Giảng giải Kinh Phạm Võng (Mạng lưới cao thượng)-03
(Brahmajālasuttavaṇṇanā)Sumaṃgalavilāsinī – Giảng Giải Kinh Trường Bộ
Xem Trường Bộ Kinh – Kinh Phạm Võng
Sīlakkhandhavagga – Phẩm Giới Uẩn
Kính đảnh lễ đức Thế Tôn, bậc A-ra-hán, đấng Chánh đẳng Chánh giác
(Tiếp theo phần 02)
Giải Thích Học Thuyết Trường Tồn Đối Với Lập Luận Về Thời Quá Khứ
28. Evaṃ Brahmadattena vuttavaṇṇassa anusandhivasena tividhaṃ sīlaṃ vitthāretvā idāni bhikkhusaṅghena vuttavaṇṇassa anusandhivasena — “atthi, bhikkhave, aññeva dhammā gambhīrā duddasā”tiādinā nayena suññatāpakāsanaṃ ārabhi. Tattha dhammāti guṇe, desanāyaṃ, pariyattiyaṃ, nissatteti evamādīsu dhammasaddo vattati.
28. Sau khi đức Thế Tôn thuyết giảng chi tiết về 3 Phần Giới do tác động liên tục của lời tán thán từ thanh niên trẻ Brahmadatta như vậy, bây giờ bắt đầu tuyên thuyết về sự rỗng không theo phương cách được bắt đầu như sau: “Này chư tỳ khưu còn có các pháp khác thâm sâu, khó nhận ra, khó hiểu biết” do tác động liên tục của lời tán thán bởi hội chúng tỳ khưu. Ở đó, ‘dhamma’ nghĩa là từ ‘dhamma’ vận hành với các ý nghĩa được bắt đầu như vầy: guṇadhamma, thuyết giảng giáo pháp, pháp học, nissattadhamma.
“Na hi dhammo adhammo ca, ubho samavipākino.
Adhammo nirayaṃ neti, dhammo pāpeti suggatin”ti.[1]
Ādīsu hi guṇe dhammasaddo. “Dhammaṃ, vo bhikkhave, desessāmi ādikalyāṇan”tiādīsu[2] desanāyaṃ. “Idha bhikkhu dhammaṃ pariyāpuṇāti Suttaṃ, Geyyan”tiādīsu[3] pariyattiyaṃ. “Tasmiṃ kho pana samaye dhammā honti, khandhā hontī”tiādīsu[4] nissatte. Idha pana guṇe vattati. Tasmā atthi, bhikkhave, aññeva tathāgatassa guṇāti evamettha attho daṭṭhabbo.
Thật vậy, từ ‘dhamma’ vận hành trong từ guṇadhamma như trong câu bắt đầu rằng: “Bởi vì Chánh Pháp và Phi Chánh Pháp, cả hai không có quả thành tựu giống nhau: Phi Chánh Pháp dẫn đến địa ngục, Chánh Pháp giúp cho thành tựu nhàn cảnh”. Vận hành trong từ ‘thuyết giảng giáo pháp’ như trong câu bắt đầu rằng: “Này các tỳ khưu, ta sẽ thuyết giảng giáo pháp toàn hảo ở đoạn đầu … cho các ông”. Vận hành trong từ ‘Pháp Học’ như trong câu bắt đầu rằng: “Này chư tỳ khưu trong Pháp và Luật này, tỳ khưu học thuộc lòng pháp, như là: Kinh, Ứng Tụng v.v.” Vận hành trong từ ‘nissattadhamma’ như trong câu bắt đầu rằng: “Lại nữa trong khi ấy các pháp tồn tại, các uẩn tồn tại v.v.” Hơn nữa, ở đây từ ‘dhamma’ vận hành trong ‘guṇadhamma’. Vì thế, nên biết ý nghĩa ở đây như vầy – ‘Này chư tỳ khưu, những ân đức khác của Như Lai vẫn còn nữa.’
Gambhīrāti mahāsamuddo viya makasatuṇḍasūciyā aññatra tathāgatā aññesaṃ ñāṇena alabbhaneyyapatiṭṭhā, gambhīrattāyeva duddasā. Duddasattāyeva duranubodhā. nibbutasabbapariḷāhattā santā, santārammaṇesu pavattanatopi santā. Atittikaraṇaṭṭhena paṇītā, sādurasabhojanaṃ viya. Uttamañāṇavisayattā na takkena avacaritabbāti atakkāvacarā. Nipuṇāti saṇhasukhumasabhāvattā. Bālānaṃ avisayattā, paṇḍitehiyeva veditabbāti paṇḍitavedanīyā.
Thâm sâu: chỗ thiết lập không thể đạt được với trí tuệ của những người khác ngoại trừ đấng Như Lai giống như biển cả không thể nào thăm dò được với vòi con muỗi. Khó nhận ra do quá thâm sâu. Khó đạt được do khó nhận ra. An tĩnh do đã dập tắt hết tất cả sự nóng đốt, an tĩnh chính do vận hành trong đối tượng tịch tịnh. Tuyệt vời do làm cho không biết no, như thể thọ dụng thức ăn có hương vị thơm ngon. Không thuộc phạm vi suy nghĩ bởi không thể ước đoán được bằng sự suy nghĩ, sự việc thuộc lĩnh vực của trí cao thượng. Vi tế do có thực tính vi tế, mềm mại. Chỉ có những bậc sáng suốt mới hiểu được bởi vì chỉ có những bậc trí mới có thể nhận biết, sự việc không thuộc phạm vi của kẻ ngu.
Ye tathāgato sayaṃ abhiññā sacchikatvā pavedetīti ye dhamme tathāgato anaññaneyyo hutvā sayameva abhivisiṭṭhena ñāṇena paccakkhaṃ katvā pavedeti, dīpeti, katheti, pakāsetīti attho. Yehīti yehi guṇadhammehi. Yathābhuccanti yathābhūtaṃ. Vaṇṇaṃ sammā vadamānā vadeyyunti tathāgatassa vaṇṇaṃ vattukāmā sammā vadeyyuṃ, ahāpetvā vattuṃ sakkuṇeyyunti attho. Katame ca pana te dhammā bhagavatā evaṃ thomitāti? Sabbaññutaññāṇaṃ. Yadi evaṃ, kasmā bahuvacananiddeso[5] katoti? puthucittasamāyogato ceva, puthuārammaṇato ca. Tañhi catūsu ñāṇasampayuttamahākiriyacittesu labbhati, na cassa koci dhammo ārammaṇaṃ nāma na hoti. Yathāha — “Atītaṃ sabbaṃ jānātīti sabbaññutaññāṇaṃ, tattha āvaraṇaṃ natthīti anāvaraṇañāṇan”tiādi[6]. Iti puthucittasamāyogato punappunaṃ uppattivasena puthuārammaṇato ca bahuvacananiddeso katoti.
Là các pháp mà Như Lai bằng thắng trí của mình chứng ngộ và tuyên thuyết: đây là các pháp mà đấng Như Lai đã làm sáng tỏ bằng trí tuệ đặc biệt của chính mình không phải nhờ vào sự hướng dẫn của người khác rồi tuyên thuyết (giảng dạy lại cho người khác cũng chứng đắc), có nghĩa là thuyết giảng, nói, công bố. Yehi: với những ân đức pháp là những ân đức pháp nào? Yathābhucca dịch là đúng theo sự thật (đã nói đến). Là nhân khiến mọi người tán thán: Người muốn nói lời tán thán đấng Như Lai có thể nói một cách chân chánh, giải thích rằng: có thể nói được không bị thiếu sót. Và hơn nữa, các pháp mà đức Thế Tôn tán thán như vậy là những pháp nào? – Là trí Toàn Tri. Nếu như vậy tại sao lại được phân tích thành số nhiều – bahuvacana? – Bởi vì phối hợp với nhiều thứ tâm và có nhiều đối tượng. Thật vậy, trí Toàn Giác ấy đạt được trong ‘bốn tâm đại tố tương ưng trí’, và không có bất cứ pháp nào không phải là đối tượng của Trí Toàn Giác ấy. Như ngài Sārīputta đã nói – “Do biết tất cả các pháp thuộc phần quá khứ (pháp thuộc phần hiện tại, pháp thuộc phần vị lai) được gọi là trí Toàn Giác, do không có sự ngăn che về điều ấy là trí không bị ngăn che.” Được phân tích thành số nhiều do phối hợp với nhiều thứ tâm, và bởi vì có nhiều đối tượng do mãnh lực khởi lên liên tục, là như thế.
“Aññevā”ti idaṃ panettha vavatthāpanavacanaṃ, “aññeva, na pāṇātipātā veramaṇiādayo. Gambhīrāva na uttānā”ti evaṃ sabbapadehi yojetabbaṃ. Sāvakapāramīñāṇañhi gambhīraṃ, paccekabodhiñāṇaṃ pana tato gambhīrataranti tattha vavatthānaṃ natthi, sabbaññutaññāṇañca tatopi gambhīrataranti tatthāpi vavatthānaṃ natthi, ito panaññaṃ gambhīrataraṃ natthi; Tasmā gambhīrā vāti vavatthānaṃ labbhati. Tathā duddasāva duranubodhā vāti sabbaṃ veditabbaṃ.
“Khác” đây là từ xác định trong Pāḷī này có thể liên kết với các câu như vầy – Những pháp khác không phải pháp có tránh xa sự sát sanh v.v, thật sự thâm sâu không phải là nông cạn.” Bởi vì trí ba-la-mật của bậc thánh đệ tử là thâm sâu, tuy nhiên trí Phật-độc-giác vẫn thâm sâu hơn thế, do đó, mới không có lời xác định trong trí ba-la-mật của bậc thánh đệ tử ấy, và trí Toàn Giác còn thâm sâu hơn trí Phật-độc-giác ấy, do đó, mới không có xác định trong trí Phật-độc-giác ấy, còn trí khác mà thâm sâu hơn trí Toàn Giác này là không có; Do đó mới đạt được lời xác định rằng: ‘Vô cùng thâm sâu’. Nên biết tất cả các từ sau – khó nhận ra, khó đạt được tương tự như thế.
Katame ca te bhikkhaveti ayaṃ pana tesaṃ dhammānaṃ kathetukamyatā pucchā. Santi, bhikkhave, eke samaṇabrāhmaṇātiādi pucchāvissajjanaṃ. Kasmā panetaṃ evaṃ āraddhanti ce? Buddhānañhi cattāri ṭhānāni patvā gajjitaṃ mahantaṃ hoti, ñāṇaṃ anupavisati, buddhañāṇassa mahantabhāvo paññāyati, desanā gambhīrā hoti, tilakkhaṇāhatā, suññatāpaṭisaṃyuttā. Katamāni cattāri? Vinayapaññattiṃ, bhūmantaraṃ, paccayākāraṃ, samayantaranti. Tasmā — “idaṃ lahukaṃ, idaṃ garukaṃ, idaṃ satekicchaṃ, idaṃ atekicchaṃ, ayaṃ āpatti, ayaṃ anāpatti, ayaṃ chejjagāminī, ayaṃ vuṭṭhānagāminī, ayaṃ desanāgāminī, ayaṃ lokavajjā, ayaṃ paṇṇattivajjā, imasmiṃ vatthusmiṃ idaṃ paññapetabban”ti yaṃ evaṃ otiṇṇe vatthusmiṃ sikkhāpadapaññāpanaṃ nāma, tattha aññesaṃ thāmo vā balaṃ vā natthi; avisayo esa aññesaṃ, tathāgatasseva visayo. Iti vinayapaññattiṃ patvā buddhānaṃ gajjitaṃ mahantaṃ hoti, ñāṇaṃ anupavisati … pe … suññatāpaṭisaṃyuttāti.
Này chư tỳ khưu những pháp ấy…thế nào? Đây là câu hỏi nhằm ý định tự trả lời những pháp đó. Này chư tỳ khưu có một số Sa-môn và Bà-la-môn v.v, là câu trả lời câu hỏi. Nếu như có câu hỏi rằng: Vì sao lại bắt đầu câu trả lời câu hỏi này như vậy? Bởi vì việc mà chư Phật đạt đến 4 Địa Vị – Ṭhāna gầm lên (tiếng gầm con sư tử) vĩ đại, trí biết toàn diện cũng đi theo, bản thể vĩ đại của Phật Trí sẽ hiển lộ, thuyết giảng Giáo Pháp thâm sâu gắn chặt với Tam Tướng, gắn liền với ‘Tính Chất Rỗng Không’. Thế nào là bốn? Là sự quy định về Luật, sự xác định các pháp thuộc lĩnh vực đặc biệt, quán xét về lý duyên khởi, biết đến học thuyết khác. Vì thế – thông thường việc chế định học giới như vầy ‘đây là tội nhẹ, đây là tội nặng, đây là lỗi lầm có thể sửa chữa được, đây là lỗi lầm không thể sửa chữa được, đây là phạm tội, đây là không phạm tội, đây là tội dẫn đến cắt đứt (tội parājika), đây là tội dẫn đến phạt cấm phòng (tội saṅghādisesa), đây là tội cần phải sám hối, đây là tội lỗi đối với thế gian, đây là tội lỗi do sự quy định, nên quy định điều này vào trong vấn đề này,” Trong việc chế định điều học ấy những người khác không có khả năng hiểu biết hoặc đủ năng lực, vấn đề này không thuộc phạm vi của người khác, mà nó chỉ thuộc phạm vi của Như Lai. Do đó, chư Phật đã đạt đến địa vị ‘sự quy định về Luật’, gầm lên (tiếng gầm con sư tử) là vĩ đại, trí cũng đi theo …nt… gắn liền với ‘Tính Chất Rỗng Không’ là như thế.
Tathā ime cattāro satipaṭṭhānā nāma … pe … ariyo aṭṭhaṅgiko maggo nāma, pañca khandhā nāma, dvādasa āyatanāni nāma, aṭṭhārasa dhātuyo nāma, cattāri ariyasaccāni nāma, bāvīsatindriyāni nāma, nava hetū nāma, cattāro āhārā nāma, satta phassā nāma, satta vedanā nāma, satta saññā nāma, satta cetanā nāma, satta cittāni nāma. Etesu ettakā kāmāvacarā dhammā nāma, ettakā rūpāvacarārūpāvacarapariyāpannā dhammā nāma, ettakā lokiyā dhammā nāma, ettakā lokuttarā dhammā nāmā’ti catuvīsatisamantapaṭṭhānaṃ anantanayaṃ abhidhammapiṭakaṃ vibhajitvā kathetuṃ aññesaṃ thāmo vā balaṃ vā natthi, avisayo esa aññesaṃ, tathāgatasseva visayo. Iti bhūmantaraparicchedaṃ patvā buddhānaṃ gajjitaṃ mahantaṃ hoti, ñāṇaṃ anupavisati … pe … suññatāpaṭisaṃyuttāti.
‘Ở đó, đây là bốn sự thiết lập niệm …nt… là Thánh đạo tám chi phần, là năm uẩn, là mười hai xứ, là mười tám giới, là bốn Thánh đế, là hai mươi hai quyền, là chín nhân, là bốn thực, là bảy xúc, là bảy thọ, là bảy tưởng, là bảy sự cố ý, là bảy thứ tâm. Những pháp này chừng này gọi là Dục giới, những pháp này chừng này gộp lại gọi là Sắc giới, chừng này gộp lại gọi là Vô sắc giới, những pháp này chừng này gọi là Hiệp thế, những pháp này chừng này gọi là Siêu thế.’ Những người khác không có khả năng hiểu biết hoặc đủ năng lực để nói phân tích Tạng Vi Diệu Pháp, trọn vẹn hai mươi bốn Paṭṭhāna bằng cách vô hạn định (như đã nêu), vấn đề này không thuộc phạm vi của người khác, mà nó chỉ thuộc phạm vi của Như Lai. Do đó, chư Phật đã đạt đến địa vị ‘sự xác định pháp thuộc lĩnh vực đặc biệt’, gầm lên (tiếng gầm con sư tử) là vĩ đại, trí cũng đi theo …nt… gắn liền với ‘Tính Chất Rỗng Không’ là như thế.
Tathā ayaṃ[7] avijjā saṅkhārānaṃ navahākārehi paccayo hoti, uppādo hutvā paccayo hoti, pavattaṃ hutvā, nimittaṃ, āyūhanaṃ, saṃyogo, palibodho, samudayo, hetu, paccayo hutvā paccayo hoti, tathā saṅkhārādayo viññāṇādīnaṃ. Tathāha — “kathaṃ paccayapariggahe paññā dhammaṭṭhitiñāṇaṃ? Avijjā saṅkhārānaṃ uppādaṭṭhiti ca pavattaṭṭhiti ca, nimittaṭṭhiti ca, āyūhanaṭṭhiti ca, saṃyogaṭṭhiti ca, palibodhaṭṭhiti ca, samudayaṭṭhiti ca, hetuṭṭhiti ca, paccayaṭṭhiti ca, imehi navahākārehi avijjā paccayo, saṅkhārā paccayasamuppannā, ubhopete dhammā paccayasamuppannāti paccayapariggahe paññā dhammaṭṭhitiñāṇaṃ. atītampi addhānaṃ, anāgatampi addhānaṃ avijjā saṅkhārānaṃ uppādaṭṭhiti ca … pe … jāti jarāmaraṇassa uppādaṭṭhiti ca … pe … paccayaṭṭhiti ca, imehi navahākārehi jāti paccayo, jarāmaraṇaṃ paccayasamuppannaṃ, ubhopete dhammā paccayasamuppannāti paccayapariggahe paññā dhammaṭṭhitiñāṇan”ti (paṭi. ma. 1.45). Evamimaṃ tassa tassa dhammassa tathā tathā paccayabhāvena pavattaṃ tivaṭṭaṃ tiyaddhaṃ tisandhiṃ catusaṅkhepaṃ vīsatākāraṃ paṭiccasamuppādaṃ vibhajitvā kathetuṃ aññesaṃ thāmo vā balaṃ vā natthi, avisayo esa aññesaṃ, tathāgatasseva visayo, iti paccayākāraṃ patvā buddhānaṃ gajjitaṃ mahantaṃ hoti, ñāṇaṃ anupavisati … pe … suññatāpaṭisaṃyuttāti.
Ở đó, vô minh này là duyên cho tất cả hành với chín biểu hiện là: vô minh là duyên với tính chất sanh lên, với tính chất vận hành, hiện tướng, (nghiệp) tích lũy, sự ràng buộc, sự vướng bận, sự sanh khởi, nhân, duyên. Hơn nữa, hành v.v, cũng là duyên cho thức v.v. (với chín biểu hiện). Như trưởng lão Sārīputta đã nói – “Tuệ về việc nắm giữ duyên là trí về sự thiết lập của các pháp (có ý nghĩa) như thế nào? ‘Đối với các hành, vô minh là sự thiết lập của sự sanh lên, là sự thiết lập của sự vận hành, là sự thiết lập của hiện tướng, là sự thiết lập của (nghiệp) tích lũy, là sự thiết lập của sự ràng buộc, là sự thiết lập của sự vướng bận, là sự thiết lập của sự sanh khởi, là sự thiết lập của nhân, và là sự thiết lập của duyên. Do chín biểu hiện này, vô minh là duyên, các hành được sanh lên do duyên, luôn cả hai pháp này được sanh lên do duyên;’ tuệ về việc nắm giữ duyên là trí về sự thiết lập của các pháp là vậy. ‘Ngay cả trong thời quá khứ, ngay cả trong thời vị lai, đối với các hành, vô minh là sự thiết lập của sự sanh lên …nt… Đối với lão tử, sanh là sự thiết lập của sự sanh lên …nt… và là sự thiết lập của duyên. Do chín biểu hiện này, sanh là duyên, lão tử được sanh lên do duyên, luôn cả hai pháp này được sanh lên do duyên;’ tuệ về việc nắm giữ duyên là trí về sự thiết lập của các pháp là vậy.” Những người khác không có khả năng hiểu biết hoặc đủ năng lực để nói phân tích pháp tùy thuận sanh khởi có ba luân (phiền não luân hồi: vô minh, ái, thủ; Nghiệp luân hồi: hữu và hành; Quả luân hồi: sanh, lão tử, thức, danh sắc, lục nhập, xúc và thọ), có ba thời (quá khứ, hiện tại, vị lai), ba sự tiếp nối (nhân quá khứ và quả hiện tại, quả hiện tại và nhân hiện tại, nhân hiện tại và quả vị lai), bốn sự tổng hợp (nhân quá khứ, quả hiện tại, nhân hiện tại, quả vị lai), hai mươi biểu hiện (được liệt kê ở 4 phần tổng hợp, mỗi phần có 5 biểu hiện; tổng cộng là 20) được vận hành với tính chất là duyên, với biểu hiện như thế đối với các pháp đó như đã giảng giải, điều này không thuộc phạm vi của người khác, mà nó chỉ thuộc phạm vi của Như Lai. Do đó, chư Phật đã đạt đến địa vị ‘quán xét về lý duyên khởi’, gầm lên (tiếng gầm con sư tử) là vĩ đại, trí cũng đi theo …nt… gắn liền với ‘Tính Chất Rỗng Không’ là như thế.
Tathā cattāro janā sassatavādā nāma, cattāro ekaccasassatavādā, cattāro antānantikā, cattāro amarāvikkhepikā, dve adhiccasamuppannikā, soḷasa saññīvādā, aṭṭha asaññīvādā, aṭṭha nevasaññīnāsaññīvādā, satta ucchedavādā, pañca diṭṭhadhammanibbānavādā nāma. te idaṃ nissāya idaṃ gaṇhantīti dvāsaṭṭhi diṭṭhigatāni bhinditvā nijjaṭaṃ niggumbaṃ katvā kathetuṃ aññesaṃ thāmo vā balaṃ vā natthi, avisayo esa aññesaṃ, tathāgatasseva visayo. iti samayantaraṃ patvā buddhānaṃ gajjitaṃ mahantaṃ hoti, ñāṇaṃ anupavisati, buddhañāṇassa mahantatā paññāyati, desanā gambhīrā hoti, tilakkhaṇāhatā, suññatāpaṭisaṃyuttāti.
Ở đó, nhóm người cho là có bốn luận thuyết về thường còn, bốn liên quan đến thường còn là phiến diện, bốn liên quan đến có giới hạn và không có giới hạn, bốn liên quan đến trườn uốn như lươn, hai liên quan đến ngẫu nhiên sanh lên, có mười sáu luận thuyết về tưởng, tám luận thuyết về phi tưởng, tám luận thuyết về phi tưởng phi phi tưởng, bảy luận thuyết về đoạn tận, năm luận thuyết về hiện tại Nibbāna. Những người ấy do y cứ vào tà kiến này, nắm giữ tà kiến này, vì thế mới hợp thành sáu mươi hai loại tà kiến, những người khác không có khả năng hiểu biết hoặc đủ năng lực để nói làm phá tan những tà kiến ấy được tháo gỡ, được sáng tỏ, điều này không thuộc phạm vi của người khác, mà nó chỉ thuộc phạm vi của Như Lai. Do đó, chư Phật đã đạt được địa vị ‘biết đến học thuyết khác’, gầm lên (tiếng gầm con sư tử) là vĩ đại, trí cũng đi theo, bản thể Phật trí vĩ đại cũng hiển lộ, thuyết giảng thâm sâu, gắn chặt với Tam Tướng, gắn liền với ‘Tính Chất Rỗng Không’ là như thế.
Imasmiṃ pana ṭhāne samayantaraṃ labbhati, tasmā sabbaññutaññāṇassa mahantabhāvadassanatthaṃ desanāya ca suññatāpakāsanavibhāvanatthaṃ samayantaraṃ anupavisanto dhammarājā — “santi, bhikkhave, eke samaṇabrāhmaṇā”ti evaṃ pucchāvissajjanaṃ ārabhi.
Hơn nữa, trong trường hợp này đạt được địa vị ‘biết đến học thuyết khác’ vì thế đức Thế Tôn là vị Pháp Vương trong khi đi theo địa vị biết đến học thuyết khác nhằm mục đích thuyết giảng bản thế trí Toàn Giác vĩ đại và để gắn liền với ‘Tính Chất Rỗng Không’ bằng pháp thoại mới bắt đầu câu hỏi và câu trả lời như vầy – ‘Này chư tỳ khưu có một số Sa-môn và Bà-la-môn.’
29. Tattha santīti atthi saṃvijjanti upalabbhanti. Bhikkhaveti ālapanavacanaṃ. Eketi ekacce. Samaṇabrāhmaṇāti pabbajjūpagatabhāvena samaṇā, jātiyā brāhmaṇā. lokena vā samaṇāti ca brāhmaṇāti ca evaṃ sammatā. Pubbantaṃ kappetvā vikappetvā gaṇhantīti pubbantakappikā. Pubbantakappo vā etesaṃ atthīti pubbantakappikā. Tattha antoti ayaṃ saddo antābbhantaramariyādalāmakaparabhāgakoṭṭhāsesu dissati. “Antapūro udarapūro”tiādīsu[8] hi ante antasaddo. “Caranti loke parivārachannā anto asuddhā bahi sobhamānā”tiādīsu[9] abbhantare. “Kāyabandhanassa anto jīrati.”[10] “sā haritantaṃ vā panthantaṃ vā selantaṃ vā udakantaṃ vā”tiādīsu[11] mariyādāyaṃ. “antamidaṃ, bhikkhave, jīvikānaṃ yadidaṃ piṇḍolyan”tiādīsu[12] lāmake. “Esevanto dukkhassā”tiādīsu[13] parabhāge. Sabbapaccayasaṅkhayo hi dukkhassa parabhāgo koṭīti vuccati. “Sakkāyo kho, āvuso, eko anto”tiādīsu (a. ni. 6.61) koṭṭhāse. Svāyaṃ idhāpi koṭṭhāse vattati.
29. Trong Pāḷī ấy ‘an tịnh’ có hiện hữu, có tồn tại. Này chư tỳ khưu là hô cách (từ dùng để gọi). Một vài: một số nhóm. Sa-môn và Bà-la-môn: gọi là Sa-môn bởi tính chất đến xuất gia, gọi là Bà-la-môn do sảnh chủng. Hoặc được chỉ định như vầy là Sa-môn và Bà-la-môn theo thế tục. Sa-môn và Bà-la-môn gọi là ‘xác định uẩn phần quá khứ’ do đã xác định, phân tách uẩn thời quá khứ rồi nắm giữ. Hoặc gọi là ‘xác định uẩn phần quá khứ’ bởi vì xác định uẩn phần quá khứ có mặt cùng những Sa-môn và Bà-la-môn ấy. Từ ‘anto’ này trong Pāḷī ấy sử dụng với ý nghĩa là ruột già, bên trong, ‘mép, rìa’, thấp kém, tận cùng, thái cực. Thật vậy, từ ‘anto’ trong ý nghĩa ‘ruột già’ – “Được chất đầy bởi ruột, được chất đầy bởi dạ dày.” Trong ý nghĩa ‘bên trong’ – “Người sống không thu thúc, bên trong không thanh tịnh, vẻ đẹp ở bên ngoài được vây quanh bởi tùy tùng, đi du hành ở thế gian.” Trong ý nghĩa ‘mép, rìa’ – “Mép của dây thắt lưng bị sờn”, hoặc “Lửa cháy cho đến cuối rìa cây cối, cho đến cuối rìa đường lớn, cho đến cuối vách chân núi, cho đến cuối rìa thủy biên.’” Trong ý nghĩa ‘thấp kém’ – “Này các tỳ khưu, việc này là thấp kém trong các việc nuôi mạng (việc nuôi mạng bằng việc đi khất thực)”. Trong ý nghĩa ‘tận cùng’ – “chính điều này là tận cùng của khổ.” Quả thực, sự chấm dứt của tất cả mọi yếu tố là phần cuối cùng được gọi là ‘tận cùng của khổ’. Trong ý nghĩa ‘một phần’ – “Này hiền giả, sự chấp bản thân này là một phần”. Ngay ở trong trường hợp này từ ‘anta’ này đây cũng diễn biến trong ý nghĩa ‘một phần’.
Kappasaddopi — “tiṭṭhatu, bhante bhagavā kappaṃ”[14] , “atthi kappo nipajjituṃ” (a. ni. 8.80), “kappakatena akappakataṃ saṃsibbitaṃ hotī”ti[15], evaṃ āyukappalesakappavinayakappādīsu sambahulesu atthesu vattati. Idha taṇhādiṭṭhīsu vattatīti veditabbo. Vuttampi cetaṃ — “kappāti dve kappā, taṇhākappo ca diṭṭhikappo cā”ti[16] . Tasmā taṇhādiṭṭhivasena atītaṃ khandhakoṭṭhāsaṃ kappetvā pakappetvā ṭhitāti pubbantakappikāti evamettha attho veditabbo. Tesaṃ evaṃ pubbantaṃ kappetvā ṭhitānaṃ punappunaṃ uppajjanavasena pubbantameva anugatā diṭṭhīti pubbantānudiṭṭhino. Te evaṃdiṭṭhino taṃ pubbantaṃ ārabbha āgamma paṭicca aññampi janaṃ diṭṭhigatikaṃ karontā anekavihitāni adhimuttipadāni[17] abhivadanti aṭṭhārasahi vatthūhi.
Luôn cả từ ‘kappa’ cũng diễn biến với nhiều ý nghĩa chẳng hạn ‘trọn kiếp, ‘dịp’ và ‘đúng phép’ v.v, như vầy: “Bạch Ngài, xin đức Thế Tôn hãy tồn tại trọn kiếp”, “có dịp để ngủ nghỉ”, “(y phục) chưa được làm thành đúng phép được may chung với (y phục) đã được làm thành đúng phép”. Và điều này cũng đã được nói đến – “Có hai sự xác định: sự xác định do tham ái và sự xác định do tà kiến.” Vì thế, nên biết ý nghĩa ‘xác định uẩn phần quá khứ’ này như vầy ‘Những Sa-môn và Bà-la-môn nào đã xác định uẩn phần quá khứ do tác động tham ái và tà kiến được thiết lập, vì lý do ấy những Sa-môn và Bà-la-môn đó gọi là ‘người xác định uẩn phần quá khứ’. Có quan điểm đi theo uẩn phần quá khứ: Bởi những Sa-môn và Bà-la-môn ấy vị xác định uẩn phần quá khứ đã được thiết lập như vậy có quan điểm đi theo chính uẩn phần quá khứ do tác động sanh khởi liên tục. Họ có quan điểm như vậy trong khi đến nương tựa, dẫn chứng làm cho cả người khác cũng nhìn thấy được rồi tuyên thuyết nhiều loại khuynh hướng liên quan đến uẩn phần quá khứ ấy với mười tám luận cứ.
Tattha anekavihitānīti anekavidhāni. Adhimuttipadānīti adhivacanapadāni. Atha vā bhūtaṃ atthaṃ abhibhavitvā yathāsabhāvato aggahetvā pavattanato adhimuttiyoti diṭṭhiyo vuccanti. Adhimuttīnaṃ padāni adhimuttipadāni, diṭṭhidīpakāni vacanānīti attho. Aṭṭhārasahi vatthūhīti aṭṭhārasahi kāraṇehi.
Ở đó, Nhiều loại: nhiều loại. Từ trình bày quan điểm: Từ để gọi tên. Hoặc là, có quan điểm diṭṭhino được gọi là khuynh hướng adhimutti do trong khi vận hành đã chế ngự ý nghĩa thật không thể nắm giữ theo thực tính thật. Toàn bộ từ khuynh hướng là từ trình bày quan điểm, có nghĩa là lời nói trình bày về quan điểm. Với mười tám luận cứ: với mười tám lý do.
30. Idāni yehi aṭṭhārasahi vatthūhi abhivadanti, tesaṃ kathetukamyatāya pucchāya “te ca kho bhonto”tiādinā nayena pucchitvā tāni vatthūni vibhajitvā dassetuṃ “santi, bhikkhave”tiādimāha. Tattha vadanti etenāti vādo, diṭṭhigatassetaṃ adhivacanaṃ. sassato vādo etesanti sassatavādā, sassatadiṭṭhinoti attho. Eteneva nayena ito paresampi evarūpānaṃ padānaṃ attho veditabbo. Sassataṃ attānañca lokañcāti rūpādīsu aññataraṃ attāti ca lokoti ca gahetvā taṃ sassataṃ amaraṃ niccaṃ dhuvaṃ paññapenti. yathāha — “rūpaṃ attā ceva loko ca sassato cāti attānañca lokañca paññapenti tathā vedanaṃ, saññaṃ, saṅkhāre, viññāṇaṃ attā ceva loko ca sassato cāti attānañca lokañca paññapentī”ti.
30. Bây giờ đức Thế Tôn đã nói lời nói được bắt đầu như sau: “Này chư tỳ khưu, có một số Sa-môn và Bà-la-môn” nhằm mục đích hỏi với phương thức sau: “Các tôn đức Sa-môn và Bà-la-môn” rồi phân tích trình bày những luận cứ ấy với ý định sẽ thuyết giảng mười tám luận cứ mà các Sa-môn và Bà-la-môn đã nhắc lại. Ở đó, gọi là ‘học thuyết’ bởi vì làm phương tiện để nói, (và) đây là tên gọi của tà kiến. Học thuyết trường tồn bởi vì học thuyết cho là thường tồn, có nghĩa là nhóm người có quan điểm là trường tồn. Ngay cả những từ khác ngoài ra cũng có hình thức như vậy, nên biết ý nghĩa theo chính phương cách này. Bản ngã và thế giới là trường tồn: Đã nắm giữ bấy kỳ uẩn nào có sắc uẩn v.v, cho là bản ngã và thế giới rồi tuyên bố về ‘bản ngã và thế giới’ đó là thường tồn, là bất tử, là thường còn, là bền vững. Như đã nói – “Tuyên bố bản ngã và thế giới là sắc, tuyên bố bản ngã và thế giới là trường tồn; hơn nữa, tuyên bố bản ngã và thế giới là thọ, tưởng, hành, thức, tuyên bố bản ngã và thế giới là trường tồn”
31. Ātappamanvāyātiādīsu vīriyaṃ kilesānaṃ ātāpanabhāvena ātappanti vuttaṃ. tadeva padahanavasena padhānaṃ. Punappunaṃ yuttavasena anuyogoti. Evaṃ tippabhedaṃ vīriyaṃ anvāya āgamma paṭiccāti attho. Appamādo vuccati satiyā avippavāso. Sammā manasikāroti upāyamanasikāro, pathamanasikāro, atthato ñāṇanti vuttaṃ hoti. Yasmiñhi manasikāre ṭhitassa pubbenivāsānussati ñāṇaṃ ijjhati, ayaṃ imasmiṃ ṭhāne manasikāroti adhippeto. Tasmā vīriyañca satiñca ñāṇañca āgammāti ayamettha saṅkhepattho. Tathārūpanti tathājātikaṃ. Cetosamādhinti cittasamādhiṃ. Phusatīti vindati paṭilabhati. Yathā samāhite citteti yena samādhinā sammā āhite suṭṭhu ṭhapite cittamhi. Anekavihitaṃ pubbenivāsantiādīnaṃ attho visuddhimagge vutto.
31. Nhờ sự nhiệt tâm v.v, sự tinh tấn được gọi là sự nhiệt tâm bởi tính chất làm cho phiền não nóng bức. Chính sự tinh tấn ấy gọi là sự nỗ lực do tác động của sự gắng sức. Sự chuyên cần do tác động gắn kết thường xuyên. Như vậy, có nghĩa là vận hành theo, nương nhờ vào, nương tựa vào cả ba sự tinh tấn như đã giải thích. Sống không lìa khỏi niệm được gọi là không phóng dật. Tác ý đúng đắn giải thích rằng tác ý đúng đường lối, tác ý lần đầu tiên, có nghĩa là (nói theo tính chất) bao gồm trí. Bởi vì trí nhớ về các kiếp sống trước thành tựu đối với vị an trú vào tác ý nào, tác ý này ngài có ý muốn đề cập đến “tác ý ấy” trong trường hợp này. Vì thế, trong Pāḷī đó điều này ở đây mới có ý nghĩa tóm tắt như vầy: Nương vào sư tinh tấn, niệm và tuệ. Tathārūpaṃ: có sự sanh như vậy. Có tâm được định tĩnh: Sự định tĩnh của tâm. Xúc chạm: được lợi, được thọ lãnh. Khi tâm được định tĩnh như thế: tâm được an trú đúng đắn, được an trú khéo léo do định làm nhân. (Nhớ lại) nhiều kiếp sống quá khứ v.v, điều này tôi đã nói trong bộ Thanh Tịnh Đạo.
So evamāhāti so evaṃ jhānānubhāvasampanno hutvā diṭṭhigatiko evaṃ vadati. Vañjhoti vañjhapasuvañjhatālādayo viya aphalo kassaci ajanakoti. Etena “attā”ti ca “loko”ti ca gahitānaṃ jhānādīnaṃ rūpādijanakabhāvaṃ paṭikkhipati. Pabbatakūṭaṃ viya ṭhitoti kūṭaṭṭho. esikaṭṭhāyiṭṭhitoti esikaṭṭhāyī viya hutvā ṭhitoti esikaṭṭhāyiṭṭhito. Yathā sunikhāto esikatthambho niccalo tiṭṭhati, evaṃ ṭhitoti attho. Ubhayenapi lokassa vināsābhāvaṃ dīpeti. Keci pana īsikaṭṭhāyiṭṭhitoti pāḷiṃ vatvā muñje īsikā viya ṭhitoti vadanti. tatrāyamadhippāyo — yadidaṃ jāyatīti vuccati, taṃ muñjato īsikā viya vijjamānameva nikkhamati. yasmā ca īsikaṭṭhāyiṭṭhito, tasmā teva[18] sattā sandhāvanti, ito aññattha gacchantīti attho.
Vị ấy đã nói như vậy: vị ấy đã thành tựu nhờ năng lực của thiền như vậy, có quan điểm mới nói như vậy. Không sinh sản: không có kết quả, không cho sanh khởi đối với bất cứ ai giống như vật nuôi không có khả năng sinh sản, và cây cọ không sinh sản v.v. Vì thế ‘không sinh sản’ này vị ấy bác bỏ thực tính chất tạo ra sắc v.v, của ân đức đặc biệt có thiền v.v. để nắm giữ (cho rằng) ‘là bản ngã’ và ‘là thế giới’. Vững chắc như đỉnh núi: bởi vì vững chắc như đỉnh núi. Kiên cố như cột trụ: Kiên cố như cột trụ đã được đặt xuống, vì thế mới gọi là kiên cố như cột trú. Giải thích rằng cột trụ được chôn kỹ lưỡng sẽ rất chắc chắn và không thể bị lung lay như thế nào, ‘bản ngã và thế giới’ được thiết lập vững chắc cũng tương tự y như thế ấy. Với hai câu cho thấy thế giới sẽ không bị diệt vong. Tuy nhiên, một số vị thầy nói rằng īsiṭṭhāyitṭhito, rồi nói rằng: vững trú giống như sợi rơm trong cộng cỏ muñja. Trong lời nói của các vị ấy có lời giải thích như vầy: Lời nói đã nói rằng ‘được sanh khởi’ dẫu có tồn tại cũng được thoát khỏi, giống như sợi rơm được lấy ra từ trong đống cỏ muñja được tồn tại. Vì sự tồn tại giống như sợi rơm trong đống cỏ muñja, cho nên chúng sanh ấy mới lưu chuyển từ thế giới này sang thế giới khác.
Saṃsarantīti aparāparaṃ sañcaranti. Cavantīti evaṃ saṅkhyaṃ gacchanti. Tathā upapajjantīti. Aṭṭhakathāyaṃ pana pubbe “sassato attā ca loko cā”ti vatvā idāni te ca sattā sandhāvantītiādinā vacanena ayaṃ diṭṭhigatiko attanāyeva attano vādaṃ bhindati, diṭṭhigatikassa dassanaṃ nāma na nibaddhaṃ, thusarāsimhi nikhātakhāṇu viya cañcalaṃ, ummattakapacchiyaṃ pūvakhaṇḍagūthagomayādīni viya cettha sundarampi asundarampi hoti yevāti vuttaṃ. Atthitveva sassatisamanti ettha sassatīti niccaṃ vijjamānatāya mahāpathaviṃva maññati, tathā sinerupabbatacandimasūriye. tato tehi samaṃ attānaṃ maññamānā atthi tveva sassatisamanti vadanti.
Luân hồi: lưu chuyển từ thế giới này sang thế giới khác. Chết đi: đi đến việc tính đếm như vậy. Ở đó, tái sanh cũng tương tự. Nhưng trong Aṭṭhakathā đã nói ở phần đầu: “Bản ngã và thế giới là trường tồn” bây giờ quay trở lại nói rằng: “Còn những chúng sanh ấy lưu chuyển v.v,” Sa-môn hoặc Bà-la-môn có tà kiến này được gọi là phá vỡ học thuyết của mình bởi chính mình, quan điểm của những người có tà kiến là không liên quan đến nhau, lay động giống như cột trụ được cắm vào trong đống trấu, và quan điểm này có mặt tốt lẫn mặt không tốt giống như một cái bánh từ phân và phân bò đựng trong cái giỏ của người điên. Ở đây, ‘Sự trường tồn’ trong cụm từ ‘vẫn được xem là có tính chất trường tồn’ tưởng tượng địa đại to lớn là thường còn bởi vì có tồn tại thường hằng, thậm chí đỉnh núi Suneru, mặt trăng, mặt trời, cũng tưởng tượng như vậy, vì thế trong khi tưởng tượng bản ngã đồng đẳng với những thứ đó mới nói rằng: tuy vậy chúng vẫn có tính chất trường tồn.
Idāni sassato attā ca loko cātiādikāya paṭiññāya sādhanatthaṃ hetuṃ dassento “taṃ kissa hetu? ahañhi ātappamanvāyā”tiādimāha. Tattha imināmahaṃ etaṃ jānāmīti iminā visesādhigamena ahaṃ etaṃ paccakkhato jānāmi, na kevalaṃ saddhāmattakeneva vadāmīti dasseti. Makāro panettha padasandhikaraṇatthaṃ vutto. Idaṃ, bhikkhave, paṭhamaṃ ṭhānanti catūhi vatthūhīti vatthusaddena vuttesu catūsu ṭhānesu idaṃ paṭhamaṃ ṭhānaṃ, idaṃ[19] jātisatasahassamattānussaraṇaṃ paṭhamaṃ kāraṇanti attho.
Bây giờ, Sa-môn và Bà-la-môn có tà kiến trong khi thuyết giảng nguyên nhân nhằm mục đích hoàn thành lời tuyên bố “bản ngã và thế giới là trường tồn v.v,” mới nói lời được bắt đầu như sau: “Điều đó do nhân gì? Bởi vì tôi nhờ vào sự nhiệt tâm”. Trong Pāḷī ấy ‘nhờ vào sự chứng đắc đặc biệt này, tôi biết được điều này: Sa-môn và Bà-la-môn có tà kiến thuyết rằng nhờ sự chứng đắc đặc biệt này, tôi mới biết được điều này có sự rõ rệt, và không phải tôi nói chỉ với đức tin đâu. Hơn nữa, ở đây phụ âm ‘Ma’ trong Pāḷī ‘Iminā mahaṃ etaṃ jānāmi (nhờ vào sự chứng đắc đặc biệt này, tôi biết được điều này)’ này được nói để thực hiện câu theo luật hợp âm. Này các tỳ khưu đây là nguyên do thứ nhất: Trong tất cả bốn nguyên do được thuyết bằng từ ngữ như sau: với bốn nguyên do, đây là nguyên do thứ nhất, có nghĩa là việc nhớ lại các kiếp sống quá khứ được trăm ngàn kiếp như vậy là nguyên do thứ nhất.
32-33. Upari vāradvayepi eseva nayo. kevalañhi ayaṃ vāro anekajātisatasahassānussaraṇavasena vutto. itare dasacattālīsasaṃvaṭṭavivaṭṭakappānussaraṇavasena. Mandapañño hi titthiyo anekajātisatasahassamattaṃ anussarati, majjhimapañño dasasaṃvaṭṭavivaṭṭakappāni, tikkhapañño cattālīsaṃ, na tato uddhaṃ.
32-33. Thậm chí cả hai học thuyết trước cũng có phương cách này. Bởi vì đoạn này thuyết do mãnh lực nhớ được trăm ngàn kiếp. Hai đoạn còn lại thuyết do mãnh lực nhớ được mười đến bốn mươi hoại kiếp [saṃvaṭṭakappa] và thành kiếp [vivaṭṭakappa]. Thật vậy, ngoại đạo có trí tuệ ít nhớ được chừng trăm ngàn kiếp, có trí tuệ trung bình nhớ được mười thành kiếp và hoại kiếp, người có trí tuệ sắc bén nhớ được bốn mươi thành kiếp và hoại kiếp không nhiều hơn thế.
34. Catutthavāre takkayatīti takkī, takko vā assa atthīti takkī. Takketvā vitakketvā diṭṭhigāhino etaṃ adhivacanaṃ. Vīmaṃsāya samannāgatoti vīmaṃsī. Vīmaṃsā nāma tulanā ruccanā khamanā. yathā hi puriso yaṭṭhiyā udakaṃ vīmaṃsitvā otarati, evameva yo tulayitvā ruccitvā khamāpetvā diṭṭhiṃ gaṇhāti, so “vīmaṃsī”ti veditabbo. Takkapariyāhatanti takkena pariyāhataṃ, tena tena pariyāyena takketvāti attho. Vīmaṃsānucaritanti tāya vuttappakārāya vīmaṃsāya anucaritaṃ. Sayaṃpaṭibhānanti attano paṭibhānamattasañjātaṃ. Evamāhāti sassatadiṭṭhiṃ gahetvā evaṃ vadati.
34. Ở đoạn thứ tư, một số Sa-môn và Bà-la-môn được gọi là nhà ngụy biện do khéo suy tư, hoặc gọi là nhà ngụy biện do có sự suy tư. sau khi suy tư, sau khi suy tầm rồi chấp thủ do năng lực của tà kiến đây là đồng nghĩa với nhà suy luận. Nhà thẩm sát do phối với hợp với tuệ thẩm sát. Sự cân nhắc, sự ưa thích, sự hài lòng bằng tuệ thẩm sát gọi là sự thẩm sát. Tương tư như một người đàn ông dùng cây gậy dò xét nước rồi mới bước xuống như thế nào, tương tư như thế ấy người sau khi cân nhắc, sau khi ưa thích, sau khi hài lòng rồi mới đưa ra kết luận, nên biết rằng gọi là ‘nhà thẩm sát’. Đã được thu thập từ sự suy tư: xác định nắm giữ với sự suy tư, có nghĩa là suy tư theo con đường đó. Đã đuổi với sự thẩm sát: thực hành theo sự thẩm sát có đường lối đã được trình bày. Khả năng hiểu biết của bản thân: chỉ khởi lên từ trí hiểu biết của bản thân. Đã nói như vậy: đã chấp thủ vào thường kiến mới nói như vậy.
Tattha catubbidho takkī — anussutiko, jātissaro, lābhī, suddhatakkikoti. Tattha yo “Vessantaro nāma rājā ahosī”tiādīni sutvā “tena hi yadi vessantarova bhagavā, sassato attā”ti takkayanto diṭṭhiṃ gaṇhāti, ayaṃ anussutiko nāma. dve tisso jātiyo saritvā — “ahameva pubbe asukasmiṃ nāma ahosiṃ, tasmā sassato attā”ti takkayanto jātissaratakkiko nāma. Yo pana lābhitāya “yathā me idāni attā sukhī hoti, atītepi evaṃ ahosi, anāgatepi bhavissatī”ti takkayitvā diṭṭhiṃ gaṇhāti, ayaṃ lābhītakkiko nāma. “Evaṃ sati idaṃ hotī”ti takkamatteneva gaṇhanto pana suddhatakkiko nāma.
Ở đó, nhà ngụy biện có bốn hạng là – anussutiko (nghĩ theo chuyện đã nghe), jātissaro (nghĩ do nhớ đến kiếp sống quá khứ), lābhī (nghĩ đến chuyện có thể nghĩ được), suddhatakkiko (nghĩ bâng quơ). Trong bốn hạng ấy thì người nào nghe rằng “Đã có vua hồng danh Vessantara” v.v rồi nghĩ xem rằng với chính nguyên nhân ấy “Bởi nếu đức Thế Tôn là Vessantara, bản ngã cũng là trường tồn” chấp thủ (do tác động) tà kiến, đây gọi là người nghĩ theo chuyện đã nghe. Người nhớ được 2-3 kiếp sống quá khứ rồi nghĩ xem rằng “Chính tôi trong thời quá khứ đã có tên như thế này, do đó bản ngã là trường tồn”, gọi là nghĩ do nhớ đến kiếp sống quá khứ. Hơn nữa, người nào nghĩ theo rằng “Tự ngã của tôi lúc này đang có sự an lạc thế nào, ngay cả trong thời quá khứ cũng có sự an lạc, (và) luôn cả thời vị lai cũng sẽ có sự an lạc tương tự như thế ấy”, chấp lấy (do tác động) của tà kiến, bởi đạt được cho bản thân, đây gọi là nghĩ đến chuyện có thể nghĩ được. Lại nữa, người nắm giữ chỉ bằng cách tự mình suy nghĩ rằng: “Nếu là như vậy thì sẽ là như vậy”, đây gọi là nghĩ bâng quơ.
35. Etesaṃ vā aññatarenāti etesaṃyeva catunnaṃ vatthūnaṃ aññatarena ekena vā dvīhi vā tīhi vā. Natthi ito bahiddhāti imehi pana vatthūhi bahi aññaṃ ekaṃ kāraṇampi sassatapaññattiyā natthīti appaṭivattiyaṃ sīhanādaṃ nadati.
35. Hoặc với một luận cứ nào đó trong bốn luận cứ: Với một luận cứ nào đó trong bốn luận cứ này, một loại, hai loại, hoặc ba loại. Ngoài đây ra thì không có (luận cứ nào khác): Đức Thế Tôn gầm lên tiếng gầm con sư tử mà bất cứ ai cũng không thể phản đối được rằng: “Lý do khác dầu chỉ chút ít ngoài những lý do này là không có để quy định (cho rằng) trường tồn.
36. Tayidaṃ, bhikkhave, tathāgato pajānātīti bhikkhave, taṃ idaṃ catubbidhampi diṭṭhigataṃ tathāgato nānappakārato jānāti. Tato taṃ pajānanākāraṃ dassento ‘ime diṭṭhiṭṭhānā’ti-ādimāha. Tattha diṭṭhiyova[20] diṭṭhiṭṭhānā nāma. Api ca diṭṭhīnaṃ kāraṇampi diṭṭhiṭṭhānameva. Yathāha – “Katamāni aṭṭha diṭṭhiṭṭhānāni? Khandhāpi diṭṭhiṭṭhānaṃ, avijjāpi, phassopi, saññāpi, vitakkopi, ayonisomanasikāropi, pāpamittopi, paratoghosopi diṭṭhiṭṭhānan”ti. “Khandhā hetu, khandhā paccayo diṭṭhiṭṭhānaṃ upādāya samuṭṭhānaṭṭhena, evaṃ khandhāpi diṭṭhiṭṭhānaṃ. avijjā hetu … pe … pāpamitto hetu. paratoghoso hetu, paratoghoso paccayo diṭṭhiṭṭhānaṃ upādāya samuṭṭhānaṭṭhena, evaṃ paratoghosopi diṭṭhiṭṭhānan”ti[21]. Evaṃ gahitāti diṭṭhisaṅkhātā tāva diṭṭhiṭṭhānā — “sassato attā ca loko cā”ti evaṃgahitā ādinnā, pavattitāti attho. Evaṃ parāmaṭṭhāti nirāsaṅkacittatāya punappunaṃ āmaṭṭhā parāmaṭṭhā, ‘idameva saccaṃ, moghamaññan’ti pariniṭṭhāpitā. Kāraṇasaṅkhātā pana diṭṭhiṭṭhānā yathā gayhamānā diṭṭhiyo samuṭṭhāpenti, evaṃ ārammaṇavasena ca pavattanavasena ca āsevanavasena ca gahitā, anādīnavadassitāya punappunaṃ gahaṇavasena parāmaṭṭhā. Evaṃ gatikāti evaṃ nirayatiracchānapettivisayagatikānaṃ aññataragatikā. Evaṃ abhisamparāyāti idaṃ purimapadasseva vevacanaṃ, evaṃvidhaparalokāti vuttaṃ hoti.
36. Này các tỳ khưu, Như Lai biết rõ điều này (về các tà kiến ấy): Này chư tỳ khưu chuyện này đây, chính là bốn loại tà kiến Như Lai biết bằng nhiều khía cạnh. Sau đó, trong khi thuyết giảng về biểu hiện bằng việc biết rõ ấy đã nói rằng: “Cơ sở (làm nơi thiết lập) của kiến này” v.v. Trong Pāḷī ấy chính kiến ấy được gọi là cơ sở làm nơi thiết lập của kiến. Hoặc là, ngay cả luận cứ của các kiến cũng được gọi là cơ sở làm nơi thiết lập của kiến tương tự. Như trưởng lão Sārīputta đã nói “Tám cơ sở của kiến là gì? Uẩn là cơ sở của kiến, vô minh cũng là cơ sở của kiến, xúc cũng là cơ sở của kiến, tưởng cũng là cơ sở của kiến, tầm cũng là cơ sở của kiến, tác ý không đúng đắn cũng là cơ sở của kiến, bạn xấu cũng là cơ sở của kiến, lời nói của kẻ khác cũng là cơ sở của kiến, mỗi thứ đều là cơ sở sở làm chỗ thiết lập của kiến. Do đó, các uẩn là nhân, các uẩn là duyên, có liên quan đến cơ sở của kiến theo ý nghĩa nguồn sanh khởi; như thế chính các uẩn là cơ sở làm nơi thiết lập của kiến. Vô minh là nhân …nt… bạn xấu là nhân …nt… lời nói của kẻ khác là nhân, lời nói của kẻ khác là duyên có liên quan đến cơ sở của kiến theo ý nghĩa nguồn sanh khởi. Như thế chính lời nói của kẻ khác là cơ sở làm nơi thiết lập của kiến”. Nắm giữ như vậy: cơ sở làm nơi thiết lập kiến ban đầu được xem là kiến – “Bản ngã và thế giới là trường tồn” đã nắm giữ, đã chấp thủ, là vận hành như vậy. Bám víu như vậy: đã nắm giữ, đã bám víu thường xuyên do bản thể con người có tâm không nghi hoặc, thành tựu ý nghĩa rằng: ‘Chỉ điều này là sự thật, những thứ khác là rỗng không’. Hơn nữa, cơ sở làm nơi thiết lập của kiến được xem là nguyên do, trong khi nắm giữ bằng đường lối nào tạo ra các loại kiến (quan điểm), bằng đường lối đó đã nắm giữ do tác động làm đối tượng, do tác động sự vận hành, và do tác động thực hành như vậy, đã bám víu do tác động việc nắm giữ thường xuyên bởi thấy không có lỗi lầm. Có cảnh giới tái sanh như vậy: có một cảnh giới tái sanh nào đó là địa ngục, bàng sanh và ngạ quỷ như vậy. Có kiếp sống kế tiếp như vậy: đây là từ đồng nghĩa với câu đầu mà thôi, được giải thích rằng: có đời này và đời sau như vậy.
Tañca tathāgato pajānātīti na kevalañca tathāgato sakāraṇaṃ sagatikaṃ diṭṭhigatameva pajānāti, atha kho tañca sabbaṃ pajānāti, tato ca uttaritaraṃ sīlañceva samādhiñca sabbaññutaññāṇañca pajānāti. Tañca pajānanaṃ[22] na parāmasatīti tañca evaṃvidhaṃ anuttaraṃ visesaṃ pajānantopi ahaṃ pajānāmīti taṇhādiṭṭhimānaparāmāsavasena tañca na parāmasati. Aparāmasato cassa paccattaññeva nibbuti viditāti evaṃ aparāmasato cassa aparāmāsapaccayā[23] sayameva attanāyeva tesaṃ parāmāsakilesānaṃ nibbuti viditā. Pākaṭaṃ, bhikkhave, tathāgatassa nibbānanti dasseti.
Và Như Lai biết rõ điều đó: và không chỉ Như Lai biết rõ riêng tà kiến cùng với lý do (luận cứ), cùng với cả cảnh giới tái sanh, thật sự Như Lai biết rõ tất cả những thứ ấy, mà còn biết rõ giới, đinh, và trí Toàn Giác vượt lên trên những điều đó. Nhưng không bám víu vào sự biết rõ ấy: Mặc dù biết rõ ân đức đặc biệt cao thượng như vậy đó, tuy nhiên cũng không bám víu bởi sự bám chấp là tham ái, tà kiến, và ngã mạn rằng ‘ta biết rõ’. Và trong khi Như Lai không bám víu, có sự diệt hoàn toàn được biết đến cho chính bản thân của Như Lai: Và trong khi không bám víu như vậy, Như Lai cũng biết sự diệt hoàn toàn của phiền não là những sự bám chấp đó, chính là nắm giữ bởi chính bản thân mình do sự không bám chấp làm duyên. Thuyết rằng: “Này chư tỳ khưu Nibbāna của Như Lai được hiển lộ.”
Idāni yathāpaṭipannena tathāgatena sā nibbuti adhigatā, taṃ paṭipattiṃ dassetuṃ yāsu vedanāsu rattā[24] titthiyā “idha sukhino bhavissāma, ettha sukhino bhavissāmā”ti diṭṭhigahanaṃ[25] pavisanti, tāsaṃyeva vedanānaṃ vasena kammaṭṭhānaṃ ācikkhanto vedanānaṃ samudayañcātiādimāha. Tattha yathābhūtaṃ viditvāti “avijjāsamudayā vedanāsamudayoti paccayasamudayaṭṭhena vedanākkhandhassa udayaṃ passati, taṇhāsamudayā vedanāsamudayoti paccayasamudayaṭṭhena vedanākkhandhassa udayaṃ passati, kammasamudayā vedanāsamudayoti paccayasamudayaṭṭhena vedanākkhandhassa udayaṃ passati, phassasamudayā vedanāsamudayoti paccayasamudayaṭṭhena vedanākkhandhassa udayaṃ passati[26]. Nibbattilakkhaṇaṃ passantopi vedanākkhandhassa udayaṃ passatī”ti imesaṃ pañcannaṃ lakkhaṇānaṃ vasena vedanānaṃ samudayaṃ yathābhūtaṃ viditvā;
“Avijjānirodhā vedanānirodhoti paccayanirodhaṭṭhena vedanākkhandhassa vayaṃ passati, taṇhānirodhā vedanānirodhoti paccayanirodhaṭṭhena vedanākkhandhassa vayaṃ passati, kammanirodhā vedanānirodhoti paccayanirodhaṭṭhena vedanākkhandhassa vayaṃ passati, phassanirodhā vedanānirodhoti paccayanirodhaṭṭhena vedanākkhandhassa vayaṃ passati. Vipariṇāmalakkhaṇaṃ passantopi vedanākkhandhassa vayaṃ passatī”ti[27] imesaṃ pañcannaṃ lakkhaṇānaṃ vasena vedanānaṃ atthaṅgamaṃ yathābhūtaṃ viditvā, “yaṃ vedanaṃ paṭicca uppajjati sukhaṃ somanassaṃ, ayaṃ vedanāya assādo”ti[28] evaṃ assādañca yathābhūtaṃ viditvā, “yaṃ vedanā aniccā dukkhā vipariṇāmadhammā, ayaṃ vedanāya ādīnavo”ti evaṃ ādīnavañca yathābhūtaṃ viditvā, “yo vedanāya chandarāgavinayo chandarāgappahānaṃ, idaṃ vedanāya nissaraṇan”ti evaṃ nissaraṇañca yathābhūtaṃ viditvā vigatachandarāgatāya anupādāno anupādāvimutto, bhikkhave, tathāgato; yasmiṃ upādāne sati kiñci upādiyeyya, upādinnattā ca khandho bhaveyya, tassa abhāvā kiñci dhammaṃ anupādiyitvāva vimutto bhikkhave tathāgatoti.
Bây giờ để thuyết giảng đạo lộ được thực hành bởi Như Lai, làm nhân đưa đến chứng đạt sự diệt hoàn toàn ấy, các ngoại sự hoan hỷ trong những thọ nào liền đi vào bám lấy kiến rằng: “Chúng tôi sẽ có sự an lạc ở đây, chúng tôi sẽ có sự an lạc trong pháp này” để thuyết đề mục thiền định với những thọ ấy mới thuyết rằng: “Và nhân sanh khởi của các thọ v.v.” Trong Pāḷī ấy ‘sau khi biết đúng theo thực thể’: “Do sự sanh khởi của vô minh, có sự sanh khởi của thọ, (hành giả) nhận thấy sự sanh của thọ uẩn theo ý nghĩa của sự sanh khởi là do duyên; Do sự sanh khởi của ái, có sự sanh khởi của thọ, (hành giả) nhận thấy sự sanh của thọ uẩn theo ý nghĩa của sự sanh khởi là do duyên; Do sự sanh khởi của nghiệp, có sự sanh khởi của thọ, (hành giả) nhận thấy sự sanh của thọ uẩn theo ý nghĩa của sự sanh khởi là do duyên; Do sự sanh khởi của xúc, có sự sanh khởi của thọ, (hành giả) nhận thấy sự sanh của thọ uẩn theo ý nghĩa của sự sanh khởi là do duyên; (hành giả) nhận thấy sự sanh của thọ uẩn ngay cả trong khi nhận thấy tướng trạng của sự sinh ra,” gọi là sự sanh khởi của các thọ (thọ uẩn) sau khi biết đúng theo thực thể do tác động của năm tướng trạng này.
“Do sự diệt tận của vô minh, có sự diệt tận của thọ, (hành giả) nhận thấy sự diệt của thọ uẩn theo ý nghĩa của sự diệt tận là do duyên; Do sự diệt tận của ái, có sự diệt tận của thọ, (hành giả) nhận thấy sự diệt của thọ uẩn theo ý nghĩa của sự diệt tận là do duyên; Do sự diệt tận của nghiệp, có sự diệt tận của thọ, (hành giả) nhận thấy sự diệt của thọ uẩn theo ý nghĩa của sự diệt tận là do duyên; Do sự diệt tận của xúc, có sự diệt tận của thọ, (hành giả) nhận thấy sự diệt của thọ uẩn theo ý nghĩa của sự diệt tận là do duyên; (hành giả) nhận thấy sự diệt của thọ uẩn ngay cả trong khi nhận thấy tướng trạng của sự biến đổi,” gọi là sự diệt của các thọ (thọ uẩn) sau khi biết đúng theo thực thể do tác động của năm tướng trạng này, “lạc và hỷ sanh khởi tùy thuộc vào thọ nào, điều ấy là sự khoái lạc đối với thọ” sau khi biết đúng theo thực thể về sự khoái lạc là như vậy, “thọ nào là vô thường, là khổ đau, có tính chất thay đổi, điều ấy là bất lợi đối với thọ,” sau khi biết đúng thực thể về sự tai hại là như vậy, “Việc nhổ bỏ ước muốn và tham ái ở thọ, việc dứt trừ ước muốn và tham ái ở thọ, điều này là sự xuất ly khỏi thọ,” sau khi biết đúng thực thể về sự xuất ly là như vậy, này các tỳ khưu do có ước muốn và tham ái đã lìa bỏ, Như Lai được giải thoát không còn chấp thủ; trong khi có chấp thủ nào con người cũng có thể chấp thủ vào điều gì và do chấp thủ (ấy) uẩn cũng có thể có, Như Lai không chấp thủ vào bất cứ điều gì, này chư tỳ khưu, do chính không chấp thủ ấy (Như Lai) được giải giải thoát.
37. Ime kho te, bhikkhaveti ye te ahaṃ — “katame, ca te, bhikkhave, dhammā gambhīrā”ti apucchiṃ, “ime kho te, bhikkhave, tañca tathāgato pajānāti tato ca uttaritaraṃ pajānātī”ti evaṃ niddiṭṭhā sabbaññutaññāṇadhammā gambhīrā duddasā … pe … paṇḍitavedanīyāti veditabbā. Yehi tathāgatassa neva puthujjano, na sotāpannādīsu aññataro vaṇṇaṃ yathābhūtaṃ vattuṃ sakkoti, atha kho tathāgatova yathābhūtaṃ vaṇṇaṃ sammā vadamāno vadeyyāti evaṃ pucchamānenāpi[29] sabbaññutaññāṇameva puṭṭhaṃ, niyyātentenāpi tadeva niyyātitaṃ, antarā pana diṭṭhiyo vibhattāti.
37. Này các tỳ khưu, chính các pháp này: Những pháp nào là trí Toàn Giác được Như Lai đã thuyết giảng cho các con như vầy – ta đã hỏi rằng: “Những pháp này đây thâm sâu như thế nào? Này các tỳ khưu chính những pháp này đây Như Lai biết rõ điều ấy và biết rõ điều vượt lên trên cả điều ấy” những pháp ấy nên biết rằng thâm sâu, khó nhận thấy …nt… chỉ có những bậc sáng suốt mới hiểu được điều ấy. Làm nhân cho hạng phàm nhân và bậc Thánh nhân có bậc Thánh Nhập-lưu v.v, một trong số ấy không thể nói lời ca ngợi Như Lai đúng theo sự thật, thật sự chỉ có Như Lai trong khi nói lời ca ngợi đúng theo sự thật mới có thể nói lên một cách chân chánh. Đức Thế Tôn ngay cả khi giải thích như vậy cũng chỉ hỏi trí toàn tri, thậm chí khi trao tặng cũng chi trao tặng trí toàn tri ấy, nhưng đã phân tích về kiến ở giữa, là như thế.
Giải Thích Tụng Phẩm Thứ Nhất Được Kết Thúc
Giải Thích Học Thuyết Trường Tồn Đối Với Một Vài Loại
38. Ekaccasassatikāti[30] ekaccasassatavādā. Te duvidhā honti — Sattekaccasassatikā, saṅkhārekaccasassatikāti. Duvidhāpi idha gahitāyeva.
38. Học thuyết trường tồn đối với một vài loại: học thuyết trường tồn đối với một vài loại. Nhóm người có học thuyết trường tồn đối với một vài loại có 2 nhóm: (1) Học thuyết trường tồn đối với một số loại của chúng sanh, (2) Học thuyết trường tồn đối với một số loại của các hành. Trong trường hợp này ngài lấy luôn cả 2 nhóm.
39. Yanti nipātamattaṃ. Kadācīti kismiñci kāle. Karahacīti tasseva vevacanaṃ. Dīghassa addhunoti dīghassa kālassa. Accayenāti atikkamena . Saṃvaṭṭatīti vinassati. Yebhuyyenāti ye uparibrahmalokesu vā arūpesu vā nibbattanti, tadavasese sandhāya vuttaṃ. Jhānamanena nibbattattā manomayā. īti tesaṃ bhakkho āhāroti pītibhakkhā. Attanova tesaṃ pabhāti sayaṃpabhā. Antalikkhe carantīti antalikkhacarā. Subhesu uyyāna-vimāna-kapparukkhādīsu tiṭṭhantīti, subhaṭṭhāyino subhā vā manorammavatthābharaṇā hutvā tiṭṭhantīti subhaṭṭhāyino. Ciraṃ dīghamaddhānanti ukkaṃsena aṭṭha kappe.
Yaṃ chỉ là phân từ. Vào một lúc nào đó: vào một lúc nào đó. Vào một thời điểm nào đó: chính là từ đồng nghĩa với ‘vào một lúc nào đó’. một thời gian lâu dài: một thời gian dài. Trải qua: vượt qua. Hoại diệt: diệt vong. Hầu hết: nói đề cập đến nhóm chúng sanh còn lại sanh vào thế giới Phạm thiên ở cõi cao hoặc Phạm thiên Vô sắc. Được thành tựu bời ý vì sanh lên do tâm thiền. Được nuôi dưỡng bằng hỷ vì những chúng sanh ấy được nuôi dưỡng bằng hỷ, tức là có hỷ làm thức ăn. Tự thân có ánh sáng vì những chúng sanh ấy tự thân có ánh sáng. Di chuyển trong không trung bời vì di chuyển trong hư không. Sống ở nơi xinh đẹp bởi vì cư ngụ ở nơi tuyệt mỹ có hoa viên, có cung điện và có cây Như Ý – kapparukkha v.v. Thêm nữa, sống ở nơi xinh đẹp bởi vì người xinh đẹp, tức là có y phục và đồ trang sức đáng vừa lòng. Tồn tại một thời gian lâu dài: xác định (tuổi thọ) cao nhất suốt 8 kappa.
40. Vivaṭṭatīti saṇṭhāti. Suññaṃ brahmavimānanti pakatiyā nibbattasattānaṃ natthitāya suññaṃ, brahmakāyikabhūmi nibbattatīti attho. Tassa kattā vā kāretā vā natthi, visuddhimagge vuttanayena pana kammapaccayautusamuṭṭhānā ratanabhūmi nibbattati. Pakatinibbattiṭṭhānesuyeva[31] cettha uyyānakapparukkhādayo nibbattanti. Atha sattānaṃ pakatiyā vasitaṭṭhāne nikanti uppajjati, te paṭhamajjhānaṃ bhāvetvā tato otaranti, tasmā atha kho aññataro sattotiādimāha. Āyukkhayā vā puññakkhayā vāti ye uḷāraṃ puññakammaṃ katvā yattha katthaci appāyuke devaloke nibbattanti, te attano puññabalena ṭhātuṃ na sakkonti, tassa pana devalokassa āyuppamāṇeneva cavantīti āyukkhayā cavantīti vuccanti. Ye pana parittaṃ puññakammaṃ katvā dīghāyukadevaloke nibbattanti, te yāvatāyukaṃ ṭhātuṃ na sakkonti, antarāva cavantīti puññakkhayā cavantīti vuccanti. Dīghamaddhānaṃ tiṭṭhatīti kappaṃ vā upaḍḍhakappaṃ vā.
40. Hình thành: được hình thành tốt đẹp. Phạm Thiên cung hiện ra, trống không: gọi là trống không do không có chúng sanh sanh lên theo bản thể tự nhiên, cõi trời làm nơi cư ngụ của chúng Phạm Thiên được sanh lên. Vị kiến tạo, hay vị cho kiến tạo thiên cung Phạm Thiện ấy là không có, những ratana-bhūmi có thời tiết làm sở sanh sanh khởi do nghiệp làm duyên theo phương cách đã được nói trong Thanh Tịnh Đạo. Và trong ratana-bhūmi này tạo ra hoa viên và cây Như Ý v.v, ở nơi cư ngụ mà chúng sanh ấy sanh ra thuận theo tự nhiên. Khi ấy, những chúng sanh khởi lên sự dính mắc ở nơi cư ngụ theo tự nhiên, họ đã tu tập Sơ thiền rồi bước xuống từ chỗ ấy, vì thế đức Thế Tôn mới nói rằng: ‘Khi ấy có một chúng sanh nào đó v.v.’ Hoặc do cạn kiệt tuổi thọ, hay do cạn kiệt phước báu: Chúng sanh nào đã tạo nhiều phước nghiệp hóa sanh vào một chỗ nào thuộc thế giới chư Thiên có tuổi thọ ít ỏi, những chúng sanh ấy không thể duy trì hết tuổi thọ do năng lực phước báu của bản thân, tuy nhiên ‘tử’ theo ước lượng tuổi thọ của cõi chư Thiên ấy, vì thế được gọi là chết do cạn kiệt tuổi thọ. Hơn nữa, chúng sanh nào đã tạo ít phước nghiệp rồi hóa sanh vào thế giới chư Thiên có tuổi thọ dài, những chúng sanh ấy không thể duy trì hết tuổi thọ, đã chết ở khoảng giữa, vì thế được gọi là chết do cạn kiệt phước nghiệp. Tồn tại một thời gian lâu dài: Suốt một kiếp hoặc nửa kiếp.
41. Anabhiratīti aparassāpi sattassa āgamanapatthanā. Yā pana paṭighasampayuttā ukkaṇṭhitā, sā brahmaloke natthi. Paritassanāti ubbijjanā phandanā, sā panesā tāsatassanā, taṇhātassanā, diṭṭhitassanā, ñāṇatassanāti catubbidhā hoti. Tattha “jātiṃ paṭicca bhayaṃ bhayānakaṃ chambhitattaṃ lomahaṃso cetaso utrāso. jaraṃ… byādhiṃ… maraṇaṃ paṭicca … pe … utrāso”ti[32] ayaṃ tāsatassanā nāma. “Aho vata aññepi sattā itthattaṃ āgaccheyyun”ti[33] ayaṃ taṇhātassanā nāma. “paritassitavipphanditamevā”ti ayaṃ diṭṭhitassanā nāma. “Tepi tathāgatassa dhammadesanaṃ sutvā yebhuyyena bhayaṃ saṃvegaṃ santāsaṃ āpajjantī”ti[34] ayaṃ ñāṇatassanā nāma. idha pana taṇhātassanāpi diṭṭhitassanāpi vaṭṭati. brahmavimānanti idha pana paṭhamābhinibbattassa atthitāya suññanti na vuttaṃ. Upapajjantīti upapattivasena upagacchanti. Sahabyatanti sahabhāvaṃ.
41. Sự tơ tưởng: mong uốn cho chúng sanh khác đến. Hơn nữa, sự nhàm chán tương ưng với sự ghét bỏ không có trong thế giới Phạm Thiên. Sự sợ hãi: tâm trạng bị xao động, trạng thái không thoải mái. Sự sợ hãi này đây có bốn là (1) sự sợ hãi do hoảng sợ, (2) sự sợ hãi do tham ái, (3) sự sợ hãi do tà kiến, (4) sự sợ hãi do trí. Ở đó, “tùy thuận vào sự sanh, sợ hãi, trạng thái sợ hãi, trạng thái kinh hãi, sự sởn lông tóc, sự hốt hoảng, sự khiếp sợ của tâm. Tùy thuận vào sự già…tùy thuộc vào bệnh tật…nt.. tùy thuộc sự khiếp sợ của tâm,” điều này là sự sợ hãi do hoảng sợ. “Ôi, ước gì các chúng sinh khác cũng có thể đi đến bản thể này!’ điều này là sự sợ hãi do tham ái. “Sự hoảng sợ cũng là sự sợ hãi ấy” điều ấy là sự sợ hãi do tà kiến. “Thậm chí những người này, sau khi nghe Như Lai thuyết pháp, phần lớn họ rơi vào sự sợ hãi, rơi vào sự chấn động, rơi vào sự kinh sợ”, điều này là sự sợ hãi do trí. Hơn nữa, trong trường hợp này thì cả sự sợ hãi tham ái, và luôn cả sự sợ hãi do tà kiến đều thích hợp. Phạm Thiên cung: hơn nữa ở đây không nói rằng ‘trống không’ do có chúng sanh đã sanh ra trước rồi. Tái sanh vào: đi vào bằng sự tái sanh. Là bạn đồng hành: tính chất cùng nhau (tình bạn lữ).
42. Abhibhūti abhibhavitvā ṭhito jeṭṭhakohamasmīti. Anabhibhūtoti aññehi anabhibhūto. Aññadatthūti ekaṃsavacane nipāto. Dassanavasena daso, sabbaṃ passāmīti attho. Vasavattīti sabbaṃ janaṃ vase vattemi. Issaro kattā nimmātāti ahaṃ loke issaro, ahaṃ lokassa kattā ca nimmātā ca, pathavī — himavanta-sineru-cakkavāḷa-mahāsamudda-candima-sūriyā mayā nimmitāti. Seṭṭho sajitāti ahaṃ lokassa uttamo ca sajitā[35] ca, “tvaṃ khattiyo nāma hohi, tvaṃ brāhmaṇo, vesso, suddo, gahaṭṭho, pabbajito nāma. Antamaso tvaṃ oṭṭho hohi, goṇo hohī”ti “evaṃ sattānaṃ saṃvisajetā[36] ahan”ti maññati. Vasī pitā bhūtabhabyānanti[37] ahamasmi ciṇṇavasitāya vasī, ahaṃ pitā bhūtānañca bhabyānañcāti maññati. Tattha aṇḍajajalābujā sattā antoaṇḍakose ceva antovatthimhi ca bhabyā nāma, bahi nikkhantakālato paṭṭhāya bhūtā nāma. saṃsedajā paṭhamacittakkhaṇe bhabyā, dutiyato paṭṭhāya bhūtā. opapātikā paṭhamairiyāpathe bhabyā, dutiyato paṭṭhāya bhūtāti veditabbā. Te sabbepi mayhaṃ puttāti saññāya “ahaṃ pitā bhūtabhabyānan”ti maññati.
42. Đấng chiến thắng: là vị đã chinh phục, ta là bậc tối thượng nhất. Bậc không bị chế ngự: Bậc không bị chế ngự bởi những người khác. Aññadatthuṃ: là một phân từ với ý nghĩa thấu đáo. Thấy: do tác động sự thấy, giải thích rằng ta nhìn thấy tất cả. Bậc vận hành quyền lực: ta khiến tất cả mọi người nằm trong quyền kiểm soát của ta. Đấng chúa tể, đấng tạo lập, đấng tạo hóa: ta là đấng chúa tể ở thế gian, ta là người kiến tạo thế gian và đấng tạo hóa – quả địa cầu, núi Hy-mã-lạp, núi Suneru, vũ trụ, biển cả, mặt trăng, và mặt trời được tạo ra bởi ta. Đấng cao cả, đấng quyền năng: Tưởng tượng rằng – ta là đấng cao cả và là người sắp đặt ở thế gian, ta phân loại tất cả chúng sanh như vầy “ngươi hãy là vị Sát-đế-lỵ, là Bà-la-môn, là thương nhân, là kẻ nô lệ, là người tại gia, là vị xuất gia. Thậm chí ngươi hãy là loài lạc đà, hãy là loài bò”. Đấng quyền lực, đấng cha ông của các chúng sanh đã hình thành và đang hình thành: Tưởng tượng rằng – ta được xem là người có quyền lực bởi vì là người tích trữ quyền lực, ta là đấng cha ông của các chúng sanh đã hình thành và của các chúng sanh đang hình thành. Trong hai lại chúng sanh ấy những chúng sanh thuộc nhóm noãn sanh và thai sanh, ở trong vỏ trứng và ở trong dạ con được gọi là đang hình thành, kể từ lúc lọt ra ngoài được gọi là đã hình thành. Nhóm thấp sanh ở sát-na tâm đầu tiên được gọi là đang hình thành, kể từ sát-na tâm thứ hai trở đi được gọi là đã hình thành. Nhóm hóa sanh ở oai nghi đầu tiên được gọi là đang hình thành, kể từ oai nghi thứ hai trở đi được gọi là đã hình thành. Tưởng tưởng rằng: ta là đấng cha ông của các chúng sanh đã hình thành và của các chúng sanh đang hình thành với suy tưởng rằng – ‘toàn bộ chúng sanh ấy đều là con của ta’.
Idāni kāraṇato[38] sādhetukāmo — “mayā ime sattā nimmitā”ti paṭiññaṃ katvā “taṃ kissa hetū”tiādimāha. Itthattanti itthabhāvaṃ, brahmabhāvanti attho. Iminā mayanti attano kammavasena cutāpi upapannāpi ca kevalaṃ maññanāmatteneva “iminā mayaṃ nimmitā”ti maññamānā vaṅkacchidde[39] vaṅkāaṇī viya onamitvā tasseva pādamūlaṃ gacchantīti.
Bây giờ, đức Thế Tôn có ước muốn làm cho ý nghĩa được hoàn tất bằng việc nêu ra lý do đã tuyên bố rằng: “Những chúng sanh này đã được tạo ra bởi ta” mới nói rằng “Điều ấy do nguyên nhân gì?” Là như thế: bản chất là như vậy, có nghĩa là bản thể Phạm Thiên. Chúng ta được ngài Phạm Thiên này tạo ra: những chúng sanh ấy dù đã chết, hay đã tái sanh do nghiệp của mỗi các nhân, nhưng hoàn toàn chỉ với sự tưởng tượng mà thôi, cũng tưởng tượng rằng “Chúng ta được ngài Phạm Thiên tạo ra” mọi người ai cũng đi đến nghiêng mình cúi lạy dưới bàn chân của chính vị ấy giống như cái nêm cửa được uốn cong theo lỗ khoan được uốn công.
43. Vaṇṇavantataro cāti vaṇṇavantataro[40], abhirūpo pāsādikoti attho. Mahesakkhataroti issariyaparivāravasena mahāyasataro.
43. Và có màu da xinh đẹp hơn: có màu da xinh đẹp hơn, được giải thích rằng có sắc tướng xinh đẹp, đáng để chiêm ngưỡng. Có quyền uy lớn hơn: Có danh tiếng lẫy lừng do tác động của uy quyền và đồ chúng.
44. Ṭhānaṃ kho panetanti kāraṇaṃ kho panetaṃ. So tato cavitvā aññatra na gacchati, idheva āgacchati, taṃ sandhāyetaṃ vuttaṃ. Agārasmāti gehā. Anagāriyanti pabbajjaṃ. Pabbajjā hi yasmā agārassa hi taṃ kasigorakkhādikammaṃ tattha[41] natthi, tasmā anagāriyanti vuccati. Pabbajatīti upagacchati. Tato paraṃ nānussaratīti tato pubbenivāsā paraṃ na sarati, sarituṃ asakkonto tattha ṭhatvā diṭṭhiṃ gaṇhāti.
44. Hơn nữa, sự kiện này quả thật được biết đến: hơn nữa, lý do này quả thật được biết đến. Được nói như vậy muốn đề cập đến chúng sanh ấy rằng: ‘chúng sanh đó sau khi chết từ cõi đó, không đi đến (tái sanh) ở cõi khác, mà chỉ trở lại cõi này.’ Từ nhà: từ nhà. Rời nhà sống không nhà: trở thành bậc xuất gia. Thật vậy, bậc xuất gia ngài gọi lả ‘rời nhà sống không nhà’ bởi vì không có sinh kế như làm ruộng và nuôi bò v.v, là lợi ích trợ giúp gia đình. Xuất gia: đạt đến. Hơn thế nữa không nhớ được kiếp sống nào khác: Không thể nhớ vượt ngoài uẩn đã từng y cứ ấy, khi không thể nhớ được cũng đã an trú vào trong uẩn được y cứ ấy rồi bám víu thành tà kiến.
Niccotiādīsu tassa upapattiṃ apassanto niccoti vadati, maraṇaṃ apassanto dhuvoti, sadābhāvato sassatoti, jarāvasenāpi vipariṇāmassa abhāvato avipariṇāmadhammoti. Sesamettha paṭhamavāre uttānamevāti.
Vị ấy là thường còn v.v, nghĩa là những chung sanh ấy khi không nhìn thấy sự tái sanh của vị đó mới nói rằng ‘thường còn’, khi không nhìn thấy sự chết mới nói rằng: ‘bền vững’, do có tính chất luôn luôn nên được gọi là ‘trường tồn’. Do không có sự biến hoại ngay cả sự già nua mới nói rằng ‘có bản chất không biến đổi’. Các từ còn lại ở đoạn này đều đơn giản.
45-46. Dutiyavāre khiḍḍāya padussanti vinassantīti khiḍḍāpadosikā, padūsikātipi pāḷiṃ likhanti, sā aṭṭhakathāyaṃ natthi. Ativelanti atikālaṃ, aticiranti attho. Hassakhiḍḍāratidhammasamāpannāti hassarati dhammañceva khiḍḍāratidhammañca samāpannā anuyuttā, keḷihassasukhañceva kāyikavācasikakīḷāsukhañca anuyuttā, vuttappakāraratidhammasamaṅgino hutvā viharantīti attho. Sati sammussatīti khādanīyabhojanīyesu sati sammussati. Te kira puññavisesādhigatena mahantena attano sirivibhavena nakkhattaṃ kīḷantā tāya sampattimahantatāya[42] — “āhāraṃ paribhuñjimha, na paribhuñjimhā”tipi na jānanti. atha ekāhārātikkamanato paṭṭhāya nirantaraṃ khādantāpi pivantāpi cavantiyeva, na tiṭṭhanti. kasmā? Kammajatejassa balavatāya, karajakāyassa mandatāya, manussānañhi kammajatejo mando, karajakāyo balavā. Tesaṃ tejassa mandatāya karajakāyassa balavatāya sattāhampi atikkamitvā uṇhodakācchayāguādīhi sakkā vatthuṃ upatthambhetuṃ. Devānaṃ pana tejo balavā hoti, karajaṃ mandaṃ.
45-46. Ở đoạn thứ hai, chúng chư thiên được gọi là ‘bị hư hỏng vì đùa giỡn’ bởi vì bị tiêu hoại, bị hư hỏng vì đùa giỡn, tác giả viết Pāḷī thành Padūsikā cũng có, Pāḷī Padūsikā ấy không có trong Aṭṭhakathā. Quá độ: quá thời gian, có nghĩa là quá lâu. Sống đam mê trong sự cười cợt, đùa giỡn, và đùa nghịch: Đam mê, sống chỉ quan tâm đến sự vui sướng là sự đùa giỡn, và sự vui sướng là sự đùa nghịch, giải thích rằng: sống đắm mình vào sự hạnh phúc được sanh lên từ việc vui chơi, việc đùa giỡn và sự hạnh phúc (sanh lên) từ việc vui chơi bằng thân, bằng lời. Là người có sự thành tựu với sự vui sướng theo cách đã nói. Do việc quên lãng niệm: quên nghĩ đến thọ đụng vật thực loại cứng và vật thực loại mềm. Tương truyền rằng chúng chư thiên ‘bị hư hỏng vì đùa giỡn ấy’ vui chơi lễ hội nakkhatta do sự thành tựu vinh quang to lớn của chính mình nhờ đạt được phước báu đặc biệt do sự thành tựu to lớn ấy mới không biết rằng – “Tôi thọ dụng vật thực, hay chưa thọ dụng vật thực?” Thế rồi khi thời gian cho một bữa ăn đã trôi qua, cả việc nhai ăn lẫn việc uống không bị gián đoạn thì chết ngay tức khắc, không thể vững trú được. Vì sao? Bởi vì do năng lực của Hỏa giới sanh lên từ nghiệp, do sự yếu ớt của sắc thân; bởi vì tất cả người nhân loại có Hỏa giới sanh lên từ nghiệp yếu ớt, có sắc thân rắn chắc và do khi Hỏa giới của người nhân loại ấy yếu ớt, sắc thân rắn chắc kể cả thời gian trôi quan bảy ngày (không thọ dụng vật thực) cũng có thể nuôi dưỡng sắc thân bằng nước ấm và nước cháo v.v. Còn chúng chư Thiên có Hỏa giới có năng lực, sắc thân yếu ớt.
Te ekaṃ āhāravelaṃ atikkamitvāva saṇṭhātuṃ na sakkonti. Yathā nāma gimhānaṃ majjhanhike tattapāsāṇe ṭhapitaṃ padumaṃ vā uppalaṃ vā sāyanhasamaye ghaṭasatenāpi siñciyamānaṃ pākatikaṃ na hoti, vinassatiyeva. Evameva pacchā nirantaraṃ khādantāpi pivantāpi cavantiyeva, na tiṭṭhanti. Tenāha “satiyā sammosā te devā tamhā kāyā cavantī”ti. Katame pana te devāti? Ime devāti[43] aṭṭhakathāyaṃ vicāraṇā natthi, “devānaṃ kammajatejo balavā hoti, karajaṃ mandan”ti avisesena vuttattā pana ye keci kabaḷīkārāhārūpajīvino devā evaṃ karonti, teyeva cavantīti veditabbā. Keci panāhu — “nimmānaratiparanimmitavasavattino te devā”ti. khiḍḍāpadussanamatteneva hete khiḍḍāpadosikāti vuttā. Sesamettha purimanayeneva veditabbaṃ.
Những vị ấy dù chỉ quá thời gian một bữa ăn cũng không thể vững trú được. Giống như hoa sen hoặc hoa súng được một người đặt lên trên một phiến đá nóng vào buổi trưa của mùa nóng, khi màn đêm buông xuống dầu có múc hàng trăm thùng nước để tưới cũng không thể tươi lại được, bị khô héo hoàn toàn thế nào. Tương tự y như thế ấy chúng chư thiên ‘bị hư hỏng vì đùa giỡn’ ấy dù ăn nhai, luôn cả uống, không bị gián đoạn sau đó cũng chết ngay tức khắc, không thể vững trú được. Vì thế đức Thế Tôn đã nói “Do việc quên lãng niệm chúng chư Thiên ấy đã chết từ chỗ đó”. Chúng chư Thiên ấy thuộc nhóm nào? Điều này trong Sớ Giải cũng không dẫn giải ‘họ thuộc vào nhóm nào’. Tuy nhiên do được nói với sự không khác biệt “Chúng chư thiên có Hỏa giới sanh lên từ nghiệp có năng lực, có sắc thân yếu ớt”, bất kỳ một chư Thiên nào nào lệ thuộc vào Đoàn thực để nuôi mạng được thực hiện như vậy thì chư Thiên ấy nên biết rằng ‘chết như thế’. Một số vị thầy lại nói rằng: “Chư Thiên ở cõi Hóa Lạc Thiên và cõi Tha Hóa Tự Tại Thiên là những vị thiên ‘bị hư hỏng vì đùa giỡn’” bởi vì những vị này được gọi là ‘bị hư hỏng vì đùa giỡn’ bởi nguyên nhân hư hỏng chỉ vì việc đùa giỡn. Các từ còn lại ở phần này nên hiểu theo phương cách đầu.
47-48. Tatiyavāre manena padussanti vinassantīti manopadosikā, ete cātumahārājikā. Tesu kira eko devaputto — nakkhattaṃ kīḷissāmīti saparivāro rathena vīthiṃ paṭipajjati, athañño nikkhamanto taṃ purato gacchantaṃ disvā — ‘Bho[44] ayaṃ kapaṇo’, adiṭṭhapubbaṃ viya etaṃ disvā — “Pītiyā uddhumāto viya bhijjamāno viya ca gacchatī”ti kujjhati. Purato gacchantopi nivattitvā taṃ kuddhaṃ disvā — kuddhā nāma suviditā[45] hontīti kuddhabhāvamassa ñatvā — “tvaṃ kuddho, mayhaṃ kiṃ karissasi, ayaṃ sampatti mayā dānasīlādīnaṃ vasena laddhā, na tuyhaṃ vasenā”ti paṭikujjhati. Ekasmiñhi kuddhe itaro akuddho rakkhati, ubhosu pana kuddhesu ekassa kodho itarassa paccayo hoti. Tassapi kodho itarassa paccayo hotīti ubho kandantānaṃyeva orodhānaṃ cavanti. Ayamettha dhammatā. sesaṃ vuttanayeneva veditabbaṃ.
47-48. Ở đoạn thứ ba, các tôn giả chư thiên được gọi là ‘hạng bị hư hỏng bởi tâm ý’ bởi vì bị hoại diệt, bị hư hỏng bởi tâm ý, đây là chư Thiên Tứ Đại Thiên Vương. Tương truyền rằng trong số các vị chư Thiên ấy có một vị Thiên tử nghĩ rằng – ta sẽ vui chơi lễ hội nakkhatta mới du hành bằng thiên xa cùng với các tùy tùng, khi ấy các vị Thiên tử khác trong khi đi ra ngoài đã nhìn thấy vị thiên tử ấy đang đi ở phía trước, (vị ấy) phẫn nộ – ‘Tôn giả Thiên Tử thật đáng thương này’ đã nhìn thấy người lại vờ như chưa từng thấy. – “Bước đi hống hách giống như đang nắm giữ và giống như đang vỡ ra với sự hả lòng hả dạ.” Còn vị Thiên Tử trong khi đi phía trước ngoái lại nhìn thấy vị Thiên Tử ấy (khởi tâm) giận dữ (mình), thật là dễ để nhận biết người đang nóng giận, sau khi biết được vị ấy đang giận mình thì (bản thân) cũng đã tức giận đáp rằng – “Ông bực tức tôi, ông sẽ làm gì được tôi, sự thành tựu này tôi đã đạt được nhờ vào năng lực phước báu như bố thí, trì giới v.v, chớ không phải có được nhờ vào năng lực của ông”. Nếu như khi một vị Thiên Tử giận dữ còn vị kia không giận dữ (có thế) gìn giữ được (mạng sống), nhưng khi cả hai bên cùng giận nhau thì sự giận dữ của bên này lại là điều kiện cho bên kia. Luôn cả sự giận dữ của bên kia cũng là điều kiện cho bên còn lại, (vì thế) mà cả hai bên đều chết mặc cho đám hầu thiếp than khóc. Điều này ở đây là bình thường trong việc giận dữ của chúng chư Thiên. Từ còn lại nên biết theo chính phương cách đã được nói.
49-52. Takkīvāde[46] ayaṃ cakkhādīnaṃ bhedaṃ passati, cittaṃ pana yasmā purimaṃ purimaṃ pacchimassa pacchimassa paccayaṃ datvāva nirujjhati, tasmā cakkhādīnaṃ bhedato balavatarampi cittassa bhedaṃ na passati. So taṃ apassanto yathā nāma sakuṇo ekaṃ rukkhaṃ jahitvā aññasmiṃ[47] nilīyati, evameva imasmiṃ attabhāve bhinne cittaṃ aññatra gacchatīti gahetvā evamāha. Sesamettha vuttanayeneva veditabbaṃ.
49-52. Trong đoạn của nhà biện luận, Sa-môn và Bà-la-môn suy tư này thấy sự tan rã của con mắt v.v, nhưng vì lý do tâm thứ nhất đủ để làm duyên cho tâm sau mới diệt đi như thế, vì thế mới không nhìn thấy sự phá hủy của tâm mặc dù có năng lực hơn sự tan rã của con mắt v.v. Sa-môn và Bà-la-môn suy tư ấy trong khi không nhìn thấy sự phá hủy của tâm ấy mới nắm giữ rằng: Khi thân hình- attabhāva này bị tan rã, tâm này đi đến một bản ngã khác giống như một con chim lìa bỏ cây này bay đến đậu vào một cây khác đã nói như vậy. Từ còn lại ở đoạn này nên hiểu theo phương cách đã nói.
Giải Thích Học Thuyết Hữu Biên – Vô Biên
53. Antānantikāti antānantavādā, antaṃ vā anantaṃ vā antānantaṃ vā nevantānānantaṃ vā ārabbha pavattavādāti attho.
53. Học thuyết hữu biên – vô biên: Học thuyết thế giới hữu biên và vô biên, có nghĩa là học thuyết diễn biến liên quan đến thế giới như sau: Có chỗ tận cùng, hoặc không có chỗ tận cùng, hoặc có chỗ tận cùng và không có chỗ tận cùng, hoặc có chỗ tận cùng cũng không phải mà không có chỗ tận cùng cũng không phải.
54-60. Antasaññī lokasmiṃ viharatīti paṭibhāganimittaṃ cakkavāḷapariyantaṃ avaḍḍhetvā taṃ — “loko”ti gahetvā antasaññī lokasmiṃ viharati, cakkavāḷapariyantaṃ katvā vaḍḍhitakasiṇo[48] pana anantasaññī hoti, uddhamadho avaḍḍhetvā pana tiriyaṃ vaḍḍhetvā uddhamadho antasaññī, tiriyaṃ anantasaññī. Takkīvādo vuttanayeneva veditabbo. Ime cattāropi attanā diṭṭhapubbānusāreneva diṭṭhiyā gahitattā pubbantakappikesu paviṭṭhā.
54-60. Có tư tưởng thế giới là hữu biên, rồi sống (với quan điểm ấy): Sa-môn và Bà-la-môn đã không mở rộng quang tướng – paṭibhāganimitta đến ranh giới vũ trụ – đã nắm giữ ranh giới vũ trụ ấy cho rằng là ‘thế giới’ mới có tư tưởng thế giới là hữu biên, rồi sống (với quan điểm ấy), hơn nữa đã không mở rộng đề mục về phía trên và về phía dưới, chỉ mở rộng bề ngang, nên mới có tư tưởng thế giới là hữu biên về phía trên và về phía dưới, có tư tưởng thế giới là vô biên về bề ngang. Học thuyết của nhà biện luận nên biết với chính phương cách đã nói. Cả bốn luận cứ này được xếp vào ‘lập luận về thời quá khứ’ bởi vì nắm giữ với tà kiến theo đúng cách đã từng nhìn thấy trước đó của bản thân.
Giải Thích Học Thuyết Trườn Uốn Như Con Lươn
61. Na maratīti amarā. Kā sā? Evantipi me notiādinā nayena pariyantarahitā diṭṭhigatikassa diṭṭhi ceva vācā[49] ca. Vividho khepoti vikkhepo, amarāya diṭṭhiyā vācāya ca vikkhepoti amarāvikkhepo, so etesaṃ atthīti amarāvikkhepikā, aparo nayo — amarā nāma ekā macchajāti, sā ummujjananimujjanādivasena udake sandhāvamānā gahetuṃ na sakkāti, evameva ayampi vādo itocito ca sandhāvati, gāhaṃ na upagacchatīti amarāvikkhepoti vuccati. So etesaṃ atthīti amarāvikkhepikā.
61. Bất tử bởi vì không chết. Bất tử ấy là gì? Là quan điểm và lời nói của người có tà kiến xa lìa sự tận cùng theo phương cách được bắt đầu như sau: quan điểm ‘như vậy’ theo tôi là không phải. Lắt léo: có nhiều cách khác nhau do uốn lượn. Trườn uốn như con lươn do quan điểm và lời nói lắt léo không kiên định, họ gọi là có lời nói lắt léo không kiên định bởi vì có quan điểm và lời nói lắt léo không kiên định ấy, nói cách khác – một con lươn được gọi là amarā. Con lươn ấy trong khi bơi lội trong nước bằng cách ngoi lên và lặn xuống v.v, bất cứ ai cũng không thể bắt được, cũng tương tự như thế ngay cả lời nói bỡn cợt chỗ này chỗ nọ không đạt đến biểu hiện (có thể) nắm bắt được (vì thế) được gọi là trườn uốn như con lươn. Sa-môn và Bà-la-môn được gọi là trườn uốn như con lươn bởi vì có quan điểm và lời nói lắt léo giống như con lươn.
62. “Idaṃ kusalan”ti yathābhūtaṃ nappajānātīti dasa kusalakammapathe yathābhūtaṃ nappajānātīti attho. Akusalepi dasa akusalakammapathāva adhippetā. So mamassa vighātoti “musā mayā bhaṇitan”ti vippaṭisāruppattiyā mama vighāto assa, dukkhaṃ bhaveyyāti attho. So mamassa antarāyoti so mama saggassa ceva maggassa ca antarāyo assa. Musāvādabhayā musāvādaparijegucchāti musāvāde ottappena ceva hiriyā ca. Vācāvikkhepaṃ āpajjatīti vācāya vikkhepaṃ āpajjati. Kīdisaṃ? amarāvikkhepaṃ, apariyantavikkhepanti attho.
62. Không biết rõ đúng theo thực thể: ‘Ðây là thiện’ – nghĩa là không biết rõ thập thiện nghiệp đạo đúng theo thực thể. Luôn cả phần bất thiện cũng đề cập đến chính thập bất thiện nghiệp đạo. Lời nói dối ấy đối với ta là sự phiền muộn: Có thể trở thành sự phiền muộn, là sự khổ đau đối với ta do khởi lên sự hối tiếc rằng ‘ta đã nói lời nói dối’. Sự phiền muộn ấy đối với ta là chướng ngại: Sự phiền muộn ấy có thể trở thành chướng ngại con đường lên thiên giới và Đạo của ta. Do sợ hãi việc nói lời nói dối, do ghê tởm việc nói lời nói dối: Do ghê sợ tội lỗi và do sự hổ thẹn trong việc nói lời nói dối. Vị ấy sử dụng lời nói lắt léo không kiên định: Sử dụng lời nói lắt léo không kiên định. Nói lời nói như thế nào? Nói lời nói lắt léo không kiên định (trườn uốn như con lươn), có nghĩa là lắt léo không có kết thúc.
Evantipi me notiādīsu evantipi me noti aniyamitavikkhepo. Tathātipi me noti “sassato attā ca loko cā”ti vuttaṃ sassatavādaṃ paṭikkhipati. Aññathātipi me noti sassatato aññathā[50] vuttaṃ ekaccasassataṃ[51] paṭikkhipati. Notipi me noti — “na hoti tathāgato paraṃ maraṇā”ti vuttaṃ ucchedaṃ paṭikkhipati. No notipi me noti “neva hoti na na hotī”ti vuttaṃ takkīvādaṃ paṭikkhipati. Sayaṃ pana “idaṃ kusalan”ti vā “akusalan”ti vā puṭṭho na kiñci byākaroti. “Idaṃ kusalan”ti puṭṭho “evantipi me no”ti vadati. Tato “kiṃ akusalan”ti vutte “tathātipi me no”ti vadati. “Kiṃ ubhayato aññathā”ti vutte “aññathātipi me no”ti vadati. Tato “tividhenāpi na hoti, kiṃ te laddhī”ti vutte “notipi me no”ti vadati. Tato “kiṃ no noti te laddhī”ti vutte “no notipi me no”ti evaṃ vikkhepameva āpajjati, ekasmimpi pakkhe na tiṭṭhati.
Tuy nhiên, quan điểm ‘như vậy’ theo tôi là không phải v.v, Quan điểm của tôi ‘như vậy’ cũng không phải là lời nói lắt léo không chắc chắn. Quan điểm ‘như thế ấy’ theo tôi cũng không phải: ngài bác bỏ học thuyết thường tồn được nói rằng ‘bản ngã và thế giới là thường tồn’. Quan điểm ‘như thế kia’ theo tôi cũng là không phải: ngài bác bỏ học thuyết thường tồn là phiến diện được nói rằng: ‘theo cách khác từ sự thường tồn’. Quan điểm ‘không phải’ theo tôi cũng là không phải: ngài bác bỏ học thuyết đoạn diệt được nói rằng: ‘Chúng sinh không hiện hữu sau khi chết’. Quan điểm ‘không phải là không phải’ theo tôi cũng là không phải: ngài bác bỏ học thuyết của kẻ ngụy biện được nói rằng: ‘(Chúng sinh) hiện hữu cũng không phải mà không hiện hữu cũng không phải’. Hơn nữa, hạng người có quan điểm lắt léo không kiên định này khi bị hỏi rằng: ‘đây là thiện’ hay ‘bất thiện’ thì không trả lời bất cứ lời gì, hoặc bị hỏi ‘đây là thiện’ thì trả lời “quan điểm của tôi ‘như vậy’ cũng không phải”. – Sau đó, trong khi hỏi ‘điều gì là thiện’ thì trả lời “quan điểm ‘như thế ấy’ theo tôi cũng không phải”. – Trong khi hỏi “theo cách khác từ 2 cách phải chăng?” thì trả lời “quan điểm ‘như thế kia’ theo tôi cũng là không phải”. Sau đó, trong khi hỏi ‘cả ba cũng không phải, thế học thuyết của ngài là gì?’ thì trả lời ‘quan điểm ‘không phải’ theo tôi cũng là không phải’. – Sau đó, trong khi hỏi “học thuyết của ngài nói rằng ‘không phải cũng không phải’ hay sao?” thì sử dụng lời nói lắt léo như vầy “quan điểm ‘không phải là không phải’ theo tôi cũng là không phải”, không được thiết lập dù chỉ một phía.
63. Chando vā rāgo vāti ajānantopi sahasā kusalameva “kusalan”ti vatvā akusalameva “akusalan”ti vatvā mayā asukassa nāma evaṃ byākataṃ, kiṃ taṃ subyākatanti aññe paṇḍite pucchitvā tehi — “subyākataṃ, bhadramukha, kusalameva tayā kusalaṃ, akusalameva akusalanti byākatan”ti vutte natthi mayā sadiso paṇḍitoti evaṃ me tattha chando vā rāgo vā assāti attho. Ettha ca chando dubbalarāgo, rāgo balavarāgo. Doso vā paṭigho vāti kusalaṃ pana “akusalan”ti, akusalaṃ vā “kusalan”ti vatvā aññe paṇḍite pucchitvā tehi — “dubyākataṃ tayā”ti vutte ettakampi nāma na jānāmīti tattha me assa doso vā paṭigho vāti attho. Idhāpi doso dubbalakodho, paṭigho balavakodho.
63. Sự mong muốn hoặc luyến ái: Thậm chí trong khi không xác chứng cũng vội trả lời chính thiện ấy ‘là thiện’, chính bất thiện ‘là bất thiện’ rồi hỏi các vị sáng suốt khác rằng: “Câu trả lời mà tôi trả lời cho người kia như vậy, câu trả lời ấy đã trả lời đúng đắn chưa? Khi những vị sáng suốt ấy đáp rằng: “Tốt lắm thưa ngài, ngài đã trả lời một cách đúng đắn, chính thiện ấy ngài đã trả lời ‘là thiện’, chính bất thiện ấy ngài đã trả lời ‘là bất thiện’” có thể có sự mong muốn hoặc luyến ái ở đây như vầy ‘một bậc sáng suốt như ta không có’.Và ở đây sự mong muốn là ái luyến yếu ớt. Ái luyến là ái luyến mạnh mẽ. Sự sân hận hoặc phẫn nộ: Mặc dù là thiện thì trả lời ‘là bất thiện’, hoặc bất thiện thì lại trả lời ‘là thiện’ rồi hỏi các vị sáng suốt khác, khi các vị sáng suốt trả lời rằng: “Ngài trả lời không đúng đắn” có thể có sự sân hận hoặc phẫn nộ đối với tôi ở đây ‘vấn đề chỉ như vậy mà ta cũng không biết’. Thậm chí ở đây sân hận là sự nóng giận yếu ớt, phẫn nộ là sự nóng giận mạnh mẽ.
Taṃ mamassa upādānaṃ, so mamassa vighātoti taṃ chandarāgadvayaṃ mama upādānaṃ assa, dosapaṭighadvayaṃ vighāto. Ubhayampi vā daḷhaggahaṇavasena upādānaṃ, vihananavasena vighāto. Rāgo hi amuñcitukāmatāya ārammaṇaṃ gaṇhāti jalūkā viya. Doso vināsetukāmatāya āsīviso viya. Ubhopi cete santāpakaṭṭhena vihananti yevāti “upādānan”ti ca “vighāto”ti ca vuttā. sesaṃ paṭhamavārasadisameva.
Điều nào (sự mong muốn, hoặc luyến ái, hoặc sân hận, hoặc phẫn nộ) đối với ta sẽ là sự chấp thủ, điều ấy đối với ta sẽ là sự phiền muộn: Sự mong muốn và sự luyến ái cả hai điều đó có thể trở thành sự chấp thủ của ta, sân hận hoặc phẫn nộ cả hai có thể trở thành sự phiền muốn cho ta. Hoặc cả hai sẽ là sự chấp thủ do mãnh lực của sự nắm giữ, là sự phiền muộn do mãnh lực của sự đụng chạm. Thật vậy, luyến ái nắm bắt đối tượng với mong muốn không buông ra giống như con đỉa. Sân hận nơi đối tượng với mong muốn làm cho tiêu tan giống như nọc độc của loài rắn. Thậm chí cả hai điều này đều gây ra nỗi phiền muộn với ý nghĩa “thiêu đốt”, do đó, ngài mới nói rằng “là sự chấp thủ” và “sự phiền muộn”. Những từ còn lại tương tự phần đầu.
64. Paṇḍitāti paṇḍiccena samannāgatā. Nipuṇāti saṇhasukhumabuddhino saṇhasukhum’ātthantaraṃ[52] paṭivijjhanasamatthā. Kataparappavādāti viññātaparappavādā ceva parehi saddhiṃ katavādaparicayā ca. Vālavedhirūpāti vālavedhidhanuggahasadisā. Te bhindantā maññeti vālavedhi viya vālaṃ sukhumānipi paresaṃ diṭṭhigatāni attano paññāgatena[53] bhindantā viya carantīti attho. Te maṃ tatthāti te samaṇabrāhmaṇā maṃ tesu kusalākusalesu. Samanuyuñjeyyunti “kiṃ kusalaṃ, kiṃ akusalanti attano laddhiṃ vadā”ti laddhiṃ puccheyyuṃ. Samanugāheyyunti “idaṃ nāmā”ti vutte “kena kāraṇena etamatthaṃ gāheyyun”ti[54] kāraṇaṃ puccheyyuṃ. Samanubhāseyyunti “iminā nāma kāraṇenā”ti vutte kāraṇe dosaṃ dassetvā “na tvaṃ idaṃ jānāsi, idaṃ pana gaṇha, idaṃ vissajjehī”ti evaṃ samanuyuñjeyyuṃ. Na sampāyeyyanti na sampādeyyaṃ, sampādetvā kathetuṃ na sakkuṇeyyanti attho. So mamassa vighātoti yaṃ taṃ punappunaṃ vatvāpi asampāyanaṃ nāma, so mama vighāto assa, oṭṭhatālujivhāgalasosanadukkhameva assāti attho. sesametthāpi paṭhamavārasadisameva.
64. Những vị sáng suốt: vị thành tựu bởi tính chất thông minh. Có tuệ tinh tế: vị phát triển bởi tuệ tinh tế và tỉ mỉ có khả năng thấu hiểu tất cả những ý nghĩa đặc biệt tinh tế và tỉ mỉ. Thông thạo việc đối đáp các luận thuyết: Hiểu rõ việc đối đáp các luận thuyết và quen thuộc với việc đối đáp các luận thuyết của những người khác. Như một cung thủ: Như một cung thủ có thể bắn trúng cọng tóc. Nghĩ rằng đi du hành để phá tan các tà kiến: Những Sa-môn và Bà-la-môn ấy du hành như thể sẽ bẻ đôi các tà kiến của người khác dù vi tế bằng năng lực trí tuệ của bản thân tựa như một cung thủ có thể bắn trúng cọng tóc. Họ có thể truy hỏi: Những Sa-môn và Bà-la-môn có thể truy hỏi, xét hỏi ta ở trường hợp này là thiện và bất thiện đó. Có thể truy hỏi: Có thể hỏi đến học thuyết ấy rằng – ‘ngài có thể nói về học thuyết của mình ‘điều gì là thiện? và điều gì là bất thiện?’”. Có thể tra hỏi: Trong khi đáp “vấn đề này là thiện, vấn đề này là bất thiện” cũng có thế hỏi đến nguyên nhân “ngài cho nắm giữ ý nghĩa này với lý do gì?” Có thể xét hỏi: Trong khi đáp “với lý do tên tên này” sau khi chỉ ra lỗi lầm trong lý do ấy, có thể truy hỏi như vầy “ngài vẫn chưa biết được lý do này, ngài hãy giữ lấy điều này, hãy từ bỏ điều này.” Ta không thể trả lời cho họ: Ta cũng không thể cho họ câu trả lời, không thể giải thích cho họ. Điều ấy (không thể trả lời cho họ) đối với ta sẽ là sự phiền muộn: Được xem là dầu đã nói lập đi lập lại cũng không thể giải thích cho họ điều đó, thì điều ấy có thể là sự phiền muộn cho ta, tức là đau khổ bởi vì làm cho môi, vòm miệng, lưỡi và cổ họng khô cạn ngay lập tức. Từ còn lại ở phần thứ ba này tương tự với đoạn thứ nhất.
65-66. Mandoti mandapañño apaññassevetaṃ nāmaṃ. Momūhoti atisammūḷho. hoti tathāgatotiādīsu satto “tathāgato”ti adhippeto. Sesamettha uttānameva. Imepi cattāro pubbe pavattadhammānusāreneva diṭṭhiyā gahitattā pubbantakappikesu paviṭṭhā.
65-66. Người đần độn: có trí chậm chạp, đây chính là tên gọi của người không có trí. Người mê muội: vô cùng si mê. Chúng sanh ngài có ý muốn đề cập đến ‘tathāgato’ trong cụm từ ‘hoti tathāgato (chúng sinh hiện hữu v.v.)’. Từ còn lại trong đoạn thứ 4 đều đơn giản. Cả bốn cách trườn uốn như con lươn này được xếp vào ‘lập luận về thời quá khứ’ bởi vì những Sa-môn và Bà-la-môn ấy nắm giữ quan điểm y theo cách pháp vận hành trong thời quá khứ.
Giải Thích Học Thuyết Vô Nhân Sanh
67. “Adhiccasamuppanno attā ca loko cā”ti dassanaṃ adhiccasamuppannaṃ. Taṃ etesaṃ atthīti adhiccasamuppannikā. Adhiccasamuppannanti akāraṇasamuppannaṃ.
67. Quan điểm cho rằng “bản ngã và thế giới được sanh lên một cách ngẫu nhiên” gọi là học thuyết vô nhân sanh. Sa-môn và Bà-la-môn theo học thuyết vô nhân sanh bởi vì có quan điểm rằng “bản ngã và thế giới được sanh lên một cách ngẫu nhiên”. Sanh lên một cách ngẫu nhiên nghĩa là sanh lên do không có nhân.
68-73. Asaññasattāti desanāsīsametaṃ, acittuppādā rūpamattaka attabhāvāti[55] attho. Tesaṃ evaṃ uppatti veditabbā — Ekacco hi titthāyatane pabbajitvā vāyokasiṇe parikammaṃ katvā catutthajjhānaṃ nibbattetvā jhānā vuṭṭhāya — “Citte dosaṃ passati, Citte sati hatthacchedādidukkhañceva sabbabhayāni ca honti, alaṃ iminā cittena, acittakabhāvova santo”ti, evaṃ citte dosaṃ passitvā aparihīnajjhāno kālaṃ katvā asaññasattesu nibbattati, cittamassa cuticittanirodhena idheva nivattati, rūpakkhandhamattameva tattha pātubhavati. Te tattha yathā nāma jiyāvegakkhitto saro yattako jiyāvego, tattakameva ākāse gacchati. evameva jhānavegakkhittā upapajjitvā yattako jhānavego, tattakameva kālaṃ tiṭṭhanti, jhānavege pana parihīne tattha rūpakkhandho antaradhāyati, idha pana paṭisandhisaññā uppajjati. yasmā pana tāya idha uppannasaññāya tesaṃ tattha cuti paññāyati, tasmā “saññuppādā ca pana te devā tamhā kāyā cavantī”ti vuttaṃ. santatāyāti santabhāvāya. sesamettha uttānameva. takkīvādopi vuttanayeneva veditabboti.
68-73. Chúng sanh vô tưởng đây là tiêu đề pháp thoại, có nghĩa là – có thân hình [attabhāva] chỉ là sắc do không có tâm sanh khởi. Nên biết sự sanh khởi của nhóm chúng sanh vô tưởng ấy như vầy – Bởi vì có một số chúng sanh sau khi xuất gia trong học thuyết của các ngoại đạo sư đã thực hành chuẩn bị tướng (đề mục thiền định) trong biến xứ gió làm cho Tứ thiền khởi sanh, sau khi xuất khỏi Tứ thiền đã nhìn thấy lỗi lầm trong tâm rằng – “Khi có tâm sẽ có khổ do cắt đứt tay v.v, và có tất cả sự sợ hãi đều ngang bằng do tâm này, bản thể không có tâm thật sự tịch tịnh”, khi nhìn thấy lỗi lầm ở trong tâm như vậy, là vị có thiền không bị hoại, sau khi thân hoại mạng chung đã hóa sanh vào nhóm chúng sanh vô tưởng, tâm của hạng người ấy sẽ trở lại thế giới này do sự diệt của tâm tử, trong nhóm chúng sanh vô tưởng ấy chỉ hiển lộ Sắc uẩn mà thôi.
Te tattha yathā nāma jiyāvegakkhitto saro yattako jiyāvego, tattakameva ākāse gacchati. evameva jhānavegakkhittā upapajjitvā yattako jhānavego, tattakameva kālaṃ tiṭṭhanti, jhānavege pana parihīne tattha rūpakkhandho antaradhāyati, Idha pana paṭisandhisaññā uppajjati. Yasmā pana tāya idha uppannasaññāya tesaṃ tattha cuti paññāyati, tasmā “saññuppādā ca pana te devā tamhā kāyā cavantī”ti vuttaṃ. Santatāyāti santabhāvāya. sesamettha uttānameva. takkīvādopi vuttanayeneva veditabboti.
Thông thường, giống như một mũi tên được bắn lên bởi sức mạnh của cây cung sẽ bay lên không trung bằng sức mạnh của chính dây cung ấy như thế nào, thì tương tự y như thế ấy những chúng sanh vô tưởng ấy trong cõi Vô Tưởng đó bị cuốn đi bởi năng lực của thiền-jhāna đã sanh khởi cũng sẽ tồn tại suốt khoảng thời gian khi sức mạnh của thiền còn tồn tại. Nhưng khi năng lực của thiền bị suy giảm thì Sắc uẩn ở cõi chúng sanh vô tưởng sẽ gặp chướng ngại, sự tục sanh của tưởng ắt sanh lên ở cõi này đây. Điều này làm nhân hiển lộ sự chết của những chúng sanh vô tưởng ấy ở cõi Vô Tưởng đó, vì thế ngài mới nói rằng: “Và hơn nữa những vị Thiên ấy đã lìa khỏi tập thể ấy, do sự sanh khởi của tưởng”. Trạng thái an tịnh: vì sự an tịnh. Từ còn lại trong đoạn này đều đơn giản. Luôn cả luận thuyết của nhà ngụy biện cũng nên biết theo chính phương thức đã nói.
Giải Thích Lập Luận Về Thời Vị Lai
74. Evaṃ aṭṭhārasa pubbantakappike dassetvā idāni catucattārīsaṃ aparantakappike dassetuṃ — “santi, bhikkhave”tiādimāha. tattha anāgatakoṭṭhāsasaṅkhātaṃ aparantaṃ kappetvā gaṇhantīti aparantakappikā, aparantakappo vā etesaṃ atthīti aparantakappikā. evaṃ sesampi pubbe vuttappakāranayeneva veditabbaṃ.
74. Sau khi đức Thế Tôn thuyết giảng mười tám luận cứ lập luận về thời quá khứ như vậy, bây giờ ngài thuyết giảng bốn mươi bốn luận cứ lập luận về thời vị lai mới nói rằng: – “Này các tỳ khưu, có một số Sa-môn và Bà-la-môn v.v.” Ở đó, Sa-môn và Bà-la-môn được gọi là lập luận về thời vị lai bởi vì xác định thời vị lai đã nói rằng: uẩn thuộc phần vị lai rồi nắm giữ, hoặc được gọi là lập luận về thời vị lai bởi vì có việc xác định uẩn thuộc phần vị lai. Luôn cả những từ còn lại cũng nên hiểu theo phương cách đã được nói ở phần đầu.
Giải Thích Học Thuyết Hữu Tưởng
75. Uddhamāghātanikāti āghātanaṃ vuccati maraṇaṃ, uddhamāghātanā attānaṃ vadantīti uddhamāghātanikā. Saññīti pavatto vādo, saññīvādo, so etesaṃ atthīti saññīvādā.
75. Sau khi chết: Sự chết được gọi là āghata. Có một số Sa-môn và Bà-la-môn chủ trương học thuyết hữu tưởng sau khi chết do tuyên bố tự ngã bản ngã (có tưởng) sau khi chết. Học thuyết được diễn biến rằng ‘có tưởng’ (gọi là) học thuyết hữu tưởng, học thuyết hữu tưởng ấy tồn tại đối với một số Sa-môn và Bà-la-môn ấy (cho nên) mới gọi là học thuyết hữu tưởng.
76-77. Rūpī attātiādīsu kasiṇarūpaṃ “attā”ti tattha pavattasaññañcassa “saññā”ti gahetvā vā ājīvakādayo viya takkamatteneva vā “rūpī attā hoti, arogo paraṃ maraṇā saññī”ti naṃ paññapenti. Tattha arogoti nicco. Arūpasamāpattinimittaṃ pana “attā”ti samāpattisaññañcassa “saññā”ti gahetvā vā nigaṇṭhādayo viya takkamatteneva vā “arūpī attā hoti, arogo paraṃ maraṇā saññī”ti naṃ paññapenti. Tatiyā pana missakagāhavasena pavattā diṭṭhi. Catutthā takkagāheneva. Dutiyacatukkaṃ antānantikavāde vuttanayeneva veditabbaṃ. Tatiyacatukke samāpannakavasena ekattasaññī, asamāpannakavasena nānattasaññī, parittakasiṇavasena parittasaññī, vipulakasiṇavasena appamāṇasaññīti veditabbā. Catutthacatukke pana dibbena cakkhunā tikacatukkajjhānabhūmiyaṃ nibbattamānaṃ disvā “ekantasukhī”ti gaṇhāti. Niraye nibbattamānaṃ disvā “ekantadukkhī”ti. Manussesu nibbattamānaṃ disvā “sukhadukkhī”ti. Vehapphaladevesu nibbattamānaṃ disvā “adukkhamasukhī”ti gaṇhāti. Visesato hi pubbenivāsānussatiñāṇalābhino pubbantakappikā honti, dibbacakkhukā aparantakappikāti.
76-77. Bản ngã có sắc v.v, họ tuyên bố (bản ngã) ấy như vầy: “Bản ngã có sắc, không thay đổi, có tưởng sau khi chết” do đã nắm giữ biến xứ sắc cho rằng là “bản ngã” và đã nắm giữ “tưởng” vận hạnh trong biến xứ sắc ấy cho rằng là ‘tưởng của bản ngã ấy’ hoặc ‘chỉ là sự suy tư mà thôi’, giống như những tu sĩ ngoài Phật Giáo như Ājīvaka v.v. Ở đây, ‘không thay đổi’ nghĩa là thường còn. Hơn nữa, họ tuyên bố (bản ngã) ấy như vầy: “Bản ngã không có sắc, không thay đổi, có tưởng sau khi chết” do đã nắm giữ hiện tướng của sự chứng đạt Vô sắc cho rằng là “bản ngã” và đã nắm giữ tưởng của sự chứng đạt cho rằng là “tưởng của bản ngã ấy” hoặc “chỉ là sự suy tư mà thôi”, giống như những tu sĩ ngoài Phật Giáo như Nigaṇṭha v.v. Còn về câu thứ ba thuộc tà kiến vận hành do mãnh lực sự nắm giữ kết hợp với nhau (bản ngã vừa có sắc vừa không có sắc). Câu thứ tư thuộc tà kiến vận hành do mãnh lực sự nắm giữ bằng cách suy tư mà thôi. Nhóm bốn thứ hai nên biết theo phương cách đã được nói ở phần học thuyết hữu biên và vô biên. Nhóm bốn thứ ba nên biết rằng ‘bản ngã là có tưởng tương đồng’ do mãnh lực của vị đạt được sự chứng đạt, ‘bản ngã là có tưởng khác biệt’ do tác động người không chứng đạt, ‘bản ngã là có tưởng hy thiểu’ do mãnh lực của biến xứ hy thiểu, ‘bản ngã là có tưởng vô lượng’ do mãnh lực của biến xứ quảng đại. Hơn nữa, nhóm bốn thứ tư giải thích rằng: hạng người có thiên nhãn sau khi nhìn thấy chúng sanh sanh lên ở cõi Tam thiền và Tứ thiền (vị ấy) nắm giữ rằng: ‘Bản ngã là có thuần lạc’. Sau khi nhìn thấy chúng sanh rơi vào địa ngục (vị ấy) nắm giữ rằng: ‘Bản ngã là có thuần khổ’. Sau khi nhìn thấy chúng sanh sanh vào thế giới loài người (vị ấy) nắm giữ rằng: ‘Bản ngã là có lạc và khổ’. Sau khi nhìn thấy chúng sanh sanh làm chư Thiên cõi Quảng-Quả-Thiên (vị ấy) nắm giữ rằng: ‘Bản ngã có khổ cũng không phải, có lạc cũng không phải (bất khổ, bất lạc)’. Thật vậy, vô cùng đặc biệt nhóm đắc được trí nhớ về các kiếp sống trước thuộc nhóm lập luận về thời quá khứ, nhóm đắc được thiên nhãn thuộc nhóm lập luận về thời vị lai.
Giải Thích Học Thuyết Vô Tưởng
78-83. Asaññīvādo saññīvāde ādimhi vuttānaṃ dvinnaṃ catukkānaṃ vasena veditabbo. Tathā nevasaññīnāsaññīvādo. Kevalañhi tattha “saññī attā”ti gaṇhantānaṃ tā diṭṭhiyo, idha “asaññī”ti ca “nevasaññīnāsaññī”ti ca. Tattha na ekantena kāraṇaṃ pariyesitabbaṃ. Diṭṭhigatikassa hi gāho ummattakapacchisadisoti vuttametaṃ.
78-83. Học thuyết vô tưởng – bậc sáng suốt nên biết do tác động của nhóm bốn – cả hai đã được nói ở phần trước trong học thuyết hữu tưởng. Học thuyết Phi Tưởng Phi Phi Tưởng cũng tương tự. Thật vậy, cũng chỉ trong học thuyết hữu tưởng ấy những quan điểm đó của nhóm nắm giữ cho rằng “bản ngã có tưởng”, ở đây ‘học thuyết vô tưởng’ và ‘học thuyết Phi Tưởng Phi Phi Tưởng’ ấy có tà kiến đó nhóm nắm giữ cho rằng “bản ngã không có tưởng” và “bản ngã có tưởng cũng không phải, không có tưởng cũng không phải”. Trong các tà kiến ấy nên được tìm hiểu lý do không chỉ thiên về một mặt. Điều đó tôi đã nói rồi sự nắm giữ của người có tà kiến cũng giống như cái giỏ của người điên.
Giải Thích Học Thuyết Đoạn Diệt
84. Ucchedavāde satoti vijjamānassa. Ucchedanti upacchedaṃ. Vināsanti adassanaṃ. Vibhavanti bhāvavigamaṃ. Sabbānetāni aññamaññavevacanāneva. Tattha dve janā ucchedadiṭṭhiṃ gaṇhanti, lābhī ca alābhī ca. Lābhī arahato[56] dibbena cakkhunā cutiṃ disvā upapattiṃ apassanto, yo vā cutimattameva daṭṭhuṃ sakkoti, na upapātaṃ[57]; so ucchedadiṭṭhiṃ gaṇhāti. Alābhī ca “ko paralokaṃ na jānātī”ti kāmasukhagiddhatāya vā, “yathā rukkhato paṇṇāni patitāni na puna viruhanti, evameva sattā”tiādinā takkena vā ucchedaṃ gaṇhāti. Idha pana taṇhādiṭṭhīnaṃ vasena tathā ca aññathā ca vikappetvāva imā satta diṭṭhiyo uppannāti veditabbā.
84. Ở học thuyết đoạn diệt, đang hiện hữu: đang tồn tại. Sự đoạn diệt: sự đoạn tận. Sự tiêu hoại: không nhìn thấy. Sự biến mất: Đi khỏi các hữu. Tất cả những từ này đều là những từ đồng nghĩa với nhau. Học thuyết đoạn diệt ấy có người nắm giữ cả hai đoạn kiến là người đạt được (trí nhớ về các kiếp sống quá khứ) và người không đắc được (trí nhớ về các kiếp sống quá khứ). Vị đạt được (trí nhớ về các kiếp sống quá khứ) trong khi nhớ đến (các kiếp sống quá khứ) bằng thiên nhãn đã thấy được sự chết nhưng không nhìn thấy sự sanh, hoặc người nào chỉ có thể nhìn thấy sự chết mà không thể nhìn thấy sự sanh; người ấy gọi là nắm giữ đoạn kiến. Và người không đạt được (trí nhớ về các kiếp sống quá khứ) nghĩ rằng: “Không ai có thể biết được thế giới khác” rồi nắm giữ sự đoạn diệt bởi thèm muốn sự an lạc, hoặc do tự mình suy nghĩ v.v, rằng: “tất cả chúng sanh giống như lá cây rơi xuống từ thân cây không thể mọc lại được”. Hơn nữa, trong trường hợp này nên biết rằng ‘có bảy loại kiến’ thế này sanh khởi do mãnh lực của tham ái và tà kiến hoặc do sự xác định cách này và cách khác.
85. Tattha rūpīti rūpavā. Cātumahābhūtikoti catumahābhūtamayo. Mātāpitūnaṃ etanti mātāpettikaṃ. kiṃ taṃ? sukkasoṇitaṃ. Mātāpettike sambhūto jātoti mātāpettikasambhavo. Iti rūpakāyasīsena manussattabhāvaṃ “attā”ti vadati. Ittheketi itthaṃ eke evameketi attho.
85. Ở đây, có sắc: người có sắc. Được hợp thành bởi bốn đại (đất, nước, lửa, gió): hợp thành bởi bốn sắc đại hiển. Có mẹ cha: điều đó là do có mẹ và cha. Điều đó bao gồm những gì? Bao gồm tinh dịch (của người cha) và noãn châu (của người mẹ). Có sự hình thành từ mẹ và cha: do sự sanh ra là sinh ra trong tinh dịch và noãn châu của mẹ và cha. Như thế, một số Sa-môn hoặc Bà-la-môn có học thuyết đoạn kiến nói rằng: thân hình của con người là “bản ngã” bằng cách đưa sắc thân lên làm trưởng. Ittheke (theo cách này) tách thành ‘itthaṃ eke’ đồng nghĩa với ‘evameke’.
86. Dutiyo taṃ paṭikkhipitvā dibbattabhāvaṃ vadati. Dibboti devaloke sambhūto. Kāmāvacaroti cha kāmāvacaradevapariyāpanno. Kabaḷīkāraṃ[58] āhāraṃ bhakkhatīti kabaḷīkārāhārabhakkho.
86. Sa-môn hoặc Bà-la-môn nhóm thứ hai bác bỏ điều đó nói ‘attabhāva-thân hình’ thuộc cõi trời. Cõi trời: sanh khởi ở cõi trời. Dục giới: liên quan đến chư thiên sáu cõi trời Dục giới. Có vật thực là vật thực loại cứng và loại mềm: nhờ thọ dụng vật thực là vật thực loại cứng loại mềm.
87. Manomayoti jhānamanena nibbatto. Sabbaṅgapaccaṅgīti sabbaṅgapaccaṅgayutto. Ahīnindriyoti paripuṇṇindriyo. Yāni brahmaloke atthi, tesaṃ vasena itaresañca saṇṭhānavasenetaṃ vuttaṃ.
87. Được hình thành bởi ý: Khởi sanh do tâm thiền. Có tất cả các chi phần lớn nhỏ: gắn liền với tất cả các bộ phận lớn nhỏ. Có các quyền không bị khiếm khuyết: Có giác quan tròn đầy. Lời này được ngài nói do tác động của các giác quan có Phạm Thiên giới, và do tác động hình dáng của các giác quan ngoài các giác quan này.
88-92. Sabbaso rūpasaññānaṃ samatikkamātiādīnaṃ attho visuddhimagge vutto. Ākāsānañcāyatanūpagotiādīsu pana ākāsānañcāyatanabhavaṃ upagatoti, evamattho veditabbo. Sesamettha uttānamevāti.
88-92. Do sự vượt qua hẳn toàn bộ các tưởng về sắc: v.v, tôi đã nói trong bộ Thanh Tịnh Đạo. Hơn nữa, có sự tiến đến Không Vô Biên Xứ: nên hiểu ý nghĩa như vầy – đạt đến cõi Không Vô Biên Xứ. Từ còn lại trong học thuyết đoạn kiến này đều đơn giản.
Giải Thích Học Thuyết Hiện Tại Nibbāna
93. Diṭṭhadhammanibbānavāde diṭṭhadhammoti paccakkhadhammo vuccati, tattha tattha paṭiladdhattabhāvassetaṃ adhivacanaṃ. Diṭṭhadhamme nibbānaṃ diṭṭhadhammanibbānaṃ, imasmiṃyeva attabhāve dukkhavūpasamananti[59] attho. Taṃ vadantīti diṭṭhadhammanibbānavādā. Paramadiṭṭhadhammanibbānanti paramaṃ diṭṭhadhammanibbānaṃ uttamanti attho.
93. Trong học thuyết hiện tại Nibbāna, có bản chất rõ ràng được gọi là hiện tại (pháp có thể thấy được). Lời này là tên gọi của cả nhân đạt được ở hữu-bhava đó. Nibbāna ở hiện tại được gọi là hiện tại Nibbāna, có nghĩa là đau khổ đã được vắng lắng trong chính cá nhân này. Sa-môn và Bà-la-môn chủ trường học thuyết hiện tại Nibbāna do nói về hiện tại Nibbāna đó. Hiện tại Nibbāna tối thượng: Hiện tại Nibbāna là pháp tối thượng, có nghĩa là vô thượng.
94. Pañcahi kāmaguṇehīti manāpiyarūpādīhi pañcahi kāmakoṭṭhāsehi bandhanehi vā. Samappitoti suṭṭhu appito allīno hutvā. Samaṅgībhūtoti samannāgato. Paricāretīti tesu kāmaguṇesu yathāsukhaṃ indriyāni cāreti sañcāreti itocito ca upaneti. Atha vā laḷati[60] ramati kīḷati. Ettha ca duvidhā kāmaguṇā — mānusakā ceva dibbā ca. mānusakā[61] mandhātukāmaguṇasadisā daṭṭhabbā, dibbā paranimmitavasavattidevarājassa kāmaguṇasadisāti. Evarūpe kāme upagatānañhi te diṭṭhadhammanibbānasampattiṃ paññapenti.
94. Với năm loại dục: với năm phần của dục hoặc với năm sự trói buộc có sắc đáng yêu đáng mến v.v. Được đầy đủ: bám vào, khéo buộc chặt. Được thỏa mãn: được gắn liền. Tận hưởng: khiến các giác quán đi, khiến di tản, đưa đến chỗ này chỗ nọ một cách thoải mái trong các dục ấy. Hoặc hài lòng, thỏa mãn vui chơi. Và ở đây các dục có hai loại – các dục thuộc loài người và các dục ở Thiên giới. Các dục thuộc loài người có thể thấy như với các dục của vua Mandhātu. Còn các dục ở Thiên giới có thể thấy như với các dục của vua cõi trời Tha Hoá Tự Tại. Thật vậy, những Sa-môn và Bà-la-môn ấy tuyên bố sự chứng đạt hiện tại Nibbāna của nhóm người tiến đến gần các dục trong hình thức như thế.
95. Dutiyavāre hutvā abhāvaṭṭhena aniccā paṭipīḷanaṭṭhena dukkhā, pakatijahanaṭṭhena vipariṇāmadhammāti veditabbā. Tesaṃ vipariṇāmaññathābhāvāti tesaṃ kāmānaṃ vipariṇāmasaṅkhātā aññathābhāvā, yampi me ahosi, tampi me natthīti vuttanayena uppajjanti sokaparidevadukkhadomanassupāyāsā. Tattha antonijjhāyanalakkhaṇo soko, tannissitalālappanalakkhaṇo paridevo, kāyappaṭipīḷanalakkhaṇaṃ dukkhaṃ, manovighātalakkhaṇaṃ domanassaṃ, visādalakkhaṇo upāyāso, vivicceva kāmehītiādīnamattho visuddhimagge vutto.
95. Trong phần hai, các dục nên biết là ‘vô thường’ với ý nghĩa có rồi lại không, gọi là ‘khổ’ với ý nghĩa áp bức. Gọi là ‘có tính chất biến hoại’ với ý nghĩa dứt bỏ bình thường. Do trạng thái biến hoại và đổi khác của chúng: do các dục ấy có trạng thái đổi khác được xem là biến hoại, sầu-bi-khổ-ưu-não sanh lên theo phương cách đã nói rằng: ‘Thậm chí những điều nào đã có nơi ta, luôn cả những điều đó không có nơi ta’. Trong năm loại đó sầu có trạng thái thiêu đốt ở bên trong, bi lụy có trạng thái than khóc do y cứ sự buồn rầu đó. Sự khổ đau có trạng thái áp bức thân thể. Ưu có trạng thái khổ tâm, sự não nùng có trạng thái làm cho tâm buồn bực. Ngay sau khi tách ly khỏi các dục v.v, tôi đã nói rồi trong Thanh Tịnh Đạo.
96. Vitakkitanti abhiniropanavasena pavatto vitakko. Vicāritanti anumajjanavasena pavatto vicāro. Etenetanti etena vitakkitena ca vicāritena ca etaṃ paṭhamajjhānaṃ oḷārikaṃ sakaṇḍakaṃ viya khāyati.
96. Có tầm: tầm được vận hành do mãnh lực đưa tâm vào trong đối tượng. Có tứ: Tứ được vận hành do mãnh lực vuốt ve đối tượng. Trú thiền thứ nhất, có tầm, có tứ: Sơ thiền này được xem là thô tháo giống như có gai bởi có tầm và có tứ.
97-98. Pītigatanti pītiyeva. Cetaso uppilāvitattanti[62] cittassa uppilabhāvakaraṇaṃ. Cetaso ābhogoti jhānā vuṭṭhāya tasmiṃ sukhe punappunaṃ cittassa ābhogo manasikāro samannāhāroti. Sesamettha diṭṭhadhammanibbānavāde uttānameva.
Có hỷ: chính là hỷ. Làm nhân khiến tâm phấn khởi: Nguyên nhân phấn khích của tâm. Có sự liên tưởng của tâm rằng: ‘Có lạc’ – sau khi xuất khỏi thiền, có sự liên tưởng, có sự thu nhiếp, có sự tác ý của tâm thường xuyên trong sự an lạc đó. Những từ còn lại trong học thuyết hiện tại Nibbāna này đều đơn giản.
Ettāvatā sabbāpi dvāsaṭṭhidiṭṭhiyo kathitā honti, yāsaṃ satteva ucchedadiṭṭhiyo, sesā sassatadiṭṭhiyo.
Chỉ chừng ấy lời ngài đã thuyết đến sáu mươi hai luận cứ, toàn bộ được chia thành – thường kiến chỉ có bảy luận cứ, còn lại là thường kiến.
100-104. Idāni — “imehi kho te, bhikkhave”ti iminā vārena sabbepi te aparantakappike[63] ekajjhaṃ niyyātetvā sabbaññutaññāṇaṃ vissajjeti. Puna — “imehi, kho te bhikkhave”tiādinā vārena sabbepi te pubbantāparantakappike[64] ekajjhaṃ niyyātetvā tadeva ñāṇaṃ vissajjeti. Iti “katame ca te, bhikkhave, dhammā”tiādimhi pucchamānopi sabbaññutaññāṇameva pucchitvā vissajjamānopi sattānaṃ ajjhāsayaṃ tulāya tulayanto viya sinerupādato vālukaṃ uddharanto viya dvāsaṭṭhi diṭṭhigatāni uddharitvā sabbaññutaññāṇameva vissajjeti. Evamayaṃ yathānusandhivasena desanā āgatā.
100-104. Bây giờ – đức Thế Tôn đã tập hợp toàn bộ những ‘lập luận về thời quá khứ’ chung với nhau vào đoạn sau: “Này các tỳ khưu, chính những pháp này” rồi giải đáp bằng trí toàn tri. Hơn nữa, ngài đã tập hợp toàn bộ những ‘lập luận về thời vị lai’ và ‘lập luận về thời quá khứ và thời vị lai’ ấy chung với nhau vào đoạn sau : “Này các tỳ khưu, chính những pháp này” rồi giải đáp bằng trí ây (trí toàn tri). Luôn cả trong khi thuyết hỏi “này chư tỳ khưu, những pháp ấy như thế nào? v.v,” cũng đã thuyết hỏi bằng chính trí toàn tri, ngay cả khi giải đáp cũng nêu lên sáu mươi luận cứ rồi giải đáp bằng chính trí toàn tri giống như đo lường khuynh hướng của tất cả chúng sanh bằng cái cân, giống như đem cát từ chân núi Suneru bằng cách như thế. Pháp thoại này đã đến do tác động theo tuần tự vấn đề.
Tayo hi suttassa anusandhī — pucchānusandhi, ajjhāsayānusandhi, yathānusandhīti. Tattha “evaṃ vutte aññataro bhikkhu bhagavantaṃ etadavoca — kiṃ nu kho, bhante, orimaṃ tīraṃ, kiṃ pārimaṃ tīraṃ, ko majjhe saṃsīdo, ko thale ussādo[65], ko manussaggāho, ko amanussaggāho, ko āvaṭṭaggāho, ko antopūtibhāvo”ti[66] evaṃ pucchantānaṃ bhagavatā vissajjitasuttavasena pucchānusandhi veditabbo.
Thật vậy, bài Kinh có ba sự liên kết là – (1) Sự liên kết được thuyết dựa vào câu hỏi; (2) sự liên kết được thuyết dựa theo khuynh hướng của chúng sanh; (3) sự liên kết được thuyết thuận theo tuần tự vấn đề. Trong ba sự liên kết ấy, nên biết sự liên kết được thuyết dựa vào câu hỏi do tác động bài Kinh được đức Thế Tôn trả lời cho những người hỏi như vầy: “Khi được nói vậy, một tỳ khưu bạch Thế Tôn như vầy – Thưa Tôn giả Gotama, thế nào là bờ bên này? Thế nào là bờ bên kia? Chìm ở giữa là gì? Bị ném lên bờ là gì? Bị túm lấy bởi loài người, bị phi nhân túm lấy là gì? Và bị nước cuốn trôi là gì? Sự mục nát bên trong là gì?”
Atha kho aññatarassa bhikkhuno evaṃ cetaso parivitakko udapādi — “iti kira bho rūpaṃ anattā…, vedanā…, saññā…, saṅkhārā …, viññāṇaṃ anattā, anattakatāni kira kammāni kamattānaṃ phusissantī”ti. Atha kho bhagavā tassa bhikkhuno cetasā ceto parivitakkamaññāya bhikkhū āmantesi — “ṭhānaṃ kho panetaṃ, bhikkhave, vijjati, yaṃ idhekacco moghapuriso avidvā avijjāgato taṇhādhipateyyena cetasā satthusāsanaṃ atidhāvitabbaṃ maññeyya — “iti kira bho rūpaṃ anattā … pe … phusissantī”ti. Taṃ kiṃ maññatha, bhikkhave, rūpaṃ niccaṃ vā aniccaṃ vā”ti[67]. Evaṃ paresaṃ ajjhāsayaṃ viditvā bhagavatā vuttasuttavasena ajjhāsayānusandhi veditabbo.
Khi ấy có một vị tỳ khưu nọ đã khởi lên tư tưởng suy tầm trong tâm như vầy: – “Nếu được nói rằng, chư Tôn giả, sắc là vô ngã, thọ là vô ngã, tưởng là vô ngã, hành là vô ngã, thức là vô ngã; như vậy những hành động do vô ngã làm đã được ngã nào cảm thọ kết quả?’ Lúc ấy, đức Thế Tôn biết được tư tưởng suy tầm của tỳ khưu ấy với tư tưởng suy tầm của mình, liền nói với các tỳ khưu – “Này các tỳ khưu, sự kiện này xảy ra, có một số kẻ trống rỗng trong Pháp và Luật này, vô tri, vô minh, với tâm bị tham dục chi phối, lại nghĩ cần phải vượt qua lời dạy của bậc Ðạo sư với câu hỏi – ‘Nếu được nói rằng, chư Tôn giả, sắc là vô ngã, thọ là vô ngã, tưởng là vô ngã, hành là vô ngã, thức là vô ngã; như vậy những hành động do vô ngã làm đã được ngã nào cảm thọ kết quả? Các con nghĩ thế nào, này các tỳ khưu, sắc là thường hay vô thường?’” Nên biết ‘sự liên kết được thuyết thuận theo khuynh hướng của chúng sanh’ do tác động bài Kinh được đức Thế Tôn biết được khuynh hướng của những chúng sanh khác rồi thuyết giảng như vậy.
Yena pana dhammena ādimhi desanā uṭṭhitā, tassa dhammassa anurūpadhammavasena vā paṭipakkhavasena vā yesu suttesu upari desanā āgacchati, tesaṃ vasena yathānusandhi veditabbo. Seyyathidaṃ, Ākaṅkheyyasutte heṭṭhā sīlena desanā uṭṭhitā, upari cha abhiññā āgatā. Vatthasutte heṭṭhā kilesena desanā uṭṭhitā, upari brahmavihārā āgatā. Kosambakasutte heṭṭhā bhaṇḍanena uṭṭhitā, upari sāraṇīyadhammā āgatā. Kakacūpame heṭṭhā akkhantiyā uṭṭhitā, upari kakacūpamā āgatā. imasmimpi brahmajāle heṭṭhā diṭṭhivasena desanā uṭṭhitā, upari suññatāpakāsanaṃ āgataṃ. Tena vuttaṃ — “evamayaṃ yathānusandhivasena desanā āgatā”ti.
Nhưng nên biết sự liên kết được thuyết thuận theo tuần tự vấn đề do tác động của tất cả bài Kinh là nguồn gốc của pháp thoại ở phía trước do tác động của Pháp tương thích hoặc bởi tác động của Pháp đối nghịch đối với Pháp làm nhân khiến bài giảng được thiết lập ngay từ đầu. Như là – trong bài Kinh Ước Nguyện pháp thoại được thiết lập về giới ở phần mở đầu, sáu thần thông đã đến ở phần cuối. Trong bài Ví Dụ Tấm Vải pháp thoại được thiết lập do tác động của phiền não ở phần mở đầu, các Phạm trú đã đến ở phần cuối. Trong bài Kinh Kosambaka pháp thoại được thiết lập do việc tranh cãi ở phần mở đầu, các pháp hòa kính[68] đã đến ở phần cuối. Trong bài Kinh Ví Dụ Cái Cưa pháp thoại được thiết lập do sự không kham nhẫn ở phần mở đầu, so sánh với lưỡi cưa đã đến ở phần cuối. Trong bài Brahmajāla này được thiết lập do mãnh lực của tà kiến ở phần đầu, việc tuyên bố về sự rỗng không đã đến ở phần cuối. Vì thế tôi đã nói rằng: “Pháp thoại này đã đến do mãnh lực của sự liên kết theo tuần tự vấn đề như vậy”.
Giải Thích Sự Bồn Chồn Do Tranh Đấu Của Những Người Còn Tham Ái
105-117. Idāni mariyādavibhāgadassanatthaṃ — “Tatra bhikkhave”tiādikā desanā āraddhā. Tadapi tesaṃ bhavataṃ samaṇabrāhmaṇānaṃ ajānataṃ apassataṃ vedayitaṃ taṇhāgatānaṃ paritassitavipphanditamevāti yena diṭṭhiassādena diṭṭhisukhena diṭṭhivedayitena te somanassajātā sassataṃ attānañca lokañca paññapenti catūhi vatthūhi, tadapi tesaṃ bhavantānaṃ samaṇabrāhmaṇānaṃ yathābhūtaṃ dhammānaṃ sabhāvaṃ ajānantānaṃ apassantānaṃ vedayitaṃ taṇhāgatānaṃ kevalaṃ taṇhāgatānaṃyeva taṃ vedayitaṃ, tañca kho panetaṃ paritassitavipphanditameva. diṭṭhisaṅkhātena ceva taṇhāsaṅkhātena ca paritassitena vipphanditameva calitameva kampitameva thusarāsimhi nikhātakhāṇusadisaṃ, na sotāpannassa dassanamiva niccalanti dasseti. esa nayo ekaccasassatavādādīsupi.
105-107. Để thuyết giảng phân tích về ranh giới – đức Thế Tôn bắt đầu thuyết rằng “Này các tỳ khưu, ở đấy v.v.” Điều ấy, điều đã được cảm nhận của các tôn đức Sa-môn và Bà-la-môn không biết, không thấy ấy,― cũng chính là sự bồn chồn do khích động của những người còn tham ái: Những Sa-môn và Bà-la-môn ấy khởi lên sự vui mừng do sự hoan hỷ trong quan điểm, do sự thỏa thích trong quan điểm, do sự cảm nhận trong quan điểm nào đó, tuyên thuyết bản ngã và thế giới là thường còn với bốn luận cứ, chính điều ấy, là điều đã được cảm nhận của các tôn đức Sa-môn và Bà-la-môn không biết, không thấy thực tính của các pháp đúng theo thực thể là người còn tham ái, sự cảm nhân ấy hoàn toàn là của người vẫn còn tham ái, sự cảm nhận này đây cũng chính là sự lo lắng, là sự dao động. Cũng chính là sự rung động, cũng chính là sự khuấy động, là sự dao động do sự bồn chồn được xem là tà kiến và được xem là tham ái cũng giống như cột trụ được chôn trong đống trấu, không phải không rung động như cái thấy của vị Thánh Nhập-lưu. Luôn cả học thuyết trường tồn đối với một vài loại cũng có phương cách này.
Giải Thích ‘Do Duyên Xúc’
118-130. Puna — “Tatra, bhikkhave, ye te samaṇabrāhmaṇā sassatavādā”tiādi paramparapaccayadassanatthaṃ āraddhaṃ. Tattha tadapi phassapaccayāti yena diṭṭhiassādena diṭṭhisukhena diṭṭhivedayitena te somanassajātā sassataṃ attānañca lokañca paññapenti catūhi vatthūhi, tadapi taṇhādiṭṭhipariphanditaṃ vedayitaṃ phassapaccayāti dasseti. esa nayo sabbattha.
118-130. Lại nữa – “Này các tỳ khưu, ở đấy, một số Sa-môn và Bà-la-môn nào đó chủ trương học thuyết trường tồn v.v,” đức Thế Tôn tiếp tục bắt đầu nhằm thuyết giảng tiếp nối nhau của các duyên. Ở đấy, chính điều ấy cũng do duyên xúc – đức Thế Tôn thuyết giảng rằng: những Sa-môn và Bà-la-môn ấy khởi lên sự vui mừng do sự hoan hỷ về các quan điểm, do sự thỏa thích về các quan điểm, do sự cảm nhận về các quan điểm nào đó, tuyên thuyết bản ngã và thế giới là thường còn với bốn luận cứ, chính điều đó cũng là sự cảm nhận bồn chồn do tham ái và tà kiến bởi có xúc làm duyên. Toàn bộ phần đó đều có phương cách này.
131-143. Idāni tassa paccayassa diṭṭhivedayite balavabhāvadassanatthaṃ puna — “Tatra, bhikkhave, ye te samaṇabrāhmaṇā sassatavādā”tiādimāha. Tattha te vata aññatra phassāti te vata samaṇabrāhmaṇā taṃ vedayitaṃ vinā phassena paṭisaṃvedissantīti kāraṇametaṃ natthīti. Yathā hi patato gehassa upatthambhanatthāya thūṇā nāma balavapaccayo hoti, na taṃ thūṇāya anupatthambhitaṃ ṭhātuṃ sakkoti, evameva phassopi vedanāya balavapaccayo, taṃ vinā idaṃ diṭṭhivedayitaṃ natthīti dasseti. esa nayo sabbattha.
131-143. Bây giờ, để thuyết giảng tính chất các duyên đó có sức mạnh trong sự cảm nghiệm về các quan điểm, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Này các tỳ khưu, ở đây, một số Sa-môn và Bà-la-môn chủ trương học thuyết trường tồn.” Trong câu đó, những Sa-môn và Bà-la-môn ấy quả thật sẽ cảm nghiệm không có xúc để nhận biết điều đó như này đây không có khả năng xảy ra. Cũng giống như: những cột trụ làm điều kiện có sức mạnh để nâng đỡ ngôi nhà tránh khỏi bị đổ, ngôi nhà ấy nếu không có cột trụ chống đỡ thì không thể nào cố định được vị trí như thế nào, ngay cả xúc cũng tương tự y như thế ấy, xúc làm duyên có sức mạnh đối với thọ, không có xúc đó thì sự cảm nghiệm về các quan điểm này cũng không có. Toàn bộ phần đó đều có phương cách này.
Giải Thích Diṭṭhigatikā-dhiṭṭhānavaṭṭa
144. Idāni tatra bhikkhave, ye te samaṇabrāhmaṇā sassatavādā sassataṃ attānañca lokañca paññapenti catūhi vatthūhi, yepi te samaṇabrāhmaṇā ekaccasassatikātiādinā nayena sabbadiṭṭhivedayitāni sampiṇḍeti. Kasmā? Upari phasse pakkhipanatthāya. kathaṃ? Sabbe te chahi phassāyatanehi phussa phussa paṭisaṃvedentīti. Tattha cha phassāyatanāni nāma — cakkhuphassāyatanaṃ, sotaphassāyatanaṃ, ghānaphassāyatanaṃ, jivhāphassāyatanaṃ, kāyaphassāyatanaṃ, manophassāyatananti imāni cha. Sañjāti-samosaraṇa-kāraṇa-paṇṇattimattatthesu hi ayaṃ āyatanasaddo pavattati. Tattha — “Kambojo assānaṃ āyatanaṃ, gunnaṃ dakkhiṇāpatho”ti sañjātiyaṃ pavattati, sañjātiṭṭhāneti attho. “Manorame āyatane, sevanti naṃ vihaṅgamā”ti[69] samosaraṇe. “sati satiāyatane”ti[70] kāraṇe. “Araññāyatane paṇṇakuṭīsu sammantī”ti[71] paṇṇattimatte. Svāyamidha sañjātiādiatthattayepi yujjati. Cakkhādīsu hi phassapañcamakā dhammā sañjāyanti samosaranti, tāni ca tesaṃ kāraṇanti āyatanāni. Idha pana “cakkhuñca paṭicca rūpe ca uppajjati cakkhuviññāṇaṃ, tiṇṇaṃ saṅgati phasso”ti[72] iminā nayena phassasīseneva desanaṃ āropetvā phassaṃ ādiṃ katvā paccayaparamparaṃ[73] dassetuṃ phassāyatanādīni vuttāni.
144. Bây giờ, đức Thế Tôn tập hợp sự cảm nhận về toàn bộ các tà kiến theo phương cách như sau: ‘này các tỳ khưu, ở đấy, các vị Sa-môn và Bà-la-môn nào chủ trương học thuyết trường tồn tuyên bố bản ngã và thế giới là trường tồn với bốn luận cứ, ngay cả các vị Sa-môn và Bà-la-môn nào theo học thuyết trường tồn đối với một vài loại, Tại sao? Do muốn thêm ‘xúc’ ở phía trước. Thêm như thế nào? Tất cả những Sa-môn và Bà-la-môn đó cảm nghiệm sau khi xúc chạm (sáu cảnh) nhiều lần thông qua sáu xúc xứ (thọ). Ở đây, gọi là sáu xúc xứ – Nhãn xúc xứ, Nhĩ xúc xứ, Tỷ xúc xứ, Thiệt xúc xứ, Thân xúc xứ, Ý xúc xứ, đây là sáu xúc xứ. Thật vậy, từ ‘āyatana-xứ’ này diễn biến với ý nghĩa (1) nơi sinh, (2) sự tự hội, (3) nguyên nhân, (4) quy định. Ở đây, ‘āyatana-xứ’ diễn biến với ý nghĩa ‘nơi sinh’ – “Xứ sở Kamboja là nơi sản sinh ra tất cả loài ngựa, phương nam là nơi sản sinh ra loài tất cả loài bò”, có nghĩa là ở nơi sinh ra. Diễn biến với ý nghĩa ‘sự tụ hội’ – “Khi cây cối to lớn ấy làm nơi tụ hội, làm thích ý tất cả loài chim đến trú ngụ trên cây ấy.” Diễn biến với ý nghĩa ‘nguyên nhân’ – “Khi nhân có rồi lại có nữa.” Diễn biến với ý nghĩa ‘quy định’ – “Quy định rằng: trong rừng rậm, trong một chòi lá”. Từ ‘āyatana-xứ’ này đây trong trường hợp này phù hợp với cả ba ý nghĩa có nơi sinh v.v. Thật vậy, chư Pháp có xúc là thứ năm được sanh khởi, tụ hội ở con mắt v.v, ngay cả con mắt v.v, ấy cũng làm nhân của các pháp, nhân đó được gọi là ‘āyatana-xứ’. Và trong trường hợp này đức Thế Tôn thuyết cả sáu xứ v.v, để thuyết sự tiếp nối nhau của duyên tính từ xúc trở đi, rồi đã đặt pháp thoại lên bằng cách đưa xúc làm trưởng ở chính câu đó theo cách thức sau: “Do duyên con mắt và các sắc nên nhãn thức sanh khởi, do ba pháp tụ họp (con mắt-sắc-nhãn thức) nên có xúc.”
Phussa phussa paṭisaṃvedentīti phusitvā phusitvā paṭisaṃvedenti. Ettha ca kiñcāpi āyatanānaṃ phusanakiccaṃ viya vuttaṃ, tathāpi na tesaṃ phusanakiccatā veditabbā. na hi āyatanāni phusanti, phassova taṃ taṃ ārammaṇaṃ phusati, āyatanāni pana phasse upanikkhipitvā dassitāni; tasmā sabbe te cha phassāyatanasambhavena phassena rūpādīni ārammaṇāni phusitvā taṃ diṭṭhivedanaṃ paṭisaṃvedayantīti evamettha attho veditabbo.
Cảm nghiệm sau khi xúc chạm (sáu cảnh) nhiều lần thông qua sáu xúc xứ (thọ): cảm nghiệm sau khi xúc chạm (sáu cảnh) thông qua sáu xúc xứ (thọ). Và ở đây, mặc dầu đã thuyết giống như tất cả các (xúc) xứ ấy có phận sự là xúc chạm (cảnh), bởi vì các (xúc) xứ xúc chạm (cảnh) không được, còn xúc được xúc chạm nơi những đối tượng đó, hơn nữa, tất cả các xứ được thuyết ẩn trong xúc; vì thế nên hiểu ý nghĩa trong Pāḷī này như vầy: ‘tất cả những Sa-môn và Bà-la-môn ấy xúc chạm đối tượng có sắc v.v, thông qua xúc sanh lên từ sáu xúc xứ rồi cảm nghiệm thọ về các quan điểm đó.
Tesaṃ vedanāpaccayā taṇhātiādīsu vedanāti cha phassāyatanasambhavā vedanā. sā rūpataṇhādibhedāya taṇhāya upanissayakoṭiyā paccayo hoti. tena vuttaṃ — “tesaṃ vedanāpaccayā taṇhā”ti. Sā pana catubbidhassa upādānassa upanissayakoṭiyā ceva sahajātakoṭiyā ca paccayo hoti. Tathā upādānaṃ bhavassa. Bhavo jātiyā upanissayakoṭiyā paccayo hoti.
Do duyên thọ ái (sanh khởi) v.v, Thọ khởi lên từ sáu xúc xứ. Thọ ấy làm duyên bởi nút thắt cận-y-duyên đối với ái được phân thành sắc ái, v.v Bởi nguyên nhân đó mới nói rằng – “Do duyên thọ ái sanh khởi.” Hơn nữa, ái làm duyên cho bốn loại thủ (sanh khỏi) bởi nút thắt của cận-y-duyên và bởi nút thắt của câu-sanh-duyên, thủ làm duyên cho hữu đó (sanh khỏi). Hữu làm duyên cho sanh (sanh khỏi) bởi nút thắt cận-y-duyên.
Jātīti panettha savikārā pañcakkhandhā daṭṭhabbā, jāti jarāmaraṇassa ceva sokādīnañca upanissayakoṭiyā paccayo hoti. Ayamettha saṅkhepo, vitthārato pana paṭiccasamuppādakathā visuddhimagge vuttā. Idha panassa payojanamattameva veditabbaṃ. Bhagavā hi vaṭṭakathaṃ kathento — “purimā, bhikkhave, koṭi na paññāyati avijjāya, ‘ito pubbe avijjā nāhosi, atha pacchā samabhavī’ti evañcetaṃ[74], bhikkhave, vuccati, atha ca pana paññāyati “idappaccayā avijjā”ti[75] Evaṃ avijjāsīsena vā, purimā, bhikkhave, koṭi na paññāyati bhavataṇhāya … pe … “idappaccayā bhavataṇhā”ti[76] evaṃ taṇhāsīsena vā, purimā, bhikkhave, koṭi na paññāyati bhavadiṭṭhiyā … pe … “idappaccayā bhavadiṭṭhī”ti evaṃ diṭṭhisīsena vā kathesi”. Idha pana diṭṭhisīsena kathento vedanārāgena uppajjamānā diṭṭhiyo kathetvā vedanāmūlakaṃ paṭiccasamuppādaṃ kathesi. Tena idaṃ dasseti — “Evamete diṭṭhigatikā, idaṃ dassanaṃ gahetvā tīsu bhavesu catūsu yonīsu pañcasu gatīsu sattasu viññāṇaṭṭhitīsu navasu sattāvāsesu ito ettha etto idhāti sandhāvantā saṃsarantā yante yuttagoṇo viya, thambhe upanibaddhakukkuro[77] viya, vātena vippannaṭṭhanāvā viya ca vaṭṭadukkhameva anuparivattanti, vaṭṭadukkhato sīsaṃ ukkhipituṃ na sakkontī”ti.
Hơn nữa ở đây sanh nên hiểu rằng bao gồm ngũ uẩn cùng với sự thay đổi-vikāra, sanh làm duyên bởi nút thắt cận-y-duyên cho già, chết và sầu v.v, (sanh khởi). Ở đây, điều này được nói vắn tắt, còn Duyên Khởi hay pháp tùy thuận duyên sanh – paṭiccasamuppāda đã được giảng giải chi tiết trong Thanh Tịnh Đạo. Nhưng những gì được nói trong trường hợp này chỉ chừng ấy là vừa đủ. Thật vậy, đức Thế Tôn trong khi nói diễn giải về luân hồi – vaṭṭakathā đã thuyết với đầu đề Vô Minh như vầy – “Này các tỳ khưu, điểm đầu tiên của vô minh không được biết đến, ‘Từ đây trở về trước,, vô minh không có, nhưng về sau mới có.’ Như vậy, này các tỳ khưu, lời này được nói đến. Tuy vậy, sự việc này được nêu rõ: “Do duyên này, vô minh (có mặt)”. Hoặc ngài đã thuyết với đầu đề Tham Ái như vầy – “Này các tỳ khưu, điểm đầu tiên của hữu ái không được biết đến, ‘Từ đây trở về trước, hữu ái không có, nhưng về sau mới có.’ Như vậy, này các tỳ khưu, lời này được nói đến. Tuy vậy, sự việc này được nêu rõ: “Do duyên này, hữu ái (có mặt)’”. Hoặc ngài đã thuyết với đầu đề Tà Kiến như vầy: – “Này chư tỳ khưu, điểm đầu tiên của hữu kiến không được nói đến, ‘Từ đây trở về trước, hữu kiến không có, nhưng về sau mới có.’ Như vậy, này các tỳ khưu, lời này được nói đến. Tuy vậy, sự việc này được nêu rõ: “Do duyên này, hữu kiến (có mặt)’”. Hơn nữa, trong bài Kinh này khi thuyết với đầu đề ‘Tà Kiến’ đã thuyết toàn bộ các tà kiến sanh khởi do sự luyến ái trong thọ rồi ngài thuyết Duyên Khởi có thọ làm gốc. Vì thế ngài thuyết điều này – “Một số Sa-môn và Bà-la-môn tà kiến này đã nắm lấy quan điểm này rong ruổi, du hành trong ba cõi, bốn nguồn gốc sanh ra, năm cảnh giới tái sanh, bảy sự trụ vững của thức, chín loại hữu tình cư từ chỗ này đi đến chỗ kia, từ chỗ kia đi đến chỗ này, hoàn toàn luân chuyển trong vòng luân hồi khổ đau, (chúng sanh) không thể ngước mặt ra khỏi vòng luân hồi khổ đau ấy tương tự y như con bò bị buộc vào ách xe, tựa như con chó bị xích vào cột trụ, và tựa như con thuyền bị đắm chìm bởi cơn giông bão.
Giải Thích Vivaṭṭakathā
145. Evaṃ diṭṭhigatikādhiṭṭhānaṃ vaṭṭaṃ kathetvā idāni yuttayogabhikkhuadhiṭṭhānaṃ katvā vivaṭṭaṃ dassento — “yato kho, bhikkhave, bhikkhū”tiādimāha. Tattha yatoti yadā. Channaṃ phassāyatanānanti yehi chahi phassāyatanehi phusitvā paṭisaṃvedayamānānaṃ[78] diṭṭhigatikānaṃ vaṭṭaṃ vattati, tesaṃyeva channaṃ phassāyatanānaṃ. Samudayantiādīsu avijjāsamudayā cakkhusamudayotiādinā vedanākammaṭṭhāne vuttanayena phassāyatanānaṃ samudayādayo[79] veditabbā. Yathā pana tattha “phassasamudayā phassanirodhā”ti vuttaṃ, Evamidha, taṃ cakkhādīsu — “āhārasamudayā āhāranirodhā”ti veditabbaṃ. manāyatane “nāmarūpasamudayā nāmarūpanirodhā”ti.
145. Sau khi đức Thế Tôn thuyết về luân hồi là chỗ y cứ của người quan điểm như vậy, bây giờ khi thuyết sự xuất ly luân hồi (ngài) lấy ví dụ vị tỳ khưu gắn liền với sự tinh tấn làm chỗ y cứ rồi thuyết rằng: – “Này các tỳ khưu, khi nào vị tỳ khưu biết rõ đúng theo thực thể v.v.” Ở đây, từ ‘khi nào’: vào thời gian nào. Của sáu xúc xứ: vòng luân hồi xoay vòng đối với người có tà kiến, người xúc chạm với sáu xúc xứ nào trong khi đang cảm nghiệm cảm thọ của chính sáu xúc xứ đó. Về nhân sanh khởi v.v,: nên biết sự sanh khởi của xúc xứ theo cách thức đã được trình bày trong phần Thọ Nghiệp Xứ như sau: “Do duyên vô minh, nhãn sanh khởi v.v.” Tương tự như trong phần Thọ Nghiệp Xứ ấy đã nói rằng: “Do sự sanh khởi của xúc, do sự diệt tận của xúc” (như thế nào). Như vậy, ở đây (cũng như thế ấy), nên biết xứ ấy trong con mắt v.v, như sau: “Do sự sanh khởi của vật thực, do sự diệt tận của vật thực”. Trong ý xứ “Do sự sanh khởi của danh sắc, do sự diệt tận của danh và sắc”.
Uttaritaraṃ pajānātīti diṭṭhigatiko diṭṭhimeva jānāti[80]. Ayaṃ pana diṭṭhiñca diṭṭhito ca uttaritaraṃ sīlasamādhipaññāvimuttinti yāva arahattā jānāti. Ko evaṃ jānātīti? khīṇāsavo jānāti, anāgāmī, sakadāgāmī, sotāpanno, bahussuto, ganthadharo bhikkhu jānāti, āraddhavipassako jānāti. Desanā pana arahattanikūṭeneva niṭṭhāpitāti.
(Vị này) biết rõ điều vượt lên trên hết thảy: Hạng người có tà kiến chỉ biết mỗi luận cứ của mình. Còn vị tỳ khưu này biết được quan điểm và vượt lên trên những quan điểm ấy, là giới, định, tuệ, và giải thoát cho đến phẩm vị A-ra-hán. Ai biết được như vậy? Bậc lậu tận biết được, Thánh Bất-lai, Thánh Nhất-lai, Thánh Nhập-lưu, vị tỳ khưu là đa văn, là bậc thông suốt kinh điển cũng biết, và vị tỳ khưu bắt đầu tiến hành thiền tuệ – āraddhavipassaka cũng biết. Tuy nhiên pháp thoại đức Thế Tôn thuyết giảng được kết thúc bằng đỉnh cao ở đạo quả A-la-hán.
146. Evaṃ vivaṭṭaṃ kathetvā idāni “desanājālavimutto diṭṭhigatiko nāma natthī”ti dassanatthaṃ puna — “ye hi keci, bhikkhave”ti ārabhi. Tattha antojālīkatāti imassa mayhaṃ desanājālassa antoyeva katā. Ettha sitā vāti etasmiṃ mama desanājāle sitā nissitā avasitāva. Ummujjamānā ummujjantīti kiṃ vuttaṃ hoti? Te adho osīdantāpi uddhaṃ uggacchantāpi mama desanājāle sitāva hutvā osīdanti ca uggacchanti ca. Ettha pariyāpannāti ettha mayhaṃ desanājāle pariyāpannā, etena ābaddhā antojālīkatā ca hutvā ummujjamānā ummujjanti, na hettha asaṅgahito diṭṭhigatiko nāma atthīti.
146. Sau khi đức Thế Tôn thuyết giảng sự xuất khỏi luân hồi như vậy, bây giờ để thuyết giảng rằng: “Người có tà kiến thoát khỏi tấm lưới của pháp thoại là không có” mới thuyết tiếp – “Này các tỳ khưu, bất cứ các vị Sa-môn hoặc Bà-la-môn nào”. Ở đó, tựa như bên trong tấm lưới: ở bên trong tấm lưới của giáo pháp này đây của ta. Đều bị bao bọc bên trong tấm lưới: cư ngụ, nương nhờ là dựa vào trong tấm lưới của giáo pháp này của ta. Người nổi lên, trong khi nổi lên được giải thích như thế nào? Có lời giải thích như sau: các vị Sa-môn hoặc Bà-la-môn ấy chìm xuống, hay nổi lên, đều là những người ở trong tấm lưới của giáo pháp của ta, chìm xuống và nổi lên. Đều bị vướng vào bên trong tấm lưới: là người bị vướng vào trong tấm lưới của giáo pháp này của ta, tấm lưới của giáo pháp này buộc chặt lại như những người nổi lên, trong khi nổi lên (bị bao trùm) bên trong tấm lưới, bởi vì được gọi là người có tà kiến không bị thâu nhiếp vào trong tấm lưới của giáo pháp này là không có.
Sukhumacchikenāti saṇhācchikena sukhumacchiddenāti attho. Kevaṭṭo viya hi bhagavā, jālaṃ viya desanā, parittaudakaṃ viya dasasahassilokadhātu, oḷārikā pāṇā viya dvāsaṭṭhidiṭṭhigatikā. Tassa tīre ṭhatvā olokentassa oḷārikānaṃ pāṇānaṃ antojālīkatabhāvadassanaṃ viya bhagavato sabbadiṭṭhigatānaṃ desanājālassa antokatabhāvadassananti[81] evamettha opammasaṃsandanaṃ veditabbaṃ.
Lưới chài: có nghĩa là với tấm lưới có mắt (được đang) chặt chẽ, (ô lưới) dày đặc. Thật vậy, đức Thế Tôn được ví như người đánh cá, giáo lý ví như tấm lưới, mười ngàn thế giới giống như hồ nước nhỏ, những Sa-môn và hoặc Bà-la-môn có sáu mươi hai luận cứ giống như những sinh vật lớn. Y như người đánh cá, đã đứng ở trên bờ để quan sát cái lưới nhìn thấy tất cả sinh vật lớn bị kẹt bên trong tấm lưới, cũng vậy đức Thế Tôn nhìn thấy tất cả những Sa-môn và Bà-la-môn có tà kiến toàn bộ đều bị mắc kẹt trong tấm lưới của giáo pháp, ở đây việc so sánh bằng ví dụ minh họa nên biết như vậy.
147. Evaṃ imāhi dvāsaṭṭhiyā diṭṭhīhi sabbadiṭṭhīnaṃ saṅgahitattā sabbesaṃ diṭṭhigatikānaṃ etasmiṃ desanājāle pariyāpannabhāvaṃ dassetvā idāni attano katthaci apariyāpannabhāvaṃ dassento — “ucchinnabhavanettiko, bhikkhave, tathāgatassa kāyo”tiādimāha. Tattha nayanti etāyāti netti. Nayantīti gīvāya bandhitvā ākaḍḍhanti, Rajjuyā etaṃ nāmaṃ. Idha pana nettisadisatāya bhavataṇhā nettīti adhippetā. Sā hi mahājanaṃ gīvāya bandhitvā taṃ taṃ bhavaṃ neti upanetīti bhavanetti. arahattamaggasatthena ucchinnā bhavanetti assāti ucchinnabhavanettiko.
147. Sau khi đức Thế Tôn chỉ ra tính chất một số Sa-môn và Bà-la-môn có những luận cứ vướng vào trong tấm lưới của giáo lý này do toàn bộ những quan điểm được yếu hợp với sáu mươi hai luận cứ này như vậy, bây giờ trong khi thuyết giảng về bản thể của ngài, vị không còn lệ thuộc bất cứ điều gì nữa đã nói rằng – “Này các tỳ khưu, thân của Như Lai đang tồn tại, nhưng lối dẫn đến hữu đã bị cắt đứt.” Ở đấy, ‘dẫn dắt’ bởi ý nghĩa làm phương tiện dẫn đi. Dẫn đi dịch là sau khi buộc chặt cổ rồi kéo đi, đây là tên gọi của sợi dây. Hơn nữa, ở đây ‘hữu ái’ muốn đề cập đến ‘netti-dẫn dắt’ bởi vì nó giống như sợi dây để dẫn đi. Thật vậy, ‘hữu ái’ ấy sau khi buộc chặt cổ của hết thảy chúng sanh dẫn đi đến các cõi này cõi kia, vì thế được gọi là dẫn đi đến hữu. Ái dẫn dắt chúng sanh đến cõi đó, thân của Như Lai đã cắt đứt bằng vũ khí sắc bén, tức là Thánh Đạo A-ra-hán, vì thế mà thân của Như Lai được gọi là có ái dẫn đi đến hữu đã bị cắt đứt.
Kāyassa bhedā uddhanti kāyassa bhedato uddhaṃ. Jīvitapariyādānāti jīvitassa sabbaso pariyādinnattā parikkhīṇattā, puna appaṭisandhikabhāvāti attho. Na taṃ dakkhantīti taṃ tathāgataṃ devā vā manussā vā na dakkhissanti, apaṇṇattikabhāvaṃ gamissatīti[82] attho.
Đến khi sắc thân tan rã: Đến khi có sự tan rã của sắc thân. Đã chấm dứt mạng sống: Do mạng sống đã chấm dứt, chấm dứt hết thảy về mọi mặt bởi không còn tục sanh trở lại nữa. Sẽ không còn nhìn thấy Như Lai: Chư Thiên, hoặc loài Người sẽ không còn nhìn thấy Như Lai đó, sẽ đi đến trạng thái là vị không còn biểu hiện-paṇṇatti.
Seyyathāpi, bhikkhaveti, upamāyaṃ pana idaṃ saṃsandanaṃ. Ambarukkho viya hi tathāgatassa kāyo, rukkhe jātamahāvaṇṭo[83] viya taṃ nissāya pubbe pavattataṇhā. tasmiṃ vaṇṭe upanibaddhā pañcapakkadvādasapakkāṭṭhārasapakkaparimāṇā ambapiṇḍī viya taṇhāya sati taṇhūpanibandhanā hutvā āyatiṃ nibbattanakā pañcakkhandhā dvādasāyatanāni aṭṭhārasa dhātuyo. Yathā pana tasmiṃ vaṇṭe chinne sabbāni tāni ambāni tadanvayāni honti, taṃyeva vaṇṭaṃ anugatāni, vaṇṭacchedā[84] chinnāni yevāti attho; evameva ye bhavanettivaṇṭassa anupacchinnattā āyatiṃ uppajjeyyuṃ pañcakkhandhā dvādasāyatanāni aṭṭhārasadhātuyo, sabbe te dhammā tadanvayā honti bhavanettiṃ anugatā, tāya chinnāya chinnā yevāti attho.
Này các tỳ khưu, cũng giống như…: hơn nữa, ở đây có ví dụ so sánh như sau: Thân của Như Lai ví như quả xoài, tham ái nương thân này diễn biến ở hữu trước giống như cuống (xoài) lớn sanh ra từ cây, khi vẫn tham ái, năm uẩn, mười hai xứ, mười tám giới là thực tính dính vào thám ái khởi lên tiếp tục giống như chùm xoài chín khoảng chừng năm quả, mười hai quả, hay mười tám quả dính vào cuống xoài ấy, cũng giống như khi cuống xoài ấy bị đứt thì toàn bộ những quả xoài bị dính vào cuống ấy (cũng bị đứt lìa) đi theo cuống ấy. Giải thích rằng: rơi theo chính cuống ấy, rớt xuống cùng một lúc do cuống xoài bị đứt như thế nào; cái cuống tham ái dẫn dắt chúng sanh đến các hưu chưa bị cắt đứt thì cũng có thể làm nhân khiến khởi sanh năm uẩn, mười hai xứ, mười tám giới, hết thảy những pháp đó theo sát cái cuống tham ái dẫn dắt chúng sanh đến hữu ấy. Tức là đi theo tham ái dẫn dắt chúng sanh đến các hữu, khi tham ái đã bị cắt đứt, (thì những thứ đi theo tham ái) cũng đều bị cắt đứt cùng một lúc cũng tương tự y như thế ấy.
Yathā pana tasmimpi rukkhe maṇḍūkakaṇṭakavisasamphassaṃ āgamma anupubbena sussitvā mate — “imasmiṃ ṭhāne evarūpo nāma rukkho ahosī”ti vohāramattameva hoti, na taṃ rukkhaṃ koci passati, evaṃ ariyamaggasamphassaṃ āgamma taṇhāsinehassa pariyādinnattā anupubbena sussitvā viya bhinne imasmiṃ kāye, kāyassa bhedā uddhaṃ jīvitapariyādānā na taṃ dakkhanti, tathāgatampi devamanussā na dakkhissanti, evarūpassa nāma kira satthuno idaṃ sāsananti vohāramattameva bhavissatīti anupādisesanibbānadhātuṃ pāpetvā desanaṃ niṭṭhapesi.
Hơn nữa, khi cái cây đó do tiếp xúc với chất độc của cây kaṇṭaka và cây maṇḍūka trở nên khô héo dần rồi chết đi, cũng chỉ còn lại là sự kêu gọi vohāra rằng: “Ở tại nơi này đã có một cây tên này, có kích thước như vầy”, những ai không nhìn thấy cái cây đó như thế nào; khi thân này y cứ vào sự xúc chạm của Thánh Đạo, do nhựa cây là tham ái đã cạn kiệt dường như đã trở nên khô cạn dần, đã bị phá hủy, cho đến khi sắc thân tan rã (và) đã chấm dứt mạng sống, thì chư Thiên và loài Người sẽ không còn nhìn thấy Như Lai nữa, sẽ chỉ còn lại là sự bày tỏ vohāra rằng: “Được biết rằng – đây là Giáo Pháp của một Đạo Sư có hình thức như thế, đức Thế Tôn thuyết giảng Giáo Pháp đã đạt đến sự viên tịch Niết Bàn ở cảnh giới Niết Bàn không còn dư sót”.
148. Evaṃ vutte āyasmā ānandoti evaṃ bhagavatā imasmiṃ sutte vutte thero ādito paṭṭhāya sabbaṃ suttaṃ samannāharitvā evaṃ buddhabalaṃ dīpetvā kathitasuttassa na bhagavatā nāmaṃ gahitaṃ, handassa nāmaṃ gaṇhāpessāmīti cintetvā bhagavantaṃ etadavoca.
148. Khi được nói như vậy, tôn giả Ānanda: Khi đức Thế Tôn thuyết bài Kinh này như vậy, trưởng lão Ānanda đã tập hợp lại toàn bộ bài Kinh kể từ ban đầu rồi đã khởi lên suy nghĩ rằng – “Đức Thế Tôn đã thể hiện sức mạnh của đức Phật, (những) ngài không đặt tên bài Kinh đã thuyết, vậy thì ta sẽ hỏi (ngài) để đặt tên cho bài Kinh được thuyết ấy” nên đã bạch đức Thế Tôn như thế.
Tasmātiha tvantiādīsu ayamatthayojanā — Ānanda, yasmā imasmiṃ dhammapariyāye idhatthopi paratthopi vibhatto, tasmātiha tvaṃ imaṃ dhammapariyāyaṃ “atthajālan”tipi naṃ dhārehi; yasmā panettha bahū tantidhammā kathitā, tasmā “dhammajālan”tipi naṃ dhārehi; yasmā ca ettha seṭṭhaṭṭhena brahmaṃ sabbaññutaññāṇaṃ vibhattaṃ, tasmā “brahmajālan”tipi naṃ dhārehi; yasmā ettha dvāsaṭṭhidiṭṭhiyo vibhattā, tasmā “diṭṭhijālan”tipi naṃ dhārehi; yasmā pana imaṃ dhammapariyāyaṃ sutvā devaputtamārampi khandhamārampi maccumārampi kilesamārampi sakkā maddituṃ, tasmā “anuttaro saṅgāmavijayotipi naṃ dhārehī”ti.
Do đó,…ông hãy ghi nhận v.v, điều này được liên kết (như sau) – “Này Ānanda, do trong bài giảng Pháp này, ta phân tích lợi ích ở đời này (và) lợi ích ở đời sau, vì thế ông hãy ghi nhớ bài giảng này là “Mạng lưới lợi ích”; hơn nữa, do trong bài giảng Pháp này ta đã thuyết giảng theo nhiều kiểu cách, vì thế ông hãy ghi nhận bài giảng Pháp này là “Mạng lưới giáo pháp[85]”; Hơn nữa, do trong bài giảng Pháp này ta phân tích trí toàn tri đó là ‘brahma’ với ý nghĩa ‘cao thượng’, vì thế ông ông hãy ghi nhận bài giảng Pháp này “Mạng lưới cao thượng”; Hơn nữa, do trong bài giảng pháp này ta đã phân tích sáu mươi hai luận cứ, vì thế ông hãy ghi nhận bài giảng Pháp này là “Mạng lưới quan điểm”; Lại nữa, bởi vì bất cứ ai sau khi nghe bài giảng Pháp này có thể dẫm nát được thiên tử ma, ngũ uẩn ma, tử thần ma, và phiền não mà, vì thế ông hãy ghi nhận bài giảng Pháp này là “Chiến thắng vô thượng”.
Idamavoca bhagavāti Idaṃ nidānāvasānato yāva “anuttaro saṅgāmavijayotipi naṃ dhārehī”ti sakalaṃ suttantaṃ bhagavā paresaṃ paññāya alabbhaneyyapatiṭṭhaṃ paramagambhīraṃ sabbaññutaññāṇaṃ pakāsento sūriyo viya andhakāraṃ diṭṭhigatamahandhakāraṃ vidhamanto avoca.
Đức Thế Tôn đã nói điều này: Đức Thế Tôn đã thuyết giảng toàn bộ bài Kinh này bắt đầu kể từ khi kết thúc lời giới thiệu cho đến khi thuyết rằng: “ông hãy ghi nhận bài giảng Pháp này là “Chiến thắng vô thượng” trong khi tuyên bố trí toàn tri thâm sâu cao quý, có chỗ thiết lập mà bất cứ ai cũng không thể đạt được bằng trí tuệ của những hạng người khác, đã xua tan bóng tối dày đặc là tà kiến, tựa như ánh mặt trời xóa tan bóng đêm.
149. Attamanā te bhikkhūti te bhikkhū attamanā sakamanā, buddhagatāya pītiyā udaggacittā hutvāti vuttaṃ hoti. Bhagavato bhāsitanti evaṃ vicitranayadesanāvilāsayuttaṃ idaṃ suttaṃ karavīkarutamañjunā kaṇṇasukhena paṇḍitajanahadayānaṃ amatābhisekasadisena brahmassarena bhāsamānassa bhagavato vacanaṃ. Abhinandunti anumodiṃsu ceva sampaṭicchiṃsu ca. Ayañhi abhinandasaddo — “abhinandati abhivadatī”tiādīsu[86] taṇhāyampi āgato. “Annamevābhinandanti, ubhaye devamānusā”tiādīsu[87] upagamanepi.
“cirappavāsiṃ purisaṃ, dūrato sotthimāgataṃ.
ñātimittā suhajjā ca, abhinandanti āgatan”ti.[88].
ādīsu sampaṭicchanepi. “Abhinanditvā anumoditvā”tiādīsu[89] anumodanepi. Svāyamidha anumodanasampaṭicchanesu yujjati. Tena vuttaṃ — “abhinandunti anumodiṃsu ceva sampaṭicchiṃsu cā”ti.
subhāsitaṃ sulapitaṃ, “sādhu sādhū”ti tādino.
anumodamānā sirasā, sampaṭicchiṃsu bhikkhavoti.
149. Các vị tỳ khưu hoan hỷ: Các vị tỳ khưu ấy có tâm hoan hỷ, vui mừng, được giải thích rằng vị có tâm phấn khởi do hỷ được vận hành nơi đức Phật. Lời nói của đức Thế Tôn: Bài Kinh này gắn liền với vẻ đẹp của lời hướng dẫn có cách thức đa dạng như vậy, là lời nói của đức Thế Tôn với âm giọng êm dịu y như tiếng chim Karavīka du dương, âm giọng như của Phạm Thiên, như thể rưới nước bất tử vào trong tâm khảm của bậc các bậc sáng suốt. Tán thành: tùy hỷ và chấp thuận. Thật vậy, tử ‘abhinanda’ này đến với ý nghĩa ‘tham ái’ – “thỏa thích, nói lời tán thán” v.v. Đến với ý nghĩa ‘đi đến gần’ – “Chư thiền và loài Người, cả hai đi đến gần vật thực v.v.” Đến với ý nghĩa ‘chấp thuận’ –
“Thân quyến bạn bè và thân hữu hân hoan tiếp đón người đã trở về, người có cuộc sống xa quê lâu dài từ phương xa đã trở về an toàn.” Đến với nghĩa ‘tùy hỷ’ – “đã thích thú, đã tùy hỷ”. Từ ‘abhinanda’ này đây trong trường hợp này phù hợp với ý nghia ‘tùy hỷ và chấp thuận’. Vì thế, tôi mới nói rằng ‘tán thành’ nghĩa là tùy hỷ và chấp thuận.
Các vị tỳ khưu đã tán thành lời dạy đã khéo được nói lên bởi đức Phật, chấp thuận bằng đầu (của mình) rằng: “lành thay, lành thay” như thế.
Imasmiñca pana veyyākaraṇasminti imasmiṃ niggāthakasutte. niggāthakattā hi idaṃ veyyākaraṇanti vuttaṃ.
Hơn nữa, Veyyākaraṇa này: Bài Kinh không có kệ ngôn trên này. Bài Kinh này được gọi là Veyyākaraṇa [Ký Thuyết] bởi không có kệ ngôn.
Dasasahassī lokadhātūti dasasahassacakkavāḷaparimāṇā lokadhātu. Akampitthāti na suttapariyosāneyeva akampitthāti veditabbā. Bhaññamāneti hi vuttaṃ. tasmā dvāsaṭṭhiyā diṭṭhigatesu viniveṭhetvā desiyamānesu tassa tassa diṭṭhigatassa pariyosāne pariyosāneti dvāsaṭṭhiyā ṭhānesu akampitthāti veditabbā.
Mười ngàn thế giới: Thế giới chứa đựng mười ngàn vũ trụ. Đã rúng động: nên biết rằng không phải rúng động trong khi kết thúc bài Kinh. Điều này đã được đại đức Ānanda nói rằng: – trong khi đang thuyết giảng, nên biết rằng khi đang thuyết giảng việc tháo gỡ sáu mươi hai luận cứ (thế giới) đã rúng động trong sáu mươi hai trường hợp, tức là, trong khi thuyết kết thúc mỗi mỗi luận cứ ấy.
Tattha aṭṭhahi kāraṇehi pathavīkampo veditabbo — dhātukkhobhena, iddhimato ānubhāvena, bodhisattassa gabbhokkantiyā, mātukucchito nikkhamanena, sambodhippattiyā, dhammacakkappavattanena, āyusaṅkhārossajjanena, parinibbānenāti. Tesaṃ vinicchayaṃ — “Aṭṭha kho ime, Ānanda, hetū aṭṭha paccayā mahato bhūmicālassa pātubhāvāyā”ti evaṃ Mahāparinibbāne āgatāya tantiyā vaṇṇanākāle vakkhāma. Ayaṃ pana mahāpathavī aparesupi aṭṭhasu ṭhānesu akampittha — mahābhinikkhamane, bodhimaṇḍūpasaṅkamane, paṃsukūlaggahaṇe, paṃsukūladhovane, kāḷakārāmasutte, gotamakasutte, vessantarajātake, imasmiṃ brahmajāleti. Tattha mahābhinikkhamanabodhimaṇḍūpasaṅkamanesu vīriyabalena akampittha. paṃsukūlaggahaṇe dvisahassadīpaparivāre cattāro mahādīpe pahāya pabbajitvā susānaṃ gantvā paṃsukūlaṃ gaṇhantena dukkaraṃ bhagavatā katanti acchariyavegābhihatā akampittha. Paṃsukūladhovanavessantarajātakesu akālakampanena akampittha. Kāḷakārāmagotamakasuttesu — “ahaṃ sakkhī bhagavā”ti sakkhibhāvena akampittha. Imasmiṃ pana brahmajāle dvāsaṭṭhiyā diṭṭhigatesu vijaṭetvā niggumbaṃ katvā desiyamānesu sādhukāradānavasena akampitthāti veditabbā.
Trong câu đó, nên biết quả địa cầu bị rúng động bởi tám lý do – (1) Sự rối loạn của các Đại-dhātu, (2) Oai lực của thần thông, (3) Bồ-tát nhập vào mẫu thai, (4) Bồ-tát lọt lòng mẹ, (5) Bồ-tát chứng đạt quả vị Toàn Giác, (6) đức Phật chuyển vận bánh xe Pháp, (7) đức Phật xả bỏ thọ hành, (8) đức Phật viên tịch Nibbāna. Lý giải những nguyên nhân ấy tôi sẽ nói trong phần giảng giải Pāḷī trong bài Kinh Đại Bát Nibbāna như vầy – “Này Ānanda, đây là tám nhân, tám duyên khiến quả địa cầu rúng động mạnh.” Hơn nữa, quả địa cầu lớn này rúng động trong tám trường hợp khác là – (1) trong khi thực hiện cuộc ra đi vĩ đại, (2) lúc ngài bước đến gần khuôn viên của cội Bồ Đề, (3) trong lúc ngài thọ lãnh y phấn tảo – paṃsukūla, (4) trong lúc ngài giặt y phấn tảo, (5) trong lúc thuyết giảng bài Kinh Kālāma, (6) trong lúc thuyết giảng bài Kinh Gotamaka, (7) trong lúc thuyết giảng Bổn Sanh Vessantara, (8) trong lúc thuyết giảng bài Kinh Mạng Lưới Cao Thượng. Trong tám lần ấy, khi ngài thực hiện cuộc ra đi vĩ đại và khi ngài bước đến gần khuôn viên cội Bồ Đề quả địa cầu đã rúng động bởi năng lực của sự tinh tấn. Khi thọ lãnh y phấn tảo quả địa cầu bị năng lực sự phi thường đã va chạm (như thể nói rằng) đức Thế Tôn từ bỏ bốn Đại châu lục, mỗi châu có hai ngàn châu nhỏ xung quanh, đã ra đi xuất gia ngài đi đến nghĩa địa, cầm lấy y phấn tảo, thực hiện hành động khó làm như thế (quả địa cầu) đã rúng động. Khi giặt y phấn tảo và khi thuyết giảng Bổn Sanh Vessantara quả địa cầu đã rúng động bởi sự dao động không phải thời. Khi thuyết giảng bài Kinh Kālāma và khi thuyết giảng bài Kinh Gotamaka quả địa cầu đã rúng động bởi người chứng kiến rằng: “Kính bậc đức Thế Tôn, con xin làm chứng”. Tuy nhiên, trong bài Kinh Mạng Lưới Cao Thượng này khi thuyết giảng việc tháo gỡ sáu mươi hai luận cứ, nên biết rằng ‘đã rúng động’ do mãnh lực ban lời tán thán.
Na kevalañca etesu ṭhānesuyeva pathavī akampittha, atha kho tīsu saṅgahesupi mahāmahindattherassa imaṃ dīpaṃ āgantvā jotivane nisīditvā dhammaṃ desitadivasepi akampittha. Kalyāṇiyavihāre ca Piṇḍapātiyattherassa cetiyaṅgaṇaṃ sammajjitvā tattheva nisīditvā buddhārammaṇaṃ pītiṃ gahetvā imaṃ suttantaṃ āraddhassa suttapariyosāne udakapariyantaṃ katvā akampittha. Lohapāsādassa pācīnāmbalaṭṭhikaṭṭhānaṃ[90] nāma ahosi. tattha nisīditvā dīghabhāṇakattherā brahmajālasuttaṃ ārabhiṃsu, tesaṃ sajjhāyapariyosānepi[91] udakapariyantameva katvā pathavī akampitthāti.
Evaṃ yassānubhāvena, akampittha anekaso.
Medanī suttaseṭṭhassa, desitassa sayambhunā.
Brahmajālassa tassīdha, dhammaṃ atthañca paṇḍitā.
Sakkaccaṃ uggahetvāna, paṭipajjantu yonisoti.
Và không chỉ riêng ở những trường hợp như vầy mà quả địa cầu đã rúng động, mà quả địa cầu đã rúng động ngay cả trong khi thực hiện ba lần kết tập, thậm chí vào ngày trưởng lão Mahinda đến châu lục này, đã ngồi thuyết giảng Giáo Pháp ở Jotivana và khi trưởng lão Piṇḍapātiya quét dọn khuôn viên Bảo tháp ở tu viện Kalyāṇiya rồi ngồi ở chính khuôn viên Bảo tháp ấy, nắm lấy hỷ lạc có đức Phật làm đối tượng, bắt đầu trì tụng bài Kinh này vào lúc chấm dứt bài Kinh quả địa cầu với nước biển bao bọc xung quanh đã rúng động. Có khu vực tên là Ambalaṭṭhika ở hướng Đông của lâu đài bằng đồng – Lohapāsāda, các vị trưởng lão trì tụng Trường Bộ đã ngồi ở nơi đó bắt đầu trì tụng bài Kinh Mạng Lưới Cao Thượng, ngay cả vào lúc mà các vị trưởng lão tụng kết thúc thì quả địa cầu với nước biển bao bọc xung quanh đã rúng động tương tự.
Do nhờ oai lực của bài Kinh tối thượng nào mà đấng Tạo Hóa đã thuyết giảng, quả địa cầu đã rúng động nhiều lần như vậy xin các bậc sáng trí hãy học tập một cách cung kính cùng với ý nghĩa Pháp của bài Kinh đó, có tên là Kinh Mạng Lưới Cao Thượng – Brahmajāla trong Giáo Pháp này, rồi hãy thực hành bằng đường lối đúng đắn.
Iti Sumaṅgalavilāsiniyā Dīghanikāyaṭṭhakathāyaṃ
Giải Thích Kinh Mạng Lưới Cao Thượng Được Kết Thúc
[1] theragā. 304
[2] ma. ni. 3.420
[3] a. ni. 5.73
[4] dha. sa. 121
[5] Sī, Syā. Puthuvacananiddeso
[6] paṭi. ma. 1.120
[7] Yā ayaṃ (bahūsu)
[8] Khu. su. 312
[9] saṃ. ni. 1.122
[10] cūḷava. 278
[11] ma. ni. 1.304
[12] saṃ. ni. 3.80
[13] saṃ. ni. 2.51
[14] dī. ni. 2.167
[15] pāci. 371
[16] mahāni. 28
[17] Sī, Syā. Adhimuttipadāni Ma 3. 18; AÑ 3. 285 piÔÔhesu passitabbaÑ.
[18] Syā, Ka. Te ca
[19] Syā. Iti
[20] Ka, Diṭṭhiyeva
[21] paṭi. ma. 1.124
[22] Pajānanaṃ (bahūsu)
[23] Sī. Aparappaccayā
[24] Syā. Ratā
[25] Diṭṭhigahaṇaṃ (bahusu)
[26] paṭi. ma. 1.50
[27] paṭi. ma. 1.50
[28] saṃ. ni. 3.26
[29] Syā. Vuccamānenāpi
[30] Syā, Ka. Tattha ekaccasassatikāti
[31] Syā. Pakatinibbattaṭṭhāneyeva
[32] vibha. 921
[33] dī. ni. 3.38
[34] a. ni. 4.33
[35] Syā. Sajjitā
[36] Syā. Saṃvibhajitā; Saṃvibhajetā
[37] dī. ni. 1.17
[38] Ka. Kāraṇavasena
[39] Sī. Vaṅkacchidde
[40] Sī, Syā. Vaṇṇavantataro
[41] Syā, Ka. Vi-ṭṭha 1. 169; Ma-ṭṭha 1. 105; Aṃ-ṭṭha 2. 375 piṭṭhesupi. Taṃ tattha
[42] Ka. Sampattiyā mahantatāya
[43] Si, Syā. Ime nāmāti
[44] Sī, Syā. Disvā kiṃ bho
[45] Syā. Suvijjānā, Ka. Savijānanā
[46] Ka. Takkīvāde
[47] Ka. Ekasmiṃ
[48] Syā, Ka. Vaḍḍhitakasiṇe
[49] Syā. Vādā
[50] Ka. Aññathāpi
[51] Syā, Ka. Ekaccasassataṃ ekacca-asassataṃ
[52] Sī, Ka. Sukhuma-atthantaraṃ
[53] Syā. Paññābalena
[54] Sī, Syā. Gāhayāti
[55] Sī. acittuppādarūpamattaka-attabhāvāti
[56] Syā, Ka. Anussaranto
[57] Sī, Syā. Upapattiṃ
[58] Sī. Kabaḷiṃ kāraṃ
[59] Syā. Dukkhavūpasamoti
[60] Laḷati (bahūsu) Sī-ṭī Abhinava 1. 450 piṭṭhe.
[61] Ka. Mānusikā
[62] Ka. Uppilāvitattaṃ , Dī-ṭī 1. 176; Sī-ṭī Abhinava 1. 452 piṭṭhesu.
[63] Syā, Ka. Pubbantakappike
[64] Syā, Ka. Aparantakappike pubbantāparantakappike ca
[65] Sī. Saṃsādo, Syā. Saṃsāro
[66] saṃ. ni. 4.241
[67] ma. ni. 3.10
[68] Sáu pháp hòa kính; 1 – Thân nghiệp từ Mettākāyakamma, 2. Khẩu nghiệp từ (Mettāvacīkamma), 3. Ý nghiệp từ Mettāmanokamma 4. Cộng hưởng lợi lộc Sādhāraṇabhogī, 5. Có giới Sa-môn Sīlasāmaññatā, 6. Có tri kiến Sa-môn Diṭṭhisāmaññatā
[69] a. ni. 5.38
[70] a. ni. 3.102
[71] saṃ. ni. 1.255
[72] saṃ. ni. 2.43
[73] Ka. Paccayaparamparāyā
[74] Sī, Syā, Ka. Evañcidaṃ
[75] a. ni. 10.61
[76] a. ni. 10.62
[77] Ka. Upanibandhakukkuṭo
[78] Sī, Ka. Paṭisaṃvediyamānānaṃ
[79] Sī, Syā. Samudayo
[80] Sī, Syā. Pajānāti
[81] Ka. Antogadhabhāvadassananti
[82] Syā. gamissantīti
[83] Syā. Jātamahāvaṇdo
[84] Ka. Vaṇṭe chinne
[86] saṃ. ni. 3.5
[87] saṃ. ni. 1.43
[88] dha. pa. 219
[89] ma. ni. 1.205
[90] Sī, Ka. Pācīnaṃ Ambalaṭṭhikaṭṭhānaṃ
[91] Ka. sajjhāyanapariyosānepi