Giải Thích Kinh Về Mahāgovinda
(Mahāgovindasuttavaṇṇanā (19))Xem Trường Bộ Kinh – Kinh Ðại Ðiển Tôn (Kinh Về Mahāgovinda)
- Evaṃme sutanti mahāgovindasuttaṃ. Tatrāyamanuttānapadavaṇṇanā – pañcasikhoti pañcacūḷo pañcakuṇḍaliko. So kira manussapathe puññakammakaraṇakāle daharo pañcacūḷakadārakakāle vacchapālakajeṭṭhako hutvā aññepi dārake gahetvā bahigāme catumaggaṭṭhānesu sālaṃ karonto pokkharaṇiṃ khaṇanto setuṃ bandhanto visamaṃ maggaṃ samaṃ karonto yānānaṃ akkhapaṭighātanarukkhe harantoti evarūpāni puññāni karonto vicaritvā daharova kālamakāsi. Tassa so attabhāvo iṭṭho kanto manāpo ahosi. So kālaṃ katvā cātumahārājikadevaloke navutivassasatasahassappamāṇaṃ āyuṃ gahetvā nibbatti. Tassa tigāvutappamāṇo suvaṇṇakkhandhasadiso attabhāvo ahosi. So sakaṭasahassamattaṃ pasādhetvā navakumbhamatte gandhe vilimpitvā dibbarattavatthadharo rattasuvaṇṇakaṇṇikaṃ piḷandhitvā pañcahi kuṇḍalakehi piṭṭhiyaṃ vattamānehi pañcacūḷakadārakaparihāreneva vicarati. Tenetaṃ ‘‘pañcasikho’’ tveva sañjānanti.
Kinh về Mahāgovinda được bắt đầu như sau ‘Tôi đã nghe như vầy…’ Dưới đây là sự giải thích chi tiết các đoạn chưa được rõ ràng trong bài Kinh về Mahāgovinda như sau – Thiên tử Càn-thát-bà Pañcasikha: có 5 chỏm tóc hoặc 5 búi tóc. Nghe rằng Thiên tử Càn-thát-bà Pañcasikha trong lúc tạo phước báu ở cõi nhân loại vẫn còn trẻ, khi còn là trẻ con, cậu có 5 chỏm tóc và đã là người trưởng nhóm chăn bò, cậu cùng với các trẻ khác tạo dựng một chòi lá ở ngã tư đường, đào ao sen, làm cầu, san bằng đường gồ ghề và mang gỗ về làm trục bánh lái và gỗ đút vào trục bánh xe cho các cỗ xe, cậu đã đi du hành tạo phước như đã đề cập và cũng đã mệnh chung khi vẫn còn trẻ. Vóc dáng của cậu dễ thương, đáng yêu và dễ mến. Sau khi mệnh chung cậu đã tái sinh vào cõi trời Tứ Thiên Vương với tuổi thọ chín triệu năm. Sắc thân của cậu tựa như một khối vàng có kích thước ba gāvuta. Cậu đã được trang điểm với các món trang sức khoảng sáu mươi cỗ xe, được rắc các loại hương thơm khoảng chín hũ, mặc y phục cõi trời màu đỏ và trang trí với những bông hoa kaṇṇika màu vàng. Cậu có 5 búi tóc buông ra phía sau và đi du hành hình tướng tựa như một đứa trẻ có 5 chỏm tóc vậy. Vì điều này mà các vị Thiên nhân đều biết đến “Pañcasikha” là vậy.
Abhikkantāya rattiyāti abhikkantāya khīṇāya rattiyā, ekakoṭṭhāsaṃ atītāyāti attho. Abhikkantavaṇṇoti atiiṭṭhakantamanāpavaṇṇo. Pakatiyāpi hesa kantavaṇṇo, alaṅkaritvā āgatattā pana abhikkantavaṇṇo ahosi. Kevalakappanti anavasesaṃ samantato. Anavasesattho ettha kevalasaddo. Kevalaparipuṇṇanti ettha viya. Samantato attho[1] kappasaddo, kevalakappaṃ jetavanantiādīsu viya. Obhāsetvāti ābhāya pharitvā, candimā viya sūriyo viya ca ekobhāsaṃ ekapajjotaṃ karitvāti attho.
Khi đêm đã gần mãn: Khi đêm đã gần mãn, tức là đã đi đến kết thúc, nghĩa lã một phần đã đi qua. Có màu da đẹp vượt trội: Có màu da vô cùng xinh đẹp, đáng yêu, đáng mến. Bình thường vị Thiên tử ấy cũng đã có màu da xinh đẹp, nhưng khi đã được trang điểm thêm thì lại trở thành người có màu da đẹp vượt trội hơn nữa. Toàn bộ: Ở xung quanh không có dư sót. Từ ‘kevala’ trong ngữ cảnh này có nghĩa là không dư sót, giống như lời này ‘trọn vẹn và đầy đủ’. Từ ‘kappa’ có nghĩa là xung quanh, như trong câu ‘đã làm cho toàn bộ Jetavana (rực sáng)’. Rức sáng: đã biến mãn với ánh sáng. Nghĩa là làm cho thành một khối ánh sáng duy nhất, trở thành một ngọn đèn tựa như mặt trăng và tựa như mặt trời.
Giảng giải về hội nghị chư Thiên
- Sudhammāyaṃ sabhāyanti sudhammāya nāma itthiyā ratanamattakaṇṇikarukkhanissandena nibbattasabhāyaṃ. Tassā kira phalikamayā bhūmi, maṇimayā āṇiyo, suvaṇṇamayā thambhā, rajatamayā thambhaghaṭikā ca saṅghātā ca, pavāḷamayāni vāḷarūpāni, sattaratanamayā gopānasiyo ca pakkhapāsakā ca mukhavaṭṭi ca, indanīlaiṭṭhakāhi chadanaṃ, sovaṇṇamayaṃ chadanapīṭhaṃ, rajatamayā thūpikā, āyāmato ca vitthārato ca tīṇi yojanasatāni, parikkhepato navayojanasatāni, ubbedhato pañcayojanasatāni, evarūpāyaṃ sudhammāyaṃ sabhāyaṃ.
Ở hội trường Sudhammā: Tại hội trường Sudhammā, được tạo nên bởi kết quả của cây kaṇṇikā, giống như viên ngọc quý của người phụ nữ tên là Sudhammā. Nghe rằng bề mặt của hội trường Sudhamma được làm bằng pha lê, các đinh chốt được chạm khắc từ ngọc ma-ni, các cột trụ được làm bằng vàng, các mối nối cột và chốt được làm bằng bạc, các hình thù thú dữ được làm từ ngọc san hô, các trần nhà và các cạnh của hiên trước được làm từ bảy loại ngọc quý, ngói sử dụng được làm từ đá xa-phia, mái nhà được làm bằng vàng, mái vòm được làm từ bạc, với chiều dài và chiều rộng mỗi bên ba trăm do-tuần, và khu vực xung quanh có chu vi chín trăm do-tuần, chiều cao là năm trăm do-tuần, hội trường Sudhamma có hình thức như vậy.
Dhataraṭṭhotiādīsu dhataraṭṭho gandhabbarājā gandhabbadevatānaṃ koṭisatasahassena parivuto koṭisatasahassasuvaṇṇamayāni phalakāni ca[2] suvaṇṇasattiyo ca gāhāpetvā puratthimāya disāya pacchimābhimukho dvīsu devalokesu devatā purato katvā nisinno.
Đại Vương Dhataraṭṭha, v.v, nên biết rằng Đại Vương Dhataraṭṭha là vua của các Càn-thát-bà được vây quanh bởi hàng triệu các thiên nữ nhảy múa, cầm lấy tấm bảng lớn làm bằng vàng (trị giá) trăm ngàn koṭi và cây thương vàng quay mặt về hướng tây, đặt các vị Thiên nhân ở cả hai cõi Trời phía trước rồi ngồi xuống hướng đông.
Virūḷhako kumbhaṇḍarājā kumbhaṇḍadevatānaṃ koṭisatasahassena parivuto koṭisatasahassarajatamayāni phalakāni ca suvaṇṇasattiyo ca gāhāpetvā dakkhiṇāya disāya uttarābhimukho dvīsu devalokesu devatā purato katvā nisinno.
Đại Vương Virūḷhaka là vua của loài Kumbhaṇḍa được vây quanh bởi hàng trăm ngàn koṭi loài Kumbhaṇḍa, cầm lấy một tấm bảng lớn được làm bằng bạc (trị giá) trăm ngàn koṭi và cây thương bằng vàng, quay mặt về hướng bắc, đã đặt các vị Thiên nhân ở cả hai cõi Trời phía trước, rồi ngồi xuống hướng nam.
Virūpakkho nāgarājā nāgānaṃ koṭisatasahassena parivuto koṭisatasahassamaṇimayāni mahāphalakāni ca suvaṇṇasattiyo ca gāhāpetvā pacchimāya disāya puratthimābhimukho dvīsu devalokesu devatā purato katvā nisinno.
Đại Vương Virūpakkha là vua của loài rồng được vây quanh bởi hàng trăm ngàn koṭi loài rồng, cầm lấy tấm bảng lớn làm bằng ngọc quý trăm ngàn koṭi và cây thương vàng, quay mặt về hướng đông, đặt các vị Thiên nhân ở cả hai cõi Trời phía trước, và ngồi xuống hướng tây.
Vessavaṇo yakkharājā yakkhānaṃ koṭisatasahassena parivuto koṭisatasahassapavāḷamayāni mahāphalakāni ca suvaṇṇasattiyo ca gāhāpetvā uttarāya disāya dakkhiṇābhimukho dvīsu devalokesu devatā purato katvā nisinnoti veditabbo.
Đại Vương Vessavaṇa là vua của Dạ-xoa được vây quanh bởi hàng trăm ngàn koṭi loài Dạ-xoa, cầm lấy tấm bảng lớn làm bằng ngọc san hô và cây thương vàng, quay mặt về hướng nam, đặt các vị Thiên nhân ở cả hai cõi Trời phía trước, rồi ngồi xuống hướng bắc.
Atha pacchā amhākaṃ āsanaṃ hotīti tesaṃ pacchato amhākaṃ nisīdituṃ okāso pāpuṇāti. Tato paraṃ pavisituṃ vā passituṃ vā na labhāma. Sannipātakāraṇaṃ panettha pubbe vuttaṃ catubbidhameva. Tesu vassūpanāyikasaṅgaho vitthārito. Yathā pana vassūpanāyikāya, evaṃ mahāpavāraṇāyapi puṇṇamadivase sannipatitvā ‘‘ajja kattha gantvā kassa santike pavāressāmā’’ti mantenti. Tattha sakko devānamindo yebhuyyena piyaṅgudīpamahāvihārasmiṃyeva pavāreti. Sesā devatā pāricchattakādīni dibbapupphāni ceva dibbacandanacuṇṇāni ca gahetvā attano attano manāpaṭṭhānameva gantvā pavārenti. Evaṃ pavāraṇasaṅgahatthāya sannipatanti.
Và phía sau là chỗ ngồi của chúng con: là chỗ ngồi dành cho chúng ta ở phía sau của bốn vị ấy. Kể từ đó chúng ta không những không bước vào được mà nhìn cũng không được. Hơn nữa, trong trường hợp này, ngài đã nói về bốn lý do của cuộc tụ hội trước. Trong bốn lý do đó, việc tập hợp vào ngày an cư mùa mưa đã được giải thích chi tiết. Thực vậy, lý do vào ngày an cư kiết hạ là thế nào, các vị tỳ khưu tụ hội lại vào ngày trăng tròn và vào ngày Mahāpavāraṇāya để thảo luận rằng: “Hôm nay chúng ta sẽ đi đâu? Rồi yêu cầu trong trú xứ của vị nào đó cũng như thế”. Ở chỗ tụ hội đó, thiên chủ Sakka yêu cầu ở tại Đại tịnh xá Piyaṅgudīpa. Các vị Thiên nhân còn lại mang theo các bông hoa ở cung trời như những bông hoa của các cây pāricchatta và bột đàn hương ở thiên giới, rồi đi đến nơi ưa thích của mỗi cá nhân rồi cùng nhau thỉnh cầu. Như vậy được gọi là tụ hội lại để hỗ trợ vào ngày Pavāraṇā.
Devaloke pana āsāvatī nāma latā atthi. Sā pupphissatīti devā vassasahassaṃ upaṭṭhānaṃ gacchanti. Pāricchattake pupphamāne ekavassaṃ upaṭṭhānaṃ gacchanti. Te tassa paṇḍupalāsādibhāvato paṭṭhāya attamanā honti. Yathāha –
Lại nữa, ở thiên giới có loại dây leo gọi là āsāvatī. Các vị Thiên nghĩ rằng dây leo ấy sẽ trổ hoa nên mới đi đến chăm sóc suốt một ngàn năm. Khi cây pāricchatta đang nở hoa, các vị Thiên nhân chăm sóc nó suốt một năm. Các vị ấy đều rất vui mừng, kể từ khi cây đó bắt đầu có lá vàng. Như đức Thế Tôn đã nói –
‘‘Yasmiṃ, bhikkhave, samaye devānaṃ tāvatiṃsānaṃ pāricchattako koviḷāro paṇḍupalāso hoti, attamanā, bhikkhave, devā tāvatiṃsā tasmiṃ samaye honti – ‘paṇḍupalāso kho dāni pāricchattako koviḷāro, na cirasseva pannapalāso bhavissatī’ti. Yasmiṃ, bhikkhave, samaye devānaṃ tāvatiṃsānaṃ pāricchattako koviḷāro pannapalāso hoti, khārakajāto hoti, jālakajāto hoti, kuṭumalakajāto hoti, korakajāto[3] hoti. Attamanā, bhikkhave, devā tāvatiṃsā tasmiṃ samaye honti – ‘korakajāto dāni pāricchattako koviḷāro na cirasseva sabbapāliphullo bhavissatī’ti[4].
Này các tỳ khưu, vào lúc nào cây Kovilāra Pāricchattaka của chư Thiên cõi trời Đao Lợi có lá vàng, thời vào lúc ấy, này các tỳ khưu, chư Thiên ở cõi Đao Lợi hoan hỷ nghĩ rằng: “Nay lá của cây Kovilāra Pàricchattaka đã có lá vàng, không bao lâu nữa lá sẽ rụng”. Này các tỳ khưu, vào lúc nào cây Kovilāra Pāricchattaka của chư Thiên cõi trời Đao Lợi đã rụng lá vàng, đọt non cánh hoa được mọc ra, mầm non cánh hoa được nở ra, nụ hoa được sanh ra, các bông hoa được nở ra. Này các tỳ khưu, thời vào lúc ấy, chư Thiên cõi trời Đao Lợi hoan hỷ nghĩ rằng – “Nay cây Kovilāra Pāricchattaka sanh ra các bông hoa, không bao lâu nữa các bông hoa sẽ được nở rộ toàn thân”
Sabbapāliphullassa kho pana, bhikkhave, pāricchattakassa koviḷārassa samantā paññāsa yojanāni ābhāya phuṭaṃ hoti, anuvātaṃ yojanasataṃ gandho gacchati. Ayamānubhāvo pāricchattakassa koviḷārassā’’ti.
Hơn nữa, này các vị tỳ khưu, ánh sáng lan tỏa bao phủ năm mươi do-tuần xung quanh cây Kovilāra Pāricchattaka đang nở rộ, và hương thơm bay theo chiều gió xa đến một trăm do-tuần. Đây là sức mạnh của cây Kovilāra Pāricchattaka.
Pupphite pāricchattake ārohaṇakiccaṃ vā aṅkusakaṃ gahetvā namanakiccaṃ vā pupphāharaṇatthaṃ caṅkoṭakakiccaṃ vā natthi, kantanakavāto uṭṭhahitvā pupphāni vaṇṭato kantati, sampaṭicchanakavāto sampaṭicchati, pavesanakavāto sudhammaṃ devasabhaṃ paveseti, sammajjanakavāto purāṇapupphāni nīharati, santharaṇakavāto pattakaṇṇikakesarāni naccanto santharati, majjhaṭṭhāne dhammāsanaṃ hoti. Yojanappamāṇo ratanapallaṅko upari tiyojanena setacchattena dhārayamānena, tadanantaraṃ sakkassa devarañño āsanaṃ atthariyati. Tato tettiṃsāya devaputtānaṃ, tato aññāsaṃ mahesakkhadevatānaṃ. Aññataradevatānaṃ pana pupphakaṇṇikāva āsanaṃ hoti.
Khi cây pāricchatta đã nở hoa thì không có việc leo trèo, việc dùng móc để hái hoa hoặc việc sử dụng cái bình đựng để đem hoa lại. Cơn gió làm nhiệm vụ hái hoa đã nở sẽ hái hoa từ cuống, cơn gió làm nhiệm vụ tiếp nhận hoa sẽ nhận lấy hoa, cơn gió làm nhiệm vụ đưa đi sẽ đưa đến hội trường chư thiên là Sudhamma, cơn gió làm nhiệm vụ quét dọn sẽ quét bỏ những bông hoa cũ, cơn gió làm nhiệm vụ trải lát sẽ sắp xếp trải lát lá và nhuỵ hoa, ở chính giữa pháp toà. Có bảo tọa bằng ngọc cao khoảng một do-tuần, có cây lộng trắng cao ba do-tuần che phía trên, bên cạnh bảo tọa bằng ngọc ấy sắp đặt chỗ ngồi cho thiên chủ Sakka. Kế đến là chỗ ngồi của ba mươi ba vị Thiên tử. Tiếp đến là chỗ ngồi của các vi Thiên tử có đại oai lực khác. Đối với những vị Thiên khác cũng sử dụng hoa kaṇṇika làm chỗ ngồi.
Devā devasabhaṃ pavisitvā nisīdanti. Tato pupphehi reṇuvaṭṭi uggantvā upari kaṇṇikaṃ āhacca nipatamānā devatānaṃ tigāvutappamāṇaṃ attabhāvaṃ lākhārasaparikammasajjitaṃ viya karoti. Tesaṃ sā kīḷā catūhi māsehi pariyosānaṃ gacchati. Evaṃ pāricchattakakīḷānubhavanatthāya sannipatanti.
Sau khi chư Thiên bước vào hội nghị chư Thiên đã ngồi xuống. Khi đó, phấn hoa tung bay phía trên rồi rơi xuống tạo thành bản ngã khoảng ba gāvuta như được tẩm ướt bởi màu đỏ cánh kiến. Chư Thiên ấy vui chơi suốt bốn tháng mới đi đến hoàn mãn. Họ tụ hội lại vì mục đích cho việc hưởng thụ pāricchattakakīḷā như vậy.
Māsassa pana aṭṭhadivase devaloke mahādhammasavanaṃ ghusati. Tattha sudhammāyaṃ devasabhāyaṃ sanaṅkumāro vā mahābrahmā, sakko vā devānamindo, dhammakathikabhikkhu vā, aññataro vā dhammakathiko devaputto dhammakathaṃ katheti. Aṭṭhamiyaṃ pakkhassa catunnaṃ mahārājānaṃ amaccā, cātuddasiyaṃ puttā, pannarase sayaṃ cattāro mahārājāno nikkhamitvā suvaṇṇapaṭṭañca jātihiṅgulakañca gaṇhitvā gāmanigamarājadhāniyo anuvicaranti. Te – ‘‘asukā nāma itthī vā puriso vā buddhaṃ saraṇaṃ gato, dhammaṃ saraṇaṃ gato. Saṅghaṃ saraṇaṃ gato. Pañcasīlāni rakkhati. Māsassa aṭṭha uposathe karoti. Mātuupaṭṭhānaṃ pūreti. Pituupaṭṭhānaṃ pūreti. Asukaṭṭhāne uppalahatthakasatena pupphakumbhena pūjā katā. Dīpasahassaṃ āropitaṃ. Akāladhammasavanaṃ kāritaṃ. Chattavedikā puṭavedikā[5] kucchivedikā sīhāsanaṃ sīhasopānaṃ kāritaṃ. Tīṇi sucaritāni pūreti. Dasakusalakammapathe samādāya vattatī’’ti suvaṇṇapaṭṭe jātihiṅgulakena likhitvā āharitvā pañcasikhassa hatthe denti. Pañcasikho mātalissa hatthe deti. Mātali saṅgāhako sakkassa devarañño deti.
Hơn nữa, ở hội nghị chư Thiên thì chư thiên (sẽ) thông báo về cuộc thính pháp to lớn mỗi tháng tám ngày. Trong tám ngày ấy, Đại Phạm Thiên Sanaṅkumāra, thiên chủ Sakka, các tỳ khưu chuyên giảng Pháp hoặc các vị Thiên chuyên thuyết giảng Pháp ở hội trường chư Thiên Sudhamma. Vào ngày mùng 8 của nửa tháng thì các viên quan đại thần của cả bốn vị Đại Vương, còn vào ngày mười bốn thì các hoàng tử, và vào ngày mười lăm thì cả bốn vị Đại Vương đều đi ra ngoài, mang theo tấm vải bằng vàng và loại mực màu đỏ tự nhiên du hành theo tuần tự qua các làng mạc, thị trấn và thành thị. Các ngài đã ghi chú lại bằng loại mực màu đỏ tự nhiên lên trên tấm vải bằng vàng rằng: “Nữ nhân hay nam nhân tên như thế như thế đã đi đến nương nhờ đức Phật, đã đi đến nương nhờ Giáo Pháp, đã đi đến nương nhờ Chư Tăng. Thọ trì ngũ giới, thực hành tám yếu tố Uposatha mỗi tháng, làm tròn bổn phận phụng dưỡng mẹ. làm tròn bổn phận phụng dưỡng cha. Đã thực hiện cúng dường với một trăm bó hoa sen, và cúng dường bình hoa ở nơi ấy, đã thắp một ngàn ngọn đèn, thực hiện lắng nghe Giáo Pháp không kể thời gian, xây dựng chatta-vedikā, puṭa-vedikā, kucchi-vedikā, bảo tọa hình sư tử, cầu thang hình sư tử. Làm tròn ba điều thiện hạnh. Thọ trì mười đường lối của nghiệp thiện” đã đem lại trao vào tay của Thiên tử Pañcasikha. Thiên tử Pañcasikha cũng trao vào tay của Mātalī. Người đánh xe Mātalī trao lại cho thiên chủ Sakka.
Yadā puññakammakārakā bahū na honti, potthako khuddako hoti, taṃ disvāva devā – ‘‘pamatto, vata bho mahājano viharati, cattāro apāyā paripūrissanti, cha devalokā tucchā bhavissantī’’ti anattamanā honti. Sace pana potthako mahā hoti, taṃ disvāva devā – ‘‘appamatto, vata bho, mahājano viharati, cattāro apāyā suññā bhavissanti, cha devalokā paripūrissanti, buddhasāsane puññāni karitvā āgate mahāpuññe purakkhatvā nakkhattaṃ kīḷituṃ labhissāmā’’ti attamanā honti. Taṃ potthakaṃ gahetvā sakko devarājā vāceti. Tassa pakatiniyāmena kathentassa saddo dvādasa yojanāni gaṇhāti[6]. Uccena sarena kathentassa ca sakalaṃ dasayojanasahassaṃ devanagaraṃ chādetvā tiṭṭhati. Evaṃ dhammasavanatthāya sannipatanti. Idha pana pavāraṇasaṅgahatthāya sannipatitāti veditabbā.
Khi không có nhiều người tạo phước, thì sổ sách cũng ít đi. Sau khi nhìn thấy sổ sách ấy chư Thiên không hoan hỷ rằng: “Ôi bạn ơi! Quả thật đám đông người sống xao lãng! Bốn đọa xứ sẽ luôn đông đảo, sáu cõi trời sẽ trở nên trống không.’ Nhưng nếu sổ sách dày nhiều, sau khi nhìn thấy điều đó, chư Thiên vui mừng rằng: ‘Ôi bạn ơi, đám đông người quả thật sống không xao lãng! Bốn đọa xứ sẽ trở nên trống rỗng, sáu cõi Trời sẽ luôn đông đảo. Chúng ta sẽ được vây quanh bởi những người có phước báu to lớn, đã làm phước báu trong Phật Giáo rồi cùng đến tham dự lễ hội Nakkhatta.’” Thiên chủ Sakka đã cầm lấy sổ sách ấy rồi giảng dạy. Thông thường, khi thiên chủ Sakka ấy đang nói thì âm giọng của ngài vang xa 12 do-tuần. Khi nói lớn thì âm giọng của ngài bao trùm toàn thành phố chư Thiên cả mười ngàn do-tuần, thiết lập. Như đã đề cập, các vị Thiên nhân tụ hội lại vì mục đích thính Pháp. Trong trường hợp này, nên hiểu rằng các vị Thiên nhân tụ hội lại để hỗ trợ vào ngày Pavāraṇā.
Tathāgataṃ namassantāti navahi kāraṇehi tathāgataṃ namassamānā. Dhammassa ca sudhammatanti svākkhātatādibhedaṃ dhammassa sudhammataṃ ujuppaṭipannatādibhedaṃ saṅghassa ca suppaṭipattinti attho.
Trong khi kính lễ đức Như Lai: đảnh lễ đức Như Lai với 9 lý do. Nội dung của kệ ngôn rằng: và bản chất tốt đẹp của Giáo Pháp v.v, bản chất tốt đẹp của Giáo Pháp khác biệt với Giáo Pháp đã được khéo thuyết giảng v.v, và thực hành đúng đắn khác biệt với bản chất đã được huấn luyện đúng đắn. v.v, của Tăng Chúng.
Giảng giải về tám đức tính như thật
- 296. Yathābhucceti yathābhūte yathāsabhāve. Vaṇṇeti guṇe. Payirudāhāsīti kathesi. Bahujanahitāyapaṭipannoti kathaṃ paṭipanno? Dīpaṅkarapādamūle aṭṭha dhamme samodhānetvā buddhatthāya abhinīharamānopi bahujanahitāya paṭipanno nāma hoti.
Đúng như thật thể: Đúng theo thực thể, đúng theo thực tính. Đức tính: ân đức. Đã công bố: Đã nói. Đã thực hành đến như thế vì sự lợi ích cho nhiều người: Thực hành như thế nào? Thực hành như vầy là đức Thế Tôn (khi còn là Bồ-tát) khi dẫn chứng tám Pháp (vị ấy) hướng tâm đến vì mục đích trở thành vị Phật ở dưới chân của đức Phật Dīpaṅkara gọi là đã thực hành đến như thế vì sự lợi ích cho nhiều người.
Dānapāramī, sīlapāramī, nekkhammapāramī, paññāpāramī, vīriyapāramī, khantipāramī, saccapāramī, adhiṭṭhānapāramī, mettāpāramī, upekkhāpāramīti kappasatasahassādhikāni cattāri asaṅkhyeyyāni imā dasa pāramiyo pūrentopi bahujanahitāya paṭipanno.
Thậm chí khi làm tròn đủ mười pháp ba-la-mật là bố thí ba-la-mật, trì giới ba-la-mật, xuất ly ba-la-mật, trí tuệ ba-la-mật, tinh tấn ba-la-mật, kham nhẫn ba-la-mật, chân thật ba-la-mật, phát nguyện ba-la-mật, từ ba-la-mật và xả ba-la-mật, suốt khoảng thời gian bốn a-tăng-kỳ và một trăm ngàn đại kiếp, thì cũng được gọi là đã thực hành vì sự lợi ích cho nhiều người.
Khantivāditāpasakāle, cūḷadhammapālakumārakāle, chaddantanāgarājakāle, bhūridattacampeyyasaṅkhapālanāgarājakāle, mahākapikāle ca tādisāni dukkarāni karontopi bahujanahitāya paṭipanno. Vessantarattabhāve ṭhatvā sattasatakamahādānaṃ[7] datvā sattasu ṭhānesu pathaviṃ kampetvā pāramīkūṭaṃ gaṇhantopi bahujanahitāya paṭipanno. Tato anantare attabhāve tusitapure yāvatāyukaṃ tiṭṭhantopi bahujanahitāya paṭipanno.
Trong kiếp sống là Khantivādi, trong kiếp sống là Cūḷadhammapālakumāra, trong kiếp sống là Long Tượng Chaddanta, trong kiếp sống là Long Vương Bhūridatta, Campeyya, và Saṅkhapāla, và trong kiếp sống là Mahākapila trong khi làm những công việc khó khăn như thế, cũng gọi là đã thực hành vì sự lợi ích cho nhiều người. Khi vững trú ở bản thể Vessantaratta đã bố thí những phẩm vật lớn lao, xả bỏ hàng trăm tổng cộng bảy loại khiến quả địa cầu rung chuyển bảy vị trí rồi giữ lấy đỉnh cao cũng gọi là đã thực hành vì sự lợi ích cho nhiều người. Ngay cả trong bản thể kế tiếp từ bản thể Vessantaratta ấy trong khi vững trú ở cõi trời Đâu Suất cho đến khi hết tuổi thọ, đây cũng gọi là đã thực hành vì sự lợi ích cho nhiều người.
Tattha pañca pubbanimittāni disvā dasasahassacakkavāḷadevatāhi yācito pañca mahāvilokanāni viloketvā devānaṃ saṅgahatthāya paṭiññaṃ datvā tusitapurā cavitvā mātukucchiyaṃ paṭisandhiṃ gaṇhantopi bahujanahitāya paṭipanno.
Sau khi thấy năm hiện tướng báo trước ở cung trời Đâu Suất ấy ngài được chư Thiên trong mười ngàn thế giới thỉnh cầu, ngài đã xem xét năm yếu tố mahāvilokana[8] và đã ban lời hứa vì lòng thương tưởng chư Thiên, sau khi mệnh chung từ cung trời Đâu Suất lập tức (ngài) tái sanh vào bụng mẹ, đây cũng gọi là đã thực hành vì sự lợi ích cho nhiều người.
Dasa māse mātukucchiyaṃ vasitvā lumbinīvane mātukucchito nikkhamantopi, ekūnatiṃsavassāni agāraṃ ajjhāvasitvā mahābhinikkhamanaṃ nikkhamitvā anomanadītīre pabbajantopi, chabbassāni padhānena attānaṃ kilametvā bodhipallaṅkaṃ āruyha sabbaññutaññāṇaṃ paṭivijjhantopi, sattasattāhaṃ bodhimaṇḍe yāpentopi, isipatanaṃ āgamma anuttaraṃ dhammacakkaṃ pavattentopi, yamakapāṭihāriyaṃ karontopi, devorohaṇaṃ orohantopi, buddho hutvā pañcacattālīsa vassāni tiṭṭhantopi, āyusaṅkhāraṃ ossajantopi, yamakasālānamantare anupādisesāya nibbānadhātuyā parinibbāyantopi bahujanahitāya paṭipanno. Yāvassa sāsapamattāpi dhātuyo dharanti, tāva bahujanahitāya paṭipannoti veditabbo. Sesapadāni etasseva vevacanāni. Tattha pacchimaṃ pacchimaṃ purimassa purimassa attho.
Ngài đã ở trong bụng mẹ suốt mười tháng rồi đản sanh từ bụng mẹ tại khu rừng Lumbini, trong khi sống cuộc đời tại gia suốt hai mươi chín năm, và khi thực hiện cuộc ra đi vĩ đại, trong khi xuất gia ở bên bờ sông Anomā, trong khi tự hành hạ bản thân với sự nỗ lực lớn lao suốt sáu năm, ngài đã bước lên bảo tọa Bồ-đề rồi thấu triệt Trí Toàn Giác, trong khi giữ vững tư thế ngồi dưới gốc cây Bồ-đề suốt bảy tuần lễ, trong khi đi đến khu rừng Isipatana và chuyển vận bánh xe Pháp vô thượng, trong khi thị hiện Song Thông, trong khi trở về từ Thiên giới, và sau khi trở thành Phật, ngài đã duy trì tuổi thọ suốt bốn mươi lăm năm, trong khi buông bỏ thọ hành, hoặc khi viên tịch Niết Bàn ở cảnh giới Niết Bàn không còn dư sót ở giữa hai cây Sa-la. Đây cũng gọi là đã thực hành vì sự lợi ích cho nhiều người. Cho đến khi nào xá lợi của ngài còn tồn tại dầu chỉ bằng hạt cải, cho đến khi ấy nên biết rằng (đó là) việc thực hành vì sự lợi ích cho nhiều người. Các câu còn lại đều là cách sử dụng thay thế câu ‘đã thực hành vì sự lợi ích cho nhiều người.’ Ở trong những câu đó thì những câu sau giải thích cho những câu trước.
Neva atītaṃse samanupassāma, na panetarahīti atītepi buddhato aññaṃ na samanupassāma, anāgatepi na samanupassāma, etarahi pana aññassa satthuno abhāvatoyeva aññatra tena bhagavatā na samanupassāmāti ayamettha attho. Aṭṭhakathāyampi hi – ‘‘atītānāgatā buddhā amhākaṃ satthārā sadisāyeva, kiṃ sakko kathetī’’ti vicāretvā – ‘‘etarahi bahujanahitāya paṭipanno satthā amhākaṃ satthāraṃ muñcitvā añño koci natthi, tasmā na passāmāti kathetī’’ti vuttaṃ. Yathā ca ettha, evaṃ ito paresupi padesu ayamattho veditabbo. Svākkhātādīni ca kusalādīni ca vuttatthāneva.
Chúng tôi không nhận thấy… ở thời quá khứ, luôn cả trong hiện tại, ngoại trừ đức Thế Tôn ấy: Luôn cả trong quá khứ chúng tôi cũng không nhận thấy, thậm chí ở vị lai (chúng tôi) cũng không nhận thấy, người nào khác ngoại trừ đức Thế Tôn cho đến hiện tại (chúng tôi) cũng không nhận thấy bởi vì không có bậc Đạo Sư nào khác ngoại trừ đức Thế Tôn ấy. Ngay cả trong Chú giải ngài cũng đã thẩm tra rằng: “Chư Phật quá khứ và vị lai ai cũng giống với bậc Đạo Sư của chúng ta, thiên chủ Sakka nói làm gì? – Đã nói rằng: “Hiện giờ bậc Đạo Sư đã thực hành vì sự lợi ích cho nhiều người, ngoài bậc Đạo Sư của chúng ta thì không có ai khác, vì thế, thiên chủ Sakka mới nới rằng: ‘Chúng tôi không nhận thấy.’” Và câu này như thế nào, các câu khác ngoài câu này cũng có thể biết rằng có ý nghĩa tương tự như thế ấy. Pháp đã được khéo thuyết giảng v.v, và ‘cái này là thiện, v.v, ý nghĩa đều đã được nói.
Gaṅgodakaṃ yamunodakenāti gaṅgāyamunānaṃ samāgamaṭṭhāne udakaṃ vaṇṇenapi gandhenapi rasenapi saṃsandati sameti, majjhe bhinnasuvaṇṇaṃ viya ekasadisameva hoti, na mahāsamuddaudakena saṃsaṭṭhakāle viya visadisaṃ. Parisuddhassa nibbānassa paṭipadāpi parisuddhāva. Na hi daharakāle vejjakammādīni katvā agocare caritvā mahallakakāle nibbānaṃ daṭṭhuṃ sakkā, nibbānagāminī pana paṭipadā parisuddhāva vaṭṭati ākāsūpamā. Yathā hi ākāsampi alaggaṃ parisuddhaṃ candimasūriyānaṃ ākāse icchiticchitaṭṭhānaṃ gacchantānaṃ viya nibbānaṃ gacchantassa bhikkhuno paṭipadāpi kule vā gaṇe vā alaggā abaddhā ākāsūpamā vaṭṭati. Sā panesā tādisāva bhagavatā paññattā kathitā desitā. Tena vuttaṃ – ‘‘saṃsandati nibbānañca paṭipadā cā’’ti.
Nước ở sông Gaṅga…nhập chung với nước sông Yamunā: Nước ở chỗ tụ lại của sông Gaṅga và sông Yamuna cùng trôi chảy, nhập chung với nhau cả về màu sắc, cả về hương và cả về vị, nghĩa là chúng đồng nhất với nhau. Giống như vàng bị rạn nứt ở chính giữa, không có sự khác biệt, giống như lúc nước sông Gaṅga và sông Yamuna nhập chung với nước trong đại dương. Lối thực hành dẫn đến Niết Bàn thanh tịnh mới thanh tịnh. Thật vậy, một người làm công việc như nghề thầy thuốc v.v, khi còn trẻ đi đu hành ở các hành xứ không phù hợp, thì không thể thấy Niết Bàn lúc về già được. Lối thực hành dẫn đến Niết Bàn cần phải là lối thực hành đường thật sự thanh tịnh giống như hư không. Thật đúng như vậy, lối thực hành của một vị tỳ khưu muốn đạt đến Niết Bàn cần phải được ví như hư không, không vướng bận gia đình hay hội nhóm. Giống như quỹ đạo mà mặt trăng và mặt trời mong muốn đi qua trong hư không được thanh tịnh không có gì cản trở. Cũng vậy, lối thực hành này đây cũng tương tự như thế. Đức Thế Tôn đã tuyên bố, nói đến (và) thuyết giảng rồi. Vì vậy, thiên chủ Sakka mới nói rằng: “Cả Niết Bàn và lối thực hành cùng trôi chảy.”
Paṭipannānanti paṭipadāya ṭhitānaṃ. Vusitavatanti vutthavāsānaṃ etesaṃ. Laddhasahāyoti etesaṃ tattha tattha saha ayanato sahāyo. ‘‘Adutiyo asahāyo appaṭisamo’’ti idaṃ pana asadisaṭṭhena vuttaṃ. Apanujjāti tesaṃ majjhepi phalasamāpattiyā viharanto cittena apanujja, apanujjeva ekārāmataṃ anuyutto viharatīti attho.
Các vị còn đang thực hành: của vị đang thiết lập trong lối thực hành. Vị đã sống hoàn mãn: vị có sự sống đã được thành tựu. Đã đạt được bạn đồng hành: Gọi là bạn đồng hành bởi vì đi cùng với những người này ở chỗ này chỗ nọ. “Không có người thứ hai, không có bạn đồng hành, không ai sánh bằng” điều này thiên chủ Sakka đã nói với ý nghĩa không có ai giống như đức Thế Tôn ấy. Không lánh xa: thậm chí giữa những người này, (đức Thế Tôn) cũng vẫn sống với sự thể nhập thánh quả, với tâm tuy không dính mắc những người ấy, có nghĩa là tuy không lánh xa các vị ấy, (đức Thế Tôn) cũng vẫn sống, gắn bó với trạng thái an hưởng một mình.
Abhinipphannokho pana tassa bhagavato lābhoti tassa bhagavato mahālābho uppanno. Kadā paṭṭhāya uppanno? Abhisambodhiṃ patvā sattasattāhaṃ atikkamitvā isipatane dhammacakkaṃ pavattetvā anukkamena devamanussānaṃ damanaṃ karontassa tayo jaṭile pabbājetvā rājagahaṃ gatassa bimbisāradamanato paṭṭhāya uppanno. Yaṃ sandhāya vuttaṃ – ‘‘tena kho pana samayena bhagavā sakkato hoti garukato mānito pūjito apacito lābhī cīvara- piṇḍapāta- senāsana- gilānapaccayabhesajjaparikkhārāna’’nti[9]. Satasahassakappādhikesu catūsu asaṅkhyeyyesu ussannapuññanissandasamuppanno lābhasakkāro mahogho viya ajjhottharamāno āgacchati.
Hơn nữa, đức Thế Tôn ấy có lợi lộc đã được thành tựu: Lợi lộc to lớn đã phát sanh đến đức Thế Tôn ấy. Đã phát sanh từ khi nào? Đã phát sanh đến ngài kể từ khi ngài chứng đạt quả vị Toàn Giác. Sau khi trải qua bảy tuần lễ, Ngài đã chuyển vận bánh xe Pháp ở tại Isipatana, nhiếp phục các Thiên nhân và nhân loại theo tuần tự, và đã cho ba anh em đạo sĩ bện tóc xuất gia, ngài đã đi đến thành Rājagaha và nhiếp phục Vua Bimbisāra. Như đã được đề cập rằng – “Một thuở nọ, đức Thế Tôn là vị được dân chúng trọng vọng, được cung kính, được sùng bái, được cúng dường, được nể nang, có nhận được y phục, vật thực, chỗ trú ngụ, và vật dụng là thuốc men chữa bệnh.” Lợi lộc và sự cung kính đã phát sanh đến (đức Thế Tôn) tựa như dòng nước lớn tràn ngập bởi do phước báu vô lượng mà ngài đã tích lũy trong suốt bốn a-tăng-kỳ và với trăm ngàn đại kiếp.
Ekasmiṃ kira samaye rājagahe sāvatthiyaṃ sākete kosambiyaṃ bārāṇasiyaṃ bhagavato paṭipāṭibhattaṃ nāma uppannaṃ, tattheko – ‘‘ahaṃ sataṃ vissajjetvā dānaṃ dassāmī’’ti paṇṇaṃ likhitvā vihāradvāre bandhi. Añño – ahaṃ dve satāni. Añño – ahaṃ pañca satāni. Añño – ahaṃ sahassaṃ. Añño – ahaṃ dve sahassāni. Añño – ahaṃ pañca. Dasa. Vīsati. Paññāsaṃ; añño – ahaṃ satasahassaṃ. Añño – ahaṃ dve satasahassāni vissajjetvā dānaṃ dassāmī’’ti paṇṇaṃ likhitvā vihāradvāre bandhi. Janapadacārikaṃ carantampi okāsaṃ labhitvā – ‘‘dānaṃ dassāmī’’ti sakaṭāni pūretvā mahājano anubandhiyeva. Yathāha – ‘‘tena kho pana samayena jānapadā manussā bahuṃ loṇampi telampi taṇḍulampi khādanīyampi sakaṭesu āropetvā bhagavato piṭṭhito piṭṭhito anubandhā honti – ‘yattha paṭipāṭiṃ labhissāma, tattha bhattaṃ karissāmā’ti’’[10]. Evaṃ aññānipi khandhake ca vinaye ca bahūni vatthūni veditabbāni.
Kể rằng, ở thành Rājagaha, thành Sāvatthi, thành Saketa, thành Kosambi, thành Bārāṇasi gọi là Paṭipāṭibhatta (bữa cơm cúng dường theo thứ tự) đã phát sanh đến đức Thế Tôn. Trong những kinh thành đó, có một người ghi vào tập sách rằng: ‘tôi sẽ ủng hộ một trăm để cúng dường, sau đó dán lên cánh cổng ở tịnh xá. Người khác – tôi hai trăm; người khác – tôi năm trăm; người khác – tôi một ngàn; người khác – tôi hai ngàn; người khác – tôi năm mươi, hai mươi, năm mươi; người khác – tôi một trăm ngàn; người khác – tôi sẽ ủng hộ hai trăm ngàn để cúng dường. Viết như thể rồi cũng dán lên cánh cổng ở tịnh. Đại chúng nghĩ rằng đã đạt được cơ hội ‘tôi sẽ cúng dường’, và chất đầy cỗ xe, đi theo hội chúng tỳ khưu đang đi dung hành vào vùng nông thôn. Như đã nói rằng – “Vào lúc bấy giờ, dân chúng ở vùng nông thôn mang muối, dầu, gạo, thức ăn mềm, v.v, rất nhiều để lên cỗ xe và đi theo sau đức Thế Tôn, với ý nghĩ rằng: “Khi nào chúng tôi đến phiên, khi ấy chúng tôi sẽ thực hiện bữa trai phạn.” Luôn cả những câu chuyện khác thì rất nhiều câu chuyện cả trong Khandhaka lẫn Vinaya như đã đề cập cùng nên biết.
Asadisadāne panesa lābho matthakaṃ patto. Ekasmiṃ kira samaye bhagavati janapadacārikaṃ caritvā jetavanaṃ sampatte rājā nimantetvā dānaṃ adāsi. Dutiyadivase nāgarā adaṃsu. Puna tesaṃ dānato atirekaṃ rājā, tassa dānato atirekaṃ nāgarāti evaṃ bahūsu divasesu gatesu rājā cintesi – ‘‘ime nāgarā divase divase atirekataraṃ karonti, pathavissaro pana rājā nāgarehi dāne parājitoti garahā bhavissatī’’ti. Athassa mallikā upāyaṃ ācikkhi. So rājaṅgaṇe sālakalyāṇipadarehi maṇḍapaṃ kāretvā taṃ nīluppalehi chādetvā pañca āsanasatāni paññāpetvā pañca hatthisatāni āsanānaṃ pacchābhāge ṭhapetvā ekekena hatthinā ekekassa bhikkhuno setacchattaṃ dhārāpesi. Dvinnaṃ dvinnaṃ āsanānaṃ antare sabbālaṅkārapaṭimaṇḍitā ekekā khattiyadhītā catujjātiyagandhaṃ pisati. Niṭṭhitaṃ niṭṭhitaṃ majjhaṭṭhāne gandhambaṇe pakkhipati, taṃ aparā khattiyadhītā nīluppalahatthakena samparivatteti. Evaṃ ekekassa bhikkhuno tisso tisso khattiyadhītaro parivārā, aparā sabbālaṅkārapaṭimaṇḍitā itthī tālavaṇṭaṃ gahetvā bījati, aññā dhamakaraṇaṃ gahetvā udakaṃ parissāveti, aññā pattato udakaṃ harati. Bhagavato cattāri anagghāni ahesuṃ. Pādakathalikā ādhārako apassenaphalakaṃ chattapādamaṇīti imāni cattāri anagghāni ahesuṃ. Saṅghanavakassa deyyadhammo satasahassaṃ agghati. Tasmiñca dāne aṅgulimālatthero saṅghanavako ahosi. Tassa āsanasamīpe ānīto hatthī taṃ upagantuṃ nāsakkhi. Tato rañño ārocesuṃ. Rājā – ‘‘añño hatthī natthī’’ti? Duṭṭhahatthī pana atthi, ānetuṃ na sakkāti. Sammāsambuddho – saṅghanavako kataro mahārājāti? Aṅgulimālatthero bhagavāti. Tena hi taṃ duṭṭhahatthiṃ ānetvā ṭhapetu, mahārājāti. Hatthiṃ maṇḍayitvā ānayiṃsu. So therassa tejena nāsāvātasañcaraṇamattampi kātuṃ nāsakkhi. Evaṃ nirantaraṃ satta divasāni dānaṃ dīyittha. Sattame divase rājā dasabalaṃ vanditvā – ‘‘bhagavā mayhaṃ dhammaṃ desethā’’ti āha.
Lợi đắc ấy trong cuộc đại thí vô song đã đạt đến đỉnh cao. Kể rằng, một thuở nọ khi Đức Phật đi du hành qua các vùng nông thôn đến tịnh xá Jetavana. Đức vua đã thỉnh mời ngài đến cúng dường. Vào ngày thứ hai, dân chúng trong kinh thành cúng dường. Đức vua cúng dường còn nhiều hơn so với dân chúng. Dân chúng lại cúng dường nhiều hơn nữa so với nhà vua. Điều này tiếp diễn trong nhiều ngày như thế, đức vua khởi lên suy nghĩ rằng: “Dân chúng trong kinh thành này cúng dường càng ngày càng nhiều, sẽ có lời bàn tán rằng: ‘dân chúng ở kinh thành chiến thắng đức vua, vị lãnh đạo địa cầu này.” Vào lúc đó, hoàng hậu Mallika đã đưa ra lời gợi ý cho nhà vua. Đức vua ra lệnh lấy gỗ sa-la loại tốt để tạo dựng lều vải lớn, sau đó lấy hoa sen xanh để lợp mái. Đức vua ra lệnh sắp xếp năm trăm chỗ ngồi và phía sau mỗi chỗ ngồi đều có năm trăm con voi, cho mỗi con voi cầm một cây lọng trắng che cho từng vị tỳ khưu. Ở giữa mỗi hai chỗ ngồi là một cô con gái thuộc dòng dõi Sát-đế-lỵ, mỗi nàng đều được trang điểm với các đồ trang sức cùng với các loại hương thơm từ bốn loại gỗ. Các cô con gái thuộc dòng dõi Sát-đế-lỵ khác cũng đặt các hương thơm đã được giã nhuyễn vào thuyền nhỏ dành để đặt các vật thơm vào vị trí chính giữa. Một cô gái thuộc dòng dõi Sát–đế-lỵ khác cũng cầm bó sen xanh vẫy tạo ra hương thơm ấy. Với phương thức như vậy mỗi vị tỳ khưu đều có ba cô con gái thuộc dòng dõi Sát-đế-lỵ làm người hầu cận. Một người phụ nữ khác được trang điểm với các đồ trang sức, cầm chiếc quạt bằng lá cọ, một người phụ nữ khác cầm bình lọc nước, thêm một người phụ nữ khác nữa mang lại nước từ bình bát. Đối với Đức Thế Tôn, có bốn vật không thể định giá. Bốn món không thể định giá này là khăn lau chân, ghế kê chân, tấm ván kê đầu và viên ngọc dưới cây lọng. Phẩm vật cúng dường dành cho tân tỳ khưu trong Tăng đoàn có giá trị một trăm ngàn. Và trong buổi lễ cúng dường, trưởng lão Aṅgulimāla là vị tân tỳ khưu trong Tăng đoàn. Gần chỗ ngồi của ngài, các con voi được mang đến không thể đến gần ngài. Lúc bấy giờ, người huấn luyện voi đã trình tấu với đức vua. – Đức vua ra lệnh: “Khanh hãy dẫn con voi khác đến.” Nhưng những con voi được dẫn đến đều không thể đến gần. – Đức vua nói rằng: “Không còn con voi nào khác sao?” – Người huấn luyện voi thưa: “Vẫn còn con voi dữ, nhưng không thể dẫn đến.” – Đức vua hỏi đức Phật: “Thưa đức Thế Tôn, vị nào là vị tân tỳ khưu trong Tăng đoàn?” Đức Phật đáp: “Thưa Đại Vương, Aṅgulimāla.” Vì vậy, đức vua ra lệnh người huấn luyện voi dẫn con voi dữ đến gần. Nhờ uy lực của trưởng lão, con voi đó dù thở hơi thở từ mũi cũng không thể làm được. Đức vua đã cúng dường vật thí liên tục trong bảy ngày như vậy. Vào ngày thứ bảy, đức vua đã đảnh lễ và thỉnh cầu đấng Thập Lực rằng: “Thưa đức Thế Tôn, xin ngài hãy thuyết giảng Giáo Pháp cho trẫm.”
Tassañca parisati kāḷo ca juṇho cāti dve amaccā honti. Kāḷo cintesi – ‘‘nassati rājakulassa santakaṃ, kiṃ nāmete ettakā janā karissanti, bhuñjitvā vihāraṃ gantvā niddāyissanteva, idaṃ pana eko rājapuriso labhitvā kiṃ nāma na kareyya, aho nassati rañño santaka’’nti. Juṇho cintesi – ‘‘mahantaṃ idaṃ rājattanaṃ nāma, ko añño idaṃ kātuṃ sakkhissati? Kiṃ rājā nāma so, yo rājattane ṭhitopi evarūpaṃ dānaṃ dātuṃ na sakkotī’’ti. Bhagavā parisāya ajjhāsayaṃ olokento tesaṃ dvinnaṃ ajjhāsayaṃ viditvā – ‘‘sace ajja juṇhassa ajjhāsayena dhammakathaṃ kathemi, kāḷassa sattadhā muddhā phalissati . Mayā kho pana sattānuddayatāya pāramiyo pūritā. Juṇho aññasmimpi divase mayi dhammaṃ kathayante maggaphalaṃ paṭivijjhissati, idāni pana kāḷaṃ olokessāmī’’ti rañño catuppadikameva gāthaṃ abhāsi –
‘‘Na ve kadariyā devalokaṃ vajanti, Bālā have nappasaṃsanti dānaṃ;
Dhīro ca dānaṃ anumodamāno, Teneva so hoti sukhī paratthā’’ti.[11];
Và trong hội chúng đó, có hai viên quan đại thần là Kāḷa và Juṇha. Kaḷa nghĩ rằng: “tài sản của hoàng tộc sẽ bị tiêu tan, những người có mặt ở đây chừng này sẽ làm được gì? Sau khi ăn xong trở về tịnh xá chỉ nằm ngủ mà thôi, hơn nữa chỉ một vệ quân đạt được điều này, sẽ không làm gì sao? Ôi! Tài sản của đức vua sẽ bị tiêu tan.” Còn Juṇha thì nghĩ rằng – “Bản thể của đức vua này là vĩ đại, ai khác sẽ có thể làm điều này? Gọi là đức vua, là vị dẫu cho đang vững trú ở bản thể đức vua (nếu như) không bố thí tặng vật có hình thức như thế sẽ làm vua được thế nào nữa?” Trong khi Đức Phật quan sát tâm tư của hội chúng, Ngài đã biết được tâm tư của hai người đó – Ngài khởi lên suy nghĩ rằng: “nếu hôm nay ta thuyết giảng Giáo Pháp theo ý định của Juṇha, thì đầu của Kaḷa sẽ bị vỡ thành bảy mảnh. Vả lại, ta làm tròn đủ các ba-la-mật cũng vì lòng thương tưởng đối với chúng sanh. Vào ngày khác khi ta thuyết giảng Giáo Pháp, Juṇha cũng sẽ thấu triệt Đạo và Quả. Còn lần này, ta sẽ nghĩ đến Kaḷa” và chỉ thuyết bốn câu kệ cho đức vua.
“Quả thật, những kẻ keo kiệt không đi đến Thiên giới. Đúng vậy, những kẻ ngu không tán thán việc bố thí. Và người sáng trí, trong khi tùy hỷ việc bố thí, do chính việc ấy vị ấy có được sự an vui ở đời sau.”
Rājā anattamano hutvā – ‘‘mayā mahādānaṃ dinnaṃ, satthā ca me mandameva dhammaṃ kathesi, nāsakkhiṃ maññe dasabalassa cittaṃ gahetu’’nti. So bhuttapātarāso vihāraṃ gantvā bhagavantaṃ vanditvā pucchi – ‘‘mayā, bhante, mahantaṃ dānaṃ dinnaṃ, anumodanā ca me na mahatī katā, ko nu kho me, bhante, doso’’ti? Natthi, mahārāja, tava doso, parisā pana aparisuddhā, tasmā dhammaṃ na desesinti. Kasmā pana bhagavā parisā na suddhāti? Satthā dvinnaṃ amaccānaṃ parivitakkaṃ ārocesi. Rājā kāḷaṃ pucchi – ‘‘evaṃ, tāta, kāḷā’’ti? ‘‘Evaṃ, mahārājā’’ti. ‘‘Mayi mama santakaṃ dadamāne tava kataraṃ ṭhānaṃ rujjati[12], na taṃ sakkomi passituṃ, pabbājetha naṃ mama raṭṭhato’’ti āha. Tato juṇhaṃ pakkosāpetvā pucchi – ‘‘evaṃ kira, tāta, cintesī’’ti? ‘‘Āma, mahārājā’’ti. ‘‘Tava cittānurūpameva hotū’’ti tasmiṃyeva maṇḍape evaṃ paññattesuyeva āsanesu pañca bhikkhusatāni nisīdāpetvā tāyeva khattiyadhītaro parivārāpetvā rājagehato dhanaṃ gahetvā mayā dinnasadisameva satta divasāni dānaṃ dehīti. So tathā adāsi. Datvā sattame divase – ‘‘dhammaṃ bhagavā desethā’’ti āha.
Đức vua đã không hài lòng (nghĩ) rằng – “Trẫm đã cúng dường những lễ vật lớn lao, nhưng đức Phật chỉ thuyết giảng Giáo Pháp cho trẫm chỉ chút ít, phải chăng trẫm không thể lấy lòng của đấng Thập Lực?” Sau khi dùng điểm tâm sáng, đức vua đã đi đến tịnh xá, sau khi đảnh lễ đức Thế Tôn đã hỏi rằng: “Bạch ngài, trẫm đã cúng dường những lễ vật lớn lao, nhưng ngài đã bày tỏ sự hoan hỷ đối với trẫm không to lớn, thưa ngài, phải chăng trẫm đã sai điều gì?” – Không, thưa Đại Vương, ngài không có sai trái điều gì cả, nhưng hội chúng không trong sạch, vì vậy ta mới không thuyết giảng Giáo Pháp. Vậy tại sao đức Thế Tôn lại nói rằng: ‘Hội chúng không trong sạch?” – Bậc Đạo Sư nói rằng: do suy tầm của viên quan đại thần. Đức vua hỏi Kaḷa: “Có phải vậy không Kaḷa?” — “Đúng vậy, thưa Đại Vương.” Đức vua nói: “Khi trẫm cho đi tài sản của trẫm, ngươi lo lắng điều gì? Ta không muốn nhìn thấy mặt ngươi nữa, các khanh hãy trục xuất hắn ra khỏi vương quốc của trẫm.” Sau đó, đức vua truyền gọi Juṇha đến và hỏi rằng: “Được biết khanh đã nghĩ như vậy?” Juṇha đáp: “Đúng vậy, tâu Đại Vương.” – Đức vua nói rằng: “Hãy làm theo ý của khanh.” Khanh hãy thỉnh mời năm trăm vị tỳ khưu ngồi xuống trên những chỗ ngồi đã được trải sẵn ở lều vải lớn, và sắp đặt các các người nữ thuộc dòng dõi Sát-đế-lỵ vây quanh, đã lấy tài sản từ hoàng cung đến để cúng dường suốt bảy ngày như trẫm đã làm.” Juṇha đã làm như vậy. Sau khi cúng dường vào ngày thứ bảy, Juṇha đã thỉnh cầu đức Phật rằng: “Kính bạch đức Thế Tôn, xin Ngài hãy thuyết giảng Giáo Pháp cho con.”
Satthā dvinnampi dānānaṃ anumodanaṃ ekato katvā dve mahānadiyo ekoghapuṇṇā kurumāno viya mahādhammadesanaṃ desesi. Desanāpariyosāne juṇho sotāpanno ahosi. Rājā pasīditvā dasabalassa bāhiravatthuṃ nāma[13] adāsi. Evaṃ abhinipphanno kho pana tassa bhagavato lābhoti veditabbo.
Bậc Đạo Sư đã thực hiện việc tùy hỷ cúng dường của cả hai trở thành một, giống như làm cho hai dòng sông lớn được đầy nước với một dòng chảy, ngài đã thuyết giảng một Pháp thoại lớn. Khi Pháp thoại kết thúc, Juṇha đã đạt được quả vị Nhập Lưu. Đức vua đã tịnh tín và đã cúng dường vải tên là Bāhira đến đấng Thập Lực. Nên biết rằng lợi đắc được thành tựu cho đức Thế Tôn ấy với biểu hiện như vậy.
Abhinipphannosilokoti vaṇṇaguṇakittanaṃ. Sopi bhagavato dhammacakkappavattanato paṭṭhāya abhinipphanno. Tato paṭṭhāya hi bhagavato khattiyāpi vaṇṇaṃ kathenti. Brāhmaṇāpi gahapatayopi nāgā supaṇṇā gandhabbā devatā brahmānopi kittiṃ vatvā – ‘‘itipi so bhagavā’’tiādinā. Aññatitthiyāpi vararojassa sahassaṃ datvā samaṇassa gotamassa avaṇṇaṃ kathehīti uyyojesuṃ. So sahassaṃ gahetvā dasabalaṃ pādatalato paṭṭhāya yāva kesantā[14] apalokayamāno likkhāmattampi vajjaṃ adisvā – ‘‘vippakiṇṇadvattiṃsamahāpurisalakkhaṇe asīti-anubyañjana-vibhūsite byāmappabhā-parikkhitte suphullita-pāricchattaka- tārāgaṇasamujjalita-antalikkha- vicittakusumasassirika-nandanavanasadise anavajjaattabhāve avaṇṇaṃ vadantassa mukhampi viparivatteyya, muddhāpi sattadhā phaleyya, avaṇṇaṃ vattuṃ upāyo natthi, vaṇṇameva vadissāmī’’ti pādatalato paṭṭhāya yāva kesantā atirekapadasahassena vaṇṇameva kathesi. Yamakapāṭihāriye panesa vaṇṇo nāma matthakaṃ patto. Evaṃ abhinipphanno silokoti.
Danh tiếng đã được thành tựu: sự khen ngợi về danh tiếng đức hạnh. Dẫu cho danh tiếng đó cũng đã đạt đến tột đỉnh cho đức Thế Tôn kể từ khi ngài chuyển vận bánh xe Pháp. Đúng như vậy, kể từ đó trở đi các vị Sát-đế-lỵ cũng đã nói về danh tiếng của đức Thế Tôn. Cho đến các vị Bà-la-môn, các gia chủ, các loài rồng, các loài kim-sí-điểu, các Càn-thát-bà, các vị Thiên nhân và các vị Phạm Thiên, ai ai cũng nói về danh tiếng của đức Thế Tôn và ca tụng với những lời như: “Đức Thế Tôn ấy là bậc A-ra-hán,…” Đến các ngoại đạo đã cho một ngàn (đồng tiền vàng) đến Vararoja rồi phái đi (bảo) rằng: “Ngươi hãy chỉ trích Sa-môn Gotama.” Hắn đã nhận lấy một ngàn đồng tiền vàng và quan sát đức Thế Tôn từ dưới bàn chân lên đến đỉnh đầu, không thấy bất cứ lỗi lầm gì dù chỉ là một likkhā[15], mới nghĩ rằng: “Những người lật lọng miệng nói đến lỗi lầm trong bản ngã đầy đủ ba mươi hai tướng của bậc Đại nhân, được tô điểm với tám mươi tướng phụ, được bao quanh bởi vầng hào quang một cánh tay, dài như cây Parichatta nở rộ, bầu trời chiếu sáng bởi những vì tinh tú và khu vườn Nanda tuyệt đẹp với những bông hoa có nhiều màu sắc rực rỡ, (thì) đầu (người ấy) có thể vỡ ra bảy mảnh. Không có cách nào để nói lời chỉ trích, ta sẽ chỉ nói lời ca ngợi,” như thế rồi chỉ nói những lời ca ngợi từ lòng bàn chân cho tới đỉnh đầu với hơn ngàn câu kệ. Hơn nữa, danh tiếng ấy là đã đạt được vào lúc thị hiện song thông. Danh tiếng đã được thành tựu như vậy.
Yāva maññe khattiyāti khattiyā brāhmaṇā vessā suddā nāgā supaṇṇā yakkhā asurā devā brahmānoti sabbeva[16] te sampiyāyamānarūpā haṭṭhatuṭṭhā viharanti. Vigatamado kho panāti ettakā maṃ janā sampiyāyamānarūpā viharantīti na madapamatto hutvā davādivasena āhāraṃ āhāreti, aññadatthu vigatamado kho pana so bhagavā āhāraṃ āhāreti.
Đến mức có thể nghĩ rằng các vị Sát-đế-lỵ: các Sát-đế-lỵ, các Bà-la-môn, các thương buôn, các nô lệ, các loài rồng, các kim-sí-điểu, các Dạ-xoa, các ngạ quỷ, chư Thiên, và Phạm thiên tất cả đều mừng rỡ sống với vẻ vui mừng thỏa mãn. Tuy nhiên… không say đắm: không là người say đắm, xao lãng rằng: dân chúng có chừng này, là người yêu mến ta, rồi thọ dụng vật thực với ước muốn vui đùa, v.v, nhưng đức Thế Tôn ấy không say sưa thọ dụng vật thực.
Yathāvādīti yaṃ vācāya vadati, tadanvayamevassa kāyakammaṃ hoti. Yañca kāyena karoti, tadanvayamevassa vacīkammaṃ hoti. Kāyo vā vācaṃ, vācā vā kāyaṃ nātikkamati, vācā kāyena, kāyo ca vācāya sameti. Yathā ca –
‘‘Vāmena sūkaro hoti, dakkhiṇena ajāmigo;
Sarena nelako[17] hoti, visāṇena jaraggavo’’ti. –
Thường nói như thế nào (thì làm thế ấy): nói với lời nào, thì hành động ở thân cũng tuân theo chính lời nói ấy. Và làm với thân nào, thì hành động ở lời nói cũng tuân theo với chính thân ấy. Thân không vượt quá lời nói, hoặc lời nói không vượt quá thân. Lời nói phù hợp với thân và thân phù hợp với lời nói. Và giống như –
Bên trái là heo, bên phải là dê;
Với âm thanh là cừu, với cái sừng là con bò già.
Ayaṃ sūkarayakkho sūkare disvā sūkarasadisaṃ vāmapassaṃ dassetvā te gahetvā khādati, ajāmige disvā taṃsadisaṃ dakkhiṇapassaṃ dassetvā te gahetvā khādati, nelakavacchake disvā vacchakaravaṃ ravanto te gahetvā khādati, goṇe disvā tesaṃ visāṇasadisāni visāṇāni māpetvā te dūratova – ‘‘goṇo viya dissatī’’ti evaṃ upagate gahetvā khādati. Yathā ca dhammikavāyasajātake sakuṇehi puṭṭho vāyaso – ‘‘ahaṃ vātabhakkho, vātabhakkhatāya mukhaṃ vivaritvā pāṇakānañca maraṇabhayena ekeneva pādena ṭhito, tasmā tumhepi –
‘‘Dhammaṃ caratha bhaddaṃ vo, dhammaṃ caratha ñātayo;
Dhammacārī sukhaṃ seti, asmiṃ loke paramhi cā’’ti.
Dạ-xoa heo này khi nhìn thấy đàn heo nó hiện ra bên trái của đàn heo rồi tóm lấy những con heo ấy ăn thịt, khi nhìn thấy đàn dê thì nó lại hiện sang bên phải giống như con dê ấy rồi cũng tóm lấy những con dê ấy để ăn thịt, khi nhìn thấy những con cừu thì nó khóc thành tiếng của con cừu con rồi tóm lấy những con cừu con ăn thịt, và khi nhìn thấy đàn bò thì nó hóa hiện giống như cái sừng của những con bò ấy nhìn từ xa “cũng có thể thấy giống như con bò” như thế để tóm lấy những con bò ấy khi tiến lại gần để ăn thịt. Và cũng giống như Bổn Sanh Con Quạ Đạo Đức được hỏi bởi các loài chim, đã nói rằng: “ta là quạ (có thể) hả miệng nuốt gió, chỉ đứng với một chân vì sợ giẫm chết các loài côn trùng. Vì lý do đó, thậm chí cả các ngươi –
“Hãy thực hành đạo đức, điều tốt lành sẽ đến với quý vị. Hãy thực hành đạo đức, này các bà con. Người thực hành đạo đức nằm ngủ thoải mái ở đời này và đời sau.”
Sakuṇesu vissāsaṃ uppādesi, tato –
‘‘Bhaddako vatāyaṃ pakkhī, dijo paramadhammiko;
Ekapādena tiṭṭhanto, dhammo dhammoti bhāsatī’’ti.
Evaṃ vissāsamāgate sakuṇe khādittha. Tena tesaṃ vācā kāyena, kāyo ca vācāya na sameti, na evaṃ bhagavato. Bhagavato pana vācā kāyena, kāyo ca vācāya sametiyevāti dasseti.
Khiến bầy chim tin tưởng, từ đó đã ăn hết bầy chim bay đến vì sự tin tưởng như vậy rằng:
“Con chim này quả thật là bậc hiền thiện, loài lưỡng sanh, bậc đạo đức cao tột. Trong khi đứng bằng một chân, nó chỉ dạy thuần đạo đức.”
Lời nói của Dạ-xoa heo và con quạ ấy không phù hợp với thân, cũng không phù hợp với lời nói, còn đức Thế Tôn thì không như thế. Vả lại, ngài thuyết rằng lời nói của đức Thế Tôn phù hợp với thân và thân cũng phù hợp với lời nói.
Tiṇṇā taritā vicikicchā assāti tiṇṇavicikiccho. ‘‘Kathamidaṃ kathamida’’nti evarūpā vigatā kathaṃkathā assāti vigatakathaṃkatho. Yathā hi mahājano – ‘‘ayaṃ rukkho, kiṃ rukkho nāma, ayaṃ gāmo, ayaṃ janapado, idaṃ raṭṭhaṃ, kiṃ raṭṭhaṃ nāma, kasmā nu kho ayaṃ rukkho ujukkhandho, ayaṃ vaṅkakkhandho, kasmā kaṇṭako koci ujuko hoti, koci vaṅko, pupphaṃ kiñci sugandhaṃ, kiñci duggandhaṃ, phalaṃ kiñci madhuraṃ, kiñci amadhura’’nti sakaṅkhova hoti, na evaṃ satthā. Satthā hi – ‘‘imesaṃ nāma dhātūnaṃ ussannussannattā idaṃ evaṃ hotī’’ti vigatakathaṃkathova . Yathā ca paṭhamajjhānādilābhīnaṃ dutiyajjhānādīsu kaṅkhā hoti. Paccekabuddhānampi hi sabbaññutaññāṇe yāthāvasanniṭṭhānābhāvato vohāravasena kaṅkhā nāma hotiyeva, na evaṃ buddhassa. So hi bhagavā sabbattha vigatakathaṃkathoti dasseti.
Đã vượt qua sự hoài nghi bởi vì ngài đã vượt qua sự hoài nghi. Đã vượt qua nỗi nghi hoặc bởi vì ngài không hỏi han bất cứ điều gì có hình thức vầy rằng: “Đây là gì? đây là gì?” Thật vậy, bậc Đạo Sư không giống như nhiều người vẫn còn có sự nghi ngờ rằng – “cây này tên là gì? làng này tên là gì? xã này (tên là gì)? Xứ sở này (tên là gì)? Thành phố này tên là gì? Tại sao cây này có thân thẳng? cây kia có thân cong? Tại sao thân cây này có gai? một số cây thì thẳng? một số cây lại cong? một số loài hoa thì thơm? một số loài hoa thì có mùi hôi? một số loại trái cây thì ngọt? một số loại trái cây thì không ngọt? Quả thật như thế, bậc Đạo Sư biết rằng: “Bởi vì những nguyên tố này dày đặc, (nên) những điều này phải là như vậy,” nên mới là người không hỏi han bất cứ điều gì. Và đối với đức Phật thì ngài cũng không giống như những hành giả đã chứng đắc Sơ thiền, vẫn còn có sự nghi ngờ về Nhị thiền, v.v. Và kể cả chư Phật Độc Giác cũng vẫn còn có sự nghi ngờ do về phương diện ngôn ngữ diễn đạt sự thật bởi vì các ngài vẫn không có sự quyết định theo đúng bản thể thật bằng Trí Toàn Tri. Vì thế, thiên chủ Sakka mới nói rằng: Đức Phật đã vượt qua khỏi tất cả mọi nghi hoặc.
Pariyositasaṅkappoti yathā keci sīlamattena, keci vipassanāmattena, keci paṭhamajjhānena …pe… keci nevasaññānāsaññāyatanasamāpattiyā, keci sotāpannabhāvamattena …pe… keci arahattena, keci sāvakapāramīñāṇena, keci paccekabodhiñāṇena pariyositasaṅkappā paripuṇṇamanorathā honti, na evaṃ mama satthā. Mama pana satthā sabbaññutaññāṇena pariyositasaṅkappoti dasseti.
Đã hoàn mãn tư duy: Bậc Đạo Sư của chúng ta không giống như một số người đã đạt đến sự hoàn mãn tư duy là ý định, tức là đã đầy đủ sự ước muốn chỉ do giới, một số chỉ do minh sát, một số chỉ do Sơ thiền …nt… một số chỉ do Phi tưởng phi phi tưởng xứ, một số chỉ do bản thể Nhập Lưu …nt… một số chỉ A-ra-hán Đạo, một số chỉ do trí ba-la-mật của vị Thánh Hữu học, một số chỉ trí của vị Phật Độc Giác. Thiên chủ Sakka nói rằng: Còn bậc Đạo Sư của chúng tôi đã hoàn mãn tư duy do Trí Toàn Giác.
Ajjhāsayaṃ ādibrahmacariyanti karaṇatthe paccattavacanaṃ, adhikāsayena uttamanissayabhūtena ādibrahmacariyena porāṇabrahmacariyabhūtena ca ariyamaggena tiṇṇavicikiccho vigatakathaṃkatho pariyositasaṅkappoti attho. ‘‘Pubbe ananussutesu dhammesu sāmaṃ saccāni abhisambujjhi, tattha ca sabbaññutaṃ patto, balesu ca vasībhāva’’nti hi vacanato pariyositasaṅkappatāpi bhagavato ariyamaggeneva nipphannāti.
Về ý định, về phần đầu của Phạm hạnh (Ajjhāsayaṃ ādibrahmacariyaṃ): Là chủ cách được sử dụng theo ý nghĩa của sử dụng cách. Giải thích rằng ngài đã vượt qua sự nghi ngờ, đã vượt qua sự nghi hoặc, đã hoàn mãn tư duy về ý định, về phần đầu của Phạm hạnh là nơi nương nhờ cao thượng và với đạo lộ của bậc Thánh là bản thể Phạm hạnh cổ xưa. Ngay cả bản thể mà đức Thế Tôn đã hoàn mãn tư duy cũng được gọi là đã thành tựu nhờ đạo lộ của bậc Thánh đó, bởi vì trong Chánh văn có nói rằng: “ngài tự mình đã giác ngộ Chân Lý đối với các Pháp chưa từng được nghe trước kia và đã đạt đến Trí Toàn Tri về bản thể các năng lực.”
- Yathariva bhagavāti yathā bhagavā, evaṃ ekasmiṃ jambudīpatale catūsu disāsu cārikaṃ caramānā aho vata cattāro jinā dhammaṃ deseyyunti paccāsisamānā vadanti. Athāpare tīsu maṇḍalesu ekato vicaraṇabhāvaṃ ākaṅkhamānā tayo sammāsambuddhāti āhaṃsu. Apare – ‘‘dasa pāramiyo nāma pūretvā catunnaṃ tiṇṇaṃ vā uppatti dullabhā, sace pana eko nibaddhavāsaṃ vasanto dhammaṃ deseyya, eko cārikaṃ caranto, evampi jambudīpo sobheyya ceva, bahuñca hitasukhamadhigaccheyyā’’ti cintetvā aho vata, mārisāti āhaṃsu.
- Giống như đức Thế Tôn: giống như đức Thế Tôn, một số người mong mỏi như vầy: “Ôi! Đấng Chiến Thắng có thể đi du hành thuyết giảng Giáo Pháp trong bốn phương ở Jambudīpa.” Sau đó, một số khác mong mỏi rằng việc đi du hành với nhau trong ba phạm vi đã nói rằng: Ba vị Chánh đẳng Chánh giác. Một số khác nữa mong mỏi rằng sau khi làm tròn mười ba-la-mật và xuất hiện bốn hoặc ba vị Phật là điều khó đạt được, nhưng nếu một vị Chánh đẳng Chánh giác có thể an trú thường xuyên và thuyết giảng Giáo Pháp, một mình trong lúc đi du hành, thậm chí như vậy thì Jampūdīpa có thể trở nên tươi đẹp và có thể đi đến sự lợi ích và sự an lạc cho nhiều người. Vì vậy mới nói rằng: “Ôi! này các ngài, mong sao…”
- Aṭṭhānametaṃ anavakāso yanti ettha ṭhānaṃ avakāsoti ubhayametaṃ kāraṇādhivacanameva. Kāraṇañhi tiṭṭhati ettha tadāyattavuttitāya phalanti ṭhānaṃ. Okāso viya cassa taṃ tena vinā aññattha abhāvatoti avakāso. Yanti karaṇatthe paccattaṃ. Idaṃ vuttaṃ hoti – ‘‘yena kāraṇena ekissā lokadhātuyā dve buddhā ekato uppajjeyyuṃ, taṃ kāraṇaṃ natthī’’ti.
Ettha ca – ‘‘Yāvatā candimasūriyā, pariharanti disā bhanti virocanā;
Tāva sahassadhā loko, ettha te vattate vaso’’ti.[18] –
- Điều này là không hợp lý và không có cơ sở: Ở đây, hai từ này là ‘sự kiện’ ‘không có cơ sở’ đều là cách gọi lý do. Thật vậy, lý do được gọi là ‘sự kiện’ bởi vì kết quả được thiết lập tại chỗ đó, do kết quả vận hành liên quan đến nhân đó. Và lý do đó cũng giống như ‘cơ sở’ nên mới gọi là ‘không có cơ sở’ bởi vì kết quả đó thì không có cơ sở nào khác ngoại trừ cơ sở ấy. ‘Yaṃ’ là chủ cách được sử dụng trong nghĩa của sở dụng cách. Điều này thiên chủ Sakka giải thích rằng: “trong một thế giới việc hai vị Phật có thể sanh lên cùng nhau với lý do nào, thì lý do ấy không có.”
Và ở đây – “Mặt trăng và mặt trời luân chuyển trong quỹ đạo cùng với các tia sáng chiếu sáng các phương đến chừng nào; thì oai lực của ngài cũng vận hành trong hàng ngàn thế giới ấy cũng đến chừng ấy.”
Gāthāya ekacakkavāḷameva ekā lokadhātu. ‘‘Sahassī lokadhātu akampitthā’’ti[19] āgataṭṭhāne cakkavāḷasahassaṃ ekā lokadhātu. ‘‘Ākaṅkhamāno, ānanda, tathāgato tisahassi-mahāsahassilokadhātuṃ sarena viññāpeyya, obhāsena ca phareyyā’’ti[20] āgataṭṭhāne tisahassimahāsahassī ekā lokadhātu. ‘‘Ayañca dasasahassī lokadhātū’’ti[21] āgataṭṭhāne dasacakkavāḷasahassāni ekā lokadhātu. Taṃ sandhāya ekissā lokadhātuyāti āha. Ettakañhi jātikhettaṃ nāma. Tatrāpi ṭhapetvā imasmiṃ cakkavāḷe jambudīpassa majjhimadesaṃ na aññatra buddhā uppajjanti jātikhettato pana paraṃ buddhānaṃ uppattiṭṭhānameva na paññāyati. Yenatthenāti yena pavāraṇasaṅgahatthena.
Trong kệ ngôn này một vũ trụ được gọi là một lokadhātu. Ngàn vũ trụ gọi là một lokadhātu ở nơi đến rằng: “mười ngàn thế giới đã rung động.” Ba ngàn đại thiên thế giới gọi là một lokadhātu ở nơi đến rằng: “Này Ānanda, trong khi mong muốn Như Lai có thể sử dụng âm giọng khiến ba ngàn đại thiên thế giới có thể hiểu được và có thể lan tỏa ánh hào quang đến…” Mười ngàn thế giới gọi là một lokadhātu ở nơi đến rằng: “Và mười ngàn thế giới này”. Đức Thế Tôn ấy muốn đề cập đến mười ngàn thế giới mới nói rằng: “Trong một thế giới.” Bởi vì chỉ chừng ấy gọi là lãnh địa đản sanh. Đến trong lãnh địa đản sanh ấy ngoài trừ ở trung quốc độ của Jambudīpa ở thế giới này, ở quốc độ khác chư Phật không xuất hiện, cũng vượt khỏi lãnh địa đản sanh, không có nơi hiện khởi của chư Phật. Về mục đích: về mục đích hỗ trợ vào ngày Pavāraṇā nào đó.
Nói về Phạm Thiên Sanaṃkumāra
- Vaṇṇena ceva yasasā cāti alaṅkāraparivārena ca puññasiriyā cāti attho.
Về sắc tướng và danh tiếng: với các đồ trang sức, tùy tùng và với phươc báu rực rỡ. - Sādhu mahābrahmeti ettha sampasādane sādhusaddo. Saṅkhāya modāmāti jānitvā modāma.
Từ ‘lành thay’ trong cụm từ ‘lành thay, thưa Đại Phạm Thiên’ diễn tiến trong ý nghĩa sự tịnh tín. (Chúng tôi) vui mừng sau khi xem xét (chính điều ấy): chúng tôi vui mừng sau khi biết.
Giảng giải chuyện Phạm Thiên Govinda
- 304. Yāva dīgharattaṃ mahāpaññova so bhagavāti ettakanti paricchinditvā na sakkā vattuṃ, atha kho yāva dīgharattaṃ aticirarattaṃ mahāpaññova so bhagavā. Noti kathaṃ tumhe maññathāti. Atha sayamevetaṃ pañhaṃ byākātukāmo – ‘‘anacchariyametaṃ, mārisā, yaṃ idāni pāramiyo pūretvā bodhipallaṅke tiṇṇaṃ mārānaṃ matthakaṃ bhinditvā paṭividdha-asādhāraṇañāṇo so bhagavā mahāpañño bhaveyya, kimettha acchariyaṃ, aparipakkāya pana bodhiyā padesañāṇe ṭhitassa sarāgādikālepi mahāpaññabhāvameva vo, mārisā, kathessāmī’’ti bhavapaṭicchannakāraṇaṃ āharitvā dassento bhūtapubbaṃ bhotiādimāha.
Không ai có thể xác định rằng chỉ chừng này và nói rằng ‘việc đức Thế Tôn ấy đã là vị có đại tuệ một thời gian dài đến như thế?’ Thực tế là đức Thế Tôn của chúng ta, vị ấy đã là vị có đại trí tuệ từ rất lâu, là một thời gian rất dài. Vì vậy, các ông nghĩ như thế nào? Khi ấy, Bà-la-môn Sanaṃkumāra muốn tự mình giải quyết vấn đề nên đã nói: “Này các ngài, điều này quả không kỳ lạ, điều mà đức Thế Tôn ấy đã làm tròn đủ các ba-la-mật, đã tiêu diệt đầu não ba đạo quân Ma Vương ở tại Bảo tọa Bồ-đề, có trí tuệ không phổ biến đã được thấu triệt nên trở thành vị có trí tuệ vĩ đại, vậy ở đây có gì là kỳ lạ? Tuy nhiên, này các ngài, tôi sẽ nói cho các ngài về bản thể mà ngài đang duy trì ở sự hiểu biết có hạn chế bởi trí giác ngộ vẫn chưa chín muồi (ngài) cũng đã có trí tuệ vĩ đại ngay cả khi vẫn còn ái luyến, v.v.” Trong khi trình bày đã mang lại lý do bị che lấp bởi thế gian để thuyết giảng nên mới nói rằng: Thưa các ngài, vào thời quá khứ.
Purohitoti sabbakiccāni anusāsanapurohito. Govindoti govindiyābhisekena abhisitto, pakatiyā panassa aññadeva nāmaṃ, abhisittakālato paṭṭhāya ‘‘govindo’’ti saṅkhyaṃ gato. Jotipāloti jotanato ca pālanato ca jotipālo. Tassa kira jātadivase sabbāvudhāni ujjotiṃsu. Rājāpi paccūsasamaye attano maṅgalāvudhaṃ pajjalitaṃ disvā bhīto aṭṭhāsi. Govindo pātova rājūpaṭṭhānaṃ gantvā sukhaseyyaṃ pucchi rājā – ‘‘kuto me ācariya, sukhaseyyā’’ti vatvā taṃ kāraṇaṃ ārocesi. Mā bhāyi, mahārāja, mayhaṃ putto jāto, tassānubhāvena sakalanagare āvudhāni pajjaliṃsūti. Rājā – ‘‘kiṃ nu kho me kumāro paccatthiko bhaveyyā’’ti cintetvā suṭṭhutaraṃ bhāyi. ‘‘Kiṃ vitakkesi mahārājā’’ti ca puṭṭho tamatthaṃ ārocesi. Atha naṃ govindo ‘‘mā bhāyi mahārāja, neso kumāro tumhākaṃ dubbhissati[22], sakalajambudīpe pana tena samo paññāya na bhavissati, mama puttassa vacanena mahājanassa kaṅkhā chijjissati, tumhākañca sabbakiccāni anusāsissatī’’ti samassāseti. Rājā tuṭṭho – ‘‘kumārassa khīramūlaṃ hotū’’ti sahassaṃ datvā ‘‘kumāraṃ mahallakakāle mama dassethā’’ti āha. Kumāro anupubbena vuḍḍhimanuppatto. Jotitattā panassa pālanasamatthatāya ca jotipālotveva nāmaṃ akaṃsu. Tena vuttaṃ – ‘‘jotanato ca pālanato ca jotipālo’’ti.
Vị quân sư: là vị quân sư chỉ bảo mọi công việc. Govindo: Govinda (là một tước hiệu, một chức vị) đã được tấn phong trở thành vị (có chức vụ) lớn ở đất nước, bình thường vị ấy có tên khác, kể từ khi vị ấy được tấn phong đã được gọi là Govinda. Jotipāla: Jotipāla bởi sự sáng chói và bởi sự hộ trì. Kể rằng vào ngày Jotipāla sinh ra thì mọi loại vũ khí đều chiếu sáng. Ngay cả khi đức vua nhìn thấy ánh sáng thanh gươm kiết tường của ngài bỗng phát sáng vào lúc trời gần sáng đã hoảng hốt, đứng yên. Govinda đã đi đến yết kiến đức vua từ sáng sớm và hỏi thăm về giấc ngủ có sự thoải mái? – Đức vua trả lời: “Thưa thầy, làm thế nào trẫm có sự ngủ nghê thoải mái? Sau đó đức vua thuật lại lý do. Đại vương chớ sợ hãi, con trai của hạ thần vừa chào đời, do nhờ sức mạnh của cậu bé, tất cả các loại vũ khí đều chiếu sáng khắp thành phố. – Đức vua nghĩ rằng: “Đứa bé này có thể trở thành kẻ thù của ta chăng?” rồi ngài càng sợ hãi. – Và khi được hỏi rằng: “Tâu Đại vương, ngài đang nghĩ gì?” thì đức vua đã thuật lại điều đó. – Lúc ấy, Govinda tâu rằng: “Đại vương, chớ lo sợ, đứa trẻ này sẽ không làm hại ngài. Nhưng trên toàn cõi Jambudīpa sẽ không ai có trí tuệ ngang bằng nó. Sự nghi ngờ của dân chúng sẽ chấm dứt nhờ vào lời nói của con trai hạ thần. Nó sẽ chỉ bảo mọi việc cho ngài, rồi trấn an ngài.” – Đức vua hài lòng nói: “Hãy trả công cho đứa trẻ này”, rồi ban cho một nghìn đồng tiền và lệnh rằng: “Hãy trình đứa trẻ lên cho trẫm khi nó trưởng thành.” – Đứa trẻ phát triển dần theo thời gian. Bởi vì bản thể của đứa trẻ ấy là người chói sáng và là người có khả năng trong sự bảo vệ nên cha mẹ mới đặt tên là Jotipāla. Vì lý do đó ngài mới nói rằng – “Jotipāla bởi sự sáng chói và bởi sự hộ trì.”
Sammā vossajjitvāti sammā vossajjitvā. Ayameva vā pāṭho. Alamatthadasataroti samattho paṭibalo atthadaso alamatthadaso, taṃ alamatthadasaṃ tiretīti alamatthadasataro. Jotipālasseva māṇavassa anusāsaniyāti sopi jotipālaṃyeva pucchitvā anusāsatīti dasseti.
Chính thức bàn giao: đã bàn giao lại một cách đúng đắn. Hoặc chính từ này là bản Chánh văn. Là vị có khả năng nhìn thấy và cân nhắc công việc: bởi vì là vị có khả năng, can đảm, là vị nhìn thấy được công việc nên được gọi là người có khả năng nhìn thấy công việc, được gọi là người có khả năng thấy và cân nhắc công việc bởi vì thường cân nhắc về công việc đó. Những công việc ấy cũng nên được chỉ bảo bởi chính thanh niên Jotipāla: ngài chỉ ra rằng ngay cả vị ấy cũng hỏi Jotipāla trước rồi mới cho ý kiến.
- 305. Bhavamatthubhavantaṃ jotipālanti bhoto jotipālassa bhavo vuddhi visesādhigamo sabbakalyāṇañceva maṅgalañca hotūti attho. Sammodanīyaṃ kathanti? ‘‘Alaṃ, mahārāja, mā cintayi, dhuvadhammo esa sabbasattāna’’ntiādinā nayena maraṇappaṭisaṃyuttaṃ sokavinodanapaṭisanthārakathaṃ pariyosāpetvā. Mā no bhavaṃ jotipālo anusāsaniyā-paccabyāhāsīti mā paṭibyākāsi, ‘‘anusāsā’’ti[23] vutto – ‘‘nāhaṃ anusāsāmī’’ti no mā anusāsaniyā paccakkhāsīti attho. Abhisambhosīti saṃvidahitvā paṭṭhapesi. Manussā evamāhaṃsūti taṃ pitarā mahāpaññataraṃ sabbakiccāni anusāsantaṃ sabbakamme abhisambhavantaṃ disvā tuṭṭhacittā govindo vata, bho, brāhmaṇo, mahāgovindo vata, bho, brāhmaṇoti evamāhaṃsu. Idaṃ vuttaṃ hoti, ‘‘govindo vata, bho, brāhmaṇo ahosi etassa pitā; ayaṃ pana mahāgovindo vata, bho, brāhmaṇo’’ti.
Cầu mong điều tốt lành hãy có đến ngài thanh niên Jotipāla: sự tồn tại, sự thịnh vượng, sự đạt được những đức tính đặc biệt, tất cả mọi sự tốt đẹp và điều tốt lành hãy có đến cho ngài thanh niên Jotipāla. Sau khi trao đổi lời xã giao thân thiện: Sau khi kết thúc lời chào hỏi xã giao làm xoa dịu nỗi buồn liên quan đến cái chết theo cách thức như sau: “Thôi đừng thưa Đại Vương, ngài chớ nên suy nghĩ nữa, đây là bản thể chắc chắn đối với tất cả chúng sanh.” Ngài Jotipāla chớ từ chối trẫm về việc chỉ bảo: (Ngài Jotipāla) chớ từ chối trẫm về việc chỉ bảo, nghĩa là khi được yêu cầu rằng: “hãy chỉ bảo” thì chớ nên từ chối trẫm về việc chỉ bảo với lời nói rằng: “Thần sẽ không chỉ bảo.” Trẫm sẽ bố trí: sẽ sắp xếp, tấn phong. Dân chúng đã nói về vị Jotipāla ấy như vầy: khi dân chúng nhìn thấy Jotipāla ấy có trí tuệ hơn cha mình, chỉ bảo mọi việc, sắp xếp mọi việc, có tâm vui mừng đã nói như vầy rằng: “Này các ông, quả thật là Bà-la-môn Govinda! Này các ông, quả thật là Bà-la-môn Mahāgovinda!” Điều này đã được giải thích rằng: “Này các ông, quả thật Bà-la-môn Govinda là cha của người này; còn người này, này các ông quả thật là Bà-là-môn Mahāgovinda!”
Giảng về sự san sẻ của đức vua
- Yenate cha khattiyāti ye te ‘‘sahāyā’’ti vuttā cha khattiyā, te kira reṇussa ekapitikā kaniṭṭhabhātaro, tasmā mahāgovindo ‘‘ayaṃ abhisitto etesaṃ rajjasaṃvibhāgaṃ kareyya vā na vā, yaṃnūnāhaṃ te paṭikacceva reṇussa santikaṃ pesetvā paṭiññaṃ gaṇhāpeyya’’nti cintento yena te cha khattiyā tenupasaṅkami. Rājakattāroti rājakārakā amaccā.
Sáu vị Sát-đế-lỵ ấy: sáu vị Sát-đế-lỵ được ngài nói là những người “thân hữu”, kể rằng những vị Sát-đế-lỵ ấy luôn cả cha với hoàng tử Reṇu, là em của ngài, vì vậy, Mahāgovinda mới nghĩ rằng: “Hoàng tử Reṇu này đã được tấn phong, liệu có san sẻ hay không san sẻ vương quyền cùng với sáu vị Sát-đế-lỵ ấy? Nếu có, chúng ta cần phái sáu vị Sát-đế-lỵ đó đến gặp hoàng tử Reṇu ngay lập tức và khiến ngài nhận lời cam kết,” đã đến gặp sáu vị Sát-đế-lỵ ấy ở chỗ cư ngụ của họ. Các quan đại thần: các vị cận thần, các viên quan đại thần. - Madanīyā kāmāti madakarā pamādakarā kāmā. Gacchante gacchante kāle esa anussaritumpi na sakkuṇeyya, tasmā āyantu bhonto āgacchantūti attho.
Các dục là nơi thiết lập của sự mê đắm: Các dục làm cho mê đắm, làm cho xao lãng. Có nghĩa là khi thời gian trôi qua, hoàng tử Reṇu này sẽ không thể nhớ lại, vì vậy, hãy đến, thưa các vị, các vị hãy đi đến! - Sarāmahaṃ bhoti tadā kira manussānaṃ saccavādikālo hoti, tasmā ‘‘kadā mayā vuttaṃ, kena diṭṭhaṃ, kena suta’’nti abhūtaṃ avatvā ‘‘sarāmahaṃ bho’’ti āha. Sammodanīyaṃ kathanti kiṃ mahārāja devattaṃ gate raññe mā cintayittha, dhuvadhammo esa sabbasattānaṃ, evaṃbhāvino saṅkhārāti evarūpaṃ paṭisanthārakathaṃ. Sabbāni sakaṭamukhāni paṭṭhapesīti sabbāni cha rajjāni sakaṭamukhāni paṭṭhapesi. Ekekassa rañño rajjaṃ tiyojanasataṃ hoti, reṇussa rañño rajjosaraṇapadeso dasagāvutaṃ, majjhe pana reṇussa rajjaṃ vitānasadisaṃ ahosi. Kasmā evaṃ paṭṭhapesīti? Kālena kālaṃ rājānaṃ passituṃ āgacchantā aññassa rajjaṃ apīḷetvā attano attano rajjapadeseneva āgamissanti ceva gamissanti ca. Pararajjaṃ otiṇṇassa hi – ‘‘bhattaṃ detha, goṇaṃ dethā’’ti vadato manussā ujjhāyanti – ‘‘ime rājāno attano attano vijitena na gacchanti, amhākaṃ pīḷaṃ karontī’’ti. Attano vijitena gacchantassa ‘‘amhākaṃ santikā iminā idañcidañca laddhabbamevā’’ti manussā pīḷaṃ na maññanti. Imamatthaṃ cintayitvā mahāgovindo ‘‘sammodamānā rājāno ciraṃ rajjamanusāsantū’’ti evaṃ paṭṭhapesi.
Thưa các vị, tôi vẫn còn nhớ lời nói ấy: vị ấy nói lúc đó là thời gian mà mọi người ưa thích nói sự thật, vì vậy, hoàng tử Reṇu đã không nói lời nói không thật rằng: “Tôi nói khi nào, ai đã nhìn thấy, ai đã nghe (mà) nói rằng: ‘Thưa các ngài, tôi vẫn còn nhớ.’ Sau khi trao đổi lời xã giao thân thiện: lời nói tiếp đãi ân cần có hình thức như vầy rằng: Này Đại Vương, sau khi đức vua băng hà, ngài chớ nên nghĩ ngợi gì cả, đây là bản chất chắc chắn của tất cả chúng sanh, tất cả các hành là như vậy. (Vị ấy) đã thành lập tất cả (bày phần) như là các phần trước của cỗ xe: Là đã thành lập tất cả sáu xứ sở trở thành giống như phần trước của cỗ xe. Mỗi vị vua có lãnh thổ rộng ba trăm do-tuần, vùng đất là nơi tập trung tài sản của vua Reṇu là mười gāvuta, hơn nữa tài sản của vua Reṇu là ở trung tâm giống như cái mái che. Tại sao lại thiết lập như vậy? Các vị Sát-đế-lỵ thỉnh thoảng khi đến yết kiến đức vua sẽ không chèn ép vương quốc của các vị vua khác, chỉ sẽ đến và chỉ sẽ đi ngang qua lãnh thổ của mỗi vị. Bởi vì khi bước vào vương quốc của vị khác, và nói rằng: “hãy cho thức ăn, hãy cho bò,” dân chúng (sẽ) phàn nàn – “Những vị vua này không đi qua vùng lãnh thổ của mình, mà thực hiện chèn ép chúng ta.” Nhưng khi đi ngang qua vùng lãnh thổ của mình, thì dân chúng cũng sẽ không nghĩ đến việc chèn ép rằng “vị vua này nhất định phải nhận được những thứ này và những thứ này từ chỗ ở của chúng ta.” Mahāgovinda đã suy nghĩ về điều này nên đã thành lập (đại địa cầu này) như vầy rằng: “Khi các vị vua hoan hỷ với nhau, hãy trị vì vương quốc được trường tồn.”
‘‘Dantapuraṃ kaliṅgānaṃ, assakānañca potanaṃ;
Māhissati[24] avantīnaṃ, sovīrānañca[25] rodukaṃ[26].
Mithilā ca videhānaṃ, campā aṅgesu māpitā;
Bārāṇasī ca kāsīnaṃ, ete govindamāpitā’’ti. –
Etāni satta nagarāni mahāgovindeneva tesaṃ rājūnaṃ atthāya māpitāni.
‘‘Sattabhū brahmadatto ca, vessabhū bharato saha;
Reṇu dve ca dhataraṭṭhā, tadāsuṃ satta bhāradhā’’ti[27]. –
Imāni tesaṃ sattannampi nāmāni. Tesu hi eko sattabhū nāma ahosi, eko brahmadatto nāma, eko vessabhū nāma, eko teneva saha bharato nāma, eko reṇu nāma, dve pana dhataraṭṭhāti ime satta jambudīpatale bhāradhā mahārājāno ahesunti.
Bảy phần (đại địa cầu này) là –
“Dantapura cho những người Kaliṅga, và Potana cho những người Assaka, Māhissatī cho những người Avanti, và Roruka cho những người Sovīra.
Và Mithilā cho những người Videha, Campā được tạo nên cho những người Aṅga, và Bārāṇasī cho những người Kāsi, các thành phố này được tạo nên bởi Govinda.”
Được chính Mahāgovinda tạo lập vì lợi ích cho các vị vua ấy là –
Khi ấy có bảy vị (đại vương) trị vì vương quyền là Sattabhū, và Brahmadatta, Vessabhū cùng với Bharata, Reṇu và hai vị Dhataraṭṭha,
Đây là tên của cả bảy vị ấy. Thật vậy, trong số bảy vị ấy, thì những vị vua này một vị tên là Sattabhū, một vị tên là Brahmadatta, một vị tên là Vessabhū, cùng với chính Vessabhū ấy thì một vị tên là Bharata, một vị tên là Reṇu, còn Dhataraṭṭhā thì có hai vị, cả bảy vị đã trở thành vị Đại Vương Bhāradhā ở Jambudīpa.
Giảng giải tụng phẩm thứ nhất được kết thúc.
Giảng về sự lan rộng của tiếng đồn tốt đẹp
- Upasaṅkamiṃsūti ‘‘amhākaṃ ayaṃ issariyasampatti na aññassānubhāvena, mahāgovindassānubhāvena nipphannā. Mahāgovindo amhe satta rājāno samagge katvā jambudīpatale patiṭṭhāpesi, pubbūpakārissa pana na sukarā paṭikiriyā kātuṃ. Amhe sattapi jane esoyeva anusāsatu, etaṃyeva senāpatiñca purohitañca karoma, evaṃ no vuddhi bhavissatī’’ti cintetvā upasaṅkamiṃsu. Mahāgovindopi – ‘‘mayā ete samaggā katā, sace etesaṃ añño senāpati purohito ca bhavissati, tato attano attano senāpatipurohitānaṃ vacanaṃ gahetvā aññamaññaṃ bhindissanti, adhivāsemi nesaṃ senāpatiṭṭhānañca purohitaṭṭhānañcā’’ti cintetvā ‘‘evaṃ bho’’ti paccassosi.
Đã đi đến gặp: cả bảy vị vua suy nghĩ rằng: “Sự thành tựu uy quyền này cho chúng tôi không phải nhờ quyền lực của người khác mà nhờ quyền lực của Mahāgovinda. Mahāgovinda đã làm cho chúng ta cả bảy vị vua có sự hợp nhất, thiết lập ở Jambudīpa. Hơn nữa, chúng ta không dễ dàng gì để trả ơn cho Mahāgovinda, người đã giúp đỡ từ trước. Mahāgovinda này hãy chỉ bảo cho chúng ta, thậm chí cả bảy; chúng ta sẽ để Mahāgovinda giữ (chức vụ) chỉ huy và kim luôn (vai trò) cố vấn, như vậy, chúng ta chắc chắn sẽ có sự phát triển,” rồi đi đến gặp. Ngay cả Mahāgovinda cũng nghĩ rằng: “Ta đã làm cho các vị vua này có sự hợp nhất, nếu các vị vua này sẽ có người khác sẽ giữ (chức vụ) chỉ huy và cố vấn, họ sẽ nghe theo lời chỉ huy và cố vấn của mỗi cá nhân rồi (dẫn đến) chia rẽ. (Như vậy) ta sẽ giữ chức vụ chỉ huy và kim luôn vai trò cố vấn của các vị vua này rồi đồng ý rằng: “Xin vâng, thưa các vị.”
Satta ca brāhmaṇamahāsāleti ‘‘ahaṃ sabbaṭṭhānesu sammukho bhaveyyaṃ vā na vā, yatthāhaṃ sammukho na bhavissāmi, tattheva te kattabbaṃ karissantī’’ti satta anupurohite ṭhapesi. Te sandhāya idaṃ vuttaṃ – ‘‘satta ca brāhmaṇamahāsāle’’ti. Divasassa dvikkhattuṃ[28] vā sāyaṃ pāto vā nahāyantīti nahātakā. Vatacariyapariyosāne vā nahātā, tato paṭṭhāya brāhmaṇehi[29] saddhiṃ na khādanti na pivantīti nahātakā.
Và bảy vị Bà-la-môn có thế lực: Mahāgovinda đế nghĩ rằng: “Dù ta có thể có mặt hay không ở khắp mọi nơi, các vị vua này sẽ làm công việc cần phải làm theo cách mà ta sẽ không có mặt,” Sau đó đã bổ nhiệm bảy vị giữ vị trí phó cố vấn. Ngài muốn đề cập đến bảy phó cố vấn đó nên mới nói rằng: “Và bảy vị Bà-la-môn có thế lực.” Vị hành trì nghi thức tắm: Bởi vì tắm một ngày ba lần, hoặc tắm vào buổi tối và buổi sáng mỗi ngày, hoặc gọi là vị hành trì nghi thức tắm vì đã chấm dứt các nghi thức và sự hành trì; bởi vì kể từ đó các Bà-la-môn đều không ăn không uống cùng với nhau, vì thế gọi là vị hành trì nghi thức tắm.
- Abbhuggacchīti abhiuggacchi. Tadā kira manussānaṃ ‘‘na brahmunā saddhiṃ amantetvā sakkā evaṃ sakalajambudīpaṃ anusāsitu’’nti nisinnanisinnaṭṭhāne ayameva kathā pavattittha. Na kho panāhanti mahāpuriso kira – ‘‘ayaṃ mayhaṃ abhūto vaṇṇo uppanno, vaṇṇuppatti kho pana na bhāriyā, uppannassa vaṇṇassa rakkhanameva bhāriyaṃ, ayañca me acintetvā amantetvā karontasseva vaṇṇo uppannova, cintetvā mantetvā karontassa pana vitthārikataro bhavissatī’’ti brahmadassane upāyaṃ pariyesanto taṃ disvā sutaṃ kho pana metanti-ādi-atthaṃ[30]
Lan rộng: lan rộng. Nghe rằng khi ấy câu nói này đã lan truyền đến mọi người ở mọi chỗ ngồi rằng: “Chúng ta khi được hội ý với Phạm Thiên cũng sẽ có thể chỉ bảo toàn cõi Jambudīpa.” Tuy nhiên … ta không: Được biết bậc Đại nhân nghĩ rằng: Danh tiếng không thật này đã khởi lên nơi ta, hơn nữa danh tiếng khởi lên không phải gánh nặng gì cả, nhưng chính việc gìn giữ danh tiếng ấy mới là gánh nặng, và mặc dù tôi đã không nghĩ và đã không trao đổi ý kiến để thực hiện thì danh tiếng này cũng đã khởi lên rồi, vả lại khi tôi suy nghĩ và đã trao đổi ý kiến rồi mới thực hiện thì danh tiếng ấy chắc chắn sẽ càng lan rộng hơn nữa”, cũng đã tìm kiếm cách thức để thấy được Phạm Thiên, sau khi thấy được Phạm Thiên ấy đã suy tầm về ý nghĩa này rằng: “Ta quả thật đã nghe điều này, v.v.” - Yenareṇu rājā tenupasaṅkamīti evaṃ me antarā daṭṭhukāmo vā sallapitukāmo vā na bhavissati, yato chinnapalibodho sukhaṃ viharissāmīti palibodhupacchedanatthaṃ upasaṅkami, esa nayo sabbattha.
Đã đi đến gặp đức vua Reṇu: Mahāgovinda đến nghĩ rằng – ý muốn đến yết kiến hoặc ý muốn trò chuyện giữa các vị ấy sẽ không có, vì ta đã cắt đứt mọi sự lo lắng và sẽ sống an lạc. Vì vậy, ông ta đã thăm nhằm cắt đứt hoàn toàn mọi sự lo lắng, các đoạn kế tiếp cũng áp dụng cách thức này. - Sādisiyoti samavaṇṇā samajātikā.
Cùng giai cấp: người phụ nữ có giai cấp đồng đẳng, có sanh chủng đồng đẳng. - Navaṃ sandhāgāraṃ kāretvāti rattiṭṭhāna- divāṭṭhāna- caṅkamana- sampannaṃ vassike cattāro māse vasanakkhamaṃ bahi naḷaparikkhittaṃ vicittaṃ āvasathaṃ kāretvā. Karuṇaṃ jhānaṃ jhāyīti karuṇāya tikacatukkajjhānaṃ jhāyi, karuṇāmukhena panettha avasesāpi tayo brahmavihārā gahitāva. Ukkaṇṭhanā paritassanāti jhānabhūmiyaṃ ṭhitassa anabhiratiukkaṇṭhanā vā bhayaparitassanā vā natthi, brahmuno pana āgamanapatthanā āgamanataṇhā ahūti attho.
Đã cho xây dựng thiền đường mới: xây dựng nơi cư trú tráng lệ, lấy cây cối bao bọc xung quanh ở bên ngoài chỗ nghỉ ban đêm, chỗ nghỉ ban ngày và chỗ đi kinh hành, đầy đủ trọn vẹn thích hợp để an trú trong bốn tháng mùa mưa. Đã tham thiền về đề mục bi: Đã tham thiền cả nhóm ba và nhóm bốn của đề mục bi, hơn nữa ‘đã tham thiền về đề mục bi’ này bởi vì đề mục bi đứng đầu, cũng tức là đã bao hàm luôn cả ba Phạm trú còn lại. Đã có sự thất vọng, đã có sự run sợ: khi an trú trong lãnh vực của thiền, không có sự thất vọng do sự không hoan hỷ hoặc sự sợ hãi do sự run sợ, nhưng đã có sự ước mong Phạm Thiên đến, sự mong muốn Phạm Thiên đến.
Giảng giải cuộc thảo luận với Phạm Thiên
- Bhayanti cittutrāsabhayameva. Ajānantāti ajānamānā. Kathaṃ jānemu taṃ mayanti (dī. ni. 2.179) mayaṃ kinti taṃ jānāma, ayaṃ katthavāsiko, kinnāmo, kiṃ gottotiādīnaṃ ākārānaṃ kena ākārena taṃ dhārayāmāti attho.
Sự sợ hãi: Chính sự sợ hãi do tâm run sợ. Không biết: không biết. Làm sao chúng tôi có thể biết ngài? Chúng tôi sẽ nhận biết ngài như thế nào? Có nghĩa là chúng tôi sẽ ghi nhớ ngài bằng những biểu hiệu nào trong những biểu hiện như ‘ngài ở đâu? tên gì? họ gì?
Maṃ ve kumāraṃ jānantīti maṃ ‘‘kumāro’’ti ‘‘daharo’’ti jānanti. Brahmaloketi seṭṭhaloke. Sanantananti ciratanaṃ porāṇakaṃ . Ahaṃ so porāṇakumāro sanaṅkumāro nāma brahmāti dasseti. Evaṃ govinda jānāhīti govinda paṇḍita, tvaṃ evaṃ jānāhi, evaṃ maṃ dhārehi.
‘‘Āsanaṃ udakaṃ pajjaṃ, madhusākañca[31] brahmuno;
Agghe bhavantaṃ pucchāma, agghaṃ kurutu no bhava’’nti. –
Ettha agghanti atithino upanāmetabbaṃ vuccati.
Họ biết ta là một vị thiếu niên: mọi người biết ta là ‘một thiếu niên’, là ‘một chàng trai trẻ’. Ở thế giới Phạm Thiên: Ở thế giới cao thượng nhất. Mãi mãi: là cổ xưa, là lâu đời. Phạm Thiên chỉ ra rằng ta đó là một vị thiếu niên mãi mãi tên là Sanaṅkumāra. Này Govinda, hãy biết như vậy: Govinda là vị sáng trí, ngài hãy nhận biết tôi như vậy, hãy ghi nhớ tôi như vậy.
Đồ vật có thể làm quà biếu để tiếp khách được gọi là lễ vật như trong kệ ngôn này rằng –
‘Chỗ ngồi, nước, dầu thoa chân, và thức ăn ngọt dành cho Phạm Thiên, chúng tôi mời ngài các lễ vật, xin ngài thọ nhận các lễ vật của chúng tôi.’
Teneva idamāsanaṃ paññattaṃ, ettha nisīdatha, idaṃ udakaṃ parisuddhaṃ, ito pānīyaṃ pivatha, pāde dhovatha, idaṃ pajjaṃ pādānaṃ hitatthāya abhisaṅkhataṃ telaṃ, ito pāde makkhetha, idaṃ madhusākanti. Bodhisattassa brahmacariyaṃ na aññesaṃ brahmacariyasadisaṃ hoti, na so ‘‘idaṃ sve, idaṃ tatiyadivase bhavissatī’’ti sannidhiṃ nāma karoti. Madhusākaṃ pana aloṇaṃ adhūpanaṃ atakkaṃ udakena seditasākaṃ, taṃ sandhāyesa – ‘‘idaṃ paribhuñjathā’’ti vadanto ‘‘agghe bhavantaṃ pucchāmā’’tiādimāha. Ime sabbepi agghā brahmuno atthi. Te agghe bhavantaṃ pucchāma. Evaṃ pucchantānañca agghaṃ kurutu no bhavaṃ, paṭiggaṇhātu no bhavaṃ idamagghanti vuttaṃ hoti. Kiṃ panesa – ‘‘ito ekampi brahmā na bhuñjatī’’ti idaṃ na jānātīti. No na jānāti, jānantopi attano santike āgato atithi pucchitabboti vattasīsena pucchati.
Với các lễ vật ấy, Bồ-tát nói rằng: đây là chỗ ngồi đã được sắp đặt, xin mời ngồi xuống chỗ ngồi này; đây là nước tinh khiết, xin mời uống nước này; xin mời rửa chân bằng nước này, đây là dầu thoa chân, đã được pha chế vì lợi ích cho đôi chân, xin mời thoa chân bằng dầu này; đây là thức ăn ngọt. Phạm hạnh của đức Bồ-tát không giống như là Phạm hạnh của những người khác, vị Bồ-tát đó không thực hiện việc tích lũy với suy nghĩ rằng: “điều này dành cho ngày mai, điều này dành cho ngày thứ ba”. Hơn nữa, thức ăn ngọt là có vị ngọt không mặn, không được nướng, không chua (có sẵn). Đức Bồ-tát ấy có ý đề cập đến thức ăn ngọt ấy. – Trong khi nói rằng: “xin mời hãy thọ dụng món ăn này” đã nói rằng: “Chúng tôi xin mời ngài các lễ vật.” Tất cả những lễ vật này có đều dành cho Phạm Thiên. Chúng tôi xin mời ngài các lễ vật. Và xin ngài hãy thọ nhận lễ vật của chúng tôi, tức là thưa ngài hãy thọ nhận các lễ vật này của chúng tôi, người đang thỉnh mời như vậy. Lẽ nào Mahāgovinda này không biết rằng – “Phạm Thiên không thọ dụng dù chỉ một thứ từ những thứ này.” Không phải là không biết, dù có biết đi chăng nữa nhưng vẫn phải hỏi bởi nhiệm vụ quan trọng khi người khách đến chỗ ở của mình (gia chủ) cần phải hỏi.
Atha kho brahmā – ‘‘kiṃ nu kho paṇḍito mama paribhogakaraṇābhāvaṃ ñatvā pucchati, udāhu kohaññe ṭhatvā pucchatī’’ti samannāharanto ‘‘vattasīse ṭhito pucchatī’’ti ñatvā paṭiggaṇhituṃ dāni me vaṭṭatīti paṭiggaṇhāma te agghaṃ, yaṃ tvaṃ govinda bhāsasīti āha. Yaṃ tvaṃ govinda bhāsasi – ‘‘idamāsanaṃ paññattaṃ, ettha nisīdathā’’tiādi, tatra te mayaṃ āsane nisinnā nāma homa, pānīyaṃ pītā nāma homa, pādāpi me dhotā nāma hontu, telenapi makkhitā nāma hontu, udakasākampi paribhuttaṃ nāma hotu, tayā dinnaṃ adhivāsitakālato paṭṭhāya yaṃ yaṃ tvaṃ bhāsasi, taṃ taṃ mayā paṭiggahitameva hoti. Tena vuttaṃ – ‘‘paṭiggaṇhāma te agghaṃ, yaṃ tvaṃ govinda bhāsasī’’ti. Evaṃ pana agghaṃ paṭiggaṇhitvā pañhassa okāsaṃ karonto diṭṭhadhammahitatthāyātiādimāha.
Khi ấy Phạm Thiên suy xét rằng – “Bậc trí đã biết rằng ta không có việc thực hiện thọ dụng (những thứ này) mà vẫn hỏi hay sao, hay là đã thiết lập trong sự gạt gẫm mà hỏi?” Sau khi biết rằng “Thiết lập trong nhiệm vụ quan trọng mới hỏi”, – (Phạm Thiên) mới nghĩ rằng: “Bây giờ ta nên thọ nhận”, và đã nói rằng: “Này Govinda, chúng tôi sẽ nhận các lễ vật của ông, các lễ vật mà ông nêu ra.” (Đại Phạm Thiên giải thích:) Này Govinda, các lễ vật mà ông nêu ra, v.v, rằng – “Đây là chỗ ngồi đã được sắp xếp, xin mời ngồi lên chỗ ngồi này, v.v.” Trong những vật này, chúng tôi ấy gọi là người ngồi trên chỗ ngồi, gọi là người đã uống nước, luôn cả chân của tôi cũng đã rửa, gọi là đã thoa dầu, gọi là đã thọ dụng thức ăn ngọt, kể từ thời điểm mà tôi nhận các lễ vật mà ngài đã dâng, ngài nói đến những lễ vật nào, những lễ vật đó chúng tôi đều đã thọ nhận hoàn tất.” Vì lý do đó ngài mới nói rằng: “Này Govinda, chúng tôi thọ nhận lễ vật của ông, vật mà ông nêu ra.” Hơn nữa, sau khi thọ nhận các lễ vật và trong khi chấp thuận câu hỏi, vị Đại Phạm Thiên đã nói lời bắt đầu như sau: “Vì lợi ích của đời này v.v.”
Kaṅkhīakaṅkhiṃ paravediyesūti ahaṃ savicikiccho bhavantaṃ parena sayaṃ abhisaṅkhatattā parassa pākaṭesu paravediyesu pañhesu nibbicikicchaṃ.
(Tôi) vị có sự nghi ngờ (xin hỏi ngài) vị không có sự nghi ngờ về những điều mà người khác cần biết: Tôi vẫn còn có sự nghi ngờ (xin hỏi) ngài, vị không có sự nghi ngờ về những câu hỏi mà người khác cần biết, hiện hữu cho người khác, do đã được tự tạo nên.
Hitvā mamattanti idaṃ mama, idaṃ mamāti upakaraṇataṇhaṃ cajitvā[32]. Manujesūti sattesu, manujesu yo koci manujo mamattaṃ hitvāti attho. Ekodibhūtoti ekībhūto, eko tiṭṭhanto eko nisīdantoti. Vacanattho panettha eko udeti pavattatīti ekodi, tādiso bhūtoti ekodibhūto. Karuṇedhimuttoti[33] karuṇājhāne adhimutto, taṃ jhānaṃ nibbattetvāti attho. Nirāmagandhoti vissagandhavirahito. Ettha ṭhitoti etesu dhammesu ṭhito. Ettha ca sikkhamānoti etesu dhammesu sikkhamāno. Ayamettha saṅkhepo, vitthāro pana upari mahāgovindena ca brahmunā ca vuttoyeva.
Sau khi từ bỏ trạng thái chấp là của ta ở nhân loại: sau khi từ bỏ tham ái là dụng cụ giữ lấy rằng ‘đây là của ta, đây là của ta.” Ở nhân loại: trong nhóm chúng sanh, tức là bất kỳ một người nào trong nhóm người nhân loại đã từ bỏ trạng thái là của ta. Người có trạng thái cô độc: chỉ có một mình, có nghĩa là đứng một mình, ngồi một mình. Trong trường hợp này, nghĩa của lời nói “người có trạng thái độc cư” vì có một mình, nổi bật lên, tiếp diễn, người có trạng thái độc cư vì là người như thế đó. Thiên về tâm bi mẫn: Thiên về thiền phối hợp với tâm bi mẫn, có nghĩa là làm cho thiền ấy sanh khởi. Không có mùi ô nhiễm: không có mùi hôi thối. Trụ ở đây: là vững trú trong những Pháp này. Và học tập ở đây: là đang học tập trong những Pháp này. Ở đây, điều này là phần tóm tắt, còn phần giảng giải chi tiết Mahāgovinda và Phạm Thiên đã được nói ở trên.
- Tattha ete avidvāti ete āmagandhe ahaṃ avidvā, na jānāmīti attho. Idha brūhi dhīrāti te[34] me tvaṃ idha dhīra paṇḍita, brūhi, vada. Kenāvaṭā vāti pajā kurutūti katamena kilesāvaraṇena āvaritā pajā pūtikā vāyati. Āpāyikāti apāyūpagā. Nivutabrahmalokāti nivuto pihito brahmaloko assāti nivutabrahmaloko. Katamena kilesena pajāya brahmalokūpago maggo nivuto pihito paṭicchannoti pucchati.
Trong những câu ấy, không biết các thứ này: có nghĩa là tôi không biết, không hiểu những mùi ô nhiễm này. Thưa bậc sáng trí, xin ngài hãy nói ở đây: bậc sáng trí là bậc sáng suốt bởi nguyên nhân ấy ngài hãy nói, hãy trình này cho tôi ở đây. Bị bao bọc bởi cái gì, loài người bốc mùi, hôi thối: loài người bị cái gì che lấp, là phiền não như thế nào bao bọc lại mới bốc mùi hôi thối. Sẽ đi đến đọa xứ: là những chúng sanh đi đến khổ cảnh. Thế giới Phạm Thiên bị ngăn chặn: Thế giới Phạm Thiên bị ngăn chặn bởi vì thế giới Phạm Thiên của kẻ ấy bị bao trùm, tức là đã bị đóng lại. Mahākovinda hỏi rằng: loài người bị loại phiền não gì bao trùm, tức là ngăn chặn, đóng lại con đường dẫn đến thế giới của Phạm Thiên?
Kodho mosavajjaṃ nikati ca dubbhoti kujjhanalakkhaṇo kodho ca, paravisaṃvādanalakkhaṇo musāvādo ca, sadisaṃ dassetvā vañcanalakkhaṇā nikati ca, mittadubbhanalakkhaṇo dubbho ca. Kadariyatā atimāno usūyāti thaddhamacchariyalakkhaṇā kadariyatā ca, atikkamitvā maññanalakkhaṇo atimāno ca, parasampattikhīyanalakkhaṇā usūyā ca. Icchā vivicchā paraheṭhanā cāti[35] taṇhālakkhaṇā icchā ca, macchariyalakkhaṇā vivicchā ca, vihiṃsālakkhaṇā paraheṭhanā ca. Lobho ca doso ca mado ca mohoti yattha katthaci lubbhanalakkhaṇo lobho ca, dussanalakkhaṇo doso ca, majjanalakkhaṇo mado ca, muyhanalakkhaṇo moho ca. Etesu yuttā anirāmagandhāti etesu cuddasasu kilesesu yuttā pajā nirāmagandhā na hoti, āmagandhā sakuṇapagandhā pūtigandhāyevāti vadati. Āpāyikā nivutabrahmalokāti esā pana āpāyikā ceva hoti, paṭicchannabrahmalokamaggā cāti. Idaṃ pana suttaṃ kathentena āmagandhasuttena dīpetvā kathetabbaṃ, āmagandhasuttampi iminā dīpetvā kathetabbaṃ.
– (Đại Phạm Thiên đáp) sự giận dữ, lời nói giả dối, sự gian lận, và gây tổn thương: sự giận dữ có sân hận là tướng trạng, lời nói giả dối có sự dối trá với người khác là tướng trạng, sự gian lận có việc thể hiện sự vật giống nhau rồi lừa gạt là tướng trạng, và gây tổn thương có sự gây tổn hại đến bạn bè là tướng trạng. Tính chất keo kiệt, ngã mạn thái quá, sự ganh tỵ: tính chất keo kiệt có sự ương ngạnh và sự bỏn xẻn là tướng trạng, ngã mạn thái quá có sự gièm pha rồi miệt thị là tướng trạng, và sự ganh tỵ có sự cạn kiệt tài sản của người khác là tướng trạng. Sự ham muốn, hoài nghi, và quấy rối người khác: sự ham muốn có tham ái là tướng trạng, lòng ghen tị có sự bỏn xẻn là tướng trạng, và quấy rối người khác có sự làm tổn hại là tướng trạng. Tham lam, sân hận, say đắm, và si mê: Tham lam có sự tham lam bất cứ thứ gì là tướng trạng, sân hận có sự dữ tợn là tướng trạng, sự say đắm có sự mê đắm là tướng trạng, và si mê có sự làm u mê là tướng trạng. Những kẻ bị trói buộc vào các thứ này không thể không có mùi ô nhiễm: các chúng sanh bị trói buộc vào mười bốn loại phiền não này không thể không có mùi ô nhiễm, Đại Phạm Thiên nói rằng: là người có mùi ô nhiễm, có mùi xác chết, có mùi hôi thối. (Sẽ) đi đến đọa xứ, thế giới Phạm Thiên bị ngăn chặn: hơn nữa, những chúng sanh này là chúng sanh đọa xứ và là những người bị đóng lại con đường đến thế giới Phạm Thiên, và hơn nữa vị đã thuyết bài Kinh này có thể giải thích rõ ràng với bài Kinh Āmagandha, thậm chí bài Kinh Āmagandha cũng có thể giải thích rõ ràng bằng bài Kinh này.
Te na sunimmadayāti te āmagandhā sunimmadayā sukhena nimmadetabbā pahātabbā na honti, duppajahā dujjayāti attho. Yassa dāni bhavaṃ govindo kālaṃ maññatīti ‘‘yassā pabbajjāya bhavaṃ govindo kālaṃ maññati, ayameva hotu, evaṃ sati mayhampi tava santike āgamanaṃ svāgamanaṃ bhavissati, kathitadhammakathā sukathitā bhavissati, tvaṃ tāta sakalajambudīpe aggapuriso daharo paṭhamavaye ṭhito, evaṃ mahantaṃ nāma sampattisirivilāsaṃ pahāya tava pabbajanaṃ nāma gandhahatthino ayabandhanaṃ chinditvā gamanaṃ viya atiuḷāraṃ, buddhatanti nāmesā’’ti mahāpurisassa daḷhīkammaṃ katvā brahmā sanaṅkumāro brahmalokameva gato.
(Khi ngài nói về các mùi ô nhiễm) theo như tôi hiểu thì chúng không dễ gì bị khuất phục bởi người sống tại gia: các mùi ô nhiễm ấy không phải là những thứ có thể khuất phục một cách dễ dàng, không phải là những thứ có thể khuất phục được một cách thuận tiện, tức là không phải là những thứ có thể dứt bỏ một cách dễ dàng, điều này có nghĩa là rất khó để dứt bỏ, là việc khó khăn để dứt bỏ. Ngài Govinda hãy suy nghĩ bây giờ là thời điểm của việc gì: “Ngài Govinda hãy suy nghĩ bây giờ là thời gian cho việc xuất gia nào, chính việc xuất gia này hãy thành hiện thực, chính vì như thế, việc đến trú xứ của ngài (và) luôn cả ta cũng sẽ là việc đến tốt đẹp, những lời nói về pháp đã được nói ra cũng sẽ là những lời khéo nói. Thưa ngài, ngài là con người cao cả trong toàn bộ cõi Jampudīpa, là người trẻ tuổi ở chặng đầu của cuộc đời; việc dứt bỏ tài sản, sự vinh quang và diện mạo như vậy để xuất gia là điều vĩ đại, giống như con voi ngửi thấy mùi hương (con voi ngửi thấy mùi con voi cái) đã cắt đứt dây xích (xiềng) sắt mà đi vậy.” Sau khi đã làm công việc là sự vững chắc cho bậc Đại Nhân rằng: việc xuất gia này được gọi là bản thể của chư Phật, rồi Phạm Thiên Sanaṅkumāra đã trở về thế giới Phạm Thiên như trước.
Giảng về việc thông báo cho đức vua Reṇu
- Mahāpurisopi ‘‘mama itova nikkhamitvā pabbajanaṃ nāma na yuttaṃ, ahaṃ rājakulassa atthaṃ anusāsāmi, tasmā rañño ārocessāmi. Sace sopi pabbajissati, sundarameva. No ce pabbajissati, purohitaṭṭhānaṃ niyyātetvā ahaṃ pabbajissāmī’’ti cintetvā rājānaṃ upasaṅkami, tena vuttaṃ – ‘‘atha kho bho mahāgovindo,…pe… nāhaṃ porohacce rame’’ti.
Ngay cả bậc Đại Nhân cũng nghĩ rằng: “việc ta rời khỏi đây để xuất gia là không thích hợp, ta nên chỉ bảo ý nghĩa cho các vị hoàng tộc. Vì vậy, ta sẽ tâu trình với đức vua, nếu như ngài đồng ý sẽ xuất gia cùng thì thật là tốt đẹp. Nếu như (ngài) sẽ không xuất gia, ta sẽ trao trả chức vị quân sư rồi ta sẽ đi xuất gia.” Nghĩ như vậy rồi, bậc Đại Nhân đến yết kiến đức vua. Vì lý do đó, ngài mới nói rằng: “Sau đó, thưa các ngài Bà-la-môn Mahāgovinda, …nt… thần không hứng thú vai trò quân sư.”
Tattha tvaṃ pajānassu rajjenāti tava rajjena tvameva jānāhi. Nāhaṃ porohicce rameti ahaṃ purohitabhāve na ramāmi, ukkaṇṭhitosmi, aññaṃ anusāsakaṃ jānāhi, nāhaṃ porohicce rameti.
Trong các câu đó, ngài hãy biết rõ về vương quốc: Chính ngài hãy chịu trách nhiệm với vương quốc của ngài. Thần không hứng thú vai trò quân sư: Thần không hứng thú trong bản thể vị quân sư, thần đã nhàm chán, xin ngài hãy tìm kiếm một vị quân sư khác đến làm người chỉ bảo, thần không còn hứng thú vai trò quân sư nữa.
Atha rājā – ‘‘dhuvaṃ cattāro māse paṭisallīnassa brāhmaṇassa gehe bhogā mandā jātā’’ti cintetvā dhanena nimantento – ‘‘sace te ūnaṃ kāmehi. Ahaṃ paripūrayāmi te’’ti vatvā puna – ‘‘kinnu kho esa ekako viharanto kenaci vihiṃsito bhaveyyā’’ti cintetvā,
‘‘Yo taṃ hiṃsati vāremi, bhūmisenāpati ahaṃ;
Tuvaṃ pitā ahaṃ putto, mā no govinda pājahī’’ti. – Aha.
Khi đó, đức vua suy nghĩ rằng – “tài sản trong nhà của một vị Bà-la-môn trong lúc sống độc cư thiền tịnh bốn tháng chắc hẳn rất ít ỏi.” Vì vậy, đức vua đã mời với của cải và nói rằng – “Nếu khanh có sự thiếu thốn về các dục, trẫm chu cấp đầy đủ cho khanh.” Sau đó, đức vua lại suy nghĩ rằng: – “Liệu vị Bà-la-môn này sống một mình có thể có ai hãm hại chăng?” nên đã hỏi rằng:
Ai hãm hại khanh, là chỉ huy quân đội của lãnh thổ, trẫm (sẽ) ngăn cản.
Khanh là cha, trẫm là con, này Govinda, khanh chớ bỏ rơi chúng tôi.
Tassattho – yo taṃ hiṃsati, taṃ vāremi, kevalaṃ tumhe ‘‘asuko’’ti ācikkhatha, ahamettha kattabbaṃ jānissāmīti. Bhūmisenāpati ahanti atha vā ahaṃ pathaviyā sāmī, svāhaṃ imaṃ rajjaṃ tumheyeva paṭicchāpessāmi. Tuvaṃ pitā ahaṃ puttoti tvaṃ pitiṭṭhāne ṭhassasi, ahaṃ puttaṭṭhāne. So tvaṃ mama manaṃ haritvā attanoyeva manaṃ[36] govinda, pājehi[37]; yathā icchasi tathā pavattassu. Ahaṃ pana tava manaṃyeva anuvattanto tayā dinnapiṇḍaṃ paribhuñjanto taṃ asicammahattho vā upaṭṭhahissāmi, rathaṃ vā te pājessāmi. ‘‘Mā no govinda, pajahī’’ti vā pāṭho . Tassattho – tvaṃ pitiṭṭhāne tiṭṭha, ahaṃ puttaṭṭhāne ṭhassāmi. Mā no tvaṃ bho govinda, pajahi, mā pariccajīti. Atha mahāpuriso yaṃ rājā cintesi, tassa attani abhāvaṃ dassento –
‘‘Na matthi ūnaṃ kāmehi, hiṃsitā me na vijjati;
Amanussavaco sutvā, tasmāhaṃ na gahe rame’’ti. – Āha.
Ý nghĩa của kệ ngôn ấy – Ai hãm hại khanh, trẫm sẽ ngăn cản, chỉ cần khanh nói rằng “người đó”, trẫm sẽ biết cần phải làm gì trong trường hợp đó. Trẫm là chỉ huy quân đội của lãnh thổ: Hoặc hơn nữa, trẫm là chủ nhân của quả địa cầu này, chỉ có trẫm ấy sẽ ban cho khanh trị vì vương quốc này. Khanh là cha, trẫm là con: Khanh giữ vai trò là cha, trẫm giữ vai trò là con. Khanh đã đưa chính tâm trí của trẫm về phía của khanh ấy, Govinda! Xin khanh chớ bỏ rơi chúng tôi; Khanh mong mỏi như thế nào hãy làm theo như thế ấy. Còn trẫm sẽ hoàn toàn làm theo ý của khanh, trẫm sẽ ăn thức ăn mà khanh cho, có tay cầm kiếm và khiên để phục vụ khanh hoặc lái xe cho khanh. Hoặc Pāḷi rằng “Này Govinda, khanh chớ bỏ bỏ rơi chúng tôi.” Ý nghĩa của câu đó – Khanh sẽ giữ vai trò là cha, trẫm sẽ giữ vai trò là con. Này khanh Govinda! Khanh chớ bỏ rơi, chó từ bỏ chúng tôi. Lúc đó, bậc Đại Nhân chỉ ra những điều mà đức vua nghĩ không tồn tại trong bản ngã, nên đã nói rằng –
“Đối với thần không có sự thiếu thốn về các dục, và người hãm hại thần cũng không có. Sau khi nghe lời nói của vị phi nhân, từ đó, thần không hứng thú sống tại gia.”
Tattha na matthīti na me atthi. Gaheti gehe. Atha naṃ rājā pucchi –
‘‘Amanusso kathaṃ vaṇṇo, kiṃ te atthaṃ abhāsatha;
Yañca sutvā jahāsi no, gehe amhe ca kevalī’’ti[38].
Tattha jahāsi no, gehe amhe ca kevalīti brāhmaṇassa sampattibharite gehe saṅgahavasena attano gehe karonto yaṃ sutvā amhākaṃ gehe ca amhe ca kevalī[39] sabbe aparisese jambudīpavāsino jahāsīti vadati.
Trong các câu ấy, của thần không có: không có đối với thần. Tại gia: ở nhà. Khi đó đức vua đã hỏi Govinda rằng –
‘Vị phi nhân có sắc tướng thế nào, đã nói với khanh lợi ích gì? Và sau khi nghe điều ấy, khanh từ bỏ các gia đình của chúng tôi và toàn bộ chúng tôi.’
Trong các câu ấy, từ bỏ các gia đình của chúng tôi và toàn bộ chúng tôi: đức vua trong khi xây dựng hoàng cung của mình nhờ quyền lực đã gom cả những ngôi nhà của Bà-la-môn có đầy đủ tài sản. Vì vậy, đức vua nói rằng: Sau khi nghe điều ấy, khanh từ bỏ các gia đình của chúng tôi, toàn bộ chúng tôi và toàn thể dân chúng cư ngụ ở xứ Jambudīpa không có dư sót.
Athassa ācikkhanto mahāpuriso upavutthassa me pubbetiādimāha. Tattha upavutthassāti cattāro māse ekībhāvaṃ upagantvā vutthassa. Yiṭṭhakāmassa me satoti yajitukāmassa me samānassa. Aggi pajjalito āsi, kusapattaparitthatoti kusapattehi paritthato sappidadhimadhuādīni pakkhipitvā aggi jalayitumāraddho āsi, evaṃ aggiṃ jāletvā ‘‘mahājanassa dānaṃ dassāmī’’ti evaṃ cintetvā ṭhitassa mamāti ayamettha attho.
Sau đó, trong khi bậc Đại Nhân trình bày cùng đức vua đã nói rằng: Trước đây thần đã vào cư ngụ. Ở đó, ‘đã vào cư ngụ’ có nghĩa là đã đi đến bản thể đơn độc rồi an trú suốt bốn tháng. Khi thần có sự mong muốn hiến dâng: Thần là người có sự mong muốn làm lễ cúng tế. Ngọn lửa của thần đã được cháy sáng, đã được trải đều các lá cỏ kusa: Ở đây, điều này có nghĩa là thần đứng suy nghĩ rằng: “Sau khi đặt ngọn lửa đã được trải đều bằng các lá cỏ kusa rồi thêm bơ, sữa chua, mật ong, v.v. vào, đã bắt đầu cháy sáng, sau khi thắp sáng ngọn lửa như vậy “thần sẽ bố thí cho đám đông dân chúng.”
Sanantanoti sanaṅkumāro brahmā. Tato rājā sayampi pabbajitukāmo hutvā saddahāmītiādimāha. Tattha kathaṃ vattetha aññathāti kathaṃ tumhe aññathā vattissatha. Te taṃ anuvattissāmāti te mayampi tumheyeva anuvattissāma, anupabbajissāmāti attho. ‘‘Anuvajissāmā’’tipi pāṭho, tassa anugacchissāmāti attho. Akācoti nikkāco akakkaso. Govindassānusāsaneti tava govindassa sāsane. Bhavantaṃ govindameva satthāraṃ karitvā carissāmāti vadati.
Vị Phạm Thiên vĩnh hằng: Phạm Thiên Sanaṅkumāra. Khi đó, ngay cả chính đức vua cũng đã là người có mong muốn xuất gia nên đã nói rằng: ‘Trẫm tin tưởng khanh…” Trong số những câu đó, làm sao khanh có thể thực hiện theo cách khác: Làm sao khanh sẽ thực hiện theo cách khác được? Chúng tôi sẽ thực hành theo việc ấy của khanh: Chúng tôi ấy sẽ thực hiện theo, có nghĩa là sẽ xuất gia theo khanh. Pāḷi “Anuvajissāma” cũng có, ý nghĩa của Pāḷi ấy là “sẽ đi theo”. Không tỳ vết: không có tỳ vết, không thô nhám. Theo sự chỉ bảo của ngài Govinda: theo lời chỉ bảo của ngài Govinda. Đức vua nói rằng: Sau khi làm cho chính ngài Govinda trở thành bậc Đạo Sư thì chúng tôi sẽ thực hành theo.
Giảng về chuyện Govinda đến gặp sáu vị Sát-đế-lỵ
- 322. Yenate cha khattiyā tenupasaṅkamīti reṇuṃ rājānaṃ ‘‘sādhu mahārāja rajjaṃ nāma mātaraṃ pitaraṃ bhātibhaginīādayopi māretvā gaṇhantesu sattesu evaṃ mahantaṃ rajjasiriṃ pahāya pabbajitukāmena uḷāraṃ mahārājena kata’’nti upatthambhetvā daḷhataramassa ussāhaṃ katvā upasaṅkami. Evaṃ samacintesunti rañño cintitanayeneva kadāci brāhmaṇassa bhogā parihīnā bhaveyyunti maññamānā samacintesuṃ. Dhanena sikkheyyāmāti upalāpeyyāma saṅgaṇheyyāma. Tāvatakaṃ āharīyatanti tāvatakaṃ āharāpiyatu gaṇhiyatu, yattakaṃ icchatha, tattakaṃ gaṇhathāti vuttaṃ hoti. Bhavantānaṃyeva vāhasāti bhavante paccayaṃ katvā, tumhehi dinnattāyeva pahūtaṃ sāpateyyaṃ jātaṃ.
Bà-la-môn Mahāgovinda đã đi đến gặp sáu vị Sát-đế-lỵ ấy…: Govinda đã ủng hộ đức vua Reṇu rằng: “Tốt đẹp thay, thưa Đại Vương! Trong khi các chúng sanh giết mẹ, cha, anh em trai, hoặc cả chị em gái, v.v, để chiếm lấy vương quyền (nhưng) ngài lại có ý muốn từ bỏ vương quyền và sự vinh quang to lớn như vậy ra đi xuất gia (điều đó được xem là) đã thực hiện một việc vô cùng vĩ đại,” để làm cho lòng quyết tâm của ngài được kiên cố, nên mới đến gặp. Đã đồng suy nghĩ như vậy: Sáu vị Sát-đế-lỵ nghĩ rằng: có lẽ toàn bộ tài sản của người Bà-la-môn đã suy giảm, vì vậy, họ đã có cùng suy nghĩ giống như cách mà nhà vua đã suy nghĩ. Chúng ta nên cám dỗ Bà-la-môn Mahāgovinda bằng tài sản: chúng ta nên giúp đỡ, nên hỗ trợ. Hãy đem đến chừng này: Có thể cho đem đến, có thể cầm lấy chừng này; ngài giải thích rằng: nhu cầu của ngài chừng nào thì có thể lấy chừng ấy. Thần cũng có vô số của cải này nhờ vào chính các vị: Vô số tài sản đã phát sanh nhờ vào chính sự ban cho của các ngài, đã làm điều kiện cho thần. - Sace jahatha kāmānīti sace vatthukāme ca kilesakāme ca pariccajatha. Yattha satto puthujjanoti yesu kāmesu puthujjano satto laggo laggito. Ārambhavho daḷhā hothāti evaṃ sante vīriyaṃ ārabhatha, asithilaparakkamataṃ adhiṭṭhāya daḷhā bhavatha. Khantībalasamāhitāti khantibalena samannāgatā bhavathāti rājūnaṃ ussāhaṃ janeti.
Nếu ngài dứt bỏ các dục: Nếu như các ngài dứt bỏ vật dục và phiền não dục được. Là nơi phàm phu bị dính mắc: Hạng phàm phu bị máng vào, bị vướng vào trong các dục nào đó. Ngài hãy nỗ lực, hãy vững chãi: Nếu như vậy xin các ngài hãy nỗ lực bằng tinh tấn, hãy thiết lập sự bền chí thật kiên cố, hãy là người vững chãi. Hãy hội đủ năng lực nhẫn nại: Govinda gieo sự nỗ lực cho sanh lên nơi các vị vua rằng: “Mong các ngài hãy hội đủ năng lực nhẫn nại.”
Esa maggo ujumaggoti esa karuṇājhānamaggo ujumaggo nāma. Esa maggo anuttaroti eseva brahmalokūpapattiyā asadisamaggo uttamamaggo nāma. Saddhammo sabbhi rakkhitoti eso eva ca buddhapaccekabuddhasāvakehi sabbhirakkhitadhammo nāma. Iti karuṇājhānassa vaṇṇabhaṇanenāpi tesaṃ anivattanatthāya daḷhīkammameva karoti.
Đạo lộ ấy là đạo lộ ngay thẳng: Đạo lộ của thiền phối hợp với tâm bi mẫn ấy gọi là đạo lộ ngay thẳng. Đạo lộ ấy là vô thượng: chính đạo lộ ấy gọi là đạo lộ vô thượng không có đạo lộ nào khác giống (với đạo lộ đó) để đưa đến thế giới Phạm Thiên. Là Chánh Pháp, được gìn giữ bởi các bậc đức hạnh: Chính Chánh Pháp ấy gọi là Pháp được gìn giữ bởi các bậc đức hạnh là chư Phật, chư Phật Độc Giác, và chư Thánh Thinh văn. Govinda thực hiện lời nói ấy để trở thành hành động vững chãi nhằm mục đích không quay trở lại (bản thể) của các vị vua đó, ngay cả với việc giảng giải thiền phối hợp tâm bi mẫn là như vậy.
Ko nu kho pana bho jānāti jīvitānanti bho jīvitaṃ nāma udakapupphuḷūpamaṃ[40] tiṇagge ussāvabindūpamaṃ taṅkhaṇaviddhaṃsanadhammaṃ, tassa ko gatiṃ jānāti, kismiṃ khaṇe bhijjissati? Gamanīyo samparāyoti paraloko pana avassaṃ gantabbova, tattha paṇḍitena kulaputtena mantāyaṃ boddhabbaṃ. Mantā vuccati paññā, tāya mantetabbaṃ bujjhitabbaṃ, upaparikkhitabbañca jānitabbañcāti attho. Karaṇatthe vā bhummaṃ. Mantāyaṃ boddhabbanti mantāya bujjhitabbaṃ, ñāṇena jānitabbanti attho. Kiṃ bujjhitabbaṃ? Jīvitassa dujjānatā, samparāyassa ca avassaṃ gamanīyatā, bujjhitvā ca pana sabbapalibodhe chinditvā kattabbaṃ kusalaṃ caritabbaṃ brahmacariyaṃ. Kasmā? Yasmā natthi jātassa amaraṇaṃ.
Hơn nữa, thưa các vị, ai có thể biết được về các mạng sống: Thưa các vị! Được gọi là mạng sống, nó cũng giống như bọt nước, giống như giọt sương ở trên ngọn cỏ, có sự tan biến trong mỗi khoảnh khắc là quy luật, thì ai có thể biết được cảnh giới tái sanh của các mạng sống ấy nó sẽ bị tan rã trong lúc nào. Đời sau rồi sẽ đến: Hơn nữa, đời sau là chắc chắn phải đến, do đó, những người con trai gia đình danh giá là bậc sáng trí cần được giác ngộ bằng tuệ trong vấn đề đó, giải thích rằng: ở tuệ (mañtā) được gọi là tuệ (paññā), cần được tham khảo ý kiến, cần được thấu rõ, cần được suy ngẫm và cần được biết ở tuệ đó. Hoặc từ “mantāya” là định sở cách trong ý nghĩa sở dụng cách. Cần được giác ngộ ở tuệ: cần được thấu rõ ở tuệ, có nghĩa là cần được nhận biết bằng trí. Cần thấu rõ điều gì? Cần thấu rõ trạng thái khó biết của mạng sống và đời sau chắc chắn sẽ đến, và hơn nữa sau khi thấu rõ cũng cần cắt bỏ mọi sự rối rắm rồi nên làm việc thiện, nên thực hành Phạm Hạnh. Tại sao? Bởi vì người đã sanh ra mà không chết (điều đó) dĩ nhiên không có.
Giảng về việc thông báo cho các Bà-la-môn có thế lực và v.v…
- Appesakkhā ca appalābhā cāti bho pabbajjā nāma appayasā ceva, pabbajitakālato paṭṭhāya hi rajjaṃ pahāya pabbajitaṃ viheṭhetvā viheṭhetvā lāmakaṃ anāthaṃ katvāva kathenti. Appalābhā ca, sakalagāmaṃ caritvāpi ajjhoharaṇīyaṃ dullabhameva. Idaṃ pana brahmaññaṃmahesakkhañca mahāyasattā, mahālābhañca lābhasakkārasampannattā. Bhavañhi etarahi sakalajambudīpe aggapurohito sabbattha aggāsanaṃ aggodakaṃ aggabhattaṃ aggagandhaṃ aggamālaṃ labhatīti.
Có ít uy lực và ít lợi lộc: (các Bà-la-môn có thế lực và đức vua Reṇu nói rằng) thưa các vị! Thường thì việc xuất gia được coi là có ít tiếng tăm, bởi vì người đã đem lại sự nhiễu hại hết lần này đến lần khác, đã từ bỏ vương quyền để xuất gia, kể từ thời điểm xuất gia đó thường bị cho là thấp hèn và không có nơi nương tựa, và được coi là có ít lợi lộc, vì dù đi khắp làng mạc cũng khó tìm kiếm được thức ăn. Còn đời sống Bà-la-môn này có nhiều uy lực và được xem là có tiếng tăm lớn lao, và nhiều lợi lộc bởi trạng thái vị đã thành tựu lợi đắc và sự cung kính lớn lao. Ở đây, ngài là vị cố vấn hàng đầu ở toàn cõi Jampudīpa, ở bất cứ nơi đâu, ở bất cứ chỗ nào cũng được ngồi chỗ ngồi tốt nhất, nước uống ngon nhất, thức ăn hảo hạng nhất, hương thơm thơm nhất, bông hoa đẹp nhất.
Rājāva raññanti ahañhi bho etarahi pakatiraññaṃ majjhe cakkavattirājā viya. Brahmāva brahmānanti pakatibrahmānaṃ majjhe mahābrahmasadiso. Devatāva gahapatikānanti avasesagahapatikānaṃ panamhi sakkadevarājasadiso.
Như là vua của các vị vua: Thưa các vị! Hiện giờ tôi như là vị Chuyển Luân Vương ở giữa các vị vua bình thường. Như là Phạm Thiên của các Bà-la-môn: giống như là vị Đại Phạm Thiên ở giữa các vị Bà-la-môn bình thường. Như là vị Thiên nhân của các gia chủ: Vả lại, tôi giống như là thiên chủ Sakka của các gia chủ còn lại.
Giảng về việc thông báo cho các người vợ
- Cattārīsā bhariyā sādisiyoti sādisiyova cattārīsā bhariyā, aññā panassa tīsu vayesu nāṭakitthiyo bahukāyeva.
(Đã đi đến gặp) bốn mươi người vợ cùng giai cấp: Chỉ có bốn mươi người vợ có cùng dòng dõi và cùng giai cấp, còn những nữ vũ công ở ba thời kỳ khác của Govinda thì rất nhiều.
Giảng về sự xuất gia của Mahāgovinda
- 326. Cārikaṃ caratīti gāmanigamapaṭipāṭiyā cārikaṃ carati, gatagataṭṭhāne buddhakolāhalaṃ viya hoti. Manussā ‘‘mahāgovindapaṇḍito kira āgacchatī’’ti sutvā puretarameva maṇḍapaṃ kāretvā maggaṃ alaṅkaritvā paccuggantvā gaṇhitvā enti, mahālābhasakkāro mahogho viya ajjhottharanto uppajji. Sattapurohitassāti sattannaṃ rājūnaṃ purohitassa. Iti yathā etarahi evarūpesu vā ṭhānesu kismiñcideva dukkhe uppanne ‘‘namo buddhassā’’ti vadanti, evaṃ tadā ‘‘namatthu mahāgovindassa brāhmaṇassa, namatthu sattapurohitassā’’ti vadanti.
Đi du hành: Govinda đi du hành ở các ngôi làng và thị trấn, ở mọi nơi vị ấy đi và đến đều có sự náo nhiệt giống như sự náo nhiệt của đức Phật. Mọi người khi nghe được rằng: “Được biết vị sáng suốt Govinda đang đến,” (mọi người) đã dựng mái che đợi sẵn trước, đã trang hoàng đường xá, đã đi ra đón rước và đã dẫn đến, lợi đắc và sự tôn kính lớn lao đã được sanh khởi tựa như dòng nước lớn chảy tràn ngập. (Hãy kính lễ đến) vị quân sư của bảy vị vua!: vị quân sư của bảy vị vua. Khi đó, mọi người nói rằng: “hãy kính lễ đến vị Bà-la-môn Mahāgovinda, hãy kính lễ đến vị quân sự của bảy vị vua,” giống như hiện nay, khi gặp bất kỳ khổ sở gì đã được khởi sanh ở trường hợp có hình thức như vậy, (mọi người) nói rằng: “Đảnh lễ đến đức Phật,” là như thế. - Mettāsahagatenātiādinā nayena pāḷiyaṃ brahmavihārāva āgatā, mahāpuriso pana sabbāpi aṭṭha samāpattiyo ca pañca ca abhiññāyo nibbattesi. Sāvakānañca brahmalokasahabyatāya maggaṃ desesīti brahmaloke brahmunā sahabhāvāya maggaṃ kathesi.
Phạm Trú đã đến trong Pāḷi theo phương cách được bắt đầu như sau: “Tâm câu hữu với từ”, hơn nữa bậc Đại Nhân đã làm cho tám thiền chứng và năm thắng trí được sanh khởi cho đến trọn vẹn. Ta đã chỉ bảo cho các đệ tử ấy đạo lộ đưa đến trạng thái làm bạn với thế giới Phạm Thiên: đã nói về đạo lộ đưa đến trạng thái làm bạn với thế giới Phạm Thiện. - Sabbenasabbanti ye aṭṭha ca samāpattiyo pañca ca abhiññāyo nibbattesuṃ. Ye na sabbena sabbaṃ sāsanaṃ ājāniṃsūti ye aṭṭhasu samāpattīsu ekasamāpattimpi na jāniṃsu, na sakkhiṃsu nibbattetuṃ. Amoghāti savipākā. Avañjhāti na vañjhā. Sabbanihīnaṃ pasavanti gandhabbakāyaṃ pasavi. Saphalāti avasesadevalokūpapattīhi sātthā. Saudrayāti brahmalokūpapattiyā savuḍḍhi.
(Đã hiểu được) toàn bộ (Giáo Lý) theo tổng thể: những vị nào thực hành tám thiền chứng và năm thắng trí làm cho sanh khởi. Những vị nào không hiểu được toàn bộ giáo lý theo tổng thể: những vị nào không biết, không thể làm cho dù chỉ một thiền chứng trong số tám thiền chứng sanh khởi. Không rỗng không: có kết quả. Không vô ích: không phải là vô ích. Đã làm đông thêm tập thể thấp kém nhất: (tức là) đã sinh ra tập thể Gandhabba. Có kết quả: Có lợi ích đưa đến sự tái sanh về các cõi trời còn lại. Có lợi nhuận: có sự phát triển đưa đến sự tái sanh về thế giới Phạm Thiên. - Sarāmahanti sarāmi ahaṃ pañcasikha, iminā kira padena ayaṃ suttanto buddhabhāsito nāma jāto. Na nibbidāyāti na vaṭṭe nibbindanatthāya. Na virāgāyāti na vaṭṭe virāgatthāya. Na nirodhāyāti na vaṭṭassa nirodhatthāya. Na upasamāyāti na vaṭṭassa upasamanatthāya. Na abhiññāyāti na vaṭṭaṃ abhijānanatthāya. Na sambodhāyāti na kilesaniddāvigamena vaṭṭato pabujjhanatthāya. Na nibbānāyāti na amatanibbānatthāya.
Ta vẫn còn nhớ: Pañcasikkhā, ta vẫn còn nhớ, được biết rằng: do câu này (mà) bài Kinh này mới được gọi tên là lời dạy của đức Phật. Không đưa đến sự nhàm chán: không đưa đến lợi ích cho sự nhàm chán trong vòng luân hồi. Không đưa đến việc xa lìa luyến ái: không đưa đến lợi ích cho việc xa lìa luyến ái trong vòng luân hồi. Không đưa đến sự diệt tận: không đưa đến lợi ích cho sự diệt tận luân hồi. Không đưa đến sự tịch tịnh: Không đưa đến lợi ích cho sự tịch tịnh trong luân hồi. Không đưa đến thắng trí: Không đưa đến lợi ích cho sự biết thấu đáo trong luân hồi. Không đưa đến sự giác ngộ: Không đưa đến lợi ích cho sự giác ngộ từ luân hồi do nhờ thoát khỏi sự ngủ trong phiền não. Không đưa đến Niết Bàn: Không đưa đến lợi ích bất tử Niết Bàn.
Ekantanibbidāyāti ekantameva vaṭṭe nibbindanatthāya. Ettha pana nibbidāyāti vipassanā. Virāgāyāti maggo. Nirodhāya upasamāyāti nibbānaṃ. Abhiññāya sambodhāyāti maggo. Nibbānāyāti nibbānameva. Evaṃ ekasmiṃ ṭhāne vipassanā, tīsu maggo, tīsu nibbānaṃ vuttanti evaṃ vavatthānakathā[41] veditabbā. Pariyāyena pana sabbānipetāni maggavevacanānipi nibbānavevacanānipi hontiyeva. Sammādiṭṭhiādīsu yaṃ vattabbaṃ, taṃ visuddhimagge saccavaṇṇanāyaṃ vuttameva.
Đưa đến sự nhàm chán hoàn toàn: Đưa đến lợi ích cho sự nhàm chán hoàn toàn trong luân hồi. Hơn nữa, ở đây đưa đến sự nhàm chán: gồm minh sát. Đưa đến việc xa lìa luyến ái: gồm Đạo. Đưa đến sự diệt tận, đưa đến sự tịch tịnh: gồm Niết Bàn. Đưa đến thắng trí, đưa đến sự giác ngộ: Đạo. Đưa đến Niết Bàn: cũng chính là Niết Bàn. Với cách này, có thể hiểu lời nói thoát khỏi vòng luân hồi như vầy: ngài đã nói đến Minh Sát ở một trường hợp, Đạo ba trường hợp, và Niết Bàn ba trường hợp. Hơn nữa, từ sử dụng thay thế cho Đạo, hay từ sử dụng thay thế Niết Bàn, thì tất cả những điều này đều có theo cách này. Những từ cần nói trong câu được bắt đầu như sau: ‘chánh kiến’ cũng đã được nói trong phần Giải Thích Về Chân Lý trong bộ Thanh Tịnh Đạo.
- Ye na sabbenasabbanti ye cattāropi ariyamagge paripūretuṃ na jānanti, tīṇi vā dve vā ekaṃ vā nibbattenti. Sabbesaṃyeva imesaṃ kulaputtānanti brahmacariyaciṇṇakulaputtānaṃ. Amoghā…pe… saphalā saudrayāti arahattanikūṭena desanaṃ niṭṭhāpesi.
Những vị nào không hiểu được toàn bộ (Giáo Lý) theo tổng thể: Những người con trai gia đình danh giá nào không biết để thực hành cả bốn Thánh Đạo, hoặc làm cho ba Đạo, hai Đạo hoặc một Đạo sanh khởi. Sự xuất gia của chính những người con trai gia đình danh giá: Đức Thế Tôn đã kết thúc thời thuyết pháp bằng đỉnh cao, đó là quả vị A-ra-hán (việc xuất gia) của những người con trai gia đình danh giá thường xuyên thực hành đời sống Phạm hạnh đã là không rỗng không …nt… có kết quả, có lợi nhuận.
Bhagavantaṃabhivādetvā padakkhiṇaṃ katvāti (dī. ni. 2.188) bhagavato dhammadesanaṃ cittena sampaṭicchanto abhinanditvā vācāya pasaṃsamāno anumoditvā mahantaṃ añjaliṃ sirasmiṃ patiṭṭhapetvā pasannalākhārase nimujjamāno viya dasabalassa chabbaṇṇarasmijālantaraṃ pavisitvā catūsu ṭhānesu vanditvā tikkhattuṃ padakkhiṇaṃ katvā bhagavantaṃ abhitthavanto abhitthavanto satthu purato antaradhāyitvā attano devalokameva agamāsīti.
Sau khi đã đảnh lễ đức Thế Tôn, hướng vai phải nhiễu quanh: Thiên tử Pañcasikkha đã tán thành thọ lãnh Pháp thoại của đức Thế Tôn bằng tâm, đã tùy hỷ rồi tán thán bằng lời nói, đã chắp tay lớn đặt lên đầu, đi vào giữa mạng lưới hào quang có sáu màu của đấng Thập Lực, giống như lặn xuống nước có màu sắc đỏ được thanh lọc, đã đảnh lễ ở bốn nơi, rồi hướng vai phải nhiễu ba vòng, trong khi tán dương và ca ngợi đức Thế Tôn, đã biến mất ngay trước mặt bậc Đạo Sư và trở về thế giới chư Thiên của mình.
Giải thích Kinh Về Mahāgovinda được kết thúc – Kinh thứ sáu (19)
Trong Chú Giải Trường Bộ Kinh là Sumaṅgalavilāsī.
[1] Samantattho (Syā)
[2] Mahāphalakāni ca (Syā)
[3] Kokāsakajāto (Syā, Ka)
[4] a. ni. 7.69
[5] Muddhivedikā (Syā)
[6] Gacchati (Syā)
[7] Sattasattakamahādānaṁ (Ka)
[8] Năm yếu tố Bồ tát xem xét trước khi đi nhập thai vào mẫu thai ở kiếp sống cuối cùng:thời gian, lục địa, đất nước, dòng tộc và việc xác định tuổi của người mẹ.
[9] saṃ. ni. 2.70
[10] mahāva. 282
[11] dha. pa. 177
[12] Dussati (Ka)
[13] Pāvāyavatthaṁ nāma (Syā)
[14] Kesaggā (Syā)
[15] Likkhā đơn vị để đo lường, trọng lượng bằng 1296 một phần tử thật nhỏ.
[16] Sabbepi (Syā)
[17] Eḷako (Syā)
[18] ma. ni. 1.503
[19] a. ni. 3.126
[20] a. ni. 3.81
[21] ma. ni. 3.201
[22] Dūbhissati (Sī)
[23] Anusāsāti (Ka)
[24] Mahesayaṁ (Ka)
[25] Socirānañca (Syā)
[26] Rorukaṁ (Syā)
[27] Bhāravāti (Syā)
[28] Tikkhattuṁ (Syā)
[29] Brāhmaṇā brāhmaṇehi (Syā)
[30] Ādimetaṁ (Syā)
[31] Madhupākañca (Syā)
[32] Vajjetvā (Ka)
[33] Karuṇādhimuttoti (Syā)
[34] Tena (Syā)
[35] Paraviheṭṭhanā cāti (Ka)
[36] Mā no (Syā, Ka)
[37] Pājahīti (Syā)
[38] Kevaleti (Syā)
[39] Kevale (Syā)
[40] Udakabubbuḷūpamaṁ (Syā)
[41] Vivaṭṭakathā (Syā)