất cả các rường cột của ngươi đã bị ta bẽ gãy, mái nhà (vô minh) đã bị phá tan. Tâm (của ta) đã đi đến sự không còn tạo tác (đạt đến Nibbāna), Ta đã chứng đạt sự diệt tận của các tham ái.”
Idaṃ paṭhamabuddhavacanaṃ. Keci “yadā have pātubhavanti dhammā”ti[67] khandhake udānagāthaṃ vadanti. Esā pana pāṭipadadivase sabbaññubhāvappattassa somanassamayañāṇena paccayākāraṃ paccavekkhantassa uppannā udānagāthāti veditabbā.
Yaṃ pana parinibbānakāle abhāsi — “handa dāni, bhikkhave, āmantayāmi vo, vayadhammā saṅkhārā, appamādena sampādethā”ti[68] idaṃ pacchimabuddhavacanaṃ. ubhinnamantare yaṃ vuttaṃ, etaṃ majjhimabuddhavacanaṃ nāma. Evaṃ paṭhamamajjhimapacchimabuddhavacanavasena tividhaṃ.
Đây là lời nói đầu tiên của đức Phật. Một số vị đề cập đến lời kệ cảm hứng trong Hợp Phần: “Giờ đây quả thực các Pháp đã hiện khởi!” Điều này cần được hiểu rằng là lời kệ cảm hứng được khởi lên (trong trí Ngài), khi đang quán xét về lý duyên khởi với tâm trí đang tràn ngập niềm hân hoan của sự chứng đạt quả vị Toàn Giác vào ngày trăng tròn.
Hơn nữa, lời nói được đức Thế Tôn thuyết vào thời điểm gần thời điểm vô dư Niết Bàn rằng: “Này các Tỳ khưu, giờ đây ta khuyên dạy các ngươi – Pháp hữu vi có bản tánh hoại diệt là thường, các ngươi hãy chân chánh thực hành để đạt đến sự thành tựu viên mãn cùng với sự không dễ duôi,” đó là lời nói cuối cùng của đức Phật. Điều gì được đức Thế Tôn thuyết vào khoảng giữa của hai thời điểm ấy [phần đầu và phần cuối] được gọi là lời dạy của đức Phật thuộc Phần Giữa. Lời dạy của đức Phật có 3 là ‘Phần Đầu, Phần Giữa, và Phần Kết’ được tính như thế.
Kathaṃ piṭakavasena tividhaṃ? Sabbampi cetaṃ vinayapiṭakaṃ suttantapiṭakaṃ abhidhammapiṭakanti tippabhedameva hoti. Tattha paṭhamasaṅgītiyaṃ saṅgītañca asaṅgītañca sabbampi samodhānetvā ubhayāni pātimokkhāni, dve vibhaṅgā, dvāvīsati[69] khandhakā, soḷasaparivārāti — idaṃ vinayapiṭakaṃ nāma. Brahmajālādicatuttiṃsasuttasaṅgaho Dīghanikāyo, Mūlapariyāyasuttādidiyaḍḍhasatadvesuttasaṅgaho Majjhimanikāyo, Ooghataraṇasuttādisattasuttasahassasattasatadvāsaṭṭhisuttasaṅgaho Saṃyuttanikāyo, Cittapariyādānasuttādinavasuttasahassapañcasatasattapaññāsasuttasaṅgaho Aṅguttaranikāyo, Khuddakapāṭha Dhammapada Udāna Itivuttaka Suttanipāta Vimānavatthu Petavatthu Theragāthā Therīgāthā Jātaka Niddesa Paṭisambhidāmagga[70] Apadāna Buddhavaṃsa Cariyāpiṭakavasena pannarasappabhedo Khuddakanikāyoti idaṃ Suttantapiṭakaṃ nāma. Dhammasaṅgaho, Vibhaṅgo, Dhātukathā, Puggalapaññatti, Kathāvatthu, Yamakaṃ, Paṭṭhānanti — idaṃ Abhidhammapiṭakaṃ nāma. Tattha —
Lời nói của đức Phật có ba phần khi nói về Tạng (là có ý nghĩa) thế nào? Bởi vì toàn bộ gồm có ba phần riêng biệt: Tạng Luật, Tạng Kinh, và Tạng Vi Diệu Pháp. Trong 3 Tạng ấy, sau khi đã tổng hợp toàn bộ Phật ngôn được trùng tụng trong cuộc kết tập lần thứ nhất và được trùng tụng sau đó là hai bộ Giới Bổn, hai bộ Phân Tích, 82 Hợp Phần, 16 phần Tập Yếu – đây gọi là Tạng Luật. Trường Bộ Kinh có số lượng bài kinh là 34 bài Kinh bắt đầu với bài Kinh Mạng Lưới Cao Thượng [Brahmajāla] v.v. Trung Bộ Kinh có số lượng bài kinh là 152 bài kinh bắt đầu với bài kinh Pháp Môn Căn Bản v.v. Tương Ưng Bộ Kinh có số lượng bài kinh là bảy ngàn bảy trăm sáu mươi hai bài kinh bắt đầu với bài Kinh Vượt Bộc Lưu v.v. Tăng Chi Bộ Kinh có số lượng bài kinh là chín ngàn năm trăm năm mươi bài kinh bắt đầu với bài kinh Sự Xâm Chiếm và Ngự Trị Tâm [Cittapariyādāna], Tiểu Bộ với mười lăm phần khác biệt gồm có Tiểu Tụng, Pháp Cú, Phật Tự Thuyết, Phật Thuyết Như Vầy, Kinh Tập, Chuyện Thiên Cung, Chuyện Ngạ Quỷ, Trưởng Lão Kệ, Trưởng Lão Ni Kệ , Chuyện Tiền Thân, Diễn Giải, Phân Tích Đạo, Thánh Nhân Ký Sự, Phật Sử, Hạnh Tạng, đây gọi là Tạng Kinh. Bộ Pháp Tụ, Bộ Phân Tích, Bộ Nguyên Chất Ngữ, Bộ Nhân Chế Định, Bộ Ngữ Tông , Bộ Song Đối, và Bộ Vị Trí, “đây gọi là Tạng Vi Diệu Pháp.”
Giải Thích Từ ‘Vinaya – Luật’
Tattha – “Vividhavisesanayattā, vinayanato ceva kāyavācānaṃ.
Vinayatthavidūhi ayaṃ, vinayo vinayoti akkhāto”.
Vividhā hi ettha pañcavidhapātimokkhuddesapārājikādi satta āpattikkhandhamātikā vibhaṅgādippabhedā nayā. Visesabhūtā ca daḷhīkammasithilakaraṇappayojanā anupaññattinayā. kāyikavācasikājjhācāranisedhanato cesa kāyaṃ vācañca vineti, tasmā vividhanayattā visesanayattā kāyavācānaṃ vinayanato ceva vinayoti akkhāto. Tenetametassa vacanatthakosallatthaṃ vuttaṃ —
“Vividhavisesanayattā, vinayanato ceva kāyavācānaṃ.
Vinayatthavidūhi ayaṃ, vinayo vinayoti akkhāto”.
Ở đây – “Từ ‘Luật’ này, bậc trí hiểu được ý nghĩa của từ dịch ra với nội dụng như (rằng) – Luật vì có nhiều cách thức khác biệt, vì có cách thức đặc biệt, và do rèn luyện thân và lời nói”
Bởi vì trong Tạng Luật này có nhiều cách thức khác nhau là có 5 cách tụng đọc giới bổn Pātimokkha 7 sự phạm tội, chương có Bất Cộng Trụ [Pārājika], Mẫu Đề và Phân Tích là phần riêng biệt, còn điều quy định thêm là cách đặc biệt có kết quả làm cho điều quy định ban đầu của đức Phật trở nên vững chắc và dễ uốn nắn và Luật này để rèn luyện thân và khẩu, bởi vì ngăn chặn hành vi vi phạm thông qua thân và khẩu, vì thế tôi mới nói là ‘Luật – Vinaya’ do có nhiều cách thức khác biệt, do có cách thức đặc biệt và do rèn luyện thân và khẩu. Do đó, vì tính chất người thiện xảo trong ý nghĩa của lời nói của Luật này tôi mới nói rằng:
“Từ ‘Luật’ này, bậc trí hiểu được ý nghĩa của từ dịch ra với nội dụng như (rằng) – Luật vì có nhiều cách thức khác biệt, vì có cách thức đặc biệt, và do rèn luyện thân và lời nói”
Giải Thích Từ ‘Sutta – Kinh’
Itaraṃ pana —
“Atthānaṃ sūcanato suvuttato, savanatotha sūdanato.
Suttāṇā suttasabhāgato ca, suttanti [71]akkhātaṃ.
Tañhi attatthaparatthādibhede atthe sūceti. Suvuttā cettha atthā, veneyyajjhāsayānulomena[72] vuttattā. Savati cetaṃ atthe sassamiva phalaṃ, pasavatīti vuttaṃ hoti. Sūdati cetaṃ[73] dhenu viya khīraṃ, paggharāpetīti vuttaṃ hoti. Suṭṭhu ca ne tāyati, rakkhatīti vuttaṃ hoti. suttasabhāgañcetaṃ, yathā hi tacchakānaṃ suttaṃ pamāṇaṃ hoti, evametampi viññūnaṃ. Yathā ca suttena saṅgahitāni pupphāni na vikirīyanti, na viddhaṃsīyanti, evameva tena saṅgahitā atthā. Tenetametassa vacanatthakosallatthaṃ vuttaṃ —
“Atthānaṃ sūcanato, suvuttato savanatotha sūdanato.
Suttāṇā suttasabhāgato ca, suttanti akkhātan”ti.
Hơn nữa, ngoài ra Kinh –
“Từ ‘Kinh’ này được Ngài dịch nội dung rằng Sutta vì (có thể) chỉ ra những điều lợi ích, vì nói điều lợi ích thích hợp; vì lợi ích đâm chồi, nảy lộc, vì (có thể) tuôn ra điều lợi ích, vì bảo vệ một cách tốt đẹp và vì có phần đồng đẳng bởi sợi thước dây.”
Bởi vì Kinh ấy chỉ ra những điều lợi ích khác biệt giữa điều lợi ích của bản thân và của người khác v.v. Hơn nữa, những điều lợi ích được đức Thế khéo thuyết giảng trong Tạng này bởi thuyết thuận theo cơ tánh của các chúng sanh có khả năng lĩnh hội. Lại nữa, Tạng Kinh này khiến những điều lợi ích được đâm chồi, nảy lộc. Tức là cho trổ quả giống như cây mạ đâm chồi rồi cho bông lúa. Kinh này chảy ra nhiều lợi ích, giống như dòng sữa chảy ra từ bò mẹ. Hơn nữa, Kinh này bảo hộ, tức là gìn giữ những điều lợi ích đó một cách tốt đẹp. Và Kinh này có phần đồng đẳng với sợi thước dây, cũng giống như sợi thước dây là dụng cụ đo lường của người thợ mộc như thế nào, tương tự cũng như thế ấy Kinh này cũng là phương tiện để xác định các vị hiểu biết. Giống như những bông hoa được xâu kết lại bằng sợi chỉ (sẽ) không vung vãi, không phân tán bởi cơn gió như thế nào, những điều lợi ích được tích lũy thông qua Kinh này cũng tương tự thế ấy. Do đó, vì tính chất người thiện xảo trong ý nghĩa của lời nói của Kinh này tôi mới nói rằng:
“Từ ‘Kinh’ này được Ngài dịch nội dung rằng Sutta vì (có thể) chỉ ra những điều lợi ích, vì nói điều lợi ích thích hợp; vì lợi ích đâm chồi, nảy lộc, vì (có thể) chảy ra điều lợi ích, vì bảo vệ một cách tốt đẹp và vì có phần đồng đẳng bởi sợi thước dây.”
Giải Thích Từ ‘Abhidhamma – Vi Diệu Pháp’
Itaro pana —
“yaṃ ettha vuḍḍhimanto, salakkhaṇā pūjitā paricchinnā.
Vuttādhikā ca dhammā, abhidhammo tena akkhāto”.
Ayañhi abhisaddo vuḍḍhilakkhaṇapūjitaparicchinnādhikesu dissati. Tathā hesa “Bāḷhā me dukkhā vedanā abhikkamanti, no paṭikkamantī”tiādīsu[74] vuḍḍhiyaṃ āgato. “Yā tā rattiyo abhiññātā abhilakkhitā”tiādīsu[75] salakkhaṇe. “Rājābhirājā manujindo”tiādīsu[76] pūjite. “Paṭibalo vinetuṃ abhidhamme abhivinaye”tiādīsu[77] paricchinne. aññamaññasaṅkaravirahite dhamme ca vinaye cāti vuttaṃ hoti. “abhikkantena vaṇṇenā”tiādīsu[78] adhike
Còn Pháp khác –
Ngài gọi là Vi Diệu Pháp bởi vì đức Thế Tôn thuyết Vi Diệu Pháp này là Pháp có sự tăng trưởng (trí tuệ), xác định làm tiêu chuẩn, được mọi người cung kính lễ bái, được phân tách và là Pháp vượt trội hơn.
Bởi vì từ ‘Abhi’ này xuất hiện trong ý nghĩa tăng trưởng, (ý nghĩa) được bậc hiền nhân xác định làm tiêu chuẩn, (ý nghĩa) được mọi người cung kính lễ bái, (ý nghĩa) phân tách và (ý nghĩa) là Pháp vượt trội hơn. ‘Abhi’ về ý nghĩa ‘tăng trưởng’ có ví dụ sau – “Này các sư đệ, cảm thọ đau khổ khốc liệt, gia tăng (trở nên tồi tệ hơn) nơi tôi, không hề thuyên giảm.” ‘Abhi’ trong ý nghĩa ‘được bậc trí xác định làm tiêu chuẩn’ trong câu được bắt đầu như sau: “Trong những đêm (ngày mười bốn, ngày mười năm, người mồng tám) được biết đến, được xác định (thượng huyền và hạ huyền)”, được các bậc trí xác định làm tiêu chuẩn (thọ trì bát quan trai giới uposatha, để lắng nghe thuyết pháp và để thực hiện việc cung kính lễ bái). ‘Abhi’ với ý nghĩa ‘được mọi người cung kính lễ bái’ trong câu được bắt đầu như sau: “ngài là vị vua đứng đầu các vị vua, là chúa của loài người”. ‘Abhi’ với ý nghĩa ‘phân tách’ trong câu được bắt đầu như sau: “là vị có khả năng để hướng dẫn về Thắng Pháp, để hướng dẫn về Thắng Luật”. Giải thích rằng: trong Pháp và trong Luật để loại ra khỏi sự lẫn lộn (ý nghĩa) với nhau. ‘Abhi’ với ý nghĩa ‘vượt trội hơn’ như trong câu: “nhờ vào màu da tuyệt đẹp”.
Ettha ca “rūpūpapattiyā maggaṃ bhāveti”[79], “mettāsahagatena cetasā ekaṃ disaṃ pharitvā viharatī”tiādinā[80] nayena vuḍḍhimantopi dhammā vuttā. “Rūpārammaṇaṃ vā saddārammaṇaṃ vā”tiādinā[81] nayena ārammaṇādīhi lakkhaṇīyattā salakkhaṇāpi. “sekkhā dhammā, asekkhā dhammā, lokuttarā dhammā”tiādinā[82] nayena pūjitāpi, pūjārahāti adhippāyo. “Phasso hoti, vedanā hotī”tiādinā[83] nayena sabhāvaparicchinnattā paricchinnāpi. “Mahaggatā dhammā, appamāṇā dhammā,[84] anuttarā dhammā”tiādinā[85] nayena adhikāpi dhammā vuttā. Tenetametassa vacanatthakosallatthaṃ vuttaṃ —
Hơn nữa, các Pháp có ‘sự tăng trưởng’ đức Thế Tôn đã thuyết trong Vi Diệu Pháp này theo phương thức sau: “Vị Tỳ khưu tu tập con đường để đạt đến Sắc giới này”, “vị ấy lan tỏa một phương bằng tâm câu hữu với từ, rồi an trú”. Các Pháp được bậc trí xác định làm tiêu chuẩn bởi tính chất được xác định bằng đối tượng v.v, ngài đã nói theo phương thức sau: “Cảnh sắc hoặc cảnh thanh”. Các Pháp được ngài cung kính lễ bái, ngài đã nói theo phương thức sau: “Hữu học Pháp, Vô học pháp, Siêu thế Pháp”. Các Pháp đã được phân tách bởi tính chất cắt đoạn theo thực tính, ngài đã nói theo phương thức sau: “có xúc, có thọ”. Các Pháp vượt trội hơn, ngài đã nói theo phương thức sau: “Chư Pháp Đáo đại, chư Pháp Vô lượng, chư Pháp Vô thượng”. Do đó, vì tính chất người thiện xảo trong ý nghĩa của lời nói của Vi Diệu Pháp này tôi mới nói rằng:
Ngài gọi là Vi Diệu Pháp bởi vì đức Thế Tôn thuyết Vi Diệu Pháp này là Pháp có sự tăng trưởng (trí tuệ), xác định làm tiêu chuẩn, được mọi người cung kính lễ bái, được phân tách và là Pháp vượt trội hơn.
Yaṃ panettha avisiṭṭhaṃ, taṃ —
“Piṭakaṃ piṭakatthavidū, pariyattibbhājanatthato āhu.
Tena samodhānetvā, tayopi vinayādayo ñeyyā”.
Pariyattipi hi “mā piṭakasampadānenā”tiādīsu[86] piṭakanti vuccati. “Atha puriso āgaccheyya kudālapiṭakamādāyā”tiādīsu[87] yaṃ kiñci bhājanampi. Tasmā ‘piṭakaṃ piṭakatthavidū pariyattibhājanatthato āhu.
Trong các Tạng gồm Tạng Luật v.v, thì Tạng nào còn sót lại,
“Người hiểu ý nghĩa của Tạng gọi là Tạng, Tạng ấy là Piṭaka với ý nghĩa là ‘Pháp Học’ và ‘Vật Chứa Đựng’, nên biết rằng có 3 gồm Tạng Luật v.v, bởi vì được gom chung lại thành Piṭaka.
Thật vậy, Pháp Học ngài gọi là ‘Piṭaka’ như sau “Đừng vội tin bởi kinh điển truyền tụng”. Ngay cả bất cứ vật chứa đựng nào chăng nữa thì ngài cũng gọi là Piṭaka như sau: “Khi ấy, người đàn ông có thể đi đến, cầm cuốc và thúng.” Vì thế, bậc trí biết được ý nghĩa của từ Piṭaka mới gọi từ Piṭaka là ‘Piṭaka’với ý nghĩa Pháp Học và Vật Chứa Đựng.
Idāni ‘tena samodhānetvā tayopi vinayādayo ñeyyā’ ’ti, tena evaṃ duvidhatthena piṭakasaddena saha samāsaṃ katvā vinayo ca so piṭakañca pariyattibhāvato, tassa tassa atthassa bhājanato cāti vinayapiṭakaṃ, yathāvutteneva nayena suttantañca taṃ piṭakañcāti suttantapiṭakaṃ, abhidhammo ca so piṭakañcāti abhidhammapiṭakanti. Evamete tayopi vinayādayo ñeyyā. Evaṃ ñatvā ca punapi tesuyeva piṭakesu nānappakārakosallatthaṃ —
“Desanāsāsanakathābhedaṃ tesu yathārahaṃ.
Sikkhāppahānagambhīrabhāvañca paridīpaye.
Pariyattibhedaṃ sampattiṃ, vipattiñcāpi yaṃ yahiṃ.
Pāpuṇāti yathā bhikkhu, tampi sabbaṃ vibhāvaye”.
Bây giờ, “nên biết rằng có 3 gồm Tạng Luật v.v, bởi vì gom vào từ ‘Piṭaka’ ấy”, nên biết rằng có 3 gồm Tạng Luật v.v, như thế (rằng) bởi đã thực hiện sự kết hợp với từ ‘Piṭaka’ có 2 nội dung như thế này như thế kia là Luật (và) Luật đó cũng là ‘Piṭaka’ bởi vì là Pháp Học, và bởi là Vật Chứa Đựng ý nghĩa đó, cho nên mới gọi là Tạng Luật. Theo cách thức đã nói thì Kinh (và) Kinh ấy cũng là ‘Piṭaka’ cho nên mới là Tạng Kinh. Vi Diệu Pháp (và) Vi Diệu Pháp ấy cũng là ‘Piṭaka’, cho nên mới là Tạng Vi Diệu Pháp. Khi biết như vậy, vì tính chất người thiện xảo trong nhiều khía cạnh khác nhau ở trong cả 3 Tạng ấy thêm lần nữa.
“Có thể trình bày như sau – có phần thuyết giảng, có phần giáo lý, có phần lời nói, và phần điều học, phần dứt trừ, phần có tính chất thâm sâu thích hợp trong những Tạng ấy, vị Tỳ khưu đạt đến các phần của việc học tập nào, sự thành tựu nào, ngay cả sự không đắc thành nào, trong ‘Piṭaka’ nào, với biểu hiện nào, có thể trình bày toàn bộ phần của việc học tập ấy bởi biểu hiện ấy.”
Tatrāyaṃ paridīpanā vibhāvanā ca. etāni hi tīṇi piṭakāni yathākkamaṃ āṇā-vohāra-paramattha-desanā, yathāparādha-yathānuloma-yathādhamma-sāsanāni, saṃvarāsaṃvara-diṭṭhiviniveṭhana-nāmarūpaparicchedakathāti ca vuccanti. Ettha hi vinayapiṭakaṃ āṇārahena bhagavatā āṇābāhullato desitattā āṇādesanā, suttantapiṭakaṃ vohārakusalena bhagavatā vohārabāhullato desitattā vohāradesanā, abhidhammapiṭakaṃ paramatthakusalena bhagavatā paramatthabāhullato desitattā paramatthadesanāti vuccati.
Trong những kệ ngôn đó có lời giải thích một cách sáng tỏ và rõ ràng (như sau). Thật vậy, 3 Tạng ấy ngài gọi theo thứ tự rằng: mệnh lệnh thuyết giảng [ānādesanā], thuyết pháp dùng ngôn ngữ thích hợp [vohāradesanā], siêu lý thuyết giảng [paramatthadesanā], lời thuyết giảng tùy theo sai phạm của chúng sanh [yathāparādha-sāsanā], lời thuyết giảng tùy theo khuynh hướng của chúng sanh [yathānuloma-sāsanā], lời thuyết giảng bậc thù thắng tùy theo chúng sanh có nhiều ngã chấp [yathādhamma sāsanā] và lời nói về sự thu thúc và sự không thu thúc [saṃvarāsaṃvarakathā], lời nói để tháo gỡ tà kiến [diṭṭhiviniveṭhanakathā], lời nói về phân biệt danh và sắc [nāmarūpaparicchedakathā].
Trong 3 Tạng này Tạng Luật ngài gọi là ānādesanā – việc thuyết giảng pháp bằng uy quyền và mệnh lệnh bởi vì là Tạng được đức Thế Tôn ra chỉ thị đã thuyết giảng thông qua nhiều nội dung bài thuyết pháp bằng mệnh lệnh. Tạng Kinh ngài gọi là vohāradesanā – việc thuyết giảng theo ngôn ngữ thông dụng ở thế gian, bởi vì là Tạng được đức Thế Tôn, vị thiện xảo về ngôn ngữ đã thuyết giảng với nhiều tính chất bài thuyết pháp thông qua lời dạy. Tạng Vi Diệu Pháp ngài gọi là paramatthadesanā – việc thuyết giảng về Pháp Chân Đế, bởi vì là Tạng được đức Thế Tôn, vị thiện xảo về Pháp Chân Đế đã thuyết giảng với nhiều tính chất bài thuyết pháp thông qua Pháp Chân Đế.
Tathā paṭhamaṃ — ‘ye te pacurāparādhā sattā, te yathāparādhaṃ ettha sāsitā’ti yathāparādhasāsanaṃ, dutiyaṃ — ‘anekajjhāsayānusayacariyādhimuttikā sattā yathānulomaṃ ettha sāsitā’ti yathānulomasāsanaṃ, tatiyaṃ — ‘dhammapuñjamatte “ahaṃ mamā”ti saññino sattā yathādhammaṃ ettha sāsitā’ti yathādhammasāsananti vuccati.
Cũng thế ấy, Tạng thứ nhất [Tạng Luật] ngài gọi là yathāparādhasāsanā – việc giảng dạy theo sự sai phạm bởi ý nghĩa phân tích rằng “Những chúng sanh có nhiều sai phạm nào, thì những chúng sanh ấy được đức Thế Tôn giảng dạy theo sự sai phạm trong Tạng này. Tạng thứ hai [Tạng Kinh] ngài gọi là yathānulomasāsanā – việc giảng dạy thuận theo khuynh hướng bởi ý nghĩa phân tích rằng “Những chúng sanh có khuynh hướng ngũ ngầm [ajjhāsayānusaya] và khuynh hướng tánh hạnh [cariyādhimuttikā] không phải ít được đức Thế Tôn giảng dạy trong Tạng này đúng theo thứ lớp. Tạng thứ ba [Tạng Vi Diệu Pháp] ngài gọi là yathādhammasāsana – việc giảng dạy theo Pháp Chân Đế bởi ý nghĩa phân tích rằng: “Tất cả chúng sanh có suy nghĩ trong thực tính chỉ gọi là đống [tập hợp] của Pháp Chân Đế rằng ‘đây là ta, đây là của ta’ được đức Thế Tôn giảng dạy theo Pháp Chân Đế trong Tạng này.
Tathā paṭhamaṃ — ajjhācārapaṭipakkhabhūto saṃvarāsaṃvaro ettha kathitoti saṃvarāsaṃvarakathā. Saṃvarāsaṃvaroti khuddako ceva mahanto ca saṃvaro, kammākammaṃ viya, phalāphalaṃ viya ca, dutiyaṃ — “dvāsaṭṭhidiṭṭhipaṭipakkhabhūtā diṭṭhiviniveṭhanā ettha kathitā”ti diṭṭhiviniveṭhanakathā, tatiyaṃ — “rāgādipaṭipakkhabhūto nāmarūpaparicchedo ettha kathito”ti nāmarūpaparicchedakathāti vuccati.
Cũng vậy, Tạng thứ nhất ngài gọi là saṃvarāsaṃvarakathā – với ý nghĩa saṃvarāsaṃvara đối lập với việc vi phạm được đức Thế Tôn thuyết trong Tạng này. Từ saṃvarāsaṃvara bao gồm sự thu thúc nhỏ và sự thu thúc lớn giống như việc làm nhỏ và việc làm lớn, và cũng giống như trái cây nhỏ và trái cây lớn. Tạng thứ hai là ngài gọi là diṭṭhiviniveṭhanakathā – lời nói để tháo gỡ tà kiến với ý nghĩa rằng việc tháo gỡ [mạng lưới] tà kiến trở thành kẻ thù đối nghịch với sáu mươi hai loại tà kiến được đức Thế Tôn thuyết giảng trong Tạng này. Tạng thứ ba ngài gọi là nāmarūpaparicchedakathā – Lời nói giải thích việc phân biệt danh và sắc với ý nghĩa rằng: việc phân biệt danh và sắc là kẻ thù nghịch của phiền não có ái luyến v.v, được đức Thế Tôn thuyết trong Tạng này.
Tīsupi cetesu tisso sikkhā, tīṇi pahānāni, catubbidho ca gambhīrabhāvo veditabbo. tathā hi vinayapiṭake visesena adhisīlasikkhā vuttā, suttantapiṭake adhicittasikkhā, abhidhammapiṭake adhipaññāsikkhā.
Hơn nữa, nên biết 3 học giới, 3 sự dứt trừ và 4 tính chất thâm sau trong cả 3 Tạng này. Thật vậy, học tập về thắng giới – đức Thế Tôn thuyết giảng đặc biệt trong Tạng Luật, học tập về thắng tâm – được thuyết giảng đặc biệt trong Tạng Kinh, học tập về thắng tuệ – được thuyết giảng đặc biệt trong Tạng Vi Diệu Pháp.
Vinayapiṭake ca vītikkamappahānaṃ, kilesānaṃ vītikkamapaṭipakkhattā sīlassa. suttantapiṭake pariyuṭṭhānappahānaṃ, pariyuṭṭhānapaṭipakkhattā samādhissa. abhidhammapiṭake anusayappahānaṃ, anusayapaṭipakkhattā paññāya. Paṭhame ca tadaṅgappahānaṃ, itaresu vikkhambhana-samucchedappahānāni. Paṭhame ca duccaritasaṃkilesappahānaṃ, itaresu taṇhādiṭṭhisaṃkilesappahānaṃ[88].
Và việc dứt trừ phiền não loại thô – đức Thế Tôn đã thuyết giảng trong Tạng Luật bởi vì Giới là kẻ thù đối nghịch với phiền não loại thô. Việc dứt trừ phiền não bậc trung được thuyết trong Tạng Kinh bởi vì Định là kẻ thù đối nghịch với phiền não bậc trung. Việc dứt trừ phiền não loại vi tế – được thuyết trong tạng Vi Diệu Pháp bởi Tuệ là kẻ thù đối nghịch với phiền não loại vi tế. Hơn nữa, việc dứt trừ phiền não do thay thế – được thuyết trong Tạng thứ nhất, việc dứt trừ phiền não do chế ngự và việc dứt trừ nhờ đoạn trừ hoàn toàn – được thuyết trong 2 Tạng còn lại. Việc dứt trừ phiền não là các ác hạnh (gồm ác hạnh về thân v.v,) được thuyết trong Tạng thứ nhất, việc dứt trừ phiền não là tham ái và tà kiến được thuyết trong 2 Tạng còn lại.
Ekamekasmiñcettha catubbidhopi dhammatthadesanā paṭivedhagambhīrabhāvo veditabbo. Tattha dhammoti tanti[89]. Atthoti tassāyeva attho. Desanāti tassā manasā vavatthāpitāya tantiyā desanā. Paṭivedhoti tantiyā tantiatthassa ca yathābhūtāvabodho. Tīsupi cetesu ete dhammatthadesanāpaṭivedhā. yasmā sasādīhi viya mahāsamuddo mandabuddhīhi dukkhogāḷhā alabbhaneyyapatiṭṭhā ca, tasmā gambhīrā. evaṃ ekamekasmiṃ ettha catubbidhopi gambhīrabhāvo veditabbo.
Trong 3 Tạng này nên biết rằng mỗi Tạng đều có 4 tính chất thâm sâu là thâm sâu về pháp, về y nghĩa, về sự thuyết giảng và với sự thấu triệt. Trong bốn bản chất thâm sâu đó Pháp bao gồm Chánh Tạng Pāḷī, ý nghĩa bao gồm ý nghĩa của chính Chánh Tạng Pāḷī đó. Sự thuyết giảng bao gồm việc thuyết giảng Chánh Tạng Pāḷī ấy được xác định một cách khéo léo bằng tâm. Sự thấu triệt bao gồm sự hiểu biết sâu sắc Chánh Tạng Pāḷī và ý nghĩa của Pāḷī theo đúng theo thực thể. Cũng do thâm sâu về pháp, về y nghĩa, về sự thuyết giảng và với sự thấu triệt này trong cả 3 Tạng, những người có ít trí tuệ khó có thể hiểu được và không thể làm chỗ nương tựa giống như đại dương thì các loài động vật nhỏ bao gồm thỏ, v.v. không thể nương tựa, vì thế gọi là thâm sâu. Trong cả 3 Tạng này nên hiểu cả 4 sự thâm sâu của mỗi Tạng như vậy.
Aparo nayo, dhammoti hetu. Vuttañhetaṃ — “hetumhi ñāṇaṃ dhammapaṭisambhidā”ti[90]. Atthoti hetuphalaṃ, vuttañhetaṃ — “hetuphale ñāṇaṃ atthapaṭisambhidā”ti[91]. Desanāti paññatti, yathā dhammaṃ dhammābhilāpoti adhippāyo. anulomapaṭilomasaṅkhepavitthārādivasena vā kathanaṃ. Paṭivedhoti abhisamayo, so ca lokiyalokuttaro visayato asammohato ca, atthānurūpaṃ dhammesu, dhammānurūpaṃ atthesu, paññattipathānurūpaṃ paññattīsu avabodho. Tesaṃ tesaṃ vā tattha tattha vuttadhammānaṃ paṭivijjhitabbo salakkhaṇasaṅkhāto aviparītasabhāvo.
Cách khác nữa, Pháp bao gồm nhân. Điều này đã được đức Thế Tôn nói đến – “Trí trong nhân gọi là sự phân tích về pháp”. Ý nghĩa bao gồm quả của nhân. Điều này đã được đức Thế Tôn nói đến – “trí trong quả của nhân gọi là sự phân tích về ý nghĩa”. Sự thuyết giảng bao gồm sự chế định – paññatti, việc thuyết giảng Giáo Pháp theo thực tính pháp. Hơn nữa, sự thuyết giảng khi nói về thuận dòng và nghịch dòng [anuloma-paṭiloma], vắn tắt và chi tiết v.v, gọi là sự thuyết giảng. Sự thấu triệt bao gồm việc giác ngộ và sự triệt ngộ cả Pháp Hiệp thế và cả Pháp Siêu thế, bao gồm bản thể thật không bị biến đổi trong tất cả các nhân tương ứng với kết quả, trong tất cả các kết quả tương ứng với nhân, trong tất cả các chế định tương ứng với đạo lộ của chế định, với đối tượng và với sự không mê mờ, thực tính của những Pháp đó được trình bày trong Tạng đó, không bị lệch lạc được xem là bậc trí xác định làm tiêu chuẩn cần phải thấu triệt.
Idāni yasmā etesu piṭakesu yaṃ yaṃ dhammajātaṃ vā atthajātaṃ vā, yā cāyaṃ yathā yathā ñāpetabbo attho sotūnaṃ ñāṇassa abhimukho hoti, tathā tathā tadatthajotikā desanā, yo cettha aviparītāvabodhasaṅkhāto paṭivedho, tesaṃ tesaṃ vā dhammānaṃ paṭivijjhitabbo salakkhaṇasaṅkhāto aviparītasabhāvo. Sabbampetaṃ anupacitakusalasambhārehi duppaññehi sasādīhi viya mahāsamuddo dukkhogāḷhaṃ alabbhaneyyapatiṭṭhañca, tasmā gambhīraṃ. evampi ekamekasmiṃ ettha catubbidhopi gambhīrabhāvo veditabbo.
Thực tính pháp có bất kỳ nhân nào, (hay) thực tính pháp có bất kỳ quả nào, ý nghĩa cần được biết bởi bất kỳ cách nào đều là mục tiêu quan trọng của trí của tất cả mọi người nghe; sự thuyết giảng này đây chỉ rõ ý nghĩa ấy làm cho sáng tỏ bằng cách đó, (hay) sự thấu triệt nào được xem là sự hiểu biết thật sự không bị sai lệch trong 3 Tạng, hơn nữa thực tính các pháp đó không bị biến đổi được bậc trí xác định làm tiêu chuẩn cần được thấu triệt. Tất cả mọi người trong đời này, tất cả những người có trí tuệ kém cỏi, chưa từng tích lũy các công đức, khó có thể hiểu biết sâu sắc và không thể làm chỗ nương tựa như đại dương không thể làm chỗ nương tựa cho tất cả các loài vật nhỏ chẳng hạn như loài thỏ, v.v. Vì lý do đó, thực tính pháp có nhân hoặc thực tính pháp có quả ấy mới thâm sâu, cả bốn tính chất thâm sâu ở mỗi Tạng trong số 3 Tạng này nên được hiểu như vậy.
Ettāvatā ca —
“Desanāsāsanakathā, bhedaṃ tesu yathārahaṃ.
Sikkhāppahānagambhīra, bhāvañca paridīpaye”ti —
Ayaṃ gāthā vuttatthāva hoti.
“Pariyattibhedaṃ sampattiṃ, vipattiñcāpi yaṃ yahiṃ.
Pāpuṇāti yathā bhikkhu, tampi sabbaṃ vibhāvaye”ti —
Ettha pana tīsu piṭakesu tividho pariyattibhedo daṭṭhabbo. Tisso hi pariyattiyo — alagaddūpamā, nissaraṇatthā, bhaṇḍāgārikapariyattīti.
Và chỉ bấy nhiêu –
“Phải nên trình bày phần thuyết giảng, phần giáo lý, phần lời nói, và phần học giới, phần dứt trừ, phần có tính chất thâm sâu thích hợp trong các Tạng ấy”.
Kệ ngôn này có ý nghĩa được tôi nói với lời nói chừng ấy.
“Vị Tỳ khưu đạt đến phần Pháp Học, Thiền chứng, ngay cả sự không đắc thành nào ở Tạng nào, bằng biểu hiện nào, nên trình bày toàn bộ các phần của Pháp Học ấy, bằng biểu hiện ấy” –
Còn ở đây 3 phần của việc học tập trong 3 Tạng nên biết trong phần kệ ngôn. Thật vậy, có 3 phần Pháp Học là hạng người học Pháp học ví như người bắt rắn độc phần đuôi có hại cho sinh mạng của mình [alagaddūpamā], hạng người học Pháp học nhằm mục đích giải thoát khỏi khổ sanh tử luân hồi trong ba giới bốn loài [nissaraṇatthā], Bậc Thánh A-ra-hán học Pháp học cốt để giữ gìn, duy trì kho tàng Pháp bảo của Đức Phật. [Bhaṇḍāgārika].
Tattha yā duggahitā, upārambhādihetu pariyāpuṭā, ayaṃ alagaddūpamā. Uaṃ sandhāya vuttaṃ “Seyyathāpi, bhikkhave, puriso alagaddatthiko alagaddagavesī alagaddapariyesanaṃ caramāno, so passeyya mahantaṃ alagaddaṃ, tamenaṃ bhoge vā naṅguṭṭhe vā gaṇheyya, tassa so alagaddo paṭiparivattitvā[92] hatthe vā bāhāyaṃ vā aññatarasmiṃ vā aṅgapaccaṅge ḍaṃseyya, so tato nidānaṃ maraṇaṃ vā nigaccheyya, maraṇamattaṃ vā dukkhaṃ. Taṃ kissa hetu? Duggahitattā, bhikkhave, alagaddassa. Evameva kho, bhikkhave, idhekacce moghapurisā dhammaṃ pariyāpuṇanti, suttaṃ … pe … vedallaṃ, te taṃ dhammaṃ pariyāpuṇitvā tesaṃ dhammānaṃ paññāya atthaṃ na upaparikkhanti, tesaṃ te dhammā paññāya atthaṃ anupaparikkhataṃ na nijjhānaṃ khamanti, te upārambhānisaṃsā ceva dhammaṃ pariyāpuṇanti, itivādappamokkhānisaṃsā ca, yassa catthāya dhammaṃ pariyāpuṇanti, tañcassa atthaṃ nānubhonti, tesaṃ te dhammā duggahitā dīgharattaṃ ahitāya dukkhāya saṃvattanti. taṃ kissa hetu? duggahitattā, bhikkhave, dhammānan”[93]ti.
Ở đây, hạng người nào học Pháp Học sai lệch, là học tập vì mục đích chỉ trích người khác v.v, thì Pháp Học này ví như người bắt rắn độc phần đuôi được đức Thế Tôn nói đề cập như sau: “Này chư Tỳ khưu, ví như một người ưa thích bắt rắn, tìm cầu con rắn, kẻ khắp chỗ để tìm con rắn, người đó thấy một con rắn nước lớn, và người đó bắt con rắn ấy ở lưng hay ở đuôi, con rắn ấy có thể quay lại cắn người đó ở tay hoặc ở cánh tay hay ở bất kỳ chi phần lớn nhỏ nào của cơ thể của người ấy, và người đó có thể do nhân này mà bị chết hay bị đau khổ gần như chết. Vì sao vậy? Này chư Tỳ khưu, vì người ấy bắt con rắn sai cách. Cũng vậy này các Tỳ khưu, ở đây có một số người rỗng không học pháp, như Kinh …nt… Phương quảng. Sau khi học các pháp này, những kẻ rông không không suy xét ý nghĩa những pháp ấy với trí tuệ, họ học các pháp chỉ vì lợi ích, vì mục đích muốn chỉ trích người khác, và vì lợi ích muốn thoát khỏi sự vu khống ấy, nên mới học tập Giáo Pháp. Những kẻ rỗng không học tập Pháp vì lợi ích của Pháp nào cũng không không đạt được mục tiêu của Pháp đó hướng đến, những Pháp ấy họ nắm giữ sai lạc nên đưa đến bất hạnh, đau khổ lâu dài. Vì sao vậy? Này các Tỳ khưu, vì các Pháp ấy những kẻ rỗng không học tập sai đường lối.”
Yā pana suggahitā sīlakkhandhādipāripūriṃyeva ākaṅkhamānena pariyāpuṭā, na upārambhādihetu, ayaṃ nissaraṇatthā. Yaṃ sandhāya vuttaṃ — “Tesaṃ te dhammā suggahitā dīgharattaṃ hitāya sukhāya saṃvattanti. taṃ kissa hetu? suggahitattā, bhikkhave, dhammānan”ti (ma. ni. 1.239).
Còn Pháp Học nào hạng người nào học tập đúng đắn, là ước muốn sự thành tựu của các ân đức gồm Giới Uẩn v.v, đã học tập không vì mục đích cho việc chỉ trích người khác v.v, đây gọi là học Pháp Học vì mục đích giải thoát khỏi khổ sanh tử luân hồi, mà được đức Thế Tôn nói đề cập như sau: – “Những pháp ấy, được những người ấy tiếp thâu đúng đắn, sẽ vận hành đưa đến sự hạnh phúc, sự an lạc lâu dài. Vì sao vậy? Này các Tỳ khưu, vì các Pháp ấy được tiếp thâu đúng đắn.”
Yaṃ pana pariññātakkhandho pahīnakileso bhāvitamaggo paṭividdhākuppo sacchikatanirodho khīṇāsavo kevalaṃ paveṇīpālanatthāya vaṃsānurakkhaṇatthāya pariyāpuṇāti, ayaṃ bhaṇḍāgārikapariyattīti.
Còn bậc A-ra-hán có uẩn đã được biết toàn diện, có phiền não đã dứt trừ, có Đạo đã được tu tập, có Thánh Quả A-ra-hán đã thấu triệt, có sự diệt tận đã tác chứng, học tập Pháp Học nào nhằm mục đích gìn giữ truyền thống, nhằm mục đích duy trì dòng dõng Phật, đây gọi là học tập Pháp học cốt để giữ gìn, duy trì kho tàng Pháp bảo của Đức Phật.
Vinaye pana suppaṭipanno bhikkhu sīlasampadaṃ nissāya tisso vijjā pāpuṇāti, tāsaṃyeva ca tattha pabhedavacanato. Sutte suppaṭipanno samādhisampadaṃ nissāya cha abhiññā pāpuṇāti, tāsaṃyeva ca tattha pabhedavacanato. Abhidhamme suppaṭipanno paññāsampadaṃ nissāya catasso paṭisambhidā pāpuṇāti, tāsañca[94] tattheva pabhedavacanato, evametesu suppaṭipanno yathākkamena imaṃ vijjāttayachaḷabhiññācatuppaṭisambhidābhedaṃ sampattiṃ pāpuṇāti.
Hơn nữa, vị Tỳ khưu đã khéo thực hành trong Luật nương nhờ sự thành tựu Giới đạt được Tam Minh, bởi vì ngài đã nói đến phần riêng biệt của Tam Minh ấy trong Luật đó. Vị Tỳ khưu đã khéo thực hành trong Kinh nương nhờ sự thành tựu Định đạt được 6 thắng trí – abhiññā do ngài đã nói đến phần riêng biệt của 6 thắng trí ấy trong Kinh đó. Vị Tỳ khưu đã khéo thực hành trong Vi Diệu Pháp nương nhờ sự thành tựu Tuệ đạt được bốn Tuệ Phân Tích do ngài đã nói đến phần riêng biệt của bốn Tuệ Phân Tích trong Vi Diệu Pháp ấy tương tự. Vị Tỳ khưu đã khéo thực hành trong 3 Tạng ấy đạt được sự thành tựu Tam Minh, 6 Thắng Trí, và Tứ Tuệ Phân Tích v.v, riêng biệt này theo tuần tự bằng cách như vậy.
Vinaye pana duppaṭipanno anuññāta-sukhasamphassāttharaṇapāvuraṇādi-phassasāmaññato paṭikkhittesu upādinnakaphassādīsu anavajjasaññī hoti. Vuttampi hetaṃ — “Tathāhaṃ bhagavatā dhammaṃ desitaṃ ājānāmi, yathā ye me antarāyikā dhammā antarāyikā vuttā bhagavatā, te paṭisevato nālaṃ antarāyāyā”ti[95]. Tato dussīlabhāvaṃ pāpuṇāti. Sutte duppaṭipanno — “Cattāro me, bhikkhave, puggalā santo saṃvijjamānā”tiādīsu[96] adhippāyaṃ ajānanto duggahitaṃ gaṇhāti, yaṃ sandhāya vuttaṃ — “Attanā duggahitena amhe ceva abbhācikkhati, attānañca khaṇati, bahuñca apuññaṃ pasavatī”ti[97]. Tato micchādiṭṭhitaṃ pāpuṇāti. Abhidhamme duppaṭipanno dhammacintaṃ atidhāvanto acinteyyānipi cinteti. Tato cittakkhepaṃ pāpuṇāti, vuttañhetaṃ — “Cattārimāni, bhikkhave, acinteyyāni, na cintetabbāni, yāni cintento ummādassa vighātassa bhāgī assā”ti[98]. Evametesu duppaṭipanno yathākkamena imaṃ dussīlabhāva micchādiṭṭhitā cittakkhepabhedaṃ vipattiṃ pāpuṇātī”ti.
Còn vị ác Tỳ khưu trong Luật này suy nghĩ không có lỗi lầm trong sự bám víu vào xúc, có việc đụng chạm thứ có thức bao phủ v.v, cần phải từ chối, có trạng thái tương tự việc xúc chạm vật gồm vật trải ngồi và y phục mà có sự xúc chạm dễ chịu đã được cho phép. Như Tỳ khưu Ariṭṭha đã nói: “Theo như ta hiểu về Pháp đã được đức Thế Tôn thuyết giảng thì những pháp chướng ngại được đức Thế Tôn giảng giải không có khả năng đưa đến sự chướng ngại cho người thực hành.” Từ đó vị Tỳ khưu ấy đạt đến bản chất người ác giới. Vị Tỳ khưu thực hành không đứng đắn trong Kinh, không biết được ý định trong Pāḷī rằng: – “Này chư Tỳ khưu, ở đây có bốn hạng người này có mặt ở trên đời,” chấp thủ sai lầm ý đức Thế Tôn muốn đề cập – “Không những ông xuyên tạc ta, ông còn tự phá hoại ông và tạo nên nhiều tổn đức do ông đã tự chấp thủ sai lạc. Từ đó, (vị ấy) đạt đến bản chất tà kiến. Vị Tỳ khưu thực hành không đúng đắn trong Vi Diệu Pháp, khi suy tư Pháp quá mức, thậm chí nghĩ đến những chuyện không nên nghĩ, từ đó đạt đến sự điên cuồng loạn tâm, điều này Phật ngôn đã thuyết như sau: “Có bốn điều này không thể nghĩ đến được, này các Tỳ khưu, nếu nghĩ đến, thời người suy nghĩ có thể đi đến cuồng loạn và thống khổ.” Vị Tỳ khưu thực hành không đúng đắn trong 3 Tạng này đạt đến sự vi phạm với bản chất người ác giới, bản chất tà kiến, và sự cuồng loạn tâm như thế.
Ettāvatā ca —
“Pariyattibhedaṃ sampattiṃ, vipattiñcāpi yaṃ yahiṃ.
Pāpuṇāti yathā bhikkhu, tampi sabbaṃ vibhāvaye”ti –
Ayampi gāthā vuttatthāva[99] hoti. Evaṃ nānappakārato piṭakāni ñatvā tesaṃ vasenetaṃ buddhavacanaṃ tividhanti ñātabbaṃ.
Và chỉ chừng ấy –
“Vị đạt được phần Pháp Học nào, thiền chứng nào, ngay cả sự vi phạm nào ở Tạng nào, với biểu hiện nào, nên trình bày toàn bộ phần của Pháp Học đó, với biểu hiện đó” –
Đây là kệ ngôn có ý nghĩa đã được tôi trình bày rồi. Như vậy sau khi biết các Tạng bằng ở nhiều phương diện khác biệt, học giả nên biết lời dạy của đức Phật có 3 phần (riêng biệt) khi nói về các Tạng đó.
Kathaṃ nikāyavasena pañcavidhaṃ? Sabbameva cetaṃ dīghanikāyo, majjhimanikāyo, saṃyuttanikāyo, aṅguttaranikāyo, khuddakanikāyoti pañcappabhedaṃ hoti. Tattha katamo dīghanikāyo? Tivaggasaṅgahāni brahmajālādīni catuttiṃsa suttāni.
“Catuttiṃseva suttantā, tivaggo yassa saṅgaho.
Esa dīghanikāyoti, paṭhamo anulomiko”ti.
Kasmā panesa Dīghanikāyoti vuccati? Dīghappamāṇānaṃ suttānaṃ samūhato nivāsato ca. Samūhanivāsā hi nikāyoti[100] vuccanti. “nāhaṃ, bhikkhave, aññaṃ ekanikāyampi samanupassāmi evaṃ cittaṃ, yathayidaṃ, bhikkhave, tiracchānagatā pāṇā”[101] , Poṇikanikāyo Cikkhallikanikāyoti[102] evamādīni cettha sādhakāni sāsanato lokato ca. Evaṃ sesānampi nikāyabhāve vacanattho veditabbo.
Thế nào là có 5 phần khi nói về của Nikāya [Bộ Kinh]? Và điều này toàn bộ gồm có 5 phần là Trường Bộ Kinh, Trung Bộ Kinh, Tương Ưng Bộ Kinh, Tăng Chi Bộ Kinh, và Tiểu Bộ Kinh. Trong số 5 bộ Kinh đó thì thế nào là Trường Bộ Kinh? Bộ Kinh có ba mươi bốn bài Kinh bắt đầu với bài Kinh Mạng Lưới Cao Thượng v.v, được kết tập thành ba chương.
“Bộ Kinh nào có ba mươi bốn bài Kinh được kết tập làm ba chương. Đó là Trường Bộ Kinh, tức là phần thứ nhất theo sự sắp xếp.”
Vì sao bộ Kinh thứ nhất này được gọi là Trường Bộ? Bởi vì là chỗ tập hợp và là chỗ trú của tất cả bài Kinh có kích thước dài. Thật vậy nhóm và chỗ trú ngài gọi là Nikāya [Bộ Kinh]. Bởi trong từ ‘Bộ Kinh’ đề cập đến ‘một khối’ và ‘chỗ trú’ có một ví dụ minh họa làm câu chuyện hình thành đạo lộ Tôn Giáo và Thế Gian như sau: – “Này các Tỳ khưu, ta chưa quan sát thấy một nhóm loài chúng sinh nào khá phức tạp, khác biệt, đa dạng như loài bàng sanh” và chỗ ở của Sát-đế-lỵ Poṇika, và chỗ ở của Sát-đế-lỵ Cikkhallika. Như vậy, ý nghĩa của từ trong tính chất của 4 Bộ Kinh còn lại, bậc trí nên hiểu theo phương thức đã được trình bày.
Katamo Majjhimanikāyo? Majjhimappamāṇāni pañcadasavaggasaṅgahāni mūlapariyāyasuttādīni diyaḍḍhasataṃ dve ca suttāni.
“Diyaḍḍhasatasuttantā, dve ca suttāni yattha so.
Nikāyo majjhimo pañca, dasavaggapariggaho”ti.
Thế nào là Trung Bộ Kinh? Bộ Kinh có một trăm năm mươi hai bài kinh bắt đầu với bài kinh Căn Bản Pháp Môn v.v, được kết tập thành mười lăm chương.
“Bộ Kinh nào có một trăm năm mươi hai bài kinh, được kết tập thành mười lăm chương. Bộ Kinh đó gọi là Trung Bộ Kinh”
Katamo Saṃyuttanikāyo? Devatāsaṃyuttādivasena kathitāni Oghataraṇādīni satta suttasahassāni satta ca suttasatāni dvāsaṭṭhi ca suttāni.
“Sattasuttasahassāni, sattasuttasatāni ca.
Dvāsaṭṭhi ceva suttantā, eso saṃyuttasaṅgaho”ti.
Thế nào là Tương Ưng Bộ Kinh? Bộ Kinh có bảy ngàn bảy trăm sáu mươi hai bài kinh bắt đầu với bài kinh Vượt Bộc Lưu v.v, được thuyết khi nói về Tương Ưng Thiên v.v.
“Bộ Kinh có bảy ngàn bảy trăm sáu mươi hai bài kinh được kết tập thành Tương Ưng Bộ.”
Katamo Aṅguttaranikāyo? Ekekāṅgātirekavasena kathitāni Cittapariyādānādīni nava suttasahassāni pañca suttasatāni sattapaññāsañca suttāni.
“Nava suttasahassāni, pañca suttasatāni ca.
Sattapaññāsa suttāni, saṅkhyā aṅguttare ayan”ti.
Thế nào là Tăng Chi Bộ Kinh? Bộ Kinh có chín ngàn năm trăm năm mươi bảy bài kinh bắt đầu với bài kinh Sự Xâm Chiếm và Chế Ngự Tâm [Cittapariyādānā] được thuyết do tác động của việc thêm vào mỗi phần một chi phần.
“Số lượng bài kinh trong Tăng Chi Bộ này là chín ngàn năm trăm năm mươi bảy bài kinh.”
Katamo Khuddakanikāyo? sakalaṃ vinayapiṭakaṃ, abhidhammapiṭakaṃ, khuddakapāṭhādayo ca pubbe dassitā pañcadasappabhedā, ṭhapetvā cattāro nikāye avasesaṃ buddhavacanaṃ.
“Ṭhapetvā caturopete, nikāye dīghāadike.
Tadaññaṃ buddhavacanaṃ, nikāyo khuddako mato”ti.
Evaṃ nikāyavasena pañcavidhaṃ.
Thế nào là Tiểu Bộ Kinh? Toàn bộ Tạng Luật, toàn bộ Tạng Vi Diệu Pháp, mười lăm phần riêng biệt có Tiểu Bộ v.v, và Phật ngôn còn lại ngoại trừ 4 Bộ Kinh.
Ngoại trừ 4 Bộ Kinh có Trường Bộ v.v, thì Phật ngôn khác còn lại ngài gọi là Tiểu Bộ. Như vậy, Phật ngôn có 5 phần khi nói về Nikaya [Bộ Kinh].
Kathaṃ aṅgavasena navavidhaṃ? sabbameva hidaṃ Suttaṃ, Geyyaṃ, Veyyākaraṇaṃ, Gāthā, Udānaṃ, Itivuttakaṃ, Jātakaṃ, Abbhutadhammaṃ, Vedallanti navappabhedaṃ hoti. Tattha Ubhatovibhaṅga-niddesa-khandhaka-parivārā, Suttanipāte Maṅgalasutta-ratanasutta-nālakasutta-tuvaṭṭakasuttāni ca aññampi ca suttanāmakaṃ tathāgatavacanaṃ suttanti veditabbaṃ. Sabbampi sagāthakaṃ suttaṃ Geyyanti veditabbaṃ. Visesena Saṃyuttake sakalo pi sagāthakavaggo. Sakalampi Abhidhammapiṭakaṃ niggāthakaṃ suttaṃ yañca aññampi aṭṭhahi aṅgehi asaṅgahitaṃ Buddhavacanaṃ taṃ Veyyākaranan’ti veditabbaṃ. Dhammapadaṃ Theragāthā Therigāthā Suttanipāte no suttanāmikā suddhikagāthā ca Gāthā’ti veditabbā. Somanassañāṇamayikagāthāpaṭisaṃyuttā dve asīti suttantā Udānan’ti veditabbaṃ. “Vuttañhetaṃ bhagavatā”tiādinayappavattā[103] dasuttarasatasuttantā Itivuttakanti veditabbaṃ. apaṇṇakajātakādīni paññāsādhikāni pañcajātakasatāni ‘Jātakan’ti veditabbaṃ. “Cattārome, bhikkhave, acchariyā abbhutā dhammā ānande”tiādinayappavattā[104] sabbepi acchariyabbhutadhammapaṭisaṃyuttasuttantā Abbhutadhammanti veditabbaṃ. Cūḷavedalla Mahāvedalla Sammādiṭṭhi Sakkapañha Saṅkhārabhājaniya Mahāpuṇṇamasuttādayo[105] sabbepi vedañca tuṭṭhiñca laddhā laddhā pucchitasuttantā vedallan’ti veditabbaṃ. evaṃ aṅgavasena navavidhaṃ.
Thế nào là có chín phần khi nói về Thể [Aṅga]? Bởi vì toàn bộ gồm có chín hình thức khác biệt, đó là Kinh [sutta], Ứng Tụng [Geyya], Ký Thuyết [Veyyākaraṇa], Kệ Ngôn [Gāthā], Phật Tự Thuyết [Udāna], Phật Thuyết Như Vậy [Itivuttaka], Bổn Sanh [Jātaka], Abbhūtadhamma [Pháp Kỳ Diệu Phi Thường], và Phương Quảng [Vedalla]. Trong trường hợp này, Phân Tích Luật Lưỡng Phái, Diễn Giải, Hợp Phần, Tập Yếu, các bài kinh như Hạnh Phúc Kinh, Kinh Châu Báu, Kinh Nalaka, Kinh Tuvaṭaka trong Kinh Tập, và các lời dạy của đức Như Lai có tựa đề là Kinh thì được xếp vào thể Sutta. Các bài kinh có xen các bài kệ vào nên biết là thể Geyya; đặc biệt toàn bộ Thiên Có Kệ trong Tương Ưng Bộ nên biết là thể Geyya. Toàn bộ Tạng Vi Diệu Pháp, các bài kinh không có các bài kệ, và các lời dạy khác của đức Phật không được xếp vào tám thể trên thì Phật ngôn ấy nên biết là thể Veyyākaraṇa. Pháp Cú, Trưởng Lão Kệ, Trưởng Lão Ni Kệ và thuần về kệ không được gọi là Kinh trong Kinh Tập nên biết là thể Gāthā. Tám mươi hai bài kinh phối hợp với các bài kệ do tuệ giác đồng sanh với thọ hỷ nên biết là thể Udāna. Một trăm mười bài kinh được giới thiệu bằng: “Đức Thế Tôn thuyết về điều ấy như vầy” thì được xếp vào thể Itivuttaka. Năm trăm năm mươi Bổn Sanh bắt đầu bằng Bổn Sanh Apannaka nên biết là thể Jātaka. Tất cả các bài kinh gắn liền với những câu chuyện chưa từng có (được) xuất hiện toàn bộ đều kỳ diệu phi thường và được giới thiệu theo phương thức như sau: “Này các Tỳ khưu, có bốn pháp kỳ diệu phi thường ở Ānanda,” nên biết là thể Abbhūtadhamma. Tất cả các bài kinh được hỏi và tất cả đều được liên tục ghi nhận trong sự hiểu biết và hoan hỷ như các bài kinh Cullavedalla, Mahāvedalla, Sammādiṭṭhi, Sakkapañhā, Saṅkhārabhājaniya, Mahāpuṇṇama, v.v…được xếp vào thể Vedalla. Như thế lời Phật dạy có chín phần khi đề cập đến Thể.
Kathaṃ dhammakkhandhavasena caturāsītisahassavidhaṃ? Sabbameva cetaṃ buddhavacanaṃ —
“Dvāsīti buddhato gaṇhiṃ, dve sahassāni bhikkhuto.
Caturāsīti sahassāni, ye me dhammā pavattino”ti.[106]
Thế nào là có tám mươi bốn ngàn phần khi nói về Pháp Uẩn? Và điều này toàn bộ Phật ngôn đã được đại đức Ānanda trình bày như vầy: –
“Tôi đã học tám mươi hai ngàn từ đức Phật, hai ngàn từ vị tỳ khưu [Sāriputta], tổng cộng các pháp này là tám mươi bốn ngàn”.
Evaṃ paridīpitadhammakkhandhavasena caturāsītisahassappabhedaṃ hoti. Tattha ekānusandhikaṃ suttaṃ eko dhammakkhandho. Yaṃ anekānusandhikaṃ, tattha anusandhivasena dhammakkhandhagaṇanā. Gāthābandhesu pañhāpucchanaṃ eko dhammakkhandho, vissajjanaṃ eko. abhidhamme ekamekaṃ tikadukabhājanaṃ, ekamekañca cittavārabhājanaṃ, ekameko dhammakkhandho. Vinaye atthi vatthu, atthi mātikā, atthi padabhājanīyaṃ, atthi antarāpatti, atthi āpatti, atthi anāpatti, atthi tikacchedo. tattha ekameko koṭṭhāso ekameko dhammakkhandhoti veditabbo. evaṃ dhammakkhandhavasena caturāsītisahassavidhaṃ.
Như thế, bằng cách giải nghĩa theo Pháp Uẩn thì có tám mươi bốn ngàn phần riêng biệt. Bài kinh chỉ có một chủ đề thì được tính là một Pháp Uẩn. Bài kinh nào có nhiều chủ đề gộp lại với nhau, tính Pháp Uẩn theo số lượng chủ đề trong bài kinh ấy. Trong những phần Kệ [gāthā] biên soạn, mỗi một câu hỏi hay chất vấn là một Pháp Uẩn và câu trả lời được tính là một Pháp Uẩn. Trong tạng Vi Diệu Pháp, việc chia chẽ mỗi một phần Nhị đề hoặc Tam đề và chia chẻ mỗi một phần theo phân loại tâm được tính là một Pháp Uẩn. Trong tạng Luật thì có phần câu chuyện [vatthu], có phần tiêu đề [mātikā], có phần phân tích từ ngữ [padabhājanīyaṃ], có phần phạm tội [antarāpatti], có phần không phạm tội [anāpatti], có phần xác định tội thành 3 phần [tikacchedo]; trong phần câu chuyện và phần tiêu đề cứ mỗi một phần (như vậy) nên biết là một Pháp Uẩn. Như thế lời dạy của đức Phật có tám mươi bốn ngàn phần có khi đề cập đến Pháp Uẩn.
Evametaṃ abhedato rasavasena ekavidhaṃ, bhedato dhammavinayādivasena duvidhādibhedaṃ buddhavacanaṃ saṅgāyantena Mahākassapappamukhena vasīgaṇena “ayaṃ dhammo, ayaṃ vinayo, idaṃ paṭhamabuddhavacanaṃ, idaṃ majjhimabuddhavacanaṃ, idaṃ pacchimabuddhavacanaṃ, idaṃ vinayapiṭakaṃ, idaṃ suttantapiṭakaṃ, idaṃ abhidhammapiṭakaṃ, ayaṃ dīghanikāyo … pe … ayaṃ khuddakanikāyo, imāni suttādīni navaṅgāni, imāni caturāsīti dhammakkhandhasahassānī”ti, imaṃ pabhedaṃ vavatthapetvāva saṅgītaṃ. Na kevalañca imameva, aññampi uddānasaṅgaha vaggasaṅgaha peyyālasaṅgaha ekakanipāta dukanipātādinipātasaṅgaha saṃyuttasaṅgaha paṇṇāsasaṅgahādi anekavidhaṃ tīsu piṭakesu sandissamānaṃ saṅgahappabhedaṃ vavatthapetvā eva sattahi māsehi saṅgītaṃ
Lời dạy của đức Phật này không chia chẽ theo phần có một phần là ‘vị-rasa [giải thoát]’, chia chẽ phần có 2 phần khi nói về Pháp và Luật đã được các vị A-ra-hán, có chủ tọa là ngài Mahākassapa trong khi kết tập đã sắp xếp thành nhóm tương xứng (phần này trước) rồi mới trùng tụng “đây là Pháp, đây là Luật, đây là lời nói đầu tiên của đức Phật, đây là lời nói của đức Phật thuộc phần giữa, đây là lời nói cuối cùng của đức Phật, đây là Tạng Luật, đây là Tạng Kinh, đây là Tạng Vi Diệu Pháp, đây là Trường Bộ …nt… đây là Tiểu Bộ, đây là chín thể loại [Aṅga] bắt đầu với Kinh Tập v.v, đây là tám mươi bốn ngàn Pháp Uẩn,” và không những ngài xác định một phần riêng biệt mà còn xác định nhiều phần kết tập khác v.v, chẳng hạn như Uddāna-saṅgaha Vagga-saṅgaha Peyyāla-saṅgaha gồm có Ekanipāta [Một Pháp], Dukanipāta [Hai Pháp] v.v, Tương Ưng Bộ và kết tập Mười Lăm v.v, đều được hiện hữu trong 3 Tạng đã trùng tụng trong bảy tháng.
Saṅgītipariyosāne cassa — “Idaṃ Mahākassapattherena Dasabalassa sāsanaṃ pañcavassasahassaparimāṇakālaṃ pavattanasamatthaṃ katan”ti sañjātappamodā sādhukāraṃ viya dadamānā ayaṃ mahāpathavī udakapariyantaṃ katvā anekappakāraṃ kampi saṅkampi sampakampi sampavedhi, anekāni ca acchariyāni pāturahesunti.
Ayaṃ paṭhamamahāsaṅgīti nāma. Yā loke — “Satehi pañcahi katā, tena pañcasatāti ca. Thereheva katattā ca, therikāti pavuccatī”ti.[107]
Khi kết thúc cuộc kết tập – Đại địa cầu này với nước biển bao bọc xung quanh đã xảy ra nhiều sự rung chuyển, lay động, chuyển động khác nhau và có vô số điều kỳ diệu như thể đang khởi lên sự hoan hỷ đề bày tỏ sự tán thưởng: “Giáo Pháp này của đấng Thập Lực này được vận hành tròn đủ trong khoảng thời gian năm ngàn năm nhờ vào trưởng lão Mahākassapa.”
Trong thế giới này – “Việc kết tập nào được gọi là “thuộc về năm trăm vị” do năm trăm (vị A-ra-hán) làm. Và được gọi là “thuộc về các vị trưởng lão” do đích thân các vị trưởng lão thực hiện”. Thì việc kết tập này được gọi là cuộc đại kết tập lần thứ nhất.
Phần Giới Thiệu Kết Thúc
[1] 5 cảnh giới tái sanh là địa ngục, ngạ quỷ, bàng sanh, nhân loại, và chư thiên.
[2] Ka. vigatamalaṃ
[3] Syā. theravaṃsappadīpānaṃ, Sī. theravaṃsapadīpānaṃ
[4] Syā. paññāsakalavinicchayo, Sī. paññāsaṅkhalananicchayo, ka. paññāsaṅgahanicchayo
[5] ka. netaṃ
[6] Trường Bộ Kinh, Trung Bộ Kinh, Tương Ưng Bộ Kinh, Tăng Chi Bộ Kinh
[7] Sī. Pāṭikavaggoti, Syā. Pātiyavaggoti
[8] Ka. Tesu
[9] Syā. Visākhapuṇṇamadivase
[10] cūḷava. 43
[11] dī. ni. 2.216
[12] saṃ. ni. 2.154
[13] Sī, Syā. Yāvadeva Saṃ 1. 412 piṭṭhe.
[14] saṃ. ni. 2.152
[15] Sī, Syā. Ānaṇyaṃ
[16] cūḷava. 437
[17] Ka. Dibbati, Vi 4. 481 piṭṭhe.
[18] Sī, Syā. Paṭibāhīyati
[19] cūḷava. 437
[20] Sī. Ekenunā
[21] cūḷava. 437
[22] Bởi vì toàn bộ lời dạy bao gồm chín hình thức khác biệt là Kinh [sutta], Ứng Tụng [Geyya], Ký Thuyết [Veyyākaraṇa], Kệ Ngôn [Gāthā], Phật Tự Thuyết (Udāna), Phật Thuyết Như Vậy [Itivuttaka], Bổn Sanh [Jātaka], Abbhūtadhamma [Kỳ Diệu Phi Thường], và Phương Quảng [Vedalla]
[23] Ka. Yaṃ kiñci
[24] Ka. Dasabalena desitaṃ
[25] Sī. Dvāsītiṃ
[26] theragā. 1027
[27] Syā. Nevāyaṃ
[28] saṃ. ni. 2.154
[29] cūḷava. 437
[30] cūḷava. 437
[31] Sī. Vasantā
[32] Syā. Sammati
[33] cūḷava. 438
[34] Sī, Syā, I. Santhāgārasālāyaṃ, Ma-Ṭṭha 2. 173 piṭṭhepi.
[35] Syā. Nanu bhante
[36] Sī. Nahānakoṭṭhaka
[37] Sī. Sīhaseyyaṃ kappanakālo, Syā. sīhaseyyākappanakālo
[38] dī. ni. 1.447
[39] cūḷava. 438
[40] Syā. Āsāḷhapuṇṇamāyaṃ
[41] cūḷava. 438
[42] Sī. Vissatthā, Syā. Visaṭṭha
[43] Sī. Sattapaṇṇiiguhadvāre, Syā. Sattapaṇṇaguhādvāre
[44] Syā. Vissukammunā, Ka. Visukammunā
[45] Syā, Ka. Jalantamiva
[46] Sī, Syā. Ratanavicitta
[47] Syā. Bibbohanaṃ
[48] dī. ni. 2.207
[49] Sī, Syā. Pakkhassa
[50] Syā. Sādhukārassa dānaṃ
[51] Ka. Āyasmā
[52] Syā, Ka. Kaṃ
[53] Vi-ṭṭha 1.11; Theragāthā-ṭṭha 1. 476; Khuddakapāṭha-ṭṭha 82 piṭṭhesupi.
[54] Ka. ṭhitaṃ nāma
[55] a. ni. 1.228
[56] cūḷava. 439
[57] Sī, Syā, I. Vījaniṃ
[58] cūḷava. 439
[59] Sī, Syā. Tampi
[60] Dhammasaṅgāhaka-therā: Danh hiệu dành cho các vị Tỳ khưu trưởng lão thực hiện cuộc đại hội trùng tụng Pháp và Luật. Chư vị thỉnh thoảng có thêm vào Kinh điển một số chi tiết để giảng giải hoặc tóm tắt những gì đã trùng tuyên.
[61] Sī, Ka. Vīsādhikāni
[62] Sī, Syā. Mahāpaṭhavī akampittha
[63] Sī, Syā. dasasahassīlokadhātukampanaṃ
[64] cūḷava. 440
[65] cūḷava. 437
[66] dha. pa. 153-54
[67] mahāva. 1
[68] dī. ni. 2.218
[69] Syā. Dvāsīti
[70] Sī, Syā. Paṭisambhidā
[71] Sī, Syā. suttaṃ suttanti
[72] Syā. Nulomavasena
[73] Sī. Sūdati. Syā, Sī. sūdati atthe
[74] ma. ni. 3.389
[75] ma. ni. 1.49
[76] ma. ni. 2.399
[77] mahāva. 85
[78] vi. va. 819
[79] dha. sa. 251
[80] vibha. 642
[81] dha. sa. 1
[82] dha. sa. tikamātikā 11, dukamātikā 12
[83] dha. sa. 1
[84] dha. sa. tikamātikā 11
[85] dha. sa. dukamātikā 11
[86] a. ni. 3.66
[87] a. ni. 3.70
[88] Sī, Abhi-Ṭṭha 1.23. piṭṭhepi. Taṇhādiṭṭhisaṃkilesānaṃ pahānaṃ
[89] Vi-Ṭṭha 1.18 piṭṭhe. Pāḷi
[90] vibha. 720
[91] vibha. 720
[92] Ka. Paṭinivattitvā
[93] ma. ni. 1.238
[94] Syā. Tāsaṃyeva
[95] ma. ni. 1.234
[96] a. ni. 4.5
[97] ma. ni. 1.236
[98] a. ni. 4.77
[99] Ka. Abhi-Ṭṭha 1. 25; Vi-Ṭṭha 1. 21 piṭṭhesu passitabbaṃ. Vuttatthāva
[100] Sī. Nikāyāti
[101] saṃ. ni. 2.100
[102] Pāṇini 3. 3. 41 sutte.
[103] Khu 1.195 piṭṭhādīsu
[104] dī. ni. 2.209
[105] Sī. Suttantādayo
[106] Khu 2. 347 piṭṭhe Theragāthāyaṃ
[107] Vi-Ṭṭha 1. 23 piṭṭhepi.