Giải Thích Kinh Về Vua Mahāsudassana

(Mahāsudassanasuttavaṇṇanā )

Xem Trường Bộ Kinh – Kinh Về Vua Mahāsudassana

  1. Evaṃme sutanti mahāsudassanasuttaṃ. Tatrāyaṃ apubbapadavaṇṇanā – sabbaratanamayoti ettha ekā iṭṭhakā sovaṇṇamayā, ekā rūpiyamayā, ekā veḷuriyamayā, ekā phalikamayā, ekā lohitaṅkamayā, ekā masāragallamayā, ekā sabbaratanamayā, ayaṃ pākāro sabbapākārānaṃ anto ubbedhena[1] saṭṭhihattho ahosi. Eke pana therā – ‘‘nagaraṃ nāma anto ṭhatvā olokentānaṃ dassanīyaṃ vaṭṭati, tasmā sabbabāhiro saṭṭhihattho, sesā anupubbanīcā’’ti vadanti. Eke – ‘‘bahi ṭhatvā olokentānaṃ dassanīyaṃ vaṭṭati, tasmā sabbaabbhantarimo saṭṭhihattho, sesā anupubbanīcā’’ti. Eke – ‘‘anto ca bahi ca ṭhatvā olokentānaṃ dassanīyaṃ vaṭṭati, tasmā majjhe pākāro saṭṭhihattho, anto ca bahi ca tayo tayo anupubbanīcā’’ti.
  2. Kinh Về Vua Mahāsudassana bắt đầu như sau ‘Tôi đã nghe như vầy…’ Việc giảng giải thứ tự các câu trong bài Kinh này như sau – bằng tất cả các báu vật: ở đây một viên gạch được làm bằng vàng, một bằng bạc, một bằng ngọc bích, một bằng ngọc pha lê, một bằng hồng ngọc, một bằng ngọc mắt mèo, một bằng tất cả các báu vật, tường này nằm ở bên tất cả bức tường cao khoảng sáu mươi cánh tay. Tuy nhiên, một số trưởng lão nói rằng – “Thành phố này khi đứng ở bên trong để quan sát thì sẽ có hình dạng tròn, vì thế bức tường nằm ở ngoài cùng của tất cả (các bức tường) mới cao sáu mươi cánh tay, những bức tường còn lại thấp dần theo thứ tự.” Một số khác (nói rằng) – “Thành phố này khi đứng ở bên ngoài để quan sát thì sẽ có hình dạng tròn, vì thế bức tường ở trong cùng mới cao sáu mươi cánh tay, những bức tường còn lại thấp dần theo thứ tự.” Và một số khác nữa (nói rằng) – “Thành phố này khi đứng bên trong và bên ngoài quan sát cũng sẽ có hình dáng tròn, vì thế bức tường ở giữa mới cao sáu mươi cánh tay, ba bức tượng bên trong và ba bức tường ở bên ngoài thì thấp dần theo thứ tự.”

Esikāti esikatthambho. Tiporisaṅgāti ekaṃ porisaṃ majjhimapurisassa attano hatthena pañcahatthaṃ, tena tiporisaparikkhepā pannarasahatthaparimāṇāti attho. Te pana kathaṃ ṭhitāti? Nagarassa bāhirapasse ekekaṃ mahādvārabāhaṃ nissāya ekeko, ekekaṃ khuddakadvārabāhaṃ nissāya ekeko, mahādvārakhuddakadvārānaṃ antarā tayo tayoti. Tālapantīsu sabbaratanamayānaṃ tālānaṃ ekaṃ sovaṇṇamayanti pākāre vuttalakkhaṇameva veditabbaṃ, paṇṇaphalesupi eseva nayo. Tā pana tālapantiyo asītihatthā ubbedhena, vippakiṇṇavāluke samatale bhūmibhāge pākārantare ekekā hutvā ṭhitā.

Cột trụ: cột trụ kiên cố. Có chu vi ba thân người: chiều cao của một người nam (với cánh tay giơ thẳng lên) bậc trung có chiều dài là năm cánh tay, có nghĩa là khoảng mười lăm cánh tay được xác định ba thân người của ba người đàn ông. Những cột trụ ấy được đặt như thế nào? Ở bên ngoài thành phố gần mỗi cánh cửa lớn ở mỗi vị trí có một cột trụ lớn, gần mỗi cánh cửa nhỏ ở mỗi vị trí có một cột trụ, ở giữa cánh cửa lớn và cửa nhỏ mỗi vị trí ba cột trụ. Trong số cây cọ được làm bằng tất cả các báu vật, một cây cọ được làm bằng vàng, chính vì thế hãy hiểu rõ đặc điểm này như đã được đề cập ở bức tường, thậm chí cả lá và quả cũng áp dụng theo chính phương thức ấy. Hơn nữa, hàng cây cọ ấy cao tám mươi cánh tay được đặt ở giữa những bức tường mỗi vị trí một hàng ở trên bề mặt bằng phẳng được rải cát.

Vaggūti cheko sundaro. Rajanīyoti rañjetuṃ samattho. Khamanīyoti divasampi suyyamāno khamateva, na bībhaccheti[2]. Madanīyoti mānamadapurisamadajanano. Pañcaṅgikassāti ātataṃ vitataṃ ātatavitataṃ susiraṃ ghananti imehi pañcahaṅgehi samannāgatassa. Tattha ātataṃ nāma cammapariyonaddhesu bherīādīsu ekatalaṃ tūriyaṃ. Vitataṃ nāma ubhayatalaṃ. Ātatavitataṃ nāma sabbato pariyonaddhaṃ. Susiraṃ nāma vaṃsādi. Ghanaṃ nāma sammādi. Suvinītassāti ākaḍḍhanasithilakaraṇādīhi sumucchitassa. Suppaṭitāḷitassāti pamāṇe ṭhitabhāvajānanatthaṃ suṭṭhu paṭitāḷitassa. Sukusalehi samannāhatassāti ye vādituṃ chekā kusalā, tehi vāditassa. Dhuttāti akkhadhuttā,. Soṇḍāti surāsoṇḍā. Teyeva punappunaṃ pātukāmatāvasena pipāsā. Paricāresunti[3] hatthaṃ vā pādaṃ vā[4] cāletvā naccantā kīḷiṃsu.

Du dương: thông thạo, tốt đẹp. Quyến rũ: có thể làm cho vừa lòng. Đáng yêu: Lắng nghe cả ngày cũng không cảm thấy nhàm chán. Làm say sưa: tạo ra con người tự phụ do sự ngã mạn và sự kiêu căng. Có năm loại nhạc cụ: dàn nhạc đầy đủ với năm loại nhạc cụ là ātata vitata ātatavitata susira ghana. Trong năm loại nhạc cụ đó thì loại nhạc cụ được bịt da ở một mặt trong số các loại trống được bịt bằng da đều được gọi là ātata. Loại dụng cụ được bịt da ở hai mặt được gọi là vitata, loại nhạc cụ được bịt da toàn bộ gọi là ātatavitata. Sáo trúc và tù và được gọi là susira. Chập cheng gọi là ghana. Được khéo điều khiển: Khéo kéo căng (dây) bởi đã làm chùng v.v. Được khéo điều khiển: Khéo điều chỉnh để biết rằng đã  vừa vặn. Được trình tấu bởi những người điêu luyện: Được trình tấu bởi những người điêu luyện có khả năng tấu nhạc. Những tên vô lại: những kẻ lưu manh cờ bạc. Những tên nghiện rượu: những kẻ say xưa. Chính những kẻ ấy được gọi là kẻ nghiện rượu bởi có thể uống rượu thường xuyên. Đã nhảy múa vui đùa: giữ nhịp tay và nhịp chân khi nhảy múa.

Nói về bánh xe báu

  1. Sīsaṃ nhātassāti sīsena saddhiṃ gandhodakena nahātassa. Uposathikassāti samādinnauposathaṅgassa. Uparipāsādavaragatassāti pāsādavarassa upari gatassa, subhojanaṃ bhuñjitvā pāsādavarassa uparimahātale sirigabbhaṃ pavisitvā sīlāni āvajjantassa. Tadā kira rājā pātova satasahassaṃ vissajjetvā mahādānaṃ datvā soḷasahi gandhodakaghaṭehi sīsaṃ nahāyitvā katapātarāso suddhaṃ uttarāsaṅgaṃ ekaṃsaṃ karitvā uparipāsādassa sirisayane pallaṅkaṃ ābhujitvā nisinno attano dānādimayaṃ puññasamudāyaṃ āvajjanto nisīdi. Ayaṃ sabbacakkavattīnaṃ dhammatā.
  2. Đã gội đầu: đã gội bằng nước có hương thơm khắp đầu. Thọ trì trai giới: thọ trì bát quan trai giới. Ở lầu trên của tòa lâu đài quý giá: Ngài bước lên tòa lâu đài cao quý, sau khi thọ dụng vật thực ngài đã bước vào căn phòng lộng lẫy ở trên bề mặt rộng lớn của tòa lâu đài cao quý rồi quán chiếu lại giới. Nghe rằng khi ấy đức vua giải quyết hàng trăm ngàn vấn đề, từ lúc sáng sớm đã dâng cúng đại thí, đã gội đầu bằng mười sáu chum nước thơm, sau khi hoàn tất việc thọ dụng vật thực, đã khoác lên mình chiếc khăn choàng tinh khiết, ở tại chiếc giường lộng lẫy đã ngồi xếp chân vào thế kiết già, đã quán chiếu đến nguồn sanh khởi phước báu được thành tựu nhờ bố thí, điều phục và chế ngự của bản thân. Đây là bản thể tự nhiên của tất cả các vị Chuyển Luân Vương.

Tesaṃ taṃ āvajjantānaṃyeva vuttappakāra puññakammapaccayaṃ utusamuṭṭhānaṃ nīlamaṇisaṅghātasadisaṃ pācīnasamuddajalatalaṃ bhindamānaṃ viya, ākāsaṃ alaṅkurumānaṃ[5] viya dibbaṃ cakkaratanaṃ pātubhavati. Taṃ mahāsudassanassāpi tatheva pāturahosi. Tayidaṃ dibbānubhāvayuttattā dibbanti vuttaṃ. Sahassaṃ assa arānanti sahassāraṃ. Saha nemiyā, saha nābhiyā cāti sanemikaṃ sanābhikaṃ. Sabbehi ākārehi paripuṇṇanti sabbākāraparipūraṃ.

Khi những vị ấy tự mình quán chiếu lại phước báu, bánh xe báu thuộc cõi trời hiện ra trông giống như khối ngọc ma-ni màu xanh có nguồn sanh khởi từ nghiệp thiện, duyên, và thời tiết theo cách thức đã được nói; trông giống như mặt nước biển phía đông bị sóng xô; trông giống như bầu trời đã được trang hoàng trang trí. Bánh xe báu ấy xuất hiện cho đức vua Mahāsudassana đó tương tự. Bánh xe báu này đây đã được ngài nói là thuộc cõi trời bởi vì gắn liền với oai lực cõi trời. Có ngàn căm: bánh xe báu ấy có ngàn căm. Có vành xe (và) có ổ trục: với vành xe và với ổ trục. Đầy đủ với mọi bộ phận: đầy đủ với mọi bộ phận.

Tattha cakkañca taṃ ratijananaṭṭhena ratanañcāti cakkaratanaṃ. Yāya pana taṃ nābhiyā ‘‘sanābhika’’nti vuttaṃ, sā indanīlamayā[6] hoti, majjhe panassā sārarajatamayā panāḷi, yāya suddhasiniddhadantapantiyā hasamānā viya virocati, majjhe chiddena viya candamaṇḍalena, ubhosupi bāhirantesu rajatapaṭṭena kataparikkhepā hoti. Tesu panassa nābhipanāḷi parikkhepapaṭṭesu yuttayuttaṭṭhānesu paricchedalekhā suvibhattāva hutvā paññāyanti. Ayaṃ tāva assa nābhiyā sabbākāraparipūratā.

Ở đây, bánh xe báu ấy vừa là bánh xe và vừa là châu báu với ý nghĩa khởi sanh sự hoan hỷ. Hơn nữa, trục bánh xe đó đã được gọi là ‘với ổ trục’, trục bánh xe ấy được làm bằng ngọc xanh biếc. Thêm nữa, ở giữa trục bánh xe được làm bằng bạc nguyên chất sáng lấp lánh tựa như đang nở một nụ cười với hàm răng trắng bóng; bao bọc bởi một tấm bạc cả trong lẫn ngoài luôn cả hai bên tựa như vòng tròn của vầng trăng có cái lỗ ở chính giữa. Vả lại, những họa tiết được chạm khắc ở những vị trí thích hợp trên tấm bạc bao quanh ổ trục và các căm xe cũng khéo được sắp xếp. Trước tiên, đây là sự đầy đủ mọi bộ phận của trục xe.

Yehi pana taṃ – ‘‘arehi sahassāra’’nti vuttaṃ, te sattaratanamayā sūriyarasmiyo viya pabhāsampannā honti, tesampi ghaṭakamaṇikaparicchedalekhādīni suvibhattāneva hutvā paññāyanti. Ayamassa arānaṃ sabbākāraparipūratā.

Hơn nữa, với căm xe nào đã được nói rằng ‘có ngàn căm xe’, thì những căm đó được làm bằng 7 loại châu báu (và) hoàn hảo bởi hào quang tựa như ánh mặt trời. Những họa tiết được chạm khắc bằng khối ngọc ma-ni của những căm xe đó cũng xuất hiện (và) khéo được sắp xếp. Đây là sự đầy đủ mọi bộ phận của các căm xe đó.

Yāya pana taṃ nemiyā – ‘‘sanemika’’nti vuttaṃ, sā bālasūriyarasmikalāpasiriṃ avahasamānā viya surattasuddhasiniddhapavāḷamayā hoti. Sandhīsu panassā sañjhārāgasassirikā[7] rattajambunadapaṭṭā vaṭṭaparicchedalekhā suvibhattā hutvā paññāyanti. Ayamassa nemiyā sabbākāraparipūratā.

Hơn nữa, với vành bánh xe nào đã được nói rằng ‘với vành bánh xe’, thì vành bánh xe đó được làm bằng ngọc san hô có màu đỏ đậm tinh khiết trơn láng như giễu cợt khối ánh sáng mặt trời yếu ớt. Hơn nữa, chỗ tiếp nối của vành xe ấy các họa tiết được chạm khắc vòng tròn, có sự chói lọi thành khối trắng đỏ tinh khiết được, vô số vàng nguyên chất màu đỏ hiện ra (và) khéo được sắp xếp. Đây là sự đầy đủ mọi bộ phận của vành bánh xe đó.

Nemimaṇḍalapiṭṭhiyaṃ panassa dasannaṃ dasannaṃ arānaṃ antare dhamanavaṃso viya anto susiro chiddamaṇḍalakhacito vātagāhī pavāḷadaṇḍo hoti, yassa vāteritassa sukusalasamannāhatassa pañcaṅgikatūriyassa viya saddo vaggu ca rajanīyo ca kamanīyo[8] ca madanīyo ca hoti. Tassa kho pana pavāḷadaṇḍassa upari setacchattaṃ, ubhosu passesu samosaritakusumadāmānaṃ dve pantiyoti evaṃ samosarita-kusumadāma-pantisatadvaya-parivāra setacchattasatadhārinā pavāḷadaṇḍasatena samupasobhitanemiparikkhepassa dvinnampi nābhipanāḷīnaṃ anto dve sīhamukhāni honti, yehi tālakkhandhappamāṇā puṇṇacandakiraṇakalāpasassirīkā taruṇaravisamānarattakambalageṇḍukapariyantā ākāsagaṅgāgatisobhaṃ avahasamānā viya dve muttakalāpā olambanti. Yehi cakkaratanena saddhiṃ ākāse samparivattamānehi tīṇi cakkāni ekato parivattantāni viya khāyanti. Ayamassa sabbaso sabbākāraparipūratā.

Lại nữa, ở giữa căm xe cả mười vị trí của bánh xe báu ấy, ở phía sau vành xe có khối ngọc san hô bắt lấy cơn gió, được chạm khắc tạo thành lỗ trống có hình dạng tròn, rỗng bên trong tựa như cây sáo; bánh xe báu nào bị lay động bởi gió (sẽ) có âm thanh du dương, quyến rũ, đáng yêu, làm say sưa tương tự như âm thanh của năm loại nhạc cụ được tấu lên bởi những nghệ sĩ lão luyện. Hơn nữa, ở phía trên của bánh xe báu ấy là cán ngọc san hô có cây lọng trắng, ở hai bên có dãy họa tiết bông hoa vàng quy tụ lại thành hai dãy; bên trong trục xe và căm xe cả hai bao quanh vành xe xinh đẹp với hàng trăm cán ngọc san hô, hàng trăm cây lọng trắng được bao quanh bởi hai trăm dãy họa tiết bông hoa bạc quy tụ lại như vậy, có hai cửa khẩu sư tử, có hai chuỗi ngọc trai kích thước như cây cọ tuyệt đẹp tựa ánh trăng rằm, vô số với những tấm vải len được nhuộm đỏ tựa như ánh nắng mặt trời nhẹ nhàng lúc chiều tà, kéo vẻ đẹp được lan tỏa phân tán trong không trung và sông Gaṅgā được treo lơ lửng, có ba vòng bánh xe xuất hiện tương tợ như đang xoay chuyển luân phiên trong hư không cùng với bánh xe báu. Đây là sự đầy đủ mọi bộ phận của bánh xe báu đó ấy.

Taṃ panetaṃ evaṃ sabbākāraparipūraṃ pakatiyā sāyamāsabhattaṃ bhuñjitvā attano attano gharadvāre paññattāsanesu nisīditvā pavattakathāsallāpesu manussesu vīthicatukkādīsu kīḷamāne dārakajane nātiuccena nātinīcena vanasaṇḍamatthakāsannena ākāsappadesena upasobhayamānaṃ viya, rukkhasākhaggāni dvādasayojanato paṭṭhāya suyyamānena madhurassarena sattānaṃ sotāni odhāpayamānaṃ yojanato paṭṭhāya nānappabhāsamudayasamujjalena vaṇṇena nayanāni samākaḍḍhantaṃ viya, rañño cakkavattissa puññānubhāvaṃ ugghosayantaṃ viya, rājadhāniyā abhimukhaṃ āgacchati.

Bánh xe báu này đây được đầy đủ mọi bộ phận giống như sau khi mọi người thọ dụng bữa ăn tối theo thường lệ đã ngồi xuống trên chỗ ngồi đã được trải sẵn ở tại cửa nhà của mỗi cá nhân, trò chuyện với những đứa trẻ đang chơi giỡn ở ngã tư đường, v.v. khiến bầu trời không quá cao và cũng không quá thấp khoảng chừng đầu ngọn cây chói sáng, giống như cho lắng nghe âm thanh của tất cả chúng sanh với âm thanh du dương nghe được từ đầu ngọn cây đến mười hai do-tuần, làm cho đôi mắt (có thể) nhìn thấy các hình dáng rực rỡ bởi các loại ánh sáng khác nhau đến tận một do-tuần như thể tuyên bố về oai lực phước báu của vị Chuyển Luân Vương quay trở về kinh thành.

Athassa cakkaratanassa saddasavaneneva – ‘‘kuto nu kho, kassa nu kho ayaṃ saddo’’ti āvajjitahadayānaṃ puratthimadisaṃ ālokayamānānaṃ tesaṃ manussānaṃ aññataro aññataraṃ evamāha – ‘‘passatha, bho, acchariyaṃ, ayaṃ puṇṇacando pubbe eko uggacchati, ajjeva pana attadutiyo uggato, etañhi rājahaṃsamithunamiva puṇṇacandamithunaṃ pubbāpariyena gaganatalaṃ abhilaṅghatī’’ti. Tamañño āha – ‘‘kiṃ kathesi, samma, kuhiṃ nāma tayā dve puṇṇacandā ekato uggacchantā diṭṭhapubbā, nanu esa tapanīyaraṃsidhāro piñcharakiraṇo divākaro uggato’’ti, tamañño hasitaṃ katvā evamāha – ‘‘kiṃ ummattosi, nanu idāneva divākaro atthaṅgato, so kathaṃ imaṃ puṇṇacandaṃ anubandhamāno uggacchissati? Addhā panetaṃ anekaratanappabhāsamudayujjalaṃ ekassāpi puññavato vimānaṃ bhavissatī’’ti. Te sabbepi apasārayantā aññe evamāhaṃsu – ‘‘bho, kiṃ bahuṃ vilapatha, nevāyaṃ puṇṇacando, na sūriyo na devavimānaṃ. Na hetesaṃ evarūpā sirisampatti atthi, cakkaratanena pana etena bhavitabba’’nti.

Khi ấy, bằng chính việc lắng nghe âm thanh của bánh xe báu, mọi người nhìn về phía đông có tâm chăm chú: “Đây là âm thanh của ai? (âm thanh) này đến từ đâu?” Ai cũng nói với nhau rằng – “Thưa các ngài, hãy nhìn thật là kỳ diệu, trước đây vào ngày rằm chỉ có một mặt trăng được mọc lên, nhưng ngày hôm nay lại mọc lên hai mặt trăng, và hai mặt trăng ngày rằm này trông giống như đôi chim thiên nga chúa ngự trên bầu trời. Một người khác phản đối lại rằng: “Này bạn, bạn nói gì vậy? Có bao giờ bạn nhìn thấy hai mặt trăng xuất hiện cùng một lúc chưa? Đó là mặt trời mà ánh sáng đang cháy rực, có màu đỏ vàng ló ra không phải sao?” Một người khác lại mỉa mai, giễu cợt người ấy rằng: “Các ông bị điên rồi hay sao? Mặt trời mới vừa lặn không phải sao? Làm sao mặt trời ấy sẽ có thể mọc cùng mặt trăng rằm này được? Nhưng đây chắc hẳn phải là cung điện của một vị có phước báu, mới chói sáng rực rỡ nhờ ánh sáng của các loại châu báu.” Toàn bộ những người ấy chẳng ai tin ai cũng nói cùng những người ấy như vầy: “Tại sao các ông nói quá nhiều chuyện vô nghĩa, đó không phải là mặt trăng rằm, cũng không phải là mặt trời, mà cũng chẳng phải Thiên cung của vị Thiên tử, mà cũng không phải sự thành tựu quyền quý của các Thiên nhân có hình thức như vậy, mà những thứ đó chắc chắn chỉ có thể là bánh xe báu”.

Evaṃ pavattasallāpasseva tassa janassa candamaṇḍalaṃ ohāya taṃ cakkaratanaṃ abhimukhaṃ hoti. Tato tehi – ‘‘kassa nu kho idaṃ nibbatta’’nti vutte bhavanti vattāro – ‘‘na kassaci aññassa, nanu amhākaṃ mahārājā pūritacakkavattivatto, tassetaṃ nibbatta’’nti. Atha so ca mahājano, yo ca añño passati, sabbo cakkaratanameva anugacchati. Taṃ cāpi cakkaratanaṃ raññoyeva atthāya attano āgatabhāvaṃ ñāpetukāmaṃ viya sattakkhattuṃ pākāramatthakeneva nagaraṃ anusaṃyāyitvā, atha rañño antepuraṃ padakkhiṇaṃ katvā, antepurassa ca uttarasīhapañjarasadise ṭhāne yathā gandhapupphādīhi sukhena sakkā hoti pūjetuṃ, evaṃ akkhāhataṃ viya tiṭṭhati.

Khi cuộc tranh luận còn đang diễn ra như thế bánh xe báu ấy đã rời bỏ vòng tròn của mặt trăng thẳng tiến đến kinh thành. Sau đó những người ấy nói với nhau rằng “Bánh xe báu này sanh lên vì ai đây?” cũng có người nói lên rằng: “bánh xe báu này không sanh lên cho bất cứ người nào cả, mà chỉ sanh lên cho đại vương Chuyển Luân vị đã tròn đủ ba-la-mật của chúng ta không phải sao? Khi ấy đám đông dân chúng và cả những người khác nhìn thấy, tất cả đều đi theo bánh xe báu ấy, thậm chí bánh xe báu ấy cũng đi vòng quanh thành phố cho đến cuối bức tường bảy lần, giống như thông báo cho mọi người biết được điều mà bản thân đã đi đến vì lợi ích của chính đức vua rồi hướng vai phải nhiễu quanh trong hoàng cung của đức vua, ở địa điểm gần giống chỗ cánh cửa sổ phương Bắc của hoàng cung, giống như bị cái nêm được chạm khắc gài lại để cho đại chúng dễ dàng lễ bái với các hương thơm và tràng hoa v.v.

Evaṃ ṭhitassa panassa vātapānachiddādīhi pavisitvā nānāvirāgaratanappabhāsamujjalaṃ antopāsādaṃ alaṅkurumānaṃ pabhāsamūhaṃ disvā dassanatthāya sañjātābhilāso rājā hoti. Parijanopissa piyavacanapābhatena āgantvā tamatthaṃ nivedeti. Atha rājā balavapītipāmojjaphuṭasarīro pallaṅkaṃ mocetvā uṭṭhāyāsanā sīhapañjarasamīpaṃ gantvā taṃ cakkaratanaṃ disvā ‘‘sutaṃ kho pana meta’’ntiādikaṃ cintanaṃ[9] cintayati. Mahāsudassanassāpi sabbaṃ taṃ tatheva ahosi. Tena vuttaṃ – ‘‘disvā rañño mahāsudassanassa…pe… assaṃ nu kho ahaṃ rājā cakkavattī’’ti. Tattha so hoti rājā cakkavattīti kittāvatā cakkavattī hotīti? Ekaṅguladvaṅgulamattampi cakkaratane ākāsaṃ abbhuggantvā pavatte idāni tassa pavattāpanatthaṃ yaṃ kātabbaṃ, taṃ dassento atha kho ānandātiādimāha.

Khi bánh xe báu thuộc cõi trời được thiết lập bằng cách như vậy, đức vua đưa mắt nhìn khối ánh sáng xuyên qua khe hở của cửa sổ, khiến cho bên trong hoàng cung chói sáng rực rỡ với ánh sáng của vô số loại ngọc quý có nhiều màu sắc, (ngài) có ý muốn đưa mắt ngắm nhìn bánh xe báu. Thậm chí đại chúng vây quanh cũng cùng nhau nói về nhân của bánh xe báu đó toàn những lời nói dễ thương. Lúc ấy đức vua có sắc thân tràn ngập phỉ lạc và niềm hân hoan mãnh liệt, rời bỏ tư thế kiết già đứng dậy từ chỗ ngồi đi đến gần cửa sổ, sau đó đã đưa mắt nhìn bánh xe báu, mới khởi lên suy nghĩ rằng: “Hơn nữa, ta đã nghe như vầy v.v.” Toàn bộ bánh xe báu đã là như thế cho đức vua Chuyển Luân Mahāsudassana. Với lý do đó nên mới nói rằng – “Đức vua Mahāsudassana …nt… phải chăng ta có thể trở thành vị Chuyển luân vương?” Ở đây, vị ấy là Chuyển Luân Vương: cho đến như thế nào là vị Chuyển Luân Vương? Ngài làm cho bánh xe báu bay lên trong hư không chỉ bằng một lóng tay, (hay) hai lóng tay. Bây giờ, khi trình bày phận sự nên làm để cho bánh xe báu ấy vận hành ở đây nên mới nói rằng: “Này Ānanda, khi ấy…

  1. Tattha uṭṭhāyāsanāti nisinnāsanato uṭṭhahitvā cakkaratanasamīpaṃ āgantvā. Suvaṇṇabhiṅkāraṃ gahetvāti hatthisoṇḍasadisapanāḷiṃ suvaṇṇabhiṅkāraṃ ukkhipitvā. Anvadeva rājā mahāsudassano saddhiṃ caturaṅginiyā senāyāti sabbacakkavattīnañhi udakena abbhukkiritvā – ‘‘abhivijinātu bhavaṃ cakkaratana’’nti vacanasamanantarameva vehāsaṃ abbhuggantvā cakkaratanaṃ pavattati. Yassa pavatti samakālameva[10] so rājā cakkavattī nāma hoti. Pavatte pana cakkaratane taṃ anubandhamānova rājā cakkavattiyānavaraṃ āruyha vehāsaṃ abbhuggacchati. Athassa chattacāmarādihattho parijano ceva antepurajano ca tato nānākārakañcukakavacādisannāhavibhūsitena vividhābharaṇappabhāsamujjalena samussitaddhajapaṭākapaṭimaṇḍitena attano attano balakāyena saddhiṃ uparājasenāpatipabhutayopi vehāsaṃ abbhuggantvā rājānameva parivārenti.
  2. Ở đây, từ chỗ ngồi đứng dậy: ngài đã đứng dậy từ chỗ ngồi trong tư thế ngồi đi đến gần bánh xe báu. Cầm lấy bình nước: đã cầm lấy bình nước bằng vàng lên có lỗ trống tựa như cái vòi voi, cầm lấy bình nước bằng tay trái (rưới nước lên bánh xe báu bằng tay phải) ra lệnh rằng: Này xe báu hãy di chuyển, này xe báu hãy chinh phục!” Đi theo sau là đức vua Mahāsudassana cùng với bốn loại binh chủng: Trong lúc đức vua rưới nước mong muốn trở thành vị Chuyển Luân Vương (và) nói rằng “Xin bánh xe báu hãy chinh phục” bánh xe báu đã phóng lên không trung rồi di chuyển. Đức vua được gọi là vị Chuyển Luân Vương ngay vào thời điểm mà bánh xe báu ấy chuyển vận. Khi bánh xe báu ấy đã chuyển vận thì đức vua Chuyển Luân đi theo sau bánh xe đó, ngài bước lên cổ xe tối thượng rồi phóng lên không trung. Sau đó, những người tùy tùng và những cận vệ của vua cầm lấy cây lọng và một cái lông đuôi bò Tây tạng v.v, bên cạnh đó các vị phó vương và tướng quân cùng với các quân lính được trang bị các loại y phục như áo choàng dài, áo ngắn, áo giáp, v.v, rực rỡ với nhiều ánh sáng khác nhau, trang trí các cờ và biểu ngữ xinh đẹp đã phóng lên không trung bao quanh đức vua.

Rājayuttā pana janasaṅgahatthaṃ nagaravīthīsu bheriyo carāpenti – ‘‘tātā, amhākaṃ rañño cakkaratanaṃ nibbattaṃ, attano vibhavānurūpena maṇḍitapasādhikā sannipatathā’’ti. Mahājano pana pakatiyā cakkaratanasaddeneva sabbakiccāni pahāya gandhapupphādīni ādāya sannipatitova sopi sabbo vehāsaṃ abbhuggantvā rājānameva parivāreti. Yassa yassa hi raññā saddhiṃ gantukāmatācittaṃ uppajjati, so so ākāsagatova hoti. Evaṃ dvādasayojanāyāmavitthārā parisā hoti. Tattha ekapurisopi chinnabhinnasarīro vā kiliṭṭhavattho vā natthi. Suciparivāro hi rājā cakkavattī. Cakkavattiparisā nāma vijjādharapurisā viya ākāse gacchamānā indanīlamaṇitale vippakiṇṇaratanasadisā hoti. Mahāsudassanassāpi tatheva ahosi. Tena vuttaṃ – ‘‘anvadeva rājā mahāsudassano saddhiṃ caturaṅginiyā senāyā’’ti.

Hơn nữa, để nhiếp phục dân chúng các cận thần của vua đã đánh trống thông báo khắp các con đường trong thành (rằng): “Hỡi các thần dân, bánh xe báu đã xuất hiện cho đức vua của chúng ta, hãy sửa soạn trang điểm tùy thuộc vào khả năng của mỗi người, rồi đến tụ hội.” Hơn nữa đám đông dân chúng đã từ bỏ hết mọi việc cần làm phải làm hằng ngày, mang theo các lễ vật lễ bái như vật thơm và tràng hoa v.v, đên tụ hội nhờ vào âm thanh của chính bánh xe báu đó, (và) họ cũng bay lên không trung vây quanh đức vua, những người nào có ý muốn đồng hành cùng đức vua thì những người đó sẽ đi theo đường hư không. Như vậy hội chúng vừa dài vừa rộng khoảng mười hai do-tuần. Ở trong hội chúng ấy không có một ai dù chỉ một người bị thương hoặc mặc (đắp) y phục dơ bẩn. Thật vậy, Vua Chuyển Luân có hội chúng sạch sẽ. Thường hội chúng của Vua Chuyển Luân bay được trong hư không giống như hội chúng Vijjādhara, tương tợ như ngọc bích và ngọc ma-ni đầy trên bầu trời xanh. Luôn cả hội chúng của đức vua Mahāsudassana cũng tương tự như thế ấy. Vì thế, ngài đã nói rằng: “Theo sau là đức vua Mahāsudassana cùng với đoàn quân có bốn binh chủng.”

Taṃ pana cakkaratanaṃ rukkhaggānaṃ uparūpari nātiuccena nātinīcena gaganappadesena pavattati. Yathā rukkhānaṃ pupphaphalapallavehi atthikā, tāni sukhena gahetuṃ sakkonti. Yathā ca bhūmiyaṃ ṭhitā ‘‘esa rājā, esa uparājā, esa senāpatī’’ti sallakkhetuṃ sakkonti. Ṭhānādīsu ca iriyāpathesu yo yena icchati, so teneva gacchati. Cittakammādisippapasutā cettha attano attano kiccaṃ karontāyeva gacchanti. Yatheva hi bhūmiyaṃ, tathā tesaṃ sabbakiccāni ākāseva ijjhanti. Evaṃ cakkavattiparisaṃ gahetvā taṃ cakkaratanaṃ vāmapassena sineruṃ pahāya mahāsamuddassa uparibhāgena sattasahassayojanappamāṇaṃ[11] pubbavidehaṃ gacchati.

Vả lại, bánh xe báu đó chuyển vận trên hư không không quá cao và cũng không quá thấp, nằm ở phía bên trên ngọn cây trong khoảng cách mà những ai có nhu cầu về hoa, quả hoặc lá của cây cũng có thể dễ dàng hái được những thứ đó, và như người đứng trên mặt đất cũng có thể xác định rằng “đó là đức vua, đó là phó vương, đó là tướng quân”. Trong các tư thế như đứng, v.v, người nào ước muốn tư thế nào thì người ấy có thể di chuyển trong tư thế ấy. Và ở đây, người say mê nghệ thuật như hội họa v.v, khi làm công việc của mình, tất cả công việc của họ đều hoàn thành trong không trung tương tự như trên mặt đất. Ở trên mặt đất đã làm việc như thế nào thì trên hư không cũng có thể làm mọi việc như thế ấy. Bánh xe báu ấy đưa hội chúng của vua Chuyển Luân đi như vậy (và) đã bỏ qua ngọn núi Suneru bên trái tiến đến xứ Pubbavideha khoảng tám ngàn do-tuần ở phía trên của biển cả.

Tattha yo vinibbedhena dvādasayojanāya, parikkhepato chattiṃsayojanāya parisāya sannivesakkhamo sulabhāhārūpakaraṇo chāyudakasampanno sucisamatalo ramaṇīyo bhūmibhāgo, tassa uparibhāge taṃ cakkaratanaṃ akkhāhataṃ viya tiṭṭhati. Atha tena saññāṇena so mahājano otaritvā yathāruci nahānabhojanādīni sabbakiccāni karonto vāsaṃ kappeti. Mahāsudassanassāpi sabbaṃ tatheva ahosi. Tena vuttaṃ – ‘‘yasmiṃ kho panānanda, padese cakkaratanaṃ patiṭṭhāti, tattha so rājā mahāsudassano vāsaṃ upagacchi saddhiṃ caturaṅginiyā senāyā’’ti.

Ở nơi ấy, vùng đất nào có chiều rộng bao quanh mười hai do-tuần, thích hợp việc cư trú của hội chúng rộng mười sáu do-tuần, tìm kiếm thức ăn và các vật dụng phụ tùng được dễ dàng, đầy đủ bóng mát và nguồn nước, có đất đai màu mỡ sạch sẽ, có sự đáng thích thú, bánh xe báu ấy được thiết lập giống như không lay động ở bên trên vùng đất ấy. Sau đó, theo dấu hiệu ấy dân chúng đã bước xuống làm tất cả mọi phận sự như tắm rửa và ăn uống, v.v, sống tùy theo ý thích. Tất cả bánh xe báu đều như thế luôn cả bánh xe báu của đức vua Mahāsudassana cũng tương tự như vậy. Vì lý do đó nên ngài mới nói rằng: “Hơn nữa, này Ānanda, bánh xe báu đã dừng lại ở khu vực nào, thì đức vua Mahāsudassana cùng với đoàn quân có bốn binh chủng đã tiến đến đóng quân ở nơi ấy.”

Evaṃ vāsaṃ upagate cakkavattimhi ye tattha rājāno, te ‘‘paracakkaṃ[12] āgata’’nti sutvāpi na balakāyaṃ sannipātetvā yuddhasajjā honti. Cakkaratanassa hi uppattisamanantarameva natthi so satto nāma, yo paccatthikasaññāya taṃ rājānaṃ ārabbha āvudhaṃ ukkhipituṃ visaheyya. Ayamānubhāvo cakkaratanassa.

Cakkānubhāvena hi tassa rañño,

Arī asesā damathaṃ upenti;

Arindamaṃ nāma narādhipassa,

Teneva taṃ vuccati tassa cakkanti.

Trong khi vua Chuyển Luân đến đóng quân như vậy, các vị vua ở khu vực ấy khi nghe tin “bánh xe khác [kẻ thù] đã đến” cũng không triệu tập các binh chủng để chuẩn bị chiến đấu. Bởi vì, trong giai đoạn bánh xe báu xuất hiện thì không người nào cố gắng cầm vũ khí trước mặt đức vua với tư tưởng là kẻ thù. Đây là oai lực của bánh xe báu.

Bởi nhờ oai lực của bánh xe báu những kẻ đối địch còn lại của đức vua đều đi đến sự quy thuận, việc chinh phục những kẻ đối địch là nhiệm vụ của đức vua vị chúa tể loài người, do chính nguyên nhân ấy ngài nói đến bánh xe báu của vị vua ấy.

Tasmā sabbepi te rājāno attano attano rajjasirivibhavānurūpaṃ pābhataṃ gahetvā taṃ rājānaṃ upagamma onatasirā attano moḷimaṇippabhābhisekena tassa pādapūjaṃ karontā – ‘‘ehi kho, mahārājā’’tiādīhi vacanehi tassa kiṃkārapaṭisāvitaṃ āpajjanti. Mahāsudassanassāpi tatheva akaṃsu. Tena vuttaṃ – ‘‘ye kho, panānanda, puratthimāya disāya…pe… anusāsa, mahārājā’’ti.

Do đó, tất cả những vị ấy đều mang theo cống phẩm phù hợp với vương quyền của mỗi vị đi đến yết kiến, những vị ấy cúi đầu và thể hiện sự lễ bái dưới chân của vua ấy bằng lễ rưới nước nhờ ánh sáng viên ngọc ma-ni ở trên đỉnh đầu của mình, đi đến tiếp đón đức vua ấy với những lời nói được bắt đầu rằng: “Tâu đại vương, hãy đến”. Các vị vua cũng đã thực hiện Vì thế ngài đã nói lời sau “Hơn nữa, này Ānanda, các vị vua đối địch ở hướng đông …nt… tâu đại vương, xin ngài hãy giáo huấn.

Tattha svāgatanti su āgataṃ. Ekasmiñhi āgate socanti, gate nandanti. Ekasmiṃ āgate nandanti, gate socanti, tādiso tvaṃ āgamananandano, gamanasocano. Tasmā tava āgamanaṃ suāgamananti vuttaṃ hoti. Evaṃ vutte pana rājā cakkavattī nāpi – ‘‘ettakaṃ nāma me anuvassaṃ baliṃ upakappethā’’ti vadati, nāpi aññassa bhogaṃ acchinditvā aññassa deti. Attano pana dhammarājabhāvassa anurūpāya paññāya pāṇātipātādīni upaparikkhitvā pemanīyena mañjunā sarena – ‘‘passatha tātā, pāṇātipāto nāmesa āsevito bhāvito bahulīkato nirayasaṃvattaniko hotī’’tiādinā nayena dhammaṃ desetvā ‘‘pāṇo na hantabbo’’tiādikaṃ ovādaṃ deti. Mahāsudassanopi tatheva akāsi, tena vuttaṃ – ‘‘rājā mahāsudassano evamāha – ‘pāṇo na hantabbo…pe… yathābhuttañca bhuñjathā’ti’’. Kiṃ pana sabbepi rañño imaṃ ovādaṃ gaṇhantīti? Buddhassāpi tāva sabbe na gaṇhanti, rañño kiṃ gaṇhissantīti. Tasmā ye paṇḍitā vibhāvino, te gaṇhanti. Sabbe pana anuyantā bhavanti. Tasmā ye kho panānandātiādimāha.

Ở đây, svāgataṃ đồng nghĩa với suāgamanaṃ (đi đến tốt đẹp). Khi một số vị vua đến thì người dân buồn rầu, khi đi thì người dân vui mừng. Khi một số vị đến người dân vui mừng, khi đi người dân thương tiếc. Ngài cũng như thế, khi ngài đến thì dân chúng vui mừng, khi ngài ra đi thì dân chúng thương tiếc. Vì thế, việc đi đến của ngài được gọi là đi đến tốt đẹp. Trong khi nói như vậy thì vua Chuyển Luân cũng không bảo rằng: “các khanh hãy đem lại lợi tức cho ta suốt thời gian chừng ấy năm” mà cũng không cắt xén tài sản của vị khác để ban cho vị khác nữa. Nhưng sau khi suy xét các bất thiện nghiệp đạo như sát sanh v.v, bằng trí tuệ phù hợp với bản thể của vị minh vương, ngài đã thuyết giảng giáo pháp với âm giọng dễ thương, trìu mến theo phương thức như sau – “Hỡi các thần dân hãy nhìn, được gọi là sát sanh này đây được thực hiện, được tu tập, được làm cho sung mãn, vận hành đưa đến địa ngục” rồi ban lời giáo huấn như sau: “không nên sát hại chúng sanh”. Luôn cả đức vua Mahāsudassana cũng thực hiện như thế. Vì thế, nên ngài mới nói rằng: “Đức vua Mahāsudassana đã nói như vầy – ‘không nên sát hại sinh mạng …nt…các ngươi hãy thọ thực như thông lệ.” Lại nữa, phải chăng các đức vua tiếp nhận lời giáo huấn của đức vua? Trước đó, các vị ấy không tiếp nhận (giáo huấn) dầu là của đức Phật, thì làm sao (có thể) tiếp nhận (giáo huấn) của các vị vua? Vì thế, những vị nào là bậc trí có sự rành rẽ, thì những vị ấy tiếp nhận. Hơn nữa, tất cả các vị vua đều phục tùng ngài. Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Hơn nữa, này Ānanda, các vị vua đối địch…

Atha taṃ cakkaratanaṃ evaṃ pubbavidehavāsīnaṃ ovāde dinne katapātarāse cakkavattibalena vehāsaṃ abbhuggantvā puratthimasamuddaṃ ajjhogāhati. Yathā yathā ca taṃ ajjhogāhati, tathā tathā agadagandhaṃ ghāyitvā saṅkhittaphaṇo nāgarājā viya, saṅkhittaūmivipphāraṃ hutvā ogacchamānaṃ mahāsamuddasalilaṃ yojanamattaṃ ogantvā antosamudde veḷuriyabhitti viya tiṭṭhati. Taṅkhaṇaññeva ca tassa rañño puññasiriṃ daṭṭhukāmāni viya mahāsamuddatale vippakiṇṇāni nānāratanāni tato tato āgantvā taṃ padesaṃ pūrayanti. Atha sā rājaparisā taṃ nānāratanaparipūraṃ mahāsamuddatalaṃ disvā yathāruci ucchaṅgādīhi ādiyati, yathāruci ādinnaratanāya pana parisāya taṃ cakkaratanaṃ paṭinivattati. Paṭinivattamāne ca tasmiṃ parisā aggato hoti, majjhe rājā, ante cakkaratanaṃ. Tampi jalanidhijalaṃ[13] palobhiyamānamiva cakkaratanasiriyā, asahamānamiva ca tena viyogaṃ nemimaṇḍalapariyantaṃ[14] abhihanantaṃ nirantarameva upagacchati. Evaṃ rājā cakkavattī puratthimamahāsamuddapariyantaṃ pubbavidehaṃ abhivijinitvā dakkhiṇasamuddapariyantaṃ jambudīpaṃ vijetukāmo cakkaratanadesitena maggena dakkhiṇasamuddābhimukho gacchati. Mahāsudassanopi tatheva agamāsi. Tena vuttaṃ – ‘‘atha kho, ānanda, cakkaratanaṃ puratthimaṃ samuddaṃ ajjhogāhetvā paccuttaritvā dakkhiṇaṃ disaṃ pavattī’’ti.

Vào lúc đó, bánh xe báu ấy trong lúc đức vua ban lời giáo huấn cho dân chúng thành Pubbavideha như vậy, sau khi thọ dụng điểm tâm sáng, thì bánh xe báu ấy cũng bay lên không trung nhờ sức mạnh của vua Chuyển Luân rồi tiến vào đại dương phía Đông vượt qua các cơn sóng rộng lớn giống như loài rồng chúa đã ngửi được mùi của loài rắn rồi phùng mang, bay trên mặt nước đại dương khoảng một do-tuần, đứng vững trong lòng đại dương trông giống như vách tường ngọc bích. Và chính trong khoảnh khắc đó nhiều loại báu vật khác tản mát ở bề mặt đại dương dường như mong muốn nhìn thấy phước báu vinh hiển của vị vua ấy xuất phát từ chỗ này chỗ nọ lấp đầy khu vực ấy. Lúc đó, sau khi hội chúng của đức vua nhìn thấy bề mặt đại dương tràn ngập nhiều loại châu báu khác nhau, đều lấy một vốc tùy theo ý thích. Hơn nữa, khi hội chúng đã lấy châu báu theo ý thích thì bánh xe báu ấy cũng quay trở lại. Và sau khi bánh xe báu ấy quay trở lại lần nữa thì hội chúng không thể di chuyển, đức vua ở chính giữa, còn bánh xe báu ở cuối. Thậm chí mặt nước biển ấy dường như bị cuốn hút bởi ánh sáng của bánh xe và dường như không thể thắng phục đã tách đôi từ bánh xe báu và liên tục lao đến vỗ vào vành bánh xe báu ấy. Như vậy, sau khi Vua Chuyển Luân chinh phục vùng đất Pubbavideha[15] có bờ biển phía Đông làm ranh giới, có ý muốn chinh phục Jambudīpa[16] có bờ biển phía Nam làm ranh giới hướng mắt đến bờ biển ở phía Nam theo con đường mà bánh xe báu chỉ dẫn. Luôn cả đức vua Mahāsudassana cũng đi như thế. Vì thế, ngài đã nói rằng: “Sau đó, này Ānanda, bánh xe báu ấy lặn xuống biển Đông rồi quay trở lên và chuyển vận về phương Nam.”

Evaṃ pavattamānassa pana tassa pavattanavidhānaṃ, senāsanniveso, paṭirājāgamanaṃ, tesaṃ[17] anusāsanippadānaṃ dakkhiṇa samudda ajjhogāhanaṃ samuddasalilassa ogacchamānaṃ ratanānaṃ ādānanti[18] sabbaṃ purimanayeneva veditabbaṃ.

Hơn nữa, khi bánh xe báu ấy chuyển vận như vậy, quá trình quay trở lại, việc đóng trại của các quân lính, việc đi đến của các vị vua đối địch, việc ban hành huấn thị cho các vua đối địch, việc vượt qua biển Nam, việc nhô lên khỏi mặt nước biển, việc giữ lấy các châu báu, toàn bộ (sự việc ấy) bậc trí nên hiểu theo chính phương thức trước.

Vijinitvā pana taṃ dasasahassayojanappamāṇaṃ jambudīpaṃ dakkhiṇasamuddatopi paccuttaritvā sattayojanasahassappamāṇaṃ aparagoyānaṃ vijetuṃ pubbe vuttanayeneva gantvā tampi samuddapariyantaṃ tatheva abhivijinitvā pacchimasamuddatopi uttaritvā aṭṭhayojanasahassappamāṇaṃ uttarakuruṃ vijetuṃ tatheva gantvā tampi samuddapariyantaṃ tatheva abhivijiya uttarasamuddato paccuttarati.

Hơn nữa, sau khi chinh phục châu Jambudīpa (diện tích) khoảng mười ngàn do-tuần đã quay trở lại biển Nam ngài đã đi theo phương thức đã được nói trước; để chinh phục châu Aparagoyāna[19] (diện tích) khoảng bảy ngàn do-tuần, ngay cả châu đó cũng có bờ biển làm ranh giới như thế, ngài vượt qua từ biển Tây, ngài đã đi như thế; để chinh phục châu Uttarakuru[20] (diện tích) tám ngàn do-tuần, ngay cả châu đó cũng có bờ biển làm ranh giới tương tự, rồi ngài quay trở lại từ biển Bắc.

Ettāvatā raññā cakkavattinā cāturantāya pathaviyā ādhipaccaṃ adhigataṃ hoti. So evaṃ vijitavijayo attano rajjasirisampattidassanatthaṃ sapariso uddhaṃ gaganatalaṃ abhilaṅghitvā suvikasitapadumakumudapuṇḍarīkavanavicitte cattāro jātassare viya pañcasatapañcasataparittadīpaparivāre cattāro mahādīpe oloketvā cakkaratanadesiteneva maggena yathānukkamaṃ attano rājadhāniṃ paccāgacchati. Atha taṃ cakkaratanaṃ antepuradvāraṃ sobhayamānaṃ viya hutvā tiṭṭhati.

Vua Chuyển Luân đạt đến quyền thống trị ở quả địa đất này có bốn biển làm ranh giới bằng cách như vậy. Vị ấy chiến thắng bằng sự chinh phục như vậy, có hội chúng để chỉ rõ đến sự thành tựu vương quyền của ngài, ngước lên nhìn bầu trời, ngắm nhìn bốn châu lớn có khoảng năm trăm đảo nhỏ xung quanh tương tự như bốn hồ nước tự nhiên tuyệt đẹp được tô điểm với nhiều loại hoa sen, hoa súng, hoa sen trắng đang hé nở như thế, đức vua đã quay trở về kinh thành của ngài theo tuần tự mà bánh xe báu đã chỉ dẫn. Vào thời điểm đó, bánh xe báu vững trú trông giống như được tô thêm vẻ đẹp cho cánh cửa hoàng cung.

Evaṃ patiṭṭhite pana tasmiṃ cakkaratane rājantepure ukkāhi vā dīpikāhi vā kiñci karaṇīyaṃ na hoti, cakkaratanobhāsoyeva rattiṃ andhakāraṃ vidhamatiyeva. Ye pana andhakāratthikā honti, tesaṃ andhakārameva hoti. Mahāsudassanassāpi sabbametaṃ tatheva ahosi. Tena vuttaṃ – ‘‘dakkhiṇaṃ samuddaṃ ajjhogāhetvā …pe… evarūpaṃ cakkaratanaṃ pāturahosī’’ti.

Vả lại, khi bánh xe báu được vững trú như thế, các phận sự cần làm liên quan đến những ngọn đuốc, ngọn đèn, không cần thiết có trong hoàng cung; ánh sáng của bánh xe báu đã xua tan bóng tối của màn đêm, nhưng đối với những ai cần bóng tối, thì bóng tối ấy vẫn sẽ có đối với họ.” Vì thế ngài đã nói rằng: “đã lặn xuống biển Nam …nt… bánh xe báu có hình thức như vậy đã hiện ra cho đức vua Mahāsudassana.

Giải Thích về Voi Báu

  1. Evaṃ pātubhūtacakkaratanasseva cakkavattino amaccā pakatimaṅgalahatthiṭṭhānaṃ samaṃ sucibhūmibhāgaṃ[21] kāretvā haricandanādīhi surabhigandhehi upalimpāpetvā heṭṭhā vicittavaṇṇasurabhi-kusuma-samokiṇṇaṃ upari suvaṇṇatārakānaṃ antarantarā samosaritamanuñña- kusumadāmapaṭimaṇḍitavitānaṃ devavimānaṃ viya abhisaṅkharitvā – ‘‘evarūpassa nāma deva hatthiratanassa āgamanaṃ cintethā’’ti vadanti. So pubbe vuttanayeneva mahādānaṃ datvā sīlāni ca samādāya taṃ puññasampattiṃ āvajjanto nisīdi. Athassa puññānubhāvacodito chaddantakulā vā uposathakulā vā taṃ sakkāravisesaṃ anubhavitukāmo taruṇaravimaṇḍalābhirattacaraṇagīvāmukhapaṭimaṇḍitavisuddhasetasarīro sattapatiṭṭho susaṇṭhitaaṅgapaccaṅgasanniveso vikasitarattapadumacārupokkharo iddhimā yogī viya vehāsagamanasamattho manosilācuṇṇarañjitapariyanto viya rajatapabbato hatthiseṭṭho āgantvā tasmiṃ padese tiṭṭhati. So chaddantakulā āgacchanto sabbakaniṭṭho āgacchati. Uposathakulā āgacchanto sabbajeṭṭho. Pāḷiyaṃ pana uposatho nāgarājā icceva āgataṃ. Nāgarājā nāma kassaci aparibhogo, sabbakaniṭṭho āgacchatīti aṭṭhakathāsu vuttaṃ. Svāyaṃ pūritacakkavattivattānaṃ cakkavattīnaṃ vuttanayeneva cintayantānaṃ āgacchati. Mahāsudassanassa pana sayameva pakatimaṅgalahatthiṭṭhānaṃ āgantvā taṃ hatthiṃ apanetvā tattha aṭṭhāsi. Tena vuttaṃ – ‘‘puna caparaṃ ānanda…pe… nāgarājā’’ti.
  2. Các viên quan đại thần của vua Chuyển Luân có bánh xe báu xuất hiện như vậy, (truyền lệnh) cho dọn dẹp chỗ ở của voi Maṅgala theo thường lệ trở thành khu vực bằng phẳng, sạch sẽ, cho rải rắc với hương thơm ngát như gỗ đàn hương đỏ v.v, được trang trí xinh đẹp tựa như Thiên cung ở bên dưới cho trải đầy hoa surabhī, hoa kusuma có nhiều màu sắc; ở trên trần nhà được trang trí bằng các hoa văn kusuma làm cho hài lòng được gom lại bên trong ngôi sao vàng, rồi nói rằng: “Tâu bệ hạ, xin ngài hãy suy nghĩ việc đi đến của voi báu có hình thức như thế.” Vị ấy sau khi thực hiện đại lễ bố thí, và thọ trì giới hạnh rồi ngồi suy tư đến sự thành tựu của phước báu theo phương thức đã nói trước đó. Sau đó, con voi cao quý được đánh thức nhờ uy lực phước báu của đức vua, mong muốn vượt lên sự cung kính đặc biệt ấy từ dòng giống voi Chaddanta hoặc từ dòng giống voi Uposatha có thân hình thuần trắng, có môi, cổ, và khuôn mặt đỏ ửng tựa như ánh mặt trời lúc bình minh, có bảy điểm tựa[22] chạm lên bề mặt quả đất, các chi phần lớn nhỏ được đặt cân xứng, có phần cuối của vòi màu đỏ xinh đẹp tựa như hoa sen đỏ đang hé nụ có thể bay lượn trong hư không như một hành giả có thần thông, là con voi cao quý nhất tựa như ngọn núi bạc có phần đỉnh được thoa bột manosilā đã đến ở tại nơi đó. Con voi ấy đến từ dòng giống Chaddanta là con voi trẻ nhất (trong số) tất cả. Con voi đến từ dòng giống Uposatha là con voi to lớn hơn (trong số) tất cả. Hơn nữa, trong Chánh Văn Pāḷī đã dẫn chứng như sau: Bậc Long Tượng là Uposatha như vậy, ngài đã nói toàn bộ trong Chú Giải rằng: Bậc Long Tượng là không tương xứng đối với bất kỳ ai, là con voi trẻ nhất trong số tất cả đi đến. Loài voi này đây đến cùng vua Chuyển Luân thực hành phận sự của vị vua Chuyển Luân trong khi suy nghĩ theo cách thức đã được trình bày. Hơn nữa, sau khi long tượng Uposatha đích thân đi đến chỗ ở của voi Maṅgala, đã không xua đuổi voi ấy, và đứng tại nơi ấy. Vì thế, ngài mới nói rằng: Còn có điều khác nữa, này Ānanda, voi báu đã hiện ra cho đức vua …nt… là voi chúa tên Uposatha.

Evaṃ pātubhūtaṃ pana taṃ hatthiratanaṃ disvā hatthigopakādayo haṭṭhatuṭṭhā vegena gantvā rañño ārocenti. Rājā turitaturito āgantvā taṃ disvā pasannacitto – ‘‘bhaddakaṃ vata bho hatthiyānaṃ, sace damathaṃ upeyyā’’ti cintayanto hatthaṃ pasāreti. Atha so gharadhenuvacchako viya kaṇṇe olambitvā sūratabhāvaṃ dassento rājānaṃ upasaṅkamati. Rājā taṃ ārohitukāmo hoti. Athassa parijanā adhippāyaṃ ñatvā taṃ hatthiratanaṃ suvaṇṇaddhajaṃ suvaṇṇālaṅkāraṃ hemajālapaṭicchannaṃ katvā upanenti. Rājā taṃ anisīdāpetvāva sattaratanamayāya nisseṇiyā āruyha ākāsagamananinnacitto hoti. Tassa saha cittuppādeneva so nāgarājā rājahaṃso viya indanīlamaṇippabhājālaṃ nīlagaganatalaṃ abhilaṅghati. Tato cakkacārikāya vuttanayeneva sakalarājaparisā. Iti sapariso rājā antopātarāseyeva sakalapathaviṃ anusaṃyāyitvā rājadhāniṃ paccāgacchati. Evaṃ mahiddhikaṃ cakkavattino hatthiratanaṃ hoti. Mahāsudassanassāpi tādisameva ahosi. Tena vuttaṃ – ‘‘disvā rañño…pe… pāturahosī’’ti.

Hơn nữa người quản tượng v.v, sau khi nhìn thấy voi báu ấy xuất hiện họ đều vui mừng phấn khởi, liền đi trình báo cho đức vua. Đức vua đã nhanh chóng đi đến, sau khi nhìn thấy voi báu ấy, trong khi dùng ý suy nghĩ đã có tâm hoan hỷ như sau: “Này khanh! phương tiện di chuyển bằng voi quả là tốt đẹp, nếu nó có thể đạt được sự thuần hóa” rồi duỗi thẳng cánh tay ra. Lúc đó, con voi ấy giống như bảo mẫu, đã mẫu vểnh và rống lên đến yết kiến đức vua. Ngài có ý muốn ngồi trên lưng voi báu ấy. Vào lúc ấy, những người hầu cận khi biết được ý định của ngài đã trang trí voi báu ấy bằng cờ vàng, những đồ trang sức bằng vàng, phủ tấm lưới vàng rồi dẫn đến dâng lên cho đức vua. Đức vua không để cho voi hạ mình xuống, ngài bước lên (mình voi) bằng bậc thang được làm bằng 7 loại châu báu, có tâm hướng lên không trung. Cùng với sự lập tâm ấy của vị ấy, Long tượng đã đưa ngài khỏi mặt đất bay lên bầu trời, rực rỡ bởi ánh sáng của ngọc bích và ngọc ma-ni tương tợ như loài thiên nga chúa. Từ đó, toàn bộ tùy tùng của đức vua cũng bay lên theo cách đã nói trước đó ở phần chuyển vận bánh xe báu. Như thế, đức vua cùng với đoàn tùy tùng đã du hành khắp toàn bộ quả địa cầu rồi quay trở về kinh đô kịp thời gian thọ dụng điểm tâm sáng. Ngay cả voi báu của đức vua Mahāsudassana cũng tương tự. Vì thế ngài mới nói rằng: “Sau khi nhìn thấy (voi báu), Đức vua Mahāsudassana …nt… đã hiện ra”.

Giải Thích về Ngựa Báu

  1. Evaṃ pātubhūtahatthiratanassa pana cakkavattino amaccā pakatimaṅgalaassaṭṭhānaṃ sucisamatalaṃ kāretvā alaṅkaritvā ca purimanayeneva rañño tassa āgamanacintanatthaṃ ussāhaṃ janenti. So purimanayeneva katadānamānanasakkāro samādinnasīlabbato pāsādatale sukhanisinno puññasampattiṃ samanussarati. Athassa puññānubhāvacodito sindhavakulato vijjulatāvinaddha- saradakāla- setavalāhakarāsisassirīko rattapādo rattatuṇḍo candappabhāpuñja- sadisa- suddhasiniddha- ghanasaṃhatasarīro[23] kākagīvā viya indanīlamaṇi viya ca kāḷavaṇṇena sīsena samannāgatattā kāḷasīsoti suṭṭhu kappetvā ṭhapitehi viya muñjasadisehi saṇhavaṭṭaujugatehi kesehi samannāgatattā muñjakeso vehāsaṅgamo valāhako nāma assarājā āgantvā tasmiṃ ṭhāne patiṭṭhāti. Mahāsudassanassa panesa hatthiratanaṃ viya āgato. Sesaṃ sabbaṃ hatthiratane vuttanayeneva veditabbaṃ. Evarūpaṃ assaratanaṃ sandhāya bhagavā – ‘‘puna ca para’’ntiādimāha.
  2. Hơn nữa, các viên quan đại thần của vua Chuyển luân có ngựa báu đã xuất hiện như vậy, đã dọn dẹp và trang trí chuồng ngựa Maṅgala như thường lệ làm cho mặt đất sạch sẽ và bằng phẳng, khiến sự gắng sức khởi lên cùng đức vua để suy nghĩ việc đến của ngựa báu ấy theo cách thức trước đó. Vị ấy có sự tôn kính hướng đến sự bố thí đã được thực hiện theo cách thức trước, thọ trì giới hạnh, ngồi một cách an lạc ở tầng trên của tòa lâu đài để hồi tưởng lại sự thành tựu phước báu. Khi ấy, ngựa chúa tên là Valāhaka thuộc dòng giống Sindhava nhờ oai lực phước báu của đức vua đánh thức, có màu tro nhạt tựa như áng mây trắng vào vào mùa thu được bao quanh với những tia chớp, có bàn chân màu đỏ, có móng màu đỏ, có thân hình mạnh mẽ, sạch sẽ, trơn bóng tựa như khối ánh sáng của mặt trăng; đầu có màu đen do có tính chất hội đủ bởi cái đầu có màu đen trông giống như cổ quạ và trông giống như màu ngọc bích; có sợi lông như cỏ muñja[24] do có tính chất lông mềm mịn, tròn và thẳng giống như cỏ muñja đã được sắp đặt tỉ mỉ theo thứ tự; có thể di chuyển trong hư không là ngựa chúa tên Valāhaka đã đi đến trú ngụ ở tại nơi đó. Hơn nữa, ngựa báu đã đến cho đức vua Mahāsudassana tương tự như voi báu. Những từ còn lại nên hiểu theo phương thức đã được trình bày trong phần ‘voi báu’. Liên quan đến ‘ngựa báu’ có hình thức như vậy đức Thế Tôn mới nói lời như sau: “Còn có điều khác nữa…

Giải Thích về Ngọc Ma-ni Báu

  1. Evaṃ pātubhūta assaratanassa pana rañño cakkavattino catuhatthāyāmaṃ sakaṭanābhisamapariṇāhaṃ ubhosu antesu kaṇṇikapariyantato viniggatehi suparisuddhamuttākalāpehi dvīhi kañcanapadumehi alaṅkataṃ caturāsītimaṇisahassaparivāraṃ tārāgaṇaparivutassa puṇṇacandasassiriṃ pharamānaṃ viya vepullapabbatato[25] maṇiratanaṃ āgacchati. Tassevaṃ āgatassa muttājālake ṭhapetvā veḷuparamparāya saṭṭhihatthappamāṇaṃ ākāsaṃ āropitassa rattibhāge samantā yojanappamāṇaṃ okāsaṃ ābhā pharati, yāya sabbo so okāso aruṇuggamanavelā viya sañjātāloko hoti. Tato kassakā kasikammaṃ vāṇijā āpaṇugghāṭanaṃ te te sippino taṃ taṃ kammantaṃ payojenti ‘‘divā’’ti maññamānā. Mahāsudassanassāpi sabbaṃ taṃ tatheva ahosi. Tena vuttaṃ – ‘‘puna ca paraṃ ānanda,…pe… maṇiratanaṃ pāturahosī’’ti.

Hơn nữa, ngọc ma-ni báu từ đỉnh núi Vepulla dài 4 cánh tay, có hình dáng xinh đẹp, được trang trí bằng vàng và hoa sen ở hai bên, có cánh hoa bằng ngọc trai tinh khiết phát ra ở hai khối, ở cả hai bên có tám mươi bốn ngàn viên ngọc ma-ni xung quanh y như đang lan tỏa (ánh sáng) chạm đến vầng hào quang của ánh trăng rằm được bao quanh với những vì tinh tú cũng đến cho vua Chuyển Luân có ‘ngựa báu’ đã hiện ra như vậy. Khi ngọc ma-ni đến như vậy vị ấy, mọi người đã đặt vào tấm lưới ngọc trai rồi  nâng lên không trung cao khoảng mười sáu cánh tay bằng đầu ngọn cây tre, ánh sáng biến mãn ở xung quanh không trung khoảng một do-tuần vào ban đêm, đó là nguyên nhân khiến toàn bộ không trung phát ra ánh sáng tương tợ như (ánh sáng) lúc bình minh. Khi đó những người nông phu thì canh tác, những người thương buôn thì buôn bán, những người thợ thủ công thì làm việc này việc nọ, (họ) đều nghĩ rằng: ‘là ban ngày’. Tất cả ngọc ma-ni báu đã có như thế cho chính đức vua Mahāsudassana. Vì thế đức Thế Tôn mới nói rằng: “Còn có điều khác nữa, này Ānanda …nt… ngọc ma-ni báu có hình thức như vậy đã hiện ra cho đức vua Mahāsudassana.”

Giải Thích về Nữ Nhân Báu

  1. Evaṃ pātubhūtamaṇiratanassa pana cakkavattino visayasukhavisesassa visesakāraṇaṃ itthiratanaṃ pātubhavati. Maddarājakulato vā hissa aggamahesiṃ ānenti, uttarakuruto vā puññānubhāvena sayaṃ āgacchati. Avasesā panassā sampatti – ‘‘puna ca paraṃ, ānanda, rañño mahāsudassanassa itthiratanaṃ pāturahosi, abhirūpā dassanīyā’’tiādinā nayena pāḷiyaṃyeva āgatā.
  2. Hơn nữa nữ nhân báu có lý do đặc biệt hiện ra cho đức vua Chuyển Luân, vị hưởng thụ sự an lạc đặc biệt có ngọc ma-ni báu đã hiện ra như vậy. Các thân quyến đưa nữ nhân báu ấy từ dòng tộc Maddarāja đến làm hoàng hậu của vua Chuyển Luân, hoặc tự mình đi đến từ châu Uttarakuru nhờ vào năng lực phước báu. Sự thành tựu những ưu điểm còn lại của hoàng hậu toàn bộ được trình bày trong Chánh Tạng theo phương thức sau: ‘Còn có điều khác nữa, này Ānanda, nữ nhân báu đã hiện ra cho đức vua Mahāsudassana, có vóc dáng đẹp, đáng nhìn…

Tattha saṇṭhānapāripūriyā adhikaṃ rūpaṃ assāti abhirūpā. Dissamānāva cakkhūni piṇayati, tasmā aññaṃ kiccavikkhepaṃ hitvāpi daṭṭhabbāti dassanīyā. Dissamānāva somanassavasena cittaṃ pasādetīti pāsādikā. Paramāyāti evaṃ pasādāvahattā uttamāya. Vaṇṇapokkharatāyāti vaṇṇasundaratāya. Samannāgatāti upetā. Abhirūpā vā yasmā nātidīghā nātirassā. Dassanīyā yasmā nātikisā nātithūlā. Pāsādikā yasmā nātikāḷikā nāccodātā. Paramāya vaṇṇapokkharatāya samannāgatā yasmā abhikkantā mānusivaṇṇaṃ appattā dibbavaṇṇaṃ. Manussānañhi vaṇṇābhā bahi na niccharati. Devānaṃ pana atidūrampi niccharati.

Ở đây, có vóc dáng xinh đẹp bởi vì có vóc dáng tuyệt đẹp do sự hoàn hảo về hình tướng. Và (gọi là) đáng nhìn bởi đáng để ngắm nhìn, thậm chí phải gác lại công việc khác. Dễ mến vì khi nhìn thì tâm được tịnh tín do mãnh lực của thọ hỷ. Tuyệt vời: cao quý vì đem lại sự tịnh tín như vậy. Sắc vóc và tướng mạo (tuyệt vời): vì có màu da tuyệt đẹp. Được thành tựu: đạt đến. Hơn nữa, có vóc dáng xinh đẹp do không quá cao, không quá thấp. Đáng nhìn do không quá ốm, không quá mập. Dễ mến do không quá đen, không quá trắng. Được thành tựu sắc vóc và tướng mạo tuyệt vời do vượt trội sắc đẹp của loài người, tuy nhiên vẫn chưa đạt đến sắc đẹp của cõi Trời. Thật vậy, màu da của loài người không có hào quang phóng ra bên ngoài, còn màu da của các Thiên nhân phóng ra bên ngoài, thậm chí (phóng ra) xa.

Tassā pana dvādasahatthappamāṇaṃ padesaṃ sarīrābhā obhāseti. Nātidīghādīsu cassā paṭhamayugaḷena ārohasampatti, dutiyayugaḷena pariṇāhasampatti, tatiyayugaḷena vaṇṇasampatti vuttā. Chahi vāpi etehi kāyavipattiyā abhāvo, atikkantā mānusivaṇṇanti iminā kāyasampatti vuttā. Tūlapicuno vā kappāsapicuno vāti sappimaṇḍe pakkhipitvā ṭhapitassa satavāravihatassa[26] tūlapicuno vā kappāsapicuno vā. Sīteti rañño sītakāle. Uṇheti rañño uṇhakāle. Candanagandhoti niccakālameva supisitassa abhinavassa catujjātisamāyojitassa haricandanassa gandho kāyato vāyati. Uppalagandho vāyatīti hasitakathitakālesu mukhato taṅkhaṇaṃ vikasitasseva nīluppalassa atisurabhigandho vāyati.

Tuy nhiên hào quang từ sắc thân của nữ nhân báu ấy tỏa ra (có thể) làm chói sáng một khu vực khoảng 12 cánh tay. Không quá cao v.v, của nữ nhân báu ấy đã được nói rằng: sự thành tựu là chiều cao với sự thành tựu đôi thứ nhất, sự thành tựu là kích thước với sự thành tựu đôi thứ hai, sự thành tựu là sắc vóc với sự thành tựu đôi thứ ba. Và hơn nữa, với 6 sự thành tựu này hoàng hậu không có bất kỳ khiếm khuyết gì về thân, sự thành tựu về sắc thân được nói như sau: vượt trội sắc đẹp của loài người. Xúc chạm (êm ái) như chùm bông vải hoặc chùm bông gòn: có sự xúc chạm ở thân tương tợ như thể chạm vào chùm bông vải hoặc chùm bông gòn được đặt vào đề hồ rồi giũ bỏ một trăm lần. Ấm khi thời tiết lạnh: ấm áp khi đức vua lạnh. mát khi thời tiết nóng: mát mẻ khi đức vua nóng. (Từ thân tỏa ra) hương thơm của gỗ đàn hương: hương thơm của gỗ đàn hương đỏ hòa trộn với bốn[27] giống (khác) vẫn còn tươi, nghiền thật mịn, lưu liên tục (sẽ) tỏa ra từ thân. (Từ miệng tỏa ra) hương thơm của hoa sen: mùi hương cực thơm của hoa sen xanh vào thời điểm đang hé nở, từ miệng tỏa ra (hương thơm) trong lúc cười hoặc nói.

Evaṃ rūpasamphassagandhasampattiyuttāya panassā sarīrasampattiyā anurūpaṃ ācāraṃ dassetuṃ taṃ kho panātiādi vuttaṃ. Tattha rājānaṃ disvā nisinnāsanato aggidaḍḍhā viya paṭhamameva uṭṭhātīti pubbuṭṭhāyinī. Tasmiṃ nisinne tassa tālavaṇṭena bījanādikiccaṃ katvā pacchā nipatati nisīdatīti pacchānipātinī. Kiṃ karomi, te devāti vācāya kiṃ-kāraṃ paṭisāvetīti kiṃ kārapaṭissāvinī. Rañño manāpameva carati karotīti manāpacārinī. Yaṃ rañño piyaṃ tadeva vadatīti piyavādinī.

Để miêu tả cách hành xử phù hợp với sự thành tựu ở sắc thân của nữ nhân báu liên quan với sự thành về xúc chạm và sự thành tựu hương thơm như vậy nên mới nói rằng: “Hơn nữa, này Ānanda, nữ nhân báu ấy…” Trong các cách cư xử ấy, đứng dậy tiếp đón trước (thức dậy trước): sau khi nhìn thấy đức vua, ngay lập tức từ chỗ ngồi (nữ nhân báu) đã đứng dậy trước trông như thể bị lửa thiêu đốt. Ngồi xuống sau (nằm ngủ sau): khi đức vua đã ngồi xuống (nữ nhân báu) phải làm các bổn phận như dâng lên cây quạt lá cọ cho vị ấy rồi mới nghỉ ngơi, tức là ngồi xuống sau. Chờ nghe mệnh lệnh: (nữ nhân báu) sốt sắng trong công việc cần làm bằng lời nói rằng: “Tâu bệ hạ, thần thiếp sẽ phải làm gì cho ngài?”. Cư xử làm hài lòng: (nữ nhân báu) luôn hành xử và làm những điều khiến cho đức vua hài lòng. Lời nói đáng yêu: (nữ nhân báu) chỉ nói những lời nói đáng yêu đối với đức vua.

Idāni – ‘‘svāssā ācāro bhāvavisuddhiyāva[28], na sāṭheyyanā’’ti dassetuṃ taṃ kho panātiādimāha. Tattha no aticarīti na atikkamitvā cari, ṭhapetvā rājānaṃ aññaṃ purisaṃ cittenapi na patthesīti vuttaṃ hoti.

Bây giờ, để thuyết giảng rằng: “Cách hành xử của nữ nhân báu này đây hoàn toàn trong sạch, không có sự phản bội,” nên đã nói rằng: “Hơn nữa, này Ānanda, nữ nhân báu ấy…” Trong câu đó, không có sự bất chính: không hành xử vượt quá giới hạn, (điều này) được nói là không mong mỏi, thậm chí với tâm suy nghĩ người đàn ông khác ngoài đức vua.

Tattha ye tassā ādimhi ‘‘abhirūpā’’tiādayo, ante ‘‘pubbuṭṭhāyinī’’tiādayo guṇā vuttā, te pakatiguṇā eva. ‘‘Atikkantā mānusivaṇṇa’’ntiādayo pana cakkavattino puññaṃ upanissāya cakkaratanapātubhāvato paṭṭhāya purimakammānubhāvena nibbattāti veditabbā.

Trong câu đó, ưu điểm nào của nữ nhân ấy được nói rằng “có vóc dáng xinh đẹp” v.v, ở phần đầu; và nói rằng: “đứng dậy tiếp đón trước” ở phần sau thì những ưu điểm ấy chỉ là những ưu điểm thông thường. Còn “vượt trội sắc đẹp của loài người” nên hiểu rằng: đã hóa sanh nhờ năng lực của nghiệp cũ kể từ khi bánh xe báu hiện ra do bởi nương vào phước của vua Chuyển Luân.

Abhirūpatādikāpi vā cakkaratanapātubhāvato paṭṭhāya sabbākāraparipūrā jātā. Tenāha – ‘‘evarūpaṃ itthiratanaṃ pāturahosī’’ti.

Hoặc, sự thành tựu “có vóc dáng xinh đẹp, v.v,” đã sanh khởi tròn đủ với mọi biểu hiện kể từ khi bánh xe báu hiện ra. Vì thế, đức Thế Tôn đã nói như sau: “Nữ nhân báu có hình thức như vậy đã hiện ra…

Giải Thích về Gia Chủ Báu

  1. 250. Evaṃ pātubhūtaitthiratanassa pana rañño cakkavattino dhanakaraṇīyānaṃ kiccānaṃ yathāsukhaṃ pavattanatthaṃ gahapatiratanaṃ pātubhavati. So pakatiyāva mahābhogo, mahābhogakule jāto. Rañño dhanarāsivaḍḍhako seṭṭhigahapati hoti. Cakkaratanānubhāvasahitaṃ panassa kammavipākajaṃ dibbacakkhu pātubhavati, yena antopathaviyampi yojanabbhantare nidhiṃ passati, so taṃ sampattiṃ disvā tuṭṭhamānaso gantvā rājānaṃ dhanena pavāretvā sabbāni dhanakaraṇīyāni sampādeti. Mahāsudassanassāpi tatheva sampādesi. Tena vuttaṃ – ‘‘puna caparaṃ ānanda…pe… evarūpaṃ gahapatiratanaṃ pāturahosī’’ti.
  2. Hơn nữa, gia chủ báu hiện ra nhằm mục đích vận hành các việc cần phải làm bằng của cải được thuận lợi cho vua Chuyển Luân vị có nữ nhân báu đã xuất hiện như vậy. Vị ấy vốn dĩ có rất nhiều tài sản, được sanh ra trong gia đình đại phú. Giàu có bởi khối tài sản của đức vua là vị trưởng giả. Thêm nữa, Thiên nhãn do quả thành tựu của nghiệp được hiện ra hòa hợp với oai lực của bánh xe báu, nhờ nó vị ấy nhìn thấy các của cải chôn giấu bên dưới lòng đất trong bán kính một do-tuần, sau khi nhìn thấy sự thành tựu ấy vị ấy khởi tâm hoan hỷ đã yêu cầu để tiếp nhận làm các việc cần phải làm với tài sản của đức vua được hoàn tất. Ngay cả gia chủ báu của đức vua Mahāsudassana cũng làm việc cần phải làm được hoàn tất tương tự như thế. Do đó, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Còn có điều khác nữa, này Ānanda, gia chủ báu có hình thức như vậy đã hiện ra cho đức vua Mahāsudassana.”

 

Giải Thích về Tướng Quân Báu

  1. Evaṃ pātubhūtagahapatiratanassa pana rañño cakkavattissa sabbakicca-saṃvidhānasamatthaṃ pariṇāyakaratanaṃ pātubhavati. So rañño jeṭṭhaputtova hoti. Pakatiyā eva so paṇḍito byatto medhāvī vibhāvī. Rañño puññānubhāvaṃ nissāya panassa attano kammānubhāvena paracittañāṇaṃ uppajjati. Yena dvādasayojanāya rājaparisāya cittācāraṃ ñatvā rañño hite ca ahite ca vavatthapetuṃ samattho hoti, sopi taṃ attano ānubhāvaṃ disvā tuṭṭhahadayo rājānaṃ sabbakiccānusāsanena pavāreti. Mahāsudassanampi tatheva pavāresi. Tena vuttaṃ – ‘‘puna caparaṃ…pe… pariṇāyakaratanaṃ pāturahosī’’ti. Tattha ṭhapetabbaṃ ṭhapetunti tasmiṃ tasmiṃ ṭhānantare ṭhapetabbaṃ ṭhapetuṃ.
  2. Lại nữa, tướng quân báu có thể sắp xếp mọi việc xuất hiện cho vua Chuyển Luân có gia chủ báu đã xuất hiện như vậy. Vị ấy chính là con trai trưởng của vua Chuyển Luân. Đúng như bản chất tự nhiên vị ấy là vị sáng suốt, có kinh nghiệm, thông minh, có sự rành rẽ. Hơn nữa, có tuệ y cứ năng lực phước báu của đức vua (mà) đạt đến tha tâm thông bởi năng lực nghiệp của bản thân. Nhờ nó vị ấy biết được trình độ tâm của đoàn tùy tùng của đức vua trong phạm vi mười hai do-tuần có thể dàn xếp những điều vô ích và hữu ích cho đức vua. Thậm chí vi ấy sau khi nhìn thấy oai lực của mình khởi tâm hoan hỷ, đã đưa ra lời thỉnh cầu đức vua để quản lý mọi việc. Ngay cả tướng quân báu của đức vua Mahāsudassana cũng đã đưa ra lời thỉnh cầu tương tự như thế. Vì thế, đức Thế Tôn mới nói rằng: “Còn có điều khác nữa, này Ānanda …nt… tướng quân báu đã hiện ra.” Ở đấy, ban tước vị cho người xứng đáng được ban: để ban tước vị cho người xứng đáng được đặt vào vị trí đó.

Nói về sự hội đủ bốn sự thành tựu

  1. 252. Samavepākiniyāti samavipācaniyā[29]. Gahaṇiyāti kammajatejodhātuyā. Tattha yassa bhuttamattova āhāro jīrati, yassa vā pana puṭabhattaṃ viya tattheva tiṭṭhati, ubhopete na samavepākiniyā samannāgatā. Yassa pana puna bhattakāle bhattachando uppajjateva, ayaṃ samavepākiniyā samannāgatoti.
  2. Cho việc tiêu hóa được điều hòa: sanh lên đều đặn từ quả nghiệp. Hỏa giới sanh lên từ nghiệp:Với hỏa giới sanh lên từ nghiệp. Trong đoạn văn này, vật thực cốt đề thọ dụng của đức vua được tiêu hóa, hoặc hơn nữa được thiết lập ngay tại nơi ấy tương tợ như vật thực thọ dụng, được hội đủ bởi sức nóng cho việc tiêu hóa được điều hòa, thậm chí cả hai. Còn có điều khác nữa, sự ước muốn vật thực trong lúc thọ dụng được hiện ra cho đức vua Mahāsudassana, đức vua này được hội đủ bởi sức nóng cho việc tiêu hóa được điều hòa.

Nói về việc xây dựng hồ nước và lâu đài Dhamma

  1. 253. Māpesi khoti nagare bheriṃ carāpetvā janarāsiṃ kāretvā na māpesi, rañño pana saha cittuppādeneva bhūmiṃ bhinditvā caturāsīti pokkharaṇīsahassāni nibbattiṃsu. Tāni sandhāyetaṃ vuttaṃ. Dvīhi vedikāhīti ekāya iṭṭhakānaṃ pariyanteyeva parikkhittā ekāya pariveṇaparicchedapariyante. Etadahosīti kasmā ahosi? Ekadivasaṃ kira nahatvā ca pivitvā ca gacchantaṃ mahājanaṃ mahāpuriso oloketvā ime ummattakaveseneva gacchanti. Sace etesaṃ ettha piḷandhanapupphāni bhaveyyuṃ, bhaddakaṃ siyāti. Athassa etadahosi. Tattha sabbotukanti pupphaṃ nāma ekasmiṃyeva utumhi pupphati. Ahaṃ pana tathā karissāmi – ‘‘yathā sabbesu utūsu pupphissatī’’ti cintesiṃ. Ropāpesīti nānāvaṇṇauppalabījādīni tato tato āharāpetvā na ropāpesi, saha cittuppādeneva panassa sabbaṃ ijjhati. Taṃ loko raññā ropitanti maññi. Tena vuttaṃ – ‘‘ropāpesī’’ti. Tato paṭṭhāya mahājano nānappakāraṃ jalajathalajamālaṃ piḷandhitvā nakkhattaṃ kīḷamāno viya gacchati.
  2. Đã tạo lập: đã ra lệnh đánh trống loan báo khắp kinh thành, đồng thời cho người dân thực hiện việc xây dựng, hơn nữa tám mươi bốn ngàn hồ nước đồng loạt phun lên đồng sanh với ý nghĩ của đức vua. Điều này đức Thế Tôn nói đề đề cập đến những hồ nước ấy. (Đã được rào quanh) bằng hai hàng rào: được rào quanh bằng một loại gạch ở cuối của những viên gạch, rào quanh bằng một loại gạch khác ở cuối để xác định ranh giới. Đã khởi đến: đã có rồi tại sao? Nghe rằng vào một ngày nọ bậc Đại nhân nhìn thấy đám đông người đi tắm và uống nước, nghĩ rằng họ đi với hình tướng của kẻ điên. Nếu như có bông hoa trang trí trong hồ cho những người đó, có lẽ là điều tốt lành. Sau đó, điều này đã khởi đến đức vua Mahāsudassana.” Ở đoạn văn ấy, nở hoa khắp các mùa: (đức vua Mahāsudassana nghĩ rằng: thông thường các bông hoa chỉ nở hoa vào một mùa mà thôi. Còn trẫm sẽ làm trong cách đó – “những bông hoa sẽ nở hoa khắp các mùa.” Đã cho trồng: (đức vua) đã ra lệnh mang lại nhiều giống hoa sen khác nhau, v.v, ở chỗ này chỗ nọ về trồng, hơn nữa tất cả bông hoa đều lớn lên cùng với chính ý nghĩ của đức vua.” Mọi người nghĩ rằng những bông hoa ấy đức vua đã cho trồng. Do đó, mới nói rằng – “đã cho trồng.” Kể từ đó trở đi đám đông dân chúng đã trang trí những bông hoa mọc lên từ nước và mọc lên từ đất bằng nhiều hình thức khác nhau giống như đang đùa giỡn ở lễ hội.
  3. 254. Atha rājā tato uttaripi janaṃ sukhasamappitaṃ kātukāmo – ‘‘yaṃnūnāhaṃ imāsaṃ pokkharaṇīnaṃ tīre’’tiādinā janassa sukhavidhānaṃ[30] cintetvā sabbaṃ akāsi. Tattha nhāpesunti añño sarīraṃ ubbaṭṭesi, añño cuṇṇāni yojesi, añño tīre[31] nahāyantassa udakaṃ āhari, añño vatthāni paṭiggahesi ceva adāsi ca.
  4. Khi ấy, đức vua có ý muốn làm cho dân chúng có được hạnh phúc hơn nữa nên mới suy nghĩ bố trí (tìm kiếm) hạnh phúc cho dân chúng như sau: “Hay là ta nên cho trồng ở các hồ nước ấy…” và sau đó thực hiện tất cả các công việc. Trong các câu đó thì cho tắm nghĩa là người khác kỳ cọ cơ thể, người khác nữa thêm phấn thơm, người khác nữa xách nước đến cho người tắm ở bờ hồ, người khác nữa nhận và cho y phục.

Paṭṭhapesi khoti kathaṃ paṭṭhapesi? Itthīnañca purisānañca anucchavike alaṅkāre kāretvā itthimattameva tattha paricāravasena sesaṃ sabbaṃ pariccāgavasena ṭhapetvā rājā mahāsudassano dānaṃ deti, taṃ paribhuñjathāti bheriṃ carāpesi.Mahājano pokkharaṇītīraṃ āgantvā nahatvā vatthāni parivattetvā nānāgandhehi vilitto piḷandhanavicittamālo dānaggaṃ gantvā anekappakāresu yāgubhattakhajjakesu aṭṭhavidhapānesu ca yo yaṃ icchati, so taṃ khāditvā ca pivitvā ca nānāvaṇṇāni khomasukhumāni vatthāni nivāsetvā sampattiṃ anubhavitvā yesaṃ tādisāni atthi, te ohāya gacchanti. Yesaṃ pana natthi, te gahetvā gacchanti. Hatthiassayānādīsupi nisīditvā thokaṃ vicaritvā anatthikā ohāya, atthikā gahetvā gacchanti. Varasayanesu nipajjitvā sampattiṃ anubhavitvā anatthikā ohāya, atthikā gahetvā gacchanti. Itthīhipi saddhiṃ sampattiṃ anubhavitvā anatthikā ohāya, atthikā gahetvā gacchanti. Sattavidharatanapasādhanāni ca pasādhetvāpi sampattiṃ anubhavitvā anatthikā ohāya, atthikā gahetvā gacchanti. Tampi dānaṃ uṭṭhāya samuṭṭhāya dīyateva. Jambudīpavāsikānaṃ aññaṃ kammaṃ natthi, rañño dānaṃ paribhuñjantāva vicaranti.

Đã cho thành lập (việc bố thí): tổ chức như thế nào? Đã bố trí người phụ trách việc trang trí phù hợp cho tất cả nữ nhân và nam nhân, chỉ bố trí nữ nhân thông qua khả năng hầu hạ ở nơi đó, bố trí tất cả những việc còn lại thông qua khả năng dứt bỏ, cho đánh trống loan báo rằng: đức vua Mahāsudassana ban phát vật thí, mọi người hãy thọ nhận điều ấy.” Đám đông dân chúng sau khi đi đến bờ hồ đã tắm gội, thay y phục, thoa các loại hương thơm khác nhau, trang điểm lộng lẫy, đi đến bố thí đường ăn và uống các món ăn họ muốn trong số rất nhiều các món ăn như cháo, cơm và vật thực mềm, và tám loại thức uống. Họ đã mặc y phục vải bông mịn màng có nhiều màu sắc khác nhau, sau khi thọ hưởng sự sung sướng, những người có những thứ đó (nếu không có sự mong cầu) thì họ bỏ lại. Còn những người không có, (nếu không có sự mong cầu) thì họ có thể lấy đi. Những người ngồi trên voi, ngựa, và các phương tiện khác đi vòng quanh một lát, nếu không có sự mong cầu thì bỏ qua, nếu có sự mong cầu (có thể) lấy đi. Những người nằm ở chỗ nằm sang trọng thọ hưởng sự sung sướng nếu không có sự mong cầu thì bỏ lại, nếu có sự mong cầu (có thể) lấy đi. Những người thọ hưởng sự sung sướng với các nữ nhân nếu không có sự mong cầu thì bỏ lại, nếu có sự mong cầu (có thể) lấy đi. Những người được trang điểm với bảy loại châu báu, sau khi thọ hưởng sự sung sướng nếu không có sự mong cầu thì bỏ lại, nếu có sự mong cầu (có thể) lấy đi. Cuộc bố thí ấy đức vua Mahāsudassana đã đứng dậy và cũng bố thí. Không có công việc khác của người dân ở xứ sở Jampudīpa, họ chỉ du hành thọ dụng vật thí của đức vua mà thôi.

  1. 255. Atha brāhmaṇagahapatikā cintesuṃ – ‘‘ayaṃ rājā evarūpaṃ dānaṃ dadantopi ‘mayhaṃ taṇḍulādīni vā khīrādīni vā dethā’ti na kiñci āharāpeti, na kho pana amhākaṃ – ‘rājā āharāpetī’ti tuṇhīmāsituṃ patirūpa’’nti te bahuṃ sāpateyyaṃ saṃharitvā rañño upanāmesuṃ. Tasmā – ‘‘Atha kho, ānanda, brāhmaṇagahapatikā’’tiādimāha. Evaṃ samacintesunti kasmā evaṃ cintesuṃ? Kassaci gharato appaṃ ābhataṃ, kassaci bahu. Tasmiṃ paṭisaṃhariyamāne – ‘‘kiṃ taveva gharato sundaraṃ ābhataṃ, na mayhaṃ gharato, kiṃ taveva gharato bahu, na mayha’’nti evaṃ kalahasaddopi uppajjeyya, so mā uppajjitthāti evaṃ samacintesuṃ.
  2. Khi ấy, các Bà-la-môn và các gia chủ suy nghĩ rằng – “Vị vua này, ngay cả khi ban phát thức ăn có hình thức như vậy, không yêu cầu mang lại bất cứ thứ gì ‘các ngươi hãy dâng gạo hoặc sữa, v.v, cho trẫm’, hơn nữa điều này không nên im lặng bỏ qua – ‘đức vua của chúng tôi không cho mang lại, các Bà-la-môn và các gia chủ đã gom góp vô số tài sản đem đến dâng lên đức vua. Vì thế, đức Thế Tôn mới nói rằng: “Khi ấy, này Ānanda, các Bà-la-môn và các gia chủ…” Đã bàn tính như vầy: vì sao (các Bà-la-môn và các gia chủ) suy nghĩ như vậy? Bởi vì một số người mang ít (của cải) từ nhà, một số mang nhiều (của cải). Khi của cải được gom góp, cả tiếng ồn ào cũng có thể phát sinh như vầy: “Tại sao chỉ mình ông mang lại của cải từ ngôi nhà xinh đẹp, tôi mang lại từ ngôi nhà không xinh đẹp, tại sao chỉ mình ông mang lại nhiều của cải từ ngôi nhà, tôi không nhiều?” tiếng ồn ào ấy chớ nên phát sinh và đã bàn tính như vậy.
  3. 256. Ehi tvaṃ sammāti ehi tvaṃ vayassa[32]. Dhammaṃ nāma pāsādanti pāsādassa nāmaṃ āropetvāva āṇāpesi[33]. Vissakammo pana kīva[34] mahanto deva pāsādo hotūti paṭipucchitvā dīghato yojanaṃ vitthārato aḍḍhayojanaṃ sabbaratanamayova hotūti vuttepi ‘evaṃ hotu, bhaddaṃ tava vacana’nti tassa paṭissuṇitvā dhammarājānaṃ sampaṭicchāpetvā māpesi. Tattha evaṃ bhaddaṃ tavāti kho ānandāti evaṃ bhaddaṃ tava iti kho ānanda. Paṭissutvāti sampaṭicchitvā, vatvāti attho. Tuṇhībhāvenāti samaṇadhammapaṭipattikaraṇokāso me bhavissatīti icchanto tuṇhībhāvena adhivāsesi. Sāramayoti candanasāramayo.
  4. Này khanh Vissakamma, hãy đến: Này khanh, vị có danh tiếng, hãy đến. Hãy tạo lập lâu đài tên là Dhamma: Sau khi làm xong rồi lệnh đặt tên tòa lâu đài. Hơn nữa, Thiên tử Vissakamma tâu rằng: “Tâu bệ hạ, tòa lâu đài rộng bao nhiêu? Khi đức vua nói rằng: “Lâu đài ấy dài một do-tuần, rộng nửa do-tuần, được tạo lập bằng các loại châu báu.” – Thiên tử đáp lời đức vua rằng: “Hãy thành tựu như thế, lời nói của ngài là tốt đẹp” – Tiếp đó, sau khi nói cho vị minh vương biết đã tạo lập. Trong các câu đó – ‘Xin vâng, thưa ngài,’ này Ānanda, Thiên tử Vissakamma đã trả lời…’ nghĩa là này Ānanda, (Thiên tử Vissakamma đã trả lời) ‘xin vâng, thưa ngài.’ Sau khi nghe theo: đã thừa nhận, tức là cho biết. Bằng thái độ im lặng: đức vua Mahāsudassana có ý muốn rằng: ‘Ta sẽ có cơ hội thực hành pháp hành Sa-môn Pháp nên đã nhận lời bằng thái độ im lặng.’ Bằng gỗ lõi: hoàn thành bằng lõi gỗ trầm hương.
  5. 257. Dvīhi vedikāhīti ettha ekā vedikā panassa uṇhīsamatthake ahosi, ekā heṭṭhā paricchedamatthake.
  6. Hai hàng rào đó, một hàng rào nằm ở đỉnh cao nhất, một hàng rào ở cuối đường biên dưới.

258.Duddikkho ahosīti duuddikkho, pabhāsampattiyā duddasoti attho. Musatīti harati phandāpeti niccalabhāvena patiṭṭhātuṃ na deti. Viddheti ubbiddhe, meghavigamena dūrībhūteti attho. Deveti ākāse.

  1. Đã là khó nhìn thẳng vào: khó nhìn thấy, tức là khó nhận thấy bởi vì tính chất của ánh sáng. Làm chói (hai mắt): đưa đi, làm lay động, tức là không cho thiết lập vởi trạng thái liên tục. Khi bầu trời quang đãng: vững vàng, tức là ở xa do thoát khỏi mây. Ở không trung: ở hư không.
  2. 259. Māpesi khoti ahaṃ imasmiṃ ṭhāne pokkharaṇiṃ māpemi, tumhākaṃ gharāni bhindathāti na evaṃ kāretvā māpesi. Cittuppādavaseneva panassa bhūmiṃ bhinditvā tathārūpā pokkharaṇī ahosi. Te sabbakāmehīti sabbehi icchiticchitavatthūhi, samaṇe samaṇaparikkhārehi, brāhmaṇe brāhmaṇaparikkhārehi santappesīti.
  3. Đã cho xây dựng: Thiên tử Vissakamma đã không thực hiện như vầy rằng: “Tôi sẽ tạo lập hồ nước ở chỗ này, các ông hãy phá vỡ căn nhà của các ông.” Hơn nữa, các hồ nước đã có bằng hình thức như thế, đã phá vỡ mặt đất phun lên do mãnh lực tâm sanh của chính đức vua. Với mọi vật dụng cần thiết: Ngài đã làm hài lòng các Sa-môn bằng những vật dụng cần thiết, là những vật dụng phụ tùng của các Sa-môn, đã làm hài lòng các Bà-la-môn bằng những vật dụng của Bà-la-môn.

Giải thích Tụng Phẩm thứ nhất được kết thúc.

 

Giải thích sự thành tựu về sự chứng đạt của thiền

  1. 260. Mahiddhikoti cittuppādavaseneva caturāsītipokkharaṇīsahassānaṃ nibbattisaṅkhātāya mahatiyā iddhiyā samannāgato. Mahānubhāvoti tesaṃyeva anubhavitabbānaṃ mahantatāya mahānubhāvena samannāgato. Seyyathidanti[35] nipāto, tassa – ‘‘katamesaṃ tiṇṇa’’nti attho. Dānassāti sampattipariccāgassa. Damassāti āḷavakasutte[36] paññā damoti āgato. Idha attānaṃ damentena kataṃ uposathakammaṃ. Saṃyamassāti sīlassa.
  2. Có đại thần lực: đạt được bằng đại thần lực, được xem là sự thành tựu (trong việc tạo lập) tám mươi bốn ngàn hồ nước chỉ bằng mãnh lực tâm sanh. Có đại oai lực: đạt được bằng đại oai lực do tính chất nghiệp mà có thể thọ hưởng chính những điều đó, có nhiều. Seyyathidaṃ: là phân từ (gồm có, tức là). Ý nghĩa của phân từ ấy là ‘ba nghiệp ấy như thế nào?’ Sự bố thí: thành tựu sự dứt bỏ. Sự tu dưỡng: Tuệ đã đạt đến rằng thuần hóa trong bài Kinh Āḷavaka. Ở đây, ta nên tự điều phục, gìn giữ việc làm vào ngày trai giới. Sự tự chế ngự: giới.

Giải thích sự nỗ lực ban đầu của Bồ Tát

Idha ṭhatvā panassa pubbayogo veditabbo – rājā kira pubbe gahapatikule nibbatti. Tena ca samayena dharamānakasseva kassapabuddhassa sāsane eko thero araññe vāsaṃ vasati, bodhisatto attano kammena araññaṃ paviṭṭho theraṃ disvā upasaṅkamitvā vanditvā therassa nisajjanaṭṭhānacaṅkamanaṭṭhānāni oloketvā pucchi – ‘‘idheva, bhante, ayyo vasatī’’ti? Āma, upāsakāti sutvā – ‘‘idheva ayyassa paṇṇasālaṃ kātuṃ vaṭṭatī’’ti cintetvā attano kammaṃ pahāya dabbasambhāraṃ koṭṭetvā paṇṇasālaṃ katvā chādetvā bhittiyo mattikāya limpitvā dvāraṃ yojetvā kaṭṭhattharaṇaṃ katvā –                                                                                           ‘‘karissati nu kho paribhogaṃ, na karissatī’’ti ekamantaṃ nisīdi. Thero antogāmato āgantvā paṇṇasālaṃ pavisitvā kaṭṭhattharaṇe nisīdi. Upāsakopi āgantvā vanditvā samīpe nisinno ‘‘phāsukā, bhante, paṇṇasālā’’ti pucchi. Phāsukā, bhaddamukha, pabbajitasāruppāti. Vasissatha, bhante, idhāti? Āma, upāsakāti, so adhivāsanākārena vasissatīti ñatvā nibaddhaṃ mayhaṃ gharadvāraṃ āgantabbanti paṭijānāpetvā – ‘‘ekaṃ me, bhante, varaṃ dethā’’ti āha. Atikkantavarā, upāsaka, pabbajitāti. Bhante, yañca kappati, yañca anavajjanti. Vadehi upāsakāti. Bhante, nibaddhavasanaṭṭhāne nāma manussā maṅgale vā amaṅgale vā āgamanaṃ icchanti, anāgacchantassa kujjhanti. Tasmā aññaṃ nimantitaṭṭhānaṃ gantvāpi mayhaṃ gharaṃ pavisitvāva bhattakiccaṃ niṭṭhāpetabbanti. Thero adhivāsesi.

Hơn nữa, nên biết sự nỗ lực ban đầu của đức vua được vững trú trong giới này đây – Được biết rằng trong thời quá khứ đức vua sanh vào gia đình gia chủ. Vào lúc bấy giờ, một vị trưởng lão trong Giáo Pháp của đức Phật Kassapa sống cư ngụ trong rừng, đức Bồ-tát đi vào rừng để làm việc của mình, sau khi nhìn thấy trưởng lão đã đi đến yết kiến rồi đảnh lễ, sau khi quan sát chỗ ngồi và chỗ đi kinh hành, v.v, của trưởng lão mới hỏi rằng – “Thưa ngài, ngài an trú ở nơi này?” – Sau khi nghe “đúng rồi, cư sĩ”, đã nghĩ rằng – “Thật thích hợp dựng một am tranh để cúng dường đến ngài trưởng lão ở nơi đây”, sau khi xong việc của mình đã khuân những cây gỗ và vật liệu đến tạo dựng am tranh, trát phủ bức tường bằng đất sét, lắp cửa và làm ghế tựa – rồi đã ngồi xuống ở một bên (và nghĩ rằng) “ngài trưởng lão sẽ sử dụng, hay không sử dụng?” Trưởng lão từ trong làng sau khi đến đã đi vào am tranh rồi ngồi xuống ghế tựa. Luôn cả vị cư sĩ cũng đến và đảnh lễ, rồi ngồi xuống ở gần và hỏi rằng: “Thưa ngài, am tranh này có thoải mái không?” – Thoải mái, phù hợp đối với các bậc xuất gia – Thưa ngài, ngài sẽ an trú ở đây? Phải rồi, cư sĩ. – Vị ấy biết rằng trưởng lão sẽ an trú  bằng biểu hiện tiếp nhận, nên cho ngài biết rằng: ‘Thưa ngài, ngài có thể thường xuyên đến cồng nhà của tôi.’ – rồi thưa rằng: “Thưa ngài, xin ngài hãy ban cho tôi một đặc ân.” – Này cư sĩ, bậc xuất gia đã vượt khỏi các điều ước muốn. – Thưa ngài, điều ấy là hợp lý, điều ấy không bị chê trách.” – Cư sĩ hãy nói. – Bạch ngài, mọi người thường trú ở nơi cư ngụ ước muốn việc đến trong sự an lành hay sự không an lành, giận giữ đối với trưởng lão không đến. Vì thế, dù ngài có đến nơi khác theo lời thỉnh mời thì cũng mong ngài quay trở lại nhà của tôi khi làm phận sự về thọ thực. – Trưởng lão đã nhận lời.

So paṇṇasālāya kaṭasāṭakaṃ[37] pattharitvā mañcapīṭhaṃ paññapesi, apassenaṃ nikkhipi, pādakathalikaṃ ṭhapesi, pokkharaṇiṃ khaṇi, caṅkamaṃ katvā vālikaṃ okiri, mige āgantvā bhittiṃ ghaṃsitvā mattikaṃ pātente disvā kaṇṭakavatiṃ parikkhipi. Pokkharaṇiṃ otaritvā udakaṃ āḷulikaṃ karonte disvā anto pāsāṇehi cinitvā bahi kaṇṭakavatiṃ parikkhipitvā antovatipariyante tālapantiyo ropeti, mahācaṅkame sammaṭṭhaṭṭhānaṃ āḷulente disvā caṅkamampi vatiyā parikkhipitvā antovatipariyante tālapantiṃ ropesi. Evaṃ āvāsaṃ niṭṭhapetvā therassa ticīvaraṃ, piṇḍapātaṃ, osadhaṃ, paribhogabhājanaṃ, ārakaṇṭakaṃ, pipphalikaṃ, nakhacchedanaṃ, sūciṃ, kattarayaṭṭhiṃ, upāhanaṃ, udakatumbaṃ, chattaṃ, dīpakapallakaṃ, malaharaṇiṃ, parissāvanaṃ, dhamakaraṇaṃ, pattaṃ, thālakaṃ, yaṃ vā panaññampi pabbajitānaṃ paribhogajātaṃ, sabbaṃ adāsi. Therassa bodhisattena adinnaparikkhāro nāma nāhosi. So sīlāni rakkhanto uposathaṃ karonto yāvajīvaṃ theraṃ upaṭṭhahi. Thero tattheva vasanto arahattaṃ patvā parinibbāyi.

Vị ấy đã trải xuống tấm thảm ở trong chòi lá đặt chiếc giường ghế tựa lưng, đặt khăn lâu chân, đào một cái hồ, làm đường đi kinh hành và rải cát, khi nhìn thấy động vật đến phá vỡ bức tường làm phần đất sét rơi xuống, ngài đã bố trí hàng rào gai xung quanh. Khi nhìn thấy động vật xuống hồ làm nước bị đục, ngài đã xây cầu thang ở bên trong và bố trí hàng rào gai bên ngoài, rồi trồng hàng cọ ở chỗ giáp với hàng rào bên trong. Khi nhìn thấy động vật làm nhơ bẩn chỗ đã được quét dọn ở con đường kinh hành lớn, ngài cũng đã bao quanh chỗ đi kinh hành bằng hàng rào, rồi trồng hàng cọ ở chỗ giáp với hàng rào bên trong. Sau khi hoàn thành nơi cư trú như vậy (vị ấy) đã cúng dường mọi thứ có tam y, bình bát, thuốc men, dụng cụ ăn uống, bình nước, kéo, đồ bấm móng tay, kim, gậy, dép, chum nước, ô dù, đuốc, cây lấy ráy tai, vải lọc nước, đế để bình bát, bát đựng, cái chén nhỏ, và những vật dụng khác mà bậc xuất gia cần sử dụng đến vị trưởng lão. Không có bất kỳ món vật dụng cần thiết nào mà đức Bồ-tát không cúng dường đến trưởng lão. Vị ấy giữ giới, thực hiện hành trì ngày trai giới uposatha, chăm sóc vị trưởng lão đến trọn đời. Vị trưởng lão sống ở chính trong trú xứ ấy, đã chứng đắc quả vị A-la-hán và nhập Niết Bàn.

Bodhisattopi yāvatāyukaṃ puññaṃ katvā devaloke nibbattitvā tato cuto manussalokaṃ āgacchanto kusāvatiyā rājadhāniyā nibbattitvā mahāsudassano rājā ahosi.

‘‘Evaṃ nātimahantampi, puññaṃ āyatane[38] kataṃ;

Mahāvipākaṃ hotīti, kattabbaṃ taṃ vibhāvinā’’.

Về phần Bồ-tát, ngài đã tạo phước báu cho đến khi hết tuổi thọ và đã hóa sanh vào cõi Trời. Mệnh chung từ cõi Trời ấy ngài đi đến thế giới loài người, đã trở thành vua Mahāsudassana ở kinh đô Kusavatī.

“Phước báu đã tạo trong Giáo Pháp của ngài, mặc dù không to lớn; (Tuy nhiên)

vẫn có quả thành tựu lớn lao như vậy, vì thế bậc trí nên tạo phước ấy.

Mahāviyūhanti rajatamayaṃ mahākūṭāgāraṃ. Tattha vasitukāmo hutvā agamāsi, ettāvatā kāmavitakkāti kāmavitakka tayā ettāvatā nivattitabbaṃ, ito paraṃ tuyhaṃ abhūmi, idaṃ jhānāgāraṃ nāma, nayidaṃ tayā saddhiṃ vasanaṭṭhānanti evaṃ tayo vitakke kūṭāgāradvāreyeva nivattesi.

Gian phòng Mahāviyūha: Gian nhà mái nhọn lớn được làm bằng bạc. Ngài có ý muốn sống ở đó nên đã đi đến. Dục tầm chỉ có bấy nhiêu thôi: Đức vua đã chế ngự cả ba suy nghĩ về dục ở tại cửa ra vào của gian phòng Mahāviyūha như vầy – Này dục tầm, bấy nhiêu thôi nhé ngươi nên dừng lại, từ nay trở đi ngươi không còn chỗ trú, đây gọi là thiền thất, và thiền thất này không phải nơi cộng trú chung với ngươi.

  1. 261. Paṭhamajjhānantiādīsu visuṃ kasiṇaparikammakiccaṃ nāma natthi. Nīlakasiṇena atthe sati nīlamaṇiṃ, pītakasiṇena atthe sati suvaṇṇaṃ, lohitakasiṇena atthe sati rattamaṇiṃ, odātakasiṇena atthe sati rajatanti olokitaolokitaṭṭhāne kasiṇameva paññāyati.
  2. Sơ thiền, v.v, phận sự chuẩn bị đề mục kasiṇa (kasiṇaparikammakicca) không có riêng biệt. Khi có sự cần đến đề mục kasiṇa màu xanh thì ngọc bích xuất hiện, khi có sự cần đến đề mục kasiṇa màu vàng thì vàng rồng xuất hiện, khi có sự cần đến đề mục kasiṇa màu đỏ thì pha lê đỏ xuất hiện, khi có sự cần đến đề mục kasiṇa màu trắng thì bạc cũng xuất hiện, ngài đã quy định các đề mục kasiṇa ở các vị trí được quan sát như vậy.
  3. 262. Mettāsahagatenātiādīsu yaṃ vattabbaṃ, taṃ sabbampi visuddhimagge vuttameva. Iti pāḷiyaṃ cattāri jhānāni, cattāri appamaññāneva vuttāni. Mahāpuriso pana sabbāpi aṭṭha samāpattiyo, pañca abhiññāyo ca nibbattetvā anulomapaṭilomādivasena cuddasahākārehi samāpattiyo pavisanto madhupaṭalaṃ paviṭṭhabhamaro madhurasena viya samāpattisukheneva yāpeti.
  4. Với tâm đồng sanh với từ: những lời cần nói đã được nói trong bộ Thanh Tịnh Đạo. Ngài nói bốn thiền, bốn vô lượng tâm bằng Pāḷi như thế. Hơn nữa, bậc Đại nhân đã làm sanh khởi cả tám thiền chứng và năm thắng trí, đã thể nhập bằng mười bốn biểu hiện theo chiều thuận và chiều nghịch, v.v, được vận hành với sự an lạc trong chính thiền chứng ấy tương tơ như con ong bay vào tổ ong và được nuôi sống bằng mật ngọt.

Nói về tám mươi bốn ngàn kinh thành

  1. 263. Kusāvatīrājadhānippamukhānīti kusāvatī rājadhānī tesaṃ nagarānaṃ pamukhā sabbaseṭṭhāti attho. Bhattābhihāroti abhiharitabbabhattaṃ.
  2. Kinh thành Kusāvatī là nổi bật nhất: kinh thành Kusāvatī là nổi bậc nhất, là to lớn nhất trong tất cả kinh thành ấy. Bữa ăn tiến cung: bữa ăn cần được đặc biệt dâng lên.
  3. 264. Vassasatassavassasatassāti kasmā evaṃ cintesi? Tesaṃ saddena ukkaṇṭhitvā, ‘‘samāpannassa saddo kaṇṭako’’ti[39] hi vuttaṃ. Tasmā saddena ukkaṇṭhito mahāpuriso. Atha kasmā mā āgacchantūti na vadati? Idāni rājā na passatīti nibaddhavattaṃ na labhissanti, taṃ tesaṃ mā uppajjitthāti na vadati.
  4. Sau mỗi một trăm năm: vì sao ngài lại suy nghĩ như vậy? Bởi vì cảm thấy phiền lòng bởi tiếng ồn của những người đó. Thật vậy, ngài đã nói rằng: “Tiếng ồn gây phiền nhiễu đến người nhập định.” Vì thế, bậc Đại nhân cảm thấy phiền lòng bởi tiếng ồn. Nếu vậy, tại sao ngài không nói rằng: các ngươi đừng đến nữa? Lúc này đức vua không cho yết kiến, vì thế ngài mới không nói rằng: sẽ không đạt được liên tục các phận sự, những phận sự đó của những người ấy đừng bị gián đoạn.

Nói về việc đi đến của hoàng hậu Subhaddā

  1. 265. Etadahosīti kadā etaṃ ahosi. Rañño kālaṅkiriyadivase. Tadā kira devatā cintesuṃ – ‘‘rājā anāthakālaṅkiriyaṃ mā karotu, orodhehi bahūhi dhītūhi puttehi parivāritova karotū’’ti. Atha deviṃ āvaṭṭetvā tassā evaṃ cittaṃ uppādesuṃ. Pītāni vatthānīti tāni kira pakatiyā rañño manāpāni, tasmā tāni pārupathāti āha. Ettheva devi tiṭṭhāti devi imaṃ jhānāgāraṃ nāma tumhehi saddhiṃ vasanaṭṭhānaṃ na hoti, jhānarativindanaṭṭhānaṃ mama, mā idha pāvisīti.
  2. Đã khởi ý: sự suy nghĩ ấy đã có khi nào? Vào ngày băng hà của đức vua. Được biết lúc ấy các Thiên nhân nghĩ rằng – “Đức vua chớ tạo sự mệnh chung một cách đáng thương, hãy có nhiều hoàng tử và công chúa khóc lóc xung quanh để tiễn biệt.” Sau đó, nghĩ đến hoàng hậu khiến tâm của hoàng hậu khởi lên như vậy. Y phục màu vàng: nghe rằng những bộ y phục màu vàng ấy thường làm tâm trí của đức vua hài lòng, vì thế hoàng hậu Subhaddā mới nói rằng: ‘các khanh hãy vận y phục màu vàng.’ Này hoàng hậu, nàng hãy đứng: Thiền thất này không phải là nơi để chung sống với các nàng, đây là nơi để đạt được sự hoan hỷ trong thiền, các nàng chớ bước vào nơi đây.
  3. 266. Etadahosīti loke sattā nāma maraṇāsannakāle ativiya virocanti, tenassa rañño vippasannaindriyabhāvaṃ disvā evaṃ ahosi, tato mā rañño kālaṅkiriyā ahosīti tassa kālaṅkiriyaṃ anicchamānā sampati guṇamassa kathayitvā tiṭṭhamānākāraṃ karissāmīti cintetvā imāni te devātiādimāha. Tattha chandaṃ janehīti pemaṃ uppādehi, ratiṃ karohi. Jīvite apekkhanti jīvite sāpekkhaṃ, ālayaṃ, taṇhaṃ karohīti attho.
  4. Đã khởi ý: Lẽ thường những chúng sanh ở đời này vô cùng lu mờ vào lúc cận tử, vì thế sau khi nhìn thấy được bản thể các giác quan trong sáng của đức vua nên (hoàng hậu) đã có lời nói như vậy, từ đó hoàng hậu không mong muốn sự mệnh chung của đức vua rằng: Cầu mong sự mệnh chung chớ xảy ra cho đức vua, bây giờ nói đến những phẩm hạnh của đức vua ấy nên đã nghĩ rằng: Ta sẽ tạo ra biểu hiện đang tồn tại nên mới nói rằng: “Tâu bệ hạ, (tám mươi bốn ngàn tòa lâu đài) này là của ngải…” Trong những câu đó, ngài hãy sanh khởi ước muốn: hãy làm sanh khởi sự yêu thương, tức là hãy làm sanh khởi sự thương yêu. Ngài hãy tạo sự mong mỏi về mạng sống: ngài hãy tạo ra sự hy vọng, sự ước muốn, tức là sự khao khát về mạng sống.

Evaṃ kho maṃ tvaṃ devīti ‘‘mayaṃ kho, deva, itthiyo nāma pabbajitānaṃ upacārakathaṃ na jānāma, kathaṃ vadāma mahārājā’’ti rājānaṃ ‘‘pabbajito aya’’nti maññamānāya deviyā vutte – ‘‘evaṃ kho maṃ, tvaṃ devi, samudācarāhī’’tiādimāha. Garahitāti buddhehi paccekabuddhehi sāvakehi aññehi ca paṇḍitehi[40] bahussutehi garahitā. Kiṃ kāraṇā? Sāpekkhakālakiriyā hi attanoyeva gehe yakkha- kukkura- aja- goṇa- mahiṃsa- mūsika- kukkuṭa- ūkā- maṅgulādibhāvena[41] nibbattanakāraṇaṃ hoti.

Này hoàng hậu, nàng hãy cư xử với trẫm như vầy: hoàng hậu nghĩ rằng đức vua ‘là bậc xuất gia’ mới nói rằng: “Tâu bệ hạ, chúng thần là những nữ nhân không biết lời nói thích hợp đối với bậc xuất gia, thiếp sẽ nói như thế nào thưa đại vương?” – đức vua nói rằng: “Này hoàng hậu, nàng hãy cư xử với trẫm như vầy.” Bị chỉ trích: Sự mệnh chung của người có sự mong mỏi là bị chỉ trích bởi đức Phật, đức Phật-độc-giác, bậc Thánh Thinh văn và các vị xuất gia khác là bậc đa văn. Do nguyên nhân gì? Bởi vì sự mệnh chung có sự mong mỏi là nguyên nhân dẫn đến tái sanh trở thành dạ-xoa, chó, dê, bò, trâu, chuột, gà và chim chóc, rận cháy, v.v, trong chính ngôi nhà của mình.

268.Athakho, ānanda, subhaddā devī assūni puñchitvāti devī ekamantaṃ gantvā roditvā kanditvā assūni puñchitvā etadavoca.

  1. Khi ấy, này Ānanda, hoàng hậu Subhaddā đã lau các giọt nước mắt: sau khi đi vào một gốc thích hợp hoàng hậu đã bậc khóc, đã than van, và đã lau các giọt nước mắt nên đã nói điều này.

Nói về việc đi đến thế giới Phạm Thiên

  1. 269. Gahapatissa vāti kasmā āha? Tesaṃ kira soṇaseṭṭhiputtādīnaṃ viya mahatī sampatti hoti, soṇassa kira seṭṭhiputtassa ekā bhattapāti dve satasahassāni agghati. Iti tesaṃ tādisaṃ bhattaṃ bhuttānaṃ muhuttaṃ bhattasammado bhattamucchā bhattakilamatho hoti.
  2. Người gia chủ: tại sao đức Phật thuyết như thế? Nghe rằng tài sản lớn có cùng con trai của trưởng giả Soṇa, v.v, được biết một cái dĩa đựng thức ăn của con trai trưởng giả Soṇa trị giá hai trăm ngàn (đồng tiền vàng), khi mọi người thọ dụng vật thực như vậy trong chốc lát sẽ có trạng thái buồn ngủ sau bữa ăn, có trạng thái choáng váng sau bữa ăn, và có trạng thái mệt mỏi sau bữa ăn là như thế.
  3. 271. Yaṃ tena samayena ajjhāvasāmīti yattha vasāmi, taṃ ekaṃyeva nagaraṃ hoti, avasesesu puttadhītādayo ceva dāsamanussā ca vasiṃsu. Pāsādakūṭāgāresupi eseva nayo. Pallaṅkādīsupi ekaṃyeva pallaṅkaṃ paribhuñjati, sesā puttādīnaṃ paribhogā honti. Itthīsupi ekāva paccupaṭṭhāti, sesā parivāramattā honti, paridahāmīti ekameva dussayugaṃ nivāsemi, sesāni parivāretvā vicarantānaṃ asītisahassādhikānaṃ soḷasannaṃ purisasatasahassānaṃ honti. Bhuñjāmīti paramappamāṇena nāḷikodanamattaṃ bhuñjāmi, sesaṃ parivāretvā vicarantānaṃ cattālīsasahassādhikānaṃ aṭṭhannaṃ purisasatasahassānaṃ hotīti dasseti. Ekathālipāko hi dasannaṃ janānaṃ pahoti.
  4. Vào lúc bấy giờ Ta trú ngụ chỉ một lâu đài: Kinh thành mà ta chỉ cư ngụ một lần, con trai và con gái, v.v, và những người nô lệ cư ngụ ở những thành phố khác. Thậm chí ở tòa lâu đài và gian phòng Mahāviyūha cũng áp dụng cách thức tương tự. Ghế dài, v.v, cũng sử dụng chỉ một ghế dài, còn những ghế còn lại là vật sử dụng dành cho các con trai, v.v. Luôn cả những nữ nhân, cũng chỉ một người nữ chăm sóc, các nữ nhân còn lại chỉ là tùy tùng.Ta mặc chỉ một cặp vải: ta chỉ mặc một cặp vải. Các cặp vải còn lại đã được phân bổ đến một triệu sáu trăm tám mươi ngàn người đàn ông đi lang thang. Thọ dụng: chỉ ra rằng ta chỉ thọ dụng một bát cơm với sự ước lượng được tính theo nāḷī, còn lại đã được phân bổ đến tám trăm bốn mươi ngàn người đàn ông đi lang thang. Bởi vì, một đĩa thức ăn đủ để cho mười người.

Etāni pana caturāsīti nagarasahassāni ceva pāsādasahassāni ca kūṭāgārasahassāni ca ekissāyeva paṇṇasālāya nissandena nibbattāni. Caturāsīti pallaṅkasahassāni nipajjanatthāya dinnamañcakassa nissandena nibbattāni. Caturāsīti hatthisahassāni assasahassāni rathasahassāni nisīdanatthāya dinnapīṭhassa nissandena nibbattāni. Caturāsīti maṇisahassāni ekadīpassa nissandena nibbattāni. Caturāsīti pokkharaṇīsahassāni ekapokkharaṇiyā nissandena nibbattāni. Caturāsīti itthisahassāni puttasahassāni gahapatisahassāni paribhogabhājana-pattathālaka dhamakaraṇa parissāvana ārakaṇṭaka pipphalaka nakhacchedana kuñcikakaṇṇamalaharaṇī pādakathalika upāhana chatta kattarayaṭṭhidānassa nissandena nibbattāni. Caturāsīti dhenusahassāni gorasadānassa nissandena nibbattāni. Caturāsīti vatthakoṭisahassāni nivāsanapārupanadānassa nissandena nibbattāni. Caturāsīti thālipākasahassāni bhojanadānassa nissandena nibbattānīti veditabbāni.

Được biết rằng tám mươi bốn ngàn kinh thành, một ngàn tòa lâu đài và một ngàn gian phòng được hiện ra nhờ kết quả (cúng dường) từ chính một am tranh. Tám mươi bốn ngàn ghế dài được hiện ra nhờ kết quả của việc đã cúng dường chiếc giường vì lợi cho việc nằm. Tám mươi bốn ngàn con voi, một ngàn con ngựa và một ngàn cỗ xe được hiện ra nhờ kết quả của việc đã cúng dường chiếc ghế tựa vì lợi ích cho việc ngồi. Tám mươi bốn ngàn viên ngọc ma-ni được hiện ra nhờ kết quả (cúng dường) một ngọn đèn. Tám mươi bốn ngàn hồ nước được hiện ra nhờ kết quả (cúng đường) một hồ nước. Tám mươi bốn ngàn nữ nhân, một ngàn con trai và một ngàn người gia chủ được xuất hiện nhờ kết quả của việc cúng dường dụng cụ ăn uống, bát đựng, cái chén nhỏ, đế để bình bát, vải lọc nước, bình đựng nước, cây kéo, đồ bấm móng tay, cây kim, chìa khóa, cây lấy ráy tai, vải lau chân, đôi dép, ô dù và cây gậy. Tấm mươi bốn ngàn con bò sữa được hiện ra nhờ kết quả của việc đã cúng dường sữa bò. Tám mươi bốn ngàn koṭi tấm vải nhờ kết quả của việc đã cúng dường y lót trong và        ao choàng. Còn đối với tám mươi bốn ngàn đĩa thức ăn nên biết rằng được hiện ra nhờ kết quả của việc cúng dường vật thực.

  1. 272. Evaṃ bhagavā mahāsudassanassa sampattiṃ ādito paṭṭhāya vitthārena kathetvā sabbaṃ taṃ dārakānaṃ paṃsvāgārakīḷanaṃ viya dassento parinibbānamañcake nipannova passānandātiādimāha. Tattha vipariṇatāti pakativijahanena nibbutapadīpo viya apaññattikabhāvaṃ gatā. Evaṃ aniccā kho, ānanda, saṅkhārāti evaṃ hutvā abhāvaṭṭhena aniccā.
  2. Như vậy, sau khi đức Thế Tôn nói về sự thành tựu của đức vua Mahāsudassana kể từ giai đoạn ban đầu một cách chi tiết, khi thuyết đến toàn bộ sự thành tựu ấy giống như mô tả sân chơi đất cát của đám trẻ con, ngài nằm xuống ở trên chiếc giường Vô Dư Niết Bàn rồi nói rằng: ‘Hãy nhìn xem, này Ānanda…’ Trong câu đó, đã bị biến đổi: đã đạt đến sự biến đổi giống như ngọn đèn bị tắt bởi từ bỏ tính chất tự nhiên. Này Ānanda, các pháp tạo tác không thường còn là như vậy: Gọi là vô thường bởi ý nghĩa có rồi lại không như vậy.

Ettāvatā bhagavā yathā nāma puriso satahatthubbedhe campakarukkhe nisseṇiṃ bandhitvā abhiruhitvā campakapupphaṃ ādāya nisseṇiṃ muñcanto otareyya, evameva nisseṇiṃ bandhanto viya anekavassakoṭisatasahassubbedhaṃ mahāsudassanasampattiṃ āruyha sampattimatthake ṭhitaṃ aniccalakkhaṇaṃ ādāya nisseṇiṃ muñcanto viya otiṇṇo. Teneva pubbe vasabharājā dīghabhāṇakattherānaṃ lohapāsādassa pācīnapasse ambalaṭṭhikāyaṃ imaṃ suttaṃ sajjhāyantānaṃ sutvā – ‘‘kiṃ, bho, mayhaṃ ayyakena ettha vuttaṃ, attano khāditapītaṭṭhāne sampattimeva kathetī’’ti cintento – ‘‘evaṃ aniccā kho, ānanda, saṅkhārā’’ti vuttakāle ‘‘imaṃ, bho, disvā pañcahi cakkhūhi cakkhumatā evaṃ vutta’’nti vāmahatthaṃ samiñjitvā dakkhiṇahatthena apphoṭetvā – ‘‘sādhu sādhū’’ti tuṭṭhahadayo sādhukāraṃ adāsi.

Giống như một người đàn ông sau khi buộc cái thang vào thân cây Campā cao hàng trăm cánh tay đã trèo lên và đã cầm lấy những bông hoa Campā sau đó trèo xuống rồi dứt bỏ cái thang, cũng tương tự như thế ấy, đức Thế Tôn đã nên ra sự thành tựu của đức vua Mahāsudassana cao đến trăm ngàn koṭi năm không phải ít giống như buộc cái thang, nắm lấy tướng trạng vô thường đã được thiết lập ở cuối sự thành tựu, đã bước xuống giống như dứt bỏ cái thang. Vì lý do đó, vào thời quá khứ đức vua Vasabha đã nghe bài Kinh này nơi trưởng lão Dīghabhāṇaka đọc tụng ở tại Ambalaṭṭhika phía đông của tòa lâu đài bằng đồng, và nghĩ rằng – “Thưa ngài đại đức của chúng tôi đã nói gì ở đây? Ngài chỉ nói về sự thành tựu ở chỗ mà tôi được ăn được uống mà thôi” sau đó đã lật ngửa bàn tay trái ra và vỗ vào bằng bàn tay phải nói rằng: “Vị có mắt với năm loại mắt đã nhìn thấy bài Kinh này rồi thuyết như vậy, trong thời điểm đức Thế Tôn đã nói rằng: “Này Ānanda, các pháp tạo tác không thường còn là như vậy…”. (vị ấy) có tâm hoan hỷ đã ban lời tán thán rằng: “Lành thay! lành thay!”

Evaṃ addhuvāti evaṃ udakapupphuḷādayo viya dhuvabhāvavirahitā. Evaṃ anassāsikāti evaṃ supinake pītapānīyaṃ viya anulittacandanaṃ viya ca assāsavirahitā.

Không bền vững là như vậy: Không có bản chất chắc chắn giống như những cơn sóng, v.v, là như vậy. Không đánh tin cậy là như vậy: không có hơi thở vào giống như nước đã được uống và giống như mặt trăng được vuốt ve trong giấc mơ là như vậy.

Sarīraṃ nikkhipeyyāti sarīraṃ chaḍḍeyya. Idāni aññassa sarīrassa nikkhepo vā paṭijagganaṃ vā natthi kilesapahīnattā, ānanda, tathāgatassāti vadati. Idaṃ pana vatvā puna theraṃ āmantesi, cakkavattino ānubhāvo nāma rañño pabbajitassa sattame divase antaradhāyati. Mahāsudassanassa pana kālaṅkiriyato sattameva divase sattaratanapākārā sattaratanatālā caturāsīti pokkharaṇīsahassāni dhammapāsādo dhammapokkharaṇī cakkaratananti sabbametaṃ antaradhāyīti. Hatthiādīsu pana ayaṃ dhammatā khīṇāyukā saheva kālaṅkaronti. Āyusese sati hatthiratanaṃ uposathakulaṃ gacchati, assaratanaṃ valāhakakulaṃ, maṇiratanaṃ vepullapabbatameva gacchati. Itthiratanassa ānubhāvo antaradhāyati. Gahapatiratanassa cakkhu pākatikameva hoti. Pariṇāyakaratanassa veyyattiyaṃ nassati.

Thân xác đã được chôn xuống: thân xác đã được vứt bỏ. Bây giờ, Đức Phật nói rằng: “Này Ānanda, việc vứt bỏ thân xác hoặc làm các phận sự khác đối với thân xác sẽ không xảy ra nơi đức Như Lai. Khi nói như vậy, đức Phật đã gọi đại đức và nói rằng: ‘Oai lực của vua Chuyển Luân sẽ biến mất vào ngày thứ bảy của việc xuất gia. Còn tất cả tài sản này là bức tường châu báu bảy tầng, cây cọ châu báu, tám mươi bốn ngàn hồ nước, tòa lâu đài Dhamma, hồ nước Dhamma, bánh xe báu sẽ biến mất vào ngày thứ bảy. Còn việc mệnh chung của đức vua Mahāsudassana, gồm voi, v.v, đều bình thường như vậy (cho đến khi) tuổi thọ đã cạn kiệt cũng sẽ chết đi. Khi tuổi thọ vẫn còn thì voi báu cũng sẽ đi đến dòng dỗi của Uposatha, ngựa báu cũng sẽ đi đến dòng dõi Valāhaka, ngọc ma-ni báu cũng sẽ đi đến ngọn núi Vepulla. Năng lực của nữ nhân báu sẽ biến mất. Đôi mắt của gia chủ sẽ trở lại bình thường. Sự nỗ lực của tướng quân báu cũng sẽ biến mất.

Idamavoca bhagavāti idaṃ pāḷiyaṃ āruḷhañca anāruḷhañca sabbaṃ bhagavā avoca. Sesaṃ uttānatthamevāti.

Đức Thế Tôn đã nói điều này: đức Thế Tôn đã nói điều này, toàn bộ đã đến và không đến trong Chánh Văn Pāḷī. Những câu từ còn lại đều có ý nghĩa đơn giản.

Giải Thích Kinh Về Vua Mahāsudassana được kết thúc – Kinh thứ tư (17)

Trong Chú Giải Trường Bộ Kinh là Sumaṅgalavilāsī.

[1] Uccatarova (Syā, Ka)

[2] Na nibbhaccheti (Syā, Ka)

[3] dī. ni. 2.132

[4] Hatthavārapādavāre (Syā)

[5] Alaṅkataṁ kurumānaṁ (Syā)

[6] Indanīlamaṇimayā (Syā)

[7] Suvisuddhaghanapaṇḍararāgasassīrikā (Syā)

[8] Khamanīyo (Ka)

[9] Cittaṁ (Syā)

[10] Pavattasamakālameva (Ka)

[11] Aṭṭhayojanasahassappamāṇaṃ (Syā)

[12] Pana cakkaṃ (Syā)

[13] Jalaṁ (Ka)

[14] Nemimaṇḍalassa dīghantaṁ (Syā)

[15] Đông thắng thần châu

[16] Nam thiệm bộ châu

[17] Tesaṁ tesaṁ (Syā)

[18] Oggacchanaṁ nānāratanādānanti (Syā)

[19] Tây ngưu hóa châu

[20] Bắc cu lu châu

[21] Parisuddhaṁ bhūmibhāgaṁ (Syā)

[22] gồm đuôi, ngà, vòi, và cả bốn chân

[23] Saṅghātasarīro (Syā, Ka)

[24] Một loại cỏ ống dùng để đan làm dép

[25] Vipulapabbatato (Syā) Vidūrapabbatato (?)

[26] Sattadhā vihatassa (Syā)

[27] 4 giống là cây nghệ tây, đàn hương, kỳ nam, và cây đinh hương

[28] Bhāva visuddhiyāva (Syā)

[29] Samavipākiniyā (Syā)

[30] Sukhavidhānaṁva (Syā, Ka)

[31] Pokkharaṇītīre (Syā)

[32] Vayasa (Syā)

[33] Māpesi (Ka)

[34] Kiṁva (Ka)

[35] Seyyathīdanti (Syā)

[36] Saṁ 1. 217; Khu 1. 307 piṭṭhesu.

[37] Kaṭasārakaṁ (Syā)

[38] Te sāsane (Syā)

[39] a. ni. 10.72

[40] Aṁ 3. 363 pyiṭṭhe

[41] …kukkuṭasakuṇādibhāvena (Syā)