Giảng giải Kinh Phạm Võng (Mạng lưới cao thượng)-02

(Brahmajālasuttavaṇṇanā)

Sumaṃgalavilāsinī – Giảng Giải Kinh Trường Bộ

      Xem Trường Bộ Kinh – Kinh Phạm Võng

Sīlakkhandhavagga – Phẩm Giới Uẩn

Kính đảnh lễ đức Thế Tôn, bậc A-ra-hán, đấng Chánh đẳng Chánh giác

 

(Tiếp theo phần 01)

Giải Thích Tiểu Giới

7. Appamattakaṃ kho panetaṃ, bhikkhaveti ko[1] anusandhi? Idaṃ suttaṃ dvīhi padehi ābaddhaṃ[2] vaṇṇena ca avaṇṇena ca. Tattha avaṇṇo — “iti petaṃ abhūtaṃ iti petaṃ atacchan”ti, ettheva udakantaṃ patvā aggiviya nivatto. Vaṇṇo pana bhūtaṃ bhūtato paṭijānitabbaṃ — “iti petaṃ bhūtan”ti evaṃ anuvattatiyeva. So pana duvidho brahmadattena bhāsitavaṇṇo ca bhikkhusaṅghena acchariyaṃ āvusotiādinā nayena āraddhavaṇṇo ca. Tesu bhikkhusaṅghena vuttavaṇṇassa upari suññatāpakāsane anusandhiṃ dassessati. idha pana brahmadattena vuttavaṇṇassa anusandhiṃ dassetuṃ “appamattakaṃ kho panetaṃ, bhikkhave”ti desanā āraddhā.

7. Sự tiếp nối bắt đầu như sau: “Này chư Tỳ khưu, trong lúc phàm phu nói lời ca ngợi Như Lai có thể nói đến chẳng qua là điều nhỏ nhặt, là điều quá thấp thỏi, chỉ thuộc cấp độ giới”, ám chỉ điều gì? Bài Kinh này đức Thế Tôn bắt đầu với 2 câu ‘việc ca ngợi và việc chê bai’. Ở đây, việc chê bai – “điều ấy như vậy là không đúng, điều ấy như thế là không xác thực”, lời nói đó liền bị dập tắt giống như lửa đã chạm phải nước. Còn việc ca ngợi cũng cần phải xác thực chắc chắn điều đúng là đúng (rằng) – “điều này như thế là đúng” hoàn toàn nương theo như vậy. Hơn nữa lời ca ngợi đó có hai cách là (1) lời tán thán của thanh niên trẻ Brahmadatta, và (2) lời tán tán của hội chúng Tỳ khưu ước muốn theo phương cách sau: “này các đại đức, thật là vi diệu”. Trong hai cách đó lời tán thán được hội chúng Tỳ khưu nói thì đức Thế Tôn sẽ trình bày sự tiếp nối vào lúc tuyên bố về ‘tánh không’ ở phần thượng. Nhưng trong trường hợp này muốn trình bày sự tiếp nối lời ca ngợi của thanh niên trẻ Brahmadatta mới bắt đầu thuyết rằng: “Này chư Tỳ khưu, trong lúc phàm phu nói lời ca ngợi Như Lai có thể nói đến chẳng qua là điều nhỏ nhặt, là điều quá thấp thỏi, chỉ thuộc cấp độ giới”.

Tattha appamattakanti parittassa nāmaṃ. Oramattakanti tasseva vevacanaṃ. Mattāti vuccati pamāṇaṃ. Appaṃ mattā etassāti appamattakaṃ. Oraṃ mattā etassāti oramattakaṃ. Sīlameva sīlamattakaṃ. Idaṃ vuttaṃ hoti — ‘appamattakaṃ kho, panetaṃ bhikkhave, oramattakaṃ sīlamattakaṃ’ nāma yena “tathāgatassa vaṇṇaṃ vadāmī”ti ussāhaṃ katvāpi vaṇṇaṃ vadamāno puthujjano vadeyyāti. Tattha siyā — nanu idaṃ sīlaṃ nāma yogino aggavibhūsanaṃ? yathāhu porāṇā —

Ở đây, điều nhỏ nhặt: để gọi những thứ nhỏ bé. Điều quá thấp thỏi: chỉ là từ đồng nghĩa với ‘điều nhỏ nhặt’. Kích cỡ được gọi là sự ước lượng. Gọi là có kích cỡ nhỏ bởi vì có sự ước lượng ít. Gọi là quá thấp thỏi bởi vì có sự đo lường thấp. Chỉ là giới, chính là giới. Điều này được nói là – “Này chư Tỳ khưu, điều đó quả thật là điều nhỏ nhặt, là điều thấp thỏi, chỉ thuộc cấp độ giới” điều mà phàm nhân trong lúc nói lời ca ngợi Như Lai dù đã thực hiện sự gắng sức, có thể nói “tôi (sẽ) nói lời tán thán Như Lai”. Trong câu đó nếu như có thể có câu hỏi rằng: – “Thông thường giới này làm phương tiện tô điểm tối thượng của hành giả không phải sao?” Như các bậc trưởng thượng đã nói –

“Sīlaṃ yogissa’laṅkāro, sīlaṃ yogissa maṇḍanaṃ.

Sīlehi’laṅkato[3] yogī, maṇḍane aggataṃ gato”ti.

Bhagavatāpi ca anekesu suttasatesu sīlaṃ mahantameva katvā kathitaṃ. yathāha — “ākaṅkheyya ce, bhikkhave, bhikkhu ‘sabrahmacārīnaṃ piyo cassaṃ manāpo ca garu ca bhāvanīyo cā’ti, sīlesvevassa paripūrakārī”ti[4] ca.

Giới hạnh là vật trang sức của hành giả, giới là vật điểm tô của hành giả. Hành giả được trang điểm bởi giới hạnh, đi đến bản thể tối thượng trong việc trang điểm ấy.

Thêm nữa, cả đức Thế Tôn cũng đã nói về giới được thực hành đưa đến vĩ đại ở trong hàng trăm bài Kinh. Như đã nói – “Này các Tỳ khưu, nếu Tỳ khưu có ước nguyện: ‘Mong rằng ta được các đồng phạm hạnh thương mến, yêu quý, cung kính và tôn trọng!’, Tỳ khưu ấy phải thực hành viên mãn giới luật”.

“Kikīva aṇḍaṃ, camarīva vāladhiṃ.

Piyaṃva puttaṃ, nayanaṃva ekakaṃ.

Tatheva sīlaṃ, anurakkhamānā.

Supesalā hotha, sadā sagāravā”ti ca.

Hoăc là, tựa như loài chim kikī bảo vệ trứng, tựa như loài bò xứ Tây Tạng bảo vệ cái đuôi, tựa như người bảo vệ đứa con trai yêu dấu, tựa như người bảo vệ con mắt độc nhất như thế nào, những người đang gìn giữ giới cũng tương tự y như thế, hãy là người có giới thật tốt đẹp, luôn luôn có sự tôn kính.

“Na pupphagandho paṭivātameti. Na candanaṃ taggaramallikā[5] vā.

Satañca gandho paṭivātameti. Sabbā disā sappuriso pavāyati.

Hương thơm của bông hoa không bay ngược chiều gió, (hương thơm của) gỗ trầm, gỗ tagara, hoặc hoa nhài cũng không. Nhưng hương thơm của bậc chân nhân bay ngược chiều gió, bậc chân nhân tỏa hương tất cả các phương (hương thơm giới hạnh).

Candanaṃ tagaraṃ[6] vāpi, uppalaṃ atha vassikī.

Etesaṃ gandhajātānaṃ, sīlagandho anuttaro.

Gỗ trầm, gỗ tagara, hoặc hoa sen, cả hoa nhài, trong số các loại có hương thơm  thì hương thơm của giới là vô thượng.

Appamatto ayaṃ gandho, yvāyaṃ tagaracandanaṃ[7].

Yo ca sīlavataṃ gandho, vāti devesu uttamo.

Hương thơm này của gỗ tagara hay gỗ trầm có phẩm lượng ít ỏi, còn hương thơm của các bậc có giới hạnh là hương thơm tôi thượng lan tỏa giữa chư Thiên.

Tesaṃ sampannasīlānaṃ, appamādavihārinaṃ.

Sammadaññā vimuttānaṃ, māro maggaṃ na vindatī”ti ca[8].

Đối với những vị có giới đã được viên mãn, đang sống với sự không xao lãng,

Đã được giải thoát nhờ vào hiểu biết chân chánh, Ma Vương không tìm ra đạo lộ của những vị ấy.                        

“Sīle patiṭṭhāya naro sapañño, cittaṃ paññañca bhāvayaṃ.

Ātāpī nipako bhikkhu, so imaṃ vijaṭaye jaṭan”ti ca.[9]

Người có trí tuệ, đã đặt nền móng ở giới, tu tập tâm và tuệ.

Vị tỳ khưu tinh cần, có tuệ bảo vệ mình, vị ấy có thể gỡ ra mối rối này.

“Seyyathāpi, bhikkhave, ye keci bījagāmabhūtagāmā vuḍḍhiṃ virūḷhiṃ vepullaṃ āpajjanti, sabbe te pathaviṃ nissāya, pathaviyaṃ patiṭṭhāya; evamete bījagāmabhūtagāmā vuḍḍhiṃ virūḷhiṃ vepullaṃ āpajjanti. Evameva kho, bhikkhave, bhikkhu sīlaṃ nissāya sīle patiṭṭhāya sattabojjhaṅge bhāvento sattabojjhaṅge bahulīkaronto vuḍḍhiṃ virūḷhiṃ vepullaṃ pāpuṇāti dhammesū”ti[10] ca. Evaṃ aññānipi anekāni suttāni daṭṭhabbāni. Evamanekesu suttasatesu sīlaṃ mahantameva katvā kathitaṃ. Taṃ “kasmā imasmiṃ ṭhāne appamattakan”ti āhāti? Upari guṇe upanidhāya. sīlañhi samādhiṃ na pāpuṇāti, samādhi paññaṃ na pāpuṇāti, tasmā uparimaṃ upanidhāya heṭṭhimaṃ oramattakaṃ nāma hoti.

Hoặc là, “Này các Tỳ khưu, cũng giống như các loại hạt giống, các loại thảo mộc này được lớn lên, sự phát triển, tăng trưởng, lớn mạnh là vì tất cả chúng đều y cứ vào đất, nương tựa vào đất. Nhờ vậy các loại hạt giống, các loại thảo mộc này được sự phát triển, tăng trưởng, lớn mạnh. Này các Tỳ khưu, tương tự y như thế, sau khi nương tựa vào giới sau khi thiết lập ở giới, vị Tỳ khưu tu tập Thất Giác Chi, làm cho sung mãn Thất Giác Chi đạt đến sự phát triển, sự tăng trưởng, và sự lớn mạnh trong các Pháp. Kể cả những bài Kinh khác không phải ít cũng nên hiểu như vậy. Đức Thế Tôn đã thuyết về Giới, thực hiện cho lớn mạnh ngay trong hàng trăm bài Kinh như vậy không phải sao, nhưng tại sao trong trường hợp này ngài lại nói về Giới rằng ‘là nhỏ nhặt’? Để so sánh với ân đức cao hơn. Bởi vì Giới vẫn chưa đạt đến Định, Định vẫn chưa đạt đến Tuệ, vì thế so sánh với ân đức cao hơn nữa, Giới thuộc phần hạ mới gọi là ‘thấp thỏi’.

Kathaṃ sīlaṃ samādhiṃ na pāpuṇāti? bhagavā hi abhisambodhito sattame saṃvacchare sāvatthinagara — dvāre kaṇḍambarukkhamūle dvādasayojane ratanamaṇḍape yojanappamāṇe ratanapallaṅke nisīditvā tiyojanike dibbasetacchatte dhāriyamāne dvādasayojanāya parisāya attādānaparidīpanaṃ titthiyamaddanaṃ — “uparimakāyato aggikkhandho pavattati, heṭṭhimakāyato udakadhārā pavattati … pe … ekekalomakūpato aggikkhandho pavattati, ekekalomakūpato udakadhārā pavattati, channaṃ vaṇṇānan”tiādinayappavattaṃ yamakapāṭihāriyaṃ dasseti. Tassa suvaṇṇavaṇṇasarīrato suvaṇṇavaṇṇā rasmiyo uggantvā yāva bhavaggā gacchanti, sakaladasasahassacakkavāḷassa alaṅkaraṇakālo viya hoti, dutiyā dutiyā rasmiyo purimāya purimāya yamakayamakā viya[11] ekakkhaṇe viya pavattanti.

Giới vẫn chưa đạt đến Định là (có ý nghĩa) như thế nào? Vì đức Thế Tôn vào năm thứ bảy kể từ khi giác ngộ đã ngự trên Bảo Thạch Tọa có kích thước một do-tuần, bên trong mái che bằng châu báu có kích thước mười hai do-tuần tại gốc cây kaṇḍamba ở gần cổng thành Sāvatthī khi các Thiên nhân trong lúc cầm che cây lọng trắng thuộc cõi trời có kích thước ba do-tuần (ngài) đã thị hiện Song Thông để nhiếp phục hàng ngoại đạo giảng giải rõ ràng của việc đích thân (thị hiện Song Thông) trong hội chúng khoảng chừng mười hai do tuần, tức là thị hiện Song Thông vận hành theo cách thức sau: “Ngài phát ra khối lửa từ phần thân phía trên, phát ra dòng nước từ phần thân phía dưới …nt… phát ra khối lửa từ mỗi một lỗ chân lông, phát ra dòng nước từ mỗi một lỗ chân lông, có hào quang sáu màu[12]”. Hào quang có màu sắc hoàng kim phát ra từ kim thân có màu sắc tựa như màu vàng rồng của đức Thế Tôn lan tỏa đến cõi trời cao nhất y như thể thời gian trang hoàng toàn bộ mười ngàn thế giới. Hào quang lần thứ hai với lần thứ nhất giống nhau thành từng đôi từng đôi phát ra trong cùng một sát-na.

Dvinnañca cittānaṃ ekakkhaṇe pavatti nāma natthi. buddhānaṃ pana bhagavantānaṃ bhavaṅgaparivāsassa lahukatāya pañcahākārehi āciṇṇavasitāya ca, tā ekakkhaṇe viya pavattanti. Tassā tassā pana rasmiyā āvajjanaparikammādhiṭṭhānāni visuṃ visuṃyeva.

Không thể gọi 2 tam sanh khởi trong một sát-na được. Tuy nhiên chư Phật có việc nghỉ ngơi tâm hộ kiếp nhanh chóng, và có sự thiện xảo được huân tập bởi 5 biểu hiện – ākāra ấy, những hào quang ấy phát ra y như trong cùng một sát-na. Nhưng những hào quang đó vẫn có Hướng Tâm – Āvajjana, Chuẩn Bị – Parikamma, Quyết Định – Adhiṭṭhāna được tách rời riêng biệt.

Nīlarasmiatthāya hi Bhagavā nīlakasiṇaṃ samāpajjati, pītarasmiatthāya pītakasiṇaṃ, lohitaodātarasmiatthāya lohitaodātakasiṇaṃ, aggikkhandhatthāya tejokasiṇaṃ, udakadhāratthāya āpokasiṇaṃ samāpajjati. Satthā caṅkamati, nimmito tiṭṭhati vā nisīdati vā seyyaṃ vā kappetīti[13] sabbaṃ vitthāretabbaṃ. Ettha ekampi sīlassa kiccaṃ natthi, sabbaṃ samādhikiccameva. Evaṃ sīlaṃ samādhiṃ na pāpuṇāti.

Thật vậy, đức Thế Tôn có ý muốn hào quang màu xanh, ngài thể nhập vào biến xứ xanh; có ý muốn hào quang màu vàng, ngài thể nhập vào biến xứ vàng; có ý muốn hào quang màu đỏ và trắng, ngài thể nhập vào biến xứ đỏ, biến xứ trắng; có ý muốn phát ra lửa, ngài thể nhập vào biến xứ lửa; có ý muốn phát ra dòng nước, ngài thể nhập vào biến xứ nước. Bậc Đạo đi kinh hành thì hình biến hóa cũng ở tư thế đứng, hoặc tư thế ngồi, hoặc nằm. Bậc trí nên giải thích chi tiết tất cả các câu theo cách này. Trong trường hợp này phận sự của Giới dù chỉ một chút cũng không có, tất cả đều là phận sự của Định. Giới không đạt đến Định là (có ý nghĩa) như thế.

Yaṃ pana bhagavā kappasatasahassādhikāni cattāri asaṅkhyeyyāni pāramiyo pūretvā, ekūnatiṃsavassakāle Cakkavattisirīnivāsabhūtā bhavanā nikkhamma Anomānadītīre pabbajitvā, chabbassāni padhānayogaṃ katvā, Visākhapuṇṇamāyaṃ Uruvelagāme Sujātāya dinnaṃ pakkhittadibbojaṃ madhupāyāsaṃ paribhuñjitvā, Sāyanhasamaye dakkhiṇuttarena bodhimaṇḍaṃ pavisitvā assatthadumarājānaṃ tikkhattuṃ padakkhiṇaṃ katvā, pubbuttarabhāge ṭhito tiṇasanthāraṃ santharitvā, tisandhipallaṅkaṃ ābhujitvā, caturaṅgasamannāgataṃ mettākammaṭṭhānaṃ pubbaṅgamaṃ katvā, vīriyādhiṭṭhānaṃ adhiṭṭhāya, cuddasahatthapallaṅkavaragato suvaṇṇapīṭhe ṭhapitaṃ[14] rajatakkhandhaṃ viya paññāsahatthaṃ bodhikkhandhaṃ piṭṭhito katvā, upari maṇichattena viya bodhisākhāya dhāriyamāno, suvaṇṇavaṇṇe cīvare pavāḷasadisesu bodhiaṅkuresu patamānesu, sūriye atthaṃ upagacchante mārabalaṃ vidhamitvā, paṭhamayāme pubbenivāsaṃ anussaritvā, majjhimayāme dibbacakkhuṃ visodhetvā, paccūsakāle sabbabuddhānamāciṇṇe paccayākāre ñāṇaṃ otāretvā, ānāpānacatutthajjhānaṃ nibbattetvā, tadeva pādakaṃ katvā vipassanaṃ vaḍḍhetvā, maggapaṭipāṭiyā adhigatena catutthamaggena sabbakilese khepetvā sabbabuddhaguṇe paṭivijjhi, idamassa paññākiccaṃ. Evaṃ samādhi paññaṃ na pāpuṇāti.

Hơn nữa, điều mà đức Thế Tôn sau khi tròn đủ Ba-la-mật suốt bốn a-tăng-kỳ với một trăm ngàn kiếp, vào năm hai mươi chín tuổi ngài đã rời khỏi cung điện nguy nga của vua Chuyển Luân để đi xuất gia ở bờ sông Anomā, đã thực hành sự nỗ lực tinh tấn suốt sáu năm, khi đến ngày trăng tròn Visākha ngài đã thọ dụng món cơm sữa được trộn với dưỡng chất ở cõi trời mà nàng Sujāta trong làng Uruvela cúng dường, vào buổi chiều ngài đến khuôn viên cội Bồ-đề ở hướng Nam và hướng Bắc, đã nhiễu quanh cây Bồ-đề ba lần, rồi đứng về hướng Đông Bắc, đã trải ra nắm cỏ, đã ngồi với tư thế kiết già thực hành đề mục tâm từ hội đủ với bốn yếu tố làm nền tảng, đã chú nguyện xác định sự tinh tấn, ngài đã bước lên Bồ Đoàn quý báu cao 14 cánh tay, dựa phần lưng hướng về phía thân cây Bồ-đề cao 50 cánh tay, như thể cây bạc được đặt ở trên ghế vàng, ở bên trên được các nhánh cây Bồ-đề che chắn như thể cây lọng được tạc bằng ngọc ma-ni, có các chồi non Bồ-đề như thể những viên ngọc san hô rơi xuống chiếc y có màu sắc như màu hoàng kim, vào lúc mặt trời gần sắp lặn ngài đã chế ngự được Ác Ma và đạo binh của Ác Ma, ngài đã chứng đạt Túc Mạng Minh vào canh đầu, đã làm trong sạch thiên nhãn vào canh giữa, khi trời gần sáng ngài đã mang trí tuệ vào trong Duyên Khởi – Paccayākāra mà tất cả chư Phật Toàn Giác đã thực hành, khiến Tứ thiền có đề mục niệm hơi thở làm đối tượng sanh khởi, làm cho Tứ thiền trở thành nền tảng để phát triển Minh Sát, ngài đã làm cạn kiệt hết tất cả phiền não bằng Thánh Đạo thứ 4 (A-ra-hán Đạo) mà ngài đã chứng đắc theo tuần tự của Đạo, thấu triệt toàn bộ ân đức Phật, đây là phận sự của Tuệ. Định không đạt đến Tuệ là (có ý nghĩa) như vậy.

Tattha yathā hatthe udakaṃ pātiyaṃ udakaṃ na pāpuṇāti, pātiyaṃ udakaṃ ghaṭe udakaṃ na pāpuṇāti, ghaṭe udakaṃ kolambe udakaṃ na pāpuṇāti, kolambe udakaṃ cāṭiyaṃ udakaṃ na pāpuṇāti, cāṭiyaṃ udakaṃ mahākumbhiyaṃ udakaṃ na pāpuṇāti, mahākumbhiyaṃ udakaṃ kusobbhe udakaṃ na pāpuṇāti, kusobbhe udakaṃ kandare udakaṃ na pāpuṇāti, kandare udakaṃ kunnadiyaṃ udakaṃ na pāpuṇāti, kunnadiyaṃ udakaṃ pañcamahānadiyaṃ udakaṃ na pāpuṇāti, pañcamahānadiyaṃ udakaṃ cakkavāḷamahāsamudde udakaṃ na pāpuṇāti, cakkavāḷamahāsamudde udakaṃ sinerupādake mahāsamudde udakaṃ na pāpuṇāti. pātiyaṃ udakaṃ upanidhāya hatthe udakaṃ parittaṃ … pe … sinerupādakamahāsamudde udakaṃ upanidhāya cakkavāḷamahāsamudde udakaṃ parittaṃ[15]. Iti uparūpari udakaṃ bahukaṃ upādāya heṭṭhā heṭṭhā udakaṃ parittaṃ hoti.

Trong trường hợp ấy thì nước ở trong lòng bàn tay không đạt đến (bằng) nước ở trong cái mâm, nước trong cái mâm không đạt đến (bằng) nước ở trong cái bình, nước trong cái bình không đạt đến (bằng) nước ở trong cái chĩnh, nước trong cái chĩnh không đạt đến (bằng) nước ở trong cái chum, nước trong cái chum không đạt đến (bằng) nước ở trong cái lu, nước trong cái lu không đạt đến (bằng) nước ở trong cái hồ, nước trong cái hồ không đạt đến (bằng) nước ở trong con suối, nước trong con suối không đạt đến (bằng) nước ở trong dòng sông nhỏ, nước trong dòng sông nhỏ không đạt đến (bằng) nước ở trong năm con sông lớn, nước trong năm con sông lớn không đạt đến (bằng) nước ở trong đại dương thế giới, nước trong đại dương thế giới không đạt đến (bằng) nước ở trong đại dương ở chân núi Suneru, nước trong lòng bàn tay so sánh với nước trong cái mâm thì cũng ít ỏi …nt… nước trong đại dương thế giới so sánh với nước ở chân núi Suneru thì cũng ít ỏi, vì thế nước ban đầu đạt đến nhiều cũng vẫn là ít ỏi so với nước sau đó là như thế.   

Evameva upari upari guṇe upādāya heṭṭhā heṭṭhā sīlaṃ appamattakaṃ oramattakanti veditabbaṃ. Tenāha — “appamattakaṃ kho panetaṃ, bhikkhave, oramattakaṃ sīlamattakan”ti.

Câu này so sánh như thế nào thì Giới ở phần dưới cũng so sánh tương tự như thế ấy, nên biết rằng ‘là nhỏ nhặt, là thấp thỏi’ bằng việc so sánh với ân đức cao hơn. Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Này chư Tỳ khưu, điều đó là nhỏ nhặt, điều đó là thấp thỏi, chỉ thuộc cấp độ giới”.

 

Giải Thích Từ ‘Phàm Nhân’

Yena puthujjanoti, ettha —

“Duve puthujjanā vuttā, buddhenādiccabandhunā.

Andho puthujjano eko, kalyāṇeko puthujjano”ti.

Tattha yassa khandhadhātuāyatanādīsu uggaha paripucchā savana dhāraṇa paccavekkhaṇāni natthi, ayaṃ andhaputhujjano. Yassa tāni atthi, so kalyāṇaputhujjano. duvidhopi panesa —

“Puthūnaṃ jananādīhi, kāraṇehi puthujjano.

Puthujjanantogadhattā, puthuvāyaṃ jano iti”.

So hi puthūnaṃ nānappakārānaṃ kilesādīnaṃ jananādīhi kāraṇehi puthujjano. yathāha –

Điều mà phàm nhân…, này –

“Đức Phật, bậc thân quyến của mặt trời đã nói có hai hạng phàm nhân, hạng thứ nhất là phàm nhân mù lòa, hạng còn lại là phàm nhân hiểu biết”

 Trong hai hạng ấy thì phàm nhân không được học tập, vấn hỏi, lắng nghe, ghi nhớ và quán xét trong Uẩn, Giới và Xứ v.v, đây gọi là phàm nhân mù lòa. Phàm nhân có những phận sự đó gọi là phàm nhân hiểu biết. Hơn nữa, thêm hai hạng phàm nhân –

“Gọi là phàm nhân bởi các lý do sản sinh ra các ô nhiễm khác nhau, những người này là người dày đặc (phiền não) bởi vì có phiền não dày đặc chìm sâu ở bên trong.”

Thật vậy, phàm nhân ấy được gọi là phàm nhân bởi lý do sau: sản sinh ra các ô nhiễm khác nhau. Như vị Tướng quân Chánh pháp Sārīputta đã nói –

“Puthu[16] kilese janentīti puthujjanā, puthu avihatasakkāyadiṭṭhikāti puthujjanā, puthu satthārānaṃ mukhullokikāti puthujjanā, puthu sabbagatīhi avuṭṭhitāti puthujjanā, puthu nānābhisaṅkhāre abhisaṅkharontīti puthujjanā, puthu nānāoghehi vuyhanti, puthu santāpehi santappanti, puthu pariḷāhehi pariḍayhanti, puthu pañcasu kāmaguṇesu rattā giddhā gathitā[17] mucchitā ajjhopannā[18] laggā laggitā palibuddhāti puthujjanā, puthu pañcahi nīvaraṇehi āvutā nivutā ovutā[19] pihitā paṭicchannā paṭikujjitāti puthujjanā”ti. Puthūnaṃ gaṇanapathamatītānaṃ ariyadhammaparammukhānaṃ nīcadhammasamācārānaṃ janānaṃ antogadhattāpi puthujjano, puthuvāyaṃ visuṃyeva saṅkhyaṃ gato visaṃsaṭṭho sīlasutādiguṇayuttehi ariyehi janehīti puthujjanoti.

‘do sản sinh ra các ô nhiễm khác nhau’ là phàm phu. ‘Do có sự nhận thức sai trái về thân chưa được phá tan’ là phàm phu. ‘Do tin theo nhiều vị thầy’ là phàm phu. ‘Do chưa thoát ra khỏi các cảnh giới tái sanh’ là phàm phu. ‘Do đã tạo ra các sự tạo tác khác nhau’ là phàm phu. ‘Do bị nhiều dòng lũ khác nhau cuốn trôi’ là phàm phu. ‘Do bị nóng nảy bởi nhiều sự nóng nảy khác nhau’ là phàm phu. ‘Do bị thiêu đốt bởi nhiều sự bực bội khác nhau’ là phàm phu. ‘Do bị luyến ái, bị thèm khát, bị buộc trói, bị mê mẩn, bị gần gũi, bị máng vào, bị vướng vào, bị giữ lại ở năm loại dục’ là phàm phu. ‘Do bị bao bọc, bị bao trùm, bị bao kín, bị che lại, bị che kín, bị đậy kín bởi năm pháp ngăn che’ là phàm phu. Bởi đã ăn sâu vào bên trong của vô số người không sao đếm xuể tất cả đều quay lưng với Thánh Pháp chỉ thực hành theo Ác Pháp như thế cũng có. Do những người này là những người dày đặc (phiền não), tức là đi đến việc tính đếm (rằng) đây hoàn toàn là một nhóm riêng biệt, không liên quan gì đến các bậc Thánh nhân, những vị gắn liền với các ân đức có Giới và sự học hỏi.

 

Giải Thích Từ ‘Như Lai – Tathāgata’

Tathāgatassāti aṭṭhahi kāraṇehi bhagavā tathāgato. Tathā āgatoti tathāgato, tathā gatoti tathāgato, tathalakkhaṇaṃ āgatoti tathāgato, tathadhamme yāthāvato abhisambuddhoti tathāgato, tathadassitāya tathāgato, tathavāditāya tathāgato, tathākāritāya tathāgato, abhibhavanaṭṭhena tathāgatoti.

Như Lai: Đức Thế Tôn có hồng danh Như Lai với tám lý do. (1) ‘vì ngài đã đến như vậy’ là Như Lai, (2) ‘vì ngài đã đi như vậy’ là Như Lai, (3) ‘vì ngài đã đến bằng tướng trạng thật sự’ là Như Lai, (4) ‘vì ngài đã hoàn toàn giác ngộ theo đúng thực tính các Pháp thực thể’ là Như Lai, (5) ‘vì ngài đã nhìn thấy đối tượng như thật’ là Như Lai, (6) ‘vì có lời nói thật’ là Như Lai, (7) ‘vì thực hành thật’ là Như Lai, (8) ‘vì sự chinh phục’ là Như Lai.

Kathaṃ Bhagavā tathā āgatoti Tathāgato? Yathā sabbalokahitāya ussukkamāpannā purimakā sammāsambuddhā āgatā, yathā Vipassī Bhagavā āgato, yathā Sikhī Bhagavā, yathā Vessabhū Bhagavā, yathā Kakusandho Bhagavā, yathā Koṇāgamano Bhagavā, yathā Kassapo Bhagavā āgato. Kiṃ vuttaṃ hoti? Yena abhinīhārena ete bhagavanto āgatā, teneva amhākampi bhagavā āgato.

(1) Đức Thế Tôn có hồng danh Như Lai vì ngài đã đến như vậylà (có ý nghĩa) như thế nào? Như bậc Chánh đẳng Chánh giác quá khứ thể hiện sự nỗ lực vì lợi ích cho tất cả chúng sanh, ngài đã đến; như đức Thế Tôn Vipassī đã đến, như đức Thế Tôn Sikhī, như đức Thế Tôn Vessabhū, như đức Thế Tôn Kakusandha, như đức Thế Tôn Koṇāgamana, như đức Thế Tôn Kassapa đã đến. (vì lợi ích của tất cả chúng sanh thế nào, đức Thế Tôn của chúng ta Ngài cũng đến vì lợi ích của tất cả chúng sanh tương tự như thế đó). Điều này giải thích thế nào? Các đức Thế Tôn đó đã đến vì đại nguyện nào, đức Thế Tôn của tất cả chúng ta cũng đã đến vì đại nguyện đó.

Atha vā yathā Vipassī Bhagavā … pe … yathā Kassapo Bhagavā dānapāramiṃ pūretvā, sīla nekkhamma paññā vīriya khanti sacca adhiṭṭhāna mettā upekkhāpāramiṃ pūretvā, imā dasa pāramiyo, dasa upapāramiyo, dasa paramatthapāramiyoti samatiṃsapāramiyo pūretvā aṅgapariccāgaṃ, nayanadhanarajjaputtadārapariccāganti[20] ime pañca mahāpariccāge pariccajitvā pubbayoga-pubbacariya-dhammakkhānañātatthacariyādayo pūretvā Buddhicariyāya[21] koṭiṃ patvā āgato; tathā amhākampi Bhagavā āgato.

Hay là, đức Thế Tôn Vipassī…đức Thế Tôn Kassapa đã thực hành bố thí ba-la-mật, đã thực hành giới ba-la-mật, xuất ly ba-la-mật, trí tuệ ba-la-mật, tinh tấn ba-la-mật, kham nhẫn ba-la-mật, chân thật ba-la-mật, quyết định ba-la-mật, tâm từ ba-la-mật, tâm xả ba-la-mật; Ngài đã thực hành ba mươi pháp ba-la-mật là mười pháp ba-la-mật bậc hạ, mười pháp ba-la-mật bậc trung và mười pháp ba-la-mật bậc thượng; Ngài đã thực hành năm pháp đại thí là bố thí các chi phần trên cơ thể, bố thí mạng sống bố thí tài sản, bố thí ngai vàng, bố thí con và bố thí vợ, đã thực hành sự siêng năng chăm chỉ ban đầu [pubbayoga], sự thực hành liên tục từ đầu [pubbacariya], việc giảng dạy giáo pháp và thực hành lợi ích cho quyến thuộc v.v, đã đạt đến tận cùng của việc thực hành lợi ích ở địa vị đức Phật [buddhicariyā] ngài đã đến thế nào, đức Thế Tôn của chúng ta Ngài cũng đã đến như thế đó.

Atha vā yathā Vipassī Bhagavā … pe … Kassapo Bhagavā cattāro satipaṭṭhāne, cattāro sammappadhāne, cattāro iddhipāde, pañcindriyāni, pañca balāni, satta bojjhaṅge, ariyaṃ aṭṭhaṅgikaṃ maggaṃ bhāvetvā brūhetvā āgato, tathā amhākampi Bhagavā āgato. Evaṃ tathā āgatoti Tathāgato.

Hoặc là, như đức Thế Tôn Vipassī…như đức Thế Tôn Kassapa đã tu tập, đã làm tăng trưởng bốn sự thiết lập niệm, bốn chánh cần, bốn nền tảng của thần thông, ngũ quyền, ngũ lực, bảy yếu tố đưa đến giác ngộ, thánh đạo tám chi phần các ngài đã đến như thế nào, thì đức Thế Tôn của chúng ta ngài cũng đã đến như thế đó. ‘Vì đã đến như thế’ là Như Lai (có ý nghĩa) là như vậy.

“Yatheva lokamhi vipassiādayo, Sabbaññubhāvaṃ munayo idhāgatā.

Tathā ayaṃ sakyamunīpi āgato, Tathāgato vuccati tena cakkhumā”ti.

Evaṃ tathā āgatoti tathāgato.

Các bậc Hiền Trí có đức Phật Vipassī v.v, Ngài đã đạt đến bản thể  Toàn Giác ở đời này bằng cách nào; thì bậc Hiền Trí dòng Sakya, Ngài cũng đã đến bằng cách đó. Với lý do ấy đức Thế Tôn vị Hữu Nhãn được gọi là Như Lai.

Đức Thế Tôn, ‘vì đã đến như thế’ là Như Lai (có ý nghĩa) là như vậy.

Kathaṃ tathā gatoti tathāgato? Yathā sampatijāto Vipassī Bhagavā gato … pe … Kassapo Bhagavā gato. Kathañca so Bhagavā gato? So hi sampati jātova samehi pādehi pathaviyaṃ patiṭṭhāya uttarābhimukho[22] sattapadavītihārena gato. Yathāha — “Sampatijāto kho, Ānanda, bodhisatto samehi pādehi patiṭṭhahitvā uttarābhimukho sattapadavītihārena gacchati, setamhi chatte anudhāriyamāne sabbā ca disā anuviloketi, āsabhiṃ vācaṃ[23] bhāsati — ‘Aggohamasmi lokassa, jeṭṭhohamasmi lokassa, seṭṭhohamasmi lokassa, ayamantimā jāti, natthidāni punabbhavo’ti”[24]

(2) Đức Thế Tôn có hồng danh là Như Lai ‘vì ngài đã đi như vậy’ là (có ý nghĩa) như thế nào? Như đức Thế Tôn Vipassī khi vừa được sanh ra (tức khắc) đã bước đi…nt… đức Thế Tôn Kassapa (tức khắc) đã bước đi. Và đức Thế Tôn ấy đã đi như thế nào? Thật vậy, vị ấy khi vừa được sanh ra Bồ-tát khi sanh ra ngài đứng vững chãi trên bề mặt địa đại bằng hai chân đều nhau, mặt hướng phía Bắc, rồi bước đi bảy bước. Như ngài đã nói: “Này Ānanda, vị Bồ-tát khi vừa mới sanh ra, ngài đứng vững chãi trên bề mặt địa đại bằng hai chân đều nhau, mặt hướng phía Bắc, rồi bước đi bảy bước, có chư Thiên cầm lọng trắng che bên trên. Ngài nhìn khắp mọi phương hướng, nói ra lời nói tối thượng (lời nói có âm thanh như con bò đực) như sau: “Ta là bậc đứng đầu ở thế gian, Ta là bậc cao cả ở thế gian, Ta là bậc tối thượng ở thế gian, đây là kiếp sống cuối cùng, giờ đây không còn phải tái sanh nữa.

Tañcassa gamanaṃ tathaṃ ahosi avitathaṃ anekesaṃ visesādhigamānaṃ pubbanimittabhāvena. Yañhi so sampatijātova samehi pādehi patiṭṭhahi. idamassa caturiddhipādapaṭilābhassa pubbanimittaṃ. Uttarābhimukhabhāvo pana sabbalokuttarabhāvassa pubbanimittaṃ. Sattapadavītihāro, sattabojjhaṅgaratanapaṭilābhassa. “Suvaṇṇadaṇḍā vītipatanti cāmarā”ti[25], ettha vuttacāmarukkhepo pana sabbatitthiyanimmaddanassa[26]. Setacchattadhāraṇaṃ, arahattavimuttivaravimalasetacchattapaṭilābhassa. Sattamapadūpari ṭhatvā sabbadisānuvilokanaṃ, sabbaññutānāvaraṇañāṇapaṭilābhassa. Āsabhivācābhāsanaṃ appaṭivattiyavaradhammacakkappavattanassa pubbanimittaṃ. Tathā ayaṃ bhagavāpi gato, tañcassa gamanaṃ tathaṃ ahosi, avitathaṃ, tesaṃyeva visesādhigamānaṃ pubbanimittabhāvena. Tenāhu porāṇā —

Và việc đi như vậy của đức Thế Tôn ấy đã trở thành biểu hiện thật sự không bị biến đổi với điềm báo trước của việc chứng đạt nhiều ân đức cao thượng. Thật vậy, khi Ngài vừa mới sanh ra (ngay lập tức) đứng vững chãi trên bề mặt địa đại bằng hai chân đều nhau, đây là điềm báo trước của sự chứng đạt Tứ Như Ý Túc.

– Lại nữa, ngài quay mặt về hướng Bắc là điềm báo trước của (sự chứng đạt) toàn bộ pháp xuất thế gian.

– Ngài bước đi bảy bước là điềm báo trước của sự chứng đạt Thất Giác Chi.

– Hơn nữa, ở đây việc cầm cây phất trần được nói như sau: “phe phẩy tới lui những cây phất trần có tay cầm bằng vàng” đây là điềm báo trước của việc đánh bại tất cả bọn ngoại đạo.

– Việc che cây lọng trắng là điềm báo trước của việc đạt được cây lộng trắng thanh tịnh, tối thượng, là sự giải thoát bởi sức mạnh A-ra-hán.

– Việc đứng (lại) vào bước thứ 7 rồi  nhìn khắp mọi phương hướng là điềm báo trước của việc chứng đạt Trí Toàn Giác không bị chướng ngại.

– Việc nói ra lời nói tối thượng (lời nói có âm thanh như con bò đực) là điềm báo trước của việc tuyên thuyết Chuyển Vận Bánh Xe Pháp cao thượng mà không ai (có thể) làm thay đổi. Ngay cả đức Thế Tôn này ngài cũng đã đi tương tự y như thế, và việc đi của vị ấy cũng đã trở thành biểu hiện thực sự, không bị thay đổi bởi tính chất điềm báo trước của việc chứng đạt những ân đức cao thượng ấy. Vì thế, các tài liệu cổ Porāṇā đã nói rằng:

“Muhuttajātova gavampatī yathā, samehi pādehi phusī vasundharaṃ.

So vikkamī satta padāni Gotamo, setañca chattaṃ anudhārayuṃ marū.

Gantvāna so satta padāni Gotamo, disā vilokesi samā samantato.

Aṭṭhaṅgupetaṃ giramabbhudīrayi, sīho yathā pabbatamuddhaniṭṭhito”ti.

Evaṃ tathā gatoti tathāgato.

“Ngài Gotama vừa mới sinh chỉ trong phút chốc, đã chạm vào bề mặt quả địa cầu bằng hai chân đều nhau, rồi bước đi bảy bước. Như bò chúa vừa mới sinh ngay lập tức, khi chân tiếp xúc mặt đất cũng đã bước đi, và chư thiên đã che cây lọng trắng bên trên cúng dường;

 Ngài Gotama, vị ấy sau khi bước bảy bước; đã nhìn khắp các phương hướng. Thốt lên với âm giọng kết hợp với tám phẩm chất; như thể sư tử chúa đứng trên đỉnh núi gầm lên tiếng gầm sư tử.”

‘Đã đi như vậy’ là Như Lai (có ý nghĩa) là như thế.

Atha vā yathā Vipassī Bhagavā … pe … yathā Kassapo Bhagavā, ayampi bhagavā tatheva nekkhammena kāmacchandaṃ pahāya gato, abyāpādena byāpādaṃ, ālokasaññāya thinamiddhaṃ, avikkhepena uddhaccakukkuccaṃ, dhammavavatthānena vicikicchaṃ pahāya ñāṇena avijjaṃ padāletvā[27], pāmojjena aratiṃ vinodetvā, paṭhamajjhānena nīvaraṇakavāṭaṃ ugghāṭetvā, dutiyajjhānena vitakkavicāraṃ vūpasametvā, tatiyajjhānena pītiṃ virājetvā[28], catutthajjhānena sukhadukkhaṃ pahāya, ākāsānañcāyatanasamāpattiyā rūpasaññāpaṭighasaññānānattasaññāyo samatikkamitvā, viññāṇañcāyatanasamāpattiyā ākāsānañcāyatanasaññaṃ, ākiñcaññāyatanasamāpattiyā viññāṇañcāyatanasaññaṃ, nevasaññānāsaññāyatanasamāpattiyā ākiñcaññāyatanasaññaṃ samatikkamitvā gato.

Hoặc là, như đức Thế Tôn Vipassī …nt… như đức Thế Tôn Kassapa đã đi như thế nào, đức Thế Tôn của chúng ta đã đi tương tự y như thế. Đức Thế Tôn đã đi nhờ sự xuất ly đã đoạn trừ sự ước muốn trong các dục; đã đoạn trừ sân hận bằng sự không sân hận; đã đoạn trừ hôn trầm thụy miên bằng sự nghĩ tưởng đến ánh sáng, đã đoạn trừ phóng dật bằng sự không xao lãng, đã đoạn trừ hoài nghi do xác định pháp, đã đoạn trừ vô minh bằng trí tuệ, đã làm tiêu tan sự không hoan hỷ với sự hân hoan; đã mở cửa các pháp ngăn che do Sơ thiền; tầm và tứ đã được tĩnh lặng do Nhị thiền; đã lìa khỏi hỷ do Tam thiền; đã đoạn trừ sự an lạc và sự khổ đau do Tứ thiền; đã vượt khỏi sắc tưởng, bất bình tưởng, dị biệt tưởng bằng sự thể nhập Không Vô Biên Xứ; đã vượt khỏi tưởng Không Vô Biên Xứ bằng sự thể nhập Thức Vô Biên Xứ; đã vượt khởi tưởng Thức Vô Biên Xứ bằng sự thể nhập Vô Sở Hữu Xứ; đã vượt khỏi tưởng Vô Sở Hữu Xứ bằng sự thể nhập Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ, rồi ngài đã đi.

Aniccānupassanāya niccasaññaṃ pahāya, dukkhānupassanāya sukhasaññaṃ, anattānupassanāya attasaññaṃ, nibbidānupassanāya nandiṃ, virāgānupassanāya rāgaṃ, nirodhānupassanāya samudayaṃ, paṭinissaggānupassanāya ādānaṃ, khayānupassanāya ghanasaññaṃ, vayānupassanāya āyūhanaṃ, vipariṇāmānupassanāya dhuvasaññaṃ, animittānupassanāya nimittaṃ[29], appaṇihitānupassanāya paṇidhiṃ, suññatānupassanāya abhinivesaṃ, adhipaññādhammavipassanāya sārādānābhinivesaṃ, yathābhūtañāṇadassanena sammohābhinivesaṃ, ādīnavānupassanāya ālayābhinivesaṃ, paṭisaṅkhānupassanāya appaṭisaṅkhaṃ, vivaṭṭānupassanāya saṃyogābhinivesaṃ, sotāpattimaggena diṭṭhekaṭṭhe kilese bhañjitvā[30], sakadāgāmimaggena oḷārike kilese pahāya, anāgāmimaggena aṇusahagate kilese samugghāṭetvā, arahattamaggena sabbakilese samucchinditvā gato. Evampi tathā gatoti tathāgato.

Đã đoạn trừ tưởng về sự thường tồn bằng việc quán xét về vô thường; đã đoạn trừ tưởng về an lạc bằng việc quán chiếu về khổ não; đã đoạn trừ tưởng về tự ngã bằng việc quán chiếu về vô ngã; đoạn trừ sự vui thích bằng việc quán chiếu về nhàm chán; đã đoạn trừ tham ái do quan chiếu về ly tham; đoạn trừ nhân sanh khởi bằng việc quán chiếu về diệt tận; đã đoạn trừ sự nắm giữ bằng việc quán chiếu về từ bỏ; đã đoạn trừ sự nghĩ tưởng về sự tiếp nối bằng việc quán chiếu về đoạn tận; đã đoạn trừ sự tích lũy bằng việc quán chiếu về biến hoại; đã đoạn trừ sự nghĩ tưởng về vững chắc bằng việc quán chiếu về chuyển biến; đã đoạn trừ hiện tướng bằng việc quán chiếu về vô tướng; đã đoạn trừ sự nguyện ước bằng việc quán chiếu về vô nguyện; đã đoạn trừ sự cố chấp do quán xét về không tánh; đã đoạn trừ sự cố chấp trong việc chấp giữ bằng việc minh sát các pháp bằng thắng tuệ; đã đoạn trừ sự cố chấp vào sự lầm lẫn bằng việc quán chiếu về sự biết và thấy đúng theo thực thể; đã đoạn trừ sự cố chấp vào sự nương tựa bằng việc quán chiếu về tai hại; đã đoạn trừ sự không phân biệt rõ bằng việc quán chiếu về phân biệt rõ; đã đoạn trừ sự cố chấp vào sự ràng buộc bằng việc quán chiếu về ly khai; đã bẽ gãy các phiền não thuần về tà kiến bằng Tu-đà-hoàn đạo; đã đoạn trừ các phiền não thô thiển bằng Tư-đà-hàm đạo; đã bứng tận gốc các phiền não có tính chất vi tế bằng A-na-hàm đạo; đã đoạn tận toàn bộ phiền não theo ý nghĩa thu thúc bằng A-ra-hán đạo, rồi ngài đã đi. Đức Thế Tôn đã đi như vậy với biểu hiện như đã giải thích. ‘Vì đã đi như vậy’ là Như Lai là (có ý nghĩa) như vậy.

Kathaṃ tathalakkhaṇaṃ āgatoti tathāgato? Pathavīdhātuyā kakkhaḷattalakkhaṇaṃ tathaṃ avitathaṃ. Āpodhātuyā paggharaṇalakkhaṇaṃ. tejodhātuyā uṇhattalakkhaṇaṃ. Vāyodhātuyā vitthambhanalakkhaṇaṃ. Ākāsadhātuyā asamphuṭṭhalakkhaṇaṃ. Viññāṇadhātuyā vijānanalakkhaṇaṃ.

(3) Đức Thế Tôn có hồng danh là Như Lai ‘vì ngài đã đến bằng tướng trạng thật sự’ (có ý nghĩa) như thế nào? Địa giới có trạng thái cứng rắn, là trạng thái thật không biến đổi. Thủy giới có trạng thái chảy ra; Hỏa giới có trạng thái nóng; Phong giới có trạng thái căng phòng; Hư không giới có trạng thái không xúc chạm được; Thức giới có trạng thái nhận biết đối tượng.

Rūpassa ruppanalakkhaṇaṃ. Vedanāya vedayitalakkhaṇaṃ. Saññāya sañjānanalakkhaṇaṃ. Saṅkhārānaṃ abhisaṅkharaṇalakkhaṇaṃ. Viññāṇassa vijānanalakkhaṇaṃ.

Sắc có trạng thái thay đổi liên tục. Thọ có trạng thái sự cảm thọ đối tượng. Tưởng có trạng thái ghi nhớ đối tượng. Hành có trạng thái tạo tác đối tượng. Thức có trạng thái nhận biết đối tượng.

Vitakkassa abhiniropanalakkhaṇaṃ. Vicārassa anumajjanalakkhaṇaṃ. Pītiyā pharaṇalakkhaṇaṃ. Sukhassa sātalakkhaṇaṃ. Cittekaggatāya avikkhepalakkhaṇaṃ. Phassassa phusanalakkhaṇaṃ.

Tầm có trạng thái đưa tâm vào đối tượng. Tứ có trạng thái theo chăm nom đối tượng; Hỷ có trạng thái lan tỏa. Lạc có trạng thái dễ chịu. Nhất hành (sự chuyên nhất của tâm) có trạng thái yên tĩnh (không xao lãng). Xúc có trạng thái đụng chạm đối tượng.

Saddhindriyassa adhimokkhalakkhaṇaṃ. Vīriyindriyassa paggahalakkhaṇaṃ. satindriyassa upaṭṭhānalakkhaṇaṃ. samādhindriyassa avikkhepalakkhaṇaṃ. paññindriyassa pajānanalakkhaṇaṃ.

Tín quyền có trạng thái quyết định chắc chắn, Tấn quyền có trạng thái ra sức. Niệm quyền có trạng thái chăm nom. Định quyền có trạng thái không phóng dật. Tuệ quyền trạng thái nhận biết rõ.

Saddhābalassa assaddhiye akampiyalakkhaṇaṃ. Vīriyabalassa kosajje. Satibalassa muṭṭhassacce. Samādhibalassa uddhacce. Paññābalassa avijjāya akampiyalakkhaṇaṃ.

Tín lực có trạng thái không lay động đối với những thứ không đáng tin; Tấn lực có trạng thái không lay động trong sự lười biếng; Niệm lực có trạng thái không lay động trong sự thất niệm; Định lực có trạng thái không lay động trong sự xao lãng; Tuệ lực có trạng thái không bị lay động trong vô minh.

Satisambojjhaṅgassa upaṭṭhānalakkhaṇaṃ. Dhammavicayasambojjhaṅgassa pavicayalakkhaṇaṃ. Vīriyasambojjhaṅgassa paggahalakkhaṇaṃ. Pītisambojjhaṅgassa pharaṇalakkhaṇaṃ. Passaddhisambojjhaṅgassa vūpasamalakkhaṇaṃ. Samādhisambojjhaṅgassa avikkhepalakkhaṇaṃ. Upekkhāsambojjhaṅgassa paṭisaṅkhānalakkhaṇaṃ.

Niệm giác chi có trạng thái chăm nom. Trạch pháp giác chi có trạng thái nghiên cứu. Tinh tấn giác chi có trạng thái ra sức; Hỷ giác chi trạng thái lan tỏa; An tịnh giác chi có trạng thái tĩnh lặng; Định giác chi có trạng thái không phóng dật; Xả giác chi có trạng thái phân biệt rõ.

Sammādiṭṭhiyā dassanalakkhaṇaṃ. Sammāsaṅkappassa abhiniropanalakkhaṇaṃ. sammāvācāya pariggahalakkhaṇaṃ. Sammākammantassa samuṭṭhānalakkhaṇaṃ[31]. Sammāājīvassa vodānalakkhaṇaṃ. Sammāvāyāmassa paggahalakkhaṇaṃ. Sammāsatiyā upaṭṭhānalakkhaṇaṃ. Sammāsamādhissa avikkhepalakkhaṇaṃ.

Chánh kiến có trạng thái thấy; Chánh tư duy có trạng thái đưa tâm vào đối tượng; Chánh ngữ có trạng thái nắm giữ; Chánh nghiệp có trạng thái làm nhân trợ sanh – samuṭṭhāna; Chánh mạng có trạng thái trong sạch; Chánh tinh tấn có trạng thái ra sức; Chánh niệm có trạng thái chăm nom; Chánh định có trạng thái không phóng dật.

Avijjāya aññāṇalakkhaṇaṃ. Saṅkhārānaṃ cetanālakkhaṇaṃ. Viññāṇassa vijānanalakkhaṇaṃ. Nāmassa namanalakkhaṇaṃ. Rūpassa ruppanalakkhaṇaṃ. Saḷāyatanassa āyatanalakkhaṇaṃ. Phassassa phusanalakkhaṇaṃ. Vedanāya vedayitalakkhaṇaṃ. Taṇhāya hetulakkhaṇaṃ. Upādānassa gahaṇalakkhaṇaṃ. Bhavassa āyūhanalakkhaṇaṃ. Jātiyā nibbattilakkhaṇaṃ. Jarāya jīraṇalakkhaṇaṃ. Maraṇassa cutilakkhaṇaṃ.

Vô minh có trạng thái không hiểu biết; Hành có trạng thái suy tính; Thức có trạng thái nhận biết đối tượng; Danh có trạng thái hướng tâm đến; Sắc có trạng thái luôn biến hoại; 6 Xứ có trạng thái làm chỗ tiếp nối; Xúc có trạng thái đụng chạm đối tượng; Thọ có trạng thái cảm thọ đối tượng; Tham ái có trạng thái làm nhân của khổ đau; Thủ có trạng thái chấp chặt; Hữu có trạng thái chồng chất; Sự sanh có trạng thái sanh ra; Sự già có trạng thái hao mòn; Sự chết có trạng thái chấm dứt sự sống.

Dhātūnaṃ suññatālakkhaṇaṃ. Āyatanānaṃ āyatanalakkhaṇaṃ. Satipaṭṭhānānaṃ upaṭṭhānalakkhaṇaṃ. Sammappadhānānaṃ padahanalakkhaṇaṃ. Iddhipādānaṃ ijjhanalakkhaṇaṃ. Indriyānaṃ adhipatilakkhaṇaṃ. Balānaṃ akampiyalakkhaṇaṃ. Bojjhaṅgānaṃ niyyānalakkhaṇaṃ. Maggassa hetulakkhaṇaṃ.

Giới dhātu có trạng thái rỗng không – suññatā; Xứ āyatana có trạng thái làm chỗ tiếp nối; Niệm Xứ có trạng thái chăm nom; Chánh Cần có trạng thái bắt đầu thiết lập sự cố gắng; Thần Túc có trạng thái thành tựu. Quyền indriya có trạng thái to lớn; Lực có trạng thái không lay động; Giác Chi có trạng thái dẫn dắt thoát khỏi khổ; Đạo có trạng thái làm nhân đưa đến sự diệt khổ;

Saccānaṃ tathalakkhaṇaṃ. Samathassa avikkhepalakkhaṇaṃ. Vipassanāya anupassanālakkhaṇaṃ. Samathavipassanānaṃ ekarasalakkhaṇaṃ. Yuganaddhānaṃ anativattanalakkhaṇaṃ.

Chân lý có trạng thái thật; Chỉ Tịnh có trạng thái không phóng dật. Minh Sát có trạng thái tùy quán. Chi Tịnh và Minh Sát có trạng trái có phận sự thuần nhất – ekarasa. Pháp liên kết thành đôi, thành cặp có trạng thái không thể chuyển đổi.

Sīlavisuddhiyā saṃvaralakkhaṇaṃ. Cittavisuddhiyā avikkhepalakkhaṇaṃ. Diṭṭhivisuddhiyā dassanalakkhaṇaṃ.

Giới thanh tịnh có trạng thái thu thúc; Tâm thanh tịnh có trạng thái không phóng dật. Kiến thanh tịnh có trạng thái thấy;

Khaye ñāṇassa samucchedanalakkhaṇaṃ[32]. Anuppāde ñāṇassa passaddhilakkhaṇaṃ. Chandassa mūlalakkhaṇaṃ. Manasikārassa samuṭṭhāpanalakkhaṇaṃ. Phassassa samodhānalakkhaṇaṃ. Vedanāya samosaraṇalakkhaṇaṃ. Samādhissa pamukhalakkhaṇaṃ. Satiyā ādhipateyyalakkhaṇaṃ. paññāya tatuttariyalakkhaṇaṃ[33]. Vimuttiyā sāralakkhaṇaṃ…amatogadhassa nibbānassa pariyosānalakkhaṇaṃ tathaṃ avitathaṃ. Evaṃ tathalakkhaṇaṃ ñāṇagatiyā āgato avirajjhitvā patto anuppattoti tathāgato. Evaṃ tathalakkhaṇaṃ āgatoti tathāgato.

 Ðoạn tận trí khaya-ñāṇa có trạng thái đoạn trừ; Vô sanh trí anuppāda-ñāṇa có trạng thái an tịnh; Ước muốn có trạng thái làm gốc; Tác ý có trạng thái làm nhân trợ sanh – samuṭṭhāna; Xúc có trạng thái làm chỗ hội họp; Thọ có trạng thái làm nơi gặp gỡ; Định có trạng thái dẫn đầu; Niệm có trạng thái làm chủ quyền; Tuệ có trạng thái vượt trội. Giải thoát có trạng thái làm cốt lõi … Nibbāna nơi thâm nhập vào bất tử có trạng thái chấm dứt, mỗi một Pháp đều có trạng thái thật, không biến đổi. Đức Thế Tôn, ngài đã đi đến bằng tướng trạng thật sự bằng ñāṇagati, tức là chứng đắc, chứng đạt theo tuần tự, không bị biến đổi như thế gọi là Như Lai. (Vì lý do đó) ‘vì đã đến bằng tướng trạng thật’ là Như Lai (có ý nghĩa) như vậy.

Kathaṃ tathadhamme yāthāvato abhisambuddhoti tathāgato? tathadhammā nāma cattāri ariyasaccāni. yathāha — “cattārimāni, bhikkhave, tathāni avitathāni anaññathāni. katamāni cattāri? ‘idaṃ dukkhan’ti bhikkhave, tathametaṃ avitathametaṃ anaññathametan”ti[34] vitthāro. Tāni ca bhagavā abhisambuddho, tasmā tathānaṃ dhammānaṃ abhisambuddhattā tathāgatoti vuccati. Abhisambuddhattho hettha gata-saddo.

(4) Đức Thế Tôn có hồng danh là Như Lai ‘vì ngài đã hoàn toàn giác ngộ theo đúng thực tính các Pháp thực thể’ (có ý nghĩa) như thế nào? Bốn Thánh Đế gọi là Pháp thực thể. Như đức Thế Tôn đã nói rằng: “Này các Tỳ khưu, Bốn Thánh đế này là thực thể, là không biến hoại, không sai khác. Thế nào là Bốn? Này các Tỳ khưu, ‘Đây là Khổ,’ điều này là thực thể, điều này là không biến hoại, điều này là không sai khác”, đọc giả nên tự mình tìm hiểu chi tiết. Đức Thế Tôn giác ngộ hoàn toàn bộ Bốn Thánh Đế ấy, vì thế ngài được gọi là Như Lai do đã giác ngộ hoàn toàn các Pháp thực thể. Từ ‘gata’ trong từ ‘tathāgata’ này có nghĩa là ‘giác ngộ toàn bộ’.

Api ca jarāmaraṇassa jātipaccayasambhūtasamudāgataṭṭho tatho avitatho anaññatho … pe …, saṅkhārānaṃ avijjāpaccayasambhūtasamudāgataṭṭho tatho avitatho anaññatho … pe …, tathā avijjāya saṅkhārānaṃ paccayaṭṭho, saṅkhārānaṃ viññāṇassa paccayaṭṭho … pe …, jātiyā jarāmaraṇassa paccayaṭṭho tatho avitatho anaññatho. Taṃ sabbaṃ bhagavā abhisambuddho, tasmāpi tathānaṃ dhammānaṃ abhisambuddhattā tathāgatoti vuccati. Evaṃ tathadhamme yāthāvato abhisambuddhoti tathāgato.

Và hơn nữa, sự Già và sự Chết sanh khởi từ sự Sanh làm duyên, có ý nghĩa hiện hữu là thực thể, là không biến hoại, là không sai khác …nt… thực tính các Hành sanh khởi từ Vô Minh làm duyên có ý nghĩa hiện hữu là thực thể, là không biến hoại, là không sai khác …nt… Vô Minh có ý nghĩa làm duyên cho Hành, Hành có ý nghĩa làm duyên cho thức …nt… sự Sanh có ý nghĩa làm duyên cho sự Già và sự Chết (đây là) thực thể, là không biến hoại, là không sai khác. Đức Thế Tôn đã hoàn toàn giác ngộ tất cả thực tính đó, chính nhân đó Ngài được gọi là Tathāgata. Đức Thế Tôn có hồng danh Tathāgata bởi giác ngộ toàn bộ thực thể theo đúng thực tính pháp như đã giải thích. Đức Thế Tôn hoàn toàn giác ngộ các Pháp đó, chính vì thế ngài được gọi là Như Lai do đã hoàn toàn giác ngộ theo đúng thực tính các Pháp thực thể. Như vậy, ‘do đã hoàn toàn giác ngộ theo đúng thực tính các Pháp thực thể’ là Như Lai.

Kathaṃ tathadassitāya tathāgato? Bhagavā yaṃ sadevake loke … pe …, sadevamanussāya pajāya aparimāṇāsu lokadhātūsu aparimāṇānaṃ sattānaṃ cakkhudvāre āpāthamāgacchantaṃ rūpārammaṇaṃ nāma atthi, taṃ sabbākārato jānāti passati. Evaṃ jānatā passatā ca, tena taṃ iṭṭhāniṭṭhādivasena vā diṭṭhasutamutaviññātesu labbhamānakapadavasena vā. “Katamaṃ taṃ rūpaṃ rūpāyatanaṃ? Yaṃ rūpaṃ catunnaṃ mahābhūtānaṃ upādāya vaṇṇanibhā sanidassanaṃ sappaṭighaṃ nīlaṃ pītakan”tiādinā[35] nayena anekehi nāmehi terasahi vārehi dvepaññāsāya nayehi vibhajjamānaṃ tathameva hoti, vitathaṃ natthi. esa nayo sotadvārādīsupi āpāthaṃ āgacchantesu saddādīsu. Vuttañcetaṃ[36] bhagavatā — “Yaṃ bhikkhave, sadevakassa lokassa … pe … sadevamanussāya pajāya diṭṭhaṃ sutaṃ mutaṃ viññātaṃ pattaṃ pariyesitaṃ anuvicaritaṃ manasā, tamahaṃ jānāmi. tamahaṃ abbhaññāsiṃ, taṃ tathāgatassa viditaṃ, taṃ tathāgato na upaṭṭhāsī”ti[37]. Evaṃ tathadassitāya tathāgato. Tattha tathadassī atthe tathāgatoti padasambhavo veditabbo.

(5) Đức Thế Tôn có hồng danh là Như Lai ‘vì ngài đã nhìn thấy đối tượng như thật’ (có ý nghĩa) như thế nào? đối tượng nào gọi là đối tượng sắc đang đi đến phạm vi trong tầm Nhãn Môn của tất cả chúng sanh không thể ước lường được có trong thế gian cùng với chư thiên …nt… trong nhóm chúng sanh cùng với chư thiên và loài người (và) trong thế giới [lokadhātu] không thể ước lường được đối tượng đó, đức Thế Tôn nhìn thấy, nhận biết được tất cả mọi khía cạnh. Đối tượng đó ngài nhận biết và nhìn thấy như vậy, được phân ra do tác động đối tượng tốt và đối tượng không tốt hoặc do tác động pada có thể đạt được trong sắc đã thấy, âm thanh đã nghe, mùi, vị, đối tượng xúc đã biết và đối tượng pháp đã được biết rõ, và nhận biết 13 phần, (hoặc) 52 cách thức có nhiều tên gọi với những phương cách sau: “Sắc là (có ý nghĩa) như thế nào? Sắc nào y cứ bốn Sắc Đại Hiển thuộc về màu sắc là Sắc nhìn thấy được, là Sắc xúc chạm được, là sắc màu xanh, sắc màu vàng, Sắc đó được gọi là Sắc Xứ”, đây chính là đối tượng được xem thực thể, không bị biến hoại. Luôn cả trong đối tượng có âm thanh v.v, đang đi đến phạm vi trong tầm Nhĩ Môn v.v, cũng theo phương cách này. Đức Thế Tôn đã nói như vầy: “Này các Tỳ khưu, đối tượng nào trong toàn thế giới với Thiên giới, Ma giới, Phạm thiên giới, cùng với quần chúng Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người, được thấy, được nghe, được cảm giác, được thức tri, được đạt đến, được tầm cầu, được ý tư sát, ta đều biết các đối tượng đó. Ta đã được biết rõ các đối tượng đó, các đối tượng đó đều được Như Lai biết đến. các đối tượng đó không xuất hiện trong Như Lai.” Như vậy, ‘do nhìn thấy đối tượng thực thể’ là Như Lai. Ở đó, nên biết rằng sự thành tựu nghĩa của từ ‘Như Lai’ có ý nghĩa ‘một người nhìn thấy đối tượng thực thể’.

Kathaṃ tathavāditāya tathāgato? Yaṃ rattiṃ bhagavā bodhimaṇḍe aparājitapallaṅke nisinno tiṇṇaṃ mārānaṃ matthakaṃ madditvā anuttaraṃ sammāsambodhiṃ abhisambuddho, yañca rattiṃ yamakasālānamantare anupādisesāya nibbānadhātuyā parinibbāyi, etthantare pañcacattālīsavassaparimāṇe kāle paṭhamabodhiyāpi majjhimabodhiyāpi pacchimabodhiyāpi yaṃ bhagavatā bhāsitaṃ — Suttaṃ, Geyyaṃ … pe … Vedallaṃ, taṃ sabbaṃ atthato ca byañjanato ca anupavajjaṃ, anūnamanadhikaṃ, sabbākāraparipuṇṇaṃ, rāgamadanimmadanaṃ, dosamohamadanimmadanaṃ. Natthi tattha vālaggamattampi avakkhalitaṃ[38], sabbaṃ taṃ ekamuddikāya lañchitaṃ viya, ekanāḷiyā mitaṃ viya, ekatulāya tulitaṃ viya ca, tathameva hoti avitathaṃ anaññathaṃ. Tenāha — “Yañca, Cunda, rattiṃ Tathāgato anuttaraṃ sammāsambodhiṃ abhisambujjhati, yañca rattiṃ anupādisesāya nibbānadhātuyā parinibbāyati, yaṃ etasmiṃ antare bhāsati lapati niddisati, sabbaṃ taṃ tatheva hoti, no aññathā. tasmā ‘tathāgato’ti vuccatī”ti[39]. Gadattho hettha gatasaddo. Evaṃ tathavāditāya Tathāgato.

(6) Đức Thế Tôn có hồng danh là Như Lai vì có lời nói như thật’ là (có ý nghĩa) thế nào? Đêm nào đức Thế Tôn đã ngồi trên bảo tọa Aparājita [bảo tọa mà Ma Vương không thể phá vỡ được, bảo tọa của người chiến thắng] ở tại cội cây Bồ-đề. Ngài tiêu diệt cả 3 loại dục vọng – māra rồi chứng đắc viên mãn vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, và đêm nào đức Thế Tôn tịch diệt Nibbāna trong cảnh giới Nibbāna không còn dư sót giữa hai cây sāla, trong suốt khoảng thời gian 45 năm (sau khi thành đạo và trước khi Viên Tịch Nibbāna) lời nói nào mà đức Thế Tôn thuyết trong khoảng thời gian paṭhamabodhiyā, thời gian majjhimabodhiyā và luôn cả thời gian pacchimabodhiyāSutta, Geyya…Vedalla, toàn bộ những lời nói đó người trí thức không ai có thể chê bai về ý nghĩa và cả văn tự, không hơn không kém, trọn vẹn với mọi phương diện trừ diệt sự say mê bởi ái luyến, trừ diệt sự say mê bởi sân hận và trừ diệt sự say mê bởi si mê, sự lầm lẫn trong lời nói đó dù chỉ là đỉnh của ngọn tóc cũng không có, tất cả điều đó đều là thực thể, không bị biến đổi, không bị sai khác, giống như được đóng cùng một ấn triện hoàng gia, giống như đo lường với cùng một dụng cụ đo lường, và giống như được cân bằng một chiếc cân. Với lý do đó ngài đã nói rằng: “Này Cunda, vào đêm đức Như Lai giác ngộ quả vị vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, và vào đêm Như Lai viên tịch Niết-bàn ở cảnh giới Niết-bàn không còn dư sót, điều nào đức Như Lai thuyết giảng, nói ra, chỉ dạy trong suốt khoảng thời gian này, toàn bộ những lời ấy hoàn toàn đều là thật, không sai khác; vì thế, ‘được gọi là Như Lai’”. Từ ‘gata trong từ Như Lai đồng nghĩa với ‘gada’ là ‘lời nói’. Đức Thế Tôn có hồng danh Như Lai ‘do có lời nói như thật’ là như thế.

Api ca āgadanaṃ āgado, vacananti attho. Tayo aviparīto āgado assāti, da-kārassa ta-kāraṃ katvā Tathāgatoti evametasmiṃ atthe padasiddhi veditabbā.

Và hơn nữa, việc nói gọi là ‘āgadanaṃ’ dịch là lời nói, có nghĩa là lời nói. Việc thuyết giảng của đức Như Lai ấy đều là thật, không biến đổi, vì thế được gọi là Như Lai do đổi phụ âm ‘da’ thành phụ âm ‘ta’ và trong trường hợp này nên biết sự hình thành nghĩa của từ là như thế.

Kathaṃ tathākāritāya tathāgato? Bhagavato hi vācāya kāyo anulometi, kāyassapi vācā, tasmā yathāvādī tathākārī, yathākārī tathāvādī ca hoti. Evaṃbhūtassa cassa yathāvācā, kāyopi tathā gato pavattoti attho. Tathā ca kāyo, vācāpi tathā gatā pavattāti tathāgato. Tenevāha — “yathāvādī, bhikkhave, tathāgato tathākārī, yathākārī tathāvādī . Iti yathāvādī tathākārī yathākārī tathāvādī. Tasmā ‘tathāgato’ti vuccatī”ti[40]. evaṃ tathākāritāya tathāgato.

(7) Đức Thế Tôn có hồng danh là Như Lai ‘do thực hành thật’ (có ý nghĩa) như thế nào? Bởi vì thân nghiệp của đức Thế Tôn thuận theo khẩu nghiệp, cả khẩu nghiệp thuận theo thân nghiệp. Vì thế đức Thế Tôn nói như thế nào (sẽ) thực hành như thế đó, và làm như thế nào (sẽ) nói như thế đó. Có nghĩa là vị có bản thể như vậy lời nói như thế nào, thì cả thân nghiệp cũng được vận hành đi đến như thế đó; và thân nghiệp như thế nào thì luôn cả khẩu nghiệp cũng vận hành đi đến như thế đó. Do đó mới nói rằng: “Này chư Tỳ khưu, Như Lai nói như thế nào thì làm như thế đó, làm như thế nào thì nói như thế đó. Vị nói như thế nào thì làm như thế ấy, làm như thế nào thì nói như thế ấy là như thế. Cho nên ‘được gọi là Như Lai’”. Như vậy, đức Thế Tôn có hồng danh là Như Lai ‘do làm thật’.

Kathaṃ abhibhavanaṭṭhena tathāgato? upari bhavaggaṃ heṭṭhā avīciṃ pariyantaṃ katvā tiriyaṃ aparimāṇāsu lokadhātūsu sabbasatte abhibhavati sīlenapi samādhināpi paññāyapi vimuttiyāpi, vimuttiñāṇadassanenapi na tassa tulā[41] vā pamāṇaṃ vā atthi; atulo appameyyo anuttaro rājātirājā devadevo sakkānaṃ atisakko brahmānaṃ atibrahmā. Tenāha — “sadevake, bhikkhave, loke … pe … sadevamanussāya pajāya tathāgato abhibhū anabhibhūto aññadatthudaso vasavattī, tasmā ‘tathāgato’ti vuccatī”ti.[42]

(8) Đức Thế Tôn có hồng danh là Như Lai ‘vì sự chinh phục’ (có ý nghĩa) như thế nào? Đức Thế Tôn chinh phục tất cả chúng sanh từ phía trên là cõi cao nhất[43] cho đến tận cùng phía dưới là địa ngục Vô Gián, về bề ngang chinh phục toàn bộ chúng sanh trong thế giới vũ trụ không thể ước lượng được bằng Giới, Định, Tuệ, Giải Thoát,  Trí và sự nhận thức về giải thoát giới, việc đo lường và ước lượng [các ân đức có giới v.v,] của ngài là không thể, Ngài có đức hạnh không thể đo lường được, không thể ước lượng được, không ai có thể hơn Ngài, là vua của vua, là chư thiên của chư thiên, là Đế Thích của các Đế Thích, là Phạm thiên trên các Phạm thiên. Bởi thế đức Thế Tôn đã nói rằng: “này chư Tỳ khưu, ở thế gian tính luôn cõi chư thiên…chư thiên và loài người, đức Như Lai là đấng chiến thắng, bậc không bị thống trị, bậc nhìn thấy tất cả, bậc vận hành quyền lực; Vì thế, ‘được gọi là Như Lai’”.

Tatrevaṃ padasiddhi veditabbā. Agado viya agado. Ko panesa? Desanāvilāsamayo ceva[44] puññussayo ca. Tena hesa mahānubhāvo bhisakko dibbāgadena sappe viya sabbaparappavādino sadevakañca lokaṃ abhibhavati. iti sabbālokābhibhavane tatho aviparīto desanāvilāsamayo ceva puññussayo ca agado assāti. da-kārassa ta-kāraṃ katvā tathāgatoti veditabbo. evaṃ abhibhavanaṭṭhena tathāgato.

Trong trường hợp đó nên biết sự hình thành nghĩa của từ như vầy ‘agada’ dịch là ‘thuốc men’, tương tự từ ‘agada’ dịch là ‘nói’. Thuốc men này là gì? Nét đẹp của bài giảng [desanāvilāsa] và phước báu đặc biệt [puññussayo]. Bởi vì đức Thế Tôn chinh phục tất cả những người học thuyết đối nghịch và thế gian cùng với chư Thiên giống như vị thầy thuốc có đại oai lực bắt rắn độc bằng thần dược. Đức Thế Tôn, bậc trí nên biết rằng: Hồng danh ‘Như Lai’ bởi vì có thuốc men là nét đẹp của bài giảng [desanāvilāsa] và phước báu đặc biệt [puññussayo] là thật, không bị biến đổi với việc chinh phục toàn bộ thế giới, do đã biến đổi phụ âm ‘da’ thành phụ âm ‘ta’. Đức Thế Tôn có hồng danh là Như Lai ‘vì sự chinh phục’ (có ý nghĩa) là như vậy.

Api ca tathāya gatotipi Tathāgato, tathaṃ gatotipi Tathāgato. Gatoti avagato, atīto patto paṭipannoti attho.

Tattha sakalalokaṃ tīraṇapariññāya tathāya gato avagatoti tathāgato. Lokasamudayaṃ pahānapariññāya tathāya gato atītoti tathāgato. Lokanirodhaṃ sacchikiriyāya tathāya gato pattoti tathāgato. Lokanirodhagāminiṃ paṭipadaṃ tathaṃ gato paṭipannoti tathāgato. tena vuttaṃ bhagavatā —

Và hơn nữa, ‘đã đi đến với bản thể thật’ là Như Lai, ‘đạt đến bản thể thật’ là Như Lai. ‘Đã đi’ có ý nghĩa như sau – đoán biết, đã vượt khỏi, đã chứng đạt, đã thực hành.

Trong bốn ý nghĩa đó, gọi là Như Lai ‘do đã đi với cử chỉ thật’ (tức là) do xét đoán toàn bộ thế giới nhờ biết toàn diện về sự xét đoán. Là Như Lai ‘do ngài đã đi với cử chỉ thật’ (tức là) vận hành vượt khỏi tập khởi của thế gian nhờ biết toàn diện về sự dứt bỏ. Là Như Lai ‘do ngài đã đi với cử chỉ thật’, (tức là) đã chứng đạt sự diệt tận của thế gian nhờ tác chứng. Là Như Lai ‘do đã đi với cử chỉ thật’, (tức là) con đường thực hành đạt đến sự diệt tận của thế gian. Bởi thế lời nào được đức Thế Tôn thuyết rằng: –

“Loko, bhikkhave, tathāgatena abhisambuddho, lokasmā tathāgato visaṃyutto. Lokasamudayo, bhikkhave, Tathāgatena abhisambuddho, lokasamudayo tathāgatassa pahīno. Lokanirodho, bhikkhave, tathāgatena abhisambuddho, lokanirodho tathāgatassa sacchikato. Lokanirodhagāminī paṭipadā, bhikkhave, tathāgatena abhisambuddhā, lokanirodhagāminī paṭipadā tathāgatassa bhāvitā. yaṃ bhikkhave, sadevakassa lokassa … pe … sabbaṃ taṃ tathāgatena abhisambuddhaṃ. Tasmā, tathāgatoti vuccatī”ti[45].

Này các Tỳ khưu, thế giới đã được Như Lai hoàn toàn giác ngộ, Như Lai không bị ràng buộc với đời. Này các Tỳ khưu, tập khởi của thế giới đã được Như Lai hoàn toàn giác ngộ, tập khởi của thế giới đã được Như Lai đoạn tận; Này các Tỳ khưu, sự đoạn diệt của thế giới đã được Như Lai hoàn toàn giác ngộ, sự đoạn diệt của thế giới đã được Như Lai tác chứng. Này các Tỳ khưu, con đường đưa đến sự đoạn diệt của thế giới đã được Như Lai hoàn toàn giác ngộ. Con đường đưa đến sự đoạn diệt của thế giới đã được Như Lai tu tập. Này chư tỳ khưu, điều nào [tồn tại] ở thế gian tính luôn cõi chư Thiên, tất cả điều đó đã được Như Lai hoàn toàn giác ngộ. Vì vậy, ‘được gọi là Như Lai’”.

Tassapi evaṃ attho veditabbo. Idampi ca tathāgatassa tathāgatabhāvadīpane mukhamattameva. Sabbākārena pana tathāgatova tathāgatassa tathāgatabhāvaṃ vaṇṇeyya.

Nên biết ý nghĩa của lời nói đó như vậy. Và luôn cả câu này cũng chỉ là chủ đề  giải thích bản thể Như Lai của ‘Như Lai’ mà thôi. Hơn nữa, chỉ có Như Lai mới có thể giải thích về bản thể Như Lai của ‘Như Lai’ bằng tất cả mọi biểu hiện.

 

 Năm Cách Hỏi

Katamañca taṃ bhikkhaveti yena appamattakena oramattakena sīlamattakena puthujjano tathāgatassa vaṇṇaṃ vadamāno vadeyya, taṃ katamanti pucchati? Tattha pucchā nāma adiṭṭhajotanā pucchā, diṭṭhasaṃsandanā pucchā, vimaticchedanā pucchā, anumatipucchā, kathetukamyatā pucchāti pañcavidhā hoti.

 Và này các Tỳ khưu điều mà phàm nhân trong lúc ca ngợi Như Lai là điều thuộc về giới, điều đó như thế nào?…, Đức Thế Tôn hỏi rằng: điều mà phàm nhân trong lúc ca ngợi Như Lai có thể nói đến chẳng qua với những điều nhỏ nhặt, điều thấp thỏi, điều thuộc về giới, câu hỏi đó là thế nào? Gọi là câu hỏi trong Pāḷī đó có 5 loại câu hỏi gồm (1) câu hỏi để làm sáng tỏ điều chưa thấy, (2) câu hỏi để trao đổi điều đã thấy, (3) câu hỏi để cắt đứt sự nghi hoặc, (4) câu hỏi để xác nhận, (5) câu hỏi nhằm ý định tự trả lời.

Tattha katamā adiṭṭhajotanā pucchā? pakatiyā lakkhaṇaṃ aññātaṃ hoti, adiṭṭhaṃ atulitaṃ atīritaṃ avibhūtaṃ avibhāvitaṃ, tassa ñāṇāya dassanāya tulanāya tīraṇāya vibhāvanāya pañhaṃ pucchati, ayaṃ adiṭṭhajotanā pucchā.

Trong số những câu hỏi đó thì (1) câu hỏi để làm sáng tỏ điều chưa thấy là thế nào? Thông thường, đối với tướng trạng chưa được biết, chưa được thấy, chưa được cân nhắc, chưa được xác định, chưa được rõ rệt, chưa được minh định, thì người ta hỏi câu hỏi để biết, để thấy, để cân nhắc, để xác định, để phân biệt về tướng trạng ấy. Đây là câu hỏi để làm sáng tỏ điều chưa thấy.

Katamā diṭṭhasaṃsandanā pucchā? pakatiyā lakkhaṇaṃ ñātaṃ hoti, diṭṭhaṃ tulitaṃ tīritaṃ vibhūtaṃ vibhāvitaṃ, tassa aññehi paṇḍitehi saddhiṃ saṃsandanatthāya pañhaṃ pucchati, ayaṃ diṭṭhasaṃsandanā pucchā.

(2) Câu hỏi để trao đổi điều đã thấy là thế nào? Thông thường, đối với tướng trạng đã được biết, đã được thấy, đã được cân nhắc, đã được xác định, đã được rõ rệt, đã được minh định, thì người ta hỏi câu hỏi nhằm mục đích trao đổi cùng với các vị sáng suốt khác. Đây là câu hỏi để trao đổi điều đã thấy.

Katamā vimaticchedanā pucchā? pakatiyā saṃsayapakkhando hoti, vimatipakkhando, dveḷhakajāto, “evaṃ nu kho, na nu kho, kinnu kho, kathaṃ nu kho”ti. so vimaticchedanatthāya pañhaṃ pucchati. ayaṃ vimaticchedanā pucchā.

(3) Câu hỏi để cắt đứt sự nghi hoặc là thế nào? Thông thường, người bị rơi vào sự nghi hoặc, bị rơi vào sự nhầm lẫn, khởi lên sự lưỡng lự rằng: “Phải chăng như vầy là đúng, phải chăng là không đúng, là cái gì đây, là thế nào đây?” người ấy hỏi câu hỏi nhằm mục đích cắt đứt sự nhầm lẫn. Đây là câu hỏi để cắt đứt sự nghi hoặc.

Katamā anumatipucchā? bhagavā bhikkhūnaṃ anumatiyā pañhaṃ pucchati — “Taṃ kiṃ maññatha, bhikkhave, rūpaṃ niccaṃ vā aniccaṃ vā”ti. Aniccaṃ, bhante. Yaṃ panāniccaṃ, dukkhaṃ vā taṃ sukhaṃ vāti? dukkhaṃ bhanteti[46] sabbaṃ vattabbaṃ, ayaṃ anumatipucchā.

(4) Câu hỏi để xác nhận là thế nào? Đức Thế Tôn hỏi câu hỏi để xác nhận để cho chư Tỳ khưu xác nhận rằng: – “Này chư Tỳ khưu, các ông nghĩ như thế nào về sắc ấy? là thường hay vô thường? – ‘là vô thường, bạch ngài’. – Vậy cái gì vô thường, cái ấy là khổ hay lạc? – ‘là khổ, bạch ngài’, có thể nói hết toàn bộ. Đây là câu hỏi để xác nhận.

Katamā kathetukamyatā pucchā? Bhagavā bhikkhūnaṃ kathetukamyatāya pañhaṃ pucchati. Cattārome, bhikkhave, satipaṭṭhānā. Katame cattāro? … pe … aṭṭhime bhikkhave maggaṅgā. Katame aṭṭhāti, ayaṃ kathetukamyatā pucchā.

(5) Câu hỏi nhằm ý định tự trả lời là thế nào? Đức Thế Tôn hỏi câu hỏi với ý định trả lời cho chư Tỳ khưu rằng: “Này chư Tỳ khưu, đây là bốn sự thiết lập niệm. Bốn là gì? …nt… này chư Tỳ khưu, đây là tám chi đạo, tám chi đạo là gì?” Đây là câu hỏi nhằm ý định tự trả lời.

Iti imāsu pañcasu pucchāsu adiṭṭhassa tāva kassaci dhammassa abhāvato tathāgatassa adiṭṭhajotanā pucchā natthi. “Idaṃ nāma aññehi paṇḍitehi samaṇabrāhmaṇehi saddhiṃ saṃsanditvā desessāmī”ti samannāhārasseva anuppajjanato diṭṭhasaṃsandanā pucchāpi natthi. Yasmā pana buddhānaṃ ekadhammepi āsappanā parisappanā natthi, bodhimaṇḍeyeva sabbā kaṅkhā chinnā; tasmā vimaticchedanā pucchāpi natthiyeva. Avasesā pana dve pucchā buddhānaṃ atthi, tāsu ayaṃ kathetukamyatā pucchā nāma.

Trong năm loại câu hỏi như đã giải thích này đầu tiên (1) câu hỏi để làm sáng tỏ điều chưa thấy hẳn nhiên điều đó không có nơi đức Như Lai, bởi vì không có bất kỳ Pháp nào mà ngài không nhìn thấy. Ngay cả (2) câu hỏi để trao đổi điều đã thấy cũng không có, bởi vì không khởi lên việc tập hợp suy nghĩ rằng: “Ta sẽ trao đổi tướng trạng tên này, ta sẽ thuyết giảng trao đổi cùng với các Sa-môn, Bà-la-môn sáng suốt khác”. Hơn nữa, vì chư Phật không có sự nghi ngoặc, sự lẫn lộn, thậm chí một câu pháp thì ngài đã cắt đứt toàn bộ nghi hoặc ở tại cội Bồ-đề; Vì thế, luôn cả (3) câu hỏi để cắt đứt sự nghi hoặc chắc chắn cũng không có. Nhưng hai loại câu hỏi còn lại có cùng chư Phật, trong hai loại câu hỏi ấy thì đây gọi là (5) câu hỏi nhằm ý định tự trả lời​​.

 

Giải Thích Tiểu Giới

8. Idāni taṃ kathetukamyatāya pucchāya pucchitamatthaṃ kathetuṃ “pāṇātipātaṃ pahāyā”tiādimāha.

8. Bây giờ, đức Thế Tôn có ý định giải đáp ý nghĩa câu hỏi đã được hỏi với ‘câu hỏi nhằm ý định tự trả lời​​’ đó mới nói rằng: “Sau khi dứt bỏ việc sát hại sinh mạng”.

Tattha pāṇassa atipāto pāṇātipāto, pāṇavadho, pāṇaghātoti vuttaṃ hoti. Pāṇoti cettha vohārato satto, paramatthato jīvitindriyaṃ, tasmiṃ pana pāṇe pāṇasaññino jīvitindriyupacchedakaupakkamasamuṭṭhāpikā kāyavacīdvārānaṃ aññataradvārappavattā vadhakacetanā pāṇātipāto. So guṇavirahitesu tiracchānagatādīsu pāṇesu khuddake pāṇe appasāvajjo, mahāsarīre mahāsāvajjo, kasmā? Payogamahantatāya. Payogasamattepi vatthumahantatāya. guṇavantesu manussādīsu appaguṇe pāṇe appasāvajjo, mahāguṇe mahāsāvajjo. sarīraguṇānaṃ pana samabhāve sati kilesānaṃ upakkamānañca mudutāya appasāvajjo, tibbatāya mahāsāvajjoti veditabbo.

Ở đây, việc sát hại sinh mạng: việc sát hại sinh mạng, việc làm cho chúng sanh có sự sống bị chết đi, giải thích rằng giết hại chúng sanh, tước đoạt mạng sống chúng sanh. Và ở đây, ‘sinh mạng’ nói theo Tục Đế bao gồm chúng sanh. Nói theo Pháp Chân Đế bao gồm Mạng Quyền, hơn nữa ý định sát hại làm nhân sản sinh sự cố gắng nhằm cắt đứt Mạng Quyền được vận hành thông qua bất kỳ Môn nào đó thuộc Thân Môn và Khẩu Môn của hạng người cho rằng sinh mạng ấy là chúng sanh có sự sống được gọi là ‘sát hại sinh mạng’. ‘Sát hại chúng sanh’ ấy được xem là có tội nhẹ đối với những sinh vật nhỏ. Trong số các loài không có phước báu như loài bàng sanh v.v, được xem là có tội nặng do có thân hình to lớn. Vì sao? Vì cố gắng nỗ lực nhiều. Kể cả khi có sự nỗ lực đồng đều cũng có tội nặng do có vật to lớn. Những loài chúng sanh có phước báu như loài người v.v, (việc sát hại) người có ít phước báu thì có tội nhẹ, (việc sát hại) người có nhiều phước báu thì có tội nặng. Kể cả khi có thân hình và đức hạnh ngang nhau thì việc sát hại nên biết rằng: có tội nhẹ bởi vì phiền não và sự cố gắng yếu ớt, tội nặng vì phiền não và sự cố gắng mạnh mẽ.

Tassa pañca sambhārā honti — pāṇo, pāṇasaññitā, vadhakacittaṃ, upakkamo, tena maraṇanti. – Cha payogā — sāhatthiko, āṇattiko, nissaggiyo, thāvaro, vijjāmayo, iddhimayoti. Imasmiṃ panatthe vitthāriyamāne ativiya papañco[47] hoti, tasmā taṃ na vitthārayāma, aññañca evarūpaṃ. Atthikehi pana samantapāsādikaṃ vinayaṭṭhakathaṃ[48] oloketvā gahetabbaṃ.

Sát sanh hợp đủ 5 chi pháp: 1- Chúng sanh có sanh mạng [pāṇo], 2- Biết rõ chúng sanh có sanh mạng [pāṇasaññitā], 3- Tâm nghĩ giết hại chúng sanh [vadhakacittaṃ], 4- Cố gắng giết hại chúng sanh [payogo], 5- Chúng sanh ấy chết do sự cố gắng [tena maraṇaṃ].

Cố gắng sát hại chúng sanh có 6 cách: 1- Tự tay mình giết [sāhatthiko]. 2- Sai khiến người khác giết [āṇattiko], 3- Giết bằng các loại vũ khí sắc bén như đao, kiếm, lao v.v. [nissaggiyo], 4- Giết bằng các loại vũ khí có tính cách lâu dài như đào hầm [thāvaro], 5- Cố gắng giết hại chúng sanh bằng cách sử dụng chú thuật [vijjāmayo], 6- Cố gắng giết hại chúng sanh bằng thần thông [iddhimayo].

Lại nữa, trong khi tôi giải thích ý nghĩa này rộng rãi chi tiết sẽ bị bị trì hoãn chậm trễ, do đó tôi sẽ không giải thích ý nghĩa đó nữa và những điều có liên quan, còn đối với những vị cần thiết thì có thể xem trong chú giải tạng Luật Samantapāsādika.

Pahāyāti imaṃ pāṇātipātacetanāsaṅkhātaṃ dussīlyaṃ pajahitvā. Paṭiviratoti pahīnakālato paṭṭhāya tato dussīlyato orato viratova. Natthi tassa vītikkamissāmīti cakkhusotaviññeyyā dhammā pageva kāyikāti imināva nayena aññesupi evarūpesu padesu attho veditabbo.

Đã dứt bỏ: đã từ bỏ lỗi lầm làm nhân (dẫn đến) ác giới này được xem là ý định thực hiện việc sát hại sinh mạng. Tránh xa: tránh xa lỗi lầm làm nhân (đưa đến) ác giới đó, kể từ thời điểm từ bỏ việc sát hại sinh mạng, đức Thế Tôn ấy không có Pháp cần nhận biết bằng lộ nhãn và lộ nhĩ (rằng): Ta sẽ vi phạm thì còn nói gì nữa đến Pháp vận hạnh qua lộ thân. Luôn cả những câu khác cũng có hình thức như thế, cũng nên biết ý nghĩa theo phương cách này.

Samaṇoti bhagavā samitapāpatāya laddhavohāro. Gotamoti gottavasena. na kevalañca bhagavāyeva pāṇātipātā paṭivirato, bhikkhusaṅghopi paṭivirato, desanā pana ādito paṭṭhāya evaṃ āgatā, atthaṃ pana dīpentena bhikkhusaṅghavasenāpi dīpetuṃ vaṭṭati.

Đức Thế Tôn đã nhận được sự kêu gọi là ‘Sa-môn’ bởi các ác đã vắng lặng. Gotama: theo quyền họ tộc. Không những chỉ một mình đức Thế Tôn tránh xa việc sát hại sinh mạng, mà hội chúng tỳ khưu cũng tránh xa (điều đó). Tuy nhiên thời thuyết giảng đã đến như vậy ngay từ đầu, nhưng trình bày nội dung có thể trình bày luôn cả với năng lực của hội chúng tỳ khưu cũng thích hợp.

Nihitadaṇḍo nihitasatthoti parūpaghātatthāya daṇḍaṃ vā satthaṃ vā ādāya avattanato nikkhittadaṇḍo ceva nikkhittasattho cāti attho. ettha ca ṭhapetvā daṇḍaṃ sabbampi avasesaṃ upakaraṇaṃ sattānaṃ viheṭhanabhāvato[49] satthanti veditabbaṃ. yaṃ pana bhikkhū kattaradaṇḍaṃ vā dantakaṭṭhaṃ[50] vā vāsiṃ pipphalikaṃ vā gahetvā vicaranti, na taṃ parūpaghātatthāya. Tasmā nihitadaṇḍo nihitasattho tveva saṅkhyaṃ gacchati.

Có gậy gộc đã đặt xuống, có con dao đã đặt xuống: Có gậy gộc đã đặt xuống và có con dao đã đặt xuống do không cầm lấy gậy gộc, hoặc con dao đi nhằm mục đích sát hại người khác. Cũng trong Pāḷī này ngoài gậy gộc, toàn bộ những loại vũ khí còn lại đều gọi là vũ khí (sắc, nhọn) bởi vì khiến cho tất cả chúng sanh đều có thể bị tiêu diệt. Còn đối với cây trượng người già sử dụng, hay cây gậy, hoặc dao cạo mà chư tỳ khưu mang đi ấy không dùng vì mục đích sát hại người khác. Do đó, không được coi là đặt xuống gậy gộc, đặt xuống con dao

Lajjīti pāpajigucchanalakkhaṇāya lajjāya samannāgato. Dayāpannoti dayaṃ mettacittataṃ āpanno. Sabbapāṇabhūtahitānukampīti; sabbe pāṇabhūte hitena anukampako. Tāya dayāpannatāya sabbesaṃ pāṇabhūtānaṃ hitacittakoti attho. Viharatīti iriyati yapeti yāpeti pāleti . Iti vā hi, bhikkhaveti evaṃ vā bhikkhave. Vā saddo upari “adinnādānaṃ pahāyā”tiādīni apekkhitvā vikappattho vutto, evaṃ sabbattha purimaṃ vā pacchimaṃ vā apekkhitvā vikappabhāvo veditabbo.

Có sự hổ thẹn: Phối hợp với sự hổ thẹn có tướng trạng ghê tởm ác xấu. Đạt được lòng trắc ẩn: đạt đến lòng yêu thương, là bản thể vị có Từ tâm. Có lòng thương xót đến lợi ích đến mọi loài có sinh mạng: Có lòng thương xót đến mọi loài có sự sống bằng sự lợi ích. Giải thích rằng có tâm trợ giúp tất cả mọi loài có sinh mạng do có lòng trắc ẩn ấy. Sống: Thay đổi các oai nghi, là làm cho tự ngã được vận hành, bao gồm hộ trì tự ngã. Iti vā hi, bhikkhave đồng nghĩa với evaṃ vā bhikkhave [này các tỳ khưu…chỉ là như thế]. Từ ‘vā’ có ý nghĩa sự tách rời, nhắm đến lời nói “đã dứt bỏ việc lấy của không cho”. Nên biết ý sự tách rời, nhắm đến lời nói trước, lời nói sau ở mọi chỗ như vậy.

Ayaṃ panettha saṅkhepo — bhikkhave, puthujjano tathāgatassa vaṇṇaṃ vadamāno evaṃ vadeyya — “Samaṇo Gotamo pāṇaṃ na hanati, na ghāteti, na tattha samanuñño hoti, virato imasmā dussīlyā; aho, vata re buddhaguṇā mahantā”ti, iti mahantaṃ ussāhaṃ katvā vaṇṇaṃ vattukāmopi appamattakaṃ oramattakaṃ[51] ācārasīlamattakameva vakkhati. Upari asādhāraṇabhāvaṃ nissāya vaṇṇaṃ[52] vattuṃ na sakkhissati. Na kevalañca puthujjanova sotāpannasakadāgāmianāgāmiarahantopi paccekabuddhāpi na sakkontiyeva; tathāgatoyeva pana sakkoti, taṃ vo upari vakkhāmīti, ayamettha sādhippāyā atthavaṇṇanā. Ito paraṃ pana apubbapadameva vaṇṇayissāma.

Hơn nữa trong trường hợp này có ý nghĩa vắn tắt như sau – này chư Tỳ khưu, trong khi hạng phàm nhân nói lời ca ngợi Như Lai có thể nói như vầy – “Sa-môn Gotama không sát hại sinh mạng, không bảo giết hại, không ưa thích việc sát hại sinh mạng, vị tránh xa những lỗi làm nhân (dẫn đến) ác giới này; Ôi! Các ân đức Phật quả thật là vĩ đại!” Có ý định nói lời ca ngợi đã thực hiện sự gắng sức lớn lao như vậy, điều chỉ có thể nói đến chẳng qua là Phẩm Hạnh và Giới là điều nhỏ nhặt, là điều thấp thỏi. (Nhưng) sẽ không thể nào ca ngợi được đức hạnh y cứ vào thực tính riêng biệt (không phổ biến) vượt trội hơn được. Và không chỉ riêng phàm nhân đâu, ngay cả vị Thánh Nhập-lưu, vị Thánh Nhất-lai, vị Thánh Bất-lai, và bậc thánh A-ra-hán, luôn cả chư Phật Độc Giác cũng không thể, chỉ có Như Lai mới có khả năng, ta sẽ nói ý nghĩa ấy cho tất cả các ông ở phần sau. Đây là giải thích ý nghĩa cùng với lời giảng giải trong Pālī này. Kể từ đây, tôi sẽ giải thích hoàn toàn theo tuần tự thứ lớp.

Adinnādānaṃ pahāyāti ettha adinnassa ādānaṃ adinnādānaṃ, parasaṃharaṇaṃ[53], theyyaṃ, corikāti vuttaṃ hoti. Tattha adinnanti parapariggahitaṃ, yattha paro yathākāmakāritaṃ āpajjanto adaṇḍāraho anupavajjo ca hoti. Tasmiṃ[54] parapariggahite parapariggahitasaññino, tadādāyakaupakkamasamuṭṭhāpikā theyyacetanā adinnādānaṃ. Taṃ hīne parasantake appasāvajjaṃ, paṇīte mahāsāvajjaṃ, Kasmā? Vatthupaṇītatāya. Vatthusamatte sati guṇādhikānaṃ santake vatthusmiṃ mahāsāvajjaṃ . taṃ taṃ guṇādhikaṃ upādāya tato tato hīnaguṇassa santake vatthusmiṃ appasāvajjaṃ.

Ở đây sau khi dứt bỏ việc lấy vật không cho: Việc cầm lấy những vật (có chủ sở hữu) mà không được vị ấy cho phép gọi là lấy của không cho, giải thích rằng: việc lấy cắp tài sản của người khác gọi là trộm cắp, gọi là hành vi kẻ trộm cắp. Trong điều giới lấy vật không được cho ấy, vật không được cho, chưa được cho bao gồm tài sản có chủ gìn giữ, người sử dụng tài sản của người khác đã sử dụng tùy theo ý muốn [tài vật này người chủ không còn sử dụng hoặc không cần thiết nữa], trong khi vi phạm không đáng nhận hình phạt và không đáng bị khiển trách. Hạng người có suy nghĩ lấy tài sản được chủ sở hữu gìn giữ biết rõ tài sản đã có chủ gìn giữ, ý định trộm cắp làm nhân sản sinh sự cố gắng để lấy cắp tài sản được chủ sở hữu gìn giữ đó được gọi là lấy vật không cho. Sự trộm cắp có tội nhẹ với những tài sản không có giá trị, có tội nặng với những tài sản có giá trị. Vì sao? Vì vật có giá trị. Những đồ vật (có giá trị) tương đồng, sự trộm cắp có tội nặng vì những đồ vật đó thuộc sở hữu của người có giới hạnh, tội nhẹ vì những đồ vật đó thuộc sở hữu của người không có giới hạnh, vì so sánh với người có đức hạnh.

Tassa pañca sambhārā honti — parapariggahitaṃ, parapariggahitasaññitā, theyyacittaṃ, upakkamo, tena haraṇanti. Cha payogā — sāhatthikādayova. Te ca kho yathānurūpaṃ theyyāvahāro, pasayhāvahāro, paṭicchannāvahāro, parikappāvahāro, kusāvahāroti imesaṃ avahārānaṃ vasena pavattā, ayamettha saṅkhepo. Vitthāro pana samantapāsādikāyaṃ[55] vutto.

Sự trộm cắp khi hợp đủ 5 chi-pháp: 1- Vật có chủ giữ gìn, 2- Biết rõ vật có chủ giữ gìn , 3- Có tâm suy tính trộm cắp, 4- Cố gắng trộm cắp 5- Lấy được của cải ấy do sự cố gắng [avahāro].

Cố gắng trộm cắp có 6 cách: Do chính mình cố gắng lấy cắp vật của người khác và những cố gắng này được diễn ra do tác động sự trộm cắp: 1- lấy đi theo cách trộm cắp, 3- lấy đi bằng vũ lực, 4- lấy đi bằng cách che giấu, 5- lấy đi có tính toán, 6- lấy đi theo cách đánh tráo, nội dung nói trên chỉ được nói vắn tắt. Còn nội dung chi tiết được nói trong chú giải Samantapāsādikāya.

Dinnameva ādiyatīti dinnādāyī. Cittenapi dinnameva paṭikaṅkhatīti dinnapāṭikaṅkhī. Thenetīti theno. Na thenena athenena. Athenattāyeva sucibhūtena. attanāti attabhāvena. Athenaṃ sucibhūtaṃ attānaṃ katvā viharatīti vuttaṃ hoti. Sesaṃ paṭhamasikkhāpade vuttanayeneva yojetabbaṃ. Yathā ca idha[56], evaṃ sabbattha.

Sa-môn Gotama gọi là chỉ nhận vật được cho bởi vì chỉ nhận lấy vật được cho. Gọi là Chỉ mong vật được cho bởi vì chỉ mong vật được cho, kể cả với tâm. Người được gọi là trộm cắp bởi vì trộm cắp. Người không trộm cắp bởi không trộm cắp. Sa-môn Gotama thực hành bản thân trở thành người trong sạch do chính việc không trộm cắp. Bản thân: với bản thân. Có lời giải thích rằng: đã rèn luyện bản thân bằng việc không trộm cắp, là người sống có trạng thái trong sạch. Từ còn lại nên kết hợp theo chính phương cách đã nói ở trong điều học thứ nhất. Tất cả điều học đều tương tự y như điều học này.

Abrahmacariyanti aseṭṭhacariyaṃ. Brahmaṃ seṭṭhaṃ ācāraṃ caratīti brahmacārī. Ārācārīti abrahmacariyato dūracārī. Methunāti rāgapariyuṭṭhānavasena sadisattā methunakāti laddhavohārehi paṭisevitabbato methunāti saṅkhyaṃ gatā asaddhammā. Gāmadhammāti gāmavāsīnaṃ dhammā.

Phi Phạm hành (hành động đối nghịch với Phạm hạnh): hành vi không cao quý. Phạm hạnh do hành vi thực hành Phạm hạnh tối thượng. Hành vi xa lìa: hành vi xa lìa từ những hành động đối nghịch với Phạm hạnh. Việc đôi lứa: Từ các Phi Diệu Pháp được xem là việc đôi lứa do hạng người đã được quy định thành cặp đôi, bởi vì như nhau do mãnh lực sự bộc phát ái luyến có thể thực hiện việc đôi lứa. Chuyện thế tục: tính chất của thế tục.

9. Musāvādaṃ pahāyāti ettha musāti visaṃvādanapurekkhārassa atthabhañjanako vacīpayogo kāyapayogo, vā visaṃvādanādhippāyena panassa paravisaṃvādakakāyavacīpayogasamuṭṭhāpikā cetanā musāvādo.

9. Ở đây, sau khi dứt bỏ việc nói lời nói dối từ ‘sự nói dối’ gồm Thân hành động hoặc Khẩu hành động của hạng người có ý định nói sai sự thật làm tổn giảm lợi ích người khác. Tác ý làm nhân sanh tạo ra Thân hành động và Khẩu hành động khiến cho người nghe hiểu sai sự thật của hạng người muốn nói sai sự thật ấy với ý định nói sai sự thật gọi là nói lời nói dối.

Aparo nayo, ‘musā’ ’ti abhūtaṃ atacchaṃ vatthu. ‘Vādo’ ’ti tassa bhūtato tacchato viññāpanaṃ. lakkhaṇato pana atathaṃ vatthuṃ tathato paraṃ viññāpetukāmassa tathāviññattisamuṭṭhāpikā cetanā musāvādo. So yamatthaṃ bhañjati, tassa appatāya appasāvajjo, mahantatāya mahāsāvajjo.

Một cách khác, vấn đề không đúng, không xác thực gọi là sự nói dối, khiến người khác hiểu sai vấn đề này là đúng, là xác thực thì gọi là lời nói. Hành động làm cho người khác hiểu sai vấn đề không đúng, không xác thực (cho rằng) là đúng, là xác thực. Nói theo trạng thái, tác ý làm cho khởi lên sự hiểu sai như thế của hạng người mong muốn người khác hiểu vấn đề không đúng thành vấn đề đúng gọi là nói lời nói dối. Nói lời nói dối ấy có tội nhẹ do lợi ích làm tổn giảm nhỏ, tội nặng do lợi ích làm tổn giảm lớn.

Api ca gahaṭṭhānaṃ attano santakaṃ adātukāmatāya natthītiādinayappavatto appasāvajjo, sakkhinā hutvā atthabhañjanatthaṃ vutto mahāsāvajjo, pabbajitānaṃ appakampi telaṃ vā sappiṃ vā labhitvā hasādhippāyena — “ajja gāme telaṃ nadī maññe sandatī”ti pūraṇakathānayena pavatto appasāvajjo, adiṭṭhaṃyeva pana diṭṭhantiādinā nayena vadantānaṃ mahāsāvajjo.

Hoặc là, đối với hạng người tại gia nói lời nói dối diễn biến theo cách sau ‘không có’ v.v, vì không muốn đem tài sản của mình [cho người khác] thì có tội nhẹ, đưa ra chứng cứ để làm mất quyền lợi [đối phương] thì có tội nặng. Còn đối với bậc xuất gia nói dối diễn ra theo cách purāṇakathā [nói thêm hoặc đùa cợt, nói mấp mé] rằng ‘hôm nay, dầu ăn ở trong làng tuôn chảy như sông’ nhằm mục đích làm cho [người khác] cười do nhận được dầu hoặc bơ thì có tội nhẹ, nhưng khi nói đến những điều mình không nhìn thấy mà nói rằng ‘tôi thấy’ v.v, theo cách như vậy thì tội nặng.

Tassa cattāro sambhārā honti — Atathaṃ vatthu, visaṃvādanacittaṃ, tajjo vāyāmo, parassa tadatthavijānananti. Eko payogo sāhatthikova. So kāyena vā kāyapaṭibaddhena vā vācāya vā paravisaṃvādanakiriyākaraṇena daṭṭhabbo. Tāya ce kiriyāya paro tamatthaṃ jānāti, ayaṃ kiriyasamuṭṭhāpikacetanākkhaṇeyeva[57] musāvādakammunā bajjhati.

Nói dối có 4 chi: 1- Chuyện không thật. 2- Có tâm suy nghĩ sẽ nói sai sự thật. 3- Cố gắng nói dối . 4- Người khác tin theo ý nghĩa không thật đó. Sự cố gắng chỉ có một là tự mình làm. Lời nói dối ấy có thể nhìn thấy bằng việc sử dụng thân hành động, (hoặc) sử dụng những vật dụng gắn liền với thân, hoặc bằng lời nói, thực hiện hành động để lừa gạt người khác. Nếu người ấy hiểu được ý nghĩa hành động đó thì hành động này trói buộc với nghiệp nói lời nói dối, ngay tại sát-na tác ý (suy nghĩ) khiến khởi lên hành động.

Yasmā pana yathā kāyakāyapaṭibaddhavācāhi paraṃ visaṃvādeti, tathā “idamassa bhaṇāhī”ti āṇāpentopi paṇṇaṃ likhitvā purato nissajjantopi, “ayamattho evaṃ daṭṭhabbo”ti[58] kuḍḍādīsu[59] likhitvā ṭhapentopi. tasmā ettha āṇattikanissaggiyathāvarāpi payogā yujjanti, aṭṭhakathāsu pana anāgatattā vīmaṃsitvā gahetabbā.

Hơn nữa, do được người khác ra lệnh “ông hãy nói chuyện này cùng người này”, thế này cũng có “sau khi viết vào từ giấy rồi ném về phía trước”, hoặc viết vào bức tường v.v, để biết rằng: “ý nghĩa này có thể nhận biết như vậy” với cách thức lừa gạt người khác bằng thân, vật gắn liền với thân và lời nói. Do đó, sự gắng sức sai biểu người khác [āṇattika-payoga], sự gắng sức do quăng phóng vũ khí [nissaggiya-payoga] và việc chế tạo các loại dụng cụ dùng để giết lâu dài như đào hầm, chôn cọc [thāvara-payoga] cũng phù hợp với nói lời nói dối này, tuy nhiên do 3 sự gắng sức ấy không đến với các lời giải thích cần phải suy xét trước rồi mới nắm giữ.

Saccaṃ vadatīti saccavādī. saccena saccaṃ sandahati ghaṭetīti saccasandho. Na antarantarā musā vadatīti attho. Yo hi puriso kadāci musā vadati, kadāci saccaṃ, tassa musāvādena antaritattā saccaṃ saccena na ghaṭīyati; tasmā so na saccasandho. ayaṃ pana na tādiso, jīvitahetupi musā avatvā saccena saccaṃ sandahati yevāti saccasandho.

Có lời nói chân thật bởi chỉ nói lời chân thật. Duy trì lời nói chân thật: do liên kết, tức là tiếp nối lời nói chân thật với những lời nói chân thật. Giải thích rằng bạn không được nói dối trong thời gian này. Giải thích rằng không nói lời nói dối ở giữa giai đoạn này.  Thật vậy, người nào thỉnh thoảng nói lời nói dối, thỉnh thoảng nói lời nói chân thật, không lấy lời nói chân thật tiếp nối với lời nói chân thật, bởi người ấy lấy lời nói dối ngăn chặn lại; do đó, người ấy không gọi là duy trì lời nói chân thật. Nhưng Sa-môn Gotama này không phải như vậy, không nói lời nói dối kể cả vì nhân mạng sống, chỉ nói những lời nói thật tiếp nối những lời nói thật, vì lý do ấy gọi là người duy trì lời nói chân thật.

Thetoti thiro, thirakathoti[60] attho. Eko hi puggalo haliddirāgo viya[61], thusarāsimhi nikhātakhāṇu viya, assapiṭṭhe ṭhapitakumbhaṇḍamiva ca na thirakatho hoti, eko pāsāṇalekhā viya, indakhīlo viya ca thirakatho hoti, asinā sīsaṃ chindantepi dve kathā na katheti, ayaṃ vuccati theto.

Lời nói làm bằng chứng: người kiên định, có nghĩa là có lời nói làm bằng chứng. Thật vậy, một người nói lời nói không có bằng chứng cũng giống như (tấm vải) được nhuộm bằng bột nghệ, giống như cột gỗ được dựng vào đống trấu, và cũng giống như trái bí được đặt trên lưng ngựa, một người có lời nói làm bằng chứng giống như dấu vết được chạm khắc trên phiến đá, giống như cột trụ kiên cố, dù họ có lấy đao kiếm để chặt đầu cũng không nói hai lời, hạng người này gọi là có lời nói làm bằng chứng.

Paccayikoti pattiyāyitabbako[62], saddhāyitabbakoti attho. Ekacco hi puggalo na paccayiko hoti, “idaṃ kena vuttaṃ, asukenā”ti vutte “mā tassa vacanaṃ saddahathā”ti vattabbataṃ āpajjati. Eko paccayiko hoti, “idaṃ kena vuttaṃ, asukenā”ti vutte “yadi tena vuttaṃ, idameva pamāṇaṃ, idāni upaparikkhitabbaṃ natthi, evameva idan”ti vattabbataṃ āpajjati, ayaṃ vuccati paccayiko. Avisaṃvādako lokassāti tāya saccavāditāya lokaṃ na visaṃvādetīti attho.

Đáng tin cậy: hạng người đáng tin cậy, có nghĩa là người nên đặt lòng tin vào. Thật vậy, một số hạng người không đáng tin, khi bị hỏi rằng: “Lời này ai nói? Người kia nói phải không?” cũng sẽ đáp rằng: “Này các ông chớ tin vào lời nói của người ấy”, một số người là người đáng tin cậy khi bị hỏi rằng: “Lời này ai nói? Người kia nói phải không?” – “nếu như vị ấy nói cũng sẽ đáp rằng: ‘Chỉ có lời nói này là chừng mực, bây giờ không cần phải quan sát, lời nói này chính là như vậy”, người này được gọi là đáng tin cậy. Không lường gạt thế gian: không nói lời lường gạt thế gian bởi vì bản chất là người nói lời nói chân thật.

Pisuṇaṃ vācaṃ pahāyātiādīsu yāya vācāya yassa taṃ vācaṃ bhāsati, tassa hadaye attano piyabhāvaṃ, parassa ca suññabhāvaṃ karoti, sā pisuṇā vācā. Yāya pana attānampi parampi pharusaṃ karoti, yā vācā sayampi pharusā, neva kaṇṇasukhā na hadayaṅgamā[63], ayaṃ pharusā vācā. Yena samphaṃ palapati niratthakaṃ, so samphappalāpo.

Sau khi dứt bỏ lời nói đâm thọc: Lời nói nào làm nhân khiến tâm của người nghe thương mình và làm nhân chế nhạo người khác gọi là lời nói đâm thọc. Hơn nữa, lời nói làm nhân khiến cho bản thân, luôn cả người khác (cảm thấy) không nhã nhặn, thậm chí thô lỗ đối với chính bản thân, không êm tai, tâm không dễ chịu, đây gọi là lời nói thô lỗ. Lời nói nào phù phiếm, nhảm nhí, không lợi ích, gọi là lời nói nhảm nhí.

Tesaṃ mūlabhūtā cetanāpi pisuṇavācādināmeva labhati, sā eva ca idhādhippetāti. Attha saṃkiliṭṭhacittassa paresaṃ vā bhedāya attano piyakamyatāya vā kāyavacīpayogasamuṭṭhāpikā cetanā pisuṇavācā. Sā yassa bhedaṃ karoti, tassa appaguṇatāya appasāvajjā, mahāguṇatāya mahāsāvajjā.

Thậm chí ý định sản sinh ra nguyên nhân của những lời nói đó cũng được xem là lời nói đâm thọc. Trong trường hợp này mục đích lấy chính ý định ấy. Trong cả ba lời nói như thế ý định của hạng người có tâm uế nhiễm, làm nhân khởi sanh Thân hành động hoặc Khẩu hành động nhằm mục đích gây chia rẽ, vì ước muốn bản thân được yêu thương gọi là lời nói đâm thọc. Lời nói ấy được xem là có tội ít bởi vì người bị thực hiện sự chia rẽ kém giới đức, có tội nhiều bởi vì người bị thực hiện ấy là bậc có giới đức.

Tassā cattāro sambhārā — bhinditabbo paro, “iti ime nānā bhavissanti, vinā bhavissantī”ti bhedapurekkhāratā vā, “iti ahaṃ piyo bhavissāmi vissāsiko”ti piyakamyatā vā, tajjo vāyāmo, tassa tadatthavijānananti. Imesaṃ bhedāyāti, yesaṃ itoti vuttānaṃ santike sutaṃ tesaṃ bhedāya.

Lời nói đâm thọc có 4 chi là: 1- Người khác có thể bị chia rẽ. Hoặc 2- Muốn họ bị chia rẽ “những người này sẽ là những người bị tách biệt, và bị chia rẽ với đường lối như vậy”, hoặc vì mong muốn được thương “tôi sẽ được quý mến, tôi sẽ được tin cậy”, 3- Có sự cố gắng khởi lên từ ý định ấy. 4- Người nghe hiểu được ý nghĩa đó. Khiến cho nhóm người này bị chia rẽ: Nghe ở trú xứ nào nào đó rồi nói lại từ một phía để cho người nghe lời nói ấy bị chia rẽ.

Bhinnānaṃ vā sandhātāti dvinnaṃ mittānaṃ vā samānupajjhāyakādīnaṃ vā kenacideva kāraṇena bhinnānaṃ ekamekaṃ upasaṅkamitvā “tumhākaṃ īdise kule jātānaṃ evaṃ bahussutānaṃ idaṃ na yuttan”tiādīni vatvā sandhānaṃ[64] kattā anukattā[65]. Anuppadātāti sandhānānuppadātā. Dve jane samagge disvā — “tumhākaṃ evarūpe kule jātānaṃ evarūpehi guṇehi samannāgatānaṃ anucchavikametan”tiādīni vatvā daḷhīkammaṃ kattāti attho. Samaggo ārāmo assāti samaggārāmo. Yattha samaggā natthi, tattha vasitumpi na icchatīti attho. samaggarāmotipi pāḷi, ayamevettha attho. Samaggaratoti samaggesu rato, te pahāya aññattha gantumpi na icchatīti attho. samagge disvāpi sutvāpi nandatīti samagganandī, samaggakaraṇiṃ vācaṃ bhāsitāti yā vācā satte samaggeyeva karoti, taṃ sāmaggiguṇaparidīpikameva vācaṃ bhāsati, na itaranti.

Nhằm hàn gắn những người đã bị chia rẽ: hai người bạn, hoặc hai vị Tỳ khưu có chung thầy tế độ, chia rẽ bởi bất kỳ nguyên nhân nào đi chăng nữa, sau khi đến gặp từng người rồi nói lời như sau: “Việc chia rẽ này thật không thích hợp cho ông, một người sanh ra trong dòng dõi như vậy, là bậc đa văn như vậy” thực hiện, thực hiện thường xuyên bằng việc hàn gắn. Khuyến khích những kẻ hòa hợp: khuyến khích việc hàn gắn. Sau khi nhìn thấy hai người hòa hợp đã nói lời như sau: “Sự hòa hợp này phù hợp đối với các ông, người sanh ra trong dòng dõi như thế, người gắn liền với những đức hạnh như thế” (nên) hành động một cách vững vàng. Có sự vui thích việc hợp nhất: có sự hợp nhất làm chỗ vui mừng. Giải thích rằng – ở nơi nào không có sự hợp nhất, ở nơi đó không ước muốn đến an trú. Pāḷī ‘samaggarāmo = hoan hỷ trong sự hòa hợp’ cũng có, Từ này cũng có ý nghĩa tương tự. Có sự hoan hỷ việc hợp nhất: có sự hoan hỷ đối với những người hòa hợp, có nghĩa là không ước muốn từ bỏ những người hòa hợp này. Thích thú trong việc hợp nhất: Do đã nhìn thấy, hoặc đã nghe đến những người hòa hợp rồi thích thú. Người nói lời tạo ra sự hợp nhất: Chỉ nói ra những lời làm cho chúng sanh hòa hợp với nhau, chỉ nói những lời nói trình bày về ân đức của sự hòa hợp, ngoài ra không nói đến những lời nói khác.

Parassa mammacchedakakāyavacīpayogasamuṭṭhāpikā ekantapharusacetanā pharusāvācā. Tassā āvibhāvatthamidaṃ vatthu –

Với tác ý thô ác làm nhân sanh cho Thân hành động và Khẩu hành động khiến cắt đứt sự yêu thượng của người khác gọi là lời nói thô lỗ. Để làm sáng tỏ ý nghĩa của lời nói này, xin lấy câu chuyện sau đây – (Lời nói thô lỗ, những tâm độc ác)

Eko kira dārako mātuvacanaṃ anādiyitvā araññaṃ gacchati, taṃ mātā nivattetum’asakkontī — “caṇḍā taṃ mahiṃsī[66] anubandhatū”ti akkosi. Athassa tatheva araññe mahiṃsī uṭṭhāsi. dārako “yaṃ mama mātā mukhena kathesi, taṃ mā hotu, yaṃ cittena cintesi taṃ hotū”ti, saccakiriyamakāsi. mahiṃsī tattheva baddhā viya aṭṭhāsi. evaṃ mammacchedakopi payogo cittasaṇhatāya na pharusā vācā hoti. mātāpitaro hi kadāci puttake evaṃ vadanti — “corā vo[67] khaṇḍākhaṇḍaṃ karontū”ti, uppalapattampi ca nesaṃ upari patantaṃ na icchanti. ācariyupajjhāyā ca kadāci nissitake evaṃ vadanti — “kiṃ ime ahirīkā anottappino caranti, niddhamatha[68] ne”ti, atha ca nesaṃ āgamādhigamasampattiṃ icchanti.

Được biết có một đứa bé thường hay cãi lời mẹ trốn vào rừng chơi, người mẹ những lúc tìm không được mới rủa rằng: ‘cầu cho trâu rừng hút mày’. Một hôm, trâu rừng xuất hiện như lời mẹ cậu nói, cậu bé mới phát nguyện bằng lời nói chân thật rằng: ‘mẹ của tôi đã nói bất cứ lời nào xin chớ thành hiện thực, mà hãy thành tựu những gì mà tâm ý của bà đã nghĩ’. Con trâu rừng tự dưng dừng lại ngay lập tức giống như bị cột vậy. Khẩu hành động dẫu làm nhân cắt đứt những lời ái ngữ [đề cập đến những thứ yêu quý], như câu chuyện đã nêu, lời nói ấy cũng không gọi là lời nói thô ác bởi vì người nói có tâm từ ái. Thật vậy, đôi khi cha mẹ nói chuyện với con cái như thế này: “Cầu cho những tên trộm chặt tụi bay ra từng mảnh”. Dẫu như thế, ngay cả một cánh hoa cũng không hy vọng rơi trên người của chúng. Và đôi lúc các thầy dạy học và thầy tế độ đã nói như vầy với đệ tử và người hộ độ rằng: ‘Những người này nói gì với nhau mà không biết xấu hổ, không biết hổ thẹn hãy đuổi họ đi’, mặc dù vậy nhưng các thầy vẫn luôn mong muốn đệ tử và người hộ độ của mình thành tựu pháp học [agama, pariyatti] và thành tựu pháp thành [paṭivedha, adhigama] đối với các đệ tử và người hộ độ ấy.

Yathā ca cittasaṇhatāya pharusā vācā na hoti, evaṃ vacanasaṇhatāya apharusā vācā na hoti. na hi mārāpetukāmassa — “imaṃ sukhaṃ sayāpethā”ti vacanaṃ apharusā vācā hoti, cittapharusatāya panesā pharusā vācāva. sā yaṃ sandhāya pavattitā, tassa appaguṇatāya appasāvajjā, mahāguṇatāya mahāsāvajjā. Tassā tayo sambhārā — akkositabbo paro, kupitacittaṃ, akkosanāti.

Người nói có tâm từ ái thì khẩu hành động không phải là lời nói thô lỗ như thế nào, tương tự y như thế ấy người nói lời ngọt ngào, êm dịu thì khẩu hành động cũng không phải là ác ngữ. Lời nói mong muốn kẻ khác bị sát hại như: ‘ngươi hãy khiến cho kẻ này nằm yên giấc [chết]”, như vậy không gọi là lời nói thô lỗ không được. Vì người nói có tâm thô lỗ, ác ý. Lời nói thô lỗ này được xem là có tội nhẹ do đối tượng là người kém giới đức, sẽ có tội nặng vì đối tượng là bậc có giới đức. Lời nói thô lỗ có ba chi là: 1- Đối tượng bị mắng chửi. 2- Tâm nóng giận bực tức. 3- Lời trách mắng, quở trách.

Nelāti elaṃ vuccati doso, nāssā elanti nelā, niddosāti attho. “nelaṅgo setapacchādo”ti[69], ettha vuttanelaṃ viya. Kaṇṇasukhāti byañjanamadhuratāya kaṇṇānaṃ sukhā, sūcivijjhanaṃ viya kaṇṇasūlaṃ na janeti. Atthamadhuratāya sakalasarīre kopaṃ ajanetvā pemaṃ janetīti pemanīyā. hadayaṃ gacchati, appaṭihaññamānā sukhena cittaṃ pavisatīti hadayaṅgamā. guṇaparipuṇṇatāya pure bhavāti porī pure saṃvaḍḍhanārī viya sukumārātipi porī. purassa esātipi porī. nagaravāsīnaṃ kathāti attho. nagaravāsino hi yuttakathā honti. pitimattaṃ pitāti vadanti, bhātimattaṃ bhātāti vadanti, mātimattaṃ mātāti vadanti. evarūpī kathā bahuno janassa kantā hotīti bahujanakantā. kantabhāveneva bahuno janassa manāpā cittavuḍḍhikarāti bahujanamanāpā.

Lời nói không có lỗi lầm: lỗi lầm gọi là ‘ela’, lỗi lầm không có cùng lời nói ấy, vì thế lời nói ấy gọi là lời nói không có lỗi lầm, có nghĩa là lìa xa lỗi lầm. Cũng giống như ‘Không có lỗi lầm’ được ngài nói ở chỗ này “chiếc xe có một căm lăn bánh (Thánh Đạo có tám chi phần) không chút lỗi lầm, có mái che màu trắng”. Êm tai: êm tai bởi vì có văn tự ngọt ngào, tức là không gây đau nhức tai, giống như bị đâm xuyên bằng kim. Lời nói gây thương mến: bởi vì không tạo ra sự giận dữ mà chỉ tạo ra sự quý mến trong toàn bộ thân thể bởi vì có ý nghĩa ngọt ngào. Lời nói lấy lòng: bởi vì chạm đến tim, tức là đi vào trong tim một cách thuận tiện, không gây va chạm. Lời nói nhã nhặn: bởi vì trong thành thị do thành tựu đức hạnh. Lời nói nhã nhặn: bởi vì lời nói trang nhã tương tợ y như thiếu nữ đang phát triển ở thành thị. Lời nói nhã nhặn: bởi vì lời nói này là lời nói của những người thành thị, có nghĩa là lời nói của người thành thị. Thật vậy, người thành thị có lời nói phù hợp, gọi những người trạc tuổi cha là ‘cha’, gọi những người trạc tuổi anh chị là ‘anh chị’. Lời nói nhiều người ưa thích: bởi lời nói như vầy là lời nói mà nhiều người ưa thích. Lời nói nhiều người hài lòng: bởi là chỗ hài lòng, làm tăng trưởng tâm của nhiều người theo chính cách nhiều người ưa thích.

Anatthaviññāpikā kāyavacīpayogasamuṭṭhāpikā akusalacetanā samphappalāpo. so āsevanamandatāya appasāvajjo, āsevanamahantatāya mahāsāvajjo.

Với tác ý bất thiện làm nhân sanh cho Thân hành động và Khẩu hành động khiến người khác hiểu được lời nói vô ích thì gọi là nói lời nhảm nhí. Nói lời nhảm nhí này được xem là có tội nhẹ do ít thân cận, sẽ có tội nặng do thân cận nhiều.

Tassa dve sambhārā — bhāratayuddhasītāharaṇādi-niratthakakathāpurekkhāratā, tathārūpī kathā kathanañca.

Nói lời nhảm nhí có hai chi là: 1- Hướng tâm nói những lời vô ích như bàn luận về cuộc chiến đấu của vua trời Bhārata, hay chuyện nàng Sīta v.v. 2- Đã nói ra lời nói vô ích như thế.

Kālena vadatīti kālavādī vattabbayuttakālaṃ sallakkhetvā vadatīti attho. Bhūtaṃ tathaṃ tacchaṃ sabhāvameva vadatīti bhūtavādī. diṭṭhadhammikasamparāyikatthasannissitameva katvā vadatīti atthavādī. navalokuttaradhammasannissitaṃ katvā vadatīti dhammavādī saṃvaravinayapahānavinayasannissitaṃ katvā vadatīti vinayavādī.

Nói hợp thời: bởi vì nói đúng thời điểm. Có nghĩa là sau khi suy xét đến thời điểm thích hợp cho câu chuyện được nói rồi mới nói. Chỉ nói lời chân thật: bởi vì nói lời nói chân thật, đúng đắn, chắn chắn, theo đúng thực tính. Nói liên hệ đến lợi ích: bởi nói lời nói được thực hiện liên hệ đến lợi ích hiện tại và lợi ích đời sau. Nói liên hệ đến Pháp: bởi nói lời nói được thực hiện dựa vào chín Pháp Siêu Thế. Nói liên hệ đến Luật: bởi nói lời nói được thực hiện dựa vào sự thu thúc bằng giới luật [saṃvaravinaya] và sự đoạn trừ do nhổ bỏ [pahānavinaya].

Nidhānaṃ vuccati ṭhapanokāso, nidhānamassā atthīti nidhānavatī. hadaye nidhātabbayuttakaṃ vācaṃ bhāsitāti attho. Kālenāti evarūpiṃ bhāsamānopi ca — “ahaṃ nidhānavatiṃ vācaṃ bhāsissāmī”ti na akālena bhāsati, yuttakālaṃ pana apekkhitvāva bhāsatīti attho. Sāpadesanti saupamaṃ, sakāraṇanti attho. Pariyantavatinti paricchedaṃ dassetvā yathāssā paricchedo paññāyati, evaṃ bhāsatīti attho. Atthasaṃhitanti anekehipi nayehi vibhajantena pariyādātuṃ asakkuṇeyyatāya atthasampannaṃ bhāsati. Yaṃ vā so atthavādī atthaṃ vadati, tena atthena sahitattā atthasaṃhitaṃ vācaṃ bhāsati, na aññaṃ nikkhipitvā aññaṃ bhāsatīti vuttaṃ hoti.

Khoảng trống thiết lập được gọi là chứng cứ. Lời nói có chứng cứ: bởi vì cơ sở của lời nói ấy có tồn tại, có nghĩa là lời nói đáng được lưu giữ trong tâm. Hợp thời: và ngay cả khi nói lời nói bằng hình thức như vậy cũng không nói vào thời điểm không thích hợp với suy nghĩ rằng: – “Tôi sẽ nói lời nói có cơ sở”, có nghĩa là chỉ nói sau khi suy xét hợp thời. Có dẫn chứng: có so sánh, có ví dụ, có nguyên nhân. Có quy định: sau khi đã chỉ về quy định, nói theo cách được quy định của lời ấy, được nhận biết, có nghĩa là nói như vậy. Liên hệ đến lợi ích: Nới lời nói liên hệ đến lợi ích bởi vì người nói chia chẻ  theo nhiều cách thức, cũng không thể đưa đến chấm dứt được, hơn nữa, nói lời nói liên hệ với lợi ích bởi vì gắn liền với lợi ích mà người nói đến lợi ích ấy đã nói đến, có lời giải thích rằng: không phải thiết lập một vấn đề rồi đi nói vấn đề khác.

10. Bījagāmabhūtagāmasamārambhāti mūlabījaṃ khandhabījaṃ phaḷubījaṃ aggabījaṃ bījabījanti pañcavidhassa bījagāmassa ceva, yassa kassaci nīlatiṇarukkhādikassa bhūtagāmassa ca samārambhā, chedanabhedanapacanādibhāvena[70] vikopanā paṭiviratoti attho.

10. Tránh xa việc làm hại các hạt giống và các loài thảo mộc: tránh xa việc làm hại, là từ việc chặt đốn với tính chất của hành động như việc cắt bỏ, việc làm hại, và việc thiêu đốt v.v, đến năm loại hạt giống là mầm giống từ rễ, mầm giống từ thân, mầm giống từ mắt chồi, mầm giống từ phần ngọn, mầm giống từ hạt và các loại thảo mộc như cỏ, và cây xanh v.v, bất cứ một loại nào.

Ekabhattikoti pātarāsabhattaṃ sāyamāsabhattanti dve bhattāni, tesu pātarāsabhattaṃ antomajjhanhikena[71] paricchinnaṃ, itaraṃ majjhanhikato uddhaṃ anto aruṇena. Tasmā antomajjhanhike dasakkhattuṃ bhuñjamānopi ekabhattikova hoti. taṃ sandhāya vuttaṃ “ekabhattiko”ti.

Ăn một bữa: có hai bữa ăn là bữa ăn nên thọ dụng vào buổi sáng, bữa ăn nên thọ dụng vào buổi chiều. Trong hai bữa ăn ấy bữa ăn nên thọ dụng vào bữa sáng được quy định vào thời gian buổi trưa (trước giờ ngọ), ngoài ra bữa ăn vào buổi chiều được quy định sau buổi trưa đến lúc mặt trời lặn. Vì thế, dù thọ dụng mười lần vào thời gian trước buổi trưa cũng được xem là vị thọ dụng một bữa. Nói rằng ‘ăn một bữa’ ám chỉ đến bữa ăn nên thọ dụng vào buổi sáng ấy.

Rattiyā bhojanaṃ ratti, tato uparatoti rattūparato. atikkante majjhanhike yāva sūriyatthaṅgamanā bhojanaṃ vikālabhojanaṃ nāma. Tato viratattā virato vikālabhojanā. Kadā virato? Anomānadītīre pabbajitadivasato paṭṭhāya.

Không ăn ban đêm: do từ bỏ việc thọ dụng vào ban đêm. Việc thọ dụng khi quá thời vào buổi trưa cho đến lúc mặt trời lặn gọi là thọ dụng phi thời. Tránh xa việc thọ dụng phi thời do kiêng tránh việc thọ dụng kiểu ấy. Kiêng tránh thế nào? Kiêng tránh kể từ ngày xuất gia tại bờ sông Anomā.

Sāsanassa ananulomattā visūkaṃ[72] paṭāṇībhūtaṃ dassananti visūkadassanaṃ. Attanā naccananaccāpanādivasena naccā ca gītā ca vāditā ca antamaso mayūranaccādivasenapi pavattānaṃ naccādīnaṃ visūkabhūtā dassanā cāti naccagītavāditavisūkadassanā. Naccādīni hi attanā payojetuṃ vā parehi payojāpetuṃ vā payuttāni passituṃ vā neva bhikkhūnaṃ na bhikkhunīnañca vaṭṭanti.

Việc xem trình diễn là kẻ địch của thiện: Bởi vì việc xem là kẻ thù, là kẻ địch do không đúng theo Giáo Pháp. Từ bỏ việc nhảy múa, ca hát, tấu nhạc và xem trình diễn: việc nhảy múa, ca hát, tấu nhạc và xem trình diễn bởi chính mình, với tác động tự mình nhảy múa và cho người khác nhảy múa v.v, và việc xem nhảy múa v.v, tận cùng diễn biến do tác động việc nhảy múa của chim công v.v, là kẻ thù nghịch. Thật vậy, việc tự mình bắt tay vào việc như nhảy múa v.v, hoặc cho người khác bắt tay vào việc, và việc nhìn họ thể hiện thật không thích hợp đối với chư tỳ khưu và đối với chư tỳ khưu ni.

Mālādīsu mālāti yaṃ kiñci pupphaṃ. Gandhanti yaṃ kiñci gandhajātaṃ. Vilepananti chavirāgakaraṇaṃ. tattha piḷandhanto dhāreti nāma, ūnaṭṭhānaṃ pūrento maṇḍeti nāma, gandhavasena chavirāgavasena ca sādiyanto vibhūseti nāma. Ṭhānaṃ vuccati kāraṇaṃ, tasmā yāya dussīlyacetanāya tāni mālādhāraṇādīni mahājano karoti, tato paṭiviratoti attho.

Trong các đồ trang sức có vòng hoa v.v, gọi là vòng hoa bao gồm bất cứ loài hoa nào. Hương thơm: bất cứ loại có hương thơm nào. Vật thoa: vật thoa lên da. Trong số các loại đồ trang sức ấy, trong khi trang điểm gọi là mang, đeo. Trong khi làm đây những phần thiếu hụt trên cơ thể gọi là chưng dọn. Trong khi vui sướng do tác động của vật thơm và do tác động của vật thoa lên da gọi là trang điểm. Lý do được gọi là ‘vị trí’, do đó, mới có ý nghĩa rằng phần đông mọi người thực hiện việc đeo vòng hoa v.v, ấy do ý định làm nhân đưa đến giới tồi nào thì Sa-môn Gotama đã dứt trừ ý định làm nhân dẫn đến giới tồi ấy.

Uccāsayanaṃ vuccati pamāṇātikkantaṃ. Mahāsayananti akappiyapaccattharaṇaṃ. tato viratoti attho.

Chỗ nằm vượt quá kích thước gọi là chỗ nằm cao. Tấm trải không đúng phép gọi là chỗ nằm rộng lớn. Có nghĩa là tránh xa chỗ nằm (ngồi) cao, và chỗ nằm (ngồi) rộng lớn ấy.

Jātarūpanti suvaṇṇaṃ. Rajatanti kahāpaṇo, lohamāsako, jatumāsako, dārumāsakoti ye vohāraṃ gacchanti. tassa ubhayassāpi paṭiggahaṇā paṭivirato, neva naṃ uggaṇhāti, na uggaṇhāpeti, na upanikkhittaṃ sādiyatīti attho.

Jātarūpaṃ đồng nghĩa với suvaṇṇaṃ có nghĩa là vàng. Bạc: là đồng kahāpaṇa, đồng māsaka bằng đồng, đồng māsaka bằng gỗ, đồng māsaka bằng nhựa cánh kiến, bất cứ vật gì được sử dụng trong mua bán. Sa-môn Gotama tránh xe việc thọ nhận cả 2 là vàng và bạc, có nghĩa là Sa-môn Gotama không nhận lấy vàng và bạc, không để cho người khác nhận (giùm), (và) cũng không chấp nhận việc cất giữ vàng và bạc vì mình.

Āmakadhaññapaṭiggahaṇāti, sāli vīhi yava godhūma kaṅgu varaka kudrūsaka saṅkhātassa sattavidhassāpi āmakadhaññassa paṭiggahaṇā. na kevalañca etesaṃ paṭiggahaṇameva, āmasanampi bhikkhūnaṃ na vaṭṭatiyeva. Āmakamaṃsapaṭiggahaṇāti ettha aññatra odissa anuññātā āmakamaṃsamacchānaṃ paṭiggahaṇameva bhikkhūnaṃ na vaṭṭati, no āmasanaṃ.

Tránh xa việc thọ nhận hạt sống nghĩa là tránh xa việc thọ nhận bảy loại hạt sống được đề cập là lúa sāli, lúa mùa, lúa mạch, lúa mì, kê, đậu varaka, hạt kudrūsaka. Không những việc thọ nhận những hạt sống ấy ngay cả việc cầm lấy cũng không thích hợp đối với chư tỳ khưu. Tránh xa việc thọ nhận thịt sống: ở đây, việc thọ nhận thịt và cá sống, trừ phi nơi được cho phép đặc biệt cũng không được đối với chư tỳ khưu, việc cầm lấy cũng không được.

Itthikumārikapaṭiggahaṇāti ettha itthīti purisantaragatā, itarā kumārikā nāma, tāsaṃ paṭiggahaṇampi āmasanampi akappiyameva.

Tránh xa việc thọ nhận đàn bà con gái này nghĩa là phụ nữ đã có người nam sở hữu gọi là đàn bà. Những người nữ còn lại gọi là con gái, cả việc thọ nhận và luôn cả việc nắm giữ đều không đúng phép.

Dāsidāsapaṭiggahaṇāti ettha dāsidāsavaseneva tesaṃ paṭiggahaṇaṃ[73] na vaṭṭati. “kappiyakārakaṃ dammi, ārāmikaṃ dammī”ti evaṃ vutte pana vaṭṭati.

Tránh xa việc thọ nhận tớ trai và tớ gái này nghĩa là việc thọ nhận tớ trai và tớ ấy (ở vị trí) chỉ để làm người hầu nam và hầu nữ thì không được. Nhưng khi họ nói như vầy: “Xin cúng dường người cung cấp vật dụng thích hợp, xin cúng dường người giúp việc tu viện” thì được.

Ajeḷakādīsu khettavatthupariyosānesu kappiyākappiyanayo vinayavasena[74] upaparikkhitabbo. Tattha khettaṃ nāma yasmiṃ pubbaṇṇaṃ ruhati. Vatthu nāma yasmiṃ aparaṇṇaṃ ruhati. Yattha vā ubhayampi ruhati, taṃ khettaṃ. Tadatthāya akatabhūmibhāgo vatthu. Khettavatthusīsena cettha vāpitaḷākādīnipi saṅgahitāneva.

Với cách thức đúng phép và không đúng phép trong việc thọ nhận tài sản như dê và cừu v.v, có ruộng vườn và đất đai là sau cùng nên cân nhắc theo Luật. Ở đây, ruộng nương nghĩa là nơi gieo trồng các loại thóc lúa. Đất đai nghĩa là nơi gieo trồng các loại rau xanh, đậu. Hơn nữa, cả hai khu vực (hạt giống) phát triển thì đều là ruộng, còn phần khu vực không sử dụng vì cả hai lợi ích ấy thì gọi là đất đại. Hoặc, ngay cả ao và hồ v.v, cũng được gom lại trong trường hợp này tương tự bằng việc đưa từ ruộng vườn và khu đất vào làm chủ đề.

Dūteyyaṃ vuccati dūtakammaṃ, gihīnaṃ pahitaṃ paṇṇaṃ vā sāsanaṃ vā gahetvā tattha tattha gamanaṃ. Pahiṇagamanaṃ vuccati gharā gharaṃ pesitassa khuddakagamanaṃ. Anuyogo nāma tadubhayakaraṇaṃ. Tasmā dūteyyapahiṇagamanānaṃ anuyogāti. Evamettha attho veditabbo.

Việc của sứ thần được gọi là việc đưa tin tức, việc nhận lấy thư từ hoặc tin tức của người tại gia sai đi từ nơi này đến nơi khác. Việc đi phục vụ từ nhà này đến nhà kia (làm) những việc lặt vặt được gọi là việc phục vụ. Việc thực hiện cả 2 ấy gọi là thường xuyên gắn liền, nên hiểu ý nghĩa ở trường hợp này như vầy: từ việc thường xuyên gắn liền với việc đưa tin tức và việc phục vụ.

Kayavikkayāti kayā ca vikkayā ca. Tulākūṭādīsu kūṭanti vañcanaṃ. Tattha tulākūṭaṃ nāma rūpakūṭaṃ aṅgakūṭaṃ, gahaṇakūṭaṃ, paṭicchannakūṭanti catubbidhaṃ hoti. Tattha rūpakūṭaṃ nāma dve tulā samarūpā katvā gaṇhanto mahatiyā gaṇhāti, dadanto khuddikāya deti. aṅgakūṭaṃ nāma gaṇhanto pacchābhāge hatthena tulaṃ akkamati, dadanto pubbabhāge. gahaṇakūṭaṃ nāma gaṇhanto mūle rajjuṃ gaṇhāti, dadanto agge. paṭicchannakūṭaṃ nāma tulaṃ susiraṃ katvā anto ayacuṇṇaṃ pakkhipitvā gaṇhanto taṃ pacchābhāge karoti, dadanto aggabhāge.

Kayavikkayā nghĩa là từ việc mua và việc bán. Trong tất cả việc gian lận có việc gian lận bằng việc cân đo v.v. việc gian lận gồm việc lừa gạt. Trong việc gian lận ấy được gọi là việc gian lận do cân đo có bốn là: (1) rūpakūṭaṃ – gian lận bằng hình thức, (2) aṅgakūṭaṃ – gian lận theo bằng các chi, (3) gahaṇakūṭaṃ – gian lận do cầm lấy và (4) paṭicchannakūṭaṃ – gian lận nhờ che giấu. Ở đó, việc sử dụng 2 cái cân có chung hình thức như nhau khi nhận thì mua bằng cái cân lớn, nhưng khi bán thì cho bằng cái cân nhỏ gọi là rūpakūṭa – gian lận bằng hình thức. Khi mua dùng tay nhấn vào phía sau cân, khi bán thì dùng tay nhấn vào phía trước cân gọi là aṅgakūṭaṃ – gian lận theo bằng các chi. Khi mua nắm giữ ở đầu dây, khi bán nắm giữ ở cuối dây gọi là gahaṇakūṭaṃ – gian lận do cầm lấy. Khoan lỗ ngay cán cân rồi đặt bột chì vào bên trong, khi mua di chuyển bột chì đến cuối cán cân, khi bán di chuyển bột chì đó đến đầu cán cân gọi là paṭicchannakūṭaṃ – gian lận nhờ che giấu.

Kaṃso vuccati suvaṇṇapāti, tāya vañcanaṃ kaṃsakūṭaṃ. Kathaṃ? ekaṃ suvaṇṇapātiṃ katvā aññā dve tisso lohapātiyo suvaṇṇavaṇṇe karoti, tato janapadaṃ gantvā kiñcideva aḍḍhaṃ kulaṃ pavisitvā — “suvaṇṇabhājanāni kiṇathā”ti vatvā agghe pucchite samagghataraṃ[75] dātukāmā honti. Tato tehi — “kathaṃ imesaṃ suvaṇṇabhāvo jānitabbo”ti vutte, “vīmaṃsitvā gaṇhathā”ti suvaṇṇapātiṃ pāsāṇe ghaṃsitvā sabbā pātiyo datvā gacchati.

Khay vàng gọi là đồ đồng thiếc, việc gian lận bằng khay vàng ấy gọi là kaṃsakūṭa – gian lần bằng đồng thiếc. Gian lận như thế nào? Làm một cái khay vàng, rồi làm thêm 2-3 khay đồng thiếc sơn cho có màu tựa như vàng, sau đó đi đến vùng nông thôn tìm kiếm gặp một trong những gia đình giàu có và nói: – “Hãy mua một cái khay bằng vàng”. Khi bị người khác hỏi về giá cả, mong muốn bán (các khay) đồng giá. Sau đó khi họ hỏi rằng: “Làm thế nào có thể biết được những cái khay này được làm bằng vàng?” Mới nói rằng: “Hãy xem xét trước khi lấy” rồi lấy cái khay bằng vàng chà lên đá, đã bán hết các khay, rồi bỏ đi.

Mānakūṭaṃ nāma hadayabhedasikhābhedarajjubhedavasena tividhaṃ hoti. Tattha hadayabhedo sappitelādiminanakāle labbhati. Tāni hi gaṇhanto heṭṭhāchiddena mānena — “saṇikaṃ āsiñcā”ti vatvā antobhājane bahuṃ paggharāpetvā gaṇhāti, dadanto chiddaṃ pidhāya sīghaṃ pūretvā deti.

Gian lận bằng dụng cụ đong đếm có ba loại là hadayabheda sikhābheda rajjubheda. Trong ba loại ấy, việc gian lận bằng hadayabheda được sử dụng trong lúc đong dầu và bơ lỏng v.v. Bởi vì trong lúc nhận lấy bơ lỏng và dầu v.v, sử dụng dụng cụ để đong có một lỗ nhỏ phía dưới, nói (rằng) hãy từ từ rót để cho chúng chảy xuống thùng của tôi một cách nhanh chóng rồi lấy mang đi; khi bán thì đóng cái lỗ đó lại để đong cho nhanh đầy, rồi cho đi.

Sikhābhedo tilataṇḍulādiminanakāle labbhati. tāni hi gaṇhanto saṇikaṃ sikhaṃ ussāpetvā gaṇhāti, dadanto vegena pūretvā sikhaṃ chindanto deti. Rajjubhedo khettavatthuminanakāle labbhati. lañjaṃ alabhantā hi khettaṃ amahantampi mahantaṃ katvā minanti.

Việc gian lận bằng Sikhābheda được sử dụng trong lúc đong gạo và đong mè v.v, khi đong đo mè và gạo v.v, đó thì cũng đổ từ từ làm cho cao lên tạo thành đỉnh rồi lấy mang đi, khi đong đo để bán thì làm cho đầy nhanh chóng, cắt phần đỉnh rồi để cho đi. Việc gian lận bằng Rajjubheda được sử dụng trong lúc đo đạc ruộng vườn và đất đai v.v, bởi vì khi chưa nhận tiền thù lao, thì ruộng vườn kể cả không rộng lớn cũng làm cho rộng lớn.

Ukkoṭanādīsu ukkoṭananti assāmike sāmike kātuṃ lañjaggahaṇaṃ. Vañcananti tehi tehi upāyehi paresaṃ vañcanaṃ. Tatridamekaṃ vatthu — Eko kira luddako migañca migapotakañca gahetvā āgacchati, tameko dhutto — “Kiṃ bho, migo agghati, kiṃ migapotako”ti āha. “Migo dve kahāpaṇe, migapotako ekan”ti ca vutte ekaṃ kahāpaṇaṃ datvā migapotakaṃ gahetvā thokaṃ gantvā nivatto — “Na me bho, migapotakena attho, migaṃ me dehī”ti āha. Tena hi — dve kahāpaṇe dehīti. so āha — “nanu te bho, mayā paṭhamaṃ eko kahāpaṇo dinno”ti? “āma, dinno”ti. “idaṃ migapotakaṃ gaṇha, evaṃ so ca kahāpaṇo, ayañca kahāpaṇagghanako migapotakoti dve kahāpaṇā bhavissantī”ti. so “kāraṇaṃ vadatī”ti sallakkhetvā migapotakaṃ gahetvā migaṃ adāsīti.

Việc nhận hối lộ v.v, từ ‘hối lộ’ muốn nói đến việc nhận hối lộ nhằm mục đích làm cho người chủ không trở thành người chủ. Gian trá nghĩa là việc lừa dối người khác bằng cách này hay cách khác. Trong câu đó có câu chuyện minh họa như sau – Chuyện kể rằng, có một người thợ săn đã săn được thịt nai mẹ và cả thịt nai tơ. Một tên cướp đã nói với anh ta rằng: – “này ông bạn thịt nai này giá bao nhiêu? Còn giá của con nai tơ này bao nhiêu?” – Và người thợ săn trả lời: “Thịt nai mẹ 2 kahāpana, thị nai tơ 1 kahāpana” – tên cướp đã đưa cho người thợ săn 1 kahāpana rồi lấy một ít thịt nai tơ đi, đi được một lúc rồi quay trở lại nói với người thợ săn rằng: “Tôi không lấy thịt nai tơ này, ông hãy đưa cho tôi thịt nai mẹ”. Nếu vậy – ông hãy đưa tôi 2 kahāpana. Tên cướp nói rằng: “này ông bạn, tôi đã đưa cho ông 1 kahāpana rồi không phải sao? (người thợ săn) chấp nhận rằng “đủng, đưa rồi”, mới nói rằng ngài hãy lấy cục thịt này đi, nếu vậy kapāpana và cục thịt này giá 1 kahāpana thành 2 kahāpana.” Người thợ săn nghĩ rằng tên cướp nói có lý nhận lấy thịt nai tơ rồi đưa thịt nai mẹ cho tên cướp mang đi.

Nikatīti yogavasena vā māyāvasena vā apāmaṅgaṃ pāmaṅganti, amaṇiṃ maṇinti, asuvaṇṇaṃ suvaṇṇanti katvā patirūpakena vañcanaṃ. Sāciyogoti kuṭilayogo, etesaṃyeva ukkoṭanādīnametaṃ nāmaṃ. Tasmā — Ukkoṭanasāciyogo, vañcanasāciyogo, nikatisāciyogoti, evamettha attho daṭṭhabbo. Keci aññaṃ dassetvā aññassa parivattanaṃ sāciyogoti vadanti. Taṃ pana vañcaneneva saṅgahitaṃ.

Lừa đảo: sự lường gạt với những món đồ giả đã làm những món đồ vật không phải dây chuyền đeo cổ (nói là) dây chuyền đeo cổ, không phải ngọc mānī (nói là) ngọc mānī, không phải vàng (nói là) vàng do tác động của sự dính líu đến hoặc do tác động của sự gạt gẫm. Tráo trở: phương pháp gian lận, lời này cũng chính là cách gọi của việc nhận hối lộ v.v, Vì thế, nên hiểu ý nghĩa trong trường hợp này như vầy (rằng) – tráo trở là việc nhân hối lộ, tráo trở là gian trá, tráo trở là lừa đảo. Một số vị thầy nói rằng: việc miêu tả một thứ rồi đổi thành một thứ khác gọi là tráo trở. Tuy nhiên trong trường hợp này ngài kết hợp chung lại để chỉ sự gian trá.

Chedanādīsu chedananti hatthacchedanādi. Vadhoti māraṇaṃ. Bandhoti rajjubandhanādīhi bandhanaṃ. Viparāmosoti himaviparāmoso, gumbaviparāmosoti duvidho. Yaṃ himapātasamaye himena paṭicchannā hutvā maggappaṭipannaṃ janaṃ musanti, ayaṃ himaviparāmoso. Yaṃ gumbādīhi paṭicchannā musanti, ayaṃ gumbaviparāmoso. Ālopo vuccati gāmanigamādīnaṃ vilopakaraṇaṃ. Sahasākāroti [76]sāhasikakiriyā, gehaṃ pavisitvā manussānaṃ ure satthaṃ ṭhapetvā icchitabhaṇḍānaṃ gahaṇaṃ. Evametasmā chedana … pe … sahasākārā paṭivirato Samaṇo Gotamoti. Iti vā hi, bhikkhave, puthujjano tathāgatassa vaṇṇaṃ vadamāno vadeyyāti.

Chém v.v, ‘chém’ gồm cả việc cắt đứt tay v.v. Giết: làm cho chết. Ràng buộc: ràng buộc với sự buộc chặt bằng sợi dây thừng v.v, Cướp bóc: việc cướp bóc có 2 cách là (1) cướp bóc nhờ tuyết che phủ, và (2) cướp bóc nhờ lùm cây che phủ. Khi tuyết rơi ẩn mình sau đóng tuyết để cướp giật những người đi đường, đây gọi là cướp bóc nhờ tuyết che phủ. Ẩn mình sau lùm cây để cướp giật, đây gọi là cướp bóc nơi lùm cây che phủ. Việc cướp đoạt (tài sản) của người dân trong làng và người dân ở thị trấn, v.v được gọi là cưỡng đoạt. Việc chấn lột: hành động bạo lực, sau khi xông thẳng vào nhà đã sử dụng vũ khí đâm vào ngực những người trong nhà rồi lấy đi những thứ họ muốn. Sa-môn Gotama tránh xa các hành động chém, giết, ràng buộc, cướp bóc, cưỡng đoạt, và chấn lột này như vậy. Này chư Tỳ khưu, phàm nhân trong lúc ca ngợi Như Lai có thể nói đến chỉ là như thế.

Phần Tiểu Giới Được Kết Thúc Chỉ Bấy Nhiêu

 

Giải Thích Trung Giới

11. Idāni majjhimasīlaṃ vitthārento[77] “yathā vā paneke bhonto”tiādimāha. tatrāyaṃ anuttānapadavaṇṇanā. Saddhādeyyānīti kammañca phalañca idhalokañca paralokañca saddahitvā dinnāni. ‘ayaṃ me ñātī’ti vā, ‘mitto’ti vā, idaṃ paṭikarissati, idaṃ vā tena katapubbanti vā, evaṃ na dinnānīti attho. Evaṃ dinnāni hi na saddhādeyyāni nāma honti. Bhojanānīti desanāsīsamattametaṃ, atthato pana saddhādeyyāni bhojanāni bhuñjitvā cīvarāni pārupitvā senāsanāni sevamānā gilānabhesajjaṃ paribhuñjamānāti sabbametaṃ vuttameva hoti.

11. Bây giờ, đức Thế Tôn bắt đầu thuyết giảng phần Trung Giới đã nói rằng: “Hơn nữa, có một số tôn đức v.v.” Trong lời ấy có lời giải thích nghĩa của từ khó như sau – Bố thí với đức tin: người tin nghiệp và quả của nghiệp, đời này và đời sau, đã bố thí. Có nghĩa là họ không bố thí với mong muốn như vầy “người này là quyến thuộc của tôi” hoặc “người này là bạn của tôi”, hoặc “họ sẽ đền đáp điều này”, hoặc “Điều này họ đã từng làm”. Bởi vì các món ăn được bố thí như thế không gọi là bố thí với đức tin. Các món ăn: đây chỉ là tiêu đề của thời pháp, nhưng xét về nội dung thì điều này được nói toàn bộ: sau khi thọ dụng các món ăn, mặc y, sử dụng sàng tọa, thọ dụng thực phẩm trị bệnh được họ bố thí với đức tin.

Seyyathidanti nipāto. Tassattho katamo so bījagāmabhūtagāmo, yassa samārambhaṃ anuyuttā viharantīti. Tato taṃ dassento mūlabījantiādimāha. Tattha mūlabījaṃ nāma haliddi, siṅgiveraṃ[78], vacā, vacattaṃ[79], ativisā, kaṭukarohiṇī, usīraṃ, bhaddamuttakanti[80] evamādi. Khandhabījaṃ nāma assattho, nigrodho, pilakkho, udumbaro, kacchako, kapitthanoti evamādi. Phaḷubījaṃ nāma ucchu, naḷo, veḷūti evamādi. Aggabījaṃ nāma ajjakaṃ[81], phaṇijjakaṃ, hiriveranti evamādi. Bījabījaṃ nāma pubbaṇṇaṃ aparaṇṇanti evamādi. sabbañhetaṃ rukkhato viyojitaṃ viruhanasamatthameva “bījagāmo”ti vuccati. rukkhato pana aviyojitaṃ asukkhaṃ “bhūtagāmo”ti vuccati. Tattha bhūtagāmasamārambho pācittiyavatthu, bījagāmasamārambho dukkaṭavatthūti veditabbo.

Seyyathidaṃ (như là) là một phân từ. Có ý nghĩa như thế nào? Có ý nghĩa rằng: Có các mầm giống và các loài thảo mộc, mà một số các Sa-môn Bà-la-môn sống thường xuyên thực hành làm hại. Kể từ đó đức Thế Tôn trong khi thuyết giảng về các mầm giống và các loại thảo mộc mới nói rằng ‘mầm giống từ rễ v.v.Ở đó, mầm giống bắt đầu như vầy là củ nghệ, củ gừng, cây vacā, cây vacattaṃ, cây ngải cứu, cây kaṭukarohiṇī, cây usīraṃ, cỏ bhaddamuttakaṃ được gọi là mầm giống từ rễ. Mầm giống bắt đầu như vầy là cây đa, cây si, cây sung, cây cần thăng, cây vả, cây quách được gọi là mầm giống từ thân. Mầm giống bắt đầu như vầy là cây mía, cây sậy, cây tre được gọi là mầm giống từ mắt chồi. Mầm giống bắt đầu như vầy là cây húng quế, cây sả, củ hành tím được gọi là mầm giống từ phần ngọn. Mầm giống bắt đầu như vầy là hạt lúa, hạt bắp, hạt rau cải, được gọi là mầm giống từ hạt. Tất cả những loại mầm giống này sau khi được tách ra khỏi thân cây vẫn có khả năng nảy mầm được gọi là thảo mộc. Trong hai loại mầm giống ấy việc làm hại thảo mộc nên biết rằng là đối tượng phạm Pācittīya, việc làm hại mầm giống từ hạt là đối tượng phạm Dukkaṭa.

12. Sannidhikāraparibhoganti sannidhikatassa paribhogaṃ[82]. Tattha duvidhā kathā, vinayavasena ca sallekhavasena ca. Vinayavasena tāva yaṃ kiñci annaṃ ajja paṭiggahitaṃ aparajju sannidhikārakaṃ hoti, tassa paribhoge pācittiyaṃ. Attanā laddhaṃ pana sāmaṇerānaṃ datvā, tehi laddhaṃ ṭhapāpetvā dutiyadivase bhuñjituṃ vaṭṭati, sallekho pana na hoti.

12. Việc thọ dụng vật thực đã được tích trữ: Việc thọ dụng vật thực đã được tích trữ. Ở đó, có 2 điều nên nói, nói liên quan đến Luật và nói liên quan đến việc thực hành đoạn giảm. Nói liên quan đến Luật trước, bất kể loại vật thực nào đã được thọ nhận vào ngày hôm nay mà cất giữ cho ngày hôm sau, đây là việc tích trữ, khi thọ dụng vật thực ấy phạm Pācittīya. Nhưng đưa vật thực mà mình đã nhận được đến vị Sa-di, để cho những vị Sa-di ấy cất giữ, rồi sẽ thọ dụng vào ngày hôm sau, là được phép, tuy nhiên đó không phải là việc thực hành đoạn giảm.

Pānasannidhimhipi eseva nayo. Tattha pānaṃ nāma ambapānādīni aṭṭha pānāni, yāni ca tesaṃ anulomāni. Tesaṃ vinicchayo Samantapāsādikāyaṃ[83] vutto.

Luôn cả việc tích trữ thức uống cũng có phương cách tương tự. Trong câu đó gọi là thức uống bao gồm tám loại thức uống có nước ép xoài v.v, và nước có thể hòa trộn với tám loại thức uống ấy. Việc phân biệt về các loại thức uống ấy tôi đã nói ở Samantapāsādikā thuộc chú giải Tạng Luật.

Vatthasannidhimhi anadhiṭṭhitaṃ avikappitaṃ sannidhi ca hoti, sallekhañca kopeti, ayaṃ pariyāyakathā. Nippariyāyato pana ticīvarasantuṭṭhena bhavitabbaṃ, catutthaṃ labhitvā aññassa dātabbaṃ. Sace yassa kassaci dātuṃ na sakkoti, yassa pana dātukāmo hoti, so uddesatthāya vā paripucchatthāya vā gato, āgatamatte dātabbaṃ, adātuṃ na vaṭṭati. Cīvare pana appahonte satiyā paccāsāya anuññātakālaṃ[84] ṭhapetuṃ vaṭṭati. Sūcisuttacīvarakārakānaṃ alābhena tato parampi vinayakammaṃ katvā ṭhapetuṃ vaṭṭati. “Imasmiṃ jiṇṇe puna īdisaṃ kuto labhissāmī”ti pana ṭhapetuṃ na vaṭṭati, sannidhi ca hoti, sallekhañca kopeti.

Việc tích trữ vải vóc: y phục chưa được chú nguyện để dùng riêng và vẫn chưa được chú nguyện để dùng chung, đây là việc tích trữ, và gây cản trở cho việc thực hành đoạn giảm, đây là cách nói gián tiếp. Còn theo cách trực tiếp – Vị tỳ khưu nên thực hành lối sống tri túc với tam y, khi đã nhận được tấm y thứ tư nên cho (tấm y ấy) đến một vị khác, nếu như không thể cho đến bất cứ vị nào, nhưng nếu mong muốn cho đến một vị nào, vị đã đi vì lợi ích cho sự minh họa hoặc vì lợi ích cho việc vấn hỏi, khi trở về ông nên cho đi, không cho không đúng phép. Tuy nhiên khi y phục không đủ, nhưng có lòng mong muốn đạt được có thể cất giữ trong khoảng thời gian cho phép cũng được phép. Khi vẫn chưa có được kim chỉ và dụng cụ may y có thể cất giữ quá thời gian quy định cần phải thực hành theo vinayakamma mới đúng phép. Nhưng khi tấm y ấy đã cũ cất giữ để chờ đợi (với suy nghĩ) rằng: “Tôi sẽ nhận được tấm y như thế này ở đâu nữa” như thế không đúng phép, gọi là việc tích trữ và gây cản trở cho việc thực hành đoạn giảm.

Yānasannidhimhi yānaṃ nāma vayhaṃ, ratho, sakaṭaṃ, sandamānikā, sivikā, pāṭaṅkīti; Netaṃ pabbajitassa yānaṃ. Upāhanā pana pabbajitassa yānaṃyeva. ekabhikkhussa hi eko araññatthāya, eko dhotapādakatthāyāti, ukkaṃsato dve upāhanasaṅghāṭā vaṭṭanti. tatiyaṃ labhitvā aññassa dātabbo. “imasmiṃ jiṇṇe aññaṃ kuto labhissāmī”ti hi ṭhapetuṃ na vaṭṭati, sannidhi ca hoti, sallekhañca kopeti.

Việc tích trữ phương tiện đi lại, được gọi là xe bao gồm xe bò, xe kéo, xe hàng, xe ngựa, kiệu khiêng, ghế khiêng; Đây không phải là phương tiện của bậc xuất gia. Bậc xuất gia chỉ có một loại phương tiện mà thôi đó là đôi dép. Bởi vì một vị tỳ khưu nên sử dụng tối đa 2 đôi dép. Nhưng nếu cất giữ với suy nghĩ rằng: “Khi đôi này cũ, ta sẽ nhận được đôi khác ở đâu?” như thế không đúng phép. Được gọi là việc tích trữ và gây cản trở cho việc thực hành đoạn giảm.

Sayanasannidhimhi sayananti mañco. Ekassa bhikkhuno eko gabbhe, eko divāṭhāneti ukkaṃsato dve mañcā vaṭṭanti. tato uttari labhitvā aññassa bhikkhuno vā gaṇassa vā dātabbo; adātuṃ na vaṭṭati. Sannidhi ca hoti, sallekhañca kopeti.

Việc tích trữ sàng tọa, sàng tọa bao gồm giường nằm. Một vị tỳ khưu có giường nằm tối đa 2 cái, là một cái giường đặt ở trong phòng, (và) một cái giường đặt ở chỗ nghĩ ban ngày. (nếu) có được hơn thế nên cho đến vị tỳ khưu khác, hoặc đến hội chúng; không cho không đúng phép. Được gọi là việc tích trữ và gây cản trở cho việc thực hành đoạn giảm.

Gandhasannidhimhi bhikkhuno kaṇḍukacchuchavidosādi-ābādhe[85] sati gandhā vaṭṭanti. te gandhe āharāpetvā tasmiṃ roge vūpasante aññesaṃ vā ābādhikānaṃ dātabbā, dvāre pañcaṅguligharadhūpanādīsu vā upanetabbā. “puna roge sati bhavissantī”ti pana ṭhapetuṃ na vaṭṭati, sannidhi[86] ca hoti, sallekhañca kopeti.

Việc tích trữ hương liệu, khi vị tỳ khưu bệnh ung nhọt, ghẻ lở, và các bệnh về da v.v, sử dụng hương liệu, được phép. Khi hết bệnh nên cho những hương liệu ấy đến cho vị tỳ khưu bệnh khác hoặc nên đem đi sử dụng trong việc xông nhà bằng năm ngón tay v.v, ở cửa. Nhưng cất giữ với ý muốn rằng: “Khi bệnh lại sẽ có sử dụng” như thế không đúng phép, Được gọi là việc tích trữ và gây cản trở cho việc thực hành đoạn giảm.

Āmisanti vuttāvasesaṃ daṭṭhabbaṃ. Seyyathidaṃ, idhekacco bhikkhu — “tathārūpe kāle upakārāya bhavissatī”ti tila taṇḍula mugga māsa nāḷikera loṇa maccha maṃsa vallūra sappi tela guḷa bhājanādīni āharāpetvā ṭhapeti. So vassakāle kālasseva sāmaṇerehi yāguṃ pacāpetvā paribhuñjitvā “Sāmaṇera, udakakaddame dukkhaṃ gāmaṃ pavisituṃ, gaccha asukaṃ kulaṃ gantvā mayhaṃ vihāre nisinnabhāvaṃ ārocehi; Asukakulato dadhiādīni āharā”ti peseti. Bhikkhūhi — “kiṃ, bhante, gāmaṃ pavisissathā”ti vuttepi, “duppaveso, āvuso, idāni gāmo”ti vadati. te — “hotu, bhante, acchatha tumhe, mayaṃ bhikkhaṃ pariyesitvā āharissāmā”ti gacchanti. Atha sāmaṇeropi[87] dadhiādīni āharitvā bhattañca byañjanañca sampādetvā upaneti, taṃ bhuñjantasseva upaṭṭhākā bhattaṃ pahiṇanti, tatopi manāpaṃ manāpaṃ bhuñjati. atha bhikkhū piṇḍapātaṃ gahetvā āgacchanti, tatopi manāpaṃ manāpaṃ gīvāyāmakaṃ bhuñjatiyeva. evaṃ catumāsampi vītināmeti. ayaṃ vuccati — “bhikkhu muṇḍakuṭumbikajīvikaṃ jīvati, na samaṇajīvikan”ti. evarūpo āmisasannidhi nāma hoti.

Ngoài những thứ đã nói nên biết rằng được gọi là tài vật. Như là, một vị tỳ khưu trong Giáo Pháp này – sau khi cho mang bình đựng mè, gạo, đậu xanh, đậu nành, nước dừa, muối, cá, thịt, thịt phơi khô, bơ lỏng, dầu ăn và đường mía v.v, đến để cất giữ với suy nghĩ rằng: “Sẽ có để hỗ trợ trong thời gian như thế”. Khi vào mùa mưa, vào lúc sáng sớm vị ấy cho đến các vị Sa-di nấu cháo, sau khi ăn, sai biểu các vị Sa-di đi bằng mệnh lệnh như sau: “Này Sa-di, các con hãy đi vào làng nơi khó khăn do bùn lầy, sau khi đi đến gia đình ấy nói rằng: ‘ta ở tu viện hãy đem nước cam v.v, từ gia đình ấy đến.” Thậm chí khi chư tỳ khưu hỏi rằng: “Thưa đại đức, đại đức sẽ đi vào làng chứ?” – Vi ấy đáp rằng: “Này các sư đệ lúc này vào làng thật khó khăn”. – Các vị tỳ khưu nói rằng: “Thôi kệ đi, mời đại đức ở lại, chúng tôi sẽ tìm kiếm vật thực mang về cúng dường cho đại đức” rồi ra đi. Lúc đó, vị Sa-di đã mang nước cam v.v, đến, chuẩn bị cơm và thức ăn rồi đem đến cúng dường, khi đang thọ dụng vật thực thì nhóm người tùy tùng gửi các món ăn đến cúng dường. Ngài chỉ ăn những món ăn mình thích. Sau đó, các vị tỳ khưu đi bát khất thực trở về, ngài cũng chỉ ăn những món mình ưa thích đến nỗi ngập cổ họng. Vị ấy sống như thế suốt bốn tháng. Vị tỳ khưu này được gọi là – “có mạng sống sống kiểu triệu phú đầu trọc, không phải có mạng sống kiểu Sa-môn”. Vị tỳ khưu như vậy gọi là tích trữ tài vật.

Bhikkhuno pana vasanaṭṭhāne ekā taṇḍulanāḷi, eko guḷapiṇḍo, catubhāgamattaṃ sappīti ettakaṃ nidhetuṃ vaṭṭati, akāle sampattacorānaṃ atthāya. Te hi ettakampi āmisapaṭisanthāraṃ[88] alabhantā jīvitāpi voropeyyuṃ, tasmā sace ettakaṃ natthi, āharāpetvāpi ṭhapetuṃ vaṭṭati. Aphāsukakāle ca yadettha kappiyaṃ, taṃ attanāpi paribhuñjituṃ vaṭṭati. Kappiyakuṭiyaṃ pana bahuṃ ṭhapentassāpi sannidhi nāma natthi. Tathāgatassa pana taṇḍulanāḷiādīsu vā yaṃ kiñci caturatanamattaṃ vā[89] pilotikakhaṇḍaṃ “idaṃ me ajja vā sve vā bhavissatī”ti ṭhapitaṃ nāma natthi.

Hơn nữa, ở trú xứ của vị tỳ khưu chỉ có thể cất giữ được chừng này là một đấu gạo, một phên đường mía, bơ lỏng khoảng 4 phần vì lợi ích dành cho những tên cướp đến phi thời. Bởi vì bọn khi không nhận được sự tiếp đãi bằng vật chất chừng ấy có thể tước đoạt mạng sống, vì thế nếu như lương thực đi đường chỉ chừng ấy cũng không có, dù tự mình cho mang đến cất giữ cũng được phép. Hơn nữa, vào lúc không thoải mái, trong trú xứ có thứ nào làm thành được phép sẽ thọ dụng thứ ấy thậm chí một mình, cũng được phép. Nhà làm thành được phép dù cất giữ nhiều cũng không gọi là tích trữ. Tuy nhiên đối với Như Lai việc cất giữ bất kỳ một thứ nào dù một đấu gạo v.v, hoặc một tấm y cũ chừng một lóng tay với ý nghĩ rằng: “Thứ này sẽ có cùng ta vào ngày hôm nay hoặc ngày mai” là không có.

13. Visūkadassanesu naccaṃ nāma yaṃ kiñci naccaṃ, taṃ maggaṃ gacchantenāpi gīvaṃ pasāretvā daṭṭhuṃ na vaṭṭati. Vitthāravinicchayo panettha Samantapāsādikāyaṃ vuttanayeneva veditabbo. Yathā cettha, evaṃ sabbesu sikkhāpadapaṭisaṃyuttesu suttapadesu. Ito parañhi ettakampi avatvā tattha tattha payojanamattameva vaṇṇayissāmāti.

Trong việc xem biểu diễn, khiêu vũ nghĩa là bất kỳ việc khiêu vũ nào, vị tỳ khưu kể cả đi qua con đường ấy liếc mắt nhìn cũng không đúng phép. Hơn nữa, việc xét xử chi  tiết trong trường hợp này nên biết theo cùng một phương cách đã được nói trong Samantapāsādikā Chú giải Tạng Kinh và trong các câu kinh liên quan đến tất cả các điều học giới cũng nên hiểu cách xét xử đồng nhất với trường hợp này, về sau bắt đầu từ đây trở đi sẽ không nói nhiều (các từ nhỏ nhặt) mà sẽ giải thích cho đủ lợi ích chính ngay trong câu đó.

Pekkhanti naṭasamajjaṃ[90]. Akkhānanti bhāratayujjhanādikaṃ[91]. Yasmiṃ ṭhāne kathīyati, tattha gantumpi na vaṭṭati. Pāṇissaranti kaṃsatāḷaṃ, pāṇitāḷantipi vadanti. Vetāḷanti ghanatāḷaṃ, mantena matasarīruṭṭhāpanantipi eke. Kumbhathūṇanti caturassāmbaṇakatāḷaṃ, kumbhasaddantipi eke. Sobhanakanti naṭānaṃ abbhokkiraṇaṃ, sobhanakaraṃ[92] vā, paṭibhānacittanti vuttaṃ hoti. Caṇḍālanti ayoguḷakīḷā, caṇḍālānaṃ sāṇadhovanakīḷātipi vadanti. Vaṃsanti veḷuṃ ussāpetvā kīḷanaṃ.

Kịch: những trò tiêu khiển như nhảy múa v.v. Kể chuyện: việc đánh giặc của vua Mahābhārada và nói về chuyện Rāma cướp nàng Sitā v.v. Vị tỳ khưu dù đi đến nơi mà họ đang kể chuyện cũng không đúng phép. Pāṇissara: lắc khánh, một số vị thầy nói là việc vỗ tay. Vetāḷa: đánh cồng chiêng, một số vị thầy nói là việc đánh thức xác chết cho đứng dậy bằng chú thuật. Đánh trống: đánh trống lớn bốn mặt, một số vị thầy nói là âm thanh cái nồi. Vở kịch: vở kịch hoặc hình ảnh đất nước xinh đẹp, được nói đến là những hình ảnh gợi cảm. Trò chơi với banh sắt: trò chơi ném banh sắt, một số vị thầy nói là việc giặt giũ áo vỏ cây của nhóm người hạ tiện. Trò tung hứng tre: trò chơi tung hứng tre.

Dhovananti aṭṭhidhovanaṃ, ekaccesu kira janapadesu kālaṅkate[93] ñātake na jhāpenti, nikhaṇitvā ṭhapenti. Atha nesaṃ pūtibhūtaṃ kāyaṃ ñatvā nīharitvā aṭṭhīni dhovitvā gandhehi makkhetvā ṭhapenti. Te nakkhattakāle ekasmiṃ ṭhāne aṭṭhīni ṭhapetvā ekasmiṃ ṭhāne surādīni ṭhapetvā rodantā paridevantā suraṃ pivanti. Vuttampi cetaṃ — “Atthi, bhikkhave, dakkhiṇesu janapadesu aṭṭhidhovanaṃ nāma, tattha hoti annampi pānampi khajjampi bhojjampi leyyampi[94] peyyampi naccampi gītampi vāditampi. Atthetaṃ, bhikkhave, dhovanaṃ, netaṃ natthīti vadāmī”ti[95]. Ekacce pana indajālena aṭṭhidhovanaṃ dhovanantipi[96] vadanti.

Trò chơi trước xác chết: bốc cốt rửa xương. Tương truyền ở một số vùng nông thôn khi thân quyến chết, họ không đem thiêu mà mang đi chôn cất, sau khi biết được xác chết ấy đã bị phân hủy, họ đem cái xác đó ra để rửa phần xương cốt, thoa vật thơm, rồi cất giữ. Vào ngày làm lễ Nakkhatta họ đặt phần xương cốt ở một chỗ, đặt rượu một chỗ, rồi cùng nhau khóc than, bi lụy (và) uống rượu. Và điều này cũng đã được đức Thế Tôn nói đến – “Này các tỳ khưu, tại các quốc độ miền Nam, có trò chơi trước xác chết. Tại đấy có các món ăn, có các thức uống, các đồ ăn loại cứng, các đồ ăn loại mềm, đồ nếm, đồ uống, nhảy múa, ca hát, đờn nhạc. Này các tỳ khưu, đây là trò chơi trước xác chết, Ta không tuyên bố lễ bốc cốt rửa xương ấy không có.” Tuy nhiên một số vị thầy nói rằng: lễ bốc cốt rửa xương với trò chơi quỷ thuật được gọi là trò chơi trước xác chết.

Hatthiyuddhādīsu bhikkhuno neva hatthiādīhi saddhiṃ yujjhituṃ, na te yujjhāpetuṃ, na yujjhante daṭṭhuṃ vaṭṭati. Nibbuddhanti mallayuddhaṃ. Uyyodhikanti yattha sampahāro dissati. Balagganti balagaṇanaṭṭhānaṃ. Senābyūhanti senāniveso, sakaṭabyūhādivasena senāya nivesanaṃ. Anīkadassananti — “tayo hatthī pacchimaṃ hatthānīkan”tiādinā[97] nayena vuttassa anīkassa dassanaṃ.

Đấu voi v.v, việc chiến đấu bằng voi, hay việc sử dụng voi đấu nhau, (hoặc) việc nhìn voi đấu với nhau, đều không đúng phép đối với chư tỳ khưu. Đấu vật: việc đấu nhau của các đô vật. Nơi tập trận: nơi nào chiến chiến đấu được nhìn thấy. Nơi đóng quân: nơi có binh lính chiến đấu. Nơi dàn binh: việc sắp xếp đội quan, là việc thành lập một đội quân có khả năng sắp xếp một đội quân như xa binh, v.v. Xem sự điều quân : Việc xem điều quân được ngài nói theo phương cách sau: “Ít nhất là ba con voi được gọi là tượng binh”.

14. Pamādo ettha tiṭṭhatīti pamādaṭṭhānaṃ. Jūtañca taṃ pamādaṭṭhānañcāti jūtappamādaṭṭhānaṃ. Ekekāya pantiyā aṭṭha aṭṭha padāni assāti aṭṭhapadaṃ dasapadepi eseva nayo. Ākāsanti aṭṭhapadadasapadesu viya ākāseyeva kīḷanaṃ. parihārapathanti bhūmiyaṃ nānāpathamaṇḍalaṃ katvā tattha tattha pariharitabbaṃ, pathaṃ pariharantānaṃ kīḷanaṃ. Santikanti santikakīḷanaṃ[98]. ekajjhaṃ ṭhapitā sāriyo vā sakkharāyo vā acālentā nakheneva apanenti ca upanenti ca, sace tattha kāci calati, parājayo hoti, evarūpāya kīḷāyetaṃ adhivacanaṃ. Khalikanti jūtaphalake pāsakakīḷanaṃ. Ghaṭikā vuccati dīghadaṇḍakena rassadaṇḍakaṃ paharaṇakīḷanaṃ. Salākahatthanti lākhāya vā mañjiṭṭhikāya[99] vā piṭṭhodakena vā salākahatthaṃ temetvā — “kiṃ hotū”ti bhūmiyaṃ vā bhittiyaṃ vā taṃ paharitvā hatthiassādirūpadassanakīḷanaṃ. Akkhanti guḷakīḷā. Paṅgacīraṃ vuccati paṇṇanāḷikaṃ, taṃ dhamantā kīḷanti. Vaṅkakanti gāmadārakānaṃ kīḷanakaṃ khuddakanaṅgalaṃ. Mokkhacikā vuccati samparivattanakīḷā, ākāse vā daṇḍakaṃ gahetvā bhūmiyaṃ vā sīsaṃ ṭhapetvā heṭṭhupariyabhāvena parivattanakīḷāti vuttaṃ hoti. Ciṅgulikaṃ vuccati tālapaṇṇādīhi kataṃ vātappahārena paribbhamanacakkaṃ. Pattāḷhakaṃ vuccati paṇṇanāḷikā. Tāya vālukādīni minantā kīḷanti. Rathakanti khuddakarathaṃ. Dhanukanti khuddakadhanumeva. Akkharikā vuccati ākāse vā piṭṭhiyaṃ vā akkharajānanakīḷā. Manesikā nāma manasā cintitajānanakīḷā. Yathāvajjaṃ nāma kāṇakuṇikhujjādīnaṃ yaṃ yaṃ vajjaṃ, taṃ taṃ payojetvā dassanakīḷā.

Là nơi thiết lập sự xao lãng: bởi vì làm nơi để thiết lập sự xao lãng. Việc chơi cờ bạc làm nơi thiết lập của sự xao lãng, vì thế gọi là việc chơi cờ bạc làm chỗ thiết lập của sự xao lãng. Chơi cờ gọi là việc chơi cờ mỗi hàng có tám ô bởi tám ô ở mỗi hàng, ngay cả việc chơi cờ mỗi hàng có mười ô cũng có cách thức tương tự. Đánh chắt: trò chơi đánh chắt tương tự như việc chơi cờ mỗi hàng tám ô, mỗi hàng mười ô. Chơi nhảy lò cò: Trò chơi người ta vẽ ra nhiều vòng thành nhiều hàng với nhau ở trên mặt đất, nhảy lò cò trong những vòng tròn đó. Khều sỏi thăng bằng: chơi gần gần nhau bằng cách lấy những vỏ ốc hoặc những hòn sỏi chồng lại với nhau, không cho nhúc nhích, dùng móng tay khều ra và khều vào, nếu làm một số hạt trong số đó nhúc nhích là thua, đây là tên gọi của trò chơi kiểu đó. Gieo súc sắc: Trò chơi gieo súc sắc trên miếng sứ tròn. Chơi đánh khăng: Chơi bằng cách dùng khúc cây dài đánh vào khúc cây ngắn gọi là chơi đánh khăng. Rải màu nước đoán hình: Một trò chơi được chơi bằng cách lấy nhựa cánh kiến hoặc màu sơn, hoặc bột ướt nhúng tay vào chỗ nắm giữ thẻ gỗ đoán rằng – “là hình ảnh gì?” đập xuống đất hoặc vào tường phơi bày ra hình ảnh con voi, con ngựa v.v. Chơi bóng tròn: Chơi bóng tròn. Trò chơi thổi kèn được làm bằng lá cây ấy được gọi là chơi thổi kèn bằng lá. Kéo cày: Một chiếc cày nhỏ làm đồ chơi của những đứa trẻ trong làng. Nhào lộn: nhào lộn qua nhào lộn lại, được mô tả rằng nắm giữ thanh gỗ đặt trên không trung hoặc đặt đầu trên mặt đất, chơi nhào lộn bằng cách lấy phần dưới đặt lên trên, lấy phần trên để xuống dưới. Chơi chong chóng: trò chơi vòng quay được xoay tròn nhờ vào sức gió thổi được làm bằng lá cọ v.v. Lấy một cái ống được làm bằng lá cây, chơi trò đong cát v.v, được gọi là trò đong cát. Chơi xe con: chơi những chiếc xe nhỏ. Chơi bắn cung: chính là chơi trò bắn cung nhỏ. Chơi để đoán biết những chữ cái trên hư không hoặc trên lưng được gọi là trò chơi đoán chữ. Trò chơi để đoán biết vấn đề được suy nghĩ bởi tâm được gọi là trò chơi đoán ý. Trò chơi được chơi bằng cách bắt chước lại điệu bộ của những người dị tật chẳng hạn như người mù v.v, được gọi là trò chơi bắt chước điệu bộ.

15. Āsandinti pamāṇātikkantāsanaṃ. Anuyuttā viharantīti idaṃ apekkhitvā pana sabbapadesu upayogavacanaṃ kataṃ. Pallaṅkoti pādesu vāḷarūpāni ṭhapetvā kato. Gonakoti dīghalomako mahākojavo, caturaṅgulādhikāni kira tassa lomāni. Cittakanti vānavicittaṃ uṇṇāmayattharaṇaṃ. Paṭikāti uṇṇāmayo setattharaṇo[100]. Paṭalikāti ghanapupphako uṇṇāmayattharaṇo. Yo āmalakapattotipi[101] vuccati. Tūlikāti tiṇṇaṃ tūlānaṃ aññatarapuṇṇā tūlikā. Vikatikāti sīhabyagghādirūpavicitro uṇṇāmayattharaṇo. Uddalomīti ubhayatodasaṃ uṇṇāmayattharaṇaṃ, keci “ekato-uggatapupphan”ti[102] vadanti. Ekantalomīti ekatodasaṃ uṇṇāmayattharaṇaṃ. keci “ubhatouggatapupphan”ti vadanti. Kaṭṭissanti ratanaparisibbitaṃ koseyyakaṭṭissamayaṃ[103] paccattharaṇaṃ. Koseyyanti ratanaparisibbitameva kosiyasuttamayapaccattharaṇaṃ. suddhakoseyyaṃ pana vaṭṭatīti vinaye vuttaṃ. Dīghanikāyaṭṭhakathāyaṃ pana “ṭhapetvā tūlikaṃ sabbāneva gonakādīni ratanaparisibbitāni na vaṭṭantī”ti vuttaṃ.

15. Giường có chân vượt quá kích cỡ: sàng tọa quá kích thước. Hơn nữa, được chuyển thành Đối Cách trong tất cả câu nhắm đến cụm từ “sống thường xuyên sử dụng v.v.” Giường có chân được làm hình thù thú dữ: giường được làm hình thú dữ ở chân. Tấm thảm bằng lông thú: tấm thảm lớn có lông dài. Được biết rằng tấm thảm lớn ấy có lông dài hơn 4 lóng tay. Tấm thảm được làm bằng lông cừu xinh đẹp: Tấm thảm được làm bằng lông cừu trang trí với hàng trăm loại sợi chỉ. Tấm thảm được làm bằng lông cừu màu trắng: Tấm thảm màu trắng được làm bằng lông cừu. Tấm thảm được làm bằng lông cừu thêu bông hoa: Tấm thảm được làm bằng lông cừu thêu bông hoa dày đặc, một số người gọi là hình ảnh lá me rừng như thế cũng có. Tấm thảm bông gòn: Tấm thảm được nhồi đầy với bất kỳ 1 trong 3 loại bông gòn. Tấm thảm được làm bằng lông cừu thêu hình các con thú: Tấm thảm được làm bằng lông cừu, thêu hình con sư tử và con cọp v.v. Tấm thảm được làm bằng lông cừu có lông dựng đứng: Tấm thảm được làm bằng lông cừu ở hai góc hai bên, một số vị nói rằng ‘là hình ảnh bông hoa giương lên ở cùng một phía’. Tấm thảm được làm bằng lông cừu có lông ở một bên: Tấm thảm được làm bằng lông cừu ở một góc, một số vị nói rằng ‘là hình ảnh bông hoa giương lên ở hai bên’. Tấm thảm có đính ngọc: Tấm thảm được làm bằng tơ lụa, viền mép đính ngọc. Thảm lụa: Tấm thảm được làm bằng sợi tơ lụa, viền mép đính ngọc tương tự, còn tấm vải hoàn toàn bằng tơ lụa được thuyết ở Tạng Luật thì không được phép. Còn trong Chú giải Trường Bộ nói rằng: ngoại trừ những tấm thảm nhồi bông thì tấm thảm được dệt bằng châu báu có tấm thảm được làm bằng lông thú v.v, tất cả đều không được phép”.

Kuttakanti soḷasannaṃ nāṭakitthīnaṃ ṭhatvā naccanayoggaṃ uṇṇāmayattharaṇaṃ. Hatthattharaṃ assattharanti hatthiassapiṭṭhīsu attharaṇa attharakāyeva[104]. Rathattharepi eseva nayo. Ajinappaveṇīti ajinacammehi mañcappamāṇena sibbitvā katā paveṇī. Kadalīmigapavarapaccattharaṇanti kadalīmigacammaṃ nāma atthi, tena kataṃ pavarapaccattharaṇaṃ; uttamapaccattharaṇanti attho. Taṃ kira setavatthassa upari kadalīmigacammaṃ pattharitvā sibbetvā karonti. Sauttaracchadanti saha uttaracchadena, uparibaddhena rattavitānena saddhinti attho. Setavitānampi heṭṭhā akappiyapaccattharaṇe sati na vaṭṭati, asati pana vaṭṭati. Ubhatolohitakūpadhānanti sīsūpadhānañca pādūpadhānañcāti mañcassa ubhatolohitakaṃ upadhānaṃ, etaṃ na kappati. Yaṃ pana ekameva upadhānaṃ ubhosu passesu rattaṃ vā hoti padumavaṇṇaṃ vā vicitraṃ vā, sace pamāṇayuttaṃ, vaṭṭati. mahāupadhānaṃ pana paṭikkhittaṃ. Alohitakāni dvepi vaṭṭantiyeva. Tato uttari labhitvā aññesaṃ dātabbāni. Dātuṃ asakkonto mañce tiriyaṃ attharitvā upari paccattharaṇaṃ datvā nipajjitumpi labhati. āsandīādīsu pana vuttanayeneva paṭipajjitabbaṃ. Vuttañhetaṃ — “Anujānāmi, bhikkhave, āsandiyā pāde chinditvā paribhuñjituṃ, pallaṅkassa vāḷe bhinditvā paribhuñjituṃ, tūlikaṃ vijaṭetvā bimbohanaṃ kātuṃ, avasesaṃ bhummattharaṇaṃ kātun”ti[105].

Tấm thảm lớn có thể chứa mười sáu người nhảy múa: Tấm thảm được làm bằng lông cừu đủ để mười sáu vũ công đứng nhảy múa. Thảm lót lưng voi, thảm lót lưng ngựa: Tấm thảm được sử dụng để lót trên lưng voi, lưng ngựa. Luôn cả tấm thảm lót trên xe cũng có phương cách tương tự. Tấm thảm được làm bằng da cọp: Tấm thảm được may bằng da cọp vừa đủ kích thước chiếc giường. Tấm thảm được làm bằng da nai giống quý: Tấm thảm được làm bằng da nai giống quý, có nghĩa là tấm thảm loại quý giá nhất. Được biết rằng tấm thảm ấy được họ trải ra rồi may tấm da nai trên tấm vải trắng. Tấm thảm có mái che ở trên: Tấm thảm cùng với mái che ở bên trên, tức là với mái che màu đỏ được gắn ở bên trên, kể cả mái che màu trắng, khi có tấm thảm không thích hợp ở bên dưới cũng không được phép, nhưng nến không có thì được phép. Tấm thảm có gối hai bên: Tấm thảm có gối ở hai bên giường, là gối bông kê đầu và gối bông kê chân, điều đó không được phép. Còn cái gối chỉ có một ở hai bên có màu đỏ, hoặc màu hoa sen, hoặc có hoa văn, nếu có kích cỡ thích hợp, được phép. Còn cái gối lớn ngài không cho phép. Thậm chí cả hai cái gối không có màu đỏ cũng được phép. Có được hơn hai cái nên cho đến vị tỳ khưu khác. Khi không thể cho, dù trải chắn ngang ở trên giường, trải tấm thảm phía trên rồi nằm cũng được. Và nên thực hiện theo cách thức được nói về vấn đề cái giường có chân hơn kích cỡ ấy. Bởi điều này đã được nói như sau: – “Này các tỳ khưu, ta cho phép sử dụng sau khi cắt ngắn các chân giường vượt quá kích cỡ, cho phép sử dụng sau khi đã phá hủy hình ảnh thú dữ của giường, cho phép tháo gỡ nệm bông gòn để làm gối, cho phép dùng làm thảm lót trên nền đất các vật còn lại.”

16. Ucchādanādīsu mātukucchito nikkhantadārakānaṃ sarīragandho dvādasavassapattakāle[106] nassati[107], tesaṃ sarīraduggandhaharaṇatthāya gandhacuṇṇādīhi ucchādenti, evarūpaṃ ucchādanaṃ na vaṭṭati. Puññavante pana dārake ūrūsu nipajjāpetvā telena makkhetvā hatthapādaūrunābhiādīnaṃ saṇṭhānasampādanatthaṃ parimaddanti, evarūpaṃ parimaddanaṃ na vaṭṭati.

16. Thoa mình v.v, mùi cơ thể của đứa bé mới lọt lòng mẹ sẽ biến mất sau khoảng 12 năm, vì vậy mọi người mới thoa lên mình bột thơm v.v, để khử mùi hôi trên cơ thể của những đứa trẻ sơ sinh, việc thoa mình bằng hình thức như vậy không đúng phép. Hơn nữa, nếu như đứa bé có phước báu, họ cho nằm ở giữa hai chân dùng dầu xoa bóp các chi phần để cho tay, chân, bắp vế, bụng v.v, được cân xứng, việc xoa bóp bằng hình thức như thế không phù hợp.

Nhāpananti tesaṃyeva dārakānaṃ gandhādīhi nhāpanaṃ[108]. Sambāhananti mahāmallānaṃ viya hatthapāde muggarādīhi paharitvā bāhuvaḍḍhanaṃ. Ādāsanti yaṃ kiñci ādāsaṃ pariharituṃ na vaṭṭati. Añjananti alaṅkārañjanameva. Mālāti baddhamālā vā abaddhamālā vā. Vilepananti yaṃ kiñci chavirāgakaraṇaṃ. Mukhacuṇṇaṃ mukhalepananti mukhe kāḷapīḷakādīnaṃ haraṇatthāya mattikakakkaṃ denti, tena lohite calite sāsapakakkaṃ denti, tena dose khādite tilakakkaṃ denti, tena lohite sannisinne haliddikakkaṃ denti, tena chavivaṇṇe ārūḷhe mukhacuṇṇakena mukhaṃ cuṇṇenti, taṃ sabbaṃ na vaṭṭati.

Tắm rửa: việc tắm rửa giống như tắm bằng nước thơm v.v, cho chính đứa trẻ ấy. Đấm bóp: đấm bóp giống như những võ sĩ hạng nặng dùng búa v.v, đánh vào chân, làm cho cánh tay to lên. Soi gương: không nên sử dụng bất kỳ loại gương nào. Chấm con mắt: Chính là chấm mắt làm cho xinh đẹp. Vòng hoa: những bông hoa được bó lại, những bông hoa không được bó lại. Vật thoa: bất kỳ loại nào làm tôn lên vẻ đẹp của làng da. Thoa phấn vào mặt, xoa dầu vào mặt: mọi người bôi một loại bùn mịn để che nốt ruồi và mụn v.v, ở trên gương mặt, khi máu huyết đã được lưu thông bởi lớp bùn mịn ấy họ sẽ bôi một loại bột hạt rau cải, khi toàn bộ phần bột hạt rau cải đã hư họ sẽ bôi một lớp bột mè, khi máu huyết được điều hòa bởi lớp một mè ấy, họ sẽ bôi một lớp bột nghệ, khi màu da trở nên tươi đẹp bởi lớp bột nghệ họ sẽ thoa lên mặt bằng một loại bột thoa mặt, tất cả việc làm ấy đều không đúng phép.

Hatthabandhādīsu hatthe vicitrasaṅkhakapālādīni bandhitvā vicaranti, taṃ vā aññaṃ vā sabbampi hatthābharaṇaṃ na vaṭṭati, apare sikhaṃ bandhitvā vicaranti. Suvaṇṇacīrakamuttalatādīhi ca taṃ parikkhipanti; taṃ sabbaṃ na vaṭṭati. Apare catuhatthadaṇḍaṃ vā aññaṃ vā pana alaṅkatadaṇḍakaṃ gahetvā vicaranti, tathā itthipurisarūpādivicittaṃ bhesajjanāḷikaṃ suparikkhittaṃ vāmapasse olaggitaṃ; apare kaṇṇikaratanaparikkhittakosaṃ atitikhiṇaṃ asiṃ, pañcavaṇṇasuttasibbitaṃ makaradantakādivicittaṃ chattaṃ, suvaṇṇarajatādivicitrā morapiñchādiparikkhittā upāhanā, keci ratanamattāyāmaṃ caturaṅgulavitthataṃ kesantaparicchedaṃ dassetvā meghamukhe vijjulataṃ viya nalāṭe uṇhīsapaṭṭaṃ bandhanti, cūḷāmaṇiṃ dhārenti, cāmaravālabījaniṃ dhārenti, taṃ sabbaṃ na vaṭṭati.

Vòng đeo tay v.v, một số người đã đeo vòng tay được làm từ vỏ sò và sành sứ v.v, rồi đi du hành, những đồ trang sức đeo tay ấy, hoặc loại khác đều không đúng phép, còn một số người khác lại buộc ngọn tóc để đi du hành. Và lấy sợi dây màu vàng kim, dây leo mutta v.v, buộc xung quanh ngọn tóc; toàn bộ điều đó không đúng phép. Một số người  cầm gậy dài bốn cánh tay hoặc các loại cây gậy khác, có thân được trang trí xinh đẹp rồi đi du hành, ống đựng thuốc ở xung quanh được trang trí đẹp mắt với các hình ảnh nam nữ v.v, đeo ở bên hông trái; Luôn cả thanh gươm vô cùng sắc bén có vỏ bao bọc bằng châu báu được làm thành hình ảnh chùm bông Kaṇṇikā, cây dù được may với năm loại chỉ màu với một bức họa giống hình răng loài rồng v.v. Đôi dép bằng vàng và bạc được bao xung quanh bởi màu sắc óng ánh của đuôi công v.v. Một số buông xõa tóc xuống dài khoảng một gang tay rộng bốn lóng tay đội một chiếc khăn xếp trên trán tương tự như tia chớp trong áng mây, cài trâm, mang lấy cây quạt lông đuôi con sơn dương và cây phất trần. Tất cả những điều đó là không đúng phép.

17. Aniyyānikattā saggamokkhamaggānaṃ tiracchānabhūtā kathāti tiracchānakathā. Tattha rājānaṃ ārabbha Mahāsammato Mandhātā Dhammāsoko evaṃ mahānubhāvotiādinā nayena pavattā kathā rājakathā. esa nayo corakathādīsu. Tesu asuko rājā abhirūpo dassanīyotiādinā nayena gehassitakathāva tiracchānakathā hoti. sopi nāma evaṃ mahānubhāvo khayaṃ gatoti evaṃ pavattā pana kammaṭṭhānabhāve tiṭṭhati. Coresu Mūladevo evaṃ Mahānubhāvo, Meghamālo evaṃ mahānubhāvoti tesaṃ kammaṃ paṭicca aho sūrāti gehassitakathāva tiracchānakathā. Yuddhepi bhāratayuddhādīsu asukena asuko evaṃ mārito, evaṃ viddhoti kāmassādavaseneva kathā tiracchānakathā. Tepi nāma khayaṃ gatāti evaṃ pavattā pana sabbattha kammaṭṭhānameva hoti. Api ca annādīsu evaṃ vaṇṇavantaṃ gandhavantaṃ rasavantaṃ phassasampannaṃ khādimha bhuñjimhāti kāmassādavasena kathetuṃ na vaṭṭati. Sātthakaṃ pana katvā pubbe evaṃ vaṇṇādisampannaṃ annaṃ pānaṃ vatthaṃ sayanaṃ mālaṃ gandhaṃ sīlavantānaṃ adamha, cetiye pūjaṃ karimhāti kathetuṃ vaṭṭati. Ñātikathādīsu pana “amhākaṃ ñātakā sūrā samatthā”ti vā “pubbe mayaṃ evaṃ vicitrehi yānehi vicarimhā”ti vā assādavasena vattuṃ na vaṭṭati. Sātthakaṃ pana katvā “tepi no ñātakā khayaṃ gatā”ti vā “pubbe mayaṃ evarūpā upāhanā saṅghassa adamhā”ti vā kathetuṃ vaṭṭati[109]. Gāmakathāpi suniviṭṭha dunniviṭṭha subhikkha dubbhikkhādivasena vā “asukagāmavāsino sūrā samatthā”ti vā evaṃ assādavasena na vaṭṭati. sātthakaṃ pana katvā “saddhā pasannā”ti vā “khayavayaṃ gatā”ti vā vattuṃ vaṭṭati. Nigama-nagara-janapada-kathādīsupi eseva nayo.

17. Nói chuyện thế tục bởi là những lời nói cản trở con đường đến thiên giới và con đường đến Nibbāna vì không phải pháp làm nhân thoát khỏi khổ. Trong những câu chuyện về thế tục ấy thì chuyện liên quan đến đức vua theo phương thức được bắt đầu như sau: “Đức vua Mahāsammata, đức vua Mandhātā, đức vua Dhammāsoka có đại oai lực”. Trong câu chuyện về tên cướp cũng có phương thức tương tự như thế. Lời nói liên quan đến đời sống tại gia có phương cách được bắt đầu như sau: “Trong các vị vua ấy thì vị vua kia có kim thân xinh đẹp đáng chiêm ngưỡng”, đây được gọi là nói chuyện thế tục. Tuy nhiên câu chuyện được nói như vầy rằng: “đức vua có hồng danh ấy, có đại oai lực như thế đã băng hà” như vậy (được xếp vào) việc thiết lập tính chất nghiệp xứ. Ngay cả câu chuyện về kẻ trộm thì lời nói liên quan đến đời sống tại gia rằng: “Ồ! thật gan dạ, dựa vào hành động của những tên cướp cho rằng: ‘tên cướp tên là Mūladeva có đại oai lực như vậy, tên trộm tên là Meghamāla có đại oai lực như vậy’” đây được gọi là nói chuyện thế tục. Thậm chí câu chuyện về chiến tranh có câu chuyện đánh giặc của vua Mahābhārada v.v, lời nói liên quan đến sự ưa thích trong câu chuyện đoán rằng: “người này bị người kia giết như vầy, đâm như vầy”, đây được gọi là nói chuyện thế tục. Tuy nhiên câu chuyện được nói như vầy: “Mặc dù người tên này đi đến sự chấm dứt (mạng sống)” được xếp vào nghiệp xứ, tất cả câu chuyện đều như thế. Hoặc là câu chuyện về thức ăn v.v, việc nói liên quan đến sự hài lòng trong những món ưa thích: “Tôi nhai, tôi thọ dụng thức ăn có màu sắc đẹp, có hương thơm lừng, có vị ngon đậm đà, có sự xúc chạm như vậy ” là không phù hợp. Tuy nhiên việc nói đưa đến lợi ích rằng: “Trong quá khứ tôi đã cúng dường thức ăn, nước uống, vải vóc, chỗ nằm, vòng hoa, vật thơm đầy đủ màu sắc v.v, đến vị có giới đức, tôi đã lễ bái bảo tháp như vầy, như thế là phù hợp. Hơn nữa, câu chuyện về thân quyến v.v, việc nói liên quan đến sự hài lòng rằng “Thân quyến của chúng tôi can đảm, có khả năng” hoặc “trước đây tôi đã đi du hành bằng cỗ xe xinh đẹp như vậy” là không thích hợp. Tuy nhiên nên nói đưa đến lợi ích rằng: “Thân quyến của chúng tôi mặc dù đã chết” hoặc “trước đây tôi đã cúng dường đôi dép như vậy đến chư Tăng”. Ngay cả câu chuyện về làng xóm v.v, nói chuyện về làng xóm liên quan đến chuyện sau: “sống an trú thoải mái, sống an trú không thoải mái, vật thực kiếm được dễ dàng, và vật thực rất khó kiếm v.v.” hoặc “Người dân làng kia dũng cảm, có khả năng” là không phù hợp. Nhưng nói đưa đến lợi ích rằng: “Người dân làng kia có đức tin, có lòng tịnh tín” hoặc “đã đi đến sự chấm dứt, sự hoại diệt” là phù hợp. Thậm chí nói đến câu chuyện về thị tứ, câu chuyện về phố phường, câu chuyện về quốc độ cũng có phương thức tương tự như vậy.

Itthikathāpi vaṇṇasaṇṭhānādīni paṭicca assādavasena na vaṭṭati, saddhā pasannā khayavayaṃ gatāti evameva vaṭṭati. Sūrakathāpi ‘Nandimitto nāma yodho sūro ahosī’ti assādavasena na vaṭṭati. Saddho ahosi khayaṃ gatoti evameva vaṭṭati. Visikhākathāpi “asukā visikhā suniviṭṭhā dunniviṭṭhā sūrā samatthā”ti assādavasena na vaṭṭati. Saddhā pasannā khayavayaṃ gatāti evameva vaṭṭati.

Kể cả câu chuyện về đàn bà liên quan đến sự thỏa thích do dựa vào màu da và hình dáng v.v, không phù hợp. Nhưng nói như vầy: “người phụ nữ kia có đức tin, có lòng tịnh tín cũng đi đến sự chấm dứt, sự hoại diệt” là phù hợp. Ngay cả câu chuyện về vị anh liên quan đến sự ưa thích rằng: “Người chiến sĩ tên là Nandimitta là người dũng mãnh” là không phù hợp. Nhưng nói như vầy: “người chiến sĩ dũng mãnh có đức tin, có lòng tịnh tín cũng đi đến sự chấm dứt, sự hoại diệt” là phù hợp. Luôn cả câu chuyện về đường xá liên quan đến sự thỏa thích rằng: “Đường xá kia được xây dựng tốt, xây dựng không tốt, có người dũng cảm, có người có năng lực” là không phù hợp. Nhưng nói rằng: “Người dũng cảm, người có khả năng ở con đường ấy có đức tin, có lòng tịnh tín cũng phải đi đến sự chấm dứt, sự hoại diệt” là phù hợp.

Kumbhaṭṭhānakathāti udakaṭṭhānakathā, udakatitthakathātipi vuccati, kumbhadāsikathā vā, sāpi “pāsādikā naccituṃ gāyituṃ chekā”ti assādavasena na vaṭṭati; Saddhā pasannātiādinā nayeneva vaṭṭati. Pubbapetakathāti atītañātikathā. Tattha vattamānañātikathāsadiso vinicchayo.

Nói đến chuyện đặt ghè nước, nói đến chuyện bến nước được gọi là Câu chuyện tại chỗ lấy nước, hoặc nói đến câu chuyện về nàng Kumbhadāsī, thậm chí câu chuyện về nàng Kumbhadāsī nói liên quan đến sự thỏa thích rằng: “Nàng Kumbhadāsī dễ thương, tài giỏi trong việc nhảy múa, ca hát” là không phù hợp, mà nói theo cách sau: “Nàng Kumbhadāsī có đức tin, có lòng tịnh tín…” là phù hợp. Câu chuyện về người đã chết là nói đến chuyện thân quyến đã mất, lý giải câu chuyện về người đã chết cũng tương tự với câu chuyện nói đến người còn tại tiền.

Nānattakathāti purimapacchimakathāhi vimuttā avasesā nānāsabhāvā niratthakakathā. Lokakkhāyikāti ayaṃ loko kena nimmito, asukena nāma nimmito. Kāko seto, aṭṭhīnaṃ setattā; Balākā[110] rattā. Lohitassa rattattāti evamādikā lokāyatavitaṇḍasallāpakathā.

Câu chuyện linh tinh là nói đến câu chuyện vô ích có các trạng thái khác nhau, còn lại nằm ngoài lời nói của câu chuyện trước và câu chuyện sau. Bàn luận về sự tạo lập thế gian là đàm luận về thế giới khoa học và những vấn đề nằm ngoài kinh điển được bắt đầu như sau: “Thế giới này do ai kiến tạo, thế giới này người kia kiến tạo, con quạ màu trắng do xương trắng, con cò nhuộm đỏ do máu đỏ.”

Samuddakkhāyikā nāma kasmā samuddo sāgaro? sāgaradevena khato, tasmā sāgaro. Khato meti hatthamuddāya sayaṃ niveditattā “samuddo”ti evamādikā niratthakā samuddakkhāyanakathā. Bhavoti vuḍḍhi. Abhavoti hāni. Iti bhavo, iti abhavoti yaṃ vā taṃ vā niratthakakāraṇaṃ vatvā pavattitakathā itibhavābhavakathā.

Bàn luận về sự hình thành của biển cả là vô ích được bắt đầu như sau: Tại sao gọi là đại dương? vì sao gọi là biển cả? do vua Sāgaradeva đã đào vì thế gọi là biển cả, được gọi là đại dương bởi vì đã tuyên bố bằng đầu ngón tay rằng: ‘tôi đã đào,’ được gọi là bàn luận về sự hình thành của biển cả. Sự phát triển gọi là bhava, sự suy thoái gọi là abhava. Lời nói nói đến chuyện nguyên nhân dẫn đến mất lợi ích rằng Sự phát triển do nguyên nhân này, sự suy thoái do nguyên nhân này, như vậy gọi là câu chuyện về sự phát triển và sự suy thoái như vầy hay là như vầy.

18. Viggāhikakathāti viggahakathā[111], sārambhakathā. Tattha sahitaṃ meti mayhaṃ vacanaṃ sahitaṃ siliṭṭhaṃ atthayuttaṃ kāraṇayuttanti attho. Asahitaṃ teti tuyhaṃ vacanaṃ asahitaṃ asiliṭṭhaṃ. Adhiciṇṇaṃ te viparāvattanti yaṃ tuyhaṃ dīgharattāciṇṇavasena suppaguṇaṃ, taṃ mayhaṃ ekavacaneneva viparāvattaṃ parivattitvā ṭhitaṃ, na kiñci jānāsīti attho.

18. Thực hành việc tranh cãi: nói lời phân tranh, nói lời tranh đua. Lời nói của tôi hữu ích: có nghĩa là lời nói của tôi có lợi ích, trơn tru chải chuốt, liên hệ với kết quả, liên hệ với nguyên nhân. Lời nói của ông vô ích: lời nói của ông không có lợi ích, không trơn tru chải chuốt. Tập quán thực hành của ông bị đảo ngược: Những điều mà ông rất thông thạo do mãnh lực đã từng tích lũy bấy lâu đã bị đảo ngược, đã bị bóp méo, chỉ với một lời duy nhất của tôi, ông vẫn chưa biết gì cả.

Āropito te vādoti mayā tava doso[112] āropito. Cara vādappamokkhāyāti dosamocanatthaṃ cara, vicara; tattha tattha gantvā sikkhāti attho. Nibbeṭhehi vā sace pahosīti atha sayaṃ pahosi, idānimeva nibbeṭhehīti.

Học thuyết của ông bị lên án: học thuyết sai lầm của ông đã tôi bị lên án. Ông hãy hành xử cho việc thoát ra khỏi luận thuyết (của ông): để thoát khỏi lỗi lầm ông hãy hành xử, hãy cư xử; hãy tìm đến học tập điều đó. Hoặc ngươi hãy gỡ rối nếu ngươi có khả năng: Nếu bản thân ông có khả năng hãy giải thích ngay lúc này.

19. Dūteyyakathāyaṃ idha gacchāti ito asukaṃ nāma ṭhānaṃ gaccha. Amutrāgacchāti tato asukaṃ nāma ṭhānaṃ āgaccha. Idaṃ harāti ito idaṃ nāma hara. Amutra idaṃ āharāti asukaṭṭhānato idaṃ nāma idha āhara. Saṅkhepato pana idaṃ dūteyyaṃ nāma ṭhapetvā pañca sahadhammike ratanattayassa upakārapaṭisaṃyuttañca gihīsāsanaṃ aññesaṃ na vaṭṭati.

19. Việc đi hoặc phái người khác đi đưa tin, ‘hãy đi đến nơi này’: hãy đi từ chỗ này đến chỗ có tên như thế kia. ‘hãy đi từ nơi kia’: hãy đi từ chỗ ấy đến chỗ có tên như thế kia. Hãy mang đi cái này: hãy mang chuyện này đi từ chỗ này. Hãy mang lại cái này từ nơi kia: hãy mang chuyện này từ ở chỗ kia lại nơi này. Hơn nữa nói vắn tắt gọi là việc làm bản thân trở thành sứ giả này, trừ ra năm hạng người đồng đạo và thông điệp của người cư sĩ liên hệ đến sự trợ giúp Tam Bảo là thích hợp, đối với nhóm người khác là không thích hợp.

20. Kuhakātiādīsu tividhena kuhanavatthunā lokaṃ kuhayanti, vimhāpayantīti kuhakā. Lābhasakkāratthikā hutvā lapantīti lapakā. Nimittaṃ sīlametesanti nemittikā. nippeso sīlametesanti nippesikā. Lābhena lābhaṃ nijigīsanti magganti pariyesanttīti lābhena lābhaṃ nijigīsitāro. Kuhanā, lapanā, nemittikatā, nippesikatā, lābhena lābhaṃ nijigīsanatāti etāhi samannāgatānaṃ puggalānaṃ etaṃ adhivacanaṃ. Ayamettha saṅkhepo. Vitthārena panetā kuhanādikā visuddhimagge sīlaniddeseyeva pāḷiñca aṭṭhakathañca āharitvā pakāsitāti.

20. Gạt gẫm v.v, được gọi là nói lời gạt gẫm bởi vì lừa gạt người đời, khiến họ cảm thấy kinh ngạc bằng ba cách dối trá. Người nói có ý muốn được lợi lộc và sự cung kính là siểm nịnh. Những gợi ý một cách tự nhiên, tính chất của người ra hiệu là gợi ý. Làm ra những đường lối lừa gạt bằng những hành động gạt gẫm một cách tự nhiên, tính chất đó gọi là lừa bịp. Lấy lợi câu lợi do trao đổi, tìm kiếm, lục tìm bao gồm sự tầm cầu lợi lộc bằng lợi lộc, tính chất của việc đó gọi là việc thèm muốn lợi lộc bằng lợi lộc. Đây là cách gọi của hạng người gắn liền với việc gạt gẫm, siểm nịnh, gợi ý, lừa bịp, việc thèm muốn lợi lộc bằng lợi lộc. Ở đây, điều này có ý nghĩa vắn tắt, hơn nữa những điều này có sự lừa đảo đã được đem lại cả Pāḷī và Chú đã được giải thích chi tiết ở phần Diễn Giải về Giới trong bộ Thanh Tịnh Đạo.

Phần Trung Giới Được Kết Thúc Chỉ Bấy Nhiêu

 

Giải Thích Phần Đại Giới

21. Ito paraṃ mahāsīlaṃ hoti. Aṅganti hatthapādādīsu yena kenaci evarūpena aṅgena samannāgato dīghāyu yasavā hotītiādinayappavattaṃ aṅgasatthaṃ. Nimittanti nimittasatthaṃ. Paṇḍurājā kira tisso muttāyo muṭṭhiyaṃ katvā nemittikaṃ pucchi — “kiṃ me hatthe”ti? So ito cito ca vilokesi, tasmiñca samaye gharagolikāya makkhikā gayhantī[113] muttā, so “muttā”ti āha. Puna “katī”ti puṭṭho kukkuṭassa tikkhattuṃ ravantassa saddaṃ sutvā “tisso”ti āha. Evaṃ taṃ taṃ ādisitvā nimittamanuyuttā viharanti.

21. Về sau kể từ đây là Đại Giới. Xem tướng tay chân: Cẩm nang xem tướng được diễn biến theo phương cách bắt đầu như sau: “Người gắn bó với các chi phần có tay và chân bằng bất cứ hình thức nào để đoán biết sự trường thọ, sự vinh hiển. Điềm báo hiệu: Cẩm nang dự đoán về điềm báo. Tương truyền rằng đức vua Paṇḍu cầm 3 viên ngọc trai rồi hỏi thầy bói rằng: – “Cái gì nằm trong bàn tay của trẫm?” Thầy bói xem tướng ấy ngoáy nhìn chỗ này chỗ nọ và trong lúc ấy một con ruồi bị một con thằn lằn tha đi, kẻ ấy đã đáp rằng: “viên ngọc trai”. – Đức vua hỏi tiếp “có bao nhiêu viên?” – sau khi nghe tiếng gà gáy 3 lần đã đáp rằng “3 viên”. Một số Sa-môn Bà-la-môn sống thường xuyên thực hành đoán tướng dẫn chứng cẩm nang đoán tướng thế này thế kia như vậy.

Uppātanti asanipātādīnaṃ mahantānaṃ uppatitaṃ[114], tañhi disvā “idaṃ bhavissati, evaṃ bhavissatī”ti ādisanti. Supinanti yo pubbaṇhasamaye supinaṃ passati, evaṃ vipāko hoti; yo idaṃ nāma passati, tassa idaṃ nāma hotītiādinā nayena supinakaṃ anuyuttā viharanti. Lakkhaṇanti iminā lakkhaṇena samannāgato rājā hoti, iminā uparājātiādikaṃ. Mūsikacchinnanti undūrakhāyitaṃ. Tenāpi hi ahate vā vatthe anahate vā vatthe ito paṭṭhāya evaṃ chinne idaṃ nāma hotīti ādisanti. Aggihomanti evarūpena dārunā evaṃ hute idaṃ nāma hotīti aggijuhanaṃ[115]. Dabbihomādīnipi aggihomāneva, evarūpāya dabbiyā īdisehi kaṇādīhi hute idaṃ nāma hotīti evaṃ pavattivasena pana visuṃ vuttāni.

Dự đoán về tiếng sấm sét: dự đoán hiện tượng lớn chẳng hạn như sấm chớp đánh xuống. Một số Sa-môn Bà-la-môn nhìn thấy như thế rồi dự đoán rằng: “Sẽ có chuyện này, sẽ trở thành như vầy”. Dự đoán về điềm mộng: Một số Sa-môn Bà-la-môn sống thường xuyên thực hành dự đoán về giấc mơ theo phương cách như sau: “Người mơ vào buổi sáng sẽ có kết quả như vậy, người mơ như thế sẽ gặp vấn đề này”. Dự đoán về tướng mạo: Cẩm nang dự đoán về tướng mạo bắt đầu rằng: “Vị hội đủ tướng mạo này sẽ trở thành vua, với tướng mạo này sẽ trở thành phó vương.” Dự đoán về dấu chuột cắn: Cẩm nang dự đoán về dấu chuột cắn vải vóc. Bởi vì khi vải vóc dù bị những con chuột tha mang đi hoặc không tha mang thì vết cắn như thế kể từ đây trở đi sẽ gặp vấn đề thế này. Thực hiện nghi thức tế thần lửa: Nghi thức tế thần lửa – “sử dụng củi như vầy, tế thần lửa như vầy, sẽ có kết quả như này”. Nghi thức đốt nến làm lễ gọi hồn: đây cũng chính là nghi thức tế thần lửa, Một bộ phận cho biết Với khả năng được như vậy, Khi sử dụng kính dưới ánh nến, bạn có thể thấy thứ gì đó như thế này. Dùng những đồ vật như thế này để thờ lửa. Sẽ có hiệu ứng tên này, nói đến một bộ phận do tác động của sự vận hành như vầy: khi sử dụng đế nến có hình thức như vậy, sử dụng đồ cúng có cám v.v, như thế để tế thần lửa sẽ có kết quả thế này.

Tattha kaṇoti kuṇḍako. Taṇḍulāti sāliādīnañceva tiṇajātīnañca taṇḍulā. Sappīti gosappiādikaṃ. Telanti tilatelādikaṃ. Sāsapādīni pana mukhena gahetvā aggimhi pakkhipanaṃ, vijjaṃ parijappitvā juhanaṃ vā mukhahomaṃ. Dakkhiṇakkhakajaṇṇulohitādīhi juhanaṃ lohitahomaṃ. Aṅgavijjāti pubbe aṅgameva disvā byākaraṇavasena aṅgaṃ vuttaṃ, idha aṅgulaṭṭhiṃ[116] disvā vijjaṃ parijappitvā ayaṃ kulaputto vā no vā, sirīsampanno vā no vātiādibyākaraṇavasena aṅgavijjā vuttā. Vatthuvijjāti gharavatthuārāmavatthādīnaṃ guṇadosasallakkhaṇavijjā. mattikādivisesaṃ disvāpi hi vijjaṃ parijappitvā heṭṭhā pathaviyaṃ tiṃsaratanamatte, ākāse ca asītiratanamatte padese guṇadosaṃ passanti. Khattavijjāti abbheyya-māsurakkha-rājasatthādisatthaṃ[117]. Sivavijjāti susāne pavisitvā santikaraṇavijjā, siṅgālarutavijjātipi[118] vadanti. Bhūtavijjāti bhūtavejjamanto. Bhūrivijjāti bhūrighare vasantena uggahetabbamanto. Ahivijjāti sappadaṭṭhatikicchanavijjā ceva sappāvhāyanavijjā ca. Visavijjāti yāya, purāṇavisaṃ vā rakkhanti, navavisaṃ vā karonti visavantameva[119] vā. Vicchikavijjāti vicchikadaṭṭhatikicchanavijjā. Mūsikavijjāyapi eseva nayo. Sakuṇavijjāti sapakkhakāpakkhakadvipadacatuppadānaṃ rutagatādivasena sakuṇañāṇaṃ. Vāyasavijjāti kākarutañāṇaṃ, taṃ visuññeva satthaṃ, tasmā visuṃ vuttaṃ.

Ở đó, cám trong nghi thức ấy gồm cám gạo. Gạo: gạo của gạo sālī v.v, và các loại cỏ. Bơ lỏng: bơ lỏng từ sữa bò v.v. Dầu: dầu mè v.v. Hơn nữa, việc ngậm hạt cải v.v, phun vào đống lửa, hoặc đọc chú thuật thổi vào đống lửa được gọi là thực hiện nghi thức đọc thần chú để tế thần lửa. Việc cúng tế máu của xương đòn và đầu gối bên phải v.v, gọi là cúng tế máu. Khoa bói tướng chi tiết: Điều đầu tiên nói đến các chi đã được nhìn thấy trước rồi mới tiên đoán, ở đây đề cập đến kiến thức bói tướng bằng cách nhìn xương, ngón tay, rội đọc thần chú tuyên bố rằng: “thiện nam tử này có tài sản hay không? hoặc có thành tựu quyền quý hay không?” Khoa xem địa lý: Kiến thức xem bói xác định ưu điểm và nhược điểm của việc xây dựng nhà cửa và vị trí đất vườn v.v. Thậm chí sau khi nhìn thấy sự khác biệt của loại đất v.v. cũng đọc thần chú để nhìn ưu điểm và nhược điểm ở dưới bề mặt quả địa cầu, trong hư không khoảng 30 hắc tay và bề mặt đất khoảng 80 hắc tay. Xem đặc điểm ở ruộng: Kiến thức về luật học có khoa học abbheyya, khoa học māsurakkha, và khoa học rājasattha v.v. Khoa cầu thần ban phước: kiến thức với việc đi vào thực hành sự yên tĩnh ở nghĩa địa, một số vị nói là kiến thức nhận biết tiếng tru của chó sói. Khoa cầu ma quỷ: chú thuật của các thầy phù thủy. Khoa dùng bùa chú khi ở trong nhà bằng đất: Những bùa chú dùng ở trong nhà cần phải học. Kiến thức về rắn: kiến thức chữa trị người bị rắn cắn và kiến thức gọi rắn. Kiến thức về thuốc độc: Kiến thức dùng để chữa trị các loại độc dược cũ và điều trị các loại độc dược mới hoặc để chế tạo các loại độc dược khác. Kiến thức về bọ cạp: Kiến thức để chữa trị loài bọ cạp cắn. Ngay cả kiến thức về loài chuột cũng có phương thức tương tự. Kiến thức về chim chóc: nhận biết về tiếng các loài chim chóc do nhận biết được tiếng hót và việc di chuyển v.v, của loài có cánh và không có cánh, loài 2 chân cũng như loài bốn chân. Kiến thức về loài quạ: Nhận biết được tiếng loài quạ, sự hiểu biết ấy là một phần của cẩm nang, vì thế được nói riêng biệt.

Pakkajjhānanti paripākagatacintā. idāni “ayaṃ ettakaṃ jīvissati, ayaṃ ettakan”ti evaṃ pavattaṃ ādiṭṭhañāṇanti[120] attho. Saraparittāṇanti sararakkhaṇaṃ, yathā attano upari na āgacchati, evaṃ karaṇavijjā. Migacakkanti idaṃ sabbasaṅgāhikaṃ sabbasakuṇacatuppadānaṃ rutañāṇavasena vuttaṃ.

Dự đoán về tuổi thọ: Kiến thức cùng sự suy nghĩ, có nghĩa là sự hiểu biết về điều mà bản thân không nhìn thấy lúc bấy giờ diễn ra như vầy “Người này sẽ sống được chừng này, còn người này thì chừng này”. Chú thuật bảo vệ khỏi bị trúng tên: Kiến thức để tránh khỏi, tức là kiến thức làm cho mũi tên không bắn trúng người được. Dự đoán tiếng loài thú: điều này nói gộp chung tất cả loài thú bằng cách nhận biết được tiếng hót của tất cả loài chim và tiếng của tất cả loài thú bốn chân.

22. Maṇilakkhaṇādīsu evarūpo maṇi pasattho, evarūpo apasattho, sāmino ārogyaissariyādīnaṃ hetu hoti, na hotīti, evaṃ vaṇṇasaṇṭhānādivasena maṇiādīnaṃ lakkhaṇaṃ anuyuttā viharantīti attho. Tattha āvudhanti ṭhapetvā asiādīni avasesaṃ āvudhaṃ. Itthilakkhaṇādīnipi yamhi kule te itthipurisādayo vasanti, tassa vuḍḍhihānivaseneva veditabbāni. Ajalakkhaṇādīsu pana evarūpānaṃ ajādīnaṃ maṃsaṃ khāditabbaṃ, evarūpānaṃ na khāditabbanti ayaṃ viseso veditabbo.

22. Bói tướng ngọc ma-ni: Một số Sa-môn Bà-la-môn duy trì sự sống bằng việc nuôi mạng sai trái bằng việc bói tướng ngọc ma-ni v.v, nhờ tác động màu sắc và hình dáng v.v, như vầy: ‘loại ngọc ma-ni có hình thức như vầy tốt, có hình thức như vầy không tốt, đây là nguyên nhân, đây không phải là nguyên làm nhân, để chủ nhân hết khỏi tật bệnh và đạt được sự thịnh vượng.’ Ở đó, vũ khí loại trừ các vật sắc bén như đao kiếm v.v, các loại còn lại gọi là vũ khí. Ngay cả việc bói tướng nữ nhân v.v, cũng nên biết do tác động sự hưng thịnh và sự suy thoái của các gia đình mà người nam và người nữ ấy chung sống ấy. Còn việc bói tướng dê nên biết có sự khác biệt này: “Thịt của loài vật như dê v.v, như vầy có thể ăn, như vầy không nên ăn.”

Api cettha godhāya lakkhaṇe cittakammapiḷandhanādīsupi evarūpāya godhāya sati idaṃ nāma hotīti ayaṃ viseso veditabbo. Idañcettha vatthu — ekasmiṃ kira vihāre cittakamme[121] godhaṃ aggiṃ dhamamānaṃ akaṃsu. tato paṭṭhāya bhikkhūnaṃ mahāvivādo jāto. Eko āgantukabhikkhu taṃ disvā makkhesi. Tato paṭṭhāya vivādo mandībhūto hoti. Kaṇṇikalakkhaṇaṃ piḷandhanakaṇṇikāyapi gehakaṇṇikāyapi vasena veditabbaṃ. Kacchapalakkhaṇaṃ godhālakkhaṇasadisameva. Migalakkhaṇaṃ sabbasaṅgāhikaṃ sabbacatuppadānaṃ lakkhaṇavasena vuttaṃ.

Hoặc là, ở đây trong việc bói tướng kỳ nhông nên biết có sự khác biệt này ngay cả hình ảnh hội họa và đồ dùng trang trí v.v, khi con kỳ nhông có hình thức như thế sẽ có kết quả như này. Và điều này, ở đây có câu chuyện như sau  – Kể rằng ở một tự viện họ họa một bức ảnh là ảnh một con kỳ nhông đang phun lửa kể từ đó trở đi các vị tỳ khưu đã khởi lên cuộc tranh cãi dữ dội. Một vị tỳ khưu khách sau khi nhìn thấy bức họa đó đã xóa đi. Từ đó thì việc tranh cãi cũng được dịu đi. Việc bói tướng trục chống (đặt trên nóc nhà) nên biết do thuận theo trục chống để trang trí, (hoặc) trục chống (hình đầu rồng được đặt) trên mái nhà. Việc bói tướng rùa: cũng giống như việc bói tướng kỳ nhông. Việc bói tướng thú vật: nói gộp chung các loài theo tướng trạng của tất cả loài thú bốn chân.

23. Raññaṃ niyyānaṃ bhavissatīti asukadivase asukanakkhattena asukassa nāma rañño niggamanaṃ bhavissatīti evaṃ rājūnaṃ pavāsagamanaṃ[122] byākaroti. Esa nayo sabbattha. Kevalaṃ panettha aniyyānanti vippavutthānaṃ puna āgamanaṃ. Abbhantarānaṃ raññaṃ upayānaṃ bhavissati, bāhirānaṃ raññaṃ apayānanti antonagare amhākaṃ rājā paṭiviruddhaṃ bahirājānaṃ upasaṅkamissati, tato tassa paṭikkamanaṃ bhavissatīti evaṃ raññaṃ upayānāpayānaṃ byākaroti. Dutiyapadepi eseva nayo. Jayaparājayā pākaṭāyeva.

23. Tiên đoán sẽ có sự xuất hành của đức vua: Tiên đoán việc du hành của các vị vua như vầy – Vị vua kia sẽ xuất hành vào ngày đó, vào mùa đó. Các câu còn lại có cách thức tương tự. Còn câu ‘đức vua sẽ không xuất hành’ trong trường hợp này tương tự, gồm cả việc đức vua đi dã ngoại rồi quay trở về. Sẽ có sự tấn công của vua bản xứ, sẽ có sự tấn công của vua ngoại bang: Tiên đoán việc tấn công và việc rút lui của các vị vua như vầy – “Vị vua của chúng ta bên trong thành sẽ tấn công vua ngoại bang là kẻ địch chống đối, sau đó vua ngoại bang ấy sẽ rút lui. Cả hai câu đều có cùng phương cách. Sự chiến thắng và sự thất bại đều xuất hiện rõ ràng.

24. Candaggāhādayo asukadivase rāhu candaṃ gahessatīti byākaraṇavaseneva veditabbā. Api ca Nakkhattassa Aṅgārakādigāhasamāyogopi Nakkhattagāhoyeva. Ukkāpātoti ākāsato ukkānaṃ patanaṃ. Disāḍāhoti disākālusiyaṃ aggisikhadhūmasikhādīhi ākulabhāvo viya. Devadudrabhīti sukkhavalāhakagajjanaṃ. Uggamananti udayanaṃ. Okkamananti atthaṅgamanaṃ. Saṃkilesanti avisuddhatā. Vodānanti visuddhatā. Evaṃ vipākoti lokassa evaṃ vividhasukhadukkhāvaho.

 24. (Tiên đoán) hiện tượng nguyệt thực: nên biết do tác động việc tiên đoán rằng – thần Rāhu sẽ che khuất mặt trăng vào ngày hôm kia. Hoặc là, chính là các vì tinh tú bị che khuất luôn cả sự nối tiếp che khuất vì sao Aṅgāra của các vì tinh tú. Sao băng: vệt sáng rơi xuống từ hư không. Sao chổi: phương trời tối tăm như thể đang bị mắc vào ngọn lửa, và ngọn khói v.v, Sấm chớp: mây mưa ầm ầm vào mùa khô. Uggamanaṃ: mọc lên. Okkamanaṃ: lặn xuống. Saṃkilesaṃ: không thanh tịnh. Vodānaṃ: thanh tịnh. có kết quả như vầy: sẽ mang lại sự an lạc và sự khổ đau đa dạng như thế đến cho thế gian.

25. Suvuṭṭhikāti devassa sammādhārānuppavecchanaṃ. Dubbuṭṭhikāti avaggāho, vassavibandhoti[123] vuttaṃ hoti. Muddāti hatthamuddā. Gaṇanā vuccati acchiddakagaṇanā[124]. Saṅkhānanti saṅkalanasaṭuppādanādivasena[125] piṇḍagaṇanā. Yassa sā paguṇā hoti, so rukkhampi disvā ettakāni ettha paṇṇānīti jānāti. Kāveyyanti “Cattārome, bhikkhave, kavī. Katame cattāro? Cintākavi, sutakavi, atthakavi, paṭibhānakavī”ti[126]. Imesaṃ catunnaṃ kavīnaṃ attano cintāvasena vā; “Vessantaro nāma rājā ahosī”tiādīni sutvā sutavasena vā; Imassa ayaṃ attho, evaṃ taṃ yojessāmīti evaṃ atthavasena vā; kiñcideva disvā tappaṭibhāgaṃ kattabbaṃ[127] karissāmīti evaṃ ṭhānuppattikapaṭibhānavasena vā; jīvikatthāya kabyakaraṇaṃ[128]. Lokāyataṃ vuttameva.

25. Dự đoán sẽ có mưa đều: Những cơn mưa rơi xuống thuận theo mùa màng. Hạn hán: thỉnh thoảng mới có mưa, giải thích rằng rất ít mưa. Việc tính đếm bằng ngón tay: việc tính đếm bằng ngón tay. Việc tính toán: việc tính đếm liên tục. Tính đếm gộp chung: việc tính đếm chung theo phương pháp cộng và nhân v.v. người thiện xảo việc tính đếm gộp chung ấy vừa nhìn thấy cây cối cũng biết được rằng: ‘trên cây đó có số lá cây chừng này’. Làm thơ văn: “Này các tỳ khưu, có bốn hạng thi sĩ này. Thế nào là bốn? Thi nhân có tưởng tượng, thi nhân theo truyền thống, thi nhân có lý luận, thi nhân có sự sáng suốt.” Bốn nhóm thi sĩ này làm thơ văn nhằm mục đích nuôi mạng với tác động suy nghĩ của chính mình, hoặc đã được nghe do nghe câu chuyện bắt đầu rằng: “Đã có đức vua hồng danh Vessantara v.v.” hoặc có ý nghĩa thế này, câu chuyện này có ý nghĩa như vầy, ta sẽ viết câu chuyện này như vầy, hoặc do mãnh lực sự sáng suốt sanh khởi thuận theo trường hợp như vầy – ‘Ta đã nhìn thấy trường hợp như vậy, ta sẽ làm một bài thơ gắn kết với lại với vấn đề ấy’. Luận về vũ trụ: tôi đã nói rồi.

​​26. Āvāhanaṃ nāma imassa dārakassa asukakulato asukanakkhattena dārikaṃ ānethāti āvāhakaraṇaṃ. Vivāhananti imaṃ dārikaṃ asukassa nāma dārakassa asukanakkhattena detha, evamassā vuḍḍhi bhavissatīti vivāhakaraṇaṃ. Saṃvaraṇanti saṃvaraṇaṃ nāma[129] ‘ajja nakkhattaṃ sundaraṃ, ajjeva samaggā hotha, iti vo viyogo na bhavissatī’ti evaṃ samaggakaraṇaṃ. Vivaraṇa[130] nāma ‘sace viyujjitukāmattha, ajjeva viyujjatha, iti vo puna saṃyogo na bhavissatī’ti evaṃ visaṃyogakaraṇaṃ. Saṅkiraṇanti ‘uṭṭhānaṃ vā iṇaṃ vā dinnaṃ dhanaṃ ajja saṅkaḍḍhatha, ajja saṅkaḍḍhitañhi taṃ thāvaraṃ hotī’ti evaṃ dhanapiṇḍāpanaṃ. Vikiraṇanti ‘sace payogauddhārādivasena dhanaṃ payojitukāmattha, ajja payojitaṃ diguṇacatugguṇaṃ hotī’ti evaṃ dhanapayojāpanaṃ. Subhagakaraṇanti piyamanāpakaraṇaṃ vā sassirīkakaraṇaṃ vā. Dubbhagakaraṇanti tabbiparītaṃ. Viruddhagabbhakaraṇanti viruddhassa vilīnassa aṭṭhitassa matassa gabbhassa karaṇaṃ, puna avināsāya bhesajjadānanti attho. Gabbho hi vātena, pāṇakehi, kammunā cāti tīhi kāraṇehi vinassati. Tattha vātena vinassante nibbāpanīyaṃ sītalaṃ bhesajjaṃ deti, pāṇakehi vinassante pāṇakānaṃ paṭikammaṃ karoti, kammunā vinassante pana buddhāpi paṭibāhituṃ na sakkonti.

26. (Định ngày giờ cho) việc rước dâu: Định ngày lành tháng tốt làm lễ thành hôn rằng – ông bà hãy đưa cô dâu từ gia đình kia đến cho chú rể vào thời khắc đó. Việc đưa dâu: Định ngày lành tháng tốt để làm lễ thành hôn rằng – ông bà hãy đưa cô dâu này đi cho chú rể kia vào thời khắc ấy thì họ sẽ có được sự thịnh vượng. Định ngày giờ cho việc trải giường chiếu cho đôi tân hôn: Định giờ lành tháng tốt đối với việc đưa dâu gồm nghi thức cho cô dâu và chú rể được hòa hợp với nhau như vầy – ‘hôm nay là ngày lành tháng tốt hai con hãy hòa hợp với nhau vào ngày hôm nay, cả hai con sẽ bị chia cách bởi bất cứ lý do gì.’ Việc ly hôn: Nếu như vợ chồng muốn ly hôn với nhau cũng xem ngày lành tháng tốt để làm nghi thức hủy bỏ hôn ước như vầy – ‘Chớ nên bỏ nhau vào ngày hôm nay, hai con sẽ không thể hòa hợp lại được nữa’. Giờ lành tháng tốt để đòi nợ: Xem giờ lành tháng tốt để gom góp tài sản như vầy – ‘Tài sản cho vay, hay nợ, ngươi hãy đòi lại vào ngày hôm nay bởi vì số tài sản đòi lại được vào ngày hôm nay sẽ tồn tại vĩnh viễn. Giờ lành tháng tốt để mượn hay tiêu tiền: Xem giờ lành tháng tốt để kiếm lợi cho mình hoặc cho người khác kiếm lợi như vầy – ‘nếu ngươi muốn kiếm lời bằng việc đầu tư và cho vay v.v, số tiền lời kiếm được vào ngày hôm nay sẽ tăng thêm gấp 2, (hoặc) gấp 4 lần. Xem cầu may: Xem giờ lành tháng tốt để được yêu thương, được quý mến hoặc có được danh vọng. Việc trù yểm: đối nghịch lại với từ ‘xem cầu may’ ấy. Cho thuốc dưỡng thai: Bảo vệ thai nhi (tránh khỏi) những điều bất thường, hư thai, sảy thai, sắp chết, có nghĩa là cho thuốc dưỡng thai để không bị hư thai nữa. Bởi vì thai bào bị hư bởi 3 nguyên nhân là gió, mầm bệnh và nghiệp. Ở đó, trong khi bị hư do gió thì cần phải cho thuốc mát để xoa dịu, trong khi bị hư do mầm bệnh thì cần phải chống lại mầm bệnh, nhưng khi bị hư do nghiệp dầu cho chư Phật cũng không thể ngăn chặn được.

Jivhānibandhananti mantena jivhāya bandhakaraṇaṃ[131]. Hanusaṃhanananti mukhabandhamantena yathā hanukaṃ cāletuṃ na sakkonti, evaṃ bandhakaraṇaṃ. Hatthābhijappananti hatthānaṃ parivattanatthaṃ mantajappanaṃ. Tasmiṃ kira mante sattapadantare ṭhatvā jappite itaro hatthe parivattetvā khipati. Kaṇṇajappananti kaṇṇehi saddaṃ assavanatthāya vijjāya jappanaṃ. Taṃ kira jappitvā vinicchayaṭṭhāne yaṃ icchati, taṃ bhaṇati, paccatthiko taṃ na suṇāti, tato paṭivacanaṃ sampādetuṃ na sakkoti. Ādāsapañhanti ādāse devataṃ otāretvā pañhapucchanaṃ[132]. Kumārikapañhanti kumārikāya sarīre devataṃ otāretvā pañhapucchanaṃ. Devapañhanti dāsiyā sarīre devataṃ otāretvā pañhapucchanaṃ. Ādiccupaṭṭhānanti jīvikatthāya ādiccapāricariyā. Mahatupaṭṭhānanti tatheva mahābrahmapāricariyā. Abbhujjalananti mantena mukhato aggijālānīharaṇaṃ. Sirivhāyananti “ehi siri, mayhaṃ sire[133] patiṭṭhāhī”ti evaṃ sirena siriyā avhāyanaṃ.

Niệm chú làm cứng lưỡi: Niệm chú buộc chặt lưỡi lại. Niệm chú làm cứng quai hàm: Tụng chú buộc chặt miệng một cách buộc chặt đến mức quai hàm không thể cử động được. Niệm chú cho cánh tay run lên: Niệm chú làm cho cả hai cánh tay run lên. Được biết rằng khi đứng trong bảy bước niệm chú ấy thì tay một người khác sẽ run rẩy quay qua quay lại. Niệm chú không cho tai nghe được âm thanh: Niệm chú làm cho cả 2 hai tai không thể nghe được âm thanh. Được biết rằng niệm chú ấy rồi nói theo ước muốn trong pháp đình thì phía đối phương không thể nghe được âm thanh ấy, do đó không thể đối đáp lại hết mức. Việc hỏi gương soi: cung thỉnh chư thiên xuống trong gương để hỏi vấn đề. Việc hỏi cô đồng: cung thỉnh chư thiên nhập vào thân của một đồng tử rồi hỏi vấn đề. Việc hỏi chư Thiên: cung thỉnh chư nhập vào thân của người hầu gái rồi hỏi vấn đề.  Việc thờ mặt trời: Thờ thần mặt trời vì lợi ích trong việc duy trì kế sinh nhai. Việc thờ Đại Phạm Thiên: Thờ Đại Phạm thiên vì lợi ích chúng. Việc phun ra lửa: Niệm chú phun ra ngọn lửa từ miệng. Làm nghi thức mời hồn: Mời hồn nhập vào thân – ‘Xin mời hồn nhập vào thân tôi’.

27. Santikammanti devaṭṭhānaṃ gantvā sace me idaṃ nāma samijjhissati, tumhākaṃ iminā ca iminā ca upahāraṃ karissāmīti samiddhikāle kattabbaṃ santipaṭissavakammaṃ. Tasmiṃ pana samiddhe tassa karaṇaṃ paṇidhikammaṃ nāma. Bhūrikammanti bhūrighare vasitvā gahitamantassa payogakaraṇaṃ. Vassakammaṃ vossakammanti ettha vassoti puriso, vossoti paṇḍako . Iti vossassa vassakaraṇaṃ vassakammaṃ, vassassa vossakaraṇaṃ vossakammaṃ. Taṃ pana karonto acchandikabhāvamattaṃ pāpeti, na liṅgaṃ antaradhāpetuṃ sakkoti. vatthukammanti akatavatthusmiṃ gehapatiṭṭhāpanaṃ. Vatthuparikammanti “idañcidañcāharathā”ti vatvā vatthubalikammakaraṇaṃ. Ācamananti udakena mukhasuddhikaraṇaṃ. Nhāpananti aññesaṃ nhāpanaṃ. Jhananti tesaṃ atthāya aggijuhanaṃ. Vamananti yogaṃ datvā[134] vamanakaraṇaṃ. Virecanepi eseva nayo. Uddhaṃvirecananti uddhaṃ dosānaṃ nīharaṇaṃ. Adhovirecananti adho dosānaṃ nīharaṇaṃ. Sīsavirecananti sirovirecanaṃ. Kaṇṇatelanti kaṇṇānaṃ bandhanatthaṃ vā vaṇaharaṇatthaṃ vā bhesajjatelapacanaṃ. Nettatappananti akkhitappanatelaṃ. Natthukammanti telena yojetvā natthukaraṇaṃ. Añjananti dve vā tīṇi vā paṭalāni nīharaṇasamatthaṃ khārañjanaṃ. Paccañjananti nibbāpanīyaṃ sītalabhesajjañjanaṃ[135]. Sālākiyanti salākavejjakammaṃ. Sallakattiyanti sallakattavejjakammaṃ. Dārakatikicchā vuccati komārabhaccavejjakammaṃ. Mūlabhesajjānaṃ anuppādananti iminā kāyatikicchanaṃ[136] dasseti. Osadhīnaṃ paṭimokkhoti khārādīni datvā tadanurūpe vaṇe gate tesaṃ apanayanaṃ.

27. Làm lễ cầu khấn: Đi đến nơi của chư Thiên làm nghi thức cầu khẩn để công việc được làm vào thời gian này được hoàn thành (rằng): Nếu như chuyện này sẽ thành tựu cho tôi, tôi sẽ đáp lễ đến ngài với những lễ phẩm này. Và khi chuyện ấy được thành tựu sẽ thực hiện theo lời hứa ấy (đây) gọi là làm lễ tạ ơn. Dạy chú thuật phòng vệ ở trong nhà: Hướng dẫn sử dụng chú thuật cho người ở trong nhà cần học. Làm cho người ái nam ái nữ trở lại thành đàn ông, làm cho đàn ông trở thành người ái nam ái nữ này thì vasso gồm người đàn ông, vosso gồm người ái nam ái nữ. Việc làm để cho người ái nam ái nữ trở thành đàn ông gọi là làm cho người ái nam ái nữ trở lại thành đàn ông, việc làm để cho người đàn ông trở thành ái nam ái nữ gọi là  làm cho đàn ông trở thành người ái nam ái nữ, là như thế; Hơn nữa, khi làm như thế chỉ có thể thay đổi được tính chất (bên ngoài) mà thôi, chớ không thể thay đổi được giới tính. Làm lễ xây nhà: Làm lễ xây nhà ở khu vực chưa được sửa sang. Làm lễ động thổ: Mọi người mang những thứ này và thứ này đến rồi làm lễ cúng tế thổ thần. Lễ rửa miệng: sử dụng nước súc miệng cho sạch sẽ. Việc tắm trừ tà: tắm bằng nước thánh cho người khác. Cúng tế thần lửa: Làm lễ tế thần lửa vì lợi ích cho họ. Pha chế thuốc ói mửa: Làm thuốc ói mửa đem cho. Luôn cả việc pha chế thuốc xổ cũng có phương cách tương tự. Pha chế thuốc bài tiết các chất dơ thuộc phần trên: Pha chế thuốc bài tiết các chất dơ thuộc phần trên. Pha chế thuốc bài tiết các chất dơ thuộc phần dưới: Pha chế thuốc bài tiết các chất dơ thuộc phần dưới. Pha chế thuốc chữa đau đầu: Chế thuốc chữa đau đầu. Nấu dầu nhỏ tai: nấu dầu thuốc để nhỏ tai hoặc để chữa trị vết thương. Pha chế dầu áp vào mắt: dầu nhỏ mắt. Pha chế thuốc xong mũi: sử dụng dầu chế tạo làm thuốc xông mũi. Pha chế thuốc nhỏ mắt: chế tạo thuốc nhỏ mắt (có tính kiềm) có thể bóc thành hai-ba lớp. Dầu bôi mắt: Chế tạo thuốc bôi làm mát, làm dịu cơn đau. Làm thầy thuốc chữa trị bệnh mắt: dụng cụ giải phẫu của bác sĩ nhãn khoa. Làm thấy thuốc mổ xẻ: việc chữa trị của bác sĩ phẫu thuật. Chữa bệnh trẻ em: được gọi là làm nghề thầy thuốc trị bệnh cho con nít. Chữa bệnh bằng các loại thuốc từ rễ cây điều này đức Thế Tôn thuyết giảng đến vật lý trị liệu. Rửa sạch vết thương: Bôi dung dịch kiềm vào v.v, khi vết thương đã được rửa sạch bằng dung dịch kiềm vừa phải thì lấy dung dịch kiềm v.v, ấy ra.

Phần Đại Giới Được Kết Thúc Chỉ Bấy Nhiêu



[1] Syā. Kā

[2] Syā. Āraddhaṃ

[3] Sī. Sīlehalaṅkato

[4] ma. ni. 1.65

[5] Khu 1. 21; Aṃ 1. 227; Khu 11. 317 piṭṭhesu. Tagaramallikā (bahūsu)

[6] Tagaraṃ: một loại cây nhỏ có mùi thơm

[7] Sī, Syā, I. Tagaracandanī

[8] dha. pa. 57

[9] saṃ. ni. 1.23

[10] saṃ. ni. 5.150

[11] Ka. Purimayamakā

[12] channaṃ vaṇṇānaṃ nīlānaṃ pītakānaṃ lohitakānaṃ odātānaṃ mañjiṭṭhānaṃ pabhassarānaṃ = hào quang sáu màu gồm xanh, vàng, đỏ, trắng, đỏ tía, màu ánh sáng.

[13] Khu 9.121 piṭṭhe

[14] Syā. Ṭhitaṃ

[15] Sī, Syā. Parittanti

[16] Syā. Puthū

[17] Syā, Ka. Gadhitā

[18] Ka. Ajjhopannā

[19] Ka. Ophuṭā

[20] Syā. Dhanaputtadārajīvitapariccāganti

[21] Syā. Buddhacariyāya

[22] Dī 2.13 piṭṭhe. Uttarenamukho

[23] Sī. Āsabhiñca vācaṃ, Syā. āsabhi vācaṃ

[24] dī. ni. 2.31

[25] su. ni. 693

[26] Ka. nimmathanassa

[27] Sī, Syā, Ka. Padāletvā gato

[28] Syā. virjjitvā

[29] Sī, Syā. Nimittasaññaṃ, Ka. nimittaṃ saññaṃ, Khu 9. 44. Paīisambhidāmagge. passa

[30] Syā. Bhajitvā

[31] Ka. Samuṭṭhāpanalakkhaṇaṃ, aṃ-ṭṭha 1.83 piṭṭhe pasitabbaṃ

[32] Ka. Samucchedalakkhaṇaṃ

[33] Syā. Taduttayalakkhaṇaṃ

[34] saṃ. ni. 5.1090

[35] dha. sa. 616

[36] Sī, Ka. Vuttañcetaṃ

[37] a. ni. 4.24

[38] Sī. Apakkhalitaṃ

[39] a. ni. 4.23

[40] a. ni. 4.23

[41] Ka. Tulo

[42] Aṃ 1. 332 piṭṭhe

[43] Bhavagga: sanh hữu tột cùng, cao tột sanh hữu (HT Tịnh Sự)

[44] Si, Syā. Desanāvilāso ceva

[45] a. ni. 4.23

[46] mahāva. 21

[47] Sī, Syā. Atipapañco

[48] pārā. aṭṭha. 2.172

[49] Sī. Vihiṃsanabhāvato

[50] Syā. Kaṭṭhaṃ vā vāsiṃ, Sī-ṭī Abhinava 1. 328 piṭṭhe pāṭhantaraṃ; Ma-ṭṭha 2. 110 piṭṭhepi. Dantakaṭṭhavāsiṃ vā

[51] Sī-Syā-potthakesu. Idaṃ padaṃ natthi

[52] Si, Syā. Guṇaṃ

[53] Sī, Syā, Ka Abhi-ṭṭha 1.140 piṭṭhepi. Parassa haraṇaṃ

[54] Sī. Tasmiṃ pana

[55] pārā. aṭṭha. 1.92

[56] Syā. yathāpidha

[57] Ka. Samuṭṭhāpakacetanākkhaṇeyeva

[58] Sī, Syā. Veditabboti

[59] Sī-Ṭī Abhinava 1.337 piṭṭhe. Tirokuṭṭādīsu

[60] Syā, Ka. Ṭhitakathoti, Ṭikā oloketabbā

[61] Syā. Haliddarāgo viya

[62] Sī. Pati-ayitabbako, Syā. paṭiyāyitabbako

[63] Syā. Hadayasukhā

[64] Syā. Sandhānassa

[65] Idaṃ padaṃ Sī-potthake natthi, evaṃ Ma-ṭṭha 2. 111 piṭṭhe. Cūḷahatthipadopamasuttepi

[66] Sī, Syā. Mahisi

[67] Ka. Te, Abhi-ṭṭha 1.143 piṭṭhe passitabbaṃ

[68] Ka. Niddharatha

[69] udā. 65

[70] Sī. Chedanapacanādibhāvena

[71] Sī, Syā. Antomajjhantikena

[72] Ka. Visukaṃ

[73] Sī, Ka. Paṭiggahaṇampi, Ma-ṭṭha 2. 113 piṭṭhe passitabbaṃ.

[74] Vi-ṭṭha 2.156 piṭṭhe

[75] Sī, Abhi-ṭṭha 3.90. Mahaggataraṃ; Ma-ṭṭha 2.114 piṭṭhesu passitabbaṃ

[76] (?) Sāhasakāro

[77] Ka. Samārabhitvā dassento

[78] Syā. Haliddaṃ saṇgaveraṃ, Vi 2. 52 piṭṭhe passitabbaṃ.

[79] Sī. Vacatthaṃ, Syā. vapatthaṃ

[80] Syā, Ka. Milakkhu

[81] Vi 2. 52 piṭṭhe. Ajjukaṃ

[82] Ka. Sannidhikāraparibhogaṃ

[83] Vi-ṭṭha 3.383 piṭṭhe

[84] Sī. Anuññātakālaṃ

[85] Ka. …havirogādi-ābādhe

[86] Bahūsu. Gandhasannidhi

[87] Sī, Ka. Sāmaṇero

[88] Syā. Paṭisaṇṭhāraṃ, Ka. Paṭisandhāraṃ

[89] Syā. Caturaṅgulamattaṃ vā

[90] Sī. Naṭasạmajjā, Syā. Naṭādisamajjaṃ

[91] I. bhāratarāmāyaṇādikaṃ, ka. bhāratarāmayujjhanādikaṃ

[92] Sī. Sobhanagharakaṃ, Syā. Sobhanagarakaṃ

[93] Sī, Syā, I. Kālaṅkate

[94] Syā. Lehampi

[95] a. ni. 10.107

[96] Sī. Aṭṭhidhovananti

[97]  pāci. 324

[98] Sī. Santikakīḷākīḷanaṃ, Vi-ṭṭha 2.204 piṭṭhe passitabbaṃ

[99] Sī. Mañceṭṭhikāya

[100] Syā. Setapaccattharaṇo, Vi-ṭṭha 3. 369 piṭṭhe passitabbaṃ.

[101] Sī. Amilātapaṭṭotipi, Syā. Ālamakapattotipi

[102] Syā, Ka. …uggatapupphantipi

[103] Sī, Syā. Koseyyakaṭṭhissamayaṃ

[104] Sī. Attharaṇaka-attharakāva, Ka. Attharaṇa-attharaṇāniyeva

[105] cūḷava. 297

[106] Sī. Dvādasavassamattakāle, Syā. dvādasamattavassapattakāle

[107] Sī. Na nassati

[108] Sī. Nahāpanaṃ, Syā. Nahāpanaṃ viya, Ka. Nhāpanaṃ viya nhāpanaṃ

[109] Kathetabbaṃ (sabbattha)

[110] Ka. Bāka

[111] Syā. Viggāhakathā

[112] Sī. Tava doso; Ma-ṭṭha 3.164 piṭṭhe passitabbaṃ.

[113] Syā, Ka. Gahetvā

[114] Sī. Uppādaṃ, Syā. Uppātaṃ

[115] Ka. Aggiṃ jahanti

[116] Aṇgulaṭṭhiṃ (bahūsu) Dī-ṭi 1. 130; Sī-ṭī Abhinava 1. 371 pṭṭhesu passitabbaṃ.

[117] Sī. Aṅgeyyamāsurakkhādi nītisatthaṃ, Syā. Ajjheyya…

[118] Sī. Sigālarutavijjātipi

[119] Sī. Visatantameva, Syā. Visamantarameva

[120] Sī. Ariṭṭhaṃ ñāṇanti, Syā. adiṭṭhañāṇanti

[121] Syā. Cittakammena

[122] Ka. Saṅgāmagamanaṃ

[123] Syā. Vassamandoti

[124] Syā, Ka. Acchindakagaṇanā

[125] Ka. Saṅkalanasaduppādanādivasena

[126] a. ni. 4.231

[127] Idaṃ padaṃ natthi Sī-potthake

[128] Sī. Kammakaraṇaṃ, Syā. kattabbakaraṇaṃ

[129] Sī, Syā. Saṃvadananti saṃvadanaṃ nāma

[130]  Sī, Syā. Vivadanaṃ

[131] Sī. Thaddhakaraṇaṃ

[132] Syā, Ka. Pañhāpucchanaṃ

[133] Syā, Ka. Sarīre

[134] Ka. Katvā

[135] Sī. Bhāvanīyasītalabhesajjañjanaṃ

[136] Syā. Kāyatikicchakaṃ, Ka. Kāyatikicchataṃ