Giải Thích Kinh Tiếng Rống Sư Tử (Đại sư tử hống hoặc Ca Diếp Sư Tử Hống)

(Mahāsīhanādasuttavaṇṇanā )

Xem Trường Bộ Kinh – Kinh Đại sư tử hống (Ca Diếp Sư Tử Hống)

381. Evaṃ me sutaṃ … pe … uruññāyaṃ viharatīti mahāsīhanādasuttaṃ. Tatrāyaṃ apubbapadavaṇṇanā. Uruññāyanti uruññāti tassa raṭṭhassapi nagarassapi etadeva nāmaṃ, bhagavā uruññānagaraṃ upanissāya viharati. Kaṇṇakatthale migadāyeti tassa nagarassa avidūre kaṇṇakatthalaṃ nāma eko ramaṇīyo bhūmibhāgo atthi. So migānaṃ abhayatthāya dinnattā “migadāyo”ti vuccati, tasmiṃ kaṇṇakatthale migadāye. Aceloti naggaparibbājako. Kassapoti tassa nāmaṃ. Tapassinti tapanissitakaṃ. Lūkhājīvinti acelakamuttācārādivasena lūkho ājīvo assāti lūkhājīvī, taṃ lūkhājīviṃ. Upakkosatīti upaṇḍeti. Upavadatīti hīḷeti vambheti. Dhammassa ca anudhammaṃ byākarontīti bhotā gotamena vuttakāraṇassa anukāraṇaṃ kathenti. Sahadhammiko vādānuvādoti parehi vuttakāraṇena sakāraṇo hutvā tumhākaṃ vādo vā anuvādo vā viññūhi garahitabbaṃ, kāraṇaṃ koci appamattakopi kiṃ na āgacchati. Idaṃ vuttaṃ hoti, “kiṃ sabbākārenapi tava vāde gārayhaṃ kāraṇaṃ natthī”ti. Anabbhakkhātukāmāti na abhūtena vattukāmā.

381. Bài Kinh Tiếng Rống Sư Tử: “Tôi đã nghe như vầy …nt… trú tại thành Uruññā[1]”. Ở đây, bài Kinh này được giải thích theo tuần tự như sau – Từ Uruññā trong từ Uruññaṃ ấy là tên gọi của xứ sở, của thành phố đó, đức Thế Tôn sống nương tựa ở thành Uruññā. Ở vườn nai Kaṇṇakatthala: một vùng vùng đất xinh xắn tên là Kaṇṇakatthala nằm ở không xa thành phố ấy. Vùng đât ấy được gọi là ‘vườn nai’ bởi vì ban sự không sợ hãi cho các con nai, trong vườn nai Kaṇṇakatthala ấy. Du sĩ lõa thể: du sĩ ngoại đạo lõa lồ. Kassapa: là tên của vị xuất gia ấy. Vị thực hành khổ hạnh: vị nương vào khổ hạnh. Vị có lối sống khắc khổ: Việc nuôi mạng của du sĩ ngoại đạo ấy có đời sống khốn khổ về phương diện lõa lồ và vị thực hành bừa bãi, vì thế gọi là có lối sống khắc khổ, vị có lối sống khắc khổ ấy. Phản đối: khiển trách. Khiển trách: chế giễu, khinh miệt. Có phải họ nói phù hợp với sự việc (đã được ngài Gotama nói)? Nói về nguyên nhân phù hợp với nguyên nhân đã được ngài Gotama nói. Chủ trương chính và phụ hợp lý: Chủ trương chính và phụ của ngài, có lý do dựa vào lý do được nói bởi người khác. Điều này được giải thích (như sau), “nguyên nhân đáng bị chê trách trong lời nói của ngài không có chăng?” Không có ý muốn nói sai trái: Không muốn nói với lời nói không thật.

382. Ekaccaṃ tapassiṃ lūkhājīvintiādīsu idhekacco acelakapabbajjāditapanissitattā tapassī “lūkhena jīvitaṃ kappessāmī”ti tiṇagomayādibhakkhanādīhi nānappakārehi attānaṃ kilameti, appapuññatāya ca sukhena jīvitavuttimeva na labhati, so tīṇi duccaritāni pūretvā niraye nibbattati.

382. Ta nhìn thấy một số hành giả khổ hạnh có lối sống khốn khổ v.v, nên biết như vầy, một số người ở đời này có lối sống khổ hạnh, do nương vào khổ hạnh có việc xuất gia trở thành du sĩ lõa thể v.v, (nghĩ rằng)  “Ta sẽ nuôi mạng bằng thứ thô xấu” khiến bản thân khắc khổ bằng nhiều hình thức khác nhau chẳng hạn ăn cỏ và ăn phân bò v.v, và không duy trì mạng sống bằng sự an lạc do ít phước báu, sau khi thực hành ba uế hạnh rồi đọa vào địa ngục.

Aparo tādisaṃ tapanissitopi puññavā hoti, labhati lābhasakkāraṃ. So “na dāni mayā sadiso atthī”ti attānaṃ ucce ṭhāne sambhāvetvā “bhiyyosomattāya lābhaṃ uppādessāmī”ti anesanavasena tīṇi duccaritāni pūretvā niraye nibbattati. Ime dve sandhāya paṭhamanayo vutto.

Mặt khác, nương vào khổ hạnh như thế là người có phước báu, đạt được lợi đắc và sự cung kính, Vị ấy nghĩ rằng: “Bây giờ, người như ta không có” tán thán bản thân đặt vào địa vị cao nghĩ rằng: “Ta sẽ làm cho lợi lộc phát sanh” sau khi thực hành ba uế hạnh nhờ vào mãnh lực tà mạng, rồi đọa vào địa ngục. Cách thức ban đầu nói đề cập đến cả hai hạng xuất gia này.

Aparo tapanissitako lūkhājīvī appapuñño hoti, na labhati sukhena jīvitavuttiṃ. So “mayhaṃ pubbepi akatapuññatāya sukhajīvikā nuppajjati, handadāni puññāni karomī”ti tīṇi sucaritāni pūretvā sagge nibbattati.

Mặt khác, nuôi mạng khắc khổ do nương vào khổ hạnh là người kém phước, không đạt được phương kế sinh nhai với sự an lạc. Vị ấy nghĩ rằng: “sự sống an lạc, không sanh khởi nơi tôi do không tạo phước trong thời quá khứ, thôi được rồi bây giờ tôi sẽ tạo phước” như thế rồi thực hành ba thiện hạnh để hóa sanh vào cõi trời.

Aparo lūkhājīvī puññavā hoti, labhati sukhena jīvitavuttiṃ. So — “mayhaṃ pubbepi katapuññatāya sukhajīvikā uppajjatī”ti cintetvā anesanaṃ pahāya tīṇi sucaritāni pūretvā sagge nibbattati. ime dve sandhāya dutiyanayo vutto.

Mặt khác, nuôi mạng khắc khổ nương vào khổ hạnh là người có phước, đạt được phương kế sinh nhai với sự an lạc, vị ấy sau khi suy nghĩ rằng: “Sự sống được an lạc sanh lên nơi ta do là người tạo phước trong thời quá khứ” đã dứt bỏ tà mạng rồi, đã thực hành ba thiện hạnh để hóa sanh vào cõi trời. Cách thức thứ hai nói đề cập đến cả hai hạng xuất gia này.

Eko pana tapassī appadukkhavihārī hoti bāhirakācārayutto tāpaso vā channaparibbājako vā, appapuññatāya ca manāpe paccaye na labhati. so anesanavasena tīṇi duccaritāni pūretvā attānaṃ sukhe ṭhapetvā niraye nibbattati.

Còn một vị thực hành khổ hạnh sống ít khổ đau gắn liền với sự thực hành bên ngoài là đạo sĩ hoặc xuất gia với (bộ phận cơ thể) được che đậy, không nhận được các món vật dụng ưa thích bởi vì ít phước, sau khi đặt mình vào sự an lạc đã sanh vào địa ngục.

Aparo puññavā hoti, so — “na dāni mayā sadiso atthī”ti mānaṃ uppādetvā anesanavasena lābhasakkāraṃ vā uppādento micchādiṭṭhivasena — “sukho imissā paribbājikāya daharāya mudukāya lomasāya[2] samphasso”tiādīni cintetvā kāmesu pātabyataṃ vā āpajjanto tīṇi duccaritāni pūretvā niraye nibbattati. ime dve sandhāya tatiyanayo vutto.

Mặt khác, (vị) có phước báu, đã làm sanh khởi ngã mạn rằng: “Bây giờ người ngang bằng ta không có” hoặc làm cho lợi đắc và sự cung kính được sanh khởi do tầm cầu không đúng đắn – vị ấy đã suy nghĩ do tác động tà kiến rằng – “Khoái lạc thay, sự xúc chạm của nữ du sĩ trẻ trung có tóc mềm mại này,” hoặc đắm mình trong các dục, đã thực hành ba ác hạnh rơi vào địa ngục. Cách thức thứ ba đề cập đến cả hai hạng xuất gia.

Aparo pana appadukkhavihārī appapuñño hoti, so — “ahaṃ pubbepi akatapuññatāya sukhena jīvikaṃ na labhāmī”ti tīṇi sucaritāni pūretvā sagge nibbattati.

Còn mặt khác, (vị) sống ít khổ, có ít phước, vị ấy nghĩ rằng – “Tôi không đạt được sự sống với sự an lạc do đã không tạo phước vào thời quá khứ” như thế rồi thực hành ba thiện hạnh để hóa sanh vào cõi trời.

Aparo puññavā hoti, so — “Pubbepāhaṃ[3] katapuññatāya sukhaṃ labhāmi, idāni puññāni[4] karissāmī”ti tīṇi sucaritāni pūretvā sagge nibbattati. Ime dve sandhāya catutthanayo vutto. Idaṃ titthiyavasena āgataṃ, sāsanepi pana labbhati.

Mặt khác, (vị) có phước, vị ấy nghĩ rằng – “Ta có được sự an lạc do đã tạo phước báu trong quá khứ, kể cả ngay bây giờ (ta) cũng sẽ tạo phước,” đã thực hành ba thiện hành sanh vào cõi trời. Cách thức thứ tư nói đến cả hai hạng xuất gia này. Việc thực hành này là lời dạy của ngoại đạo, không tồn tại trong Phật Giáo.

Ekacco hi dhutaṅgasamādānavasena lūkhājīvī hoti, appapuññatāya vā sakalampi gāmaṃ vicaritvā udarapūraṃ na labhati. So — “paccaye uppādessāmī”ti vejjakammādivasena vā anesanaṃ katvā, arahattaṃ vā paṭijānitvā, tīṇi vā kuhanavatthūni paṭisevitvā niraye nibbattati.

Thật vây, một số vị xuất gia là vị có cuộc sống khắc khổ nhờ mãnh lực việc thọ trì hạnh đầu đà, hoặc đi khắp làng cũng không nhận được vật thực no bụng bởi có ít phước. Vị ấy nghĩ rằng – “Sẽ làm cho các món vật dụng phát sanh” đã thực hành (lối sống) tà mạng về phương diện làm thầy thuốc v.v, nói khoác lác (tự xưng là bậc A-ra-hán, hoặc mê thích 3 kiểu cách gạt gẫm, rơi vào địa ngục.

Aparo ca tādisova puññavā hoti. So tāya puññasampattiyā mānaṃ janayitvā uppannaṃ lābhaṃ thāvaraṃ kattukāmo anesanavasena tīṇi duccaritāni pūretvā niraye uppajjati.

Và mặt khác, là người có phước tương tự như thế. Vị ấy vẫn khiến sanh khởi ngã mạn bởi sự thành tựu ấy, mong muốn làm cho lợi đắc đã sanh khởi được vững chắc, mới thực hành ba uế hạnh nhờ vào mãnh lực tà mạng, rơi vào địa ngục.

Aparo samādinnadhutaṅgo appapuññova hoti, na labhati sukhena jīvitavuttiṃ. So — “Pubbepāhaṃ[5] akatapuññatāya kiñci na labhāmi, sace idāni anesanaṃ karissaṃ, āyatimpi dullabhasukho bhavissāmī”ti tīṇi sucaritāni pūretvā arahattaṃ pattuṃ asakkonto sagge nibbattati.

Mặt khác, thọ trì hạnh đầu đà là người có ít phước, không có được sinh kế với sự an lạc. Vị ấy nghĩ rằng: “Tôi không đạt được bất kỳ điều gì bởi vì không từng tạo phước ở quá khứ, nếu như bây giờ sẽ thực hành tà mạng, dẫu tiếp tục cũng sẽ khó đạt được sự an lạc”, thực hành ba thiện hạnh, khi không thể chứng đắc A-ra-hán, cũng hóa sanh vào cõi trời.

Aparo puññavā hoti, so — “pubbepāhaṃ katapuññatāya etarahi sukhito, idānipi puññaṃ karissāmī”ti anesanaṃ pahāya tīṇi sucaritāni pūretvā arahattaṃ pattuṃ asakkonto sagge nibbattati.

Mặt khác, là vị có phước, vị ấy nghĩ rằng – “Ta có sự an lạc bởi đã tạo phước trong quá khứ, ngay bây giờ (ta) cũng sẽ tạo phước”, đã dứt bỏ tà mạng, thực hành ba thiện hạnh khi không thể chứng đắc A-ra-hán cũng hóa sanh vào thiên giới.

383. Āgatiñcāti — “asukaṭṭhānato nāma ime āgatā”ti evaṃ āgatiñca. Gatiñcāti idāni gantabbaṭṭhānañca. Cutiñcāti tato cavanañca. Upapattiñcāti tato cutānaṃ puna upapattiñca. Kiṃ sabbaṃ tapaṃ garahissāmīti — “Kena kāraṇena garahissāmi, garahitabbameva hi mayaṃ garahāma, pasaṃsitabbaṃ pasaṃsāma, na bhaṇḍikaṃ karonto mahārajako viya dhotañca adhotañca ekato karomā”ti dasseti. idāni tamatthaṃ pakāsento — “santi kassapa eke samaṇabrāhmaṇā”tiādimāha.

383. Việc đến – (biết) nơi đến như vầy – “Những người ấy đã đến từ chỗ kia”. Việc đi – Và khu vực có thể đi trong lúc này. Và sự chết – chuyển đi từ chỗ ấy. Và tái sanh: sự sanh khởi nữa của người đã chết từ chỗ ấy. Sẽ chê bai mọi hành giả khổ hạnh…tại sao vậy? Ta sẽ chê bai vì lý do, bởi vì ta chê bai những điều đáng chê bai, tán thán những điều đáng được tán thán không lẫn lộn, giống như người thợ nhuộm vải thực hiện việc cuộn vải (vị ấy) sẽ không gói vải đã được nhuộm và vải chưa được giặt với nhau. Bây giờ, khi ngài tuyên thuyết ý nghĩa ấy mới thuyết lời như sau: “Này Kassapa, một nhóm Sa-môn và Bà-la-môn.”

384. Yaṃ te ekaccanti pañcavidhaṃ sīlaṃ, tañhi loke na koci “na sādhū”ti vadati. Puna yaṃ te ekaccanti pañcavidhaṃ veraṃ, taṃ na koci “sādhū”ti vadati. Puna yaṃ te ekaccanti pañcadvāre asaṃvaraṃ, te kira — “cakkhu nāma na nirundhitabbaṃ, cakkhunā manāpaṃ rūpaṃ[6] daṭṭhabban”ti vadanti, esa nayo sotādīsu. Puna yaṃ te ekaccanti pañcadvāre saṃvaraṃ.

384. Vị ấy nói đến một số thứ ‘tốt đẹp’: năm loại giới, bởi vì không ai ở đời này nói năm giới ấy là ‘không tốt’. Hơn nữa, vị ấy nói đến một số thứ ‘không tốt’: năm sự thù nghịch, không ai nói đến năm sự thù nghịch ấy là ‘tốt đẹp’. Hơn nữa, vị ấy nói đến một số thứ ‘không tốt’: năm sự thu thúc trong năm môn, được biết vị ấy nói rằng: “Được gọi là con mắt không bị nhắm lại, có thể nhìn thấy sắc đáng ưa thích bằng con mắt”, cách này cũng có ở các môn khác có lỗ tai v.v. Thêm nữa, vị ấy nói đến một số thứ ‘tốt đẹp’: Sự thu thúc trong năm môn.

Evaṃ paresaṃ vādena saha attano vādassa samānāsamānataṃ dassetvā idāni attano vādena saha paresaṃ vādassa samānāsamānataṃ dassento “yaṃ mayan”tiādimāha. Tatrāpi pañcasīlādivaseneva attho veditabbo.

Khi đức Thế Tôn thuyết giảng sự đồng đẳng và không đồng đẳng về học thuyết của ngài với học thuyết của người khác như vậy. Bây giờ sẽ thuyết giảng sự đồng đẳng và không đồng đẳng thuộc học thuyết của người khác với học thuyết của ngài mới thuyết rằng: ‘Vị ấy nói đến một số thứ ‘tốt đẹp’ v.v. Luôn cả trong câu ấy cũng nên biết ý nghĩa do tác động của giới có năm giới v.v.

 

Giảng Giải Việc So Sánh Pháp Hành

385. Samanuyuñjantanti samanuyuñjantu, ettha ca laddhiṃ pucchanto samanuyuñjati nāma, kāraṇaṃ pucchanto samanugāhati nāma, ubhayaṃ pucchanto samanubhāsati nāma. Satthārā vā satthāranti satthārā vā saddhiṃ satthāraṃ upasaṃharitvā — “kiṃ te satthā te dhamme sabbaso pahāya vattati, udāhu samaṇo gotamo”ti. Dutiyapadepi eseva nayo.

385. Truy hỏi: hãy truy hỏi, và ở đây trong khi hỏi đến ý kiến gọi là truy hỏi, khi hỏi đến lý do gọi là tìm hiểu, khi hỏi đến cả hai gọi là xét hỏi. So sánh giữa vị thầy với vị thầy: So sánh giữa vị thày với vị thầy rằng – vị thầy của ngài đã dứt bỏ tất cả những pháp ấy ra sao? Luôn cả trong câu thứ hai cũng như thế tương tự.

Idāni tamatthaṃ yojetvā dassento — “ye imesaṃ bhavatan”tiādimāha. Tattha akusalā akusalasaṅkhātāti akusalā ceva “akusalā”ti ca saṅkhātā ñātā koṭṭhāsaṃ vā katvā ṭhapitāti attho. Esa nayo sabbapadesu. Api cettha sāvajjāti sadosā. Na alamariyāti niddosaṭṭhena ariyā bhavituṃ nālaṃ asamatthā.

Bây giờ, trong khi thuyết giảng kết hợp với ý nghĩa ấy – đã nói rằng “Các pháp nào…” Ở đó, đây là bất thiện, được xem là bất thiện: giải thích rằng – là bất thiện, được xem là, được biết là bất thiện, hoặc là, được thiết lập thành từng phần. Cách thức ở các câu cũng như thế. Lại nữa, trong những câu này ‘có lỗi lầm’ – diễn ra cùng với lỗi lầm. Không xứng với bậc Thánh: là không thể, không có khả năng vì là pháp cao thượng bởi ý nghĩa không có lỗi lầm.

386-392. Yaṃ viññū samanuyuñjantāti yena viññū amhe ca aññe ca pucchantā evaṃ vadeyyuṃ, taṃ ṭhānaṃ vijjati, atthi taṃ kāraṇanti attho. Yaṃ vā pana bhonto pare gaṇācariyāti pare pana bhonto gaṇācariyā yaṃ vā taṃ vā appamattakaṃ pahāya vattantīti attho. Amheva tattha yebhuyyena pasaṃseyyunti idaṃ bhagavā satthārā satthāraṃ samanuyuñjanepi āha — saṅghena saṃghaṃ samanuyuñjanepi. Kasmā? Saṅghapasaṃsāyapi satthuyeva pasaṃsāsiddhito. Pasīdamānāpi hi buddhasampattiyā saṅghe, saṅghasampattiyā ca buddhe pasīdanti, tathā hi bhagavato sarīrasampattiṃ[7] disvā, dhammadesanaṃ vā sutvā bhavanti vattāro — “Lābhā vata bho sāvakānaṃ ye evarūpassa satthu santikāvacarā”ti, evaṃ buddhasampattiyā saṅghe pasīdanti. Bhikkhūnaṃ panācāragocaraṃ abhikkamapaṭikkamādīni ca disvā bhavanti vattāro — “Santikāvacarānaṃ vata bho sāvakānaṃ ayañca upasamaguṇo satthu kīva rūpo bhavissatī”ti, evaṃ saṅghasampattiyā buddhe pasīdanti. iti yā satthupasaṃsā, sā saṅghassa. Yā saṅghassa pasaṃsā, sā satthūti saṅghapasaṃsāyapi satthuyeva pasaṃsāsiddhito bhagavā dvīsupi nayesu — “Amheva tattha yebhuyyena pasaṃseyyu”nti āha. Samaṇo gotamo ime dhamme anavasesaṃ pahāya vattati, yaṃ vā pana bhonto pare gaṇācariyātiādīsupi panettha[8] ayamadhippāyo — sampatta-samādāna-setughātavasena hi tisso viratiyo. Tāsu sampattasamādāna viratimattameva aññesaṃ hoti, setughātavirati pana sabbena sabbaṃ natthi. Pañcasu pana tadaṅga- vikkhambhana- samuccheda- paṭipassaddhi- nissaraṇappahānesu aṭṭhasamāpattivasena ceva vipassanāmattavasena ca tadaṅga- vikkhambhana-p- pahānamattameva aññesaṃ hoti. Itarāni tīṇi pahānāni sabbena sabbaṃ natthi. Tathā sīlasaṃvaro, khantisaṃvaro, ñāṇasaṃvaro, satisaṃvaro, vīriyasaṃvaroti pañca saṃvarā, tesu pañcasīlamattameva adhivāsanakhantimattameva ca aññesaṃ hoti, sesaṃ sabbena sabbaṃ natthi. Pañca kho panime uposathuddesā, tesu pañcasīlamattameva aññesaṃ hoti. pātimokkhasaṃvarasīlaṃ sabbena sabbaṃ natthi.

386-392. Các vị hiểu biết…trong khi tra hỏi: Khi bậc trí hỏi ta và người khác với câu nào đó thì nên nói như vậy, trường hợp ấy tồn tại, nghĩa là có lý do ấy. Trái lại các ngài khác, các vị thầy của tập thể: hơn nữa, các vị thầy tập thể khác chỉ dứt bỏ chút ít, có thế nào sử dụng thế ấy. Hầu hết ca ngợi chính chúng tôi: cả trong việc truy hỏi bậc đạo sư với bậc đạo sư, luôn cả trong việc truy hỏi chư tăng với chư tăng. Tại sao? Bởi vì việc tán thán chư tăng cũng là việc tán thán bậc đạo sư. Thật vậy, dẫu bậc trí tịnh tín cũng tịnh tín trong tăng chúng cùng với đức Phật và tịnh tín trong đức Phật cùng với hội chúng tỳ khưu, thật sự như thế, một người sau khi nhìn thấy được sự thành tựu hình tướng của đức Thế Tôn hoặc sau khi lắng nghe thuyết giảng Pháp thoại rồi nói rằng – “Này các ngài, quả thật là lợi đắc của các vị đệ tử du hành trong trú xứ của bậc đạo sư có hình thức như thế”, gọi là tịnh tín trong Tăng Chúng nhờ sự thành tựu giác ngộ như vậy. Và sau khi nhìn thấy hành vi và nơi lai vãng xấu xa, có việc bước tới bước lui v.v, của chư tỳ khưu là người đã nói rằng – “Quả thật này các ông, các vị đệ tử trong trú xứ có oai nghi thế này thì bậc đạo sư sẽ có oai nghi an tịnh (như) thế nào nữa, gọi là tịnh tín nơi đưc Phật bởi sự thành tựu ân đức tăng như thế thì việc tán thán bậc đạo sư cũng đồng nghĩ với việc tán thán Tăng Chúng, luôn cả việc tán thán Tăng Chúng cũng đồng nghĩa với việc tán thán  bậc Đạo Sư. Thậm chí đức Thế Tôn thuyết luôn cả hai cách thức rằng: “Ở đấy, hầu hết ca ngợi chính chúng tôi”. Vị nào dứt bỏ hoàn toàn các pháp này và tồn tại, Sa-môn Gotama hay là các ngài khác, các vị thầy của tập thể?’ Thật vậy, có ba sự kiêng tránh là (1) sự kiêng tránh do đối đầu, (2) sự kiêng tránh do thọ trì, (3) sự kiêng tránh do đoạn trừ. Trong ba sự kiêng tránh ấy – sự kiêng tránh do đối đầu, và sự kiêng tránh do thọ trì có ở nơi người khác, còn sự kiêng tránh do đoạn trừ thì không với tất cả trong mọi trường hợp. Sự từ bỏ do thay thế, sự từ bỏ do chế ngự, sự từ bỏ nhờ đoạn trừ, sự từ bỏ nhờ an tịnh và sự từ bỏ nhờ giải thoát, cả năm sự từ bỏ chỉ có sự từ bỏ do thay thế, sự từ bỏ do chế ngự là có nơi người khác với mãnh lực tám thiền chứng và chỉ với mãnh lực minh sát thì ba sự từ bỏ ngoài ra không có với tất cả trong mọi trường hợp. Thật sự như vậy năm sự thu thúc là sự thu thúc trong giới, sự thu thúc bằng nhẫn nại, sự thu thúc bằng trí, sự thu thúc bằng niệm, sự thu thúc bằng tin tấn, trong các sự thu thúc ấy chỉ có ngũ giới (sự thu thúc trong giới) và chỉ có đức hạnh nhẫn nại (adhivāsana-khanti, sự thu thúc bằng nhẫn nại) có cùng người khác, còn lại thì không với tất cả trong mọi trường hợp. Diễn giải uposatha có năm trong năm loại ấy thì chỉ có năm giới là có cùng người khác, sự thu thúc giới trong giới bổn Pātimokkha thì không có với tất cả trong mọi trường hợp.

Iti akusalappahāne ca kusalasamādāne ca, tīsu viratīsu, pañcasu pahānesu, pañcasu saṃvaresu, pañcasu uddesesu, — “ahameva ca mayhañca sāvakasaṅgho loke paññāyati, mayā hi sadiso satthā nāma, mayhaṃ sāvakasaṅghena sadiso saṅgho nāma natthī”ti bhagavā sīhanādaṃ nadati.

Như thế, đức Thế Tôn mới rống lên tiếng rống sư tử trong 3 sự kiêng tránh, trong năm sự dứt bỏ, trong năm sự diễn giải-uddesa trong việc dứt bỏ bất thiện và trong việc thọ trì thiện với chính ta, với hội chúng tăng thánh đệ tử hiện khởi ở trên đời, thật vậy gọi là bậc Đạo Sư như ta, và gọi là hội chúng tăng như hội chúng tăng đệ tử của ta là không có.”

 

Giảng Giải Bát Thánh Đạo

393. Evaṃ sīhanādaṃ naditvā tassa sīhanādassa aviparītabhāvāvabodhanatthaṃ — “atthi, kassapa, maggo”tiādimāha. Tattha maggoti lokuttaramaggo. Paṭipadāti pubbabhāgapaṭipadā. Kālavādītiādīni brahmajāle vaṇṇitāni. Idāni taṃ duvidhaṃ maggañca paṭipadañca ekato katvā dassento — “ayameva ariyo”tiādimāha. Idaṃ pana sutvā acelo cintesi — “samaṇo gotamo mayhaṃyeva maggo ca paṭipadā ca atthi, aññesaṃ natthīti maññati, handassāhaṃ amhākampi maggaṃ kathemī”ti. Tato acelakapaṭipadaṃ kathesi. tenāha — “evaṃ vutte acelo kassapo bhagavantaṃ etadavoca … pe … udakorohanānuyogamanuyutto viharatī”ti.

393. Khi đức Thế Tôn rống lên tiếng rống con sư con tử như vậy, để cho biết rằng – việc rống lên tiếng rống con sư tử không sai lệch đã thuyết lời như sau – “Này Kassapa, có đạo lộ”. Trong những lời nói ấy thì Đạo là Đạo Siêu Thế. Lối thực hành: Phương pháp thực hành ban đầu. Nói đúng thời v.v, đã được giải thích trong Kinh Brahmajāla. Bây giờ, khi thuyết giảng Đạo và lối thực hành, cả hai là như nhau, mới thuyết lời sau (Đạo phối hợp với tám yếu tố) – “Đây chính là Thánh Đạo tám chi phần.” Hơn nữa ‘du sĩ lõa thể’ đã nghe lời này rồi suy nghĩ rằng: “Sa-môn Gotama nghĩ rằng Đạo và lối thực hành chỉ có nơi ta (đức Thế Tôn), không có nơi người khác, thôi được rồi ta (du sĩ lõa thể) nói về đạo lộ chính của chúng ta cho Sa-môn Gotama ấy”. Sau đó, mới nói đến đạo lộ thực hành của du sĩ ngoại đạo lõa lồ. Vì lý do đó đã nói rằng – “Khi được nói như vậy, du sĩ lõa thể Kassapa đã nói với đức Thế Tôn điều này …nt… sống thường xuyên thực hành sự gắn bó với việc lội xuống nước tắm một đêm ba lần.

 

Giảng Giải Việc Thực Hành Khổ Hạnh

394. Tattha tapopakkamāti tapārambhā, tapakammānīti attho. Sāmaññasaṅkhātāti samaṇakammasaṅkhātā. Brahmaññasaṅkhātāti brāhmaṇakammasaṅkhātā. Acelakoti niccolo, naggoti attho. Muttācāroti visaṭṭhācāro, uccārakammādīsu lokiyakulaputtācārena virahito ṭhitakova uccāraṃ karoti, passāvaṃ karoti, khādati, bhuñjati ca. Hatthāpalekhanoti hatthe piṇḍamhi ṭhite jivhāya hatthaṃ apalikhati, uccāraṃ vā katvā hatthasmiññeva daṇḍakasaññī hutvā hatthena apalikhati. “bhikkhāgahaṇatthaṃ ehi, bhante”ti vutto na etīti na ehibhaddantiko. “Tena hi tiṭṭha, bhante”ti vuttopi na tiṭṭhatīti natiṭṭhabhaddantiko. Tadubhayampi kira so — “etassa vacanaṃ kataṃ bhavissatī”ti na karoti. Nābhihaṭanti puretaraṃ gahetvā āhaṭaṃ bhikkhaṃ. Uddissakatanti “imaṃ tumhe uddissa katan”ti evaṃ ārocitaṃ bhikkhaṃ. Na nimantananti “asukaṃ nāma kulaṃ vā vīthiṃ vā gāmaṃ vā paviseyyāthā”ti evaṃ nimantitabhikkhampi na sādiyati, na gaṇhati. Na kumbhimukhāti kumbhito uddharitvā diyyamānaṃ bhikkhaṃ na gaṇhati. Na kaḷopimukhāti kaḷopīti ukkhali vā pacchi vā, tatopi na gaṇhati. Kasmā? Kumbhikaḷopiyo maṃ nissāya kaṭacchunā pahāraṃ labhantīti. Na eḷakamantaranti ummāraṃ antaraṃ katvā diyyamānaṃ na gaṇhati. Kasmā? “ayaṃ maṃ nissāya antarakaraṇaṃ labhatī”ti. Daṇḍamusalesupi eseva nayo.

394. Ở đấy, việc thực hành khổ hạnh: sự nỗ lực hành khổ hành. Được xem là Sa-môn hạnh: được xem là việc làm của Sa-môn. Được xem là Bà-la-môn hạnh: được xem là việc làm của Bà-la-môn. Là người sống lõa thể: người không mặc quần áo, tức là người lõa lồ. Có hành vi phóng túng: vứt bỏ mọi khuôn phép, tất cả phép lịch sự có việc đại tiện v.v, vị ấy không hành theo khuôn phép của thiện nam tử ở đời, đứng đại tiện, tiểu tiện, nhai và ăn. Có hành liếm sạch bàn tay: Khi vắt cơm trong tay hết đã liếm tay bằng cái lưỡi. Hoặc đại tiện của dùng tay để lâu thay vì vỏ cây. Vị ấy đã nói rằng: “Thưa ngài, (được) thỉnh mời thọ nhận vật thực cũng không đến” vì thế mới gọi là ​​(khi đi khất thực) không đi đến khi được mời đi đến. Cũng thế, dẫu cho vị ấy nói rằng “Thưa ngài hãy dừng lại (vị ấy) cũng không dừng lại” do đó mới gọi là không dừng lại khi được mời dừng lại. Được biết rằng vị ấy đã không thực hiện cả hai (bởi nghĩ rằng): “bởi vì cho đó là làm theo mệnh lệnh”. Không nhận vật thực được mang đến: Không nhận phần vật thực đã được chia phần trước rồi mang đến. Không được làm dành riêng (cho mình): không thọ nhận vật thực được thí chủ đem đến cúng dường bằng cách nói như vầy rằng (hãy nhận lấy phần vật thực) chúng tôi làm dành riêng cho các ngài. Không ưng thuận sự mời thỉnh không: không chấp nhận, không lấy phần vật thực được thí chủ mời thỉnh rằng “Xin thỉnh tất các ngài hãy đến tư gia hoặc con đường, hoặc xóm làng kia.” Thọ nhận (vật thực lấy) từ miệng nồi: không nhận lấy phần vật thực được thí chủ múc ra từ miệng nồi. Từ ‘thau chậu’ trong cụm từ ‘Không thọ nhận từ miệng thau chậu’ thau hoặc chậu, không nhận lấy phần vật thực từ thau hoặc chậu ấy. Vì sao? Bởi vì y cứ tôi thì nồi và thau chậu mới bị gõ đánh bằng cái vá. Không thọ nhận (vật thực) đưa qua ngưỡng cửa: Không nhận lấy phần vật thực được thí chủ đứng dạng háng ở ngưỡng cửa cho. Tại sao? “Bởi vì người này y cứ vào tôi nên mới đứng dạng háng.” luôn cả trong (trường hợp) đưa qua cây gậy, (hoặc) đưa qua cái chày cũng có cách thức tương tự.

Na dvinnanti dvīsu bhuñjamānesu ekasmiṃ uṭṭhāya dente na gaṇhati. Kasmā? “Eassa kabaḷantarāyo hotī”ti. Na gabbhiniyātiādīsu pana “gabbhiniyā kucchiyaṃ dārako kilamati. Pāyantiyā dārakassa khīrantarāyo hoti, purisantaragatāya ratiantarāyo hotī”ti na gaṇhati. Saṃkittīsūti saṃkittetvā katabhattesu, dubbhikkhasamaye kira acelakasāvakā acelakānaṃ atthāya tato tato taṇḍulādīni samādapetvā bhattaṃ pacanti. ukkaṭṭho acelako tatopi na paṭiggaṇhati. Na yattha sāti yattha sunakho — “Piṇḍaṃ labhissāmī”ti upaṭṭhito hoti, tattha tassa adatvā āhaṭaṃ na gaṇhati. Kasmā? Etassa piṇḍantarāyo hotīti. Saṇḍasaṇḍacārinīti samūhasamūhacārinī, sace hi acelakaṃ disvā — “imassa bhikkhaṃ dassāmā”ti manussā bhattagehaṃ pavisanti, tesu ca pavisantesu kaḷopimukhādīsu nilīnā makkhikā uppatitvā saṇḍasaṇḍā caranti, tato āhaṭaṃ bhikkhaṃ na gaṇhati. Kasmā? Maṃ nissāya makkhikānaṃ gocarantarāyo jātoti.

Không nhận (vật thực) từ hai người đang ăn: Trong khi hai người đang ăn, một ngươi đứng dậy bố thí cũng không nhận. Tại sao? “Bởi vì nguy hiểm đến việc nuốt vắt cơm có nơi người còn lại (một người phải ngưng ăn)”. Không nhận (vật thực) từ người nữ mang thai v.v, vị ấy nghĩa rằng – “Đức bé trong bụng của người phụ nữ này sẽ bị thiệt thòi, trong khi người phụ nữ đang cho con bú thì gây trở ngại trong việc bú sữa hẳn có nơi đứa bé, gây cản trở sự thương yêu của người phụ nữ ở trong lòng người đàn ông (sợ làm trở ngại sự giao cấu)” nên mới không nhận lấy. Không nhận (vật thực) từ những sự quyên góp: trong phần vật thực đã được chuẩn bị sẵn, được biết vào lúc cơm gạo khan hiếm các vị đệ tử của du sĩ lõa thể quyên góp lúa gạo từ những nơi ấy rồi nấu cơm vì lợi ích cho các du sĩ lõa thể. Du sĩ lõa thể nghiêm ngặt sẽ không thọ nhận luôn cả ở những nơi ấy. Không nhận (vật thực) ở nơi có con chó chầu chực: Ở chỗ nào có chó chó chầu chực với hi vọng sẽ nhận được chút cơm, (vị ấy) không nhận phần vật thực mà thí chủ cho nó ở nơi đó (nhưng) mang lại bố thí. Tại sao? Bởi làm mất phần ăn có cùng con chó ấy (tức là con chó không nhận được phần ăn). Ở nơi có nhiều ruồi bu: con ruồi bu thành từng bầy, nếu như nhóm người nhìn thấy du sĩ lõa thể nghĩ rằng: “Ta sẽ bố thí phần thức ăn đến du sĩ lõa thể ấy bước vào nhà ăn, khi họ bước vào, những con ruồi đậu ở miệng nồi, chúng bay thanh từng đàn, du sĩ lõa thể cũng không nhận phần thức ăn được đem lại từ chỗ đó. Tại sao? Bởi vì vị ấy nghĩ rằng – gây trở ngại cho việc tìm kiếm thức ăn của bầy ruồi do y cứ nơi ta.

Thusodakanti sabbasassasambhārehi kataṃ sovīrakaṃ. Ettha ca surāpānameva sāvajjaṃ, ayaṃ pana sabbesupi sāvajjasaññī. Ekāgārikoti yo ekasmiṃyeva gehe bhikkhaṃ labhitvā nivattati . Ekālopikoti yo ekeneva ālopena yāpeti. Dvāgārikādīsupi eseva nayo. Ekissāpi dattiyāti ekāya dattiyā. Datti nāma[9] ekā khuddakapāti hoti, yattha aggabhikkhaṃ pakkhipitvā ṭhapenti. Ekāhikanti ekadivasantarikaṃ. Addhamāsikanti addhamāsantarikaṃ. Pariyāyabhattabhojananti vārabhattabhojanaṃ, ekāhavārena dvīhavārena sattāhavārena aḍḍhamāsavārenāti evaṃ divasavārena āgatabhattabhojanaṃ.

Những thứ lên men: nước uống lên men bằng các thứ lúa mạch. Ở trong trường hợp này chỉ có việc uống rượu có lỗi lầm, còn người này nghĩ rằng – có lỗi lầm đối với mọi loại rượu. Nhận vật thực ở một nhà: Sau khi thọ nhận vật thực chỉ ở một nhà rồi trở về. (Và) ăn chỉ một vắt: nuôi sống chỉ với một vắt. Luôn cả trong việc thọ nhận vật thực ở hai nhà cũng có cách thức tương tự. Chỉ với một chén: (nuôi sống) chỉ trong một chén. Cái chén nhỏ là một cái chén loại nhỏ dùng để đặt thức ăn ngon vào đó. Một ngày một bữa: khoảng thời gian một ngày. Nửa tháng một lần: khoảng thời gian nửa tháng. Với việc thọ dụng thức ăn xoay vòng (nửa tháng một lần): thọ dụng vật thực theo chu kỳ, là thọ dụng vật thực theo chu kỳ của ngày như vầy, tức là chu kỳ một ngày, hai ngày, hoặc chu kỳ nửa tháng.

395. Sākabhakkhoti allasākabhakkho. Sāmākabhakkhoti sāmākataṇḍulabhakkho. Nīvārādīsu nīvāro nāma[10] araññe sayaṃjātā vīhijāti. Daddulanti cammakārehi cammaṃ likhitvā chaḍḍitakasaṭaṃ. Haṭaṃ vuccati silesopi sevālopi. kaṇanti kuṇḍakaṃ. Ācāmoti bhattaukkhalikāya laggo jhāmakaodano, taṃ chaḍḍitaṭṭhānatova gahetvā khādati, “odanakañjiyan”tipi vadanti. Piññākādayo pākaṭā eva. Pavattaphalabhojīti patitaphalabhojī.

395. Có rau làm vật thực: có món rau tươi làm thức ăn. Có hạt kê làm vật thực: có hạt kê làm thức ăn. Lúa dại v.v, nên biết như vầy, lúa tự mọc trong rừng gọi là lúa dại. da vụn: phần thừa đã loại bỏ sau khi lớp da được rạch bởi người thợ thuộc da. Nhựa cây, hay rong rêu được gọi là hataṃ. Kataṃ gọi là cám. Cơm cháy: lớp cơm cháy dính trong nồi. Vị ấy lấy miếng cơm cháy ấy ở nơi mọi người vứt bỏ để ăn, họ cũng gọi là ‘hạt tấm’. Bột vừng: nghĩa đã rõ ràng rồi. Trái cây rụng xuống: Trái cây rụng xuống.

396. Sāṇānīti sāṇavākacoḷāni. Masāṇānīti missakacoḷāni. Chavadussānīti matasarīrato chaḍḍitavatthāni, erakatiṇādīni vā ganthetvā katanivāsanāni. Paṃsukūlānīti pathaviyaṃ chaḍḍitanantakāni. Tirīṭānīti rukkhatacavatthāni[11]. Ajinanti ajinamigacammaṃ. Ajinakkhipanti tadeva majjhe phālitakaṃ. Kusacīranti kusatiṇāni ganthetvā katacīraṃ. Vākacīraphalakacīresupi eseva nayo. Kesakambalanti manussakesehi katakambalaṃ. Yaṃ sandhāya vuttaṃ —

396. Vải sợi gai: vải sợi gai. Vải sợi gai pha tạp: Vải sợi gai pha tạp. Vải quấn tử thi: là loại vải bị quăng bỏ từ xác chết. Tấm vải bị quăng bỏ: các tấm vải bẩn bị quăng bỏ trên mặt đất. Các loại vỏ cây: vải làm bằng vỏ cây. Tấm da sơn dương: Tấm da sơn dương. Áo khoác da sơn dương: chính tấm da con sơn dương bị cắt ở giữa. Y phục sợi cỏ kusa: loại y phục được tạo thành từ cỏ kusa. Luôn cả y phục sợi vỏ cây và vỏ bào của gỗ thì cũng được làm theo cách thức tương tự. Mền kết bằng sợi tóc: mềm được bện lại từ tóc của con người. Các loại y phục được đức Thế Tôn đề cập đến như sau –

“Seyyathāpi bhikkhave, yāni kānici tantāvutāni vatthāni, kesakambalo tesaṃ paṭikiṭṭho akkhāyati. Kesakambalo, bhikkhave, sīte sīto, uṇhe uṇho appaggho ca dubbaṇṇo ca duggandho dukkhasamphasso”ti.[12]

“Ví như, này các tỳ khưu, trong tất cả loại vải được dệt, mền được dệt bằng tóc được xem là hạ liệt nhất. Mền được dệt bằng tóc, này các tỳ khưu, khi trời lạnh thì lạnh, khi trời nóng thì nóng, xấu xí, có mùi hôi, xúc chạm khó chịu.”

Vāḷakambalanti assavālehi katakambalaṃ. Ulūkapakkhikanti ulūkapakkhāni ganthetvā katanivāsanaṃ. Ukkuṭikappadhānamanuyuttoti ukkuṭikavīriyaṃ anuyutto, gacchantopi ukkuṭikova hutvā uppatitvā uppatitvā gacchati. Kaṇṭakāpassayikoti ayakaṇṭake vā pakatikaṇṭake vā bhūmiyaṃ koṭṭetvā tattha cammaṃ attharitvā ṭhānacaṅkamādīni karoti. Seyyanti sayantopi tattheva seyyaṃ kappeti. Phalakaseyyanti rukkhaphalake seyyaṃ. Thaṇḍilaseyyanti thaṇḍile ucce bhūmiṭhāne seyyaṃ. Ekapassayikoti ekapasseneva sayati. Rajojalladharoti sarīraṃ telena makkhitvā rajuṭṭhānaṭṭhāne tiṭṭhati, athassa sarīre rajojallaṃ laggati, taṃ dhāreti. Yathāsanthatikoti laddhaṃ āsanaṃ akopetvā yadeva labhati, tattheva nisīdanasīlo. Vekaṭikoti vikaṭakhādanasīlo. Vikaṭanti gūthaṃ vuccati. Apānakoti paṭikkhittasītudakapāno. Sāyaṃ tatiyamassāti sāyatatiyakaṃ. pāto, majjhanhike, sāyanti divasassa tikkhattuṃ pāpaṃ pavāhessāmīti udakorohanānuyogaṃ anuyutto viharatīti.

Mền kết bằng lông đuôi thú: mền được kết bằng lông đuôi ngựa. Y phục kết bằng lông chim cú: y phục được kết bằng lông chim cú tạo thành. Thường xuyên thực hành sự nỗ lực ngồi chồm hổm: Thường xuyên thực hành sự nỗ lực ngồi chồm hổm, ngay cả bước đi cũng nhón gót. Nằm ở thảm cắm chông: găm những gai sắt hoặc những loại gai tự nhiên ở trên mặt đất, trải tấm da ở trên chỗ ấy làm thành chỗ đứng và đi kinh hành v.v. Nằm: thậm chí khi nằm cũng nằm ở chính chỗ đó. Việc nằm ở ván gỗ: chỗ nằm được làm bằng tấm gỗ. Việc nằm ở mô đất cứng: Nằm ở khu đất cao. Nằm một bên hông: chỉ nằm ở một bên hông. Có thân thể đầy bụi bám và chất dơ: tha bôi thân thể với dầu rồi đứng ở nơi bụi bẩn, khi đó bụi bẩn dính vào cơ thể của vị ấy, khiến bụi bám vào (thân). Ngụ ở chỗ đã nhận được: Không lựa chọn sàn toạn có được, nhận được sàn tọa thế nào thì ngồi sàn toạn như thế ấy. Người theo hạnh ăn phân: người theo hạnh ăn phân. Gūtha được gọi là phân. Người theo hạnh không uống nước lạnh: Từ chối việc uống nước lạnh. Lội xuống nước tắm một ngày ba lần: xuống nước một ngày ba lần, du sĩ lõa thể nghĩ rằng: Ta sẽ thả trôi pháp xấu ác một ngày ba lần là sáng, trưa và tối mới nói rằng: (vị) sống thường xuyên thực hành sự gắn bó với việc lội xuống nước tắm.

 

Giảng Giải Sự Vô Ích Của Việc Hành Khổ Hạnh

397. atha bhagavā sīlasampadādīhi vinā tesaṃ tapopakkamānaṃ niratthakataṃ dassento — “acelako cepi kassapa hotī”tiādimāha. Tattha ārakā vāti dūreyeva. Averanti dosaveravirahitaṃ. Abyāpajjanti[13] domanassabyāpajjarahitaṃ.

397. Sau đó khi đức Thế Tôn thuyết giảng sự cố gắng hành khổ hạnh ấy không có sự thành tựu giới hạnh v.v, là việc thực hành vô ích, nên mới nói rằng: “Này Kassapa, nếu là người sống lõa thể…” Ở đây, cách xa (Sa-môn hanh, Bà-la-môn hạnh) tức là ở nơi xa. Không thù nghịch: tránh xa sự thù nghịch khiến sanh lỗi lầm. Không thù oán: tránh xa sự thù oán khiến sanh buồn bực.

398. Dukkaraṃ, bho gotamāti idaṃ kassapo “mayaṃ pubbe ettakamattaṃ sāmaññañca brahmaññañcāti vicarāma, tumhe pana aññaṃyeva sāmaññañca brahmaññañca vadathā”ti dīpento āha. Pakati kho esāti pakatikathā esā. Imāya ca, kassapa, mattāyāti “kassapa yadi iminā pamāṇena evaṃ parittakena paṭipattikkamena sāmaññaṃ vā brahmaññaṃ vā dukkaraṃ sudukkaraṃ nāma abhavissa, tato netaṃ abhavissa kallaṃ vacanāya dukkaraṃ sāmaññan”ti ayamettha padasambandhena saddhiṃ attho. Etena nayena sabbattha padasambandho veditabbo.

398. Thưa ngài Gotama, khó hành thay Sa-môn hạnh! Khó hành thay Bà-la-môn hạnh!: Ở đây, Kassapa đã trình bày như vầy “trước đây chúng tôi hiểu rằng: Bản thể Sa-môn và bản thể Bà-la-môn chỉ chừng ấy, nhưng ngài thuyết về bản thể Sa-môn và bản thể Bà-la-môn theo cách khác”. Này Kassapa, điều này là thường tình ở thế gian: lời này là thường tình. Và này Kassapa, nếu chỉ với mức độ này: Này Kassapa, giá sử bản thể Sa-môn và bản thể Bà-la-môn với mức độ này, gồm có lối thực hành ít ỏi như vậy điều này sẽ gọi là khó hành, là rất khó hành, từ đó thì điều ấy sẽ là không thích hợp để nói rằng: Sa-môn hạnh là khó hành, (Bà-la-môn hạnh là khó hành)” đây là ý nghĩa giải thích với sự liên kết trong câu này. Tất cả sự liên kết câu nên biết theo phương cách này.

399. Dujjānoti idampi so “mayaṃ pubbe ettakena samaṇo vā brāhmaṇo vā hotīti vicarāma, tumhe pana aññathā vadathā”ti idaṃ sandhāyāha. Athassa bhagavā taṃ pakativādaṃ paṭikkhipitvā sabhāvatova dujjānabhāvaṃ āvikaronto punapi — “pakati kho”tiādimāha. Tatrāpi vuttanayeneva padasambandhaṃ katvā attho veditabbo.

399. Khó biết: du sĩ lõa thể Kassapa đã nói đề cập đến lời này rằng: “Trước đây chúng tôi hiểu rằng: ‘bản thể Sa-môn và bản thể Bà-la-môn chỉ với nguyên nhân chừng ấy, nhưng ngài lại nói theo cách khác”. Khi đó, đức Thế Tôn đã bác bỏ lời tranh luận ấy của Kassapa rồi khai mở ý nghĩa tính chất khó nhận biết theo thực tính, mới nói lên lời này – “Này Kassapa, điều này là thường tình…” Ngay cả trong trường hợp ấy có thể mang từ ngữ đến để kết nối với nhau, biết được ý nghĩa theo phương cách đã trình bày.

 

Giảng Giải Sự Thành Tựu là Giới – Định – Tuệ

400-401. Katamā pana sā, bho gotamāti kasmā pucchati. Ayaṃ kira paṇḍito bhagavato kathentasseva kathaṃ uggahesi, atha attano paṭipattiyā niratthakataṃ viditvā samaṇo gotamo — “tassa ‘cāyaṃ sīlasampadā, cittasampadā, paññāsampadā abhāvitā hoti asacchikatā, atha kho so ārakāva sāmaññā’tiādimāha. Handa dāni naṃ tā sampattiyo pucchāmī”ti sīlasampadādivijānanatthaṃ pucchati. Athassa bhagavā buddhuppādaṃ dassetvā tantidhammaṃ kathento tā sampattiyo dassetuṃ — “Idha kassapā”tiādimāha. Imāya ca kassapa sīlasampadāyāti idaṃ arahattaphalameva sandhāya vuttaṃ. Arahattaphalapariyosānañhi bhagavato sāsanaṃ. Tasmā arahattaphalasampayuttāhi sīlacittapaññāsampadāhi aññā uttaritarā vā paṇītatarā vā sīlādisampadā natthīti āha.

400-401: Du sĩ lõa thể Kassapa đã hỏi đức Thế Tôn điều này “Thưa ngài Gotama, sự thành tựu giới ấy là gì? (Sự thành tựu tâm (định) là gì? Sự thành tựu tuệ là gì?)” Được biết rằng du sĩ lõa thể này là bậc sáng trí trong khi đức Thế Tôn thuyết giảng đã học tập lời nói ấy, sau đó biết được lối thực hành của mình không vận hành đưa đến lợi ích mới nghĩ rằng: “Sự thành tựu giới, sự thành tựu tâm, và sự thành tựu giới này là chưa được tu tập, chưa được chứng ngộ, thì khi ấy, vị ấy vẫn cách xa Sa-môn hạnh. Thôi được rồi bây giờ ta (sẽ) hỏi đến sự thành tựu ấy từ đức Thế Tôn” nên mới hỏi để biết rõ sự thành tựu giới ấy v.v. Khi ấy dức Thế Tôn đã thuyết về sự hiện khởi của đức Phật trong khi thuyết đến phương pháp để trình bày đến những sự thành tựu ấy mới nói lên lời nói như sau – “Ở đây, này Kassapa (Như Lai hiện khởi ở thế gian)”. Và này Kassapa (không có sự thành tựu giới nào khác vượt trội hơn hoặc cao cả hơn) sự thành tựu giới này, điều này nói đề cập đến phẩm vị A-ra-hán quả. Thật vậy, Giáo Pháp của đức Thế Tôn có Thánh Quả A-ra-hán là cuối cùng (là tối thượng). Vì thế, ngài mới nói rằng: Không có sự thành tựu giới nào khác vượt trội hơn hoặc cao cả hơn sự thành tựu tâm và tuệ tương ưng với Thánh Quả A-ra-hán.

 

Giảng Giải Việc Rống Lên Tiếng Rống Sư Tử

402. Evañca pana vatvā idāni anuttaraṃ mahāsīhanādaṃ[14] nadanto — “Santi kassapa eke samaṇabrāhmaṇā”tiādimāha. Tattha ariyanti nirupakkilesaṃ paramavisuddhaṃ. Paramanti uttamaṃ, pañcasīlāni hiādiṃ katvā yāva pātimokkhasaṃvarasīlā[15] sīlameva, lokuttaramaggaphalasampayuttaṃ pana paramasīlaṃ nāma. Nāhaṃ tatthāti tattha sīlepi paramasīlepi ahaṃ attano samasamaṃ mama sīlasamena sīlena mayā samaṃ puggalaṃ na passāmīti attho. Ahameva tattha bhiyyoti ahameva tasmiṃ sīle uttamo. Katamasmiṃ[16]? Yadidaṃ adhisīlanti yaṃ etaṃ uttamaṃ sīlanti attho. iti imaṃ paṭhamaṃ sīhanādaṃ nadati.

402. Và hơn nữa, sau khi nói như vậy, bây giờ khi rống lên tiếng rống sư tử vô thượng đã nói rằng: “Này Kassapa, có một số Sa-môn và Bà-la-môn sáng suốt…” Ở đó, cao thượng nghĩa là xa lìa tùy phiền não (trở nên) thanh tịnh tối thượng. Tối thượng: cao thượng. Thật vậy, giới được tính là năm giới v.v, cho đến sự thu thúc giới trong giới bổn Pātimokkha, còn giới tương ưng với Siêu Thế Đạo và Quả gọi là giới tối thượng. Ta (không thấy) trong giới ấy: có ý nghĩa rằng ta không thấy ai ngang bằng với ta, gồm hạng người ngang bằng với ta về giới, ngang bằng với giới của ta luôn cả trong giới cao thượng ấy. Chính Ta là người vượt trội về lãnh vực ấy (tức là giới tối thượng): Chỉ mình ta là vị tối thượng trong giới ấy. Ở đâu? ở giới tối thượng. Giới tối thượng: Giải thích rằng: Giới tối thượng này là giới cao thượng. Đức Thế Tôn rống lên tiếng rống sư tử này lần thứ nhất như đã nói.

Tapojigucchavādāti ye tapojigucchaṃ vadanti. tattha tapatīti tapo, kilesasantāpakavīriyassetaṃ nāmaṃ, tadeva te kilese jigucchatīti jigucchā. Ariyā paramāti ettha niddosattā ariyā, aṭṭhāarambhavatthuvasenapi uppannā vipassanāvīriyasaṅkhātā tapojigucchā tapojigucchāva, maggaphalasampayuttā paramā nāma. Adhijegucchanti idha jigucchabhāvo jegucchaṃ, uttamaṃ jegucchaṃ adhijegucchaṃ, tasmā yadidaṃ adhijegucchaṃ, tattha ahameva bhiyyoti evamettha attho daṭṭhabbo. Paññādhikārepi kammassakatāpaññā ca vipassanāpaññā ca paññā nāma, maggaphalasampayuttā paramā paññā nāma. Adhipaññanti ettha liṅgavipallāso veditabbo, ayaṃ panetthattho — yāyaṃ adhipaññā nāma ahameva tattha bhiyyoti. Vimuttādhikāre tadaṅgavikkhambhanavimuttiyo vimutti nāma, samucchedapaṭipassaddhinissaraṇavimuttiyo pana paramā vimuttīti veditabbā. Idhāpi ca yadidaṃ adhivimuttīti yā ayaṃ adhivimutti, ahameva tattha bhiyyoti attho.

Chủ trương khổ hạnh và ghê tởm (phiền não): người chỉ trích phiền não, trong chủ trương ấy sự tinh tấn nào thiêu đốt (phiền não) thì sự tinh tấn ấy gọi là ‘khổ hạnh’ do là tên gọi của sự tinh tấn thiêu đốt phiền não. Khổ hạnh ấy ghê tởm những phiền não đó, vì thế khổ hạnh ấy gọi là sự ghê tởm. Thánh thiện tối thắng: ở đây gọi là thánh thiện bởi tránh xa lỗi lầm, sự ghê tởm khổ hạnh được xem là sự tinh tấn do minh sát sanh khởi nhờ mãnh lực của vật-vatthu có 8 đối tượng chính là sự ghê tởm khổ hạnh. Tuệ tương ưng với Đạo và Quả gọi là tối thượng. Sự ghê tởm trong câu này ‘sự ghê tởm tối thượng’ ở đây có tính chất ghê tởm, sự ghê tởm cao thượng gọi là sự ghê tởm tối thượng, vì thế nên biết ý nghĩa trong câu đó như vầy rằng: là sự ghê tởm tối thượng, chỉ mình ta là vượt trội trong sự ghê tởm tối thượng đó. Luôn cả trong trường hợp với tuệ thì trí hiểu rõ nghiệp lý và trí minh sát gọi là tuệ, tuệ tương ưng với Đạo và Quả gọi là tuệ cao thượng. Ở đây, tuệ tối thượng nên biết là sự thay đổi tính (liṅgavipallāsa), hơn nữa ở đây điều này có ý nghĩa như vầy – gọi là tuệ tối thượng này đây, chỉ mình ta là người vượt trội trong tuệ tối thượng ấy. Trong trường hợp sự giải thoát thì sự giải thoát do thay thế và sự giải thoát do chế ngự gọi là sự giải thoát, còn sự giải thoát do đoạn trừ, sự giải thoát do an tịnh, và sự giải thoát do xuất ly (nissarana) gọi là giải thoát tối thượng. Và trong câu này ‘là giải thoát tối thượng’ có ý nghĩa rằng giải thoát tối thượng này đây chỉ mình ta là người vượt trội trong giải thoát tối thượng ấy.

403. Suññāgāreti suññe ghare, ekakova nisīditvāti adhippāyo. Parisāsu cāti aṭṭhasu parisāsu. vuttampi cetaṃ — “cattārimāni, sāriputta, tathāgatassa vesārajjāni. yehi vesārajjehi samannāgato tathāgato āsabhaṃ ṭhānaṃ paṭijānāti, parisāsu sīhanādaṃ nadatī”ti[17] suttaṃ vitthāretabbaṃ.

403. Ở ngôi nhà trống vắng: có ý muốn nói (vị ấy) đã ngồi một mình ở trong ngôi nhà trống vắng. Trong hội chúng: trong tám hội chúng. Và điều này đã được chính đức Phật nói rằng – “Này Sārīputta, có bốn pháp vô sở úy chính nhờ thành tựu bốn pháp này, Như Lai tự nhận cho mình địa vị Ngưu Vương, rống tiếng rống con sử tử trong các hội chúng” nên tự mình giảng giải chi tiết bài Kinh.

Pañhañca naṃ pucchantīti paṇḍitā devamanussā naṃ pañhaṃ abhisaṅkharitvā pucchanti. Byākarotīti taṅkhaṇaññeva vissajjesi. Cittaṃ ārādhetīti pañhāvissajjanena mahājanassa cittaṃ paritosetiyeva. No ca kho sotabbaṃ maññantīti cittaṃ ārādhetvā kathentassapissa vacanaṃ pare sotabbaṃ na maññantīti, evañca vadeyyunti attho. Sotabbañcassa maññantīti devāpi manussāpi mahanteneva ussāhena sotabbaṃ maññanti. Pasīdantīti supasannā kallacittā muducittā honti. Pasannākāraṃ karontīti na muddhappasannāva honti, paṇītāni cīvarādīni veḷuvanavihārādayo ca mahāvihāre pariccajantā pasannākāraṃ karonti. Tathattāyāti yaṃ so dhammaṃ deseti tathā bhāvāya, dhammānudhammapaṭipattipūraṇatthāya paṭipajjantīti attho. Tathattāya ca paṭipajjantīti tathabhāvāya paṭipajjanti, tassa hi bhagavato dhammaṃ sutvā keci saraṇesu keci pañcasu sīlesu patiṭṭhahanti, apare nikkhamitvā pabbajanti. Paṭipannā ca ārādhentīti tañca pana paṭipadaṃ paṭipannā pūretuṃ sakkonti[18], sabbākārena pana pūrenti, paṭipattipūraṇena tassa bhoto gotamassa cittaṃ ārādhentīti vattabbā.

Nhiều người hỏi vị ấy câu hỏi: Chư Thiên và loài người thuộc bậc trí tập hợp các câu hỏi rồi hỏi. Trả lời: giải đáp câu hỏi ngay chính lúc đó. Làm thỏa lòng (những người ấy): khiến tâm của hội chúng vô cùng hoan hỷ với câu trả lời cho câu hỏi. nhưng mọi người không nghĩ rằng là điều cần phải nghe: khi ngài thuyết giảng khiến tâm (những người ấy) hoan hỷ, thì những người khác cũng không chú tâm lắng nghe, giải thích rằng: ‘nên nói như thế’. Mọi người nghĩ rằng lời của vị này là điều cần phải nghe (không đặt niềm tin vào vị này): Chư Thiên, hay loài người chú tâm lắng nghe với sự nỗ lực lớn lao. Tịnh tín: là vị đã đặt niềm tin tốt đẹp, có tâm đã sẵn sàng, có tâm dễ uốn nắn. Tỏ ra thành tín: không trở thành người đặt niềm tin mù quáng, trong khi xả thí vật-vatthu có y phục v.v, loại thượng hạng và đại tự có tịnh xá Veḷuvana v.v, gọi là thực hiện biểu hiện của người tịnh tín. Nhằm đạt đến bản thể thật: đức Thế Tôn ấy thuyết giảng Pháp nào để thực hành nhằm đạt đến bản thể thật của Pháp ấy, nghĩa là vì lợi ích cho việc thực hành đúng Pháp và y theo Pháp. Thực hành nằm đạt đến bản thể thật: Thực hành nằm đạt đến bản thể thật ấy, thật vậy Chư thiên và nhân loại sau khi lắng nghe Giáo Pháp của đức Thế Tôn ấy thì một số đã an trú vào sự nương nhờ, một số đã vững trú vào ngũ giới, một số đã xuất gia. Sau khi đã thực hành được hân hoan: hơn nữa những vị thực hành theo đạo lộ ấy có thể đạt đến sự toàn hảo, nhưng (họ) làm cho tròn đủ với tất cả mọi biểu hiện, có thể nói rằng khiến tâm trí của ngài Gotama được hoan hỷ với việc thực hạnh theo lối thực hành (đó).

Imasmiṃ panokāse ṭhatvā sīhanādā samodhānetabbā. Ekaccaṃ tapassiṃ niraye nibbattaṃ passāmīti hi bhagavato eko sīhanādo. Aparaṃ sagge nibbattaṃ passāmīti eko. akusaladhammappahāne ahameva seṭṭhoti eko. Kusaladhammasamādānepi ahameva seṭṭhoti eko. Akusaladhammappahāne mayhameva sāvakasaṅgho seṭṭhoti eko. Kusaladhammasamādānepi mayhaṃyeva sāvakasaṅgho seṭṭhoti eko. Sīlena mayhaṃ sadiso natthīti eko. Vīriyena mayhaṃ sadiso natthīti eko. Paññāya … pe … vimuttiyā … pe … sīhanādaṃ nadanto parisamajjhe nisīditvā nadāmīti eko. Visārado hutvā nadāmīti eko. pañhaṃ maṃ pucchantīti eko. Pañhaṃ puṭṭho vissajjemīti[19] eko. Vissajjanena parassa cittaṃ ārādhemīti eko. Sutvā sotabbaṃ maññantīti eko. Sutvā me pasīdantīti eko. pasannākāraṃ karontīti eko. Yaṃ paṭipattiṃ desemi, tathattāya paṭipajjantīti eko. Paṭipannā ca maṃ[20] ārādhentīti eko. Iti purimānaṃ dasannaṃ ekekassa — “Parisāsu ca nadatī”ti ādayo dasa dasa parivārā. Evaṃ te dasa purimānaṃ dasannaṃ parivāravasena sataṃ purimā ca dasāti dasādhikaṃ[21] sīhanādasataṃ hoti. Ito aññasmiṃ pana sutte ettakā sīhanādā dullabhā, tenidaṃ suttaṃ mahāsīhanādanti vuccati. Iti bhagavā “sīhanādaṃ kho samaṇo gotamo nadati, tañca kho suññāgāre nadatī”ti evaṃ vādānu vādaṃ[22] paṭisedhetvā idāni parisati naditapubbaṃ sīhanādaṃ dassento “ekamidāhan”tiādimāha.

Hơn nữa trong trường hợp này, bậc trí có thể tập hợp rống lên tiếng rống sư tử đã thiết lập. Thật vậy, một tiếng rống sư tử của đức Thế Tôn, ta nhìn thấy người khác hóa sanh vào cõi trời. Rống lên một tiếng rống sư tử rằng: chỉ mình ta là người tối thượng nhất trong việc dứt bỏ các Pháp bất thiện. Rống lên một tiếng rống sư tử rằng: chỉ mình ta là người tối thượng nhất luôn cả trong việc thọ trì Pháp thiện. Rống lên một tiếng rống sư tử rằng: chỉ có chư tăng đệ tử của ta là người tối thượng nhất ngay cả trong việc thọ trì Pháp thiện. Rống lên một tiếng rống sư tử rằng: không ai ngang bằng ta về giới. Rống lên một tiếng rống sư tử rằng: không ai ngang bằng ta về sự tinh tấn. Rống lên một tiếng rống sư tử rằng: không ai ngang bằng ta về tuệ. Rống lên một tiếng rống sư tử rằng: không ai ngang bằng ta về giải thoát. Rống lên một tiếng rống sư tử rằng: Sau khi ngồi ở giữa hội chúng ta đã rống lên tiếng rống sư tử. Rống lên một tiếng rống sư tử rằng: ta rống với sự tự tin. Rống lên một tiếng rống sư tử rằng: Chư thiên và nhân loại sẽ hỏi câu hỏi cùng ta. Rống lên một tiếng rống sư tử rằng: ta sẽ trả lời câu hỏi (đó). Rống lên một tiếng rống sư tử rằng: Ta sẽ làm cho tâm của người khác hoan hỷ với việc trả lời. Rống lên một tiếng rống sư tử rằng: Sau khi nghe nghĩ rằng lời của vị này là điều cần phải nghe. Rống lên một tiếng rống sư tử rằng: Sau khi nghe (những người ấy) đặt niềm tin nơi ta. Rống lên một tiếng rống sư tử rằng: sau khi đặt niềm tin thì những người thành tín tỏ ra thành tín. Rống lên một tiếng rống sư tử rằng: Ta thuyết giảng lối thực hành nào thì Chư thiên và nhân loại đều thực hành nhằm đưa đến bản thể thật. Rống lên một tiếng rống sư tử rằng: và làm cho ta hài lòng với lối thực hành (đó). Mười tiếng rống sư tử nhóm đầu tiên mỗi nhóm được chia thành mười tiếng rống sư tử bởi vì đã rống lên (tiếng rống sư tử) ở giữa hội chúng (mười) như thế, mười tiếng rống sư tử nhóm đầu tiên chia nhỏ mỗi loại thành mười tiếng rống sư tử (nhóm sau) cho nên gom lại thành một trăm mười (110) tiếng rống sư tử với cách như vậy. Hơn nữa, trong bài Kinh khác ngoài bài Kinh này ra thì tiếng rống sư tử nhiều chừng ấy thật khó tìm, vì lý do đó bài kinh này mới gọi là “Đại Kinh Tiếng Rống Sư Tử”. Sau khi đức Thế Tôn bác bỏ chủ trương chính và phụ như vầy rằng: “Sa-môn Gotama rống tiếng rống sư tử, và rống tiếng rống ấy ở ngôi nhà trống vắng,” bây giờ trong khi thuyết giảng về tiếng rống sư tử đã từng rống lên ở hội chúng, đã nói rằng “một thời…

 

Giảng Giải Việc Sống của Hội Chúng Ngoại Đạo

404. Tattha tatra maṃ aññataro tapabrahmacārīti tatra rājagahe gijjhakūṭe pabbate viharantaṃ maṃ aññataro tapabrahmacārī nigrodho nāma paribbājako. Adhijeguccheti vīriyena pāpajigucchanādhikāre pañhaṃ pucchi. Idaṃ yaṃ taṃ bhagavā gijjhakūṭe mahāvihāre nisinno udumbarikāya deviyā uyyāne nisinnassa nigrodhassa ca paribbājakassa sandhānassa ca upāsakassa dibbāya sotadhātuyā kathāsallāpaṃ sutvā ākāsenāgantvā tesaṃ santike paññatte āsane nisīditvā nigrodhena adhijegucche puṭṭhapañhaṃ vissajjesi, taṃ sandhāya vuttaṃ. Paraṃ viya mattāyāti paramāya mattāya, atimahanteneva pamāṇenāti attho. Ko hi, bhanteti ṭhapetvā andhabālaṃ diṭṭhigatikaṃ añño paṇḍitajātiko “ko nāma bhagavato dhammaṃ sutvā na attamano assā”ti vadati. Labheyyāhanti idaṃ so — “ciraṃ vata me aniyyānikapakkhe yojetvā attā kilamito, ‘sukkhanadītīre nhāyissāmī’ti samparivattentena viya thuse koṭṭentena viya na koci attho nipphādito. Handāhaṃ attānaṃ yoge yojessāmī”ti cintetvā āha. Atha bhagavā yo anena khandhake[23] titthiyaparivāso paññatto, yo aññatitthiyapubbo sāmaṇerabhūmiyaṃ ṭhito — “ahaṃ bhante, itthannāmo aññatitthiyapubbo imasmiṃ dhammavinaye ākaṅkhāmi upasampadaṃ, svāhaṃ, bhante, saṃghaṃ cattāro māse parivāsaṃ yācāmī”tiādinā[24] nayena samādiyitvā parivasati, taṃ sandhāya — “Yo kho, kassapa, aññatitthiyapubbo”tiādimāha.

404. Trong những lời ấy ‘tại đó, một người bạn đồng Phạm hạnh của người trú tại thành Rājagaha ấy’: Một người bạn đồng Phạm hạnh của ngươi tên là Nigrodha (đã hỏi câu hỏi) cùng ta cư ngụ ở núi Gijjhakūṭa gần thành Rājagaha ấy. Sự ghê tởm tối thượng: Hỏi câu hỏi trong việc ngăn chặn pháp xấu ác bởi sự tinh tấn, đức Thế Tôn khi ngồi trong đại tự kế bên núi Gijjhakūṭa đã nghe được lời đàm luận của thanh niên Nigrodha và cận sự nam Sandhāna đang ngồi trong vườn thượng uyển của hoàng hậu Udumbarikāya bằng thiên nhĩ giới ngài bay đến ngồi trên tọa cụ đã được trải sẵn ở trú xứ của hai vị ấy, rồi giải đáp vấn đề mà thanh niên Nigrodha đã hỏi về sự ghê tởm tối thượng này đây, ngài nói đề cấp đến vấn đề ấy. Trở nên vô cùng hoan hỷ: với mức độ tột cùng, tức là với mức độ rất lớn lao. Thưa Ngài, người nào sau khi nghe Pháp của đức Thế Tôn: Thanh niên ấy đã nói rằng người nào khác thuộc dòng dõi trí thức ngoại trừ những kẻ ngu, người có tà kiến thì ai sau khi nghe Pháp của đức Thế Tôn (mà) không hoan hỷ. Vị ấy đã nghĩ rằng: ‘Ta đã buộc chặt tự ngã vào phần pháp phi dẫn xuất (pháp không dân dắt khỏi khổ đau) dài lâu, đã nhận lãnh sự khó nhọc, ‘ta sẽ tắm gội dòng sông chỗ khô cạn’ giống như cái cối lăn qua lăn lại, cũng giống như tung rắc trấu không đem lại ích gì cho sự thành tựu. Rhôi được rồi, ta sẽ buộc mình vào sự tinh tấn nên mới nói : “kính bạch ngài, con có thể đạt được sự xuất gia…” Khi ấy titthiya-parivāsa (thực hành biệt trú)[25], (điều này) đức Thế Tôn đã chế định trong Khandha-vinaya rằng: “người nào trước đây theo ngoại đạo được xuất gia ở cương vị sa di rồi sống thử thách theo cách thức sau – “Bạch các ngài, tôi tên (như vầy) trước đây theo ngoại đạo mong mỏi việc tu lên bậc trên trong Pháp và Luật này. Bạch các ngài, tôi đây thỉnh cầu hội chúng bốn tháng thử thách,’ đức Thế Tôn muốn đề cập đến titthiya-parivāsa ấy nên mới nói rằng: “Này Kassapa người nào trước đây theo ngoại đạo…”.

405. Tattha pabbajjanti vacanasiliṭṭhatāvaseneva vuttaṃ, aparivasitvāyeva hi pabbajjaṃ labhati. Upasampadatthikena pana nātikālena[26] gāmappavesanādīni aṭṭha vattāni pūrentena parivasitabbaṃ. Āraddhacittāti aṭṭhavattapūraṇena tuṭṭhacittā, ayamettha saṅkhepattho. Vitthārato panesa[27] titthiyaparivāso samantapāsādikāya vinayaṭṭhakathāyaṃ[28] pabbajjakhandhakavaṇṇanāya vuttanayena veditabbo. Api ca metthāti api ca me ettha. Puggalavemattatā viditāti puggalanānattaṃ viditaṃ. “Ayaṃ puggalo parivāsāraho, ayaṃ na parivāsāraho”ti idaṃ mayhaṃ pākaṭanti dasseti. Tato kassapo cintesi — “Aho acchariyaṃ buddhasāsanaṃ, yattha evaṃ ghaṃsitvā koṭṭetvā yuttameva gaṇhanti, ayuttaṃ chaḍḍentī”ti, tato suṭṭhutaraṃ pabbajjāya sañjātussāho — “sace bhante”tiādimāha.

405. Ở đó, xuất gia: ngài nói về phương diện nét đẹp của lời nói, bởi vì (vị ấy) không sống biệt trú mà được xuất gia luôn. Tuy nhiên, người muốn tu lên bậc trên có thể sống biệt trú thực hành tám phận sự v.v, rằng: ‘Đi vào làng không quá sớm v.v.’ Có tâm được hài lòng: Có tâm được hài lòng với việc thực hành tám phận sự, điều này ở đây có ý nghĩa vắn tắt. Còn việc hành phạm trú ấy có thể nói chi tiết theo cách thức đã nói trong phần giảng giải Pabbajja Khandhaka trong Chú giải Tạng Luật tên là Samantapāsādikā. Api ca mettha tách từ thành apica me ettha (tuy nhiên, ở đây). Ta biết được tính chất khác biệt của mỗi cá nhân: Ta biết được tính chất khác biệt của mỗi cá nhân. “Đức Thế Tôn biết được người này nên sống biệt trú, người này không nên sống biệt trú” điều này hiển lộ rõ ràng nơi ta. Sau đó, Kassapa nghĩ rằng: “Ôi! Phật Giáo thật là kỳ diệu, đã cắt đứt, lựa chọn, chỉ nhận lấy những người phù hợp, không tiếp nhận người không phù hợp như thế,” khi đó vị ấy có sự nhiệt tâm đã khởi lên với việc xuất gia vượt xa hơn thể nên đã nói rằng: “Thưa Ngài, nếu những người trước đây theo ngoại đạo…

Atha kho bhagavā tassa tibbacchandataṃ viditvā — “na kassapo parivāsaṃ arahatī”ti aññataraṃ bhikkhuṃ āmantesi — “gaccha bhikkhu kassapaṃ nhāpetvā pabbājetvā ānehī”ti. So tathā katvā taṃ pabbājetvā bhagavato santikaṃ āgamāsi. Bhagavā taṃ gaṇamajjhe nisīdāpetvā upasampādesi. Tena vuttaṃ — “alattha kho acelo kassapo bhagavato santike pabbajjaṃ, alattha upasampadan”ti. Acirūpasampannoti upasampanno hutvā nacirameva. Vūpakaṭṭhoti vatthukāmakilesakāmehi kāyena ceva cittena ca vūpakaṭṭho. Appamattoti kammaṭṭhāne satiṃ avijahanto. Ātāpīti kāyikacetasikasaṅkhātena vīriyātāpena ātāpī. pahitattoti kāye ca jīvite ca anapekkhatāya pesitacitto vissaṭṭhāttabhāvo. yassatthāyāti yassa atthāya. Kulaputtāti ācārakulaputtā. Sammadevāti hetunāva kāraṇeneva. Tadanuttaranti taṃ anuttaraṃ. Brahmacariyapariyosānanti maggabrahmacariyassa pariyosānabhūtaṃ arahattaphalaṃ. Tassa hi atthāya kulaputtā pabbajanti. Diṭṭheva dhammeti imasmiṃyeva attabhāve. Sayaṃ abhiññā sacchikatvāti attanāyeva paññāya paccakkhaṃ katvā[29], aparappaccayaṃ katvāti attho. Upasampajja vihāsīti pāpuṇitvā sampādetvā vihāsi, evaṃ viharanto ca khīṇā jāti … pe … abbhaññāsīti.

 Khi ấy đức Thế Tôn hiểu biết được vị ấy có ước muốn mãnh liệt: Du sĩ lõa thể Kassapa không cần sống biệt sống nên mới gọi một vị Tỳ khưu lại nói rằng – “Này tỳ khưu, con hãy đưa du sĩ lõa thể Kassapa đi tắm rửa, cho xuất gia, rồi đưa đến đây.” Vị Tỳ khưu ấy đã làm theo như thế, sau khi cho vị ấy xuất gia rồi đưa đến trú xứ của đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn đã cho Kassapa ngồi ở giữa Tăng chúng rồi cho tu lên bậc trên. Vì thế ngài mới nói rằng: “Du sĩ lõa thể Kassapa đã xuất gia tu lên bậc trên ở trú xứ của đức Thế Tôn.” Sau khi tu lên bậc trên không lâu: khi đã được tu lên bậc trên không bao lâu.  Rời khỏi: là vị có thân và tâm đã được an tịnh từ vật dục và phiền não dục. Không xao lãng: không từ bỏ niệm trong nghiệp xứ. Có sự nhiệt tâm: có sự nhiệt tâm do tinh tấn được xem là sự nhiệt tâm ở lộ thân và lộ tâm. Có sự quyết tâm: có tâm đã được đưa đi, ltức là có tự ngã đã được từ bỏ bởi vị ấy không bị trói buộc trong sắc thân và mạng sống. Yassatthāya tách hợp âm thành yassa atthāya (vì mục đích đạt được hạnh Sa-môn). Thiện nam tử: thiện nam tử có phẩm hạnh cao quý. Chân chánh: bởi nguyên nhân, bởi lý do. Tadanuttaraṃ tách từ thành taṃ anuttaraṃ (mục đích tối thượng). Mục đích cuối cùng của Phạm hạnh: A-ra-hán Quả là mục đích cuối cùng của con đường Phạm hạnh. Thật vậy, các thiện nam tử xuất gia vì mục đích của con đường Phạm hạnh đó. Ngay trong kiếp hiện tại này: ngay trong chính tự ngã này. Tự mình đã chứng ngộ bằng thắng trí: đã làm sáng tỏ bằng trí tuệ của chính mình. Có nghĩa là không có người nào khác làm duyên (không cần tin vào người khác). Đạt đến và an trú: đã chứng đắc, đã thành tựu rồi an trú. Trong khi sống như vậy vị ấy đã biết rõ rằng “Sự tái sanh đã cạn kiệt, Phạm hạnh đã sống, việc cần làm đã làm, không còn gì khác (phải làm) đối với bản thể (A-ra-hán) này nữa.”

Evamassa paccavekkhaṇabhūmiṃ dassetvā arahattanikūṭena desanaṃ niṭṭhāpetuṃ “aññataro kho panāyasmā kassapo arahataṃ ahosī”ti vuttaṃ. Tattha aññataroti eko. Arahatanti arahantānaṃ, bhagavato sāvakānaṃ arahantānaṃ abbhantaro ahosīti ayamettha adhippāyo. Yaṃ yaṃ pana antarantarā na vuttaṃ, taṃ taṃ tattha tattha vuttattā pākaṭamevāti.

Sau khi đức Thế Tôn thuyết về trí tuệ quán xét lại (paccavekkhaṇabhūmi, ñāṇa) cùng du sĩ lõa thể Kassapa ấy như vậy, để cho Pháp thoại kết thúc với đỉnh cao A-ra-hán. Ngài đã nói rằng: “Tôn giả Kassapa là một bậc Thánh A-ra-hán trong số tất cả các bậc Thánh A-ra-hán.” Ở đó, aññataro là một vị. Arahataṃ (trong số các bậc Thánh A-ra-hán) là trong số các bậc Thánh A-ra-hán. Trong câu này có lời giải thích rằng: “Trong số các bậc A-ra-hán Thinh văn của đức Thế Tôn, Tôn giả Kassapa là một vị Thánh A-ra-hán.” Các từ còn lại đều đơn giản.

Giải Thích Kinh Tiếng Rống Sư Tử được kết thúc – Kinh thứ tám.

Trong Chú Giải Trường Bộ Kinh là Sumaṅgalavilāsī.



[1] Chánh văn Pāḷī Ujuññā

[2] Lomasāya bāhāya (Sī)

[3] Pubbepahaṃ (Sī), pubbevāhaṃ (Syā)

[4] Idānipi puññāneva (Sī, Syā)

[5] Pubbepahaṃ (Sī), pubbevāhaṃ (Syā)

[6] Cakkhunā nāmarūpaṃ (Ka)

[7] Sariranipphattiṃ (Sī, Syā)

[8] Padesu (Ka)

[9] Ekadatti nāma (Ka)

[10] Nīvāro nāma (Sī)

[11] Tirītanīti tirīṭakarukkhatacavatthāni (Sī)

[12] Aṃ 1. 290 piṭṭhe.

[13] Abyāpajjhanti (Sī)

[14] Buddhasīhanādaṃ (Sī)

[15] Pātimokkhasīlaṃ (Sī)

[16] Katarasmiṃ (Sī)

[17] ma. ni. 1.150

[18] Na pūretuṃ na sakkonti (Sī)

[19] Pañhaṃ vissajjemīti (Syā, Ka)

[20] Paṭipattiyā maṃ (Syā, Ka)

[21] Dasuttaraṃ (Sī)

[22]  Vādānaṃ vādaṃ (Sī), vādānuvādaṃ (Syā)

[23] Yo kho Khandhake (Sī)

[24] mahāva. 86

[25] Thực hành biệt trú nghĩa là giai đoạn sống thử thách tối thiểu bốn tháng dành cho một người trước đây ngoại đạo, mong muốn tu lên bậc trên trong Pháp và Luật này

[26] Na atidivākāle (Sī, Ka) Vi 3. 100 piṭṭhe.

[27] Pana (Ka)

[28] Vi-Ṭṭha 3. 272 piṭṭhe.

[29] Sacchikatvā (Ka)