Giảng giải Kinh Phạm Võng (Mạng lưới cao thượng)-01
(Brahmajālasuttavaṇṇanā)Sumaṃgalavilāsinī – Giảng Giải Kinh Trường Bộ
Xem Trường Bộ Kinh – Kinh Phạm Võng
Sīlakkhandhavagga – Phẩm Giới Uẩn
Kính đảnh lễ đức Thế Tôn, bậc A-ra-hán, đấng Chánh đẳng Chánh giác
(Tiếp theo phần mở đầu)
Giải Thích Câu Chuyện về Du Sĩ Ngoại Đạo
Imissā paṭhamamahāsaṅgītiyā vattamānāya vinayasaṅgahāvasāne suttantapiṭake ādinikāyassa ādisuttaṃ brahmajālaṃ pucchantena āyasmatā Mahākassapena — “brahmajālaṃ, āvuso ānanda, kattha bhāsitan”ti, evamādivuttavacanapariyosāne yattha ca bhāsitaṃ, yañcārabbha bhāsitaṃ, taṃ sabbaṃ pakāsento āyasmā Ānando evaṃ me sutantiādimāha. Tena vuttaṃ “brahmajālassāpi evaṃ me sutantiādikaṃ āyasmatā Ānandena paṭhamamahāsaṅgītikāle vuttaṃ nidānamādī”ti.
Cuộc kết tập thứ nhất này đang được diễn ra, thời gian kết tập Luật kết thúc, ngài Mahākassapa khi hỏi về bài Kinh Mạng Lưới Cao Thượng của Bộ Kinh đầu tiên trong Tạng Kinh đã nói lời như vầy – “Này sư đệ Ānanda, đức Thế Tôn thuyết bài Kinh Mạng Lưới Cao Thượng ở đâu?” v.v, rồi kết thúc lời nói như thế. Đại đức Ānanda đã nói về nơi đức Thế Tôn thuyết giảng bài Kinh Mạng Lưới Cao Thượng và nhân sự liên quan được ngài nói đến làm nhân cho đầy đủ ý nghĩa mới thuyết rằng “tôi đã nghe như vầy v.v.” Do đó, ngài đã nói rằng: “Ngay cả bài Kinh Mạng Lưới Cao Thượng cũng có duyên khởi ‘tôi đã nghe như vầy’ được đại đức Ānanda nói trong cuộc đại kết tập thứ nhất”.
Giải Thích Từ Evaṃ – Như Vầy
1. Tattha evanti nipātapadaṃ. Metiādīni nāmapadāni. Paṭipanno hotīti ettha paṭīti upasaggapadaṃ, hotīti ākhyātapadanti. Iminā tāva nayena padavibhāgo veditabbo.
1. Ở đây, từ ‘evaṃ – như vầy’ là phân từ. ‘Me – tôi’ v.v, là danh từ. Ở đây, từ ‘paṭi’ trong từ ‘paṭipanno hoti’ là tiếp đầu ngữ, từ ‘hoti’ là động từ. Nên hiểu việc phân tích tự loại theo phương thức này trước.
Atthato pana evaṃ-saddo tāva upamūpadesa-sampahaṃsana-garahaṇa vacanasampaṭiggahākāra-nidassanāvadhāraṇādi anekatthappabhedo. Tathāhesa — “evaṃ jātena maccena, kattabbaṃ kusalaṃ bahun”ti[1] evamādīsu upamāyaṃ āgato. “Evaṃ te abhikkamitabbaṃ, evaṃ te paṭikkamitabban”tiādīsu[2] upadese. “Evametaṃ bhagavā, evametaṃ sugatā”tiādīsu[3] sampahaṃsane. “Evamevaṃ panāyaṃ vasalī yasmiṃ vā tasmiṃ vā tassa muṇḍakassa samaṇakassa vaṇṇaṃ bhāsatī”tiādīsu[4] garahaṇe. “Evaṃ, bhanteti kho te bhikkhū bhagavato paccassosun”tiādīsu[5] vacanasampaṭiggahe[6]. “Evaṃ byā kho ahaṃ, bhante, bhagavatā dhammaṃ desitaṃ ājānāmī”tiādīsu[7] ākāre.
Theo ý nghĩa từ ‘evaṃ-như vầy’ có nhiều ý nghĩa khác biệt v.v, (1) sự so sánh, (2) sự khuyên bảo, (3) sự tán dương, (4) sự thóa mạ, (5) sự nhận lời, (6) trạng thái, (7) giới thiệu nội dung, (8) sự nhấn mạnh. Thật sự như vậy từ ‘evaṃ’ này đến trong ý nghĩa sự so sánh như trong câu như vầy – “tương tự như thế người đã được sanh ra trên đời nên tạo nhiều việc thiện.” Từ ‘evaṃ’ đến trong ý nghĩa sự khuyên bảo: “Ông nên bước tới như vậy, ông nên bước lui như vậy.” Từ ‘evaṃ’ đến trong ý nghĩa sự tán dương: “điều đó là như vậy bạch Thế Tôn, điều đó là như vậy bạch Thiện Thệ”. Từ ‘evaṃ’ đến trong ý nghĩa sự thóa mạ: “người nữ hạ tiện này đã nói lời tán thán Sa-môn trọc đầu ấy như vậy như vậy ở khắp mọi nơi.” Từ ‘evaṃ’ đến trong ý nghĩa sự nhận lời: “Thưa vâng, chư Tỳ khưu hoan hỷ thọ nhận lời nói của bạch Thế Tôn như vậy.” Từ ‘evaṃ’ đến trong ý nghĩa biểu thị trạng thái: “Này các đại đức, đúng như vậy. Theo như tôi hiểu về Pháp đã được đức Thế Tôn thuyết giảng”.
“Ehi tvaṃ, māṇavaka, yena samaṇo Ānando tenupasaṅkama, upasaṅkamitvā mama vacanena samaṇaṃ ānandaṃ appābādhaṃ appātaṅkaṃ lahuṭṭhānaṃ balaṃ phāsuvihāraṃ puccha. “Subho māṇavo todeyyaputto bhavantaṃ ānandaṃ appābādhaṃ appātaṅkaṃ lahuṭṭhānaṃ balaṃ phāsuvihāraṃ pucchatī”ti. “Evañca vadehi, sādhu kira bhavaṃ ānando yena subhassa māṇavassa todeyyaputtassa nivesanaṃ, tenupasaṅkamatu anukampaṃ upādāyā”tiādīsu[8] nidassane. “Taṃ kiṃ maññatha, kālāmā, ime dhammā kusalā vā akusalā vāti? Akusalā, bhante. Sāvajjā vā anavajjā vāti? sāvajjā, bhante. Viññugarahitā vā viññuppasatthā vāti? Viññugarahitā, bhante. Samattā samādinnā ahitāya dukkhāya saṃvattanti no vā, kathaṃ vo ettha hotīti? Samattā, bhante, samādinnā ahitāya dukkhāya saṃvattanti, evaṃ no ettha hotī”tiādīsu[9] avadhāraṇe. Svāyamidha ākāra-nidassanāvadhāraṇesu daṭṭhabbo.
Từ ‘evaṃ’ đến trong ý nghĩa giới thiệu nội dung: “Nào, này cậu thanh niên trẻ, cậu hãy đi đến gặp Sa-môn Ānanda; sau khi đến hãy hỏi thăm Sa-môn Ānanda có được ít bệnh, ít mỏi mệt, có trạng thái nhẹ nhàng, có sự khỏe mạnh, sống thoải mái với lời của ta rằng: ‘Thanh niên Subha Todeyyaputta hỏi thăm ngài Ānanda có được ít bệnh, ít mỏi mệt, có trạng thái nhẹ nhàng, có sự khỏe mạnh, sống thoải mái.’ Và cậu hãy nói như vầy: ‘Thật tốt lành thay ngài Ānanda vì lòng thương xót hãy đi đến nơi cư ngụ của thanh niên Subha Todeyyaputta.” Từ ‘evaṃ’ đến trong ý nghĩa sự nhấn mạnh: “Các ông nghĩ thế nào, này các Kālāmā, các pháp này là thiện hay bất thiện? – Là bất thiện, bạch Thế Tôn. – Có lỗi lầm hay không có lỗi lầm?” – Có lỗi lầm, bạch Thế Tôn. – Bị người có trí quở trách hay không bị người có trí quở trách? – Bị người có trí quở trách, bạch Thế Tôn. – Được thọ trì đầy đủ, có thể đưa đến sự bất hạnh, sự đau khổ hay không? Hay ở đây (nghĩa) như thế nào? – Được thọ trì đầy đủ, sẽ đưa đến sự bất hạnh, sự đau khổ, bạch Thế Tôn, như vậy đối với chúng con, (nghĩa) ở đây là vậy.” Nên hiểu từ ‘evaṃ’ này đây được sử dụng với ý nghĩa (6) biểu thị trạng thái, (7) giới thiệu nội dung, (8) sự nhấn mạnh.
Tattha ākāratthena evaṃ-saddena etamatthaṃ dīpeti, nānānayanipuṇaṃ-anekajjhāsayasamuṭṭhānaṃ, atthabyañjanasampannaṃ, vividhapāṭihāriyaṃ, dhammatthadesanāpaṭivedhagambhīraṃ, sabbasattānaṃ sakasakabhāsānurūpato sotapathamāgacchantaṃ tassa Bhagavato vacanaṃ sabbappakārena ko samattho viññātuṃ, sabbathāmena pana sotukāmataṃ[10] janetvāpi ‘evaṃ me sutaṃ’ mayāpi ekenākārena sutanti.
Ở đây, lấy nghĩa “phương thức” (ākāra) mà từ “evaṃ” biểu thị điều này: “Lời dạy của bậc Thế Tôn ấy khéo léo theo nhiều phương diện, khởi lên do muôn vàn căn tánh/khuynh hướng khác nhau; đầy đủ cả nghĩa lẫn văn; có các loại thần thông/điều kỳ đặc sai biệt; sâu thẳm nơi Pháp, nơi nghĩa, nơi sự thuyết giảng và nơi chứng ngộ; lại có khả năng đi vào lộ tai của tất cả hữu tình tương ứng với ngôn ngữ riêng của từng loài. Ai có thể thấu đạt trọn vẹn mọi phương diện lời dạy ấy? Còn ta, hết thảy chỉ có thể khởi lên ước muốn lắng nghe cho tha thiết, và (nay) nói rằng: ‘Như vầy tôi nghe’ — nghĩa là, ta đã nghe bằng một phương thức (ākāra) như vậy.”
Nidassanatthena — “nāhaṃ sayambhū, na mayā idaṃ sacchikatan”ti attānaṃ parimocento — ‘evaṃ me sutaṃ’, ‘mayāpi evaṃ sutan’ti idāni vattabbaṃ sakalaṃ suttaṃ nidasseti.
Theo nghĩa “chỉ thị/giới thiệu” (nidassana), (Trưởng lão Ānanda) dùng từ ‘evaṃ’ để giới thiệu toàn bộ bài kinh sắp được thuyết giảng. Qua đó, ngài tự miễn khỏi (sự ngộ nhận) mình là tác giả, bằng cách xác định: “Ta không phải là bậc Tự Giác (sayambhū), pháp này không phải do ta tự mình chứng đắc (sacchikata).” Câu “Như vầy tôi nghe” (evaṃ me sutaṃ) chính là cách ngài chỉ thị rằng: “Chính tôi cũng đã nghe như vậy (từ Thế Tôn).”
Avadhāraṇatthena “Etadaggaṃ, bhikkhave, mama sāvakānaṃ bhikkhūnaṃ bahussutānaṃ yadidaṃ Ānando, satimantānaṃ, gatimantānaṃ, dhitimantānaṃ, upaṭṭhākānaṃ yadidaṃ ānando”ti[11] evaṃ bhagavatā, “āyasmā ānando atthakusalo dhammakusalo byañjanakusalo niruttikusalo pubbāparakusalo”ti[12] evaṃ dhammasenāpatinā ca pasatthabhāvānurūpaṃ attano dhāraṇabalaṃ dassento sattānaṃ sotukāmataṃ janeti “evaṃ me sutaṃ, tañca kho atthato vā byañjanato vā anūnamanadhikaṃ, evameva, na aññathā daṭṭhabban”ti.
Từ ‘evaṃ’ với ý nghĩa sự nhấn mạnh – Avadhāraṇa: Đại đức Ānanda đã cho thấy năng lực ghi nhớ của mình xứng đáng được khen ngợi (điều đó) đã được Đức Thế Tôn khen ngợi như vầy: “Này các Tỳ khưu, trong số các Tỳ khưu Thinh văn đệ tử của ta, thì đây là người đứng đầu trong số những vị đa văn – đó là Ānanda, người đứng đầu trong số những vị đầy đủ cử chỉ chân chánh, trong số những vị đầy đủ ức niệm, trong số những vị đầy đủ tính kiên trì, trong số những vị thị giả – đó là Ānanda”, và vị Tướng Quân Chánh Pháp cũng khen ngợi như thế: “Đại đức Ānanda thiện xảo về ý nghĩa, thiện xảo về pháp, thiện xảo về văn cú, thiện xảo về địa phương ngữ, thiện xảo về trình tự lời nói trước sau”. Đồng thời Ngài khiến cho tất cả chúng sanh trên thế gian khởi lên sự mong muốn được lắng nghe bằng câu nói “tôi đã nghe như vầy, và những gì tôi đã được nghe không hơn không kém (không hề thiếu sót) về mặt ý nghĩa, về mặt văn cú, là hoàn toàn như thế, không nên hiểu theo cách khác”.
Giải Thích Từ Me – Tôi
Me-saddo tīsu atthesu dissati. Tathā hissa — “gāthābhigītaṃ me abhojaneyyan”tiādīsu[13] mayāti attho. “Sādhu me, bhante, bhagavā saṅkhittena dhammaṃ desetū”tiādīsu[14] mayhanti attho. “Dhammadāyādā me, bhikkhave, bhavathā”tiādīsu[15] mamāti attho. Idha pana mayā sutanti ca, mama sutanti ca atthadvaye yujjati.
Từ ‘tôi – me’ sử dụng trong 3 ý nghĩa. Thật vậy, từ ‘me’ đồng nghĩa với ‘mayā’ như trong câu: “Vật nhận được sau khi ngâm nga kệ ngôn, ta không nên thọ dụng”, từ ‘me’ đồng nghĩa với ‘mayhaṃ – đến tôi’ như trong câu: “Lành thay! bạch Thế Tôn, xin Thế Tôn hãy thuyết pháp vắn tắt đến con”. Từ ‘me’ đồng nghĩa với ‘mama – của tôi’ như trong câu: “Này các Tỳ khưu, các ông hãy là người thừa tự Pháp của Ta”. Nhưng trong bài kinh này từ ‘me-tôi’ nên được sử dụng với 2 ý nghĩa là ‘mayā sutaṃ [tôi đã được nghe], và mama sutaṃ [việc lắng nghe của tôi].
Giải Thích Từ Sutaṃ – Đã Nghe
Sutanti ayaṃ suta-saddo saupasaggo ca anupasaggo ca — gamana vissuta kilinna upacitānuyoga sotaviññeyya sotadvārānusāra viññātādianekatthappabhedo. Tathā hissa “senāya pasuto”tiādīsu gacchantoti attho. “Sutadhammassa passato”tiādīsu[16] vissutadhammassāti attho. “Avassutā avassutassā”tiādīsu[17] kilinnākilinnassāti attho. “Tumhehi puññaṃ pasutaṃ anappakan”tiādīsu[18] upacitanti attho. “Ye jhānapasutā dhīrā”tiādīsu[19] jhānānuyuttāti attho. ‘Diṭṭhaṃ sutaṃ mutan’tiādīsu[20] sotaviññeyyanti attho. “Sutadharo sutasannicayo”tiādīsu[21] sotadvārānusāraviññātadharoti attho. Idha panassa sotadvārānusārena ‘upadhāritan’ti vā ‘upadhāraṇan’ti vāti attho. Me-saddassa hi ‘mayā’ti atthe sati ‘evaṃ mayā sutaṃ’ sotadvārānusārena upadhāritanti yujjati. ‘Mamā’ti atthe sati “evaṃ mama sutaṃ sotadvārānusārena upadhāraṇan”ti yujjati.
“Tôi nghe” (suta): từ “suta” này, cả khi có tiếp đầu ngữ lẫn khi không, có nhiều phân hệ nghĩa như: “đi/đang đi”, “đồn vang/nổi tiếng”, “nhiễm ướt/nhiễm ô”, “tích lũy”, “chuyên chú”, “đối tượng được biết bởi tai (sở tri của nhĩ thức)”, “đi theo lộ nhĩ môn mà được biết”. Cụ thể:
- Ở câu “senāya pasuto” (như v.v.), nghĩa là “đang đi”.
- Ở “sutadhammassa passato” (như v.v.), nghĩa là “vị thấy pháp đã được đồn vang” (vissuta-dhamma: pháp được nghe rộng, nổi tiếng).
- Ở “avassutā avassutassā” (như v.v.), nghĩa là “nhiễm/không nhiễm” (kilinna/akilinna: ướt, nhiễm ô).
- Ở “tumhehi puññaṃ pasutaṃ anappakaṃ” (như v.v.), nghĩa là “đã được tích lũy”.
- Ở “ye jhānapasutā dhīrā” (như v.v.), nghĩa là “chuyên chú vào thiền (anuyutta)”.
- Ở “diṭṭhaṃ sutaṃ mutaṃ” (như v.v.), nghĩa là “điều được biết bởi tai (sở tri của nhĩ thức)”.
- Ở “sutadharo sutasannicayo” (như v.v.), nghĩa là “vị nắm giữ (những gì) được biết theo dòng của nhĩ môn, tích lũy (những gì) đã nghe”.
Còn ở đây, từ “suta” có nghĩa: “được nắm bắt/ghi nhận theo lộ nhĩ môn” (upadhārita/upadhāraṇa bằng nhĩ môn). Vì tiếng “me”:
- Nếu lấy theo nghĩa “mayā” (do tôi), thì hợp lý hiểu: “evaṃ mayā sutaṃ” = “(pháp này) đã được tôi nắm bắt/ghi nhận theo lộ nhĩ môn như vậy”.
- Nếu lấy theo nghĩa “mama” (của tôi), thì hợp lý hiểu: “evaṃ mama sutaṃ” = “(cái) đã được nghe của tôi (tức sự ghi nhận qua nhĩ môn của tôi) là như vậy”.
Giải Thích ‘Evaṃ me sutaṃ – Tôi đã nghe như vầy’
Evametesu tīsu padesu evanti sotaviññāṇādiviññāṇakiccanidassanaṃ. Meti vuttaviññāṇasamaṅgipuggalanidassanaṃ. Sutanti assavanabhāvapaṭikkhepato anūnādhikāviparītaggahaṇanidassanaṃ. Tathā evanti tassā sotadvārānusārena pavattāya viññāṇavīthiyā nānappakārena ārammaṇe pavattibhāvappakāsanaṃ. meti attappakāsanaṃ. Sutanti dhammappakāsanaṃ. Ayañhettha saṅkhepo — “nānappakārena ārammaṇe pavattāya viññāṇavīthiyā mayā na aññaṃ kataṃ, idaṃ pana kataṃ, ayaṃ dhammo suto”ti.
Theo đó, trong ba từ này, có các cách phân tích như sau:
- “evaṃ” (như vầy) là sự chỉ bày chức năng của các thức như nhĩ thức v.v. (viññāṇa-kicca).
- “me” (của tôi/do tôi) là sự chỉ bày người có các thức ấy (người mang các thức đã nói).
- “sutaṃ” (đã nghe) là sự chỉ bày việc nắm giữ không thiếu, không thừa, không trái nghịch, do phủ định trạng thái “không được nghe”.
Lại nữa:
- “evaṃ” là sự làm hiển lộ việc “dòng lộ thức” vận hành theo nhĩ môn, khởi lên trên đối tượng theo nhiều cách khác nhau.
- “me” là sự hiển bày về chủ thể (bản thân người nghe).
- “sutaṃ” là sự hiển bày về pháp (điều được nghe).
Tóm lược ý ở đây là: “Với dòng lộ thức khởi trên đối tượng theo nhiều cách, ta không làm điều nào khác; điều ta làm là: ‘Pháp này đã được nghe’.”
Tathā evanti niddisitabbadhammappakāsanaṃ. Meti puggalappakāsanaṃ. Sutanti puggalakiccappakāsanaṃ. Idaṃ vuttaṃ hoti – “Yaṃ suttaṃ niddisissāmi, taṃ mayā evaṃ sutan”ti.
Theo một cách nữa:
- “evaṃ” là sự hiển bày pháp được nêu (niddisitabba-dhamma).
- “me” là sự hiển bày về người (puggala).
- “sutaṃ” là sự hiển bày về phận sự của người ấy (puggala-kicca).
Ý nói: “Bài kinh nào ta sẽ nêu ra, bài kinh ấy đã được ta nghe như vậy.”
Tathā evanti yassa cittasantānassa nānākārappavattiyā nānatthabyañjanaggahaṇaṃ hoti, tassa nānākāraniddeso. Evanti hi ayamākārapaññatti. Meti kattuniddeso. sutanti visayaniddeso. Ettāvatā nānākārappavattena cittasantānena taṃ samaṅgino kattu visayaggahaṇasanniṭṭhānaṃ[22] kataṃ hoti.
Lại nữa, theo một cách khác:
- “evaṃ” là sự nêu tướng về các hình thái sai biệt của “dòng tương tục tâm” (citta-santāna) do vận hành theo nhiều dạng, nhờ đó có việc lãnh thọ các nghĩa và văn sai khác; nói cách khác, “evaṃ” là sự quy định về “phương thức” (ākāra).
- “me” là sự chỉ định về “chủ thể hành động” (kattu).
- “sutaṃ” là sự chỉ định về “đối tượng” (visaya).
Bởi chừng ấy, việc nắm bắt đối tượng của chủ thể được trang bị dòng tâm thức vận hành theo nhiều phương thức khác nhau đã được xác lập.
Athavā evanti puggalakiccaniddeso. Sutanti viññāṇakiccaniddeso. Meti ubhayakiccayuttapuggalaniddeso. Ayaṃ panettha saṅkhepo, “mayā savanakiccaviññāṇasamaṅginā puggalena viññāṇavasena laddhasavanakiccavohārena sutan”ti.
Hoặc nữa:
- “evaṃ” là sự chỉ định về phận sự của người (puggala-kicca).
- “sutaṃ” là sự chỉ định về phận sự của thức (viññāṇa-kicca).
- “me” là sự chỉ định về người tương ưng với cả hai phận sự.
Tóm lược: “Bởi ta là người có nhĩ thức, làm xong phận sự nghe; nên ‘điều đã nghe’ được gọi theo quy ước (vohāra) là ‘đã được nghe’ nhờ vào (chức năng của) thức.”
Tattha evanti ca meti ca saccikaṭṭhaparamatthavasena[23] avijjamānapaññatti. Kiñhettha taṃ paramatthato atthi, yaṃ evanti vā meti vā niddesaṃ labhetha? Sutanti vijjamānapaññatti. Yañhi taṃ ettha sotena upaladdhaṃ, taṃ paramatthato vijjamānanti. Tathā ‘evan’ti ca, meti ca, taṃ taṃ upādāya vattabbato upādāpaññatti[24]. ‘Sutan’ti diṭṭhādīni upanidhāya vattabbato upanidhāpaññatti. Ettha ca evanti vacanena asammohaṃ dīpeti. na hi sammūḷho nānappakārapaṭivedhasamattho hoti. ‘Sutan’ti vacanena sutassa asammosaṃ dīpeti. Yassa hi sutaṃ sammuṭṭhaṃ[25] hoti, na so kālantarena mayā sutanti paṭijānāti[26]. Iccassa asammohena paññāsiddhi, asammosena pana satisiddhi. Tattha paññāpubbaṅgamāya satiyā byañjanāvadhāraṇasamatthatā, satipubbaṅgamāya paññāya atthapaṭivedhasamatthatā. tadubhayasamatthatāyogena atthabyañjanasampannassa dhammakosassa anupālanasamatthato dhammabhaṇḍāgārikattasiddhi.
Ở đây, “evaṃ” và “me” là các khái niệm giả lập (phi danh chơn chế định – paññatti) không hiện hữu theo chân đế và tối hậu đế; vì có gì, xét như chân đế, để có thể được chỉ định là “evaṃ” hay “me”? Còn “sutaṃ” là danh chơn chế định: bởi điều gì ở đây được thọ đắc bằng tai, thì về phương diện chân đế, điều ấy thật có. Lại nữa, “evaṃ” và “me” là dựa vào chế định (upādā‑paññatti), vì được nói lên tùy theo cái này cái kia làm chỗ y cứ; còn “sutaṃ” là sự so sánh chế định (upanidhā‑paññatti), vì được nói lên bằng cách đặt cạnh các mục như “đã thấy” v.v.
Tại đây, bằng từ “evaṃ” biểu lộ trạng thái không mê lầm (asammoha); bởi kẻ mê lầm không thể kham thấu đạt sai biệt theo nhiều phương diện. Bằng từ “sutaṃ” biểu lộ sự không thất niệm/không lãng quên (asammosa) về điều đã nghe; vì ai để cho cái đã nghe bị tán thất thì về sau không còn có thể xác nhận “do tôi đã nghe”. Như vậy, nhờ không mê lầm mà thành tựu Trí (paññā); và nhờ không lãng quên mà thành tựu Niệm (sati).
Ở đây, với Niệm đi trước Trí, có khả năng ấn định/ghim chặt lời văn (byañjana‑avadhāraṇa‑samatthata); với Trí đi trước Niệm, có khả năng thấu đạt ý nghĩa (attha‑paṭivedha‑samatthata). Do hội đủ cả hai năng lực ấy, Ngài kham gìn giữ “kho tàng Pháp” đầy đủ cả nghĩa lẫn văn (attha‑byañjana‑sampanna), nên được thành tựu địa vị “bậc Thủ kho Pháp” (dhammabhaṇḍāgārikatta).
Aparo nayo, evanti vacanena yoniso manasikāraṃ dīpeti. Ayoniso manasikaroto hi nānappakārapaṭivedhābhāvato. Sutanti vacanena avikkhepaṃ dīpeti, vikkhittacittassa savanābhāvato. Tathā hi vikkhittacitto puggalo sabbasampattiyā vuccamānopi “na mayā sutaṃ, puna bhaṇathā”ti bhaṇati. Yoniso manasikārena cettha attasammāpaṇidhiṃ pubbe ca katapuññataṃ sādheti, sammā appaṇihitattassa pubbe akatapuññassa vā tadabhāvato. avikkhepena saddhammassavanaṃ sappurisūpanissayañca sādheti. Na hi vikkhittacitto[27] sotuṃ sakkoti, na ca sappurise anupassayamānassa savanaṃ atthīti.
Theo một cách giải thích khác:
- Qua từ ‘evaṃ’ (như vầy), ngài (Ānanda) cho thấy có sự tác ý như lý (yoniso manasikāra). Bởi vì người tác ý không như lý (ayoniso manasikāra) thì không thể thấu triệt (Pháp) theo nhiều phương diện khác nhau.
- Qua từ ‘sutaṃ’ (đã nghe), ngài cho thấy có sự không tán loạn (avikkhepa). Bởi vì người có tâm tán loạn (vikkhittacitta) thì không thể nghe được. Thật vậy, một người tâm bị tán loạn, dù được trình bày đầy đủ trọn vẹn, vẫn sẽ nói rằng: “Tôi đã không nghe, xin hãy nói lại.”
Hơn nữa, ở đây:
- Nhờ có tác ý như lý, ngài chứng tỏ mình đã thành tựu hai điều: sự tự hướng tâm đúng đắn (attasammāpaṇidhi) và việc đã tạo công đức trong quá khứ (pubbe katapuññatā). Bởi vì người không tự hướng tâm đúng đắn hoặc chưa tạo công đức trong quá khứ thì không thể có được sự tác ý như lý.
- Nhờ có sự không tán loạn, ngài chứng tỏ mình đã thành tựu hai điều: việc được nghe Chánh pháp (saddhammassavana) và việc thân cận bậc chân nhân (sappurisūpanissaya). Bởi vì người có tâm tán loạn thì không thể nghe, và người không thân cận bậc chân nhân thì cũng không có cơ hội để nghe (Pháp).
Aparo nayo, yasmā evanti yassa cittasantānassa nānākārappavattiyā nānatthabyañjanaggahaṇaṃ hoti, tassa nānākāraniddesoti vuttaṃ, so ca evaṃ bhaddako ākāro na sammāappaṇihitattano pubbe akatapuññassa vā hoti, tasmā evanti iminā bhaddakenākārena pacchimacakkadvayasampattimattano dīpeti. Sutanti savanayogena purimacakkadvayasampattiṃ. Na hi appatirūpadese vasato sappurisūpanissayavirahitassa vā savanaṃ atthi. Iccassa pacchimacakkadvayasiddhiyā āsayasuddhisiddhā hoti, purimacakkadvayasiddhiyā payogasuddhi, tāya ca āsayasuddhiyā adhigamabyattisiddhi, payogasuddhiyā āgamabyattisiddhi. Iti payogāsayasuddhassa āgamādhigamasampannassa vacanaṃ aruṇuggaṃ viya sūriyassa udayato yoniso manasikāro viya ca kusalakammassa arahati bhagavato vacanassa pubbaṅgamaṃ bhavitunti ṭhāne[28] nidānaṃ ṭhapento — “evaṃ me sutan”tiādimāha.
Theo một cách giải thích khác:
Bởi vì đã nói rằng ‘evaṃ’ (như vầy) là sự chỉ thị về các phương thức đa dạng của dòng tâm thức, nhờ đó có sự nắm bắt nghĩa và văn khác nhau; và bởi vì phương thức tốt đẹp (bhaddako ākāro) như vậy không thể có ở người không tự hướng tâm đúng đắn hoặc chưa tạo công đức trong quá khứ, cho nên:
- Qua từ ‘evaṃ’ với phương thức tốt đẹp này, ngài (Ānanda) cho thấy mình đã thành tựu hai bánh xe sau (pacchimacakkadvayasampatti).
- Qua từ ‘sutaṃ’ (đã nghe), nhờ vào sự kiện được nghe, ngài cho thấy mình đã thành tựu hai bánh xe trước (purimacakkadvayasampatti). Bởi vì người sống ở trú xứ không thích hợp hoặc không thân cận bậc chân nhân thì không thể có được việc nghe (Pháp).
Như vậy:
- Nhờ thành tựu hai bánh xe sau, ngài đạt được Sự Thanh Tịnh về Ý Hướng (āsayasuddhi).
- Nhờ thành tựu hai bánh xe trước, ngài đạt được Sự Thanh Tịnh về Nỗ Lực (payogasuddhi).
- Từ Sự Thanh Tịnh về Ý Hướng đó, ngài thành tựu sự thiện xảo trong Chứng Ngộ (adhigamabyatti).
- Từ Sự Thanh Tịnh về Nỗ Lực, ngài thành tựu sự thiện xảo trong Pháp Học (āgamabyatti).
Do đó, lời nói của một bậc đã có ý hướng và nỗ lực thanh tịnh, đã trọn vẹn cả Pháp học lẫn sự chứng ngộ, xứng đáng là phần đi trước (pubbaṅgama) cho lời dạy của Đức Thế Tôn, cũng như rạng đông (aruṇugga) là điềm báo trước cho mặt trời mọc, hay như tác ý như lý (yoniso manasikāra) là nhân khởi đầu cho thiện nghiệp. Vì lẽ đó, khi đặt phần duyên khởi (nidāna) vào đúng chỗ, ngài đã nói: “Evaṃ me sutaṃ…” (Tôi đã nghe như vầy…).
Aparo nayo, ‘evan’ti iminā nānappakārapaṭivedhadīpakena vacanena attano atthapaṭibhānapaṭisambhidāsampattisabbhāvaṃ dīpeti. ‘Sutan’ti iminā sotabbappabhedapaṭivedhadīpakena dhammaniruttipaṭisambhidāsampattisabbhāvaṃ. ‘Evan’ti ca idaṃ yoniso manasikāradīpakaṃ vacanaṃ bhāsamāno — “ete mayā dhammā manasānupekkhitā, diṭṭhiyā suppaṭividdhā”ti dīpeti. ‘Sutan’ti idaṃ savanayogadīpakaṃ vacanaṃ bhāsamāno — “bahū mayā dhammā sutā dhātā[30] vacasā paricitā”ti dīpeti. Tadubhayenāpi atthabyañjanapāripūriṃ dīpento savane ādaraṃ janeti. atthabyañjanaparipuṇṇañhi dhammaṃ ādarena assuṇanto mahatā hitā paribāhiro hotīti, tasmā ādaraṃ janetvā sakkaccaṃ ayaṃ dhammo sotabboti.
Cách khác nữa: với lời “evaṃ – như vầy”, là lời nêu lên sự thấu đạt theo nhiều phương diện, ngài Ānanda cho thấy ở nơi mình có sự thành tựu Phân tích nghĩa (atthapaṭibhāna‑paṭisambhidā). Với lời “sutaṃ – đã nghe”, là lời nêu lên sự thấu đạt các loại điều đáng được nghe, ngài cho thấy ở nơi mình có sự thành tựu Phân tích ngôn từ/biểu đạt (dhamma‑nirutti‑paṭisambhidā).
Và khi nói lời diễn đạt tác ý như lý “evaṃ – như vầy”, ngài hàm ý: “Những pháp này do tôi quán sát bằng tâm, và đã được xuyên thấu khéo léo bằng chánh kiến.” Khi nói lời diễn đạt sự liên hệ với việc nghe “sutaṃ – đã nghe”, ngài hàm ý: “Rất nhiều pháp do tôi đã nghe, đã gìn giữ, đã thuần thục bằng khẩu tụng.”
Bằng cả hai điều ấy, ngài làm hiển lộ sự viên mãn nghĩa và văn (attha‑byañjana‑pāripūri), nhờ vậy khơi dậy lòng trọng pháp nơi người nghe. Bởi lẽ, ai không lắng nghe Pháp với lòng trọng pháp, khi Pháp đã đầy đủ cả nghĩa lẫn văn, thì sẽ còn đứng ngoài lợi ích lớn lao. Do đó, hãy khởi lên lòng trọng pháp và cung kính mà lắng nghe Pháp này một cách nghiêm túc.
“Evaṃ me sutan”ti iminā pana sakalena vacanena āyasmā Ānando Tathāgatappaveditaṃ dhammaṃ attano adahanto asappurisabhūmiṃ atikkamati. sāvakattaṃ paṭijānanto sappurisabhūmiṃ okkamati. Tathā asaddhammā cittaṃ vuṭṭhāpeti, saddhamme cittaṃ patiṭṭhāpeti. “kevalaṃ sutamevetaṃ mayā, tasseva bhagavato vacanan”ti dīpento attānaṃ parimoceti, satthāraṃ apadisati, jinavacanaṃ appeti, dhammanettiṃ patiṭṭhāpeti.
Hơn nữa, với toàn bộ câu “Tôi đã nghe như vầy”, ngài Ānanda, không tự gán pháp do Như Lai tuyên thuyết là của mình, vượt khỏi địa vị phàm phu (kẻ không phải chân nhân), và khi tuyên xưng địa vị đệ tử, ngài bước vào địa vị bậc chân nhân. Cũng vậy, ngài đưa tâm ra khỏi phi pháp, an trú tâm nơi Chánh pháp. Khi nêu rõ: “Chỉ là điều tôi đã nghe, chính là lời của Thế Tôn ấy”, ngài tự giải trừ trách nhiệm (khỏi sự sáng tác riêng), chỉ bày bậc Đạo Sư, quy hướng lời dạy của bậc Thắng giả, và thiết lập vững chắc lối dẫn vào Chánh Pháp.
Apica “evaṃ me sutan”ti attanā uppāditabhāvaṃ appaṭijānanto purimavacanaṃ[31] vivaranto — “sammukhā paṭiggahitamidaṃ mayā tassa bhagavato catuvesārajjavisāradassa dasabaladharassa āsabhaṭṭhānaṭṭhāyino sīhanādanādino sabbasattuttamassa dhammissarassa dhammarājassa dhammādhipatino dhammadīpassa dhammasaraṇassa saddhammavaracakkavattino sammāsambuddhassa vacanaṃ, na ettha atthe vā dhamme vā pade vā byañjane vā kaṅkhā vā vimati vā kātabbā”ti sabbesaṃ devamanussānaṃ imasmiṃ dhamme assaddhiyaṃ vināseti, saddhāsampadaṃ uppādeti. Tenetaṃ vuccati —
“Vināsayati assaddhaṃ, saddhaṃ vaḍḍheti sāsane.
Evaṃ me sutamiccevaṃ, vadaṃ gotamasāvako”ti.
Và nữa, với lời “Tôi đã nghe như vầy”, ngài, không nhận rằng do mình khởi tạo, mà khai mở lời nói trước đây: “Điều này tôi đã trực tiếp thọ nhận từ Thế Tôn ấy, bậc tự tín với bốn vô úy, bậc có Mười Lực, đứng nơi địa vị Ngưu vương, cất tiếng rống sư tử, bậc tối thượng giữa tất cả hữu tình, là Chủ pháp, Vua pháp, Đấng thượng thủ trong Pháp, là ngọn đèn Pháp, là nơi nương tựa Pháp, là vị Chuyển vận bánh xe Diệu pháp tối thắng, là bậc Chánh Đẳng Giác; trong lời dạy này, không nên khởi nghi hoặc hay do dự đối với nghĩa, đối với pháp, đối với từ, đối với văn.” Như vậy, ngài phá tan sự bất tín vào Pháp này nơi chư thiên và loài người, khiến cho tín thành tựu sinh khởi.
Do đó mà nói:
“Diệt trừ điều bất tín,
tăng trưởng tín trong giáo.
Đệ tử của Cù-đàm
nói: ‘Tôi nghe như vầy.’”
Giải Thích ‘Ekaṃ samayaṃ – Một thuở nọ’
Ekanti gaṇanaparicchedaniddeso. Samayanti paricchinnaniddeso. Ekaṃ samayanti aniyamitaparidīpanaṃ. Tattha samayasaddo —
“Samavāye khaṇe kāle, samūhe hetudiṭṭhisu.
Paṭilābhe pahāne ca, paṭivedhe ca dissati”.
Tathā hissa — “appevanāma svepi upasaṅkameyyāma kālañca samayañca upādāyā”ti evamādīsu[32] samavāyo attho. “Ekova kho bhikkhave, khaṇo ca samayo ca brahmacariyavāsāyā”tiādīsu[33] khaṇo. “Uṇhasamayo pariḷāhasamayo”tiādīsu[34] kālo. “mahāsamayo pavanasmin”tiādīsu[35] samūho. “Samayopi kho te, Bhaddāli, appaṭividdho ahosi, bhagavā kho sāvatthiyaṃ viharati, bhagavāpi maṃ jānissati, Bhaddāli nāma bhikkhu satthusāsane sikkhāya aparipūrakārī’ti. ayampi kho, te Bhaddāli, samayo appaṭividdho ahosī”tiādīsu[36] hetu. “Tena kho pana samayena Uggahamāno paribbājako Samaṇamuṇḍikāputto[37] samayappavādake tindukācīre ekasālake mallikāya ārāme paṭivasatī”tiādīsu[38] diṭṭhi.
Ekaṃ: chỉ định về con số một, theo lối giới hạn để đếm. Samayaṃ: chỉ định theo lối giới hạn (điểm, khoảng xác định). Ekaṃ samayaṃ: nêu thời điểm không xác định cụ thể (một thời).
Ở đây, từ samaya có thể được dùng theo các nghĩa sau:
“Xuất hiện với ý nghĩa: Đầy đủ, thời khắc, thời gian, sự hội họp, nguyên nhân, quan điểm; sự đạt được, việc đoạn trừ và sự thấu triệt”.
Thật như thế từ ‘Samayaṃ’ có ý nghĩa đầy đủ trong câu: “Có lẽ vào ngày mai dựa vào thời gian (thích hợp) và đầy đủ (điều kiện) chúng tôi có thể đi đến”. Có nghĩa thời khắc: “Này chư Tỳ khưu chỉ có một cơ hội, thời khắc (thuận tiện) này để sống đời sống Phạm hạnh”. Có nghĩa thời gian: “lúc trời nóng nực, lúc trời oi bức”. Có nghĩa sự hội họp: “Đông đảo (chư Tỳ khưu) trong khu rừng lớn”. Có nghĩa nguyên nhân: “Này Bhaddali, nguyên nhân ông không thấu triệt, đức Thế Tôn đang cư trú trong Thành Sāvatthī, đức Thế Tôn sẽ biết ta rằng tỳ khưu tên Bhaddāli không thực hành trọn vẹn học giới trong giáo pháp bậc Đạo Sư, này Bhaddāli nguyên nhân này (là nguyên nhân) mà ông không thấu triệt Pháp”. Có nghĩa quan điểm, cái thấy: “Lúc bấy giờ, du sĩ Uggāhamāna là con trai của Samaṇamuṇḍikā, cư trú ở vườn hoa lài có một hội trường (được xây dựng) để thảo luận học thuyết, có hàng cây tinduka bao quanh”.
“Diṭṭhe dhamme ca yo attho, yo cattho samparāyiko.
Atthābhisamayā dhīro, paṇḍitoti pavuccatī”ti.[39] —
Ādīsu paṭilābho. “Sammā mānābhisamayā antamakāsi dukkhassā”tiādīsu[40] pahānaṃ. “dukkhassa pīḷanaṭṭho saṅkhataṭṭho santāpaṭṭho vipariṇāmaṭṭho abhisamayaṭṭho”tiādīsu[41] paṭivedho. idha panassa kālo attho. Tena saṃvacchara utu māsaḍḍhamāsa ratti diva pubbaṇha majjhanhika sāyanha paṭhamamajjhimapacchimayāma muhuttādīsu kālappabhedabhūtesu samayesu ekaṃ samayanti dīpeti.
Có ý nghĩa đạt được: “Bậc hiền nhân được gọi là bậc sáng trí do đạt được lợi ích ở đời hiện tại và lợi ích ở đời vị lai”.
Có nghĩa đoạn trừ: “Đã thực hiện việc chấm dứt khổ nhờ sự dứt trừ ngã mạn một cách đúng đắn”. Có nghĩa thấu triệt: “Có ý nghĩa áp bức, có ý nghĩa tạo tác, có ý nghĩa nóng nảy thay đổi, có ý nghĩa chuyển biến của khổ là ý nghĩa về sự lãnh hội”. Nhưng ở đây từ ‘Samayaṃ’ ấy có ý nghĩa là ‘thời gian’. Do vậy, trong các dạng thời (kālappabheda) như: năm, mùa, tháng, nửa tháng, đêm, ngày, buổi sớm, buổi trưa, buổi chiều, canh đầu, canh giữa, canh cuối, chốc lát…, cụm “ekaṃ samayaṃ” nêu “một thời” trong các thời ấy.
Tattha kiñcāpi etesu saṃvaccharādīsu samayesu yaṃ yaṃ suttaṃ yasmiṃ yasmiṃ saṃvacchare utumhi māse pakkhe rattibhāge vā divasabhāge vā vuttaṃ, sabbaṃ taṃ therassa suviditaṃ suvavatthāpitaṃ paññāya. yasmā pana — “evaṃ me sutaṃ” asukasaṃvacchare asukautumhi asukamāse asukapakkhe asukarattibhāge asukadivasabhāge vāti evaṃ vutte na sakkā sukhena dhāretuṃ vā uddisituṃ vā uddisāpetuṃ vā, bahu ca vattabbaṃ hoti, tasmā ekeneva padena tamatthaṃ samodhānetvā “ekaṃ samayan”ti āha.
Mặc dù, đối với những thời điểm như năm, mùa, tháng, nửa tháng, phần đêm hay phần ngày, bất kỳ kinh nào được thuyết vào lúc nào, tất cả điều đó đều được Trưởng lão (Ānanda) biết rõ và xác định rõ bằng trí tuệ.
Tuy nhiên, vì nếu nói rằng: “Tôi đã nghe như vầy vào năm ấy, mùa ấy, tháng ấy, nửa tháng ấy, phần đêm hay phần ngày ấy,” thì sẽ không dễ để ghi nhớ, tụng đọc, hay cho người khác tụng đọc; hơn nữa, lời nói cũng sẽ trở nên quá dài dòng. Vì vậy, ngài đã gom tóm ý nghĩa đó lại bằng một cụm từ duy nhất mà nói: “ekaṃ samayan” (một thời).
Ye vā ime gabbhokkantisamayo[42], jātisamayo, saṃvegasamayo, abhinikkhamanasamayo, dukkarakārikasamayo, māravijayasamayo, abhisambodhisamayo diṭṭhadhammasukhavihārasamayo, desanāsamayo, parinibbānasamayoti, evamādayo bhagavato devamanussesu ativiya pakāsā[43] anekakālappabhedā eva samayā. Tesu samayesu desanāsamayasaṅkhātaṃ ekaṃ samayanti dīpeti. Yo cāyaṃ ñāṇakaruṇākiccasamayesu karuṇākiccasamayo, attahitaparahitapaṭipattisamayesu parahitapaṭipattisamayo, sannipatitānaṃ karaṇīyadvayasamayesu dhammikathāsamayo desanāpaṭipattisamayesu desanāsamayo, tesupi samayesu aññataraṃ samayaṃ sandhāya “ekaṃ samaya”nti āha.
Lại nữa, các “thời” của bậc Thế Tôn, vốn rất hiện rõ giữa chư thiên và loài người, có nhiều loại theo các phân hệ thời khác nhau, như: thời thọ thai, thời đản sinh, thời khởi tâm chấn động (phát tâm xuất ly), thời xuất gia (xuất ly), thời khổ hạnh khó làm, thời hàng phục Ma, thời Vô thượng Chánh giác, thời an trú lạc hiện tại (diṭṭhadhammasukhavihāra), thời thuyết pháp, thời Niết-bàn (parinibbāna), v.v. Trong những “thời” ấy, ở đây nêu “một thời” là thời thuyết pháp (desanāsamaya).
Và nữa, trong các “thời” thuộc công hạnh Trí và Bi (ñāṇa‑karuṇā‑kicca), thì đây là thời của công hạnh Bi; trong các “thời” thực hành vì lợi mình và vì lợi người (attahita‑parahita‑paṭipatti), thì đây là thời của thực hành vì lợi người; trong các “thời” có hai việc cần làm khi đại chúng hội họp (karaṇīyadvaya của người đã tụ hội), thì đây là thời nói pháp đúng pháp (dhammikathā‑samaya); trong các “thời” thuyết và hành (desanā‑paṭipatti), thì đây là thời thuyết (desanā‑samaya). Ám chỉ một trong những “thời” ấy, Trưởng lão nói: “ekaṃ samayaṃ” — “một thời”.
Kasmā panettha yathā Abhidhamme “yasmiṃ samaye kāmāvacaran”ti[44] ca, ito aññesu ca suttapadesu — “Yasmiṃ samaye, bhikkhave, bhikkhu vivicceva kāmehī”ti[45] ca bhummavacananiddeso kato, Vinaye ca — “Tena samayena buddho bhagavā”ti[46] karaṇavacanena, tathā akatvā “ekaṃ samayan”ti upayogavacananiddeso katoti? Tattha tathā idha ca aññathā atthasambhavato. Tattha hi abhidhamme ito aññesu suttapadesu ca adhikaraṇattho bhāvena bhāvalakkhaṇattho ca sambhavati. Adhikaraṇañhi kālattho, samūhattho ca samayo, tattha tattha vuttānaṃ phassādidhammānaṃ khaṇasamavāyahetusaṅkhātassa ca samayassa bhāvena tesaṃ bhāvo lakkhīyati, tasmā tadatthajotanatthaṃ tattha bhummavacananiddeso kato.
Hơn nữa, trong bài kinh này tại sao ngài không sử dụng hình thức giống như trong Vi Diệu Pháp được ngài diễn giải theo cách thứ 7 [Sattamīvibhatti – Định Sở Cách] – ‘Yasmiṃ samaye kāmāvacaraṃ = Khi nào tâm Dục giới…’ và Kinh khác từ Vi Diệu Pháp này cũng giảng giải theo cách thứ 7 [Sattamīvibhatti – Định Sở Cách] như sau: ‘Yasmiṃ samaye, bhikkhave, bhikkhu vivicceva kāmehi = khi nào, này các Tỳ khưu, vị Tỳ khưu tách ly khỏi các dục’; Và trong Tạng Luật ngài sử dụng cách thứ 3 [Tatiyāvibhatti, Sử Dụng Cách] – ‘Tena samayena buddho bhagavā = Một thời đức Phật Thế Tôn’ mà lại sử dụng theo cách thứ 2 [Dutiyāvibhatti – Đối Cách] ‘Ekaṃ samayaṃ = một thuở nọ’? Bởi vì trong Vi Diệu Pháp và Luật có ý nghĩa như thế, còn trong Kinh lại có ý nghĩa khác. Thật vậy, trong Vi Diệu Pháp và trong Kinh khác từ Vi Diệu Pháp này thành tựu ý nghĩa adhikaraṇa (1 loại vị trí cách, dịch là trong) và có ý nghĩa bhāvena bhāvalakkhaṇa (tuyệt đối vị trí). Bởi vì adhikaraṇa là samaya có ý nghĩa là thời gian và samaya có nghĩa là sự gom họp lại, được thuyết trong Vi Diệu Pháp và Kinh khác ngài xác định theo tính chất samaya bao gồm ‘thời khắc, sự tổng hợp và nguyên nhân’ bản thể của các pháp có Xúc v.v, do đó, để làm sáng tỏ ý nghĩa đó ngài mới giải thích theo cách thứ 7 [Sattamīvibhatti – Định Sở Cách].
Vinaye ca hetuattho karaṇattho ca sambhavati. Yo hi so sikkhāpadapaññattisamayo sāriputtādīhipi dubbiññeyyo, tena samayena hetubhūtena karaṇabhūtena ca sikkhāpadāni paññāpayanto sikkhāpadapaññattihetuñca apekkhamāno bhagavā tattha tattha vihāsi, tasmā tadatthajotanatthaṃ tattha karaṇavacanena niddeso kato.
Còn ở trong Luật hoàn thành có ý nghĩa ‘nguyên nhân’ và có ý nghĩa ‘do, bởi’. Thật vậy, đây là thời gian chế định những học giới, ngay cả trưởng lão Sāriputta v.v, cũng khó có thể hiểu được, đức Thế Tôn khi chế định tất cả các học giới vào thời điểm đó theo nguyên nhân [hetubhūta] và nguyên do [karaṇabhūta] đó, và suy xét đến nguyên nhân của việc chế định các học giới thì ngài đã an trú tại nơi đó, do đó, để làm sáng tỏ ý nghĩa như đã trình bày đó ngài đã thực hiện giải thích theo cách thứ 3 [Tatiyāvibhatti, Sử Dụng Cách] ở Luật đó.
Idha pana aññasmiñca evaṃ jātike accantasaṃyogattho sambhavati. Yañhi samayaṃ Bhagavā imaṃ aññaṃ vā suttantaṃ desesi, accantameva taṃ samayaṃ karuṇāvihārena vihāsi, tasmā tadatthajotanatthaṃ idha upayogavacananiddeso katoti.
Tenetaṃ vuccati —
“Taṃ taṃ atthamapekkhitvā[47], bhummena karaṇena ca.
Aññatra samayo vutto, upayogena so idhā”ti.
Còn trong Kinh này và bài Kinh khác có nhân khởi sanh như vậy hoàn thành với ý nghĩa là chấm dứt và xuyên suốt. Thật vậy, đức Thế Tôn thuyết giảng bài Kinh này hay bài Kinh khác vào thời điểm nào, ngài đã an trú với sự an trú của tâm bi trong suốt thời gian ấy, vì thế để làm sáng tỏ ý nghĩa ấy như đã trình bày ngài thực hiện giải thích theo cách thứ 2 [Dutiyāvibhatti – Đối Cách] trong Kinh này.
Cho nên ngài đã nói lên kệ ngôn liên quan như sau –
“Sau khi suy xét về ý nghĩa đó ngài đã nói từ ‘samaya’ trong Tạng khác (trong Tạng Vi Diệu Pháp) sử dụng theo cách thứ 7 [Sattamīvibhatti – Định Sở Cách] và (trong Tạng Luật) sử dụng theo cách thứ 3 [Tatiyāvibhatti – Sử Dụng Cách], còn ở đây (trong Tạng Kinh) từ samaya được nói theo cách thứ 2 [Dutiyāvibhatti – Đối Cách].
Porāṇā pana vaṇṇayanti — “tasmiṃ samaye”ti vā, “tena samayenā”ti vā, “ekaṃ samayan”ti[48] vā, abhilāpamattabhedo esa, sabbattha bhummamevatthoti. Tasmā “ekaṃ samayan”ti vuttepi “ekasmiṃ samaye”ti attho veditabbo.
Nhưng một số tài liệu cổ giải thích rằng từ samaya chỉ khác biệt về ngôn từ sử dụng – “tasmiṃ samaye”, hoặc “tena samayenā”, hoặc “ekaṃ samayaṃ” mà thôi, cả 3 Tạng đều có ý nghĩa được sử dụng theo cách thứ 7 [(Sattamīvibhatti – Định Sở Cách), cho phép dịch là vào thời gian đó]. Vì thế, mặc dù ngài nói rằng ‘ekaṃ samayaṃ’ cũng nên hiểu rằng ‘ekasmiṃ samaye – một thuở nọ’.
Giải Thích ‘Bhagavā – Đức Thế Tôn’
Bhagavāti garu. Garuñhi loke “bhagavā”ti vadanti. Ayañca sabbaguṇavisiṭṭhatāya sabbasattānaṃ garu, tasmā “bhagavā”ti veditabbo. Porāṇehipi vuttaṃ —
“Bhagavāti vacanaṃ seṭṭhaṃ, bhagavāti vacanamuttamaṃ.
Garu gāravayutto so, bhagavā tena vuccatī”ti.
Apica —
“Bhāgyavā bhaggavā yutto, bhagehi ca vibhattavā.
Bhattavā vantagamano, bhavesu bhagavā tato”ti. —
Imissā gāthāya vasenassa padassa vitthārato attho[49] veditabbo. so ca visuddhimagge buddhānussatiniddese vuttoyeva.
Thế Tôn là thầy. Bởi vì các bậc trí gọi ‘thầy’ là ‘Thế Tôn’ ở trong đời này. Và đức Thế Tôn này cũng là thầy của tất cả chúng sanh, do là vị tối thượng nhất với tất cả mọi ân đức, do đó được gọi là ‘Thế Tôn’. Thậm chí cả các bậc tiền bối cũng nói rằng –
Thế Tôn là lời nói cao cả, Thế Tôn là lời nói cao thượng, vị ấy xứng đáng với sự cung kính ở địa vị là ‘thầy’; Do vậy, ngài được gọi là Thế Tôn”.
Và lại nữa –
“Thế Tôn là may mắn, bẻ gãy phiền não, có liên hệ với sự may mắn, và là người sở hữu những gì đã được phân tích, làm bạn với pháp, và đã nôn ra phiền não là pháp ô nhiễm vận hành trong các Hữu-Bhava”.
Từ ‘Thế Tôn’ này có ý nghĩa nên hiểu một cách chi tiết với mãnh lực của kệ ngôn này và ý nghĩa ấy tôi đã nói ở phần diễn giải tùy niệm Phật trong bộ Thanh Tịnh Đạo.
Giải Thích ‘Ekaṃ Samayaṃ Bhagavā – Một thời đức Thế Tôn’
Ettāvatā cettha evaṃ me sutanti vacanena yathāsutaṃ dhammaṃ dassento bhagavato dhammakāyaṃ paccakkhaṃ karoti. Tena “nayidaṃ atikkantasatthukaṃ pāvacanaṃ, ayaṃ vo satthā”ti satthu adassanena ukkaṇṭhitaṃ janaṃ samassāseti.
Và ở đây chỉ bấy nhiêu bằng lời nói sau ‘tôi đã nghe như vầy’ đại đức Ānanda trong khi thuyết Pháp như đã được nghe, làm cho Pháp thân [Dhammakāya] của đức Thế Tôn được hiển lộ. Với những lời ấy ngài đã làm cho đại chúng, những người bất mãn do không nhìn thấy bậc Đạo Sư được nhẹ nhõm rằng: “Lời dạy của đức Phật là Pháp và Luật này (không phải) có bậc Ðạo Sư đã viên tịch mà chính Pháp thân này là bậc Đạo Sư của các ông”.
Ekaṃ samayaṃ bhagavāti vacanena tasmiṃ samaye bhagavato avijjamānabhāvaṃ dassento rūpakāyaparinibbānaṃ sādheti. Tena “evaṃvidhassa nāma ariyadhammassa desako[50] dasabaladharo vajirasaṅghāta samānakāyo sopi bhagavā parinibbuto, kena aññena jīvite āsā janetabbā”ti jīvitamadamattaṃ janaṃ saṃvejeti, saddhamme cassa ussāhaṃ janeti.
Với lời nói “một thời đức Thế Tôn” ngài Ānanda khi bày tỏ rằng đức Thế Tôn không có mặt vào thời điểm ấy, coi như là tuyên bố việc viên tịch Nibbāna của Sắc Thân. Vì lý do ấy ngài Ānanda làm cho đại chúng, những người đam mê vào sự sống khởi lên sự động tâm và làm cho sanh khởi sự nỗ lực trong Chánh Pháp đối với đại chúng ấy (rằng) – “Ngay cả đức Thế Tôn, vị ấy có sắc thân tựa như khối kim cương, nắm giữ mười Như Lai lực, tuyên thuyết pháp các bậc Thánh có tên như vậy, (nhưng) ngài vẫn phải viên tịch Nibbāna, người khác ai có thể tạo ra sự hy vọng trong sự sống khiến nó sanh khởi được”.
Evanti ca bhaṇanto desanāsampattiṃ niddisati. Me sutanti sāvakasampattiṃ. ekaṃ samayanti kālasampattiṃ. Bhagavāti desakasampattiṃ.
Và trưởng lão khi nói rằng ‘như vầy’ xem như diễn giải đến sự thành tựu thuyết giảng. ‘Tôi đã nghe’ – sự thành tựu của vị Thánh đệ tử. ‘Một thuở nọ’ – sự thành tựu về thời gian. ‘Thế Tôn’ – sự thành tựu của người thuyết pháp.
Giải Thích ‘Ekaṃ samayaṃ Bhagavā’
Ettāvatā cettha evaṃ me sutanti vacanena yathāsutaṃ dhammaṃ dassento bhagavato dhammakāyaṃ paccakkhaṃ karoti. Tena “nayidaṃ atikkantasatthukaṃ pāvacanaṃ, ayaṃ vo satthā”ti satthu adassanena ukkaṇṭhitaṃ janaṃ samassāseti.
Và ở đây chỉ bấy nhiêu bằng lời nói sau ‘tôi đã nghe như vầy’ đại đức Ānanda trong khi thuyết Pháp như đã được nghe, làm cho Pháp thân [Dhammakāya] của đức Thế Tôn được hiển lộ. Với những lời ấy ngài đã làm cho đại chúng, những người bất mãn do không nhìn thấy bậc Đạo Sư được nhẹ nhõm rằng: “Lời dạy của đức Phật là Pháp và Luật này (không phải) có bậc Ðạo Sư đã viên tịch mà chính Pháp thân này là bậc Đạo Sư của các ông”.
Ekaṃ samayaṃ bhagavāti vacanena tasmiṃ samaye bhagavato avijjamānabhāvaṃ dassento rūpakāyaparinibbānaṃ sādheti. Tena “evaṃvidhassa nāma ariyadhammassa desako dasabaladharo vajirasaṅghāta samānakāyo sopi bhagavā parinibbuto, kena aññena jīvite āsā janetabbā”ti jīvitamadamattaṃ janaṃ saṃvejeti, saddhamme cassa ussāhaṃ janeti.
Với lời nói “một thời đức Thế Tôn” ngài Ānanda khi bày tỏ rằng đức Thế Tôn không có mặt vào thời điểm ấy, coi như là tuyên bố việc viên tịch Nibbāna của Sắc Thân. Vì lý do ấy ngài Ānanda làm cho đại chúng, những người đam mê vào sự sống khởi lên sự động tâm và làm cho sanh khởi sự nỗ lực trong Chánh Pháp đối với đại chúng ấy (rằng) – “Ngay cả đức Thế Tôn, vị ấy có sắc thân tựa như khối kim cương, nắm giữ mười Như Lai lực, tuyên thuyết pháp các bậc Thánh có tên như vậy, (nhưng) ngài vẫn phải viên tịch Nibbāna, người khác ai có thể tạo ra sự hy vọng trong sự sống khiến nó sanh khởi được”.
Evanti ca bhaṇanto desanāsampattiṃ niddisati. Me sutanti sāvakasampattiṃ. ekaṃ samayanti kālasampattiṃ. Bhagavāti desakasampattiṃ.
Và trưởng lão khi nói rằng ‘như vầy’ xem như diễn giải đến sự thành tựu thuyết giảng. ‘Tôi đã nghe’ – sự thành tựu của vị Thánh đệ tử. ‘Một thuở nọ’ – sự thành tựu về thời gian. ‘Thế Tôn’ – sự thành tựu của người thuyết pháp.
Giải Thích ‘Antarā Ca Rājagahaṃ Antarā Ca Nāḷandaṃ – Giữa Rājagaha và Nalandā’
Antarā ca rājagahaṃ antarā ca nāḷandanti antarā-saddo kāraṇakhaṇacittavemajjhavivarādīsu dissati. “Tadantaraṃ ko jāneyya aññatra Tathāgatā”ti[51] ca, “janā saṅgamma mantenti mañca tañca kimantaran”ti[52] ca ādīsu hi kāraṇe antarā-saddo. “Addasa maṃ, bhante, aññatarā itthī vijjantarikāya bhājanaṃ dhovantī”tiādīsu[53] khaṇe. “yassantarato na santi kopā”tiādīsu[54] citte. “antarā vosānamāpādī”tiādīsu[55] vemajjhe. “Api cāyaṃ, bhikkhave, tapodā dvinnaṃ mahānirayānaṃ antarikāya āgacchatī”tiādīsu[56] vivare. Svāyamidha vivare vattati, tasmā rājagahassa ca nāḷandāya ca vivareti evametthattho veditabbo[57]. Antarā-saddena pana yuttattā upayogavacanaṃ kataṃ. Īdisesu ca ṭhānesu akkharacintakā “antarā gāmañca nadiñca yātī”ti evaṃ ekameva antarāsaddaṃ payujjanti, so dutiyapadenapi yojetabbo hoti, ayojiyamāne upayogavacanaṃ na pāpuṇāti. Idha pana yojetvāyeva[58] vuttoti.
Từ ‘Antarā’ trong cụm từ ‘Antarā ca rājagahaṃ antarā ca nāḷandaṃ’ được diễn ra với ý nghĩa – nguyên nhân, tâm, ở giữa và khoảng cách v.v. Thật vậy, từ ‘Antarā’ diễn ra với ý nghĩa nguyên nhân: “Ai có thể biết được nguyên đó ngoài đấng Như Lai?” và “Dân chúng đến tụ hội để thảo luận chuyện gì đang xảy ra giữa tôi với ngài”. Diễn ra với ý nghĩa khoảnh khắc: “Một người đàn bà đang rửa chén bát trong khoảnh khắc chớp nhoáng đã nhìn thấy tôi”. Diễn ra với ý nghĩa tâm: “Sự sân hận không hiện diện ở trong tâm của hạng người nào…” Diễn ra với ý nghĩa ở giữa: “sự dừng lại ở khoảng giữa”. Diễn ra với ý nghĩa khoảng cách: “Này các Tỳ khưu, tuy nhiên dòng suối Tapodā chảy qua giữa hai đại địa ngục”. Từ ‘Antarā’ này đây ở trong trường hợp này diễn ra với ý nghĩa ‘khoảng cách’, vì thế ở đây nên hiểu ý nghĩa như vầy: “khoảng cách giữa thành Rājagaha và Nalandā”. Nhưng do ngài kết hợp với từ ‘Antarā’ nên ngài mới sử dụng theo cách thứ 2 [Đối Cách – Dutiyāvibhatti]. Cũng trong trường hợp thế này các nhà văn phạm chỉ sử dụng duy nhất từ ‘Antarā’ như vầy: “đi giữa làng và dòng sông”. Từ ‘Antarā’ cũng nên sử dụng trong câu thứ 2, khi không sử dụng thì không phải cách thứ 2 [Đối Cách – Dutiyāvibhatti]. Nhưng trong trường hợp này ngài đã sử dụng rồi nói như thế.
Giải Thích ‘Addhānamaggappaṭipanno hoti – đang đi theo con đường dài’
Addhānamaggappaṭipanno hotīti addhānasaṅkhātaṃ maggaṃ paṭipanno hoti, “dīghamaggan”ti attho. Addhānagamanasamayassa hi vibhaṅge “aḍḍhayojanaṃ gacchissāmīti bhuñjitabban”tiādivacanato[59] aḍḍhayojanampi addhānamaggo hoti. Rājagahato pana Nāḷandā yojanameva.
Ngài đang đi theo con đường dài: đi một quãng đường xa, có nghĩa là ‘một chặng đường dài’. Thật vậy, ngay cả một nửa do-tuần cũng được xem là một quãng đường xa, căn cứ vào lời dạy trong sách Phân Tích (Vibhaṅga) về đi một chặng đường xa như sau: “Nên thọ dụng với suy nghĩ rằng – tôi sẽ đi một quãng đường nửa do-tuần”. Hơn nữa, từ thành Rājagaha đến Nāḷandā ước chừng khoảng 1 do-tuần.
Mahatā bhikkhusaṅghena saddhinti ‘mahatā’ti guṇamahattenapi mahatā, saṅkhyāmahattenapi mahatā. so hi bhikkhusaṅgho guṇehipi[60] mahā ahosi, appicchatādiguṇasamannāgatattā. Saṅkhyāyapi mahā, pañcasatasaṅkhyattā. Bhikkhūnaṃ saṅgho ‘bhikkhusaṅgho’, tena bhikkhusaṅghena. Diṭṭhisīlasāmaññasaṅghātasaṅkhātena samaṇagaṇenāti attho. Saddhinti ekato.
To lớn trong cụm từ ‘với hội chúng Tỳ khưu lớn’ – to lớn cả về đức hạnh lẫn cả số lượng. Thật vậy, hội chúng Tỳ khưu ấy to lớn về đức hạnh bởi vì kết hợp với ân đức pháp có trạng thái không ước muốn v.v, gọi là lớn về số lượng bởi vì có số lượng đến năm trăm vị. Tập thể của Tỳ khưu gọi là ‘hội chúng Tỳ khưu’, với hội chúng Tỳ khưu ấy. Có nghĩa là với tập thể Sa-môn được xem là một tập thể có sự đồng đẳng với nhau về tri kiến và giới hạnh. Với là tính chất đồng nhất.
Pañcamattehi bhikkhusatehīti pañcamattā etesanti pañcamattāni. mattāti pamāṇaṃ vuccati, tasmā yathā “bhojane mattaññū”ti vutte “bhojane mattaṃ jānāti, pamāṇaṃ jānātī”ti attho hoti, evamidhāpi — “tesaṃ bhikkhusatānaṃ pañcamattā pañcapamāṇan”ti[61] evamattho daṭṭhabbo. Bhikkhūnaṃ satāni bhikkhusatāni, tehi pañcamattehi bhikkhusatehi.
Hội chúng Tỳ khưu ước lượng khoảng năm trăm vị: pañcamattā nghĩa là “khoảng năm” (mattā = mức độ, độ chừng). Như trong câu “bhojane mattaññū” được hiểu là “biết mức độ trong việc thọ thực, biết độ chừng,” thì ở đây cũng vậy: “trong số các trăm vị Tỷ-kheo ấy, độ chừng là năm (trăm)” — tức “năm làm mức (pañca‑pamāṇa).” Cụm bhikkhusatāni là “các trăm vị Tỷ-kheo”; do đó, tehi pañcamattehi bhikkhusatehi nghĩa là “với khoảng năm trăm vị Tỷ-kheo (đi cùng).”
Suppiyopi kho paribbājakoti suppiyoti tassa nāmaṃ. Pi-kāro maggappaṭipannasabhāgatāya puggalasampiṇḍanattho. Kho-kāro padasandhikaro, byañjanasiliṭṭhatāvasena vutto. Paribbājakoti sañjayassa antevāsī channaparibbājako. Idaṃ vuttaṃ hoti — “yadā bhagavā taṃ addhānamaggaṃ paṭipanno, tadā Suppiyopi paribbājako paṭipanno[62] ahosī”ti. Atītakālattho hettha hoti-saddo.
“Cả du sĩ ngoại đạo Suppiya” (Suppiyopi kho paribbājako): Suppiya là tên vị du sĩ ngoại đạo ấy. Tiếp vĩ âm “pi” có nghĩa “gộp chung (vào hạng đã nêu) do đồng hạng với ‘đang đi đường’”; “kho” là từ nối nhịp câu, được dùng để làm cho câu văn trôi chảy. “Du sĩ ngoại đạo” (Paribbājako) ở đây là vị du sĩ ngoại đạo Channa, đệ tử (antevāsī) của Sañjaya. Ý nói là: “Khi bậc Thế Tôn đi con đường dài ấy, thì du sĩ ngoại đạo Suppiya cũng đang đi (đường ấy).” Ở đây động từ “hoti” mang nghĩa thì quá khứ.
Saddhiṃ antevāsinā brahmadattena māṇavenāti — ettha ante vasatīti antevāsī. samīpacāro santikāvacaro sissoti attho. Brahmadattoti tassa nāmaṃ. Māṇavoti sattopi coropi taruṇopi vuccati.
“Coditā devadūtehi, ye pamajjanti māṇavā.
Te dīgharattaṃ socanti, hīnakāyūpagā narā”ti.[63] — Ādīsu hi satto māṇavoti vutto.
“Māṇavehipi samāgacchanti katakammehipi akatakammehipī”tiādīsu[64] coro. “Ambaṭṭho māṇavo, Aṅgako[65] māṇavo”tiādīsu[66] taruṇo ‘māṇavo’ti vutto. Idhāpi ayamevattho. Idañhi vuttaṃ hoti — Brahmadattena nāma taruṇantevāsinā saddhinti.
Cùng với người đệ tử là thanh niên Brahmadatta – ở đây, “antevāsī” là “người ở gần thầy, học trò, đệ tử”; “Brahmadatta” là tên; “māṇava” được dùng theo ba nghĩa trong kinh điển: chỉ “chúng sinh”, chỉ “kẻ trộm”, và chỉ “người trẻ (thanh niên)”.
- Như trong câu: “Những chúng sanh nào dầu đã bị chư Thiên nhắc nhở vẫn sống xao lãng thì những người thanh niên ấy thường đi đến tập thể thấp kém, buồn rầu một thời gian lâu dài” (Coditā devadūtehi ye pamajjanti māṇavā, te dīgharattaṃ socanti, hīnakāyūpagā narā) — ở đây “māṇava” được dùng với nghĩa “chúng sinh”.
- Như trong câu: “Gặp mặt những tên cướp đã hành sự, hay chưa hành sự” (Māṇavehipi samāgacchanti katakammehipi akatakammehipi) — ở đây “māṇava” chỉ “kẻ trộm”.
- Như trong: “Thanh niên Ambaṭṭha, thanh niên Aṅgaka” (Ambaṭṭho māṇavo, Aṅgako māṇavo) — ở đây “māṇava” là “người trẻ/thiếu niên”.
Trong đoạn này cũng theo nghĩa ấy: “māṇava” là “người trẻ”. Vậy ý câu là: “cùng với người đệ tử trẻ tên Brahmadatta.”
Tatrāti tasmiṃ addhānamagge, tesu vā dvīsu janesu. Sudanti nipātamattaṃ. anekapariyāyenāti pariyāya-saddo tāva vāradesanākāraṇesu vattati. “Kassa nu kho, Ānanda, ajja pariyāyo bhikkhuniyo ovaditun”tiādīsu[67] hi vāre pariyāyasaddo vattati. “Madhupiṇḍikapariyāyotveva naṃ dhārehī”tiādīsu[68] desanāyaṃ. “Imināpi kho, te rājañña, pariyāyena evaṃ hotū”tiādīsu[69] kāraṇe. Svāyamidhāpi kāraṇe vattati, tasmā ayamettha attho — “anekavidhena kāraṇenā”ti, “bahūhi kāraṇehī”ti vuttaṃ hoti.
“Tatrā” nghĩa là “ở đó”: tức trên con đường dài ấy (tasmiṃ addhāna‑magge), hoặc là “trong (giữa) hai người ấy” (tesu dvīsu janesu).
“Sudaṃ” chỉ là phân từ.
“Anekapariyāyena”: từ “pariyāya” được dùng trong ba phạm vi:
- Theo phiên/phiên lượt (vāra), như: “Này Ānanda, hôm nay đến phiên ai giáo giới các Tỳ‑kheo‑ni?”
- Theo nghĩa “bài/đề mục/kiểu thuyết giảng” (desanā), như: “Hãy ghi nhớ: ấy là ‘Pháp môn Bánh Mật’ (Madhupiṇḍika‑pariyāya).”
- Theo nghĩa “lý do, phương diện nguyên nhân” (kāraṇa), như: “Này vị vương tộc, cũng do phương diện (lý do) này, sự việc là như vậy.”
Ở đây cũng theo nghĩa “kāraṇa” (lý do), nên “anekapariyāyena” có nghĩa: “do nhiều phương diện/lý do”, “bởi nhiều lẽ”, tức “bằng nhiều nguyên do”.
Buddhassa avaṇṇaṃ bhāsatīti avaṇṇavirahitassa aparimāṇavaṇṇasamannāgatassāpi Buddhassa Bhagavato — “yaṃ loke jātivuḍḍhesu kattabbaṃ abhivādanādisāmīcikammaṃ ‘sāmaggiraso’ti vuccati, taṃ samaṇassa Gotamassa natthi tasmā arasarūpo samaṇo Gotamo, nibbhogo, akiriyavādo, ucchedavādo, jegucchī, venayiko, tapassī, apagabbho. Natthi samaṇassa Gotamassa uttarimanussadhammo alamariyañāṇadassanaviseso. Takkapariyāhataṃ samaṇo gotamo dhammaṃ deseti, vīmaṃsānucaritaṃ, sayaṃpaṭibhānaṃ. Samaṇo gotamo na sabbaññū, na lokavidū, na anuttaro, na aggapuggalo”ti. Evaṃ taṃ taṃ akāraṇameva kāraṇanti vatvā tathā tathā avaṇṇaṃ dosaṃ nindaṃ bhāsati.
Du sĩ ngoại đạo Suppiya nói lời chê bai đức Phật: nói lời chê bai, nói lời xúc phạm, nói lời chỉ trích đối với đức Phật Thế Tôn, vị không có lỗi lầm không nên chê bai, thậm chí vị ấy đã thành tựu mọi đức hạnh không thể ước lượng xứng đáng được tán thán, đã nói lên những điều không có lý do như thế ấy, chính như thế (cho rằng) đó là lý do: “Sa-môn Gotama là người không biết về phẩm chất, do Sa-môn Gotama không thực hành sự đảnh lễ v.v, phận sự thích hợp nên thực hành đối với các bậc trưởng thượng theo sanh chủng ở đời được gọi là ‘sāmaggiraso – có sự hòa hợp về phẩm chất’, Sa-môn Gotama là người không biết thưởng thức, Sa-môn Gotama là người thuyết về không hành động, Sa-môn Gotama là người thuyết về đoạn diệt, Sa-môn Gotama có sự ghê tởm, Sa-môn Gotama là người cách ly, Sa-môn Gotama là người thiêu đốt, Sa-môn Gotama là người thoát khỏi bào thai. Sa-môn Gotama là người không có Pháp Thượng Nhân là trí tuệ và sự thấy biết thù thắng xứng đáng đối với bậc Thánh. Sa-môn Gotama thuyết pháp, pháp ấy do tự mình suy tư, do tự mình đã đeo đuổi với sự thẩm xét, do tự mình phát hiện. Sa-môn Gotama không phải bậc Toàn giác, không phải là Thế Gian Giải, không phải là bậc Vô Thượng, không phải là nhân vật cao cả.
Yathā ca buddhassa, evaṃ dhammassāpi taṃ taṃ akāraṇameva kāraṇato vatvā — “Samaṇassa Gotamassa dhammo durakkhāto, duppaṭivedito, aniyyāniko, anupasamasaṃvattaniko”ti tathā tathā avaṇṇaṃ bhāsati.
Và đã nói lên những điều không có lý do như thế ấy, chính như thế (cho rằng) đó là lý do rồi nói lời xúc phạm luôn cả Giáo Pháp tương tự như đã xúc phạm đến đức Phật như vầy: “Pháp của Sa-môn Gotama trình bày tuyên bố một cách vụng về, khó có thể nhận biết, không phải là pháp thoát khỏi khổ đau, không vận hành đưa đến sự an tịnh.
Yathā ca dhammassa, evaṃ saṅghassāpi yaṃ vā taṃ vā akāraṇameva kāraṇato vatvā — “Micchāpaṭipanno Samaṇassa Gotamassa sāvakasaṅgho, kuṭilapaṭipanno, paccanīkapaṭipadaṃ ananulomapaṭipadaṃ adhammānulomapaṭipadaṃ paṭipanno”ti tathā tathā avaṇṇaṃ bhāsati.
Và nói điều không thích hợp, bất kể lý do nào, chính điều đó (cho rằng) đó là lý do rồi xúc phạm đến cả hội chúng Tỳ khưu, tương tự như đã xúc phạm đến Giáo Pháp: “Hội chúng đệ tử của Sa-môn Gotama thực hành sai lạc, thực hành cong vẹo, thực hành dối trá, thực hành theo đạo lộ trái nghịch, thực hành theo đạo lộ không phải điều phù hợp đối với các pháp bằng nhiều hình thức.
Antevāsī panassa — “amhākaṃ ācariyo aparāmasitabbaṃ parāmasati, anakkamitabbaṃ akkamati, svāyaṃ aggiṃ gilanto viya, hatthena asidhāraṃ parāmasanto viya, muṭṭhinā sineruṃ padāletukāmo viya, kakacadantapantiyaṃ kīḷamāno viya, pabhinnamadaṃ caṇḍahatthiṃ hatthena gaṇhanto viya ca vaṇṇārahasseva ratanattayassa avaṇṇaṃ bhāsamāno anayabyasanaṃ pāpuṇissati. Ācariye kho pana gūthaṃ vā aggiṃ vā kaṇṭakaṃ vā kaṇhasappaṃ vā akkamante, sūlaṃ vā abhirūhante, halāhalaṃ vā visaṃ khādante, khārodakaṃ[70] vā pakkhalante, narakapapātaṃ vā papatante, na antevāsinā taṃ sabbamanukātabbaṃ hoti. Kammassakā hi sattā attano kammānurūpameva gatiṃ gacchanti. neva pitā puttassa kammena gacchati, na putto pitu kammena, na mātā puttassa, na putto mātuyā, na bhātā bhaginiyā, na bhaginī bhātu, na ācariyo antevāsino, na antevāsī ācariyassa kammena gacchati. Mayhañca ācariyo tiṇṇaṃ ratanānaṃ avaṇṇaṃ bhāsati, mahāsāvajjo kho panāriyūpavādoti. Evaṃ yoniso ummujjitvā ācariyavādaṃ maddamāno sammākāraṇameva kāraṇato apadisanto anekapariyāyena tiṇṇaṃ ratanānaṃ vaṇṇaṃ bhāsitumāraddho, yathā taṃ paṇḍitajātiko kulaputto”. Tena vuttaṃ — “Suppiyassa pana paribbājakassa antevāsī Brahmadatto māṇavo anekapariyāyena buddhassa vaṇṇaṃ bhāsati, dhammassa vaṇṇaṃ bhāsati, saṅghassa vaṇṇaṃ bhāsatī”ti.
Còn thanh niên Brahmadatta học trò của du sĩ ngoại đạo Suppiya ấy chợt khởi lên suy nghĩ với đường lối khéo léo như vầy rằng – “Thầy của chúng ta đụng chạm đến những thứ không nên đụng chạm, giẫm lên những thứ không nên giẫm lên, thầy của chúng ta này đây đã nói lời chê bai Tam Bảo [đối tượng] chỉ nên tán thán, sẽ đi đến sự bất hạnh và tổn hại giống như người nuốt ngọn lửa, giống như một người dùng bàn tay để vuốt ve cái sống gươm, giống như một người dùng nắm tay để phá hủy quả núi Suneru, tương tự như một người đùa giỡn bằng các răng cưa, và tương tự như người dùng tay bắt con voi hung dữ tới thời kỳ động dục. Trong khi thầy giẫm phải phân, hoặc lửa, hoặc gai, hoặc con rắn hổ mang, hay bước chồng lên cái giáo, ăn nhai thuốc độc cực mạnh, hoặc rớt xuống khe núi sâu thẳm, hoặc uống nước axit, điều đó không phải điều đệ tử nên làm theo để mất mát mọi thứ. Bởi vì tất cả chúng sanh đều có nghiệp riêng của mình, (và) họ chắc chắn (sẽ) đi đến cảnh giới tái sanh phù hợp với nghiệp đó, không phải cha đi với nghiệp của con, không phải con đi với nghiệp của cha, không phải mẹ đi với nghiệp của con, không phải con đi với nghiệp của mẹ, không phải anh trai đi với nghiệp của em gái, không phải em gái đi với nghiệp của anh trai, không phải thầy đi với nghiệp của học trò, không phải học trò đi theo nghiệp của thầy. Và thầy của chúng tôi nói lời chê bai đến Tam Bảo, và nói lời phỉ báng đến hội chúng Tỳ khưu quả thật tội lỗi ấy vô cùng nghiêm trọng. Trong khi phủ nhận lời nói của thầy, (vị ấy) đã dẫn chứng nhân quả phù hợp, rồi bắt đầu nói lời tán thán Tam Bảo bằng nhiều hình thức, (những điều đó) cũng bởi vì thanh niên trẻ Brahmadatta là một thiện nam tử thuộc dòng dõi trí thức. Vì thế, trưởng lão Ānanda đã nói rằng – “Còn thanh niên trẻ Brahmadatta là học trò của du sĩ ngoại đạo Suppiya nói lời tán thán đức Phật, nói lời tán thán Giáo Pháp, và nói lời tán thán hội chúng Tỳ khưu”.
Ý Nghĩa Từ Vaṇṇa
Tattha vaṇṇanti vaṇṇa-saddo saṇṭhāna jāti rūpāyatana kāraṇa pamāṇa guṇa pasaṃsādīsu dissati. Tattha “mahantaṃ sapparājavaṇṇaṃ abhinimminitvā”tiādīsu[71] saṇṭhānaṃ vuccati. “Brāhmaṇova seṭṭho vaṇṇo, hīno añño vaṇṇo”tiādīsu[72] jāti. “Paramāya vaṇṇapokkharatāya samannāgato”tiādīsu[73] rūpāyatanaṃ.
“Na harāmi na bhañjāmi, ārā siṅghāmi vārijaṃ.
Atha kena nu vaṇṇena, gandhatthenoti vuccatī”ti.[74] — ādīsu kāraṇaṃ.
“Tayo pattassa vaṇṇā”tiādīsu[75] pamāṇaṃ. “kadā saññūḷhā pana, te gahapati, ime samaṇassa gotamassa vaṇṇā”tiādīsu[76] guṇo. “vaṇṇārahassa vaṇṇaṃ bhāsatī”tiādīsu[77] pasaṃsā. Idha guṇopi pasaṃsāpi. Ayaṃ kira taṃ taṃ bhūtameva kāraṇaṃ apadisanto anekapariyāyena ratanattayassa guṇūpasañhitaṃ pasaṃsaṃ abhāsi. Tattha — “itipi so bhagavā arahaṃ sammāsambuddho”tiādinā[78] nayena, “ye bhikkhave, buddhe pasannā agge te pasannā”tiādinā[79] “ekapuggalo, bhikkhave, loke uppajjamāno uppajjati … pe … asamo asamasamo”tiādinā[80] ca nayena buddhassa vaṇṇo veditabbo. “Svākkhāto bhagavatā dhammo”ti[81] ca “ālayasamugghāto vaṭṭupacchedo”ti[82] ca, “ye bhikkhave, ariye aṭṭhaṅgike magge pasannā, agge te pasannā”ti ca evamādīhi nayehi dhammassa vaṇṇo veditabbo. “Suppaṭipanno bhagavato sāvakasaṅgho”ti[83] ca, “ye, bhikkhave, saṅghe pasannā, agge te pasannā”ti[84] ca evamādīhi pana nayehi saṅghassa vaṇṇo veditabbo. Pahontena pana dhammakathikena pañcanikāye navaṅgaṃ satthusāsanaṃ caturāsītidhammakkhandhasahassāni ogāhitvā buddhādīnaṃ vaṇṇo pakāsetabbo. Imasmiñhi ṭhāne buddhādīnaṃ guṇe pakāsento atitthena pakkhando dhammakathikoti na sakkā vattuṃ. Īdisesu hi ṭhānesu dhammakathikassa thāmo veditabbo. Brahmadatto pana māṇavo anussavādimattasambandhitena[85] attano thāmena ratanattayassa vaṇṇaṃ bhāsati.
Ở đấy, từ ‘vaṇṇa’ trong tử ‘vaṇṇo’ được diễn giải với ý nghĩa – (1) hình tướng (2) sanh chủng (3) sắc vóc (4) lý do (5) kích thước (6) ân đức (7) tán thán. Trong các ý nghĩa ấy hình tướng gọi là ‘vaṇṇa’ như trong câu sau: “Đã biến thành hình tướng con đại xà vương rồi đi đến Thế Tôn”. Sanh chủng gọi là ‘vaṇṇa’ như trong câu sau: “Bà-la-môn là sanh chủng tối thượng, sanh chủng khác là hạ liệt”. Sắc vóc gọi là ‘vaṇṇa’: “Được thành tựu với sắc vóc xinh đẹp tướng mạo tuyệt vời”.
Lý do gọi là ‘vaṇṇa’: “Tôi không lấy đi, tôi không bẻ gãy, tôi hít ngửi bông hoa từ xa, vậy thì với lý do gì mà ngài nói rằng ‘kẻ trộm cắp hương thơm?’”
Kích thước gọi là ‘vaṇṇa’: “Bình bát có 3 kích thước”. Ân đức gọi là ‘vaṇṇa’: “Này gia chủ, ông chất chứa những ân đức này của Sa-môn Gotama từ bao giờ?” Tán thán gọi là ‘vaṇṇa’: “Nói lời tán thán người xứng đáng được tán thán.” Ở đây, ‘vaṇṇa’ vừa có nghĩa ‘ân đức’, và cũng có nghĩa là ‘tán thán’. Biết rằng thanh niên trẻ Brahmadatta đã dẫn chứng lý do chân thật đó để nói lời tán thán, kết hợp với các ‘ân đức’ của Tam Bảo bằng nhiều hình thức. Ở đây – nên biết ‘ân đức’ của đức Phật theo phương cách sau: “Thật vậy, đức Thế Tôn vị ấy là bậc A-ra-hán, đấng Chánh đẳng Chánh giác”, “Này chư Tỳ khưu, những người nào đặt lòng tin vào đức Phật, những người ấy đặt lòng tin vào tối thượng.” “Có một người, này các Tỳ khưu, khi xuất hiện ở đời …nt… là vị không có người ngang bằng, là vị tương đương với các bậc không thể sánh bằng.” Nên biết ‘ân đức’ của Giáo Pháp theo phương cách sau: “Pháp của đức Thế Tôn đã khéo được thuyết giảng” và “sự nhổ lên tham ái, sự chặt đứt vòng tái sanh”, và “này chư Tỳ khưu, những người nào đặt niềm tin vào trong tám chi đạo, những người đó gọi là đặt niềm tin vào tối thượng.” Nên biết ‘ân đức’ của hội chúng Tỳ khưu theo phương cách sau: “Chư Tăng đệ tử của đức Thế Tôn đã khéo thực hành,” và “này chư Tỳ khưu, những người nào đặt niềm tin vào hội chúng Tỳ khưu, những người đó gọi là đặt niềm tin vào tối thượng.” Hơn nữa, vị thuyết pháp có khả năng có thể tập hợp chín Thể [Aṅga] trong năm bộ kinh vào tám mươi bốn ngàn Pháp Uẩn để tuyên bố về ân đức của Tam Bảo gồm có Phật Bảo v.v. Thanh niên trẻ Brahmadatta trong khi tuyên bố về ân đức của đức Phật ở trường hợp này thì bất cứ ai cũng không thể nói rằng vị thuyết pháp bị sai hướng. Nên biết năng lực của vị thuyết pháp ở trường hợp như thế. Còn thanh niên trẻ Brahmadatta nói lời tán thán Tam Bảo theo năng lực của bản thân được hoàn thiện thêm chỉ với thông tin được nghe v.v.
Itiha te ubho ācariyantevāsīti evaṃ te dve ācariyantevāsikā. Aññamaññassāti añño aññassa. Ujuvipaccanīkavādāti īsakampi apariharitvā ujumeva vividhapaccanīkavādā, anekavāraṃ viruddhavādā eva hutvāti attho. Ācariyena hi ratanattayassa avaṇṇe bhāsite antevāsī vaṇṇaṃ bhāsati, puna itaro avaṇṇaṃ, itaro vaṇṇanti evaṃ ācariyo sāraphalake visarukkhāaṇiṃ ākoṭayamāno viya punappunaṃ ratanattayassa avaṇṇaṃ bhāsati. antevāsī pana suvaṇṇarajatamaṇimayāya āṇiyā taṃ āṇiṃ paṭibāhayamāno[86] viya punappunaṃ ratanattayassa vaṇṇaṃ bhāsati. tena vuttaṃ — “ujuvipaccanīkavādā”ti.
Như thế, thầy và trò cả hai người ấy: Như vậy cả hai người ấy, thầy và trò. Aññamaññassa tách từ thành añño aññassa (người này trở nên đối nghịch với người kia). Có lời nói thẳng thắn đối nghịch lẫn nhau: có nhiều lời nói thẳng thắn hoàn toàn đối nghịch trong khi thầy chê bai Tam Bảo thì người học trò lại tán thán, là một người phỉ báng, người còn lại thì tán dương theo phương thức này. Vì người thầy liên tục nói lời phỉ báng Tam Bảo như vậy, tương tự như đóng một nêm (được làm bằng) gỗ mềm xuống trên một tấm gỗ cứng. Còn người học trò liên tục nói lời tán thán Tam Bảo, tương tự như lấy một cái nêm được làm bằng vàng, bạc và ngọc ma-ni để bảo hộ cái nêm ấy. Vì lý do đó, ngài Ānanda mới nói rằng: “Có lời nói thẳng thắng đối nghịch”
Bhagavantaṃ piṭṭhito piṭṭhito anubandhā honti bhikkhusaṅghañcāti bhagavantañca bhikkhusaṅghañca pacchato pacchato dassanaṃ avijahantā iriyāpathānubandhanena anubandhā[87] honti, sīsānulokino hutvā anugatā hontīti attho.
Đi theo sát ở phía sau đức Thế Tôn và hội chúng Tỳ khưu: Người đi theo ở phía sau đức Thế Tôn và hội chúng Tỳ khưu bằng việc theo sau oai nghi, có nghĩa là chú ý nhìn cái đầu để đi theo.
Kasmā pana Bhagavā taṃ addhānaṃ paṭipanno? Kasmā ca Suppiyo anubandho? Kasmā ca so ratanattayassa avaṇṇaṃ bhāsatīti? Bhagavā tāva tasmiṃ kāle Rājagahaparivattakesu aṭṭhārasasu mahāvihāresu aññatarasmiṃ vasitvā pātova sarīrappaṭijagganaṃ katvā bhikkhācāravelāyaṃ bhikkhusaṅghaparivuto rājagahe piṇḍāya carati. So taṃ divasaṃ bhikkhusaṅghassa sulabhapiṇḍapātaṃ katvā pacchābhattaṃ piṇḍapātapaṭikkanto bhikkhusaṅghaṃ pattacīvaraṃ gāhāpetvā — “Nāḷandaṃ gamissāmī”ti, Rājagahato nikkhamitvā taṃ addhānaṃ paṭipanno. Suppiyopi kho tasmiṃ kāle Rājagahaparivattake aññatarasmiṃ paribbājakārāme vasitvā paribbājakaparivuto Rājagahe bhikkhāya carati. Sopi taṃ divasaṃ paribbājakaparisāya sulabhabhikkhaṃ[88] katvā bhuttapātarāso paribbājake paribbājakaparikkhāraṃ gāhāpetvā — nāḷandaṃ gamissāmicceva bhagavato taṃ maggaṃ paṭipannabhāvaṃ ajānantova anubandho. Sace pana jāneyya nānubandheyya. So ajānitvāva gacchanto gīvaṃ ukkhipitvā olokayamāno Bhagavantaṃ addasa Buddhasiriyā sobhamānaṃ rattakambalaparikkhittamiva jaṅgamakanakagirisikharaṃ.
Tại sao đức Thế Tôn đi quãng đường xa? Và tại sao du sĩ ngoại đạo đi theo sau? và tại sao vị ấy lại phỉ báng Tam Bảo? Ban đầu đức Thế Tôn an trú ở một Đại Tự trong số mười tám Đại Tự nằm tiếp nối nhau xung quanh thành Rājagaha, trong thời gian ấy, từ lúc sáng sớm, ngài đã làm vệ sinh thân thể, đến giờ đi khất thực có hội chúng Tỳ khưu tháp tùng để đi khất thực trong thành Rājagaha. Ngày hôm ấy, ngài đã làm cho hội chúng Tỳ khưu có thể tìm kiếm được vật thực một cách dễ dàng. Sau bữa ăn, trong khi đi khất thực trở về (ngài) đã cho chư Tăng nhận lấy bình bát và y phục và nói rằng: “Ta sẽ đi đến thành Nāḷanda”, sau khi rời khỏi thành Rājagaha ngài đi một chặng đường xa như thế. Vào thời gian ấy thì du sĩ ngoại đạo Suppiya cũng cư trú ở một tu viện của các du sĩ nằm tiếp nối nhau xung quanh thành Rājagaha, có các du sĩ ngoại đạo tháp tùng đi khất thực trong thành Rājagaha. Cũng vào ngày hôm ấy, du sĩ ngoại đạo Suppiya đã làm cho hội chúng du sĩ có thể tìm kiếm được vật thực một cách dễ dàng. Sau khi thọ dụng bữa ăn sáng, (vị ấy) đã cho nhóm du sĩ nhận lấy các vật phụ tùng của du sĩ và nói rằng: “Ta cũng sẽ đi đến thành Nāḷanda” không biết rằng đức Thế Tôn đi trên con đường ấy nên mới đi theo sau (chỉ là tình cờ), còn nếu biết sẽ không đi theo. Vị ấy không biết, trong khi đi đã vươn cổ lên nhìn mới thấy được đức Thế Tôn tuyệt mỹ bởi vẻ rực rỡ của vị Phật, trông như thể đỉnh của một ngọn núi vàng di chuyển được quấn quanh bằng một dải lụa đỏ.
Tasmiṃ kira samaye Dasabalassa sarīrato nikkhamitvā chabbaṇṇarasmiyo samantā asītihatthappamāṇe padese ādhāvanti vidhāvanti ratanāveḷa-ratanadāma-ratanacuṇṇa-vippakiṇṇaṃ viya, pasāritaratanacittakañcanapaṭamiva, rattasuvaṇṇarasanisiñcamānamiva, ukkāsatanipāta-samākulamiva[89], nirantara-vippakiṇṇa-kaṇikārapupphamiva vāyuvegakkhittacīnapiṭṭhacuṇṇamiva, indadhanuvijjulatā-tārāgaṇappabhā-visaravipphuritaviccharitamiva[90] ca taṃ vanantaraṃ hoti.
Kể rằng vào lúc ấy hào quang sáu màu được phát ra từ kim thân của đấng Thập Lực, bao quanh khu vực có kích thước tám mươi cánh tay, ví như được bao quanh bởi những chùm ngọc quý, tràng hoa bằng ngọc quý và bột đá quý, ví như một tấm vàng được điểm tô bằng ngọc quý rồi trải ra, ví như vẫy nước vàng lóng lánh, ví như hàng trăm vì tinh tú rơi xuống phủ khắp, ví như những bông hoa kaṇikāra được rải rắc liên tục, ví như bụi đỏ tản mát bởi sức mạnh của trận cuồng phong, ví như vô số ánh sáng rung động của các tia chớp của cầu vồng và các chòm tinh tú như thế ở bên trong khu rừng ấy.
Asīti anubyañjanānurañjitañca pana bhagavato sarīraṃ vikasita-kamaluppalamiva, saraṃ sabbapāliphullamiva pāricchattakaṃ, tārāmarīci-vikasitamiva, gaganatalaṃ siriyā avahasantamiva, byāmappabhāparikkhepavilāsinī cassa dvattiṃsavaralakkhaṇamālā ganthetvā ṭhapitadvattiṃsacandamālāya dvattiṃsasūriyamālāya paṭipāṭiyā ṭhapita dvattiṃsacakkavatti dvattiṃsasakkadevarāja[91] dvattiṃsamahābrahmānaṃ siriṃ siriyā abhibhavantimiva. Tañca pana Bhagavantaṃ parivāretvā ṭhitā bhikkhū sabbeva appicchā santuṭṭhā pavivittā asaṃsaṭṭhā codakā pāpagarahino vattāro vacanakkhamā sīlasampannā samādhi-paññā-vimutti-vimuttiññāṇadassana-sampannā. Tesaṃ majjhe bhagavā rattakambalapākāraparikkhitto viya kañcanathambho, rattapadumasaṇḍamajjhagatā viya suvaṇṇanāvā, pavāḷavedikāparikkhitto viya aggikkhandho, tārāgaṇaparivārito viya puṇṇacando migapakkhīnampi cakkhūni pīṇayati, pageva devamanussānaṃ. Tasmiñca pana divase yebhuyyena asītimahātherā meghavaṇṇaṃ paṃsukūlaṃ ekaṃsaṃ karitvā kattaradaṇḍaṃ ādāya suvammavammitā viya gandhahatthino vigatadosā vantadosā bhinnakilesā vijaṭitajaṭā chinnabandhanā bhagavantaṃ parivārayiṃsu. So sayaṃ vītarāgo vītarāgehi, sayaṃ vītadoso vītadosehi, sayaṃ vītamoho vītamohehi, sayaṃ vītataṇho vītataṇhehi, sayaṃ nikkileso nikkilesehi, sayaṃ buddho anubuddhehi parivārito; pattaparivāritaṃ viya kesaraṃ[92], kesaraparivāritā viya kaṇṇikā, aṭṭhanāgasahassaparivārito viya chaddanto nāgarājā, navutihaṃsasahassaparivārito viya dhataraṭṭho haṃsarājā, senaṅgaparivārito viya cakkavattirājā, devagaṇaparivārito viya sakko devarājā, brahmagaṇaparivārito viya hārito mahābrahmā, aparimita-kāla-sañcita-puññabalanibbattāya acinteyyāya anopamāya buddhalīlāya cando viya gaganatalaṃ taṃ maggaṃ paṭipanno hoti.
Hơn nữa, thân thể chói lói với tám mươi tướng phụ của đức Thế Tôn, tựa như hồ nước có hoa sen và hoa súng đang hé nở, tựa như cây san hô đang nở rộ ở toàn thân, tựa như bầu trời được chiếu sáng bởi các vì tinh tú, tựa như với vẻ đẹp ở khoảng không của bầu trời đã được mở rộng, và ba mươi hai tướng trạng cao quý của Ngài đã được kết thành vòng hoa với vẻ đẹp được bao quanh bởi ánh hào quang, đã được đang kết lại với nhau bởi các tràng hoa là 32 vầng mặt trăng, (và) bởi các tràng hoa là 32 vầng mặt trời; tỏa sáng với sự lộng lẫy ngự trị sự lộng lẫy của 32 vị vua Chuyển Luân, 32 vị vua trời Đế Thích và 32 vị Đại Phạm Thiên đang đứng theo thứ tự. Và hơn nữa tất cả chư Tỳ khưu đứng xung quanh đức Thế Tôn ấy, toàn bộ đều là những vị ít ham muốn, sống tri túc, ưa thích yên tĩnh, không tụ hội, nhắc nhở lẫn nhau, khiển trách điều xấu ác, có trách nhiệm, kham nhẫn từ những lời nói, thành tựu về giới, thành tựu về định, thành tựu về trí tuệ, thành tựu về giải thoát và thành tựu về trí tuệ và nhận thức về sự giải thoát. Ở giữa hội chúng Tỳ khưu ấy đức Thế Tôn như thể một cột trụ bằng vàng, được bao bọc bởi bức tường là dải lụa được nhuộm đỏ, tựa như một chiếc thuyền bằng vàng đi qua giữa rừng sen đỏ, giống như đám lửa được bao quanh bởi dải ngọc san hô, giống như ánh trăng tròn được bao quanh bởi các vì tinh tú, được mở mang tầm mắt ngay cả đối với muôn thú và chim chóc, còn nói gì nữa đến chư Thiên và nhân loại. Cũng vào ngày hôm ấy hầu hết tám mươi vị đại trưởng lão, các vị đều mang (thượng) y paṃsukūla màu sắc tựa như màu đám mây ở một bên vai (và) cầm một cây gậy nhỏ, giống như loài voi thuộc dòng Gandhavaṃsa đã khéo được huấn luyện, có sân hận đã được lìa bỏ, có sân hận đã được tống khứ, có phiền não đã bị bẻ gãy, mọi sự rối rắm đã được gỡ bỏ, mọi sự ràng buộc đã bị cắt đứt, cùng nhau đã hội tụ vây quanh đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn ấy tự mình có sự luyến ái đã được xa lìa, được chư Tỳ khưu đã ly ái luyến vây quanh; tự mình có sân đã được xa lìa, được chư Tỳ khưu đã ly sân vây quanh; tự mình có si đã được xa lìa, được chư Tỳ khưu ly si vây quanh; tự mình có tham ái đã được xa lìa, được chư Tỳ khưu ly tham ái vây quanh; tự mình không ô nhiễm, được chư Tỳ khưu không ô nhiễm vây quanh; tự mình giác ngộ, được vây quanh bởi chư Tỳ khưu giác ngộ theo. Giống như sư tử chúa được muôn thú vây quanh, y như hoa sen Kaṇṇikā được bao quanh bởi nhụy hoa, trông giống như voi chúa tên Chaddanta được vây quanh bởi đàn voi tám nghìn con, trông giống như chim thiên nga chúa tên Dhataraṭṭha được vây quanh bởi đàn chim thiên nga chín mươi ngàn con, trông giống như vị Chuyển Luân Vương được vây quanh bởi bốn đạo binh, trông giống như Vua trời Đế thích được vây quanh bởi đông đảo chúng chư thiên, trông giống như Đại Phạm thiên Hārita được vây quanh bởi chúng Phạm thiên, với vẻ từ hòa vô lượng của bậc Giác Ngộ, điều mà bất kỳ ai cũng không thể nghĩ bàn được tạo nên nhờ vào thiện nghiệp đã được tích lũy trong khoảng thời gian dài vô tận ngài bước đi trên con đường ấy trông giống như mặt trăng di chuyển ở trên bầu trời.
Du Sĩ Ngoại Đạo Suppiya Gặp Đức Thế Tôn
Athevaṃ bhagavantaṃ anopamāya buddhalīlāya gacchantaṃ bhikkhū ca okkhittacakkhū santindriye santamānase uparinabhe ṭhitaṃ[93] puṇṇacandaṃ viya bhagavantaṃyeva namassamāne disvāva[94] paribbājako attano parisaṃ avalokesi. Sā hoti kājadaṇḍake olambetvā gahitoluggaviluggapiṭṭhakatidaṇḍamorapiñcha mattikāpatta pasibbaka kuṇḍikādi-anekaparikkhārabhārabharitā. “Asukassa hatthā sobhaṇā[95], asukassa pādā”ti evamādiniratthakavacanā mukharā vikiṇṇavācā adassanīyā apāsādikā. Tassa taṃ disvā vippaṭisāro udapādi.
Khi ấy, sau khi du sĩ ngoại đạo Suppiya nhìn thấy đức Thế Tôn bước đi với vẻ đẹp từ hòa vô lượng của bậc Giác Ngộ và chư Tỳ khưu với ánh mắt nhìn xuống, có các giác quan thanh tịnh, có tâm an tịnh, bày tỏ sự tôn kính đối với đức Thế Tôn, ngài như thể một vầng trăng tròn đang lơ lửng nổi bật ở trên bầu trời, đã nhìn sang hội chúng của mình. Hội chúng của du sĩ ngoại đạo ấy mang xách nhiều vật dụng phụ tùng gồm có ghế gỗ nhỏ ba chân, gậy trượng, cây quạt đuôi công, bình bát đất, cái sọt và bình nước v.v, được treo vào đòn gánh rồi gánh ở trên vai nhìn lôi thôi lếch thếch, bạo mồm bạo miệng, nói lời nói vô ích như vầy: “Tay của người kia đẹp, chân của người kia xinh”, nói lung tung, không ưa nhìn, không đáng tịnh tín. Sau khi nhìn thấy như vậy vị ấy khởi lên sự ăn năn.
Idāni tena bhagavato vaṇṇo vattabbo bhaveyya. Yasmā panesa lābhasakkārahāniyā ceva pakkhahāniyā ca niccampi bhagavantaṃ usūyati[96]. aññatitthiyānañhi yāva buddho loke nuppajjati, tāvadeva lābhasakkārā nibbattanti, buddhuppādato pana paṭṭhāya parihīnalābhasakkārā honti, sūriyuggamane khajjopanakā viya nissirīkataṃ āpajjanti. Upatissakolitānañca sañjayassa santike pabbajitakāleyeva paribbājakā mahāparisā ahesuṃ, tesu pana pakkantesu sāpi tesaṃ parisā bhinnā. Iti imehi dvīhi kāraṇehi ayaṃ paribbājako yasmā niccampi bhagavantaṃ usūyati, tasmā taṃ usūyavisuggāraṃ uggiranto ratanattayassa avaṇṇameva bhāsatīti veditabbo.
Lúc bấy giờ, thích hợp để vị ấy nói lời tán thán đức Thế Tôn. Nhưng lý do du sĩ ngoại đạo này luôn luôn ganh tị đức Thế Tôn, bởi vì sự suy giảm về lợi đắc và sự cung kính và cả sự suy giảm đồng môn, chả là suốt khoảng thời gian các đức Thế Tôn vẫn chưa xuất hiện ở trên đời thì lợi đắc và sự cung kính được phát sanh cho các du sĩ, nhưng kể từ khi chư Phật xuất hiện thì lợi đắc và sự cung kính của các du sĩ dần bị suy giảm, mất đi sự vinh hiển chằng khác nào con đom đóm khi mặt trời mọc. Cũng vào thời điểm ‘Upatissa và Kolita’[97] xuất gia thì trú xứ của Sañjaya ấy thì nhóm du sĩ trở thành hội chúng đông đảo, nhưng khi Upatissa và Kolita rời đi thì hội chúng của họ cũng dần tan rã. Với hai nguyên nhân như đã đề cập có thể hiểu rằng: du sĩ ngoại đạo Suppiya này do luôn luôn ganh tị đối với đức Thế Tôn, khi nhả sự ganh tị ấy ra đã nói toàn lời chê bảo Tam Bảo”.
2. Atha kho Bhagavā Ambalaṭṭhikāyaṃ rājāgārake ekarattivāsaṃ upagacchi saddhiṃ bhikkhusaṅghenāti bhagavā tāya buddhalīlāya gacchamāno anupubbena Ambalaṭṭhikādvāraṃ pāpuṇitvā sūriyaṃ oloketvā — “akālo dāni gantuṃ, atthasamīpaṃ gato[98] sūriyo”ti Ambalaṭṭhikāyaṃ rājāgārake ekarattivāsaṃ upagacchi.
2. Sau đó, đức Thế Tôn đã đi đến trú ngụ một đêm tại nhà nghỉ của đức vua ở khu vườn Ambalaṭṭhikā cùng với hội chúng Tỳ khưu: Khi ấy đức Thế Tôn bước đi với vẻ đẹp từ hòa của bậc Giác Ngộ ấy đến cổng khu vườn Ambalaṭṭhikā theo tuần tự, đưa mắt nhìn ánh mặt trời rồi khởi lên suy nghĩ rằng – “Bây giờ không phải thời để đi, mặt trời gần sắp lặn” nên (ngài) đã đi đến nghỉ lại một đêm tại nhà nghỉ của đức vua ở khu vườn Ambalaṭṭhikā.
Tattha Ambalaṭṭhikāti rañño uyyānaṃ. Tassa kira dvārasamīpe taruṇāmbarukkho atthi, taṃ “ambalaṭṭhikā”ti vadanti. Tassa avidūre bhavattā uyyānampi ambalaṭṭhikā tveva saṅkhyaṃ gataṃ. Taṃ chāyūdakasampannaṃ pākāraparikkhittaṃ suyojitadvāraṃ mañjusā viya suguttaṃ. Tattha rañño kīḷanatthaṃ paṭibhānacittavicittaṃ agāraṃ akaṃsu. taṃ “rājāgārakan”ti vuccati.
Ở đây, Ambalaṭṭhikā là tên khu vườn của đức vua. Được biết rằng ở gần cổng của khu vườn đó có cây xoài còn nhỏ mọi người gọi là ‘Ambalaṭṭhikā’. Ngay cả khu vườn cũng được biết đến là ‘Ambalaṭṭhikā’ bởi vì ở gần cây xoài nhỏ ấy. Khu vườn ấy đầy đủ bóng mát và nước, có bức tường xung quanh, có cổng được lắp đặt tốt, bảo vệ tốt, giống như cái rương. Trong khu vườn ấy đã xây dựng một nhà nghỉ được trang hoàng với nhiều màu sắc rực rỡ bởi sự kiến tạo làm nơi vui chơi thưởng thức của đức vua, chỗ đó được gọi là “nhà nghỉ của đức vua”.
Suppiyopi khoti suppiyopi tasmiṃ ṭhāne sūriyaṃ oloketvā — “akālo dāni gantuṃ, bahū khuddakamahallakā paribbājakā, bahuparissayo ca ayaṃ maggo corehipi vāḷayakkhehipi vāḷamigehipi. Ayaṃ kho pana samaṇo gotamo uyyānaṃ paviṭṭho, samaṇassa ca gotamassa vasanaṭṭhāne devatā ārakkhaṃ gaṇhanti, handāhampi idha ekarattivāsaṃ upagantvā sveva gamissāmī”ti tadevuyyānaṃ pāvisi. Tato bhikkhusaṅgho bhagavato vattaṃ dassetvā attano attano vasanaṭṭhānaṃ sallakkhesi. Paribbājakopi uyyānassa ekapasse paribbājakaparikkhāre otāretvā vāsaṃ upagacchi saddhiṃ attano parisāya. Pāḷiyamārūḷhavaseneva pana — “saddhiṃ attano antevāsinā Brahmadattena māṇavenā”ti vuttaṃ.
Ngay cả du sĩ ngoại đạo Suppiya: cả du sĩ ngoại đạo Suppiya cũng đã nhìn mặt trời ở tại chỗ ấy nghĩ rằng: “Bây giờ không phải thời để đi, rất nhiều các du sĩ nhỏ và lớn, và con đường này cũng có nhiều nguy hiểm bởi bọn cướp, bởi quỷ dữ, hoặc bởi các loài thú dữ. Hơn nữa, Sa-môn Gotama này cũng đi vào khu vườn, nơi cư trú của Sa-môn Gotama, chư Thiên hẳn đua nhau để bảo vệ, vậy thì ta cũng sẽ nghỉ lại một đêm tại khu vườn này, ngày mai ta sẽ đi”, khi suy nghĩ như vậy vị ấy đã đi vào khu vườn ấy. Sau đó, hội chúng Tỳ khưu đã thực hiện phận sự đảnh lễ đức Thế Tôn, rồi xác định chỗ nghỉ ngơi của mỗi cá nhân. Còn du sĩ ngoại đạo Suppiya cũng cho đặt các vật phụ tùng xuống một bên của khu vườn, rồi vào nghỉ ngơi cùng với hội chúng của mình. Tuy nhiên, trong bản kinh Pāḷi gốc, kinh chỉ đề cập đến một người duy nhất đi cùng: “Cùng với thanh niên trẻ Brahmadatta là học trò của mình”.
Evaṃ vāsaṃ upagato pana so paribbājako rattibhāge dasabalaṃ olokesi. Tasmiñca samaye samantā vippakiṇṇatārakā viya padīpā jalanti, majjhe bhagavā nisinno hoti, bhikkhusaṅgho ca bhagavantaṃ parivāretvā. Tattha ekabhikkhussapi hatthakukkuccaṃ vā pādakukkuccaṃ vā ukkāsitasaddo vā khipitasaddo vā natthi. Sā hi parisā attano ca sikkhitasikkhatāya satthari ca gāravenāti dvīhi kāraṇehi nivāte padīpasikhā viya niccalā sannisinnāva ahosi. Paribbājako taṃ vibhūtiṃ disvā attano parisaṃ olokesi. tattha keci hatthaṃ khipanti, keci pādaṃ, keci vippalapanti, keci nillālitajivhā paggharitakheḷā, dante khādantā kākacchamānā gharugharupassāsino[99] sayanti. So ratanattayassa guṇavaṇṇe vattabbepi issāvasena puna avaṇṇameva ārabhi[100]. Brahmadatto pana vuttanayeneva vaṇṇaṃ. Tena vuttaṃ — “Tatrāpi sudaṃ suppiyo paribbājako”ti sabbaṃ vattabbaṃ. Tattha tatrāpīti tasmimpi, Ambalaṭṭhikāyaṃ uyyāneti attho.
Du sĩ ngoại đạo ấy vào nghỉ ngơi một đêm như vậy đã được quan sát đấng Thập Lực. Và vào lúc bấy giờ ngọn đèn được thắp sáng tựa như vô vàn vì tinh tú xung quanh, đức Thế Tôn ngồi giữa hội chúng, và chư Tỳ khưu ngồi xung quanh đức Thế Tôn. Ở tại nơi ấy không có bất cứ vị Tỳ khưu nào dù chỉ là một vị Tỳ khưu có cảm giác khó chịu do tay và có cảm giác khó chịu về chân (do không được cử động), hoặc một tiếng ho, hoặc một tiếng đằng hắng cũng không có. Thật vậy, hội chúng ấy ngồi tụ họp cùng nhau vô cũng tĩnh lặng như thể ngọn đèn ở nơi khuất gió, với 2 lý do – (1) là vị đã được học tập và đã được rèn luyện, và (2) do sự tôn kính đối với bậc Đạo Sư. Du sĩ ngoại đạo đã nhìn thấy được sự thành tựu đức hạnh như thế, mới quan sát hội chúng của mình. Ở nơi tụ họp của các du sĩ ấy, một số thì nằm ngủ dơ tay, một số thì nằm ngủ dơ chân, một số thì ngủ mớ, một số thì nằm ngủ thè lưỡi, chảy nước dãi, nghiến răng, ngáy khò khò. Ngay cả lúc nên nói lời tán thán Tam Bảo thì du sĩ ngoại đạo Suppiya cũng vẫn nói lời chê bai do tác động của sự ganh tị. Còn thanh niên trẻ Brahmadatta thì lại nói lời tán thán Tam Bảo theo phương cách như đã trình bày. Do đó, đại đức Ānanda đã nói rằng: “Được biết rằng – ngay cả ở tại khu vườn Ambalaṭṭhikā của đức vua ấy thì du sĩ ngoại đạo Suppiya (cũng vẫn nói lời chê bai đức Phật)” nên nói tất cả. Ở đấy, tatrāpī – có nghĩa là trong khu vườn Ambalaṭṭhikā đó.
Giải Thích Từ ‘Này Chư Tỳ Khưu’ và Từ ‘Tăng Chúng’
3. Sambahulānanti bahukānaṃ. tattha vinayapariyāyena tayo janā “sambahulā”ti vuccanti. Tato paraṃ saṅgho. Suttantapariyāyena pana tayo tayova tato paṭṭhāya sambahulā. Idha suttantapariyāyena “sambahulā”ti veditabbā. Maṇḍalamāḷeti katthaci dve kaṇṇikā gahetvā haṃsavaṭṭakacchannena katā kūṭāgārasālāpi “maṇḍalamāḷo”ti vuccati, katthaci ekaṃ kaṇṇikaṃ gahetvā thambhapantiṃ parikkhipitvā katā upaṭṭhānasālāpi “maṇḍalamāḷo”ti vuccati. Idha pana nisīdanasālā “maṇḍalamāḷo”ti veditabbo. Sannisinnānanti nisajjanavasena. Sannipatitānanti samodhānavasena. Ayaṃ saṅkhiyadhammoti saṅkhiyā[101] vuccati kathā, kathādhammoti attho. Udapādīti uppanno. Katamo pana soti? Acchariyaṃ āvusoti evamādi. Tattha andhassa pabbatārohaṇaṃ viya niccaṃ na hotīti acchariyaṃ. Ayaṃ tāva saddanayo[102]. ayaṃ pana aṭṭhakathānayo — accharāyogganti acchariyaṃ. Accharaṃ paharituṃ yuttanti attho. Abhūtapubbaṃ bhūtanti abbhutaṃ. Ubhayaṃ petaṃ vimhayassevādhivacanaṃ. Yāvañcidanti yāva ca idaṃ tena suppaṭividitatāya appameyyattaṃ dasseti.
3. Này chư Tỳ khưu: nhiều vị với nhau. Trong câu đó theo giải thích ở Tạng Luật thì 3 vị Tỳ khưu gọi là ‘nhiều vị’, nhiều hơn thế thì gọi là Tăng Chúng. Còn theo giải thích Tạng Kinh thì 3 vị Tỳ khưu cũng gọi là 3 vị mà thôi, nhiều hơn thế thì gọi là ‘nhiều vị’. Ở đây, nên hiểu rằng ‘nhiều vị’ theo giải thích trong Tạng Kinh. Gian nhà hình tròn – Maṇḍalamāḷa: một số giảng đường kūṭāgāra được đặt ở 2 đầu nóc nhà, được xây dựng với việc lợp mái theo kiểu con hạc gọi là ‘Maṇḍalamāḷa’, một số giảng đường Upaṭṭhāna, (mà) giảng đường này chỉ được đặt ở một đầu nóc nhà, được xây dựng hành lang bao quanh được gọi là ‘Maṇḍalamāḷa’. Nhưng ở đây nên hiểu rằng ‘giảng đường để ngồi’ cũng được gọi là Gian nhà hình tròn – Maṇḍalamāḷa. Đã ngồi lại: ngài nói liên hệ đến việc ngồi. Tụ hội với nhau: ngài nói liên hệ đến việc gom chung lại. Có nghĩa là lời nói về pháp, lời nói đã được nói gọi là việc đàm luận trong câu ‘có cuộc pháp đàm này’. Đã khởi lên: đã khởi lên. Cuộc đàm luận ấy như thế nào? Nói chuyện với nhau như vầy – “Này các đại đức, thật là vi diệu!” Ở đây, theo lối giải thích của văn tự (sadda-nayo): điều “kỳ diệu” (acchariya) là điều không thường xảy ra, như chuyện “người mù leo núi” — nên gọi là “kỳ diệu.”. Còn theo lối chú giải (aṭṭhakathā-nayo) – gọi là ‘thật là vi diệu!’ (acchariya) xứng đáng để búng ngón tay (tức đáng làm dấu hiệu tán thán), nghĩa là “đáng búng tay khen ngợi”. Hoặc gọi là chưa từng có (abbhuta): điều chưa từng có trước đây nay đã thành hiện hữu. Cả hai, “acchariya” và “abbhuta,” đều là các tên gọi chỉ sự kinh ngạc (vimhaya). Yāvañcidaṃ tách thành yāva ca idaṃ, dùng để nêu rõ tính “không thể lường hết/không bờ bến” nhờ sự thông đạt rất khéo (suppaṭividitatā) — tức để cho thấy tính không thể đo lường.
Tena bhagavatā jānatā … pe … suppaṭividitāti etthāyaṃ saṅkhepattho. Yo so bhagavā samatiṃsa pāramiyo pūretvā sabbakilese bhañjitvā anuttaraṃ sammāsambodhiṃ abhisambuddho, tena bhagavatā tesaṃ tesaṃ sattānaṃ āsayānusayaṃ jānatā, hatthatale ṭhapitaṃ āmalakaṃ viya sabbañeyyadhammaṃ passatā.
Đức Thế Tôn trong khi biết, trong khi thấy, đã khéo thấu hiểu khuynh hướng khác biệt của các chúng sanh: ở đây, điều này có ý nghĩa vắn tắt. Đức Thế Tôn, vị nào đã làm tròn đủ một cách đồng đều ba mươi pháp ba-la-mật, đã phá hủy tất cả phiền não, giác ngộ Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, Đức Thế Tôn, vị ấy biết được các lậu hoặc và các tùy miên của các chúng sanh đó, nhìn thấy tất cả những pháp đáng biết – ñeyyadhamma[103] giống như trái cây āmalaka đã được đặt xuống vào lòng bàn tay.
Api ca pubbenivāsādīhi jānatā, dibbena cakkhunā passatā. tīhi vijjāhi chahi vā pana abhiññāhi jānatā, sabbattha appaṭihatena samantacakkhunā passatā. sabbadhammajānanasamatthāya vā paññāya jānatā, sabbasattānaṃ cakkhuvisayātītāni tirokuṭṭādigatānipi rūpāni ativisuddhena maṃsacakkhunā passatā. Attahitasādhikāya vā samādhipadaṭṭhānāya paṭivedhapaññāya jānatā, parahitasādhikāya karuṇāpadaṭṭhānāya desanāpaññāya passatā.
Và hơn nữa, biết bằng Trí nhớ về các kiếp sống trước, nhìn thấy bằng thiên nhãn. Hoặc là biết bằng Tam minh, hay bằng Lục thông, nhìn thấy bằng Phật nhãn. Hoặc biết bằng tuệ có khả năng nhận biết tất cả Pháp, nhìn thấy sắc vượt khỏi tầm mắt của tất cả chúng sanh hoặc sắc ở bên ngoài bức tường v.v, với nhục nhãn vô cùng thanh tịnh. Hoặc biết bằng tuệ thấu triệt có định làm nhân cận cho thành tựu lợi ích đối với cá nhân, nhìn thấy bằng tuệ làm phương tiện thuyết giảng có lòng bi mẫn làm nhân gần cho thành tựu lợi ích đối với người khác.
Arīnaṃ hatattā paccayādīnañca arahattā Arahatā. Sammā sāmañca sabbadhammānaṃ Buddhattā Sammāsambuddhena antarāyikadhamme vā jānatā, niyyānikadhamme passatā, kilesārīnaṃ hatattā Arahatā[104]. sammā sāmañca sabbadhammānaṃ buddhattā sammāsambuddhenāti. evaṃ catūvesārajjavasena catūhākārehi thomitena sattānaṃ nānādhimuttikatā nānajjhāsayatā suppaṭividitā yāva ca suṭṭhu paṭividitā.
Là bậc A-ra-hán bởi vì diệt trừ kẻ thù là phiền não, và bởi vì là bậc xứng đáng nhận được lễ vật cúng dường có bốn món vật dụng v.v, là bậc Chánh đẳng Chánh giác bởi vì giác ngộ tất cả các pháp một cách chân chánh và tự mình giác ngộ hoặc biết được các chướng ngại pháp, thấy pháp dẫn dắt ra khỏi khổ. Là bậc A-ra-hán bởi diệt trừ kẻ thù là phiền não và bởi là bậc xứng đáng nhận được lễ vật cúng dường có bốn món vật dụng v.v, là bậc Chánh đẳng Chánh giác bởi vì giác ngộ tất cả các pháp một cách chân chánh và tự mình giác ngộ với bốn tướng trạng – ākāra, và bởi năng lực của bốn vô sở úy như giải thích đã khéo thấu hiểu về tính chất khuynh hướng khác biệt của của các chúng sanh là người có khuynh hướng khác biệt và có tánh khí khác biệt, và sự hiểu biết tốt đẹp chừng nào.
Idānissa suppaṭividitabhāvaṃ dassetuṃ ayañhītiādimāha. Idaṃ vuttaṃ hoti yā ca ayaṃ bhagavatā “dhātuso, bhikkhave, sattā saṃsandanti samenti, hīnādhimuttikā hīnādhimuttikehi saddhiṃ saṃsandanti samenti, kalyāṇādhimuttikā kalyāṇādhimuttikehi saddhiṃ saṃsandanti samenti. atītampi kho, bhikkhave, addhānaṃ dhātusova sattā saṃsandiṃsu samiṃsu, hīnādhimuttikā hīnādhimuttikehi … pe … kalyāṇādhimuttikā kalyāṇādhimuttikehi saddhiṃ saṃsandiṃsu samiṃsu, anāgatampi kho, bhikkhave, addhānaṃ … pe … saṃsandissanti samessanti, etarahipi kho, bhikkhave, paccuppannaṃ addhānaṃ dhātusova sattā saṃsandanti samenti, hīnādhimuttikā hīnādhimuttikehi … pe … kalyāṇādhimuttikā kalyāṇādhimuttikehi saddhiṃ saṃsandanti samentī”ti[105] evaṃ sattānaṃ nānādhimuttikatā, nānajjhāsayatā, nānādiṭṭhikatā, nānākhantitā, nānārucitā, nāḷiyā minantena viya tulāya tulayantena viya ca nānādhimuttikatāñāṇena sabbaññutaññāṇena viditā, sā yāva suppaṭividitā. Dvepi nāma sattā ekajjhāsayā dullabhā lokasmiṃ. Ekasmiṃ gantukāme eko ṭhātukāmo hoti, ekasmiṃ pivitukāme eko bhuñjitukāmo. imesu cāpi dvīsu ācariyantevāsīsu ayañhi “suppiyo paribbājako … pe … bhagavantaṃ piṭṭhito piṭṭhito anubandhā honti bhikkhusaṅghañcā”ti. Tattha itihameti itiha ime, evaṃ imeti attho. sesaṃ vuttanayameva.
Bây giờ, để trình bày về tính chất thấu suốt tường tận (suppaṭividitabhāva) ấy của Đức Thế Tôn, Chú giải bắt đầu bằng cụm từ: “Bởi du sĩ ngoại đạo Suppiya này” v.v. Ý được nói ở đây là:
Sự thật rằng các chúng sanh có khuynh hướng đa dạng (nānādhimuttikatā), tâm tính đa dạng (nānajjhāsayatā), tri kiến đa dạng (nānādiṭṭhikatā), sở nguyện đa dạng (nānākhantitā), và sở thích đa dạng (nānārucitā), đã được Đức Thế Tôn thấu suốt bằng Toàn Giác Trí (sabbaññutaññāṇa) và bằng trí tuệ biết rõ các khuynh hướng đa dạng (nānādhimuttikatāñāṇa)—giống như dùng ống đong (nāḷi) để đo, như dùng cân (tulā) để lường. Sự thấu suốt ấy thật tường tận biết bao! Điều này được nói rõ qua đoạn kinh văn sau:
“Này các Tỳ khưu, tùy theo bản chất các chúng sanh được kết hợp, được gặp gỡ nhau. Các chúng sanh có khuynh hướng thấp kém cùng với các chúng sanh có khuynh hướng thấp kém được kết hợp, được gặp gỡ nhau. Các chúng sanh có khuynh hướng tốt lành cùng với các chúng sanh có khuynh hướng tốt lành được kết hợp, được gặp gỡ nhau. Này các Tỳ khưu, ngay cả ở thời kỳ quá khứ, tùy theo bản chất các chúng sanh đã kết hợp, đã gặp gỡ nhau. Các chúng sanh có khuynh hướng thấp kém cùng với các chúng sanh có khuynh hướng thấp …nt… Các chúng sanh có khuynh hướng tốt lành cùng với các chúng sanh có khuynh hướng tốt lành đã kết hợp, đã gặp gỡ nhau. Này các Tỳ khưu, luôn cả ở thời kỳ vị lai, tùy theo bản chất các chúng sanh sẽ kết hợp, sẽ gặp gỡ nhau …nt… sẽ kết hợp, sẽ gặp gỡ nhau. Này các Tỳ khưu, kể cả hiện nay ở thời kỳ hiện tại, tùy theo bản chất các chúng sanh kết hợp, gặp gỡ nhau. Các chúng sanh có khuynh hướng thấp kém cùng với các chúng sanh có khuynh hướng thấp kém…nt… Các chúng sanh có khuynh hướng tốt lành cùng với các chúng sanh có khuynh hướng tốt lành kết hợp, gặp gỡ nhau,”
Trên đời, hai chúng sanh có cùng một tâm tính (ekajjhāsayā) quả là điều hiếm có. Khi một người muốn đi thì người kia lại muốn đứng, khi một người muốn uống thì người kia lại muốn ăn. Ngay cả trong trường hợp của hai thầy trò này cũng vậy. Bởi vì (kinh đã kể rằng): “du sĩ ngoại đạo Suppiya bằng nhiều phương thức đã nói lời phỉ báng đức Phật, phỉ báng Giáo Pháp, phỉ báng Chư Tăng. Còn thanh niên trẻ Brahmadatta là đệ tử du sĩ ngoại đạo Suppiya, bằng nhiều phương thức, đức Phật, tán thán Giáo Pháp, tán thán Chư Tăng. Như vậy cả hai thầy và trò đã nói những lời hoàn toàn tương phản trong khi đi sau lưng đức Thế Tôn và hội chúng Tỳ khưu.” Ở đấy, itiha’me tách thành itiha ime đồng nghĩa với ‘evaṃ ime’ là ‘như vầy’. Từ còn lại cũng theo phương thức như đã nói.
4. Atha kho Bhagavā tesaṃ bhikkhūnaṃ imaṃ saṅkhiyadhammaṃ viditvāti ettha viditvāti sabbaññutaññāṇena jānitvā. Bhagavā hi katthaci maṃsacakkhunā disvā jānāti — “Addasā kho Bhagavā mahantaṃ dārukkhandhaṃ gaṅgāya nadiyā sotena vuyhamānan”tiādīsu[106] viya. Katthaci dibbacakkhunā disvā jānāti — “Addasā kho Bhagavā dibbena cakkhunā visuddhena atikkantamānusakena tā devatāyo sahassasseva Pāṭaligāme vatthūni parigaṇhantiyo”tiādīsu[107] viya. Katthaci pakatisotena sutvā jānāti — “Assosi kho bhagavā āyasmato Ānandassa subhaddena paribbājakena saddhiṃ imaṃ kathāsallāpan”tiādīsu[108] viya. Katthaci dibbasotena sutvā jānāti — “Assosi kho Bhagavā dibbāya sotadhātuyā visuddhāya atikkantamānusikāya Sandhānassa gahapatissa Nigrodhena paribbājakena saddhiṃ imaṃ kathāsallāpan”tiādīsu[109] viya. Idha pana sabbaññutaññāṇena sutvā aññāsi. Kiṃ karonto aññāsi? pacchimayāmakiccaṃ,
4. Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn biết được cuộc pháp đàm giữa chư Tăng này: ở đây, ‘đã biết đến’ là đã biết với Trí Toàn Giác. Thật vậy, một vài chỗ đức Thế Tôn đã nhìn thấy bằng nhục nhãn mới nhận biết chẳng hạn như – “Đức Thế Tôn đã nhìn thấy một đống gỗ to lớn bị cuốn trôi bởi dòng chảy của con sông”. Một vài chỗ đức Thế Tôn đã nhìn thấy bằng thiên nhãn mới nhận biết chẳng hạn như – “Đức Thế Tôn quả nhiên đã nhìn thấy các Thiên nhân ấy có đến hàng ngàn vị đang chiếm giữ các vùng đất ở Pāṭaligāma với Thiên nhãn thanh tịnh vượt trội loài người.” Một vài chỗ đức Thế Tôn đã nghe bằng nhĩ thông thường mới nhận biết chẳng hạn như – “Đức Thế Tôn đã nghe cuộc trò chuyện trao đổi này giữa đại đức Ānanda với du sĩ ngoại đạo Subhadda.” Một vài chỗ đức Thế Tôn đã nghe bằng thiên nhĩ mới nhận biết chẳng hạn như – “Đức Thế Tôn quả nhiên đã nghe gia chủ Sandhāra cuộc trò chuyện trao đổi này với du sĩ ngoại đạo Nirodha với Thiên nhĩ thanh tịnh vượt trội loài người.” Nhưng ở trong bài Kinh này thấy bằng Trí Toàn Giác mới biết được. Ngài làm gì mới biết? Ngài thực hiện phận sự vào canh cuối.
Giải Thích Năm Phận Sự Của Đức Phật
Kiccañca nāmetaṃ sātthakaṃ, niratthakanti duvidhaṃ hoti. Tattha niratthakakiccaṃ bhagavatā bodhipallaṅkeyeva arahattamaggena samugghātaṃ kataṃ. Sātthakaṃyeva pana bhagavato kiccaṃ hoti. Taṃ pañcavidhaṃ — purebhattakiccaṃ, pacchābhattakiccaṃ, purimayāmakiccaṃ, majjhimayāmakiccaṃ, pacchimayāmakiccanti.
Và phận sự này có 2 loại là phận sự có lợi ích và phận sự không có lợi ích. Trong 2 phận sự ấy thì phận sự không có lợi ích đức Thế Tôn đã nhổ bỏ bởi A-ra-hán Đạo ở tại cội Bồ Đề. Đức Thế Tôn chỉ còn phận sự có lợi ích mà thôi. Phận sự có lợi ích của đức Thế Tôn ấy có 5 phận sự là – (1) phận sự trước bữa ăn, (2) phận sự sau bữa ăn, (3) phận sự vào canh đầu, (4) phận sự vào canh giữa, (5) phận sự vào canh cuối.
Tatridaṃ purebhattakiccaṃ – Bhagavā hi pātova uṭṭhāya upaṭṭhākānuggahatthaṃ sarīraphāsukatthañca mukhadhovanādisarīraparikammaṃ katvā yāva bhikkhācāravelā tāva vivittāsane vītināmetvā, bhikkhācāravelāyaṃ nivāsetvā kāyabandhanaṃ bandhitvā cīvaraṃ pārupitvā pattamādāya kadāci ekako, kadāci bhikkhusaṅghaparivuto, gāmaṃ vā nigamaṃ vā piṇḍāya pavisati; kadāci pakatiyā, kadāci anekehi pāṭihāriyehi vattamānehi. Seyyathidaṃ[110], piṇḍāya pavisato lokanāthassa purato purato gantvā mudugatavātā pathaviṃ sodhenti, valāhakā udakaphusitāni muñcantā magge reṇuṃ vūpasametvā upari vitānaṃ hutvā tiṭṭhanti, apare vātā pupphāni upasaṃharitvā magge okiranti, unnatā bhūmippadesā onamanti, onatā unnamanti, pādanikkhepasamaye samāva bhūmi hoti, sukhasamphassāni padumapupphāni vā pāde sampaṭicchanti. Indakhīlassa anto ṭhapitamatte dakkhiṇapāde sarīrato chabbaṇṇarasmiyo nikkhamitvā suvaṇṇarasapiñjarāni viya citrapaṭaparikkhittāni viya ca pāsādakūṭāgārādīni alaṅkarontiyo ito cito ca dhāvanti, hatthiassavihaṅgādayo sakasakaṭṭhānesu ṭhitāyeva madhurenākārena saddaṃ karonti, tathā bherivīṇādīni tūriyāni manussānañca kāyūpagāni ābharaṇāni.
Đây là phận sự trước bữa ăn – Bởi vì đức Thế Tôn ngài dậy từ sáng sớm, vệ sinh thân thể, như súc miệng v.v, để hỗ trợ người hầu cận và vì sự dễ chịu của cơ thể, khi hoàn tất ngài đã ngồi xuống Phật tọa an tĩnh cho đến thời gian khất thực, khi đến thời gian đi khất thực, ngài quấn y nội buộc dây thắt lưng, đã mặc y, cầm bình bát, đôi khi ngài đi một mình, đôi khi tháp tùng cùng với hội chúng Tỳ khưu, đi vào làng hoặc thị trấn để khất thực; đôi khi ngài bước đi thông thường, đôi khi đi bằng nhiều phép kỳ diệu. Là thế nào? Khi bậc Lãnh Đạo Thế Gian đã đi vào khất thực một cơn gió thổi nhẹ nhàng, thổi về phía trước dọn sạch bề mặt đất làm cho (con đường) trở nên sạch sẽ, những cơn mưa cũng trút nước xuống để ngăn bụi bẩn bám trên đường, trải rộng ra như trần nhà phía trên, cơn gió đã mang theo các loại bông hoa và rải chúng xuống lên trên mặt đường. Những chỗ đất cao trở nên thấp hơn, còn chỗ thấp thì trở nên cao hơn. Mặt đất bằng phẳng đều đặn khi ngài bước chân, hoặc những bông hoa sen (được rải trên đường) có cảm giác mềm mại êm ái, dễ chịu chờ nâng đôi chân của ngài, khi bàn chân phải của Ngài đã đặt xuống phía bên trong ngạch cửa thì hào quang sáu màu chiếu sáng quảng đại tỏa ra từ kim thân (của bậc Giác Ngộ) xoay tròn lấp lánh trang trí cho lâu đài tháp nhọn v.v. tựa như ánh sáng chói lóa của vàng và như thể được bao bọc bởi một dải lụa xinh đẹp, trong tất cả các loài thú có voi, ngựa và chim v.v, cư trú ở trong khu vực của chúng cũng cùng nhau cất lên những âm thanh quyến rũ, các nhạc khí như trống, đàn tỳ bà v.v., và cả những đồ trang sức đeo trên thân người cũng phát ra những âm thanh du dương.
Tena saññāṇena manussā jānanti — “ajja bhagavā idha piṇḍāya paviṭṭho”ti. Te sunivatthā supārutā gandhapupphādīni ādāya gharā nikkhamitvā antaravīthiṃ paṭipajjitvā bhagavantaṃ gandhapupphādīhi sakkaccaṃ pūjetvā vanditvā — “amhākaṃ, bhante, dasa bhikkhū, amhākaṃ vīsati, paññāsaṃ … pe … sataṃ dethā”ti yācitvā bhagavatopi pattaṃ gahetvā āsanaṃ paññapetvā sakkaccaṃ piṇḍapātena paṭimānenti. Bhagavā katabhattakicco tesaṃ sattānaṃ cittasantānāni oloketvā tathā dhammaṃ deseti, yathā keci saraṇagamanesu patiṭṭhahanti, keci pañcasu sīlesu, keci sotāpattisakadāgāmianāgāmiphalānaṃ aññatarasmiṃ; keci pabbajitvā aggaphale arahatteti. Evaṃ mahājanaṃ anuggahetvā uṭṭhāyāsanā vihāraṃ gacchati. Tattha gantvā maṇḍalamāḷe paññattavarabuddhāsane nisīdati, bhikkhūnaṃ bhattakiccapariyosānaṃ āgamayamāno. Tato bhikkhūnaṃ bhattakiccapariyosāne upaṭṭhāko Bhagavato nivedeti. Atha Bhagavā gandhakuṭiṃ pavisati. idaṃ tāva purebhattakiccaṃ.
Với dấu hiệu này khiến cho tất cả mọi người biết rằng – “Ngày hôm nay đức Thế Tôn đi vào (làng) để khất thực”. Mọi người ai cũng sửa soạn ăn mặc chỉnh tề cùng nhau mang các vật thơm và tràng hoa v.v, rời khỏi nhà đi theo con đường đó, sau khi cúng dường đức Thế Tôn với vật thơm và tràng hoa v.v, một cách cung kính, đã đảnh lễ thỉnh cầu chư Tăng như sau – “Kính bạch ngài, xin ngài hãy vì lòng bi mẫn chỉ định mười vị Tỳ khưu, hai mươi vị Tỳ khưu, năm mươi vị Tỳ khưu, …nt…một trăm vị Tỳ khưu đến cho chúng con” rồi cầm lấy bình bát luôn cả của đức Thế Tôn, đã sắp đặt chỗ ngồi, cúi mình cúng dường đồ ăn khất thực một kính cung kính. Sau khi việc thọ thực hoàn tất, đức Thế Tôn đã quan sát về căn tánh của những chúng sanh đó để thuyết pháp, tương trợ cho một số đã vững trú với việc đi đến nương tựa, một số đã vững trú vào năm giới, một số vững trú trong phẩm vị Thánh Nhập-lưu, Thánh Nhất-lai, Thánh Bất-lai hay phẩm vị nào khác; một số đã xuất gia vững trú vào phẩm vị Thánh A-ra-hán là quả tối thượng, sau khi đã trợ giúp đại chúng như thế, (ngài) đứng dậy từ chỗ ngồi rồi trở về tịnh xá. Khi ngồi trên Phật tọa đã được sửa soạn sẵn trong gian nhà mái tròn, chờ đợi chư Tỳ khưu thọ thực hoàn tất. Sau khi chư Tỳ khưu thọ thực hoàn tất, vị Tỳ khưu thị giả bạch cho đức Thế Tôn biết. Sau đó, đức Thế Tôn đi vào Hương Thất. Đây là phận sự trước bữa ăn.
Atha[111] Bhagavā evaṃ katapurebhattakicco gandhakuṭiyā upaṭṭhāne[112] nisīditvā pāde pakkhāletvā pādapīṭhe ṭhatvā bhikkhusaṅghaṃ ovadati — “Bhikkhave, appamādena sampādetha, dullabho buddhuppādo lokasmiṃ, dullabho manussattapaṭilābho, dullabhā sampatti[113], dullabhā pabbajjā, dullabhaṃ saddhammassavanan”ti. Tattha keci bhagavantaṃ kammaṭṭhānaṃ pucchanti. Bhagavāpi tesaṃ cariyānurūpaṃ kammaṭṭhānaṃ deti. Tato sabbepi bhagavantaṃ vanditvā attano attano rattiṭṭhānadivāṭṭhānāni gacchanti. Keci araññaṃ, keci rukkhamūlaṃ, keci pabbatādīnaṃ aññataraṃ, keci Cātumahārājikabhavanaṃ[114] … pe … keci Vasavattibhavananti. Tato bhagavā gandhakuṭiṃ pavisitvā sace ākaṅkhati, dakkhiṇena passena sato sampajāno muhuttaṃ sīhaseyyaṃ kappeti. Atha samassāsitakāyo vuṭṭhahitvā dutiyabhāge lokaṃ voloketi. Tatiyabhāge yaṃ gāmaṃ vā nigamaṃ vā upanissāya viharati tattha mahājano purebhattaṃ dānaṃ datvā pacchābhattaṃ sunivattho supāruto gandhapupphādīni ādāya vihāre sannipatati. Tato bhagavā sampattaparisāya anurūpena pāṭihāriyena gantvā dhammasabhāyaṃ paññattavarabuddhāsane nisajja dhammaṃ deseti kālayuttaṃ samayayuttaṃ, atha kālaṃ viditvā parisaṃ uyyojeti, manussā bhagavantaṃ vanditvā pakkamanti. Idaṃ pacchābhattakiccaṃ.
Khi ấy, đức Thế Tôn khi thực hiện phận sự trước bữa ăn hoàn tất như vậy, ngồi tại giảng đường ở gần Hương Thất, sau khi rửa chân đã đứng trên bục giảng, rồi ban lời giáo huấn đến hội chúng Tỳ khưu rằng: – “Này chư Tỳ khưu, các ông hãy nên cố gắng hoàn thành mục tiêu của mình, bằng pháp không dễ duôi, sự xuất hiện của đức Phật trên thế gian là một điều khó, được sinh làm người là một điều khó, sự thành tựu trọn vẹn (với một sát-na, đức tin) là một điều khó, được xuất gia trở thành Tỳ khưu là một điều khó, được nghe Chánh Pháp là một điều khó”. Tại nơi đó một số vị Tỳ khưu hỏi về đề mục hành thiền cùng đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn cũng hướng dẫn đề mục hành thiền phù hợp cùng với căn tánh của các vị Tỳ khưu ấy. Sau đó, tất cả các vị Tỳ khưu đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi đi đến chỗ nghỉ ban ngày và chỗ nghỉ ban đêm của mỗi vị. Vị thì vào rừng, vị thì đến gốc cây, vị thì đến núi v.v.; có vị đến cung điện của chư Thiên Tứ Đại Vương … có vị đến cung điện của chư Thiên Vāsavatti. Sau đó, đức Thế Tôn đi vào Hương Thất nếu như có ước muốn, có niệm, có sự nhận thức rõ, áp dụng thế nằm của sư tử (nghỉ ngơi cơ thể) trong chốc lát bằng sườn bên phải. Khi cơ thể khỏe khoắn ngài ngồi dậy quan sát thế gian lần thứ hai. Trong lần thứ 3, tại ngôi làng hoặc thị trấn nơi đức Thế Tôn sống nương tựa ấy, đại chúng cùng nhau đã cúng dường vật thí trước bữa ăn, sau bữa ăn đã mặc y phục tươm tất, mang theo các loại vật thơm và tràng hoa v.v, đến tụ hội với nhau ở tịnh xá. Khi hội chúng đã đầy đủ, đức Thế Tôn đã đi đến bằng phép kỳ diệu thích hợp, ngồi thuyết giảng giáo pháp tùy thời, tùy lúc ở trên Phật tọa cao thượng đã được sắp đặt tỉ mỉ ở Pháp Đường [Dhammasabhā], khi đã biết đúng thời thì giải tán hội chúng, mọi người đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi cùng nhau quay trở về. Đây là phận sự sau bữa ăn.
So evaṃ niṭṭhitapacchābhattakicco sace gattāni osiñcitukāmo hoti, buddhāsanā vuṭṭhāya nhānakoṭṭhakaṃ pavisitvā upaṭṭhākena paṭiyāditaudakena gattāni utuṃ gaṇhāpeti. Upaṭṭhākopi Buddhāsanaṃ ānetvā gandhakuṭipariveṇe paññapeti. Bhagavā surattadupaṭṭaṃ nivāsetvā kāyabandhanaṃ bandhitvā uttarāsaṅgaṃ ekaṃsaṃ karitvā tattha gantvā nisīdati ekakova muhuttaṃ paṭisallīno, atha bhikkhū tato tato āgamma Bhagavato upaṭṭhānaṃ āgacchanti. tattha ekacce pañhaṃ pucchanti, ekacce kammaṭṭhānaṃ, ekacce dhammassavanaṃ yācanti. Bhagavā tesaṃ adhippāyaṃ sampādento purimayāmaṃ vītināmeti. Idaṃ purimayāmakiccaṃ.
Đức Thế Tôn ấy khi hoàn tất phận sự sau bữa ăn như vậy, nếu có mong muốn sẽ tắm gội thân thể, ngài đứng dậy từ Phật tọa đi vào ngôi nhà mái vòm để tắm rửa với nước được vị Tỳ khưu thị giả chuẩn bị sẵn. Còn vị Tỳ khưu thị giả cũng đem tọa cụ của đức Phật trải ra ở khu vực Hương Thất. Đức Thế Tôn khoác y hai lớp đã được nhuộm kỹ, buộc dây thắt lưng, đắp thượng y một bên vai rồi ngài đi đến ngồi trên Phật tọa ấy ấy, một mình, an tịnh trong chốc lát. Khi đó chư Tỳ khưu cùng nhau đến từ nơi này nơi khác đến nơi Pháp Đường của đức Thế Tôn. Tại nơi đó, một số vị hỏi vấn đề, một số xin đề mục hành thiền, một số xin được nghe pháp. Đức Thế Tôn đã ngồi nán lại suốt canh đầu, để cho sự mong muốn của các vị Tỳ khưu ấy thành tựu. Đây là phận sự vào canh đầu.
Purimayāmakiccapariyosāne pana bhikkhūsu bhagavantaṃ vanditvā pakkantesu sakaladasasahassilokadhātudevatāyo okāsaṃ labhamānā bhagavantaṃ upasaṅkamitvā pañhaṃ pucchanti, yathābhisaṅkhataṃ antamaso caturakkharampi. Bhagavā tāsaṃ devatānaṃ pañhaṃ vissajjento majjhimayāmaṃ vītināmeti. Idaṃ majjhimayāmakiccaṃ.
Hơn nữa trong khi hoàn tất phận sự vào canh đầu chư Tỳ khưu đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi quay trở về, chúng chư Thiên trong toàn thể mười ngàn thế giới khi có được cơ hội cũng cùng nhau đến gặp đức Thế Tôn, hỏi những câu hỏi đã được soạn sẵn, dù chỉ vắn tắt bốn chữ. Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi cùng những vị chư Thiên ấy, suốt canh giữa. Đây là phận sự vào canh giữa.
Pacchimayāmaṃ pana tayo koṭṭhāse katvā purebhattato paṭṭhāya nisajjāya pīḷitassa sarīrassa kilāsubhāvamocanatthaṃ ekaṃ koṭṭhāsaṃ caṅkamena vītināmeti. dutiyakoṭṭhāse gandhakuṭiṃ pavisitvā dakkhiṇena passena sato sampajāno sīhaseyyaṃ kappeti. Tatiyakoṭṭhāse paccuṭṭhāya nisīditvā purimabuddhānaṃ santike dānasīlādivasena katādhikārapuggaladassanatthaṃ buddhacakkhunā lokaṃ voloketi. Idaṃ pacchimayāmakiccaṃ.
Còn phận sự vào canh cuối đức Thế Tôn chia làm 3 thời là thời thứ nhất trải qua thời gian với việc đi kinh hành, để xua tan sự mệt mỏi của cơ thể đã bị chi phối bởi tư thế ngồi từ trước bữa ăn. Trong thời thứ hai ngài bước vào Hương Thất, có niệm, có sự nhận thức rõ ràng, áp dụng thế nằm của sư tử (nghỉ ngơi cơ thể) trong chốc lát bằng sườn bên phải. Vào thời thứ ba ngài đứng dậy từ chỗ ngồi và dùng Phật nhãn quán xét thế gian để thấy những chúng sinh đã gieo trồng căn lành nơi các Đức Phật quá khứ qua việc thực hành bố thí, trì giới v.v.. Đây là phận sự vào canh cuối.
Tasmiṃ pana divase Bhagavā purebhattakiccaṃ Rājagahe pariyosāpetvā pacchābhatte maggaṃ āgato, purimayāme bhikkhūnaṃ kammaṭṭhānaṃ kathetvā, majjhimayāme devatānaṃ pañhaṃ vissajjetvā, pacchimayāme caṅkamaṃ āruyha caṅkamamāno pañcannaṃ bhikkhusatānaṃ imaṃ sabbaññutaññāṇaṃ ārabbha pavattaṃ kathaṃ sabbaññutaññāṇeneva sutvā aññāsīti. Tena vuttaṃ — “pacchimayāmakiccaṃ karonto aññāsī”ti.
Vào ngày hôm ấy, sau khi hoàn tất phận sự trước bữa ăn tại thành Rājagaha và lên đường vào thời gian sau bữa ăn, Đức Thế Tôn đã thuyết giảng đề mục thiền cho các Tỳ-kheo vào canh đầu và giải đáp các câu hỏi của chư Thiên vào canh giữa. Đến canh cuối, trong khi đi kinh hành, Ngài đã dùng chính Trí Toàn Tri mà nghe và biết được cuộc trò chuyện của năm trăm vị Tỳ-kheo đang bàn về năng lực Toàn tri này. Do đó, có lời ghi rằng: “Ngài đã biết (việc ấy) trong khi đang thực hành phận sự canh cuối.”
Ñatvā ca panassa etadahosi — “ime bhikkhū mayhaṃ sabbaññutaññāṇaṃ ārabbha guṇaṃ kathenti, etesañca sabbaññutaññāṇakiccaṃ na pākaṭaṃ, mayhameva pākaṭaṃ. mayi pana gate ete attano kathaṃ nirantaraṃ ārocessanti, tato nesaṃ ahaṃ taṃ aṭṭhuppattiṃ katvā tividhaṃ sīlaṃ vibhajanto, dvāsaṭṭhiyā ṭhānesu appaṭivattiyaṃ sīhanādaṃ nadanto, paccayākāraṃ samodhānetvā Buddhaguṇe pākaṭe katvā, sineruṃ ukkhipento viya suvaṇṇakūṭena nabhaṃ paharanto viya ca dasasahassilokadhātukampanaṃ brahmajālasuttantaṃ arahattanikūṭena niṭṭhāpento desessāmi, sā me desanā parinibbutassāpi pañcavassasahassāni sattānaṃ amatamahānibbānaṃ sampāpikā[115] bhavissatī”ti. Evaṃ cintetvā yena maṇḍalamāḷo tenupasaṅkamīti . Yenāti yena disābhāgena, so upasaṅkamitabbo. Bhummatthe vā etaṃ karaṇavacanaṃ, yasmiṃ[116] padese so maṇḍalamāḷo, tattha gatoti ayamettha attho.
Và sau khi biết ngài đã khởi lên suy tư như vầy – “Những vị Tỳ khưu này đã nói đến ân đức liên quan đến Trí Toàn Tri của ta, và phận sự của Trí Toàn Tri không hiện hữu cùng những vị Tỳ khưu này chỉ hiện hữu nơi ta mà thôi, khi ta đi thì ngay lập tức những vị Tỳ khưu này sẽ nói chuyện của mình. Từ đó, ta sẽ nói chuyện của những vị Tỳ khưu ấy làm căn nguyên rồi phân chia giới thành ba loại, gầm lên tiếng gầm sư tử mà bất kỳ ai cũng không thể chuyển vận nghịch lại trong 62 trường hợp, sau khi đã thu thập về lý duyên khởi làm cho ân đức Phật được hiện hữu, sẽ thuyết giảng bài Kinh Mạng Lưới Cao Thượng làm cho mười ngàn thế giới rung chuyển, kết thúc với đỉnh cao là A-ra-hán, y như nâng đỉnh núi Suneru lên và giống như ném vào bầu trời với cái búa vàng, Pháp thoại ấy, ngay cả sau khi ta đã nhập diệt, vẫn sẽ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh đến Bất tử Đại Niết-bàn trong suốt năm ngàn năm.”. Như vậy, khi đức Phật nghĩ như vậy ngài bước vào gian nhà mái tròn nơi các vị Tỳ khưu đang ngồi. Yena: Từ yena (ở đây chỉ phương hướng) được dùng theo nghĩa của định sở cách, tức là: “Nơi nào có ngôi nhà tròn, Ngài đi đến nơi đó.”
Paññatte āsane nisīdīti Buddhakāle kira yattha yattha ekopi bhikkhu viharati sabbattha Buddhāsanaṃ paññattameva hoti. Kasmā? Bhagavā kira attano santike kammaṭṭhānaṃ gahetvā phāsukaṭṭhāne viharante manasi karoti — “asuko mayhaṃ santike kammaṭṭhānaṃ gahetvā gato, sakkhissati[117] nu kho visesaṃ nibbattetuṃ no vā”ti. atha naṃ passati kammaṭṭhānaṃ vissajjetvā akusalavitakkaṃ vitakkayamānaṃ, tato “kathañhi nāma mādisassa satthu santike kammaṭṭhānaṃ gahetvā viharantaṃ imaṃ kulaputtaṃ akusalavitakkā abhibhavitvā anamatagge vaṭṭadukkhe saṃsāressantī”ti[118] tassa anuggahatthaṃ tattheva attānaṃ dassetvā taṃ kulaputtaṃ ovaditvā ākāsaṃ uppatitvā puna attano vasanaṭṭhānameva gacchati. Athevaṃ ovadiyamānā te bhikkhū cintayiṃsu — “satthā amhākaṃ manaṃ jānitvā āgantvā amhākaṃ samīpe ṭhitaṃyeva attānaṃ dasseti”. tasmiṃ khaṇe — “bhante, idha nisīdatha, idha nisīdathā”ti āsanapariyesanaṃ nāma bhāroti. te āsanaṃ paññapetvāva viharanti. yassa pīṭhaṃ atthi, so taṃ paññapeti. yassa natthi, so mañcaṃ vā phalakaṃ vā kaṭṭhaṃ vā pāsāṇaṃ vā vālukapuñjaṃ vā paññapeti. taṃ alabhamānā purāṇapaṇṇānipi saṅkaḍḍhitvā tattha paṃsukūlaṃ pattharitvā ṭhapenti. idha pana rañño nisīdanāsanameva atthi, taṃ papphoṭetvā paññapetvā parivāretvā te bhikkhū Bhagavato adhimuttikañāṇamārabbha guṇaṃ thomayamānā nisīdiṃsu. taṃ sandhāya vuttaṃ — “Paññatte āsane nisīdī”ti. Athevaṃ ovadiyamānā te bhikkhū cintayiṃsu — “Satthā amhākaṃ manaṃ jānitvā āgantvā amhākaṃ samīpe ṭhitaṃyeva attānaṃ dasseti”. Tasmiṃ khaṇe — “Bhante, idha nisīdatha, idha nisīdathā”ti āsanapariyesanaṃ nāma bhāroti. Te āsanaṃ paññapetvāva viharanti. Yassa pīṭhaṃ atthi, so taṃ paññapeti. Yassa natthi, so mañcaṃ vā phalakaṃ vā kaṭṭhaṃ vā pāsāṇaṃ vā vālukapuñjaṃ[119] vā paññapeti. Taṃ alabhamānā purāṇapaṇṇānipi saṅkaḍḍhitvā tattha paṃsukūlaṃ pattharitvā ṭhapenti. Idha pana rañño nisīdanāsanameva atthi, taṃ papphoṭetvā paññapetvā parivāretvā te bhikkhū bhagavato adhimuttikañāṇamārabbha guṇaṃ thomayamānā nisīdiṃsu. Taṃ sandhāya vuttaṃ — “paññatte āsane nisīdī”ti.
Ngồi xuống ở chỗ ngồi được sắp đặt sẵn: ngồi trên chỗ ngồi đã được sắp đặt tỉ mỉ, được biết vào thời kỳ của đức Phật ở bất kỳ chỗ nào có Tỳ khưu cư trú dù chỉ có một vị thì cũng đều được sắp đặt Phật Tọa ở mọi nơi. Vì sao? Được biết đức Thế Tôn tác ý đến những vị Tỳ khưu đã nắm giữ đề mục hành thiền trong trú xứ của ngài, cư trú ở nơi dễ chịu rằng – “Vị Tỳ khưu kia đã nắm giữ đề mục hành thiền trong trú xứ của ta, có thể làm ân đức cao thượng sanh khởi hay không?” Khi nhìn thấy vị Tỳ khưu ấy từ bỏ đề mục hành thiền, đang suy tư đến suy tầm về bất thiện. Sau đó, đức Phật có suy nghĩ như sau: “Thiện nam tử này đã nắm giữ đề mục hành thiền trong trú xứ của bậc Đạo Sư như ta, nguyên nhân nào lại bị suy tầm bất thiện chi phối khiến chìm vào vòng luân hồi khổ không có điểm khởi đầu và kết thúc”, để trợ giúp vị Tỳ khưu đó, ngài đã thể hiện mình ở ngay chính tại nơi ấy, trong khi ban bố lời giáo huấn đến thiện nam tử đó ngài đã bay lên không trung, rồi quay trở về nơi cư ngụ của ngài. Sau đó, những vị Tỳ khưu ấy trong khi được đức Thế Tôn ban lời giáo huấn như vậy khởi lên suy nghĩ rằng – “Bậc Đạo Sư biết được suy nghĩ của chúng ta, ngài đã đến thể hiện chính mình trong tư thế đứng gần chỗ chúng ta”. Nhiệm vụ của chúng ta là sắp đặt chỗ ngồi dành cho đức Phật, đối với việc thỉnh mời vào thời điểm đó: “Kính bạch ngài, xin ngài hãy ngồi trên chỗ ngồi này, xin ngài hãy ngồi trên chỗ ngồi này. Chư Tỳ khưu ấy mới sắp đặt chỗ ngồi dành cho đức Phật. Vị có ghế thì sắp đặt ghế. Vị không có ghế thì sắp đặt giường, hoặc tấm bảng, hoặc gỗ, hoặc phiến đá hoặc đống cát, khi không được như thế cũng có thể lấy những lá cây cũ đến rồi trải tấm y phấn tảo chồng lên chính những chiếc lá cũ đó. Nhưng tại nhà nghỉ của đức vua ở khu vườn Ambalaṭṭhikā này có chỗ ngồi của đức vua, chư Tỳ khưu hỗ trợ nhau quét dọn bụi bẩn, chỗ ngồi ấy đã được sắp đặt sẵn, ngồi xung quanh ngợi khen về ân đức Phật liên quan đến trí tuệ biết được căn tánh của chúng sanh của đức Thế Tôn. Đại đức Ānanda muốn đề cập đến chỗ ngồi ấy mới nói rằng: “Ngồi xuống ở chỗ ngồi được sắp đặt sẵn”.
Evaṃ nisinno pana jānantoyeva kathāsamuṭṭhāpanatthaṃ bhikkhū pucchi. Te cassa sabbaṃ kathayiṃsu. Tena vuttaṃ — “Nisajja kho bhagavā”tiādi. Tattha kāya nutthāti katamāya nu kathāya sannisinnā bhavathāti attho. Kāya netthātipi pāḷi, tassā katamāya nu etthāti attho kāya notthātipi pāḷi. Tassāpi purimoyeva attho.
Hơn nữa, đức Thế Tôn đã ngồi như vậy, dù biết được cũng hỏi chư Tỳ khưu nhằm mục đích tạo ra cuộc đàm luận và chư Tỳ khưu ấy cũng cùng nhau đáp lại ngài mọi chuyện. Vì lý do ấy đại đức Ānanda mới nói rằng: “Đức Thế Tôn sau khi ngồi như vậy v.v.” Trong các câu ấy ‘câu chuyện gì’ nghĩa là các ông ngồi đàm luận với nhau câu chuyện gì vậy? Pāḷī ‘kāya nettha’ cũng có. Pāḷī ấy có ý nghĩa rằng: các ông ngồi đàm luận với nhau chuyện gì ở đây? Pāḷī ‘kāya nottha’ cũng có. Ở đó cũng có ý nghĩa tương tự như ý nghĩa trước.
Antarākathāti, kammaṭṭhānamanasikārauddesaparipucchādīnaṃ antarā aññā ekā kathā. Vippakatāti, mama āgamanapaccayā apariniṭṭhitā sikhaṃ appattā. Tena kiṃ dasseti? “nāhaṃ tumhākaṃ kathābhaṅgatthaṃ āgato, ahaṃ pana sabbaññutāya tumhākaṃ kathaṃ niṭṭhāpetvā matthakappattaṃ katvā dassāmīti āgato”ti nisajjeva sabbaññupavāraṇaṃ pavāreti. Ayaṃ kho no, bhante, antarākathā vippakatā, atha bhagavā anuppattoti etthāpi ayamadhippāyo. Ayaṃ bhante amhākaṃ bhagavato sabbaññutaññāṇaṃ ārabbha guṇakathā vippakatā, na rājakathādikā tiracchānakathā, atha Bhagavā anuppatto; taṃ no idāni niṭṭhāpetvā desethāti[120].
Câu chuyện các ông nói còn dang dở: Cuộc đàm thoại giữa việc tác ý đến đề mục hành thiền được diễn giải và hỏi v.v, ở giữa một câu chuyện khác. Nói còn dang dở: vẫn chưa chấm dứt, là vẫn chưa đi đến cuối cùng, do đấng Như Lai đến. Với câu đó thuyết giảng như thế nào? “Không phải Như Lai vì dừng việc đàm luận của các ông, mà đến với hy vọng sẽ thuyết giảng cho việc đàm luận của các ông kết thúc, là làm cho đi đến cuối cùng với bản thể Toàn Giác”, vì thế đức Thế Tôn đã ngồi, cho phép mọi sự thông suốt. Bạch ngài, câu chuyện trao đổi này giữa chúng con vẫn còn dang dở, khi ấy đức Thế Tôn đi đến: chính ở đây, đây là ý định. Kính bạch ngài, việc đàm luận về ân đức Phật liên quan đến Toàn Giác Trí của đức Thế Tôn vẫn còn dang dở, không phải nói lời phù phiếm như câu chuyện về vua chúa v.v, vừa lúc đức Thế Tôn ngài đi đến; xin ngài hãy thuyết giảng để cho cuộc đàm luận của chúng con kết thúc ngay bây giờ.
Ettāvatā ca yaṃ āyasmatā Ānandena kamalakuvalayujjalavimalasādhurasasalilāya pokkharaṇiyā sukhāvataraṇatthaṃ nimmalasilātalaracanavilāsa[121] sobhitaratanasopānaṃ, vippakiṇṇamuttātalasadisavālukākiṇṇa[122] paṇḍarabhūmibhāgaṃ titthaṃ viya suvibhattabhittivicitravedikāparikkhittassa nakkhattapathaṃ phusitukāmatāya viya, vijambhita[123] samussayassa pāsādavarassa sukhārohaṇatthaṃ dantamayasaṇhamuduphalakakañcanalatāvinaddhamaṇigaṇappabhāsamudayujjalasobhaṃ sopānaṃ viya, suvaṇṇavalayanūpurādisaṅghaṭṭanasaddasammissitakathitahasitamadhurassaragehajanavicaritassa uḷārissarivibhavasobhitassa mahāgharassa sukhappavesanatthaṃ suvaṇṇarajatamaṇimuttapavāḷādijutivissaravijjotitasuppatiṭṭhitavisāladvārabāhaṃ mahādvāraṃ viya ca atthabyañjanasampannassa buddhaguṇānubhāvasaṃsūcakassa imassa suttassa sukhāvagahaṇatthaṃ kāladesadesakavatthuparisāpadesapaṭimaṇḍitaṃ nidānaṃ bhāsitaṃ, tassatthavaṇṇanā samattāti.
Và chỉ với chừng ấy lời, đại đức Ānanda có được lời nói làm căn nguyên được tô điểm với thời gian, xứ sở, người thuyết, câu chuyện, hội chúng và dẫn chứng để hiểu một cách dễ dàng bài Kinh này, giải thích oai lực của ân đức Phật đầy đủ về mặt ý nghĩa và văn cú, ví như hồ nước có khu vực trong lành sạch sẽ đầy cát tựa như một chuỗi ngọc trai được tản mát, có bậc thang ngọc được điểm tô tuyệt đẹp được sắp xếp với bề mặt đá vô cấu để có thể bước dễ dàng xuống hồ nước có vị ngon ngọt, tinh khiết, rực rỡ với những đóa hoa hoa sen và những đóa hoa súng, và ví như cầu thang xinh đẹp rực rỡ phát ra ánh sáng từ ngọc ma-ni, có tấm ván nhẵn nhụi, mềm mịn được làm bằng ngà voi được buộc chặt bằng dây leo vàng để bước thuận tiện vào lâu đài cao quý có mái nhà được tô trát kỹ lưỡng, bao quanh bởi hàng lan can tuyệt đẹp, cả hình dáng được trang hoàng rực rỡ, y như có ý muốn chạm vào những vì tinh tú và giống như Đại Tự có các cửa sổ lớn được lắp đặt kỹ lưỡng rực rỡ bởi hào quang của vàng bạc, ngọc ma-ni, ngọc trai và ngọc sang hô v.v, để dễ dàng bước vào một ngôi nhà rộng lớn, xinh đẹp, quyền thế, của cải tài sản đồ xộ cùng những tiếng rít lên và các điệu nhảy của những hộ gia đình có âm giọng êm dịu, tiếng nói cười hớn hở xen lẫn với tiếng va chạm của các đồ trang sức bằng như lắc tay vàng và đồ trang sức ở chân v.v.
Giải Thích Nhân Thiết Lập Bài Kinh
5. Idāni — “mamaṃ vā, bhikkhave, pare avaṇṇaṃ bhāseyyun”tiādinā nayena bhagavatā nikkhittassa suttassa vaṇṇanāya okāso anuppatto. Sā panesā suttavaṇṇanā. yasmā suttanikkhepaṃ vicāretvā vuccamānā pākaṭā hoti, tasmā suttanikkhepaṃ tāva vicārayissāma. Cattāro hi suttanikkhepā — attajjhāsayo, parajjhāsayo, pucchāvasiko, aṭṭhuppattikoti.
5. Bây giờ, đã đến lúc giảng giải bài kinh do Đức Thế Tôn thuyết giảng theo phương pháp bắt đầu bằng câu: “Này chư Tỳ khưu, những người khác có thể chê bai ta v.v.” Về phần giải thích bài kinh này, vì lời giảng sẽ trở nên sáng rõ khi được trình bày sau khi đã xem xét về duyên khởi thiết lập bài kinh, cho nên trước hết, chúng ta sẽ xem xét về các duyên khởi ấy. Thật vậy có bốn nguyên nhân để thiết thiết lập bài kinh – (1) Attajjhāsaya: Do tự thân (bậc Đạo sư) khởi ý. (2) Parajjhāsaya: Do người khác khởi ý. (3) Pucchāvasika: Do một câu hỏi. (4) Aṭṭhuppattikoti: Do một sự kiện phát sinh.
Tattha yāni suttāni Bhagavā parehi anajjhiṭṭho kevalaṃ attano ajjhāsayeneva kathesi; seyyathidaṃ, ākaṅkheyyasuttaṃ, vatthasuttaṃ, mahāsatipaṭṭhānaṃ, mahāsaḷāyatanavibhaṅgasuttaṃ, ariyavaṃsasuttaṃ, sammappadhānasuttantahārako, iddhipādaindriyabalabojjhaṅgamaggaṅgasuttantahārakoti evamādīni; tesaṃ attajjhāsayo nikkhepo.
Trong các nguyên nhân đó những bài Kinh nào mà người khác không thỉnh cầu, đức Thế Tôn thuyết giảng toàn bộ dựa theo khuynh hướng của cá nhân; đó là, Kinh Ước Nguyện [Ākaṅkheyyasutta], Kinh Ví Dụ Tấm Vải [Vatthasuttaṃ], Đại Kinh Thiết Lập Niệm [Mahāsatipaṭṭhāna], Kinh Đại Kinh Phân Biệt Sáu Xứ [Mahāsaḷāyatanavibhaṅgasutta], Kinh Truyền Thống Bậc Thánh [Ariyavaṃsasutta], và phần của Kinh Tứ Chánh Cần, phần của Kinh Tứ Như Ý Túc, Ngũ Căn, Ngũ Lực, Thất Giác Chi, Và Bát Chánh Đạo v.v, những bài Kinh đó gọi là có nhân được thiết lập do tự thân (bậc Đạo sư) khởi ý.
Yāni pana “paripakkā kho Rāhulassa vimuttiparipācaniyā dhammā; yaṃnūnāhaṃ Rāhulaṃ uttariṃ āsavānaṃ khaye vineyyan”ti[124]; eEvaṃ paresaṃ ajjhāsayaṃ khantiṃ manaṃ abhinīhāraṃ bujjhanabhāvañca avekkhitvā parajjhāsayavasena kathitāni; Seyyathidaṃ, Cūḷarāhulovādasuttaṃ, Mahārāhulovādasuttaṃ, Dhammacakkappavattanaṃ, Dhātuvibhaṅgasuttanti evamādīni; tesaṃ parajjhāsayo nikkhepo.
Hơn nữa, những bài Kinh nào đức Thế Tôn thuyết do tác động khuynh hướng của người khác, sau khi quan sát khuynh hướng sự mong mỏi, sự ưa thích, nguyện vọng và tính chất giác ngộ của người khác như vầy rằng: “Pháp làm cho sự giải thoát của Rāhula trở nên chín mùi, vậy Ta hãy hướng dẫn Rāhula thêm nữa pháp diệt trừ các lậu hoặc (saṃ. ni. 4.121).” Chẳng hạn như: Tiểu Kinh Giáo Giới Rāhula [Cūḷarāhulovāda], Đại Kinh Giáo Giới Rāhula [Mahārāhulovāda], Kinh Chuyển Pháp Luân [Dhammacakkappavattana], Kinh Phân Tích Giới [Dhātuvibhaṅga],; những bài Kinh đó gọi là có nhân được thiết lập do người khác khởi ý.
Bhagavantaṃ pana upasaṅkamitvā catasso parisā, cattāro vaṇṇā, nāgā, supaṇṇā, gandhabbā, asurā, yakkhā, mahārājāno, tāvatiṃsādayo devā, mahābrahmāti evamādayo — “bojjhaṅgā bojjhaṅgā”ti, bhante, vuccanti[125]. “Nīvaraṇā nīvaraṇā”ti, bhante, vuccanti; “ime nu kho, bhante, pañcupādānakkhandhā”. “Kiṃ sūdha vittaṃ purisassa seṭṭhan”tiādinā[126] nayena pañhaṃ pucchanti. Evaṃ puṭṭhena bhagavatā yāni kathitāni bojjhaṅgasaṃyuttādīni, yāni vā panaññānipi devatāsaṃyutta-mārasaṃyutta-brahmasaṃyutta-sakkapañha-cūḷavedalla-mahāvedalla-sāmaññaphala-āḷavaka-sūciloma-kharalomasuttādīni; tesaṃ pucchāvasiko nikkhepo.
Lại nữa, khi bốn hội chúng, bốn giai cấp, các loài rồng, Nhân-điểu, Càn-thát-bà, A-tu-la, Dạ-xoa, Tứ đại Thiên vương, chư Thiên cõi trời Đao lợi v.v, Đại Phạm thiên sau khi đến gần đức Thế Tôn và hỏi những câu hỏi theo phương cách như sau – “Kính bạch đức Thế Tôn được gọi là ‘Các chi phần giác ngộ, các chi phần giác ngộ’. Kính bạch ngài, được gọi là ‘các pháp ngăn che, các pháp ngăn che’. “Như vậy, kính bạch đức Thế Tôn sự chấp thủ vào năm uẩn trong đời này”. “Điều gì là tài sản quý giá nhất của loài người”. Khi được hỏi như vậy, đức Thế Tôn thuyết giảng về Tương Ưng Giác Chi v.v, hoặc các bài Kinh khác như Tương Ưng Chư Thiên, Tương Ưng Ác Ma, Tương Ưng Phạm Thiên, Kinh Ðế Thích Sở Vấn, Kinh Tiểu Phương Quảng [Cūḷavedalla], Kinh Đại Phương Quảng [Mahāvedalla], Kinh Sa-môn Quả, Kinh Āḷavaka, Kinh Sūciloma, Kinh Kharaloma v.v, những bài Kinh đó gọi là có nhân được thiết lập do một câu hỏi.
Yāni pana tāni uppannaṃ kāraṇaṃ paṭicca kathitāni, seyyathidaṃ — Dhammadāyādaṃ, Cūḷasīhanādaṃ, Candūpamaṃ[127], Puttamaṃsūpamaṃ, Dārukkhandhūpamaṃ, Aggikkhandhūpamaṃ, Pheṇapiṇḍūpamaṃ, Pāricchattakūpamanti evamādīni; tesaṃ aṭṭhuppattiko nikkhepo.
Lại nữa, ở đây những bài Kinh nào mà đức Thế Tôn dựa vào lý do đã khởi lên rồi mới thuyết giảng, chẳng hạn như: Kinh Dhammadāyāda, Kinh Cūḷasīhanāda, Kinh Candūpama, Kinh Puttamaṃsūpama, Kinh Dārukkhandhūpama, Kinh Aggikkhandhūpama, Kinh Pheṇapiṇḍūpama, Kinh Pāricchattakūpama; Những bài kinh đó gọi là có nhân được thiết lập do một sự kiện phát sinh.
Evametesu catūsu nikkhepesu imassa suttassa aṭṭhuppattiko nikkhepo. aṭṭhuppattiyā hi[128] idaṃ bhagavatā nikkhittaṃ. Katarāya aṭṭhuppattiyā? Vaṇṇāvaṇṇe. Ācariyo ratanattayassa avaṇṇaṃ abhāsi, antevāsī vaṇṇaṃ. Iti imaṃ vaṇṇāvaṇṇaṃ aṭṭhuppattiṃ katvā desanākusalo Bhagavā — “mamaṃ vā, bhikkhave, pare avaṇṇaṃ bhāseyyun”ti desanaṃ ārabhi. Tattha mamanti, sāmivacanaṃ, mamāti attho. Vā-saddo vikappanattho. Pareti, paṭiviruddhā sattā. Tatrāti ye avaṇṇaṃ vadanti tesu.
Trong số bốn nhân được thiết lập như đã giải thích này thì bài Kinh Mạng Lưới Cao Thượng có nhân được thiết lập do một sự kiện phát sinh. Bởi vì Đức Thế Tôn đã thuyết giảng bài kinh này nhân một sự kiện cụ thể. Nhân sanh khởi như thế nào? Sự kiện đó là gì? Là việc khen và chê. Vị thầy đã nói lời chê bai Tam Bảo, còn người đệ tử thì nói lời tán thán. Như vậy, lấy việc khen-chê này làm duyên khởi, Đức Thế Tôn, bậc thiện xảo trong thuyết giảng, đã bắt đầu bài pháp: – “Này chư Tỳ khưu, những người khác có thể nói lời chê bai ta v.v.” Ở đây ‘mamaṃ’ là Sở Hữu Cách [Chaṭṭhīvibhatti] đồng nghĩa với ‘mama’. Từ ‘vā’ có nghĩa là sự tách rời ‘hoặc’. Người khác: những chúng sanh khác là kẻ thù nghịch. Những người đó: trong nhóm người nói lời chỉ trích ấy.
Na āghātotiādīhi kiñcāpi tesaṃ bhikkhūnaṃ āghātoyeva natthi, atha kho āyatiṃ kulaputtānaṃ īdisesupi ṭhānesu akusaluppattiṃ paṭisedhento dhammanettiṃ ṭhapeti. Tattha āhanati cittanti ‘āghāto’; kopassetaṃ adhivacanaṃ. Appatītā honti tena atuṭṭhā asomanassikāti appaccayo; domanassassetaṃ adhivacanaṃ. Neva attano na paresaṃ hitaṃ abhirādhayatīti anabhiraddhi; kopassetaṃ adhivacanaṃ. Evamettha dvīhi padehi saṅkhārakkhandho, ekena vedanākkhandhoti dve khandhā vuttā. Tesaṃ vasena sesānampi sampayuttadhammānaṃ kāraṇaṃ paṭikkhittameva.
Chớ có sự căm hận v.v, dù các Tỳ-kheo ấy không hề có sân hận, Đức Thế Tôn vẫn thiết lập một nguyên tắc của Pháp (dhammanetti) nhằm ngăn chặn sự phát sinh của bất thiện tâm nơi các thiện nam tử trong tương lai, ngay cả trong những hoàn cảnh tương tự. Ở đây, ‘sự căm hận’ (āghāta) được gọi vậy vì nó “đánh vào tâm” (āhanati cittaṃ). Đây là một tên gọi khác của kopa (sự phẫn nộ). Sự bất mãn (Appaccayo): được gọi vậy vì nó khiến người ta “không hài lòng, không vừa ý, không hoan hỷ”. Đây là một tên gọi khác của domanassa (ưu sầu, khổ tâm). Sự không hài lòng (Anabhiraddhi): không hoan hỷ lợi ích cho mình, mà cũng không hoan hỷ lợi ích cho người khác. Từ này là tên gọi của sự phẫn nộ (kopa). Như vậy, ở đây, hai uẩn đã được đề cập đến: Hành uẩn (qua hai thuật ngữ āghāta và anabhiraddhi) và Thọ uẩn (qua thuật ngữ appaccayo). Qua việc loại trừ các tâm sở này, nguyên nhân phát sinh của các pháp tương ưng còn lại cũng mặc nhiên bị loại trừ.
Evaṃ paṭhamena nayena manopadosaṃ nivāretvā, dutiyena nayena tattha ādīnavaṃ dassento āha — “tatra ce tumhe assatha kupitā vā anattamanā vā, tumhaṃ yevassa tena antarāyo”ti. Tattha ‘tatra ce tumhe assathā’ ’ti tesu avaṇṇabhāsakesu, tasmiṃ vā avaṇṇe tumhe bhaveyyātha ce; yadi bhaveyyāthāti attho. ‘Kupitā’ kopena, anattamanā domanassena. ‘Tumhaṃ yevassa tena antarāyo’ ’ti tumhākaṃyeva tena kopena, tāya ca anattamanatāya paṭhamajjhānādīnaṃ antarāyo bhaveyya.
Như vậy, sau khi đã ngăn chặn sự bất bình của tâm theo cách thứ nhất, Ngài chỉ ra lỗi nguy hiểm của nó theo cách thứ hai và dạy rằng: “Nếu như các ngươi trở nên bực tức, hoặc không hoan hỷ đối với những kẻ ấy, sự chướng ngại có thể xuất hiện cho chính các ngươi.” Ở đây, “nếu như các ngươi trở nên bực tức”: có nghĩa là, “nếu các ngươi trở nên [sân hận hay bất mãn] đối với những người nói lời chê bai ấy, hoặc đối với chính lời chê bai ấy”. Kupitā (sân hận) là do kopa (sự phẫn nộ); anattamanā (bất mãn) là do domanassa (ưu sầu). ‘sự chướng ngại có thể xuất hiện cho các ngươi do chính nguyên nhân ấy’: có nghĩa là, chính vì sự sân hận và bất mãn ấy mà một chướng ngại sẽ khởi lên cho các ngươi (trên con đường tu tập) như Sơ thiền v.v.
Evaṃ dutiyena nayena ādīnavaṃ dassetvā, tatiyena nayena vacanatthasallakkhaṇamattepi asamatthataṃ dassento — “Api nu tumhe paresan”tiādimāha. Tattha paresanti yesaṃ kesaṃ ci. Kupito hi neva buddhapaccekabuddhāriyasāvakānaṃ, na mātāpitūnaṃ, na paccatthikānaṃ subhāsita-dubbhāsitassa atthaṃ ājānāti. Yathāha —
“Kuddho atthaṃ na jānāti, kuddho dhammaṃ na passati.
Andhaṃ tamaṃ tadā hoti, yaṃ kodho sahate naraṃ.
Anatthajanano kodho, kodho cittappakopano.
Bhayamantarato jātaṃ, taṃ jano nāvabujjhatī”ti.[129]
Sau khi chỉ ra lỗi nguy hiểm theo cách thứ hai như vậy, Ngài tiếp tục theo cách thứ ba để chỉ ra rằng (người sân hận) ngay cả đến việc nhận biết ý nghĩa của lời nói cũng không thể làm được, và dạy rằng: “Các ông có thể nhận biết điều đã được nói đúng, điều đã được nói sai của những kẻ khác không?” Ở đây, ‘của những kẻ khác’ có nghĩa là của bất kỳ ai. Thật vậy, người sân hận không thể biết được ý nghĩa lời nói đúng hay sai của bất kỳ ai, dù là của một vị Phật, một vị Phật Độc Giác, một vị Thánh Thinh Văn, của cha mẹ, hay của kẻ đối nghịch. Như có lời dạy rằng:
Người bị nóng giận không biết được sự lợi ích, người bị nóng giận không nhìn thấy lý lẽ. Sự nóng giận chi phối người nào, ngay lập tức sự mù quáng tối tăm hiện diện.
Sân sản sinh ra điều không lợi ích, sân tạo ra sự rối loạn của tâm. Người đời không thấu hiểu sự nguy hiểm ấy đã được sanh ra từ bên trong.
Evaṃ sabbathāpi avaṇṇe manopadosaṃ nisedhetvā idāni paṭipajjitabbākāraṃ dassento — “tatra tumhehi abhūtaṃ abhūtato”tiādimāha.
Như vậy, sau khi đã ngăn chặn sự bất bình của tâm trước lời chê bai bằng mọi cách, giờ đây, để chỉ ra cách thức nên thực hành, Ngài dạy rằng: “Trong trường hợp ấy các ngươi nên giải thích rõ ràng rằng điều không đúng là không đúng”.
Tattha tatra tumhehīti, tasmiṃ avaṇṇe tumhehi. Abhūtaṃ abhūtato nibbeṭhetabbanti yaṃ abhūtaṃ, taṃ abhūtabhāveneva apanetabbaṃ. Kathaṃ?Itipetaṃ abhūtantiādinā nayena. Tatrāyaṃ yojanā — “Tumhākaṃ satthā na sabbaññū, dhammo durakkhāto, saṅgho duppaṭipanno”tiādīni sutvā na tuṇhī bhavitabbaṃ. Evaṃ pana vattabbaṃ — “iti petaṃ abhūtaṃ, yaṃ tumhehi vuttaṃ, taṃ imināpi kāraṇena abhūtaṃ, imināpi kāraṇena atacchaṃ, ‘natthi cetaṃ amhesu’, ‘na ca panetaṃ amhesu saṃvijjati’, sabbaññūyeva amhākaṃ satthā, svākkhāto dhammo, suppaṭipanno saṅgho, tatra idañcidañca kāraṇan”ti. Ettha ca dutiyaṃ padaṃ paṭhamassa, catutthañca tatiyassa vevacananti veditabbaṃ. idañca avaṇṇeyeva nibbeṭhanaṃ kātabbaṃ, na sabbattha. yadi hi “tvaṃ dussīlo, tavācariyo dussīlo, idañcidañca tayā kataṃ, tavācariyena katan”ti vutte tuṇhībhūto adhivāseti, āsaṅkanīyo hoti. Tasmā manopadosaṃ akatvā avaṇṇo nibbeṭhetabbo. “oṭṭhosi, goṇosī”tiādinā[130] pana nayena dasahi akkosavatthūhi akkosantaṃ puggalaṃ ajjhupekkhitvā adhivāsanakhantiyeva tattha kātabbā.
Ở đây, trong trường hợp ấy (những lời chê bái ấy) các ngươi: có nghĩa là “đối với lời chê bai ấy, các ngươi…”. Các ngươi nên giải thích rõ ràng điều không đúng là không đúng: điều gì không có thật thì phải được gỡ bỏ (phản bác) đúng với bản chất không thật của nó. Bằng cách nào? Theo phương pháp sau đây: “điều ấy như thế là không đúng”.
Sự áp dụng ở đây như sau: Khi nghe những lời như “Bậc Đạo Sư của các ông không phải là bậc Toàn Giác, Giáo Pháp không được khéo thuyết, Tăng chúng thực hành không đúng đắn”, v.v., các ngươi không nên im lặng. Thay vào đó, phải nói như sau: “Điều các ông nói đó là không thật. Vì lý do này, nó là không thật; vì lý do này, nó là không đúng. Điều đó không có nơi chúng tôi, và nó cũng không tồn tại nơi chúng tôi. Bậc Đạo Sư của chúng tôi chính là bậc Toàn Giác, Giáo Pháp đã được khéo thuyết, Tăng chúng đã khéo thực hành, và đây là những lý do cụ thể…”
Ở đây, nên hiểu rằng vế thứ hai (atacchaṃ – không đúng) là đồng nghĩa với vế thứ nhất (abhūtaṃ – không thật), và vế thứ tư (na ca panetaṃ amhesu saṃvijjati – nó không tồn tại nơi chúng tôi) là đồng nghĩa với vế thứ ba (natthi cetaṃ amhesu – điều đó không có nơi chúng tôi).
Và việc tháo gỡ (nibbeṭhana) này chỉ nên làm đối với lời chê bai (avaṇṇa) mà thôi, không phải trong mọi trường hợp. Bởi vì nếu có người nói: “Ngươi là ác giới; thầy của ngươi là ác giới; việc này việc kia do ngươi làm; việc này việc kia do thầy ngươi làm”, mà mình im lặng chấp nhận, thì đáng lo ngại (có thể bị hiểu là thừa nhận). Do vậy, phải tháo gỡ lời chê bai ấy mà không khởi tâm bất bình. Còn với hạng người mắng nhiếc theo mười đề mục mắng chửi (dasā akkosavatthu), theo kiểu “”Ngươi là đồ con lạc đà, ngươi là đồ con bò!” v.v., thì nên làm ngơ mà thực hành kham nhẫn chấp thọ (adhivāsana-khanti) ở đó.
6. Evaṃ avaṇṇabhūmiyaṃ tādilakkhaṇaṃ dassetvā idāni vaṇṇabhūmiyaṃ dassetuṃ “mamaṃ vā, bhikkhave, pare vaṇṇaṃ bhāseyyun”tiādimāha. Tattha pareti ye keci pasannā devamanussā. Ānandanti etenāti ānando, pītiyā etaṃ adhivacanaṃ. Sumanassa bhāvo somanassaṃ, cetasikasukhassetaṃ adhivacanaṃ. Uppilāvino[131] bhāvo uppilāvitattaṃ. Kassa uppilāvitattanti? Cetasoti. Uddhaccāvahāya uppilāpanapītiyā etaṃ adhivacanaṃ. Idhāpi[132] dvīhi padehi saṅkhārakkhandho, ekena vedanākkhandho vutto.
6. Đức Thế Tôn khi thuyết giảng tướng trạng của hạng người ở địa vị chê bai như vậy, bây giờ có ý muốn thuyết giảng tướng trạng của hạng người ở địa vị ca ngợi, đã nói rằng “Này chư Tỳ khưu, nếu những kẻ khác ca ngợi ta v.v.” Ở đây, ‘những kẻ khác’ gồm bất cứ chư Thiên và nhân loại nào có lòng tịnh tín. “Ānanda”: do điều này mà hân hoan khởi lên, nên gọi là hỷ; đây là tên gọi khác của pīti. “Somanassa”: là trạng thái tâm hoan hỷ; đây là tên gọi khác của lạc tâm sở (cetasika-sukha). “Uppilāvitatta”: là trạng thái phấn khích, rộn ràng. Cái gì phấn khích? Tâm. Đây là tên gọi khác của thứ hỷ khiến tâm sôi động, có khuynh hướng dẫn đến phóng dật (tương ưng với tâm phóng dật). Trong đoạn này, bằng hai từ chỉ hỷ (pīti) nói đến Hành uẩn; bằng một từ chỉ lạc tâm (somanassa) nói đến Thọ uẩn.
Evaṃ paṭhamanayena uppilāvitattaṃ nivāretvā, dutiyena tattha ādīnavaṃ dassento — “Tatra ce tumhe assathā”tiādimāha. Idhāpi tumhaṃ yevassa tena antarāyoti tena uppilāvitattena tumhākaṃyeva paṭhamajjhānādīnaṃ antarāyo bhaveyyāti[133] attho veditabbo. Kasmā panetaṃ vuttaṃ? Nanu bhagavatā —
“Buddhoti kittayantassa, kāye[134] bhavati yā pīti.
Varameva hi sā pīti, kasiṇenāpi jambudīpassa.
Dhammoti kittayantassa, kāye bhavati yā pīti.
Varameva hi sā pīti, kasiṇenāpi jambudīpassa.
Saṅghoti kittayantassa, kāye bhavati yā pīti.
Varameva hi sā pīti, kasiṇenāpi jambudīpassā”ti ca.
Đức Thế Tôn khi ngăn chặn sự phấn khích theo cách thứ nhất như vậy, để thuyết giảng lỗi lầm đó theo cách thứ hai đã nói rằng – “Nếu các ông trở nên có sự vui mừng, có sự thích ý, có sự phấn khởi trong lời ca ngợi ấy, do điều ấy có thể xuất hiện sự chướng ngại cho chính các ông”. Ngay cả trong trường hợp này cũng nên hiểu ý nghĩa do trạng thái phấn khích rộn ràng ấy, sẽ có chướng ngại đối với Sơ thiền v.v. của chính các ông. Vì sao lại nói như vậy? Há chẳng phải Thế Tôn đã dạy:
“Khi xưng tán ‘Buddho’, nơi thân khởi lên hỷ lạc;
và hỷ ấy thật thù thắng, hơn cả khi tu tập toàn bộ cõi Jambudīpa bằng kasiṇa.
Khi xưng tán ‘Dhammo’, nơi thân khởi lên hỷ lạc;
và hỷ ấy thật thù thắng, hơn cả khi tu tập toàn bộ cõi Jambudīpa bằng kasiṇa.
Khi xưng tán ‘Saṅgho’, nơi thân khởi lên hỷ lạc;
và hỷ ấy thật thù thắng, hơn cả khi tu tập toàn bộ cõi Jambudīpa bằng kasiṇa.”
“Ye, bhikkhave, buddhe pasannā, agge te pasannā”ti[135] ca evamādīhi anekasatehi suttehi ratanattaye pītisomanassameva vaṇṇitanti. Saccaṃ vaṇṇitaṃ, taṃ pana nekkhammanissitaṃ. Idha — “amhākaṃ buddho, amhākaṃ dhammo”tiādinā[136] nayena āyasmato channassa uppannasadisaṃ gehassitaṃ pītisomanassaṃ adhippetaṃ. Idañhi jhānādipaṭilābhāya antarāyakaraṃ hoti. tenevāyasmā channopi yāva buddho na parinibbāyi, tāva visesaṃ nibbattetuṃ nāsakkhi, parinibbānakāle paññattena pana brahmadaṇḍena tajjito taṃ pītisomanassaṃ pahāya visesaṃ nibbattesi. tasmā antarāyakaraṃyeva sandhāya idaṃ vuttanti veditabbaṃ. Ayañhi lobhasahagatā[137] pīti. lobho ca kodhasadisova. Yathāha —
“Luddho atthaṃ na jānāti, luddho dhammaṃ na passati.
Andhaṃ tamaṃ tadā hoti, yaṃ lobho sahate naraṃ.
Anatthajanano lobho, lobho cittappakopano[138].
Bhayamantarato jātaṃ, taṃ jano nāvabujjhatī”ti.[139]
Và “này chư Tỳ khưu, người nào đặt niềm tin đối với đức Phật, người ấy gọi là đặt niềm tin vào đối tượng tối thượng”, ngài đã tán dương sự hân hoan (hỷ) và sự an vui (thọ hỷ) đối với Tam Bảo với hàng trăm bài Kinh bắt đầu như vậy không phải sao? Quả thật tán dương, tuy nhiên sự tán dương ấy là y chỉ trên xuất ly (nekkhamma-nissita). Còn ở đây, điều được nhắm đến là thứ hỷ-lạc mang tính tại gia (gehassita), giống như thứ đã khởi lên nơi Tôn giả Channa theo lối: “Buddho của ta, Dhammo của ta…” v.v. Chính thứ hỷ-lạc tại gia ấy gây chướng ngại cho việc chứng đắc thiền định v.v. Do vậy, ngay cả Tôn giả Channa cũng không thể phát sanh thắng trí cho đến khi Thế Tôn chưa nhập Niết-bàn; nhưng đến lúc Thế Tôn nhập Niết-bàn, sau khi bị cảnh tỉnh bằng hình phạt Phạm đàn (brahmadaṇḍa) đã được quy định, vị ấy từ bỏ thứ hỷ-lạc ấy rồi phát sanh thắng trí. Vì thế, nên hiểu rằng ở đây lời dạy được nói nhằm vào tính chất gây chướng ngại của (loại) hỷ-lạc này. Bởi lẽ, đây là thứ hỷ đi kèm với tham (lobha-sahagatā pīti); mà tham thì tương tự như sân về mặt tác hại. Như đã nói:
“Người bị khởi tham không biết được sự lợi ích, người bị khởi tham không nhìn thấy lý lẽ. Khi tham ngự trị người nào, ngay lập tức người ấy bị mù quáng tối tăm.
Tham sản sinh ra điều bất lợi, tham khiến cho tâm bị kích động. Người đời không thấu hiểu sự nguy hiểm ấy đã được sanh ra từ bên trong.”
Tatiyavāro pana idha anāgatopi atthato āgato yevāti veditabbo. yatheva hi kuddho, evaṃ luddhopi atthaṃ na jānātīti.
Còn về lượt thứ ba (tatiyavāra), tuy ở đây không được nói ra, nhưng về ý nghĩa thì vẫn đã được bao hàm: cũng như người sân không biết được nghĩa, thì người tham cũng vậy — không biết được nghĩa.
Paṭipajjitabbākāradassanavāre panāyaṃ yojanā — “tumhākaṃ satthā sabbaññū arahaṃ sammāsambuddho, dhammo svākkhāto, saṅgho suppaṭipanno”tiādīni sutvā na tuṇhī bhavitabbaṃ. Evaṃ pana paṭijānitabbaṃ — “itipetaṃ bhūtaṃ, yaṃ tumhehi vuttaṃ, taṃ imināpi kāraṇena bhūtaṃ, imināpi kāraṇena tacchaṃ. So hi bhagavā itipi arahaṃ, itipi sammāsambuddho; dhammo itipi svākkhāto, itipi sandiṭṭhiko; saṅgho itipi suppaṭipanno, itipi ujuppaṭipanno”ti. “tvaṃ sīlavā”ti pucchitenāpi sace sīlavā, “sīlavāhamasmī”ti paṭijānitabbameva. “tvaṃ paṭhamassa jhānassa lābhī … pe … arahā”ti puṭṭhenāpi sabhāgānaṃ bhikkhūnaṃyeva paṭijānitabbaṃ. Evañhi pāpicchatā ceva parivajjitā hoti, sāsanassa ca amoghatā dīpitā hotīti. sesaṃ vuttanayeneva veditabbaṃ.
Trong phần chỉ bày về cách thức nên thực hành, sự áp dụng (ý nghĩa) như sau: Khi nghe những lời như “Bậc Đạo Sư của các ông là bậc Toàn Giác, là bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác; Giáo Pháp đã được khéo thuyết; Tăng chúng đã khéo thực hành”, v.v., thì không nên im lặng. Mà nên xác nhận như vầy: “Điều đó là đúng sự thật. Điều các ông nói, vì lý do này là đúng, vì lý do này là chân xác. Quả vậy, Đức Thế Tôn ấy là bậc A-la-hán, là bậc Chánh Đẳng Giác; Giáo Pháp là được khéo thuyết, là thiết thực hiện tại; Tăng chúng là khéo thực hành, là thực hành ngay thẳng”.
Ngay cả khi được hỏi: “Ông có phải là người có giới không?”, nếu thực sự có giới, cũng nên xác nhận rằng: “Tôi là người có giới”. Kể cả khi được hỏi: “Ông có phải là người đắc Sơ thiền không?… cho đến… Ông có phải là một vị A-la-hán không?”, thì chỉ nên xác nhận với các vị Tỳ-khưu đồng hạnh mà thôi.
Làm như vậy, một là tránh được ước muốn xấu xa (tức khoe khoang), hai là làm sáng tỏ được tính hiệu quả (không vô ích) của Giáo Pháp này.
Phần còn lại nên được hiểu theo cách đã trình bày.
[1] dha. pa. 53
[2] a. ni. 4.122
[3] a. ni. 3.66
[4] saṃ. ni. 1.187
[5] ma. ni. 1.1
[6] Syā. Vacanapaṭiggahe
[7] ma. ni. 1.398
[8] dī. ni. 1.445
[9] a. ni. 3.66
[10] Sī, Syā. Sotukāmyataṃ
[11] a. ni. 1.219, 223
[12] a. ni. 5.169
[13] su. ni. 81
[14] saṃ. ni. 4.88
[15] ma. ni. 1.29
[16] udā. 11
[17] pāci. 657
[18] khu. pā. 7.12
[19] dha. pa. 181
[20] ma. ni. 1.241
[21] ma. ni. 1.339
[22] Syā, Ka. kattu visaye gahaṇasanniṭṭhānaṃ
[23] Saccikaṭṭhaparamattha = saccikaṭṭha + paramattha, saccikaṭṭha: bản chất thật sự diễn tiến cả trong Pháp Chế Định [sammutisacca] và cả Pháp Chân Đế [paramattha]. Còn bản chất tuyệt đối hay Pháp Chân Đế [paramattha] hoàn toàn là Pháp Siêu Lý.
[24] Sī. Upādāyapaññatti
[25] Sī, Syā. Pammuṭṭhaṃ
[26] Sī. Paṭivijānāti, Syā. pajānāti
[27] Sī, Syā. Vikkhitto
[28] Syā. Ṭhāne thero
[29] Cakkadhamma: tức là bốn pháp đưa đến sự tăng trưởng điều lợi ích
1- Paṭirūpadesavāsa: Cư trú ở trú xứ thích hợp, ở nơi có điều kiện làm thiện.
2- Sappurisūpassaya: Thân cận bậc Chân nhân, gần gũi với bậc hiền trí.
3- Attassammāpanidhi: Tự lập trường chân chánh, đặt mình theo lẽ chánh.
4- Pubbekatapuññatā: Đã từng tạo phước thiện trong quá khứ
[30] Sī, Syā, I. Dhatā
[31] Ka. Purimavacanaṃ
[32] dī. ni. 1.447
[33] a. ni. 8.29
[34] pāci. 358
[35] dī. ni. 2.332
[36] ma. ni. 2.135
[37] Sī. Samaṇamaṇḍikāputto
[38] ma. ni. 2.260
[39] saṃ. ni. 1.128
[40] a. ni. 7.9
[41] paṭi. 108
[42] Ka. Gabbhavokkantisamayo
[43] Ka. Pakāsitā, (Aṃ-Ṭṭha 1. 9 pṭṭhe). suppakāsā
[44] dha. sa. 1
[45] Ma. Mū. 105
[46] Vi. Mahāvi. 1
[47] Sī, Syā. Atthamavekkhitvā
[48] Sī, Syā, Ka. Taṃ samayanti
[49] Ka. Vitthārattho
[50] Syā. Desetā
[51] a. ni. 6.44
[52] saṃ. ni. 1.228
[53] ma. ni. 2.149
[54] udā. 20
[55] cūḷava. 350
[56] pārā. 231
[57] Sī, Syā. Daṭṭhabbo
[58] Syā. yojetvā evaṃ
[59] pāci. 218
[60] Sī. Guṇehi
[61] Sī-Ṭī Abhinava 1. 183 piṭṭhe. Pañcamattā pamāṇāti
[62] Syā, Ka. Maggappaṭipanno, Ka. addhānamaggappaṭipanno
[63] ma. ni. 3.271
[64] ma. ni. 2.149
[65] Sī. Aṅgātiko; Syā. Maṇḍabyo
[66] dī. ni. 1.316
[67] ma. ni. 3.398
[68] ma. ni. 1.205
[69] dī. ni. 2.411
[70] I. Nakhabhedakaṃ, Ṭīkā. kharodakaṃ
[71] saṃ. ni. 1.142
[72] ma. ni. 2.402
[73] dī. ni. 1.303
[74] saṃ. ni. 1.234
[75] pārā. 602
[76] ma. ni. 2.77
[77] a. ni. 2.135
[78] pārā. 1
[79] Khu 1. 254; Aṃ 1. 343 piṭṭhesu
[80] a. ni. 1.174
[81] dī. ni. 2.159
[82] iti. 90, a. ni. 4.34
[83] dī. ni. 2.159
[84] a. ni. 4.34
[85] Sī, Syā. Anussavādimattasaṃvaḍḍhitena
[86] Sī, Ka. Paṭibāhiyamāno
[87] Sī. Anubaddhā
[88] Sī. Sulabhapiṇḍapātaṃ
[89] Syā. Ukkasannipātasamākulamiva
[90] Ka. Tārāgaṇappabhāya
[91] Sī, Syā. Dvattiṃsadevarāja
[92] Syā. Migaparivārito viya kesaro
[93] Ka. Taṃ
[94] Sī. Disvā
[95] Syā, Ka. Sobhaṇā
[96] Syā, Ka. Ussūyati
[97] Upatissa và Kolita là tên của hai vị thượng thủ thinh văn Sāriputta và Moggallāna trước khi xuất gia theo đức Phật, thì hai vị đã là đệ tử của vị Sañjaya này.
[98] Syā. Atthaṅgasamīpaṃ gato, Ka. atthaṅgato
[99] Sī. Ghurughurupassāsino
[100] Syā. Vadati
[101] Syā, Ka. Saṅkhiyāti
[102] Pāṇini 6. 1. 147 suttaṃ passitabbaṃ.
[103] Pháp đáng biết – ñeyyadhamma có 5 pháp, bao gồm –
1- Saṅkhāra: Pháp hữu vi gồm tâm, tâm sở, và sắc thành tựu
2- Vikāra: Sắc pháp, danh pháp biến đổi.
3- Lakkhaṇa: 3 tướng chung, 4 tướng riêng, và 4 sắc trạng thái của 4 Pháp Chân Đế
4- Paññattidhamma: Pháp Chế Đinh, chế định ngôn ngữ, để thuyết giảng chánh pháp.
5- Nibbāna: trạng thái vắng lặng phiền não, và các uẩn v.v,
[104] Syā, Ka. Paccayādīnaṃ arahatā
[105] Saṃ 1.368 piṭṭhe
[106] saṃ. ni. 4.241
[107] dī. ni. 2.152
[108] dī. ni. 2.213
[109] dī. ni. 3.54
[110] Sī, Syā, I. Seyyathīdaṃ
[111] Sī, Syā, Ka. Atha, Aṃ-ṭṭha 1.49 piṭṭhe passitabbaṃ
[112] Sī. Upaṭṭhākena paññattāsane, Ka. upaṭṭhāne paññattāsane.
[113] Sī, Syā. Khaṇasampatti, Sī-ṭī Ahinava 1.208 piṭṭhe oloketabbā
[114] Sī, Syā. Cātummahārājikabhavanaṃ
[115] Sī. Amatamahāparinibbānasampāpikā
[116] Sī, Syā. Tasmā yasmiṃ
[117] Sī, Sakkhi, Syā. asakkhi
[118] Ka. Saṃsāressantīti; Syā. Saṃsīdesantīti
[119] Sī. Vālikapuñjaṃ
[120] Sī. Dethāti, Ka. dassethāti
[121] Sī. Vilasita, Syā. vilāsita
[122] Syā. Puṇṇa, Ka. cuṇṇa
[123] Sī, Syā. Pavijambhita
[124] saṃ. ni. 4.121
[125] Saṃ 3.75 piṭṭhe
[126] su. ni. 183
[127] Ka. Candūpamaṃ s|riy|pamaÑ
[128] Sī, Ka. Aṭṭhuppattiyaṃ hi
[129] a. ni. 7.64
[130] Vi. 2. 9 piṭṭhe
[131] Sī, Syā. Ubbillāvino
[132] Syā. Iti idhāpi
[133] Sī, Syā. Assāti
[134] Sī, Syā. Yassa kāye
[135] Aṃ 1. 343; khu. 1. 343 piṭṭhesu.
[136] Ka. Amhākaṃ saṃghoti-ādinā
[137] Sī, Ka. Rāgasahagatā
[138] Syā. Cittapalujjano
[139] itivu. 88