Giải Thích Kinh Tướng Trạng
(Lakkhaṇasuttavaṇṇanā (30))Xem Trường Bộ Kinh – Kinh Tướng Trạng (Kinh Tướng)
Giảng thích việc mệnh chung của Nigaṇṭha Nātaputta
199. Evaṃme sutanti lakkhaṇasuttaṃ. Tatrāyamanuttānapadavaṇṇanā. Dvattiṃsimānīti dvattiṃsa imāni. Mahāpurisalakkhaṇānīti mahāpurisabyañjanāni mahāpurisanimittāni ‘‘ayaṃ mahāpuriso’’ti sañjānanakāraṇāni. ‘‘Yehi samannāgatassa mahāpurisassā’’tiādi mahāpadāne vitthāritanayeneva veditabbaṃ.
199. Bài Kinh Tướng Trạng bắt đầu như sau— ‘Tôi đã nghe như vầy…’ Ở đây là phần giải thích các từ ngữ chưa được giải thích – Dvattiṃsimāni tách từ thành dvattiṃsa imāni (đây là ba mươi hai). Đại nhân tướng: Những dấu hiệu của bậc đại nhân, những hiện tướng của bậc đại nhân là những điều kiện để nhận biết rằng “đây là bậc đại nhân”. Đoạn kinh được bắt đầu như sau: “Bậc đại nhân được hội đủ ba mươi hai đại nhân tướng này” nên được hiểu theo cách thức mà Tôi đã giảng giải chi tiết trong kinh Mahāpadāna.
‘‘Bāhirakāpi isayo dhārenti, no ca kho jānanti ‘imassa kammassa katattā imaṃ lakkhaṇaṃ paṭilabhatī’ti’’ kasmā āha? Aṭṭhuppattiyā anurūpattā. Idañhi suttaṃ saaṭṭhuppattikaṃ. Sā panassa aṭṭhuppatti kattha samuṭṭhitā? Antogāme manussānaṃ antare. Tadā kira sāvatthivāsino attano attano gehesu ca gehadvāresu ca santhāgārādīsu ca nisīditvā kathaṃ samuṭṭhāpesuṃ – ‘‘bhagavato asītianubyañjanāni byāmappabhā dvattiṃsamahāpurisalakkhaṇāni, yehi ca bhagavato kāyo, sabbaphāliphullo viya pāricchattako, vikasitamiva kamalavanaṃ, nānāratanavicittaṃ viya suvaṇṇatoraṇaṃ, tārāmaricivirocamiva gaganatalaṃ, ito cito ca vidhāvamānā vipphandamānā chabbaṇṇarasmiyo muñcanto ativiya sobhati. Bhagavato ca iminā nāma kammena idaṃ lakkhaṇaṃ nibbattanti kathitaṃ natthi, yāguuḷuṅkamattampi pana kaṭacchubhattamattaṃ vā pubbe dinnapaccayā evaṃ uppajjatīti bhagavatā vuttaṃ. Kiṃ nu kho satthā kammaṃ akāsi, yenassa imāni lakkhaṇāni nibbattantī’’ti.
Tại sao Ngài lại nói rằng: “Ngay cả các vị ẩn sĩ bên ngoài (Phật Giáo) có thể ghi nhớ được (ba mươi hai đại nhân tướng này của bậc đại nhân), nhưng họ lại không biết rằng ‘người đạt được các tướng này do nghiệp này đã được đích thân tạo’? Vì phù hợp với duyên khởi. Bởi vì, bài Kinh này có duyên khởi. Vậy thì, duyên khởi ấy đã bắt nguồn từ đâu?” Ở giữa những người dân trong làng. Nghe rằng, vào thời điểm đó, dân chúng sống ở thành Sāvatthī đang tụ họp và đàm luận trong các ngôi nhà, tại các cổng làng và các sảnh đường của mỗi hộ gia đình rằng— “Với ba mươi hai đại nhân tướng, cùng với tám mươi vẻ đẹp phụ của đức Thế Tôn có hào quang một sải tay bao quanh người đức Phật, và với những tướng ấy thân thể của Đức Thế Tôn tựa như cây san hô đã nở rộ toàn bộ, tựa như rừng sen đang trổ hoa, tựa như cột trụ được trang trí với vô số ngọc quý các loại, ví như bầu trời rực rỡ bởi các vì tinh tú và ánh sáng. Từ thân ấy phát ra hào quang sáu màu, đang dao động, đang lan tỏa khắp nơi vô cùng xinh đẹp. Tuy nhiên, không hề nói rằng: ‘Và các tướng này của đức Thế Tôn được sanh ra từ nghiệp này,’ mà đức Thế Tôn đã nói rằng: ‘Tướng này được sanh lên như vậy, do duyên bố thí trước đây dù chỉ một muỗng cháo nhỏ hoặc một vá cơm’. Vậy bậc Đạo Sư đã tạo nghiệp gì? (mà) các tướng này được sinh ra nơi đức Thế Tôn ấy.
Athāyasmā ānando antogāme caranto imaṃ kathāsallāpaṃ sutvā katabhattakicco vihāraṃ āgantvā satthu vattaṃ katvā vanditvā ṭhito ‘‘mayā, bhante, antogāme ekā kathā sutā’’ti āha. Tato bhagavatā ‘‘kiṃ te, ānanda, suta’’nti vutte sabbaṃ ārocesi. Satthā therassa vacanaṃ sutvā parivāretvā nisinne bhikkhū āmantetvā ‘‘dvattiṃsimāni, bhikkhave, mahāpurisassa mahāpurisalakkhaṇānī’’ti paṭipāṭiyā lakkhaṇāni dassetvā yena kammena yaṃ nibbattaṃ, tassa dassanatthaṃ evamāha.
Sau đó, Trưởng lão Ānanda trong lúc đi du hành ở trong làng, đã nghe được cuộc nói chuyện trao đổi này, Sau khi việc thọ thực hoàn tất Ngài đã trở về tu viện, sau khi làm các phận sự đối với bậc Đạo Sư, đã đảnh lễ rồi thưa rằng: “Bạch Ngài con đã nghe được một cuộc nói chuyện trao đổi ở trong làng.” Khi ấy, đức Thế Tôn hỏi rằng “Này Ānanda, ngươi đã nghe họ nói những gì? (Trưởng lão Ānanda) đã trình toàn bộ sự việc lên (đức Thế Tôn). Bậc Đạo Sư, sau khi lắng nghe lời nói của Trưởng lão, đã gọi các Tỳ khưu ngồi vây quanh, sau khi chỉ bảo về các tướng theo tuần tự – “Này các Tỳ khưu, đây là ba mươi hai đại nhân tướng của bậc đại nhân,” do bởi nghiệp nào tướng nào được sanh khởi, để chỉ rõ điều ấy nên Ngài đã nói như vậy.
Giải thích tướng trạng bàn chân đứng vững vàng
201. Purimaṃjātintiādīsu pubbe nivutthakkhandhā jātavasena ‘‘jātī’’ti vuttā. Tathā bhavanavasena ‘‘bhavo’’ti, nivutthavasena ālayaṭṭhena vā ‘‘niketo’’ti. Tiṇṇampi padānaṃ pubbe nivutthakkhandhasantāne ṭhitoti attho. Idāni yasmā taṃ khandhasantānaṃ devalokādīsupi vattati. Lakkhaṇanibbattanasamatthaṃ pana kusalakammaṃ tattha na sukaraṃ, manussabhūtasseva sukaraṃ. Tasmā yathābhūtena yaṃ kammaṃ kataṃ, taṃ dassento pubbe manussabhūto samānoti āha. Akāraṇaṃ vā etaṃ. Hatthiassamigamahiṃsavānarādibhūtopi mahāpuriso pāramiyo pūretiyeva. Yasmā pana evarūpe attabhāve ṭhitena katakammaṃ na sakkā sukhena dīpetuṃ, manussabhāve ṭhitena katakammaṃ pana sakkā sukhena dīpetuṃ. Tasmā ‘‘pubbe manussabhūto samāno’’ti āha.
201. Vào lần sanh trước, v.v, các uẩn từng nương tựa trong quá khứ, đức Thế Tôn đã nói rằng ‘kiếp sống’ do mãnh lực đã sanh. Ở đây, ‘hữu’ do mãnh lực hiện hữu, ‘nơi trú ngụ’ do mãnh lực nương tựa hoặc với ý nghĩa nơi cư ngụ. Cả ba từ ấy được giải thích rằng đã vững trú trong sự không gián đoạn của các uẩn từng nương tựa trong quá khứ. Bây giờ, bởi sự không gián đoạn của các uẩn này được vận hành kể cả ở thế giới Chư thiên, v.v. Tuy nhiên, các nghiệp thiện có khả năng khiến các tướng được sanh ra lại thực hiện không dễ dàng ở cõi đó. Chính trong bản thể con người, (tướng trạng ấy) dễ dàng được thực hiện. Vì vậy, (đức Thế Tôn) đã thực hiện nghiệp nào đúng theo thực thể, trong khi thuyết về nghiệp đó, mới nói rằng: “Như Lai, trong khi có bản thể con người ở thời quá khứ.” Tuy nhiên, điều này không phải là nguyên nhân. Thật vậy, bậc đại nhân dù có bản thể là voi, ngựa, bò, trâu, hay khỉ, v.v., cũng đều làm tròn đủ các ba-la-mật. Vả lại, nghiệp được thực hiện bởi sự vững trú trong bản thể có hình thức như thế không thể thể hiện một cách dễ dàng, nhưng nghiệp được thực hiện bởi sự vững trú trong bản thể con người có thể thể hiện một cách dễ dàng. Do đó, Ngài đã nói rằng: “Như Lai, trong khi có bản thể con người ở thời quá khứ.”
Daḷhasamādānoti thiragahaṇo. Kusalesu dhammesūti dasakusalakammapathesu. Avatthitasamādānoti niccalagahaṇo anivattitagahaṇo. Mahāsattassa hi akusalakammato aggiṃ patvā kukkuṭapattaṃ viya cittaṃ paṭikuṭati, kusalaṃ patvā vitānaṃ viya pasāriyati. Tasmā daḷhasamādāno hoti avatthitasamādāno. Na sakkā kenaci samaṇena vā brāhmaṇena vā devena vā mārena vā brahmunā vā kusalasamādānaṃ vissajjāpetuṃ.
Có sự thọ trì vững chãi: có sự nắm giữ chắc chắn. Ở các pháp thiện: Ở mười đường lối tạo nghiệp thiện (thập thiện nghiệp). Có sự thọ trì vững chắc: Có sự nắm giữ kiên cố, có sự nằm giữ không thối lui. Thật vậy, tâm của bậc đại nhân quay lưng khỏi các nghiệp bất thiện, tựa như cánh gà đã chạm phải lửa, (tâm của bậc đại nhân) khi đã đạt đến các thiện pháp thì căng ra như tấm lọng che trên bàn thờ. Do đó, Như Lai có sự thọ trì vững chãi, có sự thọ trì vững chắc. Bất cứ ai dù là Sa-môn, Bà-la-môn, Chư thiên, Ma vương hay Phạm Thiên, cũng không thể khiến Ngài buông bỏ sự thọ trì các thiện pháp.
Tatrimāni vatthūni – pubbe kira mahāpuriso kalandakayoniyaṃ nibbatti. Atha deve vuṭṭhe ogho āgantvā kulāvakaṃ gahetvā samuddameva pavesesi. Mahāpuriso ‘‘puttake nīharissāmī’’ti naṅguṭṭhaṃ temetvā temetvā samuddato udakaṃ bahi khipi. Sattame divase sakko āvajjitvā tattha āgamma ‘‘kiṃ karosī’’ti pucchi? So tassa ārocesi. Sakko mahāsamuddato udakassa dunnīharaṇīyabhāvaṃ kathesi. Bodhisatto tādisena kusītena saddhiṃ kathetumpi na vaṭṭati. ‘‘Mā idha tiṭṭhā’’ti apasāresi. Sakko ‘‘anomapurisena gahitagahaṇaṃ na sakkā vissajjāpetu’’nti tuṭṭho tassa puttake ānetvā adāsi. Mahājanakakālepi mahāsamuddaṃ taramāno ‘‘kasmā mahāsamuddaṃ tarasī’’ti devatāya puṭṭho ‘‘pāraṃ gantvā kulasantake raṭṭhe rajjaṃ gahetvā dānaṃ dātuṃ tarāmī’’ti āha. Tato devatāya – ‘‘ayaṃ mahāsamuddo gambhīro ceva puthulo ca, kadā naṃ tarissatī’’ti vutte so āha ‘‘taveso mahāsamuddasadiso, mayhaṃ pana ajjhāsayaṃ āgamma khuddakamātikā viya khāyati. Tvaṃyeva maṃ dakkhissasi samuddaṃ taritvā samuddapārato dhanaṃ āharitvā kulasantakaṃ rajjaṃ gahetvā dānaṃ dadamāna’’nti. Devatā ‘‘anomapurisena gahitagahaṇaṃ na sakkā vissajjāpetu’’nti bodhisattaṃ āliṅgetvā haritvā uyyāne nipajjāpesi. So chattaṃ ussāpetvā divase divase pañcasatasahassapariccāgaṃ katvā aparabhāge nikkhamma pabbajito. Evaṃ mahāsatto na sakkā kenaci samaṇena vā…pe… brahmunā vā kusalasamādānaṃ vissajjāpetuṃ. Tena vuttaṃ – ‘‘daḷhasamādāno ahosi kusalesu dhammesu avatthitasamādāno’’ti.
Ở đây là các câu chuyện (liên quan đến sự việc vừa nói)– Kể rằng, trong một kiếp sống quá khứ, bậc đại nhân tái sanh vào loài sóc. Lúc ấy, trời đổ mưa lớn, dòng nước lũ đã cuốn trôi tổ sóc ra biển cả. Bậc đại nhân nghĩ rằng: “Ta nhất định sẽ đưa các con nhỏ của Ta ra khỏi nơi đó bằng mọi cách.” Thế rồi, Ngài nhúng đuôi xuống biển rồi cố vẩy nước từ biển ra ngoài. Đến ngày thứ bảy, sau khi suy tư Thiên chủ Sakka liền đi đến nơi ấy, và hỏi rằng: “Ngài đang làm gì vậy?” – Bậc đại nhân liền thuật lại toàn bộ sự việc cho Thiên chủ Sakka. (Sau khi nghe xong) Thiên chủ nói về tính chất không dễ dàng để có thể lấy nước ra khỏi biển cả. Bồ-tát liền quở trách: “Không nên nói chuyện với kẻ lười biếng như Ngài”. – “Ngài chớ đứng ở đây.” – Thiên chủ Sakka nghĩ: “Ta không thể làm cho người có tâm cao thượng buông bỏ sự nắm giữ điều đã được nắm lấy,” thế rồi, vị ấy đã mang các con sóc con đến trao lại cho Bồ-tát. Ngay cả vào thời kỳ đức Bồ-tát là Mahājanaka, Ngài đã vượt qua đại dương. Một vị thiên nhân hỏi: “Vì sao Ngài lại vượt qua đại dương?” – Bồ-tát đã nói: “sau khi vượt qua bờ bên kia, Ta sẽ giành lại vương vị trong vương quốc thuộc về dòng tộc và ban phát vật thí.” – Khi ấy, vị thiên nhân lại nói: “Đại dương này sâu và rộng lớn vô cùng, đến bao giờ Ngài mới có thể vượt qua được?” – Ngài trả lời: “Đại dương này cũng như đại dương của ngài vậy, nhưng nhờ ý chí kiên định của ta mà nó hiện ra như một dòng sông nhỏ. Chính Ngài sẽ chứng kiến Ta vượt qua đại dương này. Sau khi mang tài sản từ bờ đại dương, Ta sẽ giành lại vương quyền trong vương quốc thuộc về dòng dõi rồi ban phát vật thí.” – Vị thiên nhân suy nghĩ: “Ta không thể khiến người có tâm cao thượng buông bỏ sự nắm giữ điều đã được nắm lấy,” (vì vậy) vị ấy đã ôm đức Bồ-tát (vượt qua đại dương) rồi đặt (ngài) nằm xuống tại một vườn hoa. Bậc đại nhân ấy, sau khi dựng lên cây lọng trắng, đã thực hiện việc bố thí năm trăm ngàn mỗi ngày, sau đó ngài rời khỏi (đời sống thế tục) để xuất gia. Cũng vậy, bậc Đại nhân không thể bị bất kỳ ai dù là Sa-môn …nt… hoặc Phạm Thiên, khiến từ bỏ sự thọ trì thiện pháp. Do đó, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Như Lai đã có sự thọ trì vững chãi, có sự thọ trì vững chắc ở các pháp thiện.”
Idāni yesu kusalesu dhammesu avatthitasamādāno ahosi, te dassetuṃ kāyasucaritetiādimāha. Dānasaṃvibhāgeti ettha ca dānameva diyyanavasena dānaṃ, saṃvibhāgakaraṇavasena saṃvibhāgo. Sīlasamādāneti pañcasīladasasīlacatupārisuddhisīlapūraṇakāle. Uposathūpavāseti cātuddasikādibhedassa uposathassa upavasanakāle. Matteyyatāyāti mātukātabbavatte. Sesapadesupi eseva nayo.
(Như Lai) đã có sự thọ trì vững chắc ở các pháp thiện ấy, bay giờ để thuyết giảng những pháp ấy mới nói rằng: “Ở thiện hạnh về thân, v.v.” Ở đấy, ở việc phân phát vật thí: Sự bố thí về phương diện bố thí vật thí, và sự phân phát về phương diện thực hiện việc chia sẻ. Ở việc thọ trì giới hạnh: Trong lúc thực hành Ngũ giới, Bát giới, Thập giới, và Tứ thanh tịnh giới. Ở việc hành trì trai giới: Trong lúc thọ trì giới Uposatha, vốn khác nhau theo ngày 14 (âm lịch), v.v. Ở việc hiếu kính mẹ: Trong các bổn phận cần làm đối với mẹ. Luôn cả các từ còn lại cũng áp dụng phương cách này.
Aññataraññataresu cāti aññesu ca evarūpesu. Adhikusalesūti ettha atthi kusalā, atthi adhikusalā. Sabbepi kāmāvacarā kusalā kusalā nāma, rūpāvacarā adhikusalā. Ubhopi te kusalā nāma, arūpāvacarā adhikusalā. Sabbepi te kusalā nāma, sāvakapāramīpaṭilābhapaccayā kusalā adhikusalā nāma. Tepi kusalā nāma, paccekabodhipaṭilābhapaccayā kusalā adhikusalā. Tepi kusalā nāma, sabbaññutaññāṇappaṭilābhapaccayā pana kusalā idha ‘‘adhikusalā’’ti adhippetā. Tesu adhikusalesu dhammesu daḷhasamādāno ahosi avatthitasamādāno.
Và…khác: Và ở các pháp thiện có hình thức như vậy khác. Các pháp thiện thù thắng: Ở đây, có pháp thiện, có pháp thiện thù thắng. Tất cả các thiện pháp thuộc Dục giới đều được gọi là thiện, Sắc giới là thiện thù thắng. Cả hai đều gọi là thiện. Vô sắc giới gọi là thiện thù thắng. Thậm chí toàn bộ (thiện thuộc ba cõi) cũng đều là thiện. Thiện làm duyên để đạt được trí toàn hảo của bậc Thinh Văn là thiện thù thắng. Ngay cả thiện thù thắng ấy cũng gọi là thiện. Thiện làm duyên để đạt được quả vị Độc Giác là thiện thù thắng. Ngay cả thiện thù thắng ấy cũng gọi là thiện. Tuy nhiên, thiện làm duyên để đạt được Tri toàn tri là “thiện thù thắng”, ngài muốn đề cập đến “thiện thù thắng” trong trường hợp này. Như Lai đã có sự thọ trì vững chãi, có sự thọ trì vững chắc ở các pháp thiện đó.
Kaṭattā upacitattāti ettha sakimpi kataṃ katameva, abhiṇhakaraṇena pana upacitaṃ hoti. Ussannattāti piṇḍīkataṃ rāsīkataṃ kammaṃ ussannanti vuccati. Tasmā ‘‘ussannattā’’ti vadanto mayā katakammassa cakkavāḷaṃ atisambādhaṃ, bhavaggaṃ atinīcaṃ, evaṃ me ussannaṃ kammanti dasseti. Vipulattāti appamāṇattā. Iminā ‘‘anantaṃ aparimāṇaṃ mayā kataṃ kamma’’nti dasseti. Adhiggaṇhātīti adhibhavati, aññehi devehi atirekaṃ labhatīti attho. Paṭilabhatīti adhigacchati.
Do trạng thái đã làm, do trạng thái đã tích lũy: Nghiệp mà tự bản thân đã làm, dù chỉ một lần, cũng được xem là đã làm rồi, nhưng vì thực hiện thường xuyên được gọi là nghiệp được tự mình tích lũy. Do trạng thái đã chất chứa: Nghiệp đã được tạo thành đống được gọi là chất chứa. Vì thế, khi nói rằng ‘do trạng thái đã chất chứa, (đức Thế Tôn) cho thấy rằng thế giới là quá chật chội, cảnh giới tột cùng của hiện hữu thì quá thấp kém, nghiệp mà Ta là chất chứa như vậy. Do trạng thái dồi dào: Do tính chất vô lượng. (Đức Thế Tôn) chỉ cho thấy rằng: “Nghiệp đã được Ngài thực hiện là vô tận, là vô lượng.” Vượt trội: Vượt trội, có nghĩa là: Ngài đạt được sự vượt trội hơn so với các vị thiên khác. Đạt được: đạt đến.
Sabbāvantehi pādatalehīti idaṃ ‘‘samaṃ pādaṃ bhūmiyaṃ nikkhipatī’’ti etassa vitthāravacanaṃ. Tattha sabbāvantehīti sabbapadesavantehi, na ekena padesena paṭhamaṃ phusati, na ekena pacchā, sabbeheva pādatalehi samaṃ phusati, samaṃ uddharati. Sacepi hi tathāgato ‘‘anekasataporisaṃ narakaṃ akkamissāmī’’ti pādaṃ abhinīharati. Tāvadeva ninnaṭṭhānaṃ vātapūritā viya kammārabhastā unnamitvā pathavisamaṃ hoti. Unnataṭṭhānampi anto pavisati. ‘‘Dūre akkamissāmī’’ti abhinīharantassa sineruppamāṇopi pabbato suseditavettaṅkuro viya onamitvā pādasamīpaṃ āgacchati. Tathā hissa yamakapāṭihāriyaṃ katvā ‘‘yugandharapabbataṃ akkamissāmī’’ti pāde abhinīhaṭe pabbato onamitvā pādasamīpaṃ āgato. Sopi taṃ akkamitvā dutiyapādena tāvatiṃsabhavanaṃ akkami. Na hi cakkalakkhaṇena patiṭṭhātabbaṭṭhānaṃ visamaṃ bhavituṃ sakkoti. Khāṇu vā kaṇṭako vā sakkharā vā kathalā vā uccārapassāvakheḷasiṅghāṇikādīni vā purimataraṃ vā apagacchanti, tattha tattheva vā pathaviṃ pavisanti. Tathāgatassa hi sīlatejena puññatejena dhammatejena dasannaṃ pāramīnaṃ ānubhāvena ayaṃ mahāpathavī sammā mudupupphābhikiṇṇā hoti.
(Chạm đất) bằng toàn bộ lòng bàn chân một cách bằng phẳng: đây là lời nói giải thích chi tiết cho câu đó “vị ấy đặt chân xuống đất một cách bằng phẳng.” Ở đây, ‘toàn bộ lòng bàn chân’ là có toàn bộ lòng bàn chân (bao gồm các ngón chân, lòng bàn chân và gót chân); bậc đại nhân không đặt chân chạm đất trước bằng mũi chân và cũng không chạm sau bằng gót chân, mà Ngài chạm đất bằng toàn bộ lòng bàn chân một cách bằng phẳng, nhấc lên một cách bằng phẳng. Thật vậy, thậm chí nếu như đức Như Lai đặt (và) nâng bàn chân với suy nghĩ rằng: “Ta sẽ bước vào vực sâu hàng trăm thân người”. Ngay lập tức, chỗ trũng đó sẽ tự nhô cao lên, trở nên bằng phẳng như mặt đất, giống như ống bễ của thợ rèn đầy khí;Ngay cả khi Ngài đi vào bên trong những chỗ nhô cao, (khi nhấc lên bàn chân với suy nghĩ): “Ta sẽ bước chân ở đằng xa,” thì kể cả ngọn núi có kích thước ngang bằng với ngọn núi Suneru cũng sẽ cúi thấp xuống gần chân Ngài, tựa như ngọn cây mây bị lửa hơ nóng. Thật vậy, khi Như Lai nhấc bàn chân lên với suy nghĩ: “Ta sẽ thị hiện Song Thông, bước lên đỉnh núi Yugandhara,” ngọn núi ấy cũng sẽ cúi xuống gần chân Ngài để Ngài bước lên. Sau khi bước lên ngọn núi ấy Ngài bước tiếp lên cung trời Đao Lợi với bước chân thứ hai. Bởi vì, vị trí đáng được thành lập với tướng trạng bánh xe (ở lòng bàn chân của đức Thế Tôn) không thể là nơi gồ ghề. Các gốc cây, gai nhọn, sỏi đá, đất sét, phân, nước tiểu, nước bọt, hoặc nước mũi, v.v., những thứ ấy tự động biến mất hoặc chìm xuống đất ngay tại chỗ đó. Thật vậy, đại địa này có mặt đất bằng phẳng rải rắc với vô số các bông hoa mới nở nhờ vào oai lực của giới hạnh, oai lực của trí tuệ, oai lực của các pháp, (và) nhờ oai lực của mười pháp Ba-la-mật của đức Như Lai.
202. Sāgarapariyantanti sāgarasīmaṃ. Na hi tassa rajjaṃ karontassa antarā rukkho vā pabbato vā nadī vā sīmā hoti mahāsamuddova sīmā. Tena vuttaṃ ‘‘sāgarapariyanta’’nti. Akhilamanimittamakaṇṭakanti niccoraṃ. Corā hi kharasamphassaṭṭhena khilā, upaddavapaccayaṭṭhena nimittā, vijjhanaṭṭhena kaṇṭakāti vuccanti. Iddhanti samiddhaṃ. Phītanti sabbasampattiphāliphullaṃ. Khemanti nibbhayaṃ. Sivanti nirupaddavaṃ. Nirabbudanti abbudavirahitaṃ, gumbaṃ gumbaṃ hutvā carantehi corehi virahitanti attho. Akkhambhiyoti avikkhambhanīyo. Na naṃ koci ṭhānato cāletuṃ sakkoti. Paccatthikenāti paṭipakkhaṃ icchantena. Paccāmittenāti paṭiviruddhena amittena. Ubhayampetaṃ sapattavevacanaṃ. Abbhantarehīti anto uṭṭhitehi rāgādīhi.
202. Được đại dương bao quanh: có đại dương làm ranh giới. Thật vậy, khi bậc đại nhân trị vì vương quốc, thì cây cối, núi non, hay sông ngòi ở giữa không phải là ranh giới, mà chính đại dương mới là ranh giới. Vì lý do đó, Ngài mới nói rằng “có đại dương làm ranh giới.” Không có cột trụ, không dấu hiệu (nguy hiểm), không gai góc: Không có giặc cướp. Thật vậy, giặc cướp được gọi là ‘cột trụ’ với ý nghĩa sự đụng chạm thô cứng, là ‘dấu hiệu’ với ý nghĩa làm duyên của sự nguy khốn, và là ‘gai góc’ với ý nghĩa đâm thủng. Giàu có: thành tựu. Thịnh vượng: phồn thịnh, đầy đủ mọi tài sản. An toàn: không có nỗi sợ hãi. May mắn: không có sự nguy hiểm. Không có trắc trở: không có giặc cướp, tức là không có các giặc cướp tụ tập thành băng nhóm đi đi lại lại. Là không bị khuất phục: Đối thủ, (và) kẻ thù không thể áp chế. Giải thích rằng: bất kỳ ai cũng không thể khiến vị ấy lung lay khỏi vị thế của mình. Bởi đối thủ: Với mong muốn là kẻ thù địch. Bởi kẻ thù: Bởi kẻ địch do sự tấn công đáp trả. Cả hai từ này đều là đồng nghĩa của “kẻ thù.” Bởi các kẻ thù bên trong: ô nhiễm như luyến ái, v.v, trỗi dậy bên trong.
Bāhirehīti samaṇādīhi. Tathā hi naṃ bāhirā devadattakokālikādayo samaṇāpi soṇadaṇḍakūṭadaṇḍādayo brāhmaṇāpi sakkasadisā devatāpi satta vassāni anubandhamāno māropi bakādayo brahmānopi vikkhambhetuṃ nāsakkhiṃsu.
Bởi các kẻ thù bên ngoài: Các Sa-môn, v.v. Thật vậy, dù các Sa-môn như Devadatta và Kokālika v.v., hay các Bà-la-môn như Soṇadaṇḍa và Kūṭadaṇḍa v.v., ngay cả các chư thiên như Thiên chủ Sakka, thậm chí Ma vương đã theo dõi suốt bảy năm, luôn cả các Phạm Thiên như Phạm Thiên Baka, v.v., cũng không ai có thể khuất phục được Đức Phật.
Ettāvatā bhagavatā kammañca kammasarikkhakañca lakkhaṇañca lakkhaṇānisaṃso ca vutto hoti. Kammaṃ nāma satasahassakappādhikāni cattāri asaṅkhyeyyāni daḷhavīriyena hutvā kataṃ kammaṃ. Kammasarikkhakaṃ nāma daḷhena hutvā katabhāvaṃ sadevako loko jānātūti suppatiṭṭhitapādamahāpurisalakkhaṇaṃ. Lakkhaṇaṃ nāma suppatiṭṭhitapādatā. Lakkhaṇānisaṃso nāma paccatthikehi avikkhambhanīyatā.
Vì thế, đức Thế Tôn mới thuyết giảng về nghiệp lực, kết quả tương tự với nghiệp, các tướng trạng, và lợi ích của các tướng. Nghiệp là hành động đã được thực hiện với sự tinh tấn vững chãi trong bốn A-tăng-kỳ và hơn một trăm ngàn đại kiếp. Đại nhân tướng có tướng trạng bàn chân đứng vững vàng, phát sinh theo cách thức sau: “Thế gian cùng với thế giới chư thiên biết được tính chất nghiệp đã được thực hiện bởi sự vững chãi gọi là kết quả tương tự với nghiệp. Trạng thái bàn chân đứng vững vàng là tướng trạng. Bản thể vị không bị khuất phục bởi kẻ thù là lợi ích của tướng trạng.
203. Tatthetaṃvuccatīti tattha vutte kammādibhede aparampi idaṃ vuccati, gāthābandhaṃ sandhāya vuttaṃ. Etā pana gāthā porāṇakattherā ‘‘ānandattherena ṭhapitā vaṇṇanāgāthā’’ti vatvā gatā. Aparabhāge therā ‘‘ekapadiko atthuddhāro’’ti āhaṃsu.
203. Ở đây, điều này được nói rằng: Khi Đức Thế Tôn đã giảng giải về các loại nghiệp, v.v., trong tướng trạng đó, thì các vị Trưởng lão xưa đã nói tiếp lời này đề cập đến các bài kệ được biên soạn. Hơn nữa, các vị Trưởng lão xưa biết rằng: “Phần giải thích bài kệ đã được thiết lập bởi Trưởng lão Ānanda”, nên đã nói những bài kệ này rồi mới ra đi. Sau này, các vị Trưởng lão đã nói rằng: “Việc nêu lên ý nghĩa của một câu.”
Tattha sacceti vacīsacce. Dhammeti dasakusalakammapathadhamme. Dameti indriyadamane. Saṃyameti sīlasaṃyame. ‘‘Soceyyasīlālayuposathesu cā’’ti ettha kāyasoceyyādi tividhaṃ soceyyaṃ. Ālayabhūtaṃ sīlameva sīlālayo. Uposathakammaṃ uposatho. Ahiṃsāyāti avihiṃsāya. Samattamācarīti sakalaṃ acari.
Ở đây, ở sự chân thật: ở lời nói chân thật. Ở thiện pháp: Ở thiện pháp bao gồm mười đường lối tạo nghiệp thiện. Ở việc rèn luyện: Ở việc rèn luyện các quyền. Ở việc thu thúc: Ở việc thu thúc giới hạnh. Trong câu này “ở sự trong sạch (thân, khẩu, ý), ở giới là chỗ trú (của chỉ và quán), việc hành trai giới: Ba sự trong sạch có sự trong sạch ở thân, v.v., gọi là sự trong sạch; giới chính là nơi nương tựa gọi là có giới là chỗ trú. việc thực hành trai giới gọi là việc hành trai giới.
Anvabhīti anubhavi. Veyyañjanikāti lakkhaṇapāṭhakā. Parābhibhūti pare abhibhavanasamattho. Sattubhīti sapattehi akkhambhiyo hoti.
Đã tận hưởng: đã cảm nghiệm. Các nhà tướng số đã tiên đoán: Vị thông thạo trong việc tiên đoán tướng. Là bậc ngự trị các kẻ khác: Có khả năng chiến thắng người khác. Có sự tiêu diệt kẻ thù: là vị không bị khuất phục bởi kẻ thù.
Na so gacchati jātu khambhananti so ekaṃseneva aggapuggalo vikkhambhetabbataṃ na gacchati. Esā hi tassa dhammatāti tassa hi esā dhammatā ayaṃ sabhāvo.
Vị ấy chắc chắn không đi đến việc bị khuất phục: vị ấy (bậc đại nhân) là bậc tối cao tuyệt đối, không đi đến bản thể con người mà bất cứ ai có thể bị khuất phục. Bởi vì điều này là quy luật của vị ấy: Bởi vì đây là quy luật, là bản thể của bậc đại nhân.
Giải thích tướng trạng bánh xe ở hai lòng bàn chân
204. Ubbegauttāsabhayanti ubbegabhayañceva uttāsabhayañca. Tattha corato vā rājato vā paccatthikato vā vilopanabandhanādinissayaṃ bhayaṃ ubbego nāma, taṃmuhuttikaṃ caṇḍahatthiassādīni vā ahiyakkhādayo vā paṭicca lomahaṃsanakaraṃ bhayaṃ uttāsabhayaṃ nāma. Taṃ sabbaṃ apanuditā vūpasametā. Saṃvidhātāti saṃvidahitā. Kathaṃ saṃvidahati? Aṭaviyaṃ sāsaṅkaṭṭhānesu dānasālaṃ kāretvā tattha āgate bhojetvā manusse datvā ativāheti, taṃ ṭhānaṃ pavisituṃ asakkontānaṃ manusse pesetvā paveseti. Nagarādīsupi tesu tesu ṭhānesu ārakkhaṃ ṭhapeti, evaṃ saṃvidahati. Saparivārañca dānaṃ adāsīti annaṃ pānanti dasavidhaṃ dānavatthuṃ.
204. Sự sợ hãi là sự hốt hoảng, sự khiếp sợ: Sự sợ hãi là sự hoảng hốt, và sự sợ hãi là sự khiếp sợ. Giải thích rằng: Trong hai loại sự sợ hãi này– Nỗi sợ hãi do bị cướp bóc, bị giam cầm, v.v., từ bọn trộm cướp, từ nhà vua, hoặc từ kẻ địch được gọi là sự hốt hoảng; Nỗi sợ hãi khiến lông tóc dựng đứng do các loài vật như voi dữ, ngựa dữ, v.v., rắn, hoặc dạ-xoa, v.v, sanh khởi chỉ trong chốc lát được gọi là sự khiếp sợ. Xua đi toàn bộ điều đó là sự lắng dịu. Sắp đặt: Sắp xếp. Sắp đặt như thế nào? Đã cho xây dựng bố thí đường ở rừng sâu, ở những nơi hẻo lánh, những người đi đến đó sau khi cho họ dùng bữa rồi phái người đưa họ quay trở về, khi mọi người không thể tự mình đi vào những nơi đó, thì ngài phái người dẫn họ vào, thiết lập sự bảo vệ ở những nơi đó, ngay cả trong thành phố, v.v., cũng được sắp đặt như vậy. Đã bố thí tặng phẩm với các vật thiết yếu: đã bố thí mười loại vật dụng thiết yếu như cơm, nước, v.v.
Tattha annanti yāgubhattaṃ. Taṃ dadanto na dvāre ṭhapetvā adāsi, atha kho antonivesane haritupalittaṭṭhāne lājā ceva pupphāni ca vikiritvā āsanaṃ paññapetvā vitānaṃ bandhitvā gandhadhūmādīhi sakkāraṃ katvā bhikkhusaṅghaṃ nisīdāpetvā yāguṃ adāsi. Yāguṃ dento ca sabyañjanaṃ adāsi. Yāgupānāvasāne pāde dhovitvā telena makkhetvā nānappakārakaṃ anantaṃ khajjakaṃ datvā pariyosāne anekasūpaṃ anekabyañjanaṃ paṇītabhojanaṃ adāsi. Pānaṃ dento ambapānādiaṭṭhavidhaṃ pānaṃ adāsi, tampi yāgubhattaṃ datvā. Vatthaṃ dento na suddhavatthameva adāsi, ekapaṭṭadupaṭṭādipahonakaṃ pana datvā sucimpi adāsi, suttampi adāsi, suttaṃ vaṭṭesi, sūcikammakaraṇaṭṭhāne bhikkhūnaṃ āsanāni, yāgubhattaṃ, pādamakkhanaṃ, piṭṭhimakkhanaṃ, rajanaṃ, paṇḍupalāsaṃ, rajanadoṇikaṃ, antamaso cīvararajanakaṃ kappiyakārakampi adāsi.
Trong số mười vật dụng thiết yếu, ‘cơm’ gồm cả cháo sữa. Khi bố thí các vật thực ấy, (vị Bồ-tát) không đem đặt chúng ở cửa để cho, mà đã rải mễ cốc khô và hoa lên ở những nơi được quét dọn sạch sẽ phủ màu xanh lá cây bên trong khuôn viên nhà, sau khi sắp đặt chỗ ngồi, căng tấm màn che, Ngài đã thực hiện sự tôn kính bằng các hương hoa và nhang đèn, v.v. Sau khi thỉnh hội chúng Tỳ khưu an tọa, Ngài đã cúng dường cháo sữa. Trong khi cúng dường cháo sữa, (Ngài) đã cúng dường với các món ăn phụ. Khi hoàn tất việc uống cháo sữa, (Ngài) đã rửa chân, thoa dầu, và tiếp tục cúng dường nhiều loại thức ăn mềm khác nhau; cuối cùng, Ngài đã cúng dường các món ăn hảo hạng như các món súp và nhiều loại thức ăn phụ. Khi cúng dường thức uống, (Ngài) đã cúng dường tám loại thức uống như nước xoài, v.v. Sau khi cúng dường cháo sữa và các vật thực hoàn tất. Ngài tiếp tục cúng dường y phục, (Ngài) không chỉ cúng dường những bộ y phục đơn thuần, mà còn cúng dường đủ loại y phục, có loại một lớp và hai lớp, v.v. Ngài cũng đã cúng dường kim, đã cúng dường chỉ, và đã cúng dường cuộn chỉ ở các nơi thực hiện việc may vá. Ngoài ra, Ngài còn cúng dường chỗ ngồi, cháo sữa, dầu thoa chân, dầu thoa lưng, thuốc nhuộm, các loại lá cây khác nhau, máng nhuộm y phục, và thậm chí cả thuốc nhuộm y áo, và cả những người làm thành được phép.
Yānanti upāhanaṃ. Taṃ dadantopi upāhanatthavikaṃ upāhanadaṇḍakaṃ makkhanatelaṃ heṭṭhā vuttāni ca annādīni tasseva parivāraṃ katvā adāsi. Mālaṃ dentopi na suddhamālameva adāsi, atha kho naṃ gandhehi missetvā heṭṭhimāni cattāri tasseva parivāraṃ katvā adāsi. Bodhi– cetiya– āsana– potthakādipūjanatthāya ceva cetiyagharadhūpanatthāya ca gandhaṃ dentopi na suddhagandhameva adāsi, gandhapisanakanisadāya ceva pakkhipanakabhājanena ca saddhiṃ heṭṭhimāni pañca tassa parivāraṃ katvā adāsi. Cetiyapūjādīnaṃ atthāya haritālamanosilācīnapiṭṭhādivilepanaṃ dentopi na suddhavilepanameva adāsi, vilepanabhājanena saddhiṃ heṭṭhimāni cha tassa parivāraṃ katvā adāsi. Seyyāti mañcapīṭhaṃ. Taṃ dentopi na suddhakameva adāsi, kojava– kambala– paccattharaṇamañca– ppaṭipādakehi saddhiṃ antamaso maṅgulasodhanadaṇḍakaṃ heṭṭhimāni ca satta tassa parivāraṃ katvā adāsi. Āvasathaṃ dentopi na gehamattameva adāsi, atha kho naṃ mālākammalatākammapaṭimaṇḍitaṃ supaññattaṃ mañcapīṭhaṃ kāretvā heṭṭhimāni aṭṭha tassa parivāraṃ katvā adāsi. Padīpeyyanti padīpatelaṃ. Taṃ dento cetiyaṅgaṇe bodhiyaṅgaṇe dhammassavanagge vasanagehe potthakavācanaṭṭhāne iminā dīpaṃ jālāpethāti na suddhatelameva adāsi, vaṭṭi kapallakatelabhājanādīhi saddhiṃ heṭṭhimāni nava tassa parivāraṃ katvā adāsi. Suvibhattantarānīti suvibhattaantarāni.
Phương tiện đi lại (xe, thuyền): gồm giày dép. Khi cúng dường giày dép, (Ngài) không chỉ cúng dường giày dép đơn thuần mà còn cúng dường túi đựng giày, giá treo giày, dầu thoa giày, và các vật phẩm bố thí khác như cơm, v.v., như đã trình bày ở đoạn trước, và đã làm thành các vật thiết yếu với giày dép. Tương tự, khi cúng dường tràng hoa, (Ngài) không chỉ cúng dường hoa đơn thuần, mà còn trộn các tràng hoa ấy với các loại hương thơm, rồi dâng bốn vật phẩm này sau đó, (và) đã biến chúng thành các vật thiết yếu với tràng hoa ấy. Khi cúng dường hương thơm để cúng dường cây Bồ-đề, Bảo điện, chỗ ngồi, kinh sách, v.v., và để xông Bảo tháp, (Ngài) không chỉ cúng dường hương thơm đơn thuần, mà còn dâng lên năm vật phẩm này sau đó cùng với dụng cụ nghiền, dụng cụ mài và các khay đựng, (và) đã làm thành các vật thiết yếu với hương thơm ấy. Ngay cả khi cúng dường các loại thuốc xoa bóp như hùng hoàng, thạch tín, chu sa, v.v., (Ngài) không chỉ cúng dường thuốc xoa bóp đơn thuần, mà còn cúng dường sáu loại vật phẩm này sau đó, kèm theo hộp đựng thuốc xoa bóp, (và) đã làm thành các vật thiết yếu với loại thuốc xoa bóp ấy. Chỗ nằm là giường và ghế. Ngay cả khi bố thí giường và ghế dài đó, (Ngài) không những cúng dường riêng lẻ giường và ghế, mà cúng dường kèm với tấm choàng lông, mền, thảm trải giường, và đồ kê giường, thậm chí ván lót sàn và cây lâu sàn (và) đã làm thành các vật thiết yếu với giường và ghế dài ấy. Tương tự, khi cúng dường trú xứ, (Ngài) không chỉ cúng dường riêng trú xứ, mà còn xếp đặt giường và ghế cẩn thận, được trang hoàng hình vòng hoa, trang hoàng hình tua, rồi cúng dường tám vật phẩm này sau đó, và đã làm thành các vật thiết yếu với trú xứ đó. Đèn đuốc: dầu để thắp sáng. Khi cúng dường dầu để thắp sáng, (Ngài) không chỉ cúng dường riêng dầu với lời rằng: ‘Các vị hãy thắp sáng ngọn đèn bằng dầu này dưới chân Bảo tháp, dưới cội Bồ-đề, Pháp Đường, nhà ở, chỗ đọc kinh sách, đã cúng dường chín vật phẩm này sau đó, cùng với tim đèn, chén đất nhỏ, và các vật dụng đựng dầu, v.v., và đã làm thành các vật thiết yếu với dầu để thắp sáng ấy. Sắp đặt ở vị trí phù hợp: sắp đặt tỉ mỉ theo thứ tự.
Rājānoti abhisittā. Bhogiyāti bhojakā kumārāti rājakumārā. Idha kammaṃ nāma saparivāraṃ dānaṃ. Kammasarikkhakaṃ nāma saparivāraṃ katvā dānaṃ adāsīti iminā kāraṇena sadevako loko jānātūti nibbattaṃ cakkalakkhaṇaṃ. Lakkhaṇaṃ nāma tadeva cakkalakkhaṇaṃ. Ānisaṃso mahāparivāratā.
Các vương gia: Các vị Sát-đế-lỵ đã làm lễ quán đảnh. Các phú gia: các địa chủ. Các vương tử: các vương tử. Ở đây, sự bố thí với các vật thiết yếu được là ‘nghiệp’. Tướng trạng bánh xe xuất hiện theo cách thức như sau– ‘Thế gian cùng với thế giới chư thiên hãy biết rằng ‘do các nguyên nhân này’, tức là bậc đại nhân đã bố thí tặng phẩm cùng với các vật thiết yếu này gọi là ‘kết quả tương tự với nghiệp’. Chính trạng thái bánh xe ấy gọi là tướng trạng. Bản thể người có tùy tùng đông đảo là lợi ích.
205. Tatthetaṃ vuccatīti imā tadatthaparidīpanā gāthā vuccanti. Duvidhā hi gāthā honti – tadatthaparidīpanā ca visesatthaparidīpanā ca. Tattha pāḷiāgatameva atthaṃ paridīpanā tadatthaparidīpanā nāma. Pāḷiyaṃ anāgataṃ paridīpanā visesatthaparidīpanā nāma. Imā pana tadatthaparidīpanā. Tattha pureti pubbe. Puratthāti tasseva vevacanaṃ. Purimāsu jātīsūti imissā jātiyā pubbekatakammapaṭikkhepadīpanaṃ. Ubbegauttāsabhayāpanūdanoti ubbegabhayassa ca uttāsabhayassa ca apanūdano. Ussukoti adhimutto.
205. Ở đấy, điều này được nói rằng. Ngài đã nói bài kệ này để trình bày ý nghĩa đó. Thật vậy, kệ ngôn này có hai loại– Sự giảng giải ý nghĩa đó và sự giảng giải ý nghĩa đặc biệt. Trong số hai loại ấy, sự làm cho sáng tỏ ý nghĩa đã đề cập ở Chánh văn Pāḷī là sự giảng giải ý nghĩa đó. Sự làm cho sáng tỏ ý nghĩa không được đề cập ở Chánh văn Pāḷī là sự giảng giải ý nghĩa đặc biệt. Nhưng kệ ngôn này giảng giải ý nghĩa đó (Chánh văn Pāḷī). Ở đấy, thuở trước: Ở kiếp sống quá khứ. Trong thời quá khứ: đây là từ đồng nghĩa với chính từ trước đó. Ở các lần sanh trước đây: Là sự trình bày đến nghiệp lực đã tạo trong các kiếp trước từ kiếp này. Xua đi sự sợ hãi là sự hoảng hốt và sự khiếp sợ: Xua đi sự sợ hãi là sự hoảng hốt và sự khiếp sợ. Là người nhiệt tình: đã hướng đến.
Satapuññalakkhaṇanti satena satena puññakammena nibbattaṃ ekekaṃ lakkhaṇaṃ. Evaṃ sante yo koci buddho bhaveyyāti na rocayiṃsu, anantesu pana cakkavāḷesu sabbe sattā ekekaṃ kammaṃ satakkhattuṃ kareyyuṃ, ettakehi janehi kataṃ kammaṃ bodhisatto ekova ekekaṃ sataguṇaṃ katvā nibbatto. Tasmā ‘‘satapuññalakkhaṇo’’ti imamatthaṃ rocayiṃsu. Manussāsurasakkarakkhasāti manussā ca asurā ca sakkā ca rakkhasā ca.
Hoàng tử có tướng trạng của hàng trăm phước báu: mỗi một tướng trạng đã được khởi sanh với hàng trăm nghiệp phước thiện. Như vậy, mọi người không hài lòng rằng: ‘Bất cứ ai cũng có thể trở thành đức Phật.’ Tuy nhiên, tất cả chúng sanh trong thế giới vô tận, mỗi người cần phải thực hiện mỗi một loại nghiệp đến một trăm lần. Nghiệp đã được thực hiện bởi chừng ấy người, thì chỉ có một mình đức Bồ-tát hiện khởi đã thực hiện mỗi một loại nghiệp ấy gấp hàng trăm lần. Do đó, mọi người hài lòng với ý nghĩa này: “Đức Bồ-tát có tướng trạng của hàng trăm phước báu.” Nhân loại, các A-tu-la, Thiên chủ Sakka, các loài quỷ sứ: Nhân loại, các A-tu-la, Thiên chủ Sakka, các loài quỷ sứ.
Giải thích ba tướng trạng gót chân dài, v.v.
206. Antarāti paṭisandhito sarasacutiyā antare. Idha kammaṃ nāma pāṇātipātā virati. Kammasarikkhakaṃ nāma pāṇātipātaṃ karonto padasaddasavanabhayā aggaggapādehi akkamantā gantvā paraṃ pātenti. Atha te iminā kāraṇena tesaṃ taṃ kammaṃ jano jānātūti antovaṅkapādā vā bahivaṅkapādā vā ukkuṭikapādā vā aggakoṇḍā vā paṇhikoṇḍā vā bhavanti. Aggapādehi gantvā parassa amāritabhāvaṃ pana tathāgatassa sadevako loko iminā kāraṇena jānātūti āyatapaṇhi mahāpurisalakkhaṇaṃ nibbattati. Tathā paraṃ ghātentā unnatakāyena gacchantā aññe passissantīti onatā gantvā paraṃ ghātenti. Atha te evamime gantvā paraṃ ghātayiṃsūti nesaṃ taṃ kammaṃ iminā kāraṇena paro jānātūti khujjā vā vāmanā vā pīṭhasappi vā bhavanti. Tathāgatassa pana evaṃ gantvā paresaṃ aghātitabhāvaṃ iminā kāraṇena sadevako loko jānātūti brahmujugattamahāpurisalakkhaṇaṃ nibbattati. Tathā paraṃ ghātentā āvudhaṃ vā muggaraṃ vā gaṇhitvā muṭṭhikatahatthā paraṃ ghātenti. Te evaṃ tesaṃ parassa ghātitabhāvaṃ iminā kāraṇena jano jānātūti rassaṅgulī vā rassahatthā vā vaṅkaṅgulī vā phaṇahatthakā vā bhavanti. Tathāgatassa pana evaṃ paresaṃ aghātitabhāvaṃ sadevako loko iminā kāraṇena jānātūti dīghaṅgulimahāpurisalakkhaṇaṃ nibbattati. Idamettha kammasarikkhakaṃ. Idameva pana lakkhaṇattayaṃ lakkhaṇaṃ nāma. Dīghāyukabhāvo lakkhaṇānisaṃso.
206. Trong khoảng thời gian. Trong khoảng thời gian từ lúc tục sanh cho đến lúc chết. Ở đây, sự tránh xa việc sát hại sinh mạng gọi là nghiệp. Trong khi sát hại sinh mạng, do sợ hãi bị nghe tiếng bước chân (những người ấy) đã rón rén đi bằng đầu ngón chân, và giết người khác được gọi là kết quả tương tự với nghiệp. Sau đó, họ nghĩ rằng: “Người đời hãy biết hành động ấy của những người đó với các lý do này, là người có bàn chân lõm vào trong, có bàn chân lõm ra ngoài, có bàn chân nhón gót, có ngón chân cụt, có gót chân cụt. Thế gian cùng với thế giới chư thiên hãy biết bản thể Như Lai đã đi bằng đầu ngón chân mà không bị người khác giết hại. Vì thế, đại nhân tướng có gót chân dài được hiện khởi. Cũng vậy, những người có thân hình cao to khi đi giết người khác thường cúi thấp người xuống vì sợ người khác phát hiện, rồi mới ra tay sát hại người khác. Hơn nữa, họ nghĩ rằng– Những người này đã giết hại người khác như vậy, những người khác hãy biết nghiệp lực đó, bởi vì lý do này họ trở thành những người lưng còng, người thấp lùn, hoặc là người tàn tật. Ngoài ra, với các lý do này, thế gian cùng với thế giới chư thiên hãy biết bản thể Như Lai không bị người khác giết hại, vị đã đi như vậy, (cho nên) đại nhân tướng có thân hình cao thẳng tựa như vị Phạm Thiên được hiện khởi. Tương tự, những người giết hại người khác, sau khi cầm lấy vũ khí hoặc chùy, họ (đã) giết người khác với bàn tay siết chặt thành nắm đấm. (Họ nghĩ rằng)– Người đời hãy biết trạng thái bị giết của những người khác như vậy, với các lý do này họ trở thành người có các ngón tay ngắn, có bàn tay ngắn, có ngón tay cong hoặc có bàn tay dị dạng. Thế gian cùng với thế giới chư thiên hãy biết bản thể Như Lai là vị không bị người khác giết hại như vậy với các lý do này. Do đó, đại nhân tướng có ngón tay dài được hiện khởi. Ở đây, những điều vừa nêu là kết quả tương tự với nghiệp. Hơn nữa, ba trạng thái này được gọi là tướng trạng. Bản thể trường thọ là lợi ích của tướng trạng.
207. Maraṇavadhabhayattanoti ettha maraṇasaṅkhāto vadho maraṇavadho, maraṇavadhato bhayaṃ maraṇavadhabhayaṃ, taṃ attano jānitvā. Paṭivirato paraṃmāraṇāyāti yathā mayhaṃ maraṇato bhayaṃ mama jīvitaṃ piyaṃ, evaṃ paresampīti ñatvā paraṃ māraṇato paṭivirato ahosi. Sucaritenāti suciṇṇena. Saggamagamāti saggaṃ gato.
207. Cái chết và sự giết chóc là nỗi sợ hãi đối với bản thân: Ở đây, sự giết chóc là nhân khiến chúng sanh chết, (là nỗi sợ hãi đối với chúng sanh), sự giết chóc được xem là cái chết, là nỗi sợ hãi từ cái chết và sự giết chóc, nghĩa là cái chết làm nhân khiến chúng sanh chết là nỗi sợ hãi, sau khi biết rõ điều đó đối với bản thân (vị ấy đã xa lánh). Vị ấy đã xa lánh việc giết hại người khác: Nỗi sợ hãi về cái chết đối với Ta, mạng sống là nơi yêu thương của Ta như thế nào; người khác cũng tương tự y như thế ấy; sau khi biết (điều đó) vị ấy đã xa lánh việc giết hại. Nhờ vào thiện hạnh: Do đã khéo thực thành. Đã đi đến cõi Trời: (Vị ấy) đã đi đến cõi Trời.
Caviya punaridhāgatoti cavitvā puna idhāgato. Dīghapāsaṇhikoti dīghapaṇhiko. Brahmāva sujūti brahmā viya suṭṭhu uju.
Sau khi mệnh chung, vị ấy đã đi đến nơi này lần nữa: Sau khi mệnh chung vị ấy đã trở lại cõi đời này lần nữa. Có gót chân dài: có gót chân dài. Thân hình ngay thẳng tựa như vị chư Phạm Thiên: có thân hình cực kỳ ngay thẳng tựa như Phạm Thiên.
Subhujoti sundarabhujo. Susūti mahallakakālepi taruṇarūpo. Susaṇṭhitoti susaṇṭhānasampanno. Mudutalunaṅguliyassāti mudū ca talunā ca aṅguliyo assa. Tībhīti tīhi. Purisavaraggalakkhaṇehīti purisavarassa aggalakkhaṇehi. Cirayapanāyāti ciraṃ yāpanāya, dīghāyukabhāvāya.
Có cánh tay xinh đẹp: vị có cánh tay xinh đẹp. Trẻ trung: Ngay cả lúc về già cũng vẫn có hình dáng trẻ trung. Khéo được hình thành: vị đạt đến hình thể hoàn hảo. Các ngón tay, ngón chân của vị này mềm mại, trẻ trung: Có các ngón tay, ngón chân mềm mại và trẻ trung. Với ba tướng trạng: với ba trạng thái (tībhi = tīhi). Với ba tướng trạng cao cả của bậc đại nhân: với trạng thái cao cả của nam nhân cao quý. Có cuộc sống dài lâu: Để có cuộc sống lâu dài, là để đạt được trạng thái trường thọ.
Ciraṃ yapetīti ciraṃ yāpeti. Cirataraṃ pabbajati yadi tatoti tato cirataraṃ yāpeti, yadi pabbajatīti attho. Yāpayatica vasiddhibhāvanāyāti vasippatto hutvā iddhibhāvanāya yāpeti.
Vị ấy sống lâu (nếu là người tại gia): vị ấy sống lâu. Nếu từ nơi ấy xuất gia thì sống lâu hơn nữa: Có nghĩa là nếu như xuất gia, từ nơi ấy vị ấy sống lâu hơn nữa. VỊ ấy duy trì mạng sống nhờ vào sự phát triển năng lực và thần thông: Là vị đạt đến sự thiện xảo, (Ngài) duy trì sự tồn tại bằng sự phát triển thần thông.”
Giải thích trạng thái vun đầy ở bảy chỗ
208. Rasitānanti rasasampannānaṃ. ‘‘Khādanīyāna’’ntiādīsu khādanīyāni nāma piṭṭhakhajjakādīni. Bhojanīyānīti pañca bhojanāni. Sāyanīyānīti sāyitabbāni sappinavanītādīni. Lehanīyānīti nillehitabbāni piṭṭhapāyāsādīni. Pānānīti aṭṭha pānakāni.
208. Mỹ vị: Đầy đủ các hương vị. Đáng nhai, v.v, là những món để nhai, như bánh bột, v.v, được gọi là (các thức ăn) đáng nhai. Đáng ăn: năm loại thực phẩm chính. Các thức uống đáng nếm: Bơ lỏng, bơ đặc, v.v, đáng nếm. Các thức uống đáng liếm: Là những món ăn đáng liếm như món cháo sữa làm từ bột, v.v. Thức uống: Tám loại thức uống.
Idha kammaṃ nāma kappasatasahassādhikāni cattāri asaṅkhyeyyāni dinnaṃ idaṃ paṇītabhojanadānaṃ. Kammasarikkhakaṃ nāma lūkhabhojane kucchigate lohitaṃ sussati, maṃsaṃ milāyati. Tasmā lūkhadāyakā sattā iminā kāraṇena nesaṃ lūkhabhojanassa dinnabhāvaṃ jano jānātūti appamaṃsā appalohitā manussapetā viya dullabhannapānā bhavanti. Paṇītabhojane pana kucchigate maṃsalohitaṃ vaḍḍhati, paripuṇṇakāyā pāsādikā abhirūpadassanā honti. Tasmā tathāgatassa dīgharattaṃ paṇītabhojanadāyakattaṃ sadevako loko iminā kāraṇena jānātūti sattussadamahāpurisalakkhaṇaṃ nibbattati. Lakkhaṇaṃ nāma sattussadalakkhaṇameva. Paṇītalābhitā ānisaṃso.
Ở đây, sự bố thí vật thực hảo hạng này đức Như Lai đã thực hiện bố thí suốt bốn A-tăng-kỳ và hơn một trăm ngàn đại kiếp được gọi là nghiệp. Khi vật thực thô cứng đi vào bụng làm máu khô cạn, thịt bị khô héo được gọi là kết quả tương tự với nghiệp. Do đó, những chúng sanh bố thí vật thực thô cứng nghĩ rằng– với các lý do này, người đời hãy biết tính chất các loại vật thực thô cứng được các chúng sanh đó bố thí; do đó, họ trở thành những người có ít thịt, có ít máu, có thức ăn và nước uống khó tìm, giống như ngạ quỷ. Ngược lại, khi vật thực hảo hạng đi vào bụng, thịt và máu phát triển, các chúng sanh có thân hình đầy đặn, đáng yêu, đáng thương mến, đáng ngắm nhìn. Vì thế, với các lý do này, thế gian cùng với thế giới chư thiên hãy biết bản thể Như Lai là vị bố thí vật thực hảo hạng suốt thời gian dài; do đó, đại nhân tướng có bảy chỗ thịt vun đầy được hiện khởi. Trạng thái vun đầy ở bảy chỗ ấy được gọi là tướng trạng. Bản thể vị nhận được vật thực hảo hạng gọi là lợi ích.
209. Khajjabhojjamathaleyyasāyitanti khajjakañca bhojanañca lehanīyañca sāyanīyañca. Uttamaggarasadāyakoti uttamo aggarasadāyako, uttamānaṃ vā aggarasānaṃ dāyako.
209. Vật thực cứng, vật thực mềm, thức uống đáng liếm, đáng nếm: Vật thực cứng, vật thực mềm, thức uống đáng liếm, đáng nếm. Bậc đại nhân là người bố thí các vị nếm tối thượng, cao quý: Là người cao quý, là người bố thí các vị nếm tối thượng; người bố thí vị nếm tối thượng của tối thượng.
Satta cussadeti satta ca ussade. Tadatthajotakanti khajjabhojjādijotakaṃ, tesaṃ lābhasaṃvattanikanti attho. Pabbajampi cāti pabbajamānopi ca. Tadādhigacchatīti taṃ adhigacchati. Lābhiruttamanti lābhi uttamaṃ.
Là người được vun đầy ở bảy chỗ: Tướng trạng được vun đầy ở bảy vị trí. Vị ấy có sự chói sáng về các lợi ích ấy: Trình bày các loại thức ăn bao gồm thức ăn cứng, thức ăn mền v.v, có nghĩa là đưa đến lợi lộc cho các du sĩ ngoại đạo đó. Và thậm chí là vị xuất gia: Và kể cả bậc xuất gia. Tadādhigacchati tách từ thành taṃ adhigacchati (đạt được điều ấy). Lābhiruttamaṃ tách thành lābhi uttamaṃ (bậc đạt được sự tối thượng).
Giải thích về tướng trạng mềm mại và tựa như tấm lưới của bàn tay và bàn chân
210. Dānenātiādīsu ekacco dāneneva saṅgaṇhitabbo hoti, taṃ dānena saṅgahesi. Pabbajitānaṃ pabbajitaparikkhāraṃ, gihīnaṃ gihiparikkhāraṃ adāsi.
210. Với việc bố thí, v.v, có một số người là người xứng đáng được hỗ trợ chỉ bằng việc bố thí, (bậc đại nhân) đã trợ giúp người đó bằng việc bố thí, (ngài) đã cúng dường các vật dụng thiết yếu để xuất gia cho các vị xuất gia, và các vật dụng thiết yếu gia đình cho những người tại gia.
Peyyavajjenāti ekacco hi ‘‘ayaṃ dātabbaṃ nāma deti, ekena pana vacanena sabbaṃ makkhetvā nāseti, kiṃ etassa dāna’’nti vattā hoti. Ekacco ‘‘ayaṃ kiñcāpi dānaṃ na deti, kathento pana telena viya makkheti. Eso detu vā mā vā, vacanameva tassa sahassaṃ agghatī’’ti vattā hoti. Evarūpo puggalo dānaṃ na paccāsīsati, piyavacanameva paccāsīsati. Taṃ piyavacanena saṅgahesi.
Với lời nói đáng yêu: bởi vì một số người nói rằng “người này bố thí vật thí nên được bố thí, tuy nhiên chỉ với một lời nói người này đã xóa bỏ tất cả sự bố thí, làm cho biến mất. Vậy thì sự bố thí của người ấy có ích lợi gì? Lại có những người nói rằng: “người này mặc dù không bố thí vật thí, nhưng trong khi nói những lời nói êm tai như thể được thoa dầu. Người này hãy cho đi hoặc không cho đi, thì lời nói của họ đáng giá một ngàn đồng tiền vàng.” Hạng người có hình thức như vậy, họ không mong đợi sự bố thí mà chỉ mong muốn những lời nói dễ thương. (Bậc đại nhân) đã trợ giúp họ bằng những lời nói dễ thương.
Atthacariyāyāti atthasaṃvaḍḍhanakathāya. Ekacco hi neva dānaṃ, na piyavacanaṃ paccāsīsati. Attano hitakathaṃ vaḍḍhitakathameva paccāsīsati. Evarūpaṃ puggalaṃ ‘‘idaṃ te kātabbaṃ, idaṃ te na kātabbaṃ. Evarūpo puggalo sevitabbo, evarūpo puggalo na sevitabbo’’ti evaṃ atthacariyāya saṅgahesi.
Với hành vi có lợi ích: Với những lời lẽ làm tăng trưởng lợi ích. Bởi vì một số người không mong đợi bố thí, cũng không mong đợi những lời nói dễ thương. Họ chỉ mong đợi những lời lẽ làm tăng trưởng lợi ích cho bản thân. (Bậc đại nhân) trợ giúp những người có hình thức như thế với hành vi có lợi ích như vầy– “Ngươi nên thực hiện điều này, và ngươi không nên thực hiện điều này. Nên kết giao với người có hình thức thế này, không nên kết giao với người có hình thức thế này.”
Samānattatāyāti samānasukhadukkhabhāvena. Ekacco hi dānādīsu ekampi na paccāsīsati, ekāsane nisajjaṃ, ekapallaṅke sayanaṃ, ekato bhojananti evaṃ samānasukhadukkhataṃ paccāsīsati. Tattha jātiyā hīno bhogena adhiko dussaṅgaho hoti. Na hi sakkā tena saddhiṃ ekaparibhogo kātuṃ, tathā akariyamāne ca so kujjhati. Bhogena hīno jātiyā adhikopi dussaṅgaho hoti. So hi ‘‘ahaṃ jātimā’’ti bhogasampannena saddhiṃ ekaparibhogaṃ na icchati, tasmiṃ akariyamāne kujjhati. Ubhohipi hīno pana susaṅgaho hoti. Na hi so itarena saddhiṃ ekaparibhogaṃ icchati, na akariyamāne ca kujjhati. Ubhohi sadisopi susaṅgahoyeva. Bhikkhūsu dussīlo dussaṅgaho hoti. Na hi sakkā tena saddhiṃ ekaparibhogo kātuṃ, tathā akariyamāne ca kujjhati. Sīlavā susaṅgaho hoti. Sīlavā hi adīyamānepi akariyamānepi na kujjhati. Aññaṃ attanā saddhiṃ paribhogaṃ akarontampi na pāpakena cittena passati. Paribhogopi tena saddhiṃ sukaro hoti. Tasmā evarūpaṃ puggalaṃ evaṃ samānattatāya saṅgahesi.
Với việc đối xử bình đẳng: với điều kiện sướng – khổ giống nhau. Thật vậy, một số người không mong đợi bất cứ điều gì trong việc bố thí, v.v., mà chỉ mong bản thể người có sự an lạc và đau khổ giống nhau như vầy: được ngồi chung cùng một chỗ, được nằm chung cùng một giường, được ăn chung với nhau. Trong số những hạng người ấy: Người thuộc dòng dõi thấp kém nhưng lại dồi dào tài sản là người khó trợ giúp, bởi vì không thể thọ dụng chung với họ; khi không thực hiện như thế, người ấy phẫn nộ. Người thiếu thốn tài sản nhưng vượt trội về dòng dõi là người khó trợ giúp. Bởi vì họ không muốn thọ dụng chung với người có đầy đủ tài sản, cho rằng– “Ta là người có dòng dõi (cao quý),” do đó, trong khi không thực hiện như thế thì phẫn nộ. Ngược lại, người vừa nghèo vừa có dòng dõi thấp kém lại dễ dàng trợ giúp, bởi vì họ không mong muốn thọ dụng chung với những người khác; khi không thực hiện như thế, họ cũng không phẫn nộ. Ngay cả hạng người tương đồng về cả hai (dòng dõi và tài sản) cũng là hạng người dễ dàng trợ giúp. Trong số các vị Tỳ khưu, vị Tỳ khưu có giới tồi là khó trợ giúp. Vì không thể thọ dụng chung với vị ấy; và khi không thực hiện điều đó, thì phẫn nộ. Ngược lại, vị Tỳ khưu có giới thì dễ dàng trợ giúp, bởi vì vị có giới dù thực hiện hay không thực hiện cũng không phẫn nộ. (Vị ấy) không nhìn người khác dù thọ dụng chung với mình bằng tâm ý xấu xa. Ngay cả việc thọ dụng chung với vị có giới hạnh cũng là dễ dàng. Do đó, (bậc đại nhân) trợ giúp những người có hình thức như thế với việc đối xử bình đẳng như vậy.
Susaṅgahitāssa hontīti susaṅgahitā assa honti. Detu vā mā vā detu, karotu vā mā vā karotu, susaṅgahitāva honti, na bhijjanti. ‘‘Yadāssa dātabbaṃ hoti, tadā deti. Idāni maññe natthi, tena na deti. Kiṃ mayaṃ dadamānameva upaṭṭhahāma? Adentaṃ akarontaṃ na upaṭṭhahāmā’’ti evaṃ cintenti.
Những người đã khéo được thu phục: Những người đã khéo được thu phục. (Người ấy) hãy bố thí hay hãy đừng bố thí, hãy làm hay hãy đừng làm, (những người ấy) là những người đã khéo được thu phục, không làm tổn thương lẫn nhau. Mọi người suy nghĩ như vầy– “Vào thời điểm nào là nên bố thí đến người ấy, vào thời điểm ấy sẽ bố thí. Bây giờ, người ấy dường như không có (vấn đề gì), do đó mới không bố thí. Ta chỉ phục vụ người bố thí thôi sao? Ta sẽ không phục vụ người không bố thí (và) không làm.”
Idha kammaṃ nāma dīgharattaṃ kataṃ dānādisaṅgahakammaṃ. Kammasarikkhakaṃ nāma yo evaṃ asaṅgāhako hoti, so iminā kāraṇenassa asaṅgāhakabhāvaṃ jano jānātūti thaddhahatthapādo ceva hoti, visamaṭṭhitāvayavalakkhaṇo ca. Tathāgatassa pana dīgharattaṃ saṅgāhakabhāvaṃ sadevako loko iminā kāraṇena jānātūti imāni dve lakkhaṇāni nibbattanti. Lakkhaṇaṃ nāma idameva lakkhaṇadvayaṃ. Susaṅgahitaparijanatā ānisaṃso.
Ở đây, hành động là sự trợ giúp gồm bố thí, v.v, đã được vị ấy thực hiện trong suốt thời gian dài được gọi là nghiệp. Người nào là người không trợ giúp như vậy, người ấy hãy biết đến trạng thái không trợ giúp vì lý do này. Do đó, trong trường hợp này, vị ấy mới là người có bàn tay và bàn chân thô cứng và là người có những tướng trạng của người đứng không bằng phẳng, (điều này) được gọi là kết quả tương tự với nghiệp. Ngược lại, với các lý do này, thế gian cùng với thế giới chư thiên hãy biết bản thể Như Lai là vị đã trợ giúp trong suốt thời gian dài; do đó, hai tướng trạng này được hiện khởi. Chính hai tướng này gọi là tướng trạng. Bản thể vị có đoàn người phục tùng đã khéo được thu phục là lợi ích.
211. Kariyāti karitvā. Cariyāti caritvā. Anavamatenāti anavaññātena. ‘‘Anapamodenā’’tipi pāṭho, na appamodena, na dīnena na gabbhitenāti attho.
211. Sau khi làm: Sau khi làm. Sau khi thực hiện: Sau khi thực hiện. Với đức tính không miệt thị: Bởi đức tính không khinh thường. Chánh văn “Anapamodena”, không phải do sự phóng dật, không phải do sự bố thí, mà cũng không phải do sự chế giễu.
Caviyāti cavitvā. Atirucira suvaggu dassaneyyanti atirucirañca supāsādikaṃ suvaggu ca suṭṭhu chekaṃ dassaneyyañca daṭṭhabbayuttaṃ. Susu kumāroti suṭṭhu sukumāro.
Sau khi mệnh chung: Sau khi chết đi. Vô cùng dễ mến, thật xinh xắn, đáng nhìn: Vô cùng xinh đẹp, rất dễ mến, rất dễ thương, cực kỳ khéo léo, đáng nhìn và đáng được chiêm ngưỡng. Vị hoàng tử trẻ: vị hoàng tử trẻ tuổi, đẹp.
Parijanassavoti parijano assavo vacanakaro. Vidheyyoti kattabbākattabbesu yathāruci vidhātabbo. Mahimanti mahiṃ imaṃ. Piyavadū hitasukhataṃ jigīsamānoti piyavado hutvā hitañca sukhañca pariyesamāno. Vacanapaṭikarassā bhippasannāti vacanapaṭikarā assa abhippasannā. Dhammānudhammanti dhammañca anudhammañca.
Là vị có đoàn tùy tùng: Ngài có đoàn tùy tùng làm theo lời của Ngài. Cần được xem xét kỹ: Nên xem xét kỹ theo như ý thích về những điều nên làm và không nên làm. Mahimaṃ tách từ thành ahiṃ imaṃ (ở trái đất này). Là vị có giọng nói đáng yêu, người mong muốn điều lợi ích và hạnh phúc: Là người có giọng nói đáng yêu, người mong muốn điều lợi ích và hạnh phúc. Vacanapaṭikarassā bhippasannā tách thành vacanapaṭikarā assa abhippasannā (những người thực hành theo lời dạy) có niềm tịnh tín với vị này). Thực hành đúng pháp và thuận pháp: thực hành đúng pháp và thuận pháp.
Giải thích tướng trạng mắt cá chân được dịch về phía trước và trạng thái có lông hướng thẳng lên.
212.Atthūpasaṃhitanti idhalokaparalokatthanissitaṃ. Dhammūpasaṃhitanti dasakusalakammapathanissitaṃ. Bahujanaṃ nidaṃsesīti bahujanassa nidaṃsanakathaṃ kathesi. Pāṇīnanti sattānaṃ. ‘‘Aggo’’tiādīni sabbāni aññamaññavevacanāni. Idha kammaṃ nāma dīgharattaṃ bhāsitā uddhaṅgamanīyā atthūpasaṃhitā vācā. Kammasarikkhakaṃ nāma yo evarūpaṃ uggatavācaṃ na bhāsati, so iminā kāraṇena uggatavācāya abhāsanaṃ jano jānātūti adhosaṅkhapādo ca hoti adhonatalomo ca. Tathāgatassa pana dīgharattaṃ evarūpāya uggatavācāya bhāsitabhāvaṃ sadevako loko iminā kāraṇena jānātūti ussaṅkhapādalakkhaṇañca uddhaggalomalakkhaṇañca nibbattati. Lakkhaṇaṃ nāma idameva lakkhaṇadvayaṃ. Uttamabhāvo ānisaṃso.
212. Liên hệ đến mục đích: Liên hệ đến lợi ích trong đời này và đời sau. Liên hệ đến Giáo Pháp: Nương vào mười đường lối tạo nghiệp thiện. Chỉ rõ cho nhiều người: Nói lời nói chỉ rõ cho nhiều người. Cho các chúng sanh: (Đem đến lợi ích) cho các loài hữu tình. Tất cả những cụm từ này được bắt đầu ‘là vị cao cả,’ v.v. đều là những từ đồng nghĩa với nhau. Ở đây, lời nói là những lời được nói ra, là lời nói có khuynh hướng hướng thượng, là lời nói liên hệ đến lợi ích lâu dài gọi là nghiệp. Người nào không nói lời nói có khuynh hướng hướng thượng có hình thức như vậy, với các lý do này, người đời hãy biết rằng– người không nói lời nói có khuynh hướng hướng thượng, (người ấy) là người có mắt cá chân tựa như vỏ ốc dịch xuống dưới và có lông nằm xuống gọi là kết quả tương tự với nghiệp. Ngược lại, với các lý do này, thế gian cùng với thế giới chư thiên hãy biết bản thể Như Lai đã nói lời nói hướng thượng có hình thức như thế trong suốt thời gian dài; do đó, tướng trạng mắt cá chân tựa như vỏ ốc dịch về phía trên và trạng thái có lông dựng hướng thẳng lên được hiện khởi. Chính hai tướng này được gọi là tướng trạng. Bản thể cao thượng là lợi ích.
213. Erayanti bhaṇanto. Bahujanaṃ nidaṃsayīti bahujanassa hitaṃ dasseti. Dhammayāganti dhammadānayaññaṃ.
213. Trong khi nói: Trong khi nói. Chỉ rõ…cho nhiều người: chỉ rõ lợi ích cho nhiều người. Đã cống hiến sự ban bố Giáo Pháp. Lễ hiến tế là sự ban bố Giáo Pháp.
Ubbhamuppatitalomavā sasoti so esa uddhaggatalomavā hoti. Pādagaṇṭhirahūti pādagopphakā ahesuṃ. Sādhusaṇṭhitāti suṭṭhu saṇṭhitā. Maṃsalohitācitāti maṃsena ca lohitena ca ācitā. Tacotthatāti tacena pariyonaddhā niguḷhā. Vajatīti gacchati. Anomanikkamoti anomavihārī seṭṭhavihārī.
Vị ấy có lông mọc hướng thẳng lên: Vị ấy có lông mọc hướng thẳng lên. Có mắt cá chân (được hình thành tốt đẹp): đã có hai mắt cá chân. Được hình thành tốt đẹp: Được hình thành tốt đẹp. Được vun bồi với thịt và máu: Được vun bồi với thịt và máu. Được bao phủ bởi da: Được bao phủ, được bọc lại bởi da. Vajati: đi. Là vị có sự ra sức cao tột: cuộc sống cao quý, cuộc sống cao thượng.
Tướng trạng cẳng chân như dê núi
214. Sippaṃ vātiādīsu sippaṃ nāma dve sippāni – hīnañca sippaṃ, ukkaṭṭhañca sippaṃ. Hīnaṃ nāma sippaṃ naḷakārasippaṃ, kumbhakārasippaṃ pesakārasippaṃ nahāpitasippaṃ. Ukkaṭṭhaṃ nāma sippaṃ lekhā muddā gaṇanā. Vijjāti ahivijjādianekavidhā. Caraṇanti pañcasīlaṃ dasasīlaṃ pātimokkhasaṃvarasīlaṃ. Kammanti kammassakatājānanapaññā. Kilisseyyunti kilameyyuṃ. Antevāsikavattaṃ nāma dukkhaṃ, taṃ nesaṃ mā ciramahosīti cintesi.
214. Về nghề nghiệp, v.v, nghề nghiệp có hai loại là– nghề nghiệp thấp kém, và nghề nghiệp cao cả. Nghề nghiệp thấp kém là nghề làm đan tre, nghề thợ gốm, nghề thợ dệt, nghề thợ cạo. Nghề nghiệp cao cả là nghề nghiệp khắc họa, việc tính toán bằng ngón tay, việc kế toán. Về kiến thức: Nhiều loại kiến thức chẳng hạn như kiến thức chữa rắn độc, v.v. Về hành vi: ngũ giới, thập giới, và thu thúc giới bổn Pātimokkha. Về công việc: Tuệ nhận biết vận hành theo nghiệp (nghiệp riêng của chúng sanh). Có thể mệt nhọc: Có thể mệt mỏi. Giải thích rằng– Bậc đại nhân nghĩ rằng: Công việc của các đệ tử ấy là sự khổ sở, chớ để có đến họ lâu dài.
Rājārahānīti rañño anurūpāni hatthiassādīni, tāniyeva rañño senāya aṅgabhūtattā rājaṅgānīti vuccanti. Rājūpabhogānīti rañño upabhogaparibhogabhaṇḍāni, tāni ceva sattaratanāni ca. Rājānucchavikānīti rañño anucchavikāni. Tesaṃyeva sabbesaṃ idaṃ gahaṇaṃ. Samaṇārahānīti samaṇānaṃ anurūpāni cīvarādīni. Samaṇaṅgānīti samaṇānaṃ koṭṭhāsabhūtā catasso parisā. Samaṇūpabhogānīti samaṇānaṃ upabhogaparikkhārā. Samaṇānucchavikānīti tesaṃyeva adhivacanaṃ.
Những vật xứng đáng với vua: Phương tiện phù hợp với đức vua như voi và ngựa, chính những phương tiện ấy được gọi là những vật cốt yếu của vua, bởi thuộc bộ phận quân đội của đức vua. Những vật cần dùng của vua: Các vật dụng để sử dụng và tiêu dùng của đức vua, và bảy loại báu vật của đức vua. Những vật thích đáng của đức vua: Những vật thích hợp của đức vua. Ở đây, xác định nắm lấy toàn bộ các vật dụng phù hợp với vị vua ấy.” Những vật xứng đáng với Sa-môn: Tam y, v.v, phù hợp với các Sa-môn. Những vật cốt yếu của Sa-môn: Bốn hội chúng thuộc một phần của hàng Sa-môn. Những vật cần dùng của Sa-môn: các vật dụng phụ tùng để sử dụng của Sa-môn. Những vật cốt yếu của Sa-môn: Đây chính là tên gọi của các vật dụng phụ tùng ấy.
Idha pana kammaṃ nāma dīgharattaṃ sakkaccaṃ sippādivācanaṃ. Kammasarikkhakaṃ nāma yo evaṃ sakkaccaṃ sippaṃ avācento antevāsike ukkuṭikāsanajaṅghapesanikādīhi kilameti, tassa jaṅghamaṃsaṃ likhitvā pātitaṃ viya hoti. Tathāgatassa pana sakkaccaṃ vācitabhāvaṃ sadevako loko iminā kāraṇena jānātūti anupubbauggatavaṭṭitaṃ eṇijaṅghalakkhaṇaṃ nibbattati. Lakkhaṇaṃ nāma idameva lakkhaṇaṃ. Anucchavikalābhitā ānisaṃso.
Hơn nữa, ở đây việc dạy dỗ cẩn thận về nghề nghiệp, v.v, được gọi là nghiệp. Việc dạy dỗ không cẩn thận về nghề nghiệp như thế làm cho các đệ tử gặp khó khăn với tư thế ngồi gù lưng, duỗi chân, v.v., giống như thịt bắp chân của người đó bị cạo móc cho rớt xuống. Ngược lại, với các lý do này, thế gian cùng với thế giới chư thiên hãy biết bản thể Như Lai nói lời nói với sự cẩn thận; do đó, tướng trạng có cẳng chân thon đều dần lên tựa như con dê núi được hiện khởi được gọi là kết quả tương tự với nghiệp. Chính trạng thái này được gọi là tướng trạng. Tính chất vị có lợi đắc thích đáng được gọi là lợi ích.
215. Yadūpaghātāyāti yaṃ sippaṃ kassaci upaghātāya na hoti. Kilissatīti kilamissati. Sukhumattacotthatāti sukhumattacena pariyonaddhā. Kiṃ pana aññena kammena aññaṃ lakkhaṇaṃ nibbattatīti? Na nibbattati. Yaṃ pana nibbattati, taṃ anubyañjanaṃ hoti, tasmā idha vuttaṃ.
215. Nghề nghiệp…đem lại sự tổn hại: Nghề nghiệp nào không đem lại sự tổn hại cho bất kỳ ai. Sẽ mệt nhọc: sẽ mệt nhọc. Được bao bọc bởi làn da mềm mại: Được bao bọc bởi làn da mềm mại. Phải chăng các tướng trạng khác được hiện khởi từ nghiệp khác? Không hiện khởi. Vả lại, tướng trạng nào được hiện khởi, tướng trạng đó là tướng phụ, vì thế điều này được nói đến.
Giải thích tướng trạng có lớp da mịn màng
216. Samaṇaṃ vāti samitapāpaṭṭhena samaṇaṃ. Brāhmaṇaṃ vāti bāhitapāpaṭṭhena brāhmaṇaṃ.
216. Vị Sa-môn: Sa-môn với ý nghĩa có ác pháp được yên tịnh. Vị Bà-la-môn: Bà-la-môn với ý nghĩa có ác pháp được tránh xa.
Mahāpaññotiādīsu mahāpaññādīhi samannāgato hotīti attho. Tatridaṃ mahāpaññādīnaṃ nānattaṃ.
Có tuệ vĩ đại: là vị được thành tựu với tuệ vĩ đại, v.v. Ở đây, điều này (bản thể) tuệ vĩ đại, v.v, có sự tính chất khác biệt như sau–
Tattha katamā mahāpaññā? Mahante sīlakkhandhe pariggaṇhātīti mahāpaññā, mahante samādhikkhandhe paññākkhandhe vimuttikkhandhe vimuttiñāṇadassanakkhandhe pariggaṇhātīti mahāpaññā. Mahantāni ṭhānāṭhānāni mahantā vihārasamāpattiyo mahantāni ariyasaccāni mahante satipaṭṭhāne sammappadhāne iddhipāde mahantāni indriyāni balāni mahante bojjhaṅge mahante ariyamagge mahantāni sāmaññaphalāni mahantā abhiññāyo mahantaṃ paramatthaṃ nibbānaṃ pariggaṇhātīti mahāpaññā.
Ở đấy, tuệ vĩ đại là gì? Nắm giữ các giới uẩn vĩ đại là tuệ vĩ đại; nắm giữ các tuệ uẩn vĩ đại, nắm giữ các giải thoát uẩn, nắm giữ các giải thoát-tri-kiến uẩn là tuệ vĩ đại. Các sự hợp lý và không hợp lý vĩ đại, các sự an trú và chứng đạt vĩ đại, các chân lý cao thượng vĩ đại, các sự thiết lập niệm vĩ đại, các chánh cần vĩ đại, các nền tảng thần thông vĩ đại, các quyền vĩ đại, các lực vĩ đại, các giác chi vĩ đại, các Thánh Đạo vĩ đại, các Quả vị Sa-môn vĩ đại, các thắng trí vĩ đại, nắm giữ Niết Bàn có ý nghĩa tuyệt đối vĩ đại là tuệ vĩ đại.
Katamā puthupaññā? Puthunānākhandhesu ñāṇaṃ pavattatīti puthupaññā. Puthunānādhātūsu puthunānāāyatanesu puthunānāpaṭiccasamuppādesu puthunānāsuññatamanupalabbhesu puthunānāatthesu dhammesu niruttīsu paṭibhānesu. Puthunānāsīlakkhandhesu puthunānāsamādhipaññāvimuttivimuttiñādassanakkhandhesu puthunānāṭhānāṭhānesu puthunānāvihārasamāpattīsu puthunānāariyasaccesu puthunānāsatipaṭṭhānesu sammappadhānesu iddhipādesu indriyesu balesu bojjhaṅgesu puthunānāariyamaggesu sāmaññaphalesu abhiññāsu puthujjanasādhāraṇe dhamme samatikkamma paramatthe nibbāne ñāṇaṃ pavattatīti puthupaññā.
Tuệ phổ thông là gì? Trí vận hành về các uẩn phổ thông và khác biệt là tuệ phổ thông. Về các xứ phổ thông và khác biệt, về các xứ phổ thông và khác biệt, về các sự sanh khởi tùy thuận phổ thông và khác biệt, về các trường hợp không đạt được không tánh phổ thông và khác biệt, về các ý nghĩa phổ thông và khác biệt, về các pháp, về các ngôn từ, về các phép biện giải. Về các giới uẩn phổ thông và khác biệt; về các định uẩn, về các tuệ uẩn, về các giải thoát uẩn, về các giải thoát tri-kiến uẩn phổ thông và khác biệt; về các sự hợp lý và không hợp lý phổ thông và khác biệt, về các sự an trú và chứng đạt phổ thông và khác biệt, về các sự an trú và chứng đạt phổ thông và khác biệt, về các chân lý cao thượng phổ thông và khác biệt; về các sự thiết lập niệm, về các chánh cần, về các nền tảng thần, về các quyền, về các lực, về các giác chi phổ thông và khác biệt; về các Thánh Đạo, về các Quả vị Sa-môn, về các thắng trí phổ thông và khác biệt; Trí vượt qua các pháp phổ biến đến phàm nhân rồi vận hành về Niết Bàn có ý nghĩa tuyệt đối là tuệ phổ thông.
Katamā hāsapaññā? Idhekacco hāsabahulo vedabahulo tuṭṭhibahulo pāmojjabahulo sīlaṃ paripūreti indriyasaṃvaraṃ paripūreti bhojane mattaññutaṃ jāgariyānuyogaṃ sīlakkhandhaṃ samādhikkhandhaṃ paññākkhandhaṃ vimuttikkhandhaṃ vimuttiñāṇadassanakkhandhaṃ paripūretīti hāsapaññā. Hāsabahulo…pe… pāmojjabahulo ṭhānāṭhānaṃ paṭivijjhatīti hāsapaññā. Hāsabahulo vihārasamāpattiyo paripūretīti hāsapaññā. Hāsabahulo ariyasaccāni paṭivijjhatīti hāsapaññā. Satipaṭṭhāne sammappadhāne iddhipāde indriyāni balāni bojjhaṅge ariyamaggaṃ bhāvetīti hāsapaññā. Hāsabahulo sāmaññaphalāni sacchikarotīti hāsapaññā. Abhiññāyo paṭivijjhatīti hāsapaññā. Hāsabahulo vedatuṭṭhipāmojjabahulo paramatthaṃ nibbānaṃ sacchikarotīti hāsapaññā.
Tuệ vi tiếu là gì? Ở đây có người: ‘Có nhiều tươi cười, có nhiều vui thích, có nhiều hài lòng, có nhiều hân hoan làm tròn đủ các giới, làm tròn đủ sự thu thúc các quyền, sự tri túc về vật thực, sự gắn bó với tỉnh thức, giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát, giải thoát-tri-kiến uẩn là tuệ vi tiếu. Có nhiều tươi cười … có nhiều hân hoan thấu triệt các sự hợp lý và không hợp lý là tuệ vi tiếu. Có nhiều tươi cười làm tròn đủ sự an trú và chứng đạt là tuệ vi tiếu. Có nhiều tươi cười thấu triệt các chân lý cao thượng là tuệ vi tiếu. Tu tập các sự thiết lập niệm, tu tập các chánh cần, tu tập các nền tảng thần thông, tu tập các quyền, tu tập các lực, tu tập các giác chi, tu tập Thánh Đạo là tuệ vi tiếu. Có nhiều tươi cười tác chứng các Quả vị Sa-môn là tuệ vi tiếu. Thấu triệt các thắng trí là tuệ vi tiếu. Có nhiều tươi cười, có nhiều vui thích, có nhiều hài lòng, có nhiều hân hoan tác chứng Niết Bàn có ý nghĩa tuyệt đối là tuệ vi tiếu.
Katamā javanapaññā? Yaṃkiñci rūpaṃ atītānāgatapaccuppannaṃ yaṃ dūre santike vā, sabbaṃ taṃ rūpaṃ aniccato khippaṃ javatīti javanapaññā. Dukkhato khippaṃ anattato khippaṃ javatīti javanapaññā. Yā kāci vedanā…pe… yaṃkiñci viññāṇaṃ atītānāgatapaccuppannaṃ, sabbaṃ taṃ viññāṇaṃ aniccato dukkhato anattato khippaṃ javatīti javanapaññā. Cakkhu…pe… jarāmaraṇaṃ atītānāgatapaccuppannaṃ aniccato dukkhato anattato khippaṃ javatīti javanapaññā. Rūpaṃ atītānāgatapaccuppannaṃ aniccaṃ khayaṭṭhena dukkhaṃ bhayaṭṭhena anattā asārakaṭṭhenāti tulayitvā tīrayitvā vibhāvayitvā vibhūtaṃ katvā rūpanirodhe nibbāne khippaṃ javatīti javanapaññā. Vedanā saññā saṅkhārā viññāṇaṃ cakkhu …pe… jarāmaraṇaṃ atītānāgatapaccuppannaṃ aniccaṃ khayaṭṭhena …pe… vibhūtaṃ katvā jarāmaraṇanirodhe nibbāne khippaṃ javatīti javanapaññā. Rūpaṃ atītānāgatapaccuppannaṃ. Cakkhuṃ…pe… jarāmaraṇaṃ aniccaṃ saṅkhataṃ paṭiccasamuppannaṃ khayadhammaṃ vayadhammaṃ virāgadhammaṃ nirodhadhammanti tulayitvā tīrayitvā vibhāvayitvā vibhūtaṃ katvā jarāmaraṇanirodhe nibbāne khippaṃ javatīti javanapaññā.
Tuệ đổng tốc là gì? Bất cứ sắc nào thuộc quá khứ, hiện tại, vị lai, nội phần hoặc ngoại phần, thô hoặc tế, thấp kém hoặc cao quý, là ở xa hoặc ở gần, về toàn bộ sắc ấy trực nhận một cách mau lẹ là vô thường là tuệ đổng tốc. Trực nhận một cách mau lẹ là khổ não, trực nhận một cách mau lẹ là vô ngã là tuệ đổng tốc. Bất cứ thọ nào …(như trên)… Bất cứ thức nào thuộc quá khứ, hiện tại, hoặc vị lai, nội phần hoặc ngoại phần, thô hoặc tế, thấp kém hoặc cao quý, là ở xa hoặc gần, về toàn bộ thức ấy trực nhận một cách mau lẹ là vô thường là tuệ đổng tốc. Sau khi cân nhắc, xác định, phân biệt, làm rõ rệt rằng: ‘Sắc thuộc quá khứ, hiện tại, vị lai là vô thường theo ý nghĩa đoạn tận, là khổ não theo ý nghĩa kinh hãi, là vô ngã theo ý nghĩa không có cốt lỏi,’ ‘trực nhận một cách mau lẹ về sự diệt tận sắc là Niết Bàn’ là tuệ đổng tốc. Sau khi làm rõ rệt rằng: Thọ, tưởng, hành, thức, nhãn …(như trên)… Lão tử thuộc quá khứ, hiện tại, vị lai là vô thường theo ý nghĩa đoạn tận, …(như trên)… trực nhận một cách mau lẹ về sự diệt tận lão tử là Niết Bàn là tuệ đổng tốc. Sau khi làm rõ rệt rằng: Sắc thuộc quá khứ, hiện tại, vị lai; nhãn …(như trên)… Lão tử là vô thường, là pháp hữu vi, được tùy thuận sanh khởi, là pháp đoạn tận, là pháp biến hoại, là pháp ly tham ái, là pháp diệt tận,’ ‘trực nhận một cách mau lẹ về sự diệt tận lão tử là Niết Bàn là tuệ đổng tốc.
Katamā tikkhapaññā? Khippaṃ kilese chindatīti tikkhapaññā. Uppannaṃ kāmavitakkaṃ nādhivāseti, uppannaṃ byāpādavitakkaṃ, uppannaṃ vihiṃsāvitakkaṃ, uppannuppanne pāpake akusale dhamme uppannaṃ rāgaṃ dosaṃ mohaṃ kodhaṃ upanāhaṃ makkhaṃ paḷāsaṃ issaṃ macchariyaṃ māyaṃ sāṭheyyaṃ thambhaṃ sārambhaṃ mānaṃ atimānaṃ madaṃ pamādaṃ sabbe kilese sabbe duccarite sabbe abhisaṅkhāre sabbe bhavagāmikamme nādhivāseti pajahati vinodeti byantī karoti anabhāvaṃ gametīti tikkhapaññā. Ekasmiṃ āsane cattāro ariyamaggā cattāri sāmaññaphalāni catasso paṭisambhidāyo cha abhiññāyo adhigatā honti sacchikatā phassitā paññāyāti tikkhapaññā.
Tuệ sắc bén là gì? Cắt đứt các phiền não một cách mau lẹ là tuệ sắc bén. Không chịu đựng, dứt bỏ, làm tiêu tan, làm chấm dứt, làm cho không hiện hữu dục tầm đã sanh lên, sân độc tầm đã sanh lên, hãm hại tầm đã sanh lên, các pháp ác bất thiện đã được sanh khởi và chưa được sanh khởi, tham ái, sân hân, si mê, sự giận dữ, sự căm hận, sự gièm pha, sự hà hiếp, sự ganh tỵ, sự bỏn xẻn, sự xảo trá, sự đạo đức giả, sự bướng bỉnh, sự cống cao, sự ngã mạn, sự cao ngạo, sự kiêu căng, sự buông lung, toàn bộ phiền não, tất cả các ác hạnh, tất cả các thắng hành, tất cả nghiệp dẫn đến hữu là tuệ sắc bén. Ở một chỗ ngồi, bốn Thánh Đạo, bốn Quả vị Sa-môn, bốn phân tích, sáu thắng trí là được đắc chứng, được tác chứng, được chạm đến bằng tuệ’ là tuệ sắc bén.
Katamā nibbedhikapaññā? Idhekacco sabbasaṅkhāresu ubbegabahulo hoti uttāsabahulo ukkaṇṭhanabahulo aratibahulo anabhiratibahulo, bahimukho na ramati sabbasaṅkhāresu, anibbiddhapubbaṃ apadālitapubbaṃ lobhakkhandhaṃ nibbijjhati padāletīti nibbedhikapaññā. Anibbiddhapubbaṃ apadālitapubbaṃ dosakkhandhaṃ mohakkhandhaṃ kodhaṃ upanāhaṃ…pe… sabbe bhavagāmikamme nibbijjhati padāletīti nibbedhikapaññāti (paṭi. ma. 3.3).
Trạng tái tuệ thông suốt là gì? Ở đây, có người có nhiều kinh hoảng về tất cả các hành, có nhiều sợ sệt, có nhiều bất mãn, có nhiều không hứng thú, có nhiều không hứng khởi, tỏ vẻ không hứng thú ở tất cả các hành. Thông suốt, khám phá tham uẩn chưa được thông suốt trước đây, chưa được khám phá trước đây là tuệ thông suốt. Thông suốt, khám phá tham uẩn chưa được thông suốt trước đây, chưa được khám phá trước đây là tuệ thông suốt. Thông suốt, khám phá sân uẩn … si uẩn … sự giận dữ … sự căm hận …(như trên)… tất cả nghiệp dẫn đến hữu chưa được thông suốt trước đây, chưa được khám phá trước đây là tuệ thông suốt. (paṭi. ma. 3.3).
217. Pabbajitaṃ upāsitāti paṇḍitaṃ pabbajitaṃ upasaṅkamitvā payirupāsitā. Atthantaroti yathā eke randhagavesino upārambhacittatāya dosaṃ abbhantaraṃ karitvā nisāmayanti, evaṃ anisāmetvā atthaṃ abbhantaraṃ katvā atthayuttaṃ kathaṃ nisāmayi upadhārayi.
217. Vị ấy đã phục vụ bậc xuất gia: (vị ấy) đã đi đến phục vụ bậc xuất gia là bậc trí. Là người quan tâm về lợi ích: Một số người trong khi tìm kiếm lỗi lầm, đã tạo ra lỗi lầm bên trong do trạng thái tâm phê bình rồi suy xét như thế nào, đức Bồ-tát không suy xét như vậy. Ngài đã thực hiện lợi ích ở bên trong rồi suy xét, cân nhắc bằng những lời giảng liên quan đến lợi ích.
Paṭilābhagatenāti paṭilābhatthāya gatena. Uppādanimittakovidāti uppāde ca nimitte ca chekā. Avecca dakkhitīti ñatvā passissati.
Nhờ vào nghiệp hướng đến việc đạt được tuệ: Hướng đến sự thành tựu. Các vị thông thạo về biểu hiện sanh lên: là vị thông thạo về điềm báo và biểu hiện. Sẽ xuyên thấu và nhìn thấy: đã biết rõ, và sẽ thấy.
Atthānusiṭṭhīsu pariggahesu cāti ye atthānusāsanesu pariggahā atthānatthaṃ pariggāhakāni ñāṇāni, tesūti attho.
Trong việc giáo huấn về lợi ích và về các vật sở hữu: Các vật sở hữu trong việc giảng dạy về lợi ích, các loại trí được xác định đến điều lợi ích và điều không lợi ích.
Giải thích tướng trạng có màu da vàng ròng
218. Akkodhanoti na anāgāmimaggena kodhassa pahīnattā, atha kho sacepi me kodho uppajjeyya, khippameva naṃ paṭivinodeyyanti evaṃ akkodhavasikattā. Nābhisajjīti kuṭilakaṇṭako viya tattha tattha mammaṃ tudanto viya na laggi. Na kuppi na byāpajjītiādīsu pubbuppattiko kopo. Tato balavataro byāpādo. Tato balavatarā patitthiyanā. Taṃ sabbaṃ akaronto na kuppi na byāpajji na patitthiyi. Appaccayanti domanassaṃ. Na pātvākāsīti na kāyavikārena vā vacīvikārena vā pākaṭamakāsi.
218. Không có sự giận dữ: Không phải do trạng thái đã dứt bỏ sự sân hận nhờ Đạo Bất Lai, do bản thể không nằm trong mãnh lực của sự giận dữ như vầy: Giả sử sự giận dữ có thể khởi lên nơi ta, ta cũng có khả năng làm tiêu tan sự giận dữ đó một cách nhanh chóng. Đã không nỗi giận: Không mắc vào giống như những cái gai cong đâm vào các vị trí trọng yếu trên cơ thể. Đã không bực tức, đã không tức giận, v.v, sự bực tức khởi lên trước, tiếp đến là sự tức giận có cường độ mạnh mẽ hơn sự giận dữ ấy. Tiếp đến, là lòng thù hận có cường độ mạnh mẽ hơn sự tức giận ấy. Như Lai không làm theo tất cả những lời đó nên đã không bực tức, đã không tức giận, đã không thù hận. Không bằng lòng: sự ưu phiền. Đã không biểu lộ: Đã không làm cho hiển lộ qua thân biểu tri hoặc với khẩu biểu tri.
Idha kammaṃ nāma dīgharattaṃ akkodhanatā ceva sukhumattharaṇādidānañca. Kammasarikkhakaṃ nāma kodhanassa chavivaṇṇo āvilo hoti mukhaṃ duddasiyaṃ vatthacchādanasadisañca maṇḍanaṃ nāma natthi. Tasmā yo kodhano ceva vatthacchādanānañca adātā, so iminā kāraṇenassa jano kodhanādibhāvaṃ jānātūti dubbaṇṇo hoti dussaṇṭhāno. Akkodhanassa pana mukhaṃ virocati, chavivaṇṇo vippasīdati. Sattā hi catūhi kāraṇehi pāsādikā honti āmisadānena vā vatthadānena vā sammajjanena vā akkodhanatāya vā. Imāni cattāripi kāraṇāni dīgharattaṃ tathāgatena katāneva. Tenassa imesaṃ katabhāvaṃ sadevako loko iminā kāraṇena jānātūti suvaṇṇavaṇṇaṃ mahāpurisalakkhaṇaṃ nibbattati. Lakkhaṇaṃ nāma idameva lakkhaṇaṃ. Sukhumattharaṇādilābhitā ānisaṃso.
Ở đây, trạng thái không có sự giận dữ trong suốt thời gian dài và bố thí thảm trải bằng vải mịn màng, v.v., được gọi là nghiệp. Thật vậy, màu da của người hay giận dữ thường có màu da tối tăm, khuôn mặt xấu xí, các vật trang sức như vải che là không có. Vì thế, kẻ nào hay giận dữ và không bố thí vải che, người đời hãy biết rằng: “Bản thể kẻ ấy là người hay giận dữ, v.v, với các lý do này trở thành người có màu da tối tăm, thân hình xấu xí. Ngược lại, khuôn mặt của người không giận dữ thì trong sáng, màu da tươi sáng. Thật vậy, chúng sanh trở nên dễ mến bởi bốn lý do là– Với sự bố thí tài vật, với sự bố thí y phục, với các dụng cụ quét dọn, hoặc với bản tánh là người không giận dữ. Cả bốn lý do này, hoàn toàn đã được thực hiện bởi đức Như Lai trong suốt thời gian dài. Vì vậy, với những lý do này, thế gian cùng với thế giới chư thiên hãy biết bản thể Như Lai đã thực hiện những điều này; do đó, đại nhân tướng có màu da tựa như vàng ròng được hiện khởi được gọi là kết quả tương tự với nghiệp. Trạng thái này gọi là tướng trạng. Bản thể vị đạt được tấm trải mềm mịn, v.v, được gọi là lợi ích.
219. Abhivissajīti abhivissajjesi. Mahimiva suro abhivassanti suro vuccati devo, mahāpathaviṃ abhivassanto devo viya.
219. Vị ấy đã ban phát: đã ban phát. Tựa như vị Thiên thần đang đổ mưa xuống trái đất: Mưa ngài gọi là vị Thiên, tựa như mưa đổ xuống khắp đại địa cầu.
Suravarataroriva indoti surānaṃ varataro indo viya. Apabbajjamicchanti apabbajjaṃ gihibhāvaṃ icchanto. Mahatimahinti mahantiṃ pathaviṃ. Acchādanavatthamokkhapāvuraṇānanti acchādanānañceva vatthānañca uttamapāvuraṇānañca. Panāsoti vināso.
Tựa như Thiên tử Inda cao quý vượt trội chư Thiên: Tựa như Thiên tử Inda cao quý vượt trội chư Thiên. Không ước muốn trở thành vị xuất gia: Ước muốn bản thể người sống tại gia, không phải bậc xuất gia. Đại địa cầu: trái đất to lớn. Các tấm choàng, các tấm vải, và các tấm đắp hạng nhất: Các tấm choàng, các tấm vải, và các tấm đắp hạng nhất. Sự hư hoại: sự hủy hoại.
Giải thích tướng trạng có nam căn được giấu kín trong lớp vỏ bọc
220. Mātarampiputtena samānetā ahosīti imaṃ kammaṃ rajje patiṭṭhitena sakkā kātuṃ. Tasmā bodhisattopi rajjaṃ kārayamāno antonagare catukkādīsu catūsu nagaradvāresu bahinagare catūsu disāsu imaṃ kammaṃ karothāti manusse ṭhapesi. Te mātaraṃ kuhiṃ me putto puttaṃ na passāmīti vilapantiṃ pariyesamānaṃ disvā ehi, amma, puttaṃ dakkhasīti taṃ ādāya gantvā nahāpetvā bhojetvā puttamassā pariyesitvā dassenti. Esa nayo sabbattha.
220. Đã đem lại sự đoàn tụ giữa mẹ với con trai: Công việc này có thể thực hiện bởi đức vua, vị đang trị vì vương quốc. Do đó, ngay cả khi còn là Bồ-tát, trong lúc trị vì vương quốc, Ngài đã bố trí mọi người hãy làm công việc tại bốn cổng thành bao gồm tại các ngã tư ở bên trong thành và ở bốn phương hướng bên ngoài thành. Họ sau khi nhìn thấy người mẹ than khóc tìm kiếm con trai: “Con trai của tôi đâu rồi? Tôi không thấy con trai mình đâu cả!” Rồi họ nói: Này bã, hãy đến đây! – Bà sẽ nhìn thấy con trai của bà. Sau khi đưa người mẹ đó đi, đã cho tắm rửa, đã cho ăn uống, sau khi tìm gặp đã đưa đến trình diện người mẹ đó. Trong các đoạn kế tiếp cũng áp dụng cách thức này.
Idha kammaṃ nāma dīgharattaṃ ñātīnaṃ samaṅgibhāvakaraṇaṃ. Kammasarikkhakaṃ nāma ñātayo hi samaṅgībhūtā aññamaññassa vajjaṃ paṭicchādenti. Kiñcāpi hi te kalahakāle kalahaṃ karonti, ekassa pana dose uppanne aññaṃ jānāpetuṃ na icchanti. Ayaṃ nāma etassa dosoti vutte sabbe uṭṭhahitvā kena diṭṭhaṃ kena sutaṃ, amhākaṃ ñātīsu evarūpaṃ kattā nāma natthīti. Tathāgatena ca taṃ ñātisaṅgahaṃ karontena dīgharattaṃ idaṃ vajjappaṭicchādanakammaṃ nāma kataṃ hoti. Athassa sadevako loko iminā kāraṇena evarūpassa kammassa katabhāvaṃ jānātūti kosohitavatthaguyhalakkhaṇaṃ nibbattati. Lakkhaṇaṃ nāma idameva lakkhaṇaṃ. Pahūtaputtatā ānisaṃso.
Ở đây, việc khiến cho các quyến thuộc luôn luôn hòa thuận với nhau gọi là nghiệp. Thật vậy, bà con quyến thuộc khi đã có sự hòa thuận thường che giấu lỗi lầm của nhau. Dù rằng họ có tranh cãi với nhau lúc xảy ra xung đột, nhưng khi xảy ra lỗi lầm cho một người thì họ cũng không mong muốn để người khác biết. Nếu có người hỏi rằng– đây là lỗi lầm của một ai đó, tất cả sẽ đứng lên nói: ‘Ai đã thấy? Ai đã nghe?’ Trong số các thân quyến của chúng tôi không có ai đã làm điều như vậy.’ Và đức Như Lai khi thực hiện việc trợ giúp các thân quyến, Ngài đã làm công việc là sự che giấu lỗi lầm này suốt thời gian dài. Sau đó, bởi lý do này, thế gian cùng với thế giới chư thiên hãy biết rằng trạng thái của nghiệp đã được tạo ra có hình thức như vậy. Do đó, tướng trạng có nam căn được giấu kín bên trong lớp vỏ bọc được hiện khởi gọi là kết quả tương tự với nghiệp. Chính trạng thái này gọi là tướng trạng. Trạng thái có nhiều con trai gọi là lợi ích.
221. Vatthachādiyanti vatthena chādetabbaṃ vatthaguyhaṃ. Amittatāpanāti amittānaṃ patāpanā. Gihissa pītiṃ jananāti gihibhūtassa sato pītijananā.
221. Vật được che lại: Nên được che đậy dưới lớp vải, bọc lại dưới lớp vải. Có sự thiêu đốt những kẻ thù: Thiêu đốt kẻ thù. Tạo ra niềm vui cho bậc đại nhân khi vẫn là người tại gia: khiến niềm hỷ lạc được sanh khởi đến vị ấy (nếu là) người tại gia.
Giải thích các tượng trạng thân hình tròn đều và xoa đầu gối không phải cúi xuống
222. Samaṃ jānātīti ‘‘ayaṃ tārukkhasamo ayaṃ pokkharasātisamo’’ti evaṃ tena tena samaṃ jānāti. Sāmaṃ jānātīti sayaṃ jānāti. Purisaṃ jānātīti ‘‘ayaṃ seṭṭhasammato’’ti purisaṃ jānāti. Purisavisesaṃ jānātīti muggaṃ māsena samaṃ akatvā guṇavisiṭṭhassa visesaṃ jānāti. Ayamidamarahatīti ayaṃ puriso idaṃ nāma dānasakkāraṃ arahati. Purisavisesakaro ahosīti purisavisesaṃ ñatvā kārako ahosi. Yo yaṃ arahati, tasseva taṃ adāsi. Yo hi kahāpaṇārahassa aḍḍhaṃ deti, so parassa aḍḍhaṃ nāseti. Yo dve kahāpaṇe deti, so attano kahāpaṇaṃ nāseti. Tasmā idaṃ ubhayampi akatvā yo yaṃ arahati, tassa tadeva adāsi. Saddhādhanantiādīsu sampattipaṭilābhaṭṭhena saddhādīnaṃ dhanabhāvo veditabbo.
222. Biết được người ngang bằng: Biết những người ngang bằng nhau bởi các lý do đó như vầy “Người này ngang bằng với Tārukkhā Niggantha, người này ngang bằng với Pokkharasāti.” Tự biết mình: Tự biết mình. Biết về người: Biết về người rằng “đây là hạng người được xem là tối thắng”. Biết được sự khác biệt của từng người: Không xem đậu xanh ngang bằng với đậu ván, (mà) biết được sự khác biệt của người cao cả về đức hạnh. Người này xứng đáng vật này: Người này xứng đáng (nhận được) sự tôn kính là vật thí tên này. Người hành động tùy theo sự khác biệt: Người nam này xứng đáng được tôn kính với danh hiệu này. Vị ấy đã là người hành động, bởi vì (vị ấy) biết được sự khác biệt của từng người. Người nào xứng đáng vật nào, (vị ấy) đã bố thí vật ấy đến chính người ấy. Bởi vì, người nào cho một nửa đồng tiền đến người xứng đáng một đồng tiền, thì người ấy đã làm mất một nửa phần tiền của người khác. Người nào cho hai đồng tiền đến người chỉ đáng một đồng, thì tự mình đã làm mất một đồng tiền. Do đó, đã không thực hiện cả hai điều đó, người nào xứng đáng vật nào, (vị ấy) đã bố thí vật ấy đến người đó. Trong câu rằng tài sản là đức tin, v.v, nên được hiểu bản chất là tài sản của đức tin theo ý nghĩa đạt được sự thành tựu.
Idha kammaṃ nāma dīgharattaṃ purisavisesaṃ ñatvā kataṃ samasaṅgahakammaṃ. Kammasarikkhakaṃ nāma tadassa kammaṃ sadevako loko iminā kāraṇena jānātūti imāni dve lakkhaṇāni nibbattanti. Lakkhaṇaṃ nāma idameva lakkhaṇadvayaṃ. Dhanasampatti ānisaṃso.
Nghiệp ở đây là hành động trợ giúp một cách bình đẳng sau khi biết được sự khác biệt của từng người đã thực hiện trong suốt thời gian dài. Thế gian cùng với thế giới chư thiên hãy biết nghiệp ấy của đức Bồ-tát bởi lý do này; do đó, hai tướng trạng này được hiện khởi gọi là kết quả tương tự với nghiệp. Chính hai tướng này gọi là tướng trạng. Sự thành tựu về tài sản là lợi ích.
223. Tuliyāti tulayitvā. Paṭivicayāti paṭivicinitvā. Mahājanasaṅgāhakanti mahājanasaṅgahaṇaṃ. Samekkhamānoti samaṃ pekkhamāno. Atinipuṇāmanujāti atinipuṇā sukhumapaññā lakkhaṇapāṭhakamanussā. Bahuvividhā gihīnaṃ arahānīti bahū vividhāni gihīnaṃ anucchavikāni paṭilabhati. Daharo susu kumāro ‘‘ayaṃ daharo kumāro paṭilabhissatī’’ti byākaṃsu mahīpatissāti rañño.
223. Sau khi cân nhắc: sau khi suy xét. Sau khi tìm hiểu: sau khi nghiên cứu. Sự trợ giúp đối với công chúng: Sự trợ giúp đối với đám đông người. Trong khi xem xét: Trong khi xem xét đều đặn. Những người cực kỳ tinh thông: Những người xem tướng cực kỳ thông thạo, vô cùng trí tuệ. Nhiều thứ xứng đáng dành cho những người tại gia: Nhiều thứ phù hợp đối với những người tại gia. Vị hoàng tử trẻ, nhỏ tuổi, đạt được (nhiều thứ): Các nhà tướng số nói rằng– “Hoàng tử trẻ này sẽ đạt được.” Đối với vị chúa của trái đất: đức vua.
Giải thích về tướng trạng nửa phần thân trước của sư tử
224. Yogakkhemakāmoti yogato khemakāmo. Paññāyāti kammassakatapaññāya. Idha kammaṃ nāma mahājanassa atthakāmatā. Kammasarikkhakaṃ nāma taṃ mahājanassa atthakāmatāya vaḍḍhimeva paccāsīsitabhāvaṃ sadevako loko iminā kāraṇena jānātūti imāni samantaparipūrāni aparihīnāni tīṇi lakkhaṇāni nibbattanti. Lakkhaṇaṃ nāma idameva lakkhaṇattayaṃ. Dhanādīhi ceva saddhādīhi ca aparihāni ānisaṃso.
224. Mong muốn sự an toàn khỏi các trói buộc: Mong muốn sự an toàn khỏi các trói buộc. Bằng tuệ: Bằng tuệ (hiểu rõ) về tính chất hữu chủ của nghiệp. Ở đây, trạng thái mong muốn lợi ích cho công chúng gọi là nghiệp. Thế gian cùng với thế giới chư thiên hãy biết rằng– trạng thái khởi tâm ước muốn đem lại sự tăng trưởng do sự mong muốn lợi ích cho số đông bởi các lý do này; do đó, ba tướng trạng toàn vẹn, không bị thiếu khuyết được hiện khởi, (điều đó) được gọi là kết quả tương tự với nghiệp. Ba tướng này gọi là tướng trạng. Trạng thái không bị tiêu hoại về tài sản, v.v, và về đức tin, v.v, gọi là lợi ích.
225. Saddhāyāti okappanasaddhāya pasādasaddhāya. Sīlenāti pañcasīlena dasasīlena. Sutenāti pariyattisavanena. Buddhiyāti etesaṃ buddhiyā , ‘‘kinti etehi vaḍḍheyyu’’nti evaṃ cintesīti attho. Dhammenāti lokiyadhammena. Bahūhi sādhūhīti aññehipi bahūhi uttamaguṇehi. Asahānadhammatanti aparihīnadhammaṃ.
225. Về đức tin: bằng đức tin do sự thành tựu, bằng đức tin do lòng tịnh tín. Về giới: bằng tám giới, bằng mười giới. Về việc học: bằng việc lắng nghe pháp học. Về sự sáng suốt: bằng sự hiểu biết về các pháp ấy, có nghĩa là đức Bồ-tát suy nghĩ như vầy– “Mọi người có thể tăng trưởng về các pháp này như thế nào?” Về pháp: về pháp thế gian. Về nhiều đức tính tốt đẹp: Bởi nhiều đức tính cao quý, luôn cả những điều khác. Biểu hiện báo trước ấy của người này sẽ không bị suy giảm: bản chất không tiêu hoại.
Giải thích tướng trạng thần kinh vị giác hạng nhất
226. Samābhivāhiniyoti yathā tilaphalamattampi jivhagge ṭhapitaṃ sabbattha pharati, evaṃ samā hutvā vahanti. Idha kammaṃ nāma aviheṭhanakammaṃ. Kammasarikkhakaṃ nāma pāṇiādīhi pahāraṃ laddhassa tattha tattha lohitaṃ saṇṭhāti, gaṇṭhi gaṇṭhi hutvā antova pubbaṃ gaṇhāti, antova bhijjati, evaṃ so bahurogo hoti. Tathāgatena pana dīgharattaṃ imaṃ ārogyakaraṇakammaṃ kataṃ. Tadassa sadevako loko iminā kāraṇena jānātūti ārogyakaraṃ rasaggasaggilakkhaṇaṃ nibbattati. Lakkhaṇaṃ nāma idameva lakkhaṇaṃ. Appābādhatā ānisaṃso.
226. Lưu chuyển khắp cơ thế: một vật có kích thước chỉ bằng hạt vừng đặt ở đầu lưỡi cũng lan tỏa đi khắp toàn thân như thế nào? Thần kinh vị giác cũng đem vị thức ăn lan tỏa đều đặn khắp cơ thể tương tự như thế. Ở đây, hành động không gây tổn thương gọi là nghiệp. Thật vậy, máu của người bị đánh bằng lòng bàn tay, v.v., (máu bầm) sẽ ứ đọng tại các vị trí đó, tạo thành cục u, mưng mủ bên trong và vỡ ra bên trong theo biểu hiện như thế, (do đó) người ấy trở thành là người có nhiều bệnh. Ngược lại, nghiệp (thiện) làm cho không có bệnh này đã được thực hiện bới đức Như Lai trong suốt thời gian dài. Thế gian cùng với thế giới chư thiên hãy biết nghiệp đó của đức Như Lai bởi các lý do ấy; do đó, tướng trạng có thần kinh vị giác hạng nhất làm cho không có bệnh được hiện khởi gọi là kết quả tương tự với nghiệp. Chính tướng này gọi là tướng trạng. Trạng thái ít bệnh tật là lợi ích.
227. Maraṇavadhenāti ‘‘etaṃ māretha etaṃ ghātethā’’ti evaṃ āṇattena maraṇavadhena. Ubbādhanāyāti bandhanāgārappavesanena.
227. Bằng cái chết và sự giết hại: Bằng cái chết và sự giết hại với mệnh lệnh như vầy: “Các ngươi hãy làm cho người này chết, hãy giết người này!” Bằng việc tống giam: bằng cách tống vào nhà giam.
Giải thích tướng trạng mắt màu xanh sẫm và lông mi như của loài bò
228. Na ca visaṭanti kakkaṭako viya akkhīni nīharitvā na kodhavasena pekkhitā ahosi. Na ca visācīti vaṅkakkhikoṭiyā pekkhitāpi nāhosi. Na ca pana viceyya pekkhitāti viceyya pekkhitā nāma yo kujjhitvā yadā naṃ paro oloketi, tadā nimmīleti na oloketi, puna gacchantaṃ kujjhitvā oloketi, evarūpo nāhosi. ‘‘Vineyyapekkhitā’’tipi pāṭho, ayamevattho. Ujuṃ tathā pasaṭamujumanoti ujumano hutvā uju pekkhitā hoti, yathā ca ujuṃ, tathā pasaṭaṃ vipulaṃ vitthataṃ pekkhitā hoti. Piyadassanoti piyāyamānehi passitabbo.
228. Không nhìn soi mói: (vị ấy) đã không nhìn chằm chằm do tác động sự giận dữ tương tự như loài cua thò mắt ra. Không liếc nhìn: đã không có dù là ánh mắt liếc nhìn bằng khóe mắt nghiêng lệch. Và hơn nữa, không là người nhìn trộm: Người nào đang giận dữ, khi nào người kia nhìn người đó, khi ấy (người đó) nhắm mắt không nhìn lại (người kia), nhưng khi người kia quay lưng bước đi thì (người đó) đã giận dữ nhìn theo, hình thức như thế đã không có (đối với đức Như Lai). Chánh văn Pāḷī ‘Vineyyapekkhitā’, điều này cũng có ý nghĩa tương tự. Là người nhìn thẳng, với tâm ý cởi mở, thẳng thắng như thế ấy: Đã là người có tâm ý ngay thẳng, là người nhìn thẳng, tức là nhìn một cách rộng mở, bao quát như tâm ngay thẳng; và nhìn (với tâm) ngay thẳng như thế nào, là nhìn (với tâm) rộng lớn, bao quát như thế ấy. Có dáng vóc đáng yêu: Nên được ngắm nhìn với tâm triều mến, với sự yêu thương.
Idha kammaṃ nāma dīgharattaṃ mahājanassa piyacakkhunā olokanakammaṃ. Kammasarikkhakaṃ nāma kujjhitvā olokento kāṇo viya kākakkhi viya hoti, vaṅkakkhi pana āvilakkhi ca hotiyeva. Pasannacittassa pana olokayato akkhīnaṃ pañcavaṇṇo pasādo paññāyati. Tathāgato ca tathā olokesi.
Ở đây, hành động ngắm nhìn bằng đôi mắt đầy thiện cảm của đông đảo quần chúng trong suốt thời gian dài gọi là nghiệp. Người đang sân hận trong khi nhìn giống như người bị mù một mắt, giống như con mắt của loài quạ; (người ấy) chắc chắn trở thành người bị mắt lé, mắt mờ đục. Nhưng người có tâm trong sáng khi nhìn, sắc thần kinh có năm màu của đôi mắt ấy được hiển lộ. Và đức Như Lai nhìn như thế ấy.
Athassa taṃ dīgharattaṃ piyacakkhunā olokitabhāvaṃ sadevako loko iminā kāraṇena jānātūti imāni nettasampattikarāni dve mahāpurisalakkhaṇāni nibbattanti. Lakkhaṇaṃ nāma idameva lakkhaṇadvayaṃ. Piyadassanatā ānisaṃso. Abhiyoginoti lakkhaṇasatthe yuttā.
Hơn nữa, thế gian cùng với thế giới chư thiên hãy biết trạng thái nhìn nhận bằng đôi mắt yêu thương trong suốt thời gian dài bởi lý do này; mà hai đại nhân tướng làm cho thành tựu đôi mắt được hiện khởi gọi là kết quả tương tự với nghiệp. Cả hai tướng này gọi là tướng trạng. Bản thể con người nhìn nhận bằng tình yêu thương được gọi là lợi ích. Mắt màu xanh sẵm: Được biên soạn trong luận thuyết về tướng học.
Tướng trạng có đầu tựa như đã được quấn khăn
230. Bahujanapubbaṅgamo ahosīti bahujanassa pubbaṅgamo ahosi gaṇajeṭṭhako. Tassa diṭṭhānugatiṃ aññe āpajjiṃsu. Idha kammaṃ nāma pubbaṅgamatā. Kammasarikkhakaṃ nāma yo pubbaṅgamo hutvā dānādīni kusalakammāni karoti, so amaṅkubhūto sīsaṃ ukkhipitvā pītipāmojjena paripuṇṇasīso vicarati, mahāpuriso ca hoti. Tathāgato ca tathā akāsi. Athassa sadevako loko iminā kāraṇena idaṃ pubbaṅgamakammaṃ jānātūti uṇhīsasīsalakkhaṇaṃ nibbattati. Lakkhaṇaṃ nāma idameva lakkhaṇaṃ. Mahājanānuvattanatā ānisaṃso.
230. Đã là người dẫn đầu quần chúng: Đã là người dẫn dầu, là người đứng đầu tập thể đại chúng. Những người khác có xu hướng theo quan điểm của Như Lai. Ở đây, bản thể con người đứng đầu gọi là nghiệp. Người nào là người dẫn đầu thực hành các pháp thiện như bố thí, v.v., người đó sẽ không ngại ngùng ngẩng cao đầu, là người có cái đầu hoàn hảo đi du hành bởi hỷ lạc và sự hân hoan, và bậc đại nhân đã là (như vậy). Và đức Như Lai đã làm như thế đó. Hơn nữa, thế gian cùng với thế giới chư thiên hãy biết hành động dẫn đầu của bậc đại nhân bởi lý do này; vì vậy, tướng trạng có đầu tựa như đã được quấn khăn được hiện khởi, điều này gọi là kết quả tương tự với nghiệp. Chính tướng này gọi là tướng trạng. Bản thể con người được quần chúng đồng thuận noi theo là lợi ích.
231.Bahujanaṃhessatīti bahujanassa bhavissati. Paṭibhogiyāti veyyāvaccakarā, etassa bahū veyyāvaccakarā bhavissantīti attho. Abhiharanti tadāti daharakāleyeva tadā evaṃ byākaronti. Paṭihārakanti veyyāvaccakarabhāvaṃ. Visavīti ciṇṇavasī.
231. Vị này sẽ là người dẫn đầu: Sẽ trở thành người dẫn đầu của nhiều người. Những người phục vụ: những người làm công việc phục vụ, giải thích rằng– sẽ có nhiều người làm công việc phục vụ sẽ cho vị ấy. Vào lúc ấy, các Bà-la-môn đã tiên đoán: Các Bà–la-môn đã tiên đoán như vậy, vào lúc Ngài vẫn còn bé. Vị ấy đạt được: trạng thái người phục vụ. Có sự thuần thục: Vị có sự thành tạo đã tích lũy.
Giải thích về tướng trạng một sợi lông một lỗ chân lông, v.v,
232.Upavattatīti ajjhāsayaṃ anuvattati, idha kammaṃ nāma dīgharattaṃ saccakathanaṃ. Kammasarikkhakaṃ nāma dīgharattaṃ advejjhakathāya parisuddhakathāya kathitabhāvamassa sadevako loko iminā kāraṇena jānātūti ekekalomalakkhaṇañca uṇṇālakkhaṇañca nibbattati. Lakkhaṇaṃ nāma idameva lakkhaṇadvayaṃ. Mahājanassa ajjhāsayānukūlena anuvattanatā ānisaṃso. Ekekalomūpacitaṅgavāti ekekehi lomehi upacitasarīro.
232. Noi gương: thực hành theo khuynh hướng. Ở đây, lời nói chân thật trong suốt thời gian dài gọi là nghiệp. Thế gian cùng với thế giới chư thiên hãy biết rằng tính chất lời nói của vị ấy bằng lời nói không hai mặt, bằng lời nói trong sạch trong suốt thời gian dài bởi lý do đó; do đó, tướng trạng có một sợi lông một lỗ chân lông và sợi lông trắng ở giữa chân mày được hiện khởi gọi là kết quả tương tự của nghiệp. Hai tướng này được gọi là tướng trạng. Sự tùy thuận đúng theo khuynh hướng của đại chúng gọi là lợi ích. Cơ thể được cấu thành có các sợi lông mọc riêng rẽ: Vị có thân thể được tạo lập bởi mỗi lỗ chân lông trên cơ thể Ngài chỉ có duy nhất một sợi lông mọc lên.
Giải thích tướng trạng có bốn mươi cái răng, và các răng không bị khoảng hở
234. Abhejjaparisoti abhinditabbapariso. Idha kammaṃ nāma dīgharattaṃ apisuṇavācāya kathanaṃ. Kammasarikkhakaṃ nāma pisuṇavācassa kira samaggabhāvaṃ bhindanato dantā aparipuṇṇā ceva honti viraḷā ca. Tathāgatassa pana dīgharattaṃ apisuṇavācataṃ sadevako loko iminā kāraṇena jānātūti idaṃ lakkhaṇadvayaṃ nibbattati. Lakkhaṇaṃ nāma idameva lakkhaṇadvayaṃ. Abhejjaparisatā ānisaṃso. Caturo dasāti cattāro dasa cattālīsaṃ.
234. Có hội chúng không bị chia rẽ: Không làm cho hội chúng bị chia rẽ. Ở đây, nói lời nói không ly gián trong suốt thời gian dài gọi là nghiệp. Nghe rằng người nói lời ly gián phá tan sự hòa hợp thì răng sẽ không đầy đủ và sẽ là người có răng thưa. Hơn nữa, thế gian cùng với thế giới chư thiên hãy biết rằng bản thể Như Lai có lời nói không ly gián trong suốt thời gian dài bởi lý do này; do đó, hai tướng trạng này được hiện khởi, đây gọi là kết quả tương tư với nghiệp. Chín hai tướng này được gọi là tướng trạng. Có hội chúng không bị chia rẽ là lợi ích. Có bốn mươi chiếc răng: mười nhân bốn bằng bốn mươi.
Giải thích tướng trạng lưỡi dài rộng và giọng nói như của Phạm Thiên
236. Ādeyyavāco hotīti gahetabbavacano hoti. Idha kammaṃ nāma dīgharattaṃ apharusavāditā. Kammasarikkhakaṃ nāma ye pharusavācā honti, te iminā kāraṇena nesaṃ jivhaṃ parivattetvā parivattetvā pharusavācāya kathitabhāvaṃ jano jānātūti baddhajivhā vā honti, gūḷhajivhā vā dvijivhā vā mammanā vā. Ye pana jivhaṃ parivattetvā parivattetvā pharusavācaṃ na vadanti, te baddhajivhā gūḷhajivhā dvijivhā na honti. Mudu nesaṃ jivhā hoti rattakambalavaṇṇā. Tasmā tathāgatassa dīgharattaṃ jivhaṃ parivattetvā pharusāya vācāya akathitabhāvaṃ sadevako loko iminā kāraṇena jānātūti pahūtajivhālakkhaṇaṃ nibbattati. Pharusavācaṃ kathentānañca saddo bhijjati. Te saddabhedaṃ katvā pharusavācāya kathitabhāvaṃ jano jānātūti chinnassarā vā honti bhinnassarā vā kākassarā vā. Ye pana sarabhedakaraṃ pharusavācaṃ na kathenti, tesaṃ saddo madhuro ca hoti pemanīyo. Tasmā tathāgatassa dīgharattaṃ sarabhedakarāya pharusavācāya akathitabhāvaṃ sadevako loko iminā kāraṇena jānātūti brahmassaralakkhaṇaṃ nibbattati. Lakkhaṇaṃ nāma idameva lakkhaṇadvayaṃ. Ādeyyavacanatā ānisaṃso.
236. Có lời nói được chấp nhận: là có lời nói đáng tin cậy. Ở đây, trạng thái không nói lời thô thiển trong suốt thời gian dài gọi là nghiệp. Người nào là người có lời nói thô lỗ, người đời hãy biết rằng: bản chất những người ấy đã uốn lưỡi qua lại rồi nói lời thô thiển bởi lý do này; do đó, người ấy sẽ có lưỡi bị cứng đờ, có lưỡi bị dị dạng, có lưỡi bị chẻ đôi (lưỡi rắn), hoặc nói lắp bắp. Ngược lại, người nào tuy đã uốn lưỡi qua lại mà không nói lời thô thiển, (thì) người ấy là người không có lưỡi bị cứng đờ, không có lưỡi bị dị dạng, không có lưỡi bị chẻ đôi. Trái lại, lưỡi của người ấy mềm mại, có màu sắc (đỏ) tựa như tấm vải len nhuộm đỏ. Vì thế, thế gian cùng với thế giới chư thiên hãy biết bản thể Như Lai đã không uốn lưỡi qua lại rồi nói lời thô thiển bởi lý do này; Nhờ vậy, tướng trạng có lưỡi dài rộng được hiện khởi. Thêm nữa, giọng nói của người nói lời thô thiển thường bị vỡ, người đời hãy biết rằng: bản chất những người ấy đã nói lời thô thiển khiến giọng nói bị vỡ; do đó, họ trở thành người có giọng nói bị đứt quãng, hoặc có giọng nói bị vỡ, hoặc có giọng nói tựa như tiếng quạ kêu. Ngược lại, người nào không nói lời thô thiển làm cho giọng nói bị vỡ, thì giọng nói của những người ấy trở nên ngọt ngào và đáng yêu. Chính vì điều đó, thế gian cùng với thế giới chư thiên hãy biết rằng: bản thể Như Lai đã không nói lời thô thiển làm cho giọng nói bị vỡ trong suốt thời gian dài bởi lý do này; do đó, tướng trạng có giọng nói như của Phạm Thiên được hiện khởi, (hai tướng trạng này) được gọi là kết quả tương tự với nghiệp. Chính hai tướng này được được gọi là tướng trạng. Bản thể vị có lời nói đáng tin cậy được gọi là lợi ích.
237. Ubbādhikanti akkosayuttattā ābādhakariṃ bahujanappamaddananti bahujanānaṃ pamaddaniṃ. Abāḷhaṃ giraṃ so na bhaṇi pharusanti ettha akāro parato bhaṇisaddena yojetabbo. Bāḷhanti balavaṃ atipharusaṃ. Bāḷhaṃ giraṃ so na abhaṇīti ayamettha attho. Susaṃhitanti suṭṭhu pemasañhitaṃ. Sakhilanti mudukaṃ. Vācāti vācāyo. Kaṇṇasukhāti kaṇṇasukhāyo. ‘‘Kaṇṇasukha’’ntipi pāṭho, yathā kaṇṇānaṃ sukhaṃ hoti, evaṃ erayatīti attho. Vedayathāti vedayittha. Brahmassarattanti brahmassarataṃ. Bahuno bahunti bahujanassa bahuṃ. ‘‘Bahūnaṃ bahunti’’pi pāṭho, bahujanānaṃ bahunti attho.
237. Lời nói gây ra sự tổn thương. Gây ra sự tổn thương vì trạng thái gắn bó với lời mắng chửi. Gây hại cho nhiều người: Giẫm đạp lên rất nhiều người. Nên kết hợp từ ‘không’ trong câu ‘bậc đại nhân không nói lời thô bạo cộc cằn’ vào trước từ ‘nói’. Nặng nề: lời nói nặng nề có sức mạnh, rất thô thiển. Ở đây điều này có nghĩa rằng: ‘vị ấy không nói lời nặng nề’. Có lợi ích: Được thấm nhuần bởi sự yêu thương một cách tốt đẹp. Tử tế trong lời nói: nhẹ nhàng. Lời nói: tất cả lời nói. Nghe êm tai: Nghe dễ chịu. Cũng có bản đọc là ‘Kaṇṇasukhaṃ’, giải thích rằng– là sự dễ chịu ở lỗ tai như thế nào, thì thốt ra như thế đó. Đã cảm thọ: sự từng trải qua. Giọng nói như của Phạm Thiên: Là người có giọng nói tựa như giọng nói Phạm Thiên.
Giải thích tướng trạng quai hàm như loài sư tử
238. Appadhaṃsiko hotīti guṇato vā ṭhānato vā padhaṃsetuṃ cāvetuṃ asakkuṇeyyo. Idha kammaṃ nāma palāpakathāya akathanaṃ. Kammasarikkhakaṃ nāma ye taṃ kathenti, te iminā kāraṇena nesaṃ hanukaṃ cāletvā cāletvā palāpakathāya kathitabhāvaṃ jano jānātūti antopaviṭṭhahanukā vā vaṅkahanukā vā pabbhārahanukā vā honti. Tathāgato pana tathā na kathesi. Tenassa hanukaṃ cāletvā cāletvā dīgharattaṃ palāpakathāya akathitabhāvaṃ sadevako loko iminā kāraṇena jānātūti sīhahanulakkhaṇaṃ nibbattati. Lakkhaṇaṃ nāma idameva lakkhaṇaṃ. Appadhaṃsikatā ānisaṃso.
238. Là không thể bị tiêu diệt bởi bất cứ ai: Là người mà bất cứ ai cũng không thể tiêu diệt, tức là (không ai có thể) khiến cho đức hạnh hoặc địa vị (của vị ấy) bị thay đổi. Ở đây, việc không nói lời nhảm nhí gọi là nghiệp. Người nào nói lời như thế, người đời hãy biết rằng– trạng thái (mà) họ đã run hàm rồi mới nói lời nhảm nhí bởi lý do này; do đó, người ấy trở thành người có hàm thụt vào bên trong, hoặc có hàm bị lệch, hoặc có hàm tựa như vách núi. Ngược lại, đức Như Lai không nói những lời nhảm nhí như thế. Thế gian cùng với thế giới chư thiên hãy biết (rằng) bản thể Như Lai đã không làm rung hàm rồi nói lời phù phiếm trong suốt thời gian dài bởi lý do này; do đó, tướng trạng là có hàm (cằm) giống như hàm sư tử được hiện khởi, điều này được gọi là kết quả tương tự với nghiệp. Chính tướng này được gọi là tướng trạng. Bản thể vị không thể bị tiêu diệt bởi bất cứ ai được gọi là lợi ích.
239. Avikiṇṇavacanabyappatho cāti avikiṇṇavacanānaṃ viya purimabodhisattānaṃ vacanapatho assāti avikiṇṇavacanabyappatho. Dvidugamavaratarahanuttamalatthāti dvīhi dvīhi gacchatīti dvidugamo, dvīhi dvīhīti catūhi, catuppadānaṃ varatarassa sīhasseva hanubhāvaṃ alatthāti attho. Manujādhipatīti manujānaṃ adhipati. Tathattoti tathasabhāvo.
239. Là người diễn đạt lời nói không lộn xộn. Là người có sự diễn đạt lời nói không rối rắm được xem là dòng lời nói của các vị Bồ-tát trước, giống như của người không nói lời tạp nhạp. Vị ấy đã đạt được quai hàm của loài sư tử cao quý hơn các loài bốn chân : được gọi là ‘loài hai chân’ do di chuyển bằng hai chân trước và hai chân sau, dvīhi dvīhi (hai với hai) bằng catūhi (bốn), giải thích rằng– (vị ấy) đã đạt được đặc trưng có quai hàm tựa như quai hàm sư tử vượt trội hơn hẳn các loài bốn chân. Vị lãnh tụ của loài người: Là vị chúa tể của loài người. Có hình thức như thế: có bản thể thật.
Giải thích tướng trạng răng đều đặn và ranh nanh trắng đẹp
240. Suciparivāroti parisuddhaparivāro. Idha kammaṃ nāma sammājīvatā. Kammasarikkhakaṃ nāma yo visamena saṃkiliṭṭhājīvena jīvitaṃ kappeti, tassa dantāpi visamā honti dāṭhāpi kiliṭṭhā. Tathāgatassa pana samena suddhājīvena jīvitaṃ kappitabhāvaṃ sadevako loko iminā kāraṇena jānātūti samadantalakkhaṇañca susukkadāṭhālakkhaṇañca nibbattati. Lakkhaṇaṃ nāma idameva lakkhaṇadvayaṃ. Suciparivāratā ānisaṃso.
240. Là có tùy tùng thanh liêm: Có tùy tùng liêm khiết. Ở đây, bản tánh người có nghề nghiệp chân chánh gọi là nghiệp. Người nào duy trì mạng sống bằng nghề nghiệp không trong sạch, không ngay thẳng; không những răng của người đó không đều, mà răng nanh cũng dơ bẩn. Hơn nữa, thế giới cùng với thế giới chư thiên hãy biết bản thể Như Lai đã duy trì mạng sống bằng nghề nghiệp thanh tịnh, ngay thẳng bởi lý do này; do đó, tướng trạng có hàm răng đều đặn và tướng trạng có răng nanh trắng đẹp được hiện khởi, điều này được gọi là kết quả tương tự với nghiệp. Chính hai tướng này là tướng trạng. Việc có tùy tùng thanh liêm được gọi là lợi ích.
241. Avassajīti pahāsi. Tidivapuravarasamoti tidivapuravarena sakkena samo. Lapanajanti mukhajaṃ, dantanti attho. Dijasamasukkasucisobhanadantoti dve vāre jātattā dijanāmakā sukkā suci sobhanā ca dantā assāti dijasamasukkasucisobhanadanto. Na ca janapadatudananti yo tassa cakkavāḷaparicchinno janapado, tassa aññena tudanaṃ pīḷā vā ābādho vā natthi. Hitamapi ca bahujana sukhañca carantīti bahujanā samānasukhadukkhā hutvā tasmiṃ janapade aññamaññassa hitañceva sukhañca caranti. Vipāpoti vigatapāpo. Vigatadarathakilamathoti vigatakāyikadarathakilamatho. Malakhilakalikilese panudehīti rāgādimalānañceva rāgādikhilānañca dosakalīnañca sabbakilesānañca apanudehi. Sesaṃ sabbattha uttānatthamevāti.
241. Vị ấy đã buông bỏ: đã dứt bỏ. Là vị tương đương với vị Trời Sakka cao quý ở thành trì cõi Tam Thập: Có sự tương đương với vị Trời Sakka cao quý ở thành trì cõi Tam Thập. Có răng đều đặn: Những cái (răng) mọc trong khoang miệng, tức là răng. Có răng mọc hai lần, đều đặn, trắng, trong sạch, sáng bóng: Được gọi là dija– sama– sukka– suci– sobhana– danto bởi có răng trắng, sạch sẽ, sáng bóng; gọi là dija bởi có răng mọc hai lần. Và không có sự xâm lăng của các xứ sở: Xứ sở nào đã được bao quanh bởi vũ trụ của người ấy, không có sự xâm lược, đàn áp hay bệnh tật từ kẻ khác đối với người ấy. Thực hành sự lợi ích và sự hạnh phúc của quần chúng: Quần chúng đã là người cùng vui buồn giống nhau, thực hành điều lợi ích và sự hạnh phúc lẫn nhau ở xứ sở đó. Không còn điều xấu xa: tránh xa các điều ác. Có sự lo lắng và mệt mỏi đã được xa lìa: Sự lo lắng và sự mệt nhọc đã được xa lia ở thân. Vị ấy xua đi những vết nhơ, bướng bỉnh, tội lỗi, và ô nhiễm Làm tiêu tan tất cả phiền não là uế nhiễm có ái luyến, v.v., là gốc rễ có luyến ái, v.v., và là tội lỗi tức là sân hận. Các từ ngữ còn lại trong toàn bộ đoạn văn đều có ý nghĩa dễ hiểu.
Giải Thích Kinh Tướng Trạng được kết thúc – Kinh thứ bảy (30).
Trong Chú Giải Trường Bộ Kinh là Sumaṅgalavilāsī.