Giải Thích Kinh Tại Khu Vườn Udumbarikā
(Udumbarikasuttavaṇṇanā (25))Xem Trường Bộ Kinh – Kinh Tại Khu Vườn Udumbarikā
(Kinh Ưu-đàm-bà-la sư tử hống)
Nói về câu chuyện du sĩ Nigrodha
- Evaṃ me sutanti udumbarikasuttaṃ. Tatrāyamapubbapadavaṇṇanā – Paribbājakoti channaparibbājako. Udumbarikāya paribbājakārāmeti udumbarikāya deviyā santake paribbājakārāme. Sandhānoti tassa nāmaṃ. Ayaṃ pana mahānubhāvo parivāretvā vicarantānaṃ pañcannaṃ upāsakasatānaṃ aggapuriso anāgāmī bhagavatā mahāparisamajjhe evaṃ saṃvaṇṇito –
Bài Kinh Tại Khu Vườn Udumbarikā bắt đầu như sau— ‘Tôi đã nghe như vầy…’ Trong bài Kinh ấy có sự giải thích theo thứ tự các câu như sau – Du sĩ: du sĩ Channa. Tại khu vườn dành cho du sĩ của hoàng hậu Udumbarikā: Tại khu vườn dành cho các du sĩ thuộc quyền sở hữu của hoàng hậu Udumbarikā. Gia chủ Sandhāna: Tên của gia chủ ấy. Vị gia chủ này có oai lực lớn, là con người hạng nhất trong số năm trăm vị cư sĩ thường đi theo hầu cận (đức Thế Tôn), và cũng là một vị Thánh Bất Lai. Đức Thế Tôn tán dương vị ấy ở giữa hội chúng như vầy rằng –
“Chahi, bhikkhave, aṅgehi samannāgato sandhāno gahapati tathāgate niṭṭhaṅgato saddhamme iriyati. Katamehi chahi? Buddhe aveccappasādena dhamme aveccappasādena saṅghe aveccappasādena ariyena sīlena ariyena ñāṇena ariyāya vimuttiyā. Imehi kho, bhikkhave, chahi aṅgehi samannāgato sandhāno gahapati tathāgate niṭṭhaṅgato saddhamme iriyatī”ti (a. ni. 6.120-139).
“Này các tỳ khưu, gia chủ Sandhāna được thành tựu sáu yếu tố đi đến cứu cánh nơi Như Lai, an trú trong Chánh Pháp. Với sáu yếu tố gì? Với lòng tịnh tín bất động đối với Phật, với lòng tịnh tín bất động đối với Pháp, với lòng tịnh tín bất động đối với Tăng, với Thánh giới, với Thánh trí, với Thánh giải thoát. Thành tựu sáu pháp này, này các tỳ khưu, gia chủ Sandhāna đi đến cứu cánh nơi Như Lai, an trú trong Chánh Pháp.”
So pātoyeva uposathaṅgāni adhiṭṭhāya pubbaṇhasamaye buddhappamukhassa saṅghassa dānaṃ datvā bhikkhūsu vihāraṃ gatesu ghare khuddakamahallakānaṃ dārakānaṃ saddena ubbāḷho satthu santike “dhammaṃ sossāmī”ti nikkhanto. Tena vuttaṃ divā divassa rājagahā nikkhamīti. Tattha divā divassāti divasassa divā nāma majjhanhātikkamo, tasmiṃ divasassāpi divābhūte atikkantamatte majjhanhike nikkhamīti attho. Paṭisallīnoti tato tato rūpādigocarato cittaṃ paṭisaṃharitvā nilīno jhānaratisevanāvasena ekībhāvaṃ gato. Manobhāvanīyānanti manavaḍḍhakānaṃ. Ye ca āvajjato manasikaroto cittaṃ vinīvaraṇaṃ hoti unnamati vaḍḍhati.
Vị ấy đã phát nguyện thọ trì Tám chi phần của ngày Uposatha (Bát quan trai giới) từ sáng sớm, vào buổi sáng đã cúng dường đến chư Tăng có đức Phật là vị đứng đầu. Khi các tỳ kheo đã trở về tịnh xá, cảm thấy khó chịu vì tiếng ồn ào của trẻ nhỏ và trẻ lớn trong làng, nên đã ra đi với ý nghĩ rằng “Tôi sẽ nghe pháp” ở trú xứ của bậc Đạo Sư. Vì thế, (vị ấy) mới nói rằng: “Tôi rời khỏi thành Rājagaha vào buổi chiều”. Trong các từ đó, ‘vào buổi chiều’: Thời gian sau giữa trưa được gọi là buổi chiều. Giải thích rằng cư sĩ Sandhāna đó đã đi ra vào buổi chiều, tức là qua giờ trưa. Đang độc cư thiền tịnh: thu nhiếp tâm từ các đối tượng như sắc v.v., đang độc cư thiền định, tức là đạt đến trạng thái tâm nhất hành do mãnh lực của sự thọ hưởng hỷ lạc trong thiền. (Các vị tỳ khưu) khả kính: làm cho tâm tăng trưởng. Và người nào có tâm nhớ nghĩ, tác ý đúng đường lối, (người ấy) có tâm lìa khỏi các pháp ngăn che, được thịnh vượng, được phát triển.
- Unnādiniyātiādīni poṭṭhapādasutte vitthāritanayeneva veditabbāni.
Với âm thanh ồn ào, v.v, nên được hiểu theo cách thức đã được giảng giải chi tiết ở bài Kinh Poṭṭhapāda. - Yāvatāti yattakā. Ayaṃ tesaṃ aññataroti ayaṃ tesaṃ abbhantaro eko sāvako, bhagavato kira sāvakā gihianāgāminoyeva pañcasatā rājagahe paṭivasanti. Yesaṃ ekekassa pañca pañca upāsakasatāni parivārā, te sandhāya “ayaṃ tesaṃ aññataro”ti āha. Appeva nāmāti tassa upasaṅkamanaṃ patthayamāno āha. Patthanākāraṇaṃ pana poṭṭhapādasutte vuttameva.
Bao nhiêu: Có số lượng bao nhiêu. Vị này (gia chủ Sandhāna) là một trong số đó: trong số các vị đệ tử đó, gia chủ Sandhāna này được tính vào trong số các đệ tử đó, hay là một người đệ tử. Nghe nói rằng các đệ tử của đức Thế Tôn, riêng các cư sĩ là bậc Bất Lai, có số lượng năm trăm vị đều cư ngụ ở thành Rājagaha. Du sĩ Nigrodha đã nói rằng “vị này là một trong số họ” v.v., đề cập đến mỗi vị cư sĩ đều có năm trăm người tùy tùng. Du sĩ Nigrodha mong muốn sự xuất hiện của vị cư sĩ đó, nên đã nói “có lẽ” như vậy. Nguyên nhân của sự mong muốn đó đã được nói trong bài Kinh Poṭṭhapāda. - Etadavocāti āgacchanto antarāmaggeyeva tesaṃ kathāya sutattā etaṃ aññathā kho imetiādivacanaṃ avoca. Tattha aññatitthiyāti dassanenapi ākappenapi kuttenapi ācārenapi vihārenapi iriyāpathenapi aññe titthiyāti aññatitthiyā. Saṅgamma samāgammāti saṅgantvā samāgantvā rāsi hutvā nisinnaṭṭhāne. Arañña-vanapatthānīti araññavanapatthāni gāmūpacārato muttāni dūrasenāsanāni. Pantānīti dūratarāni manussūpacāravirahitāni. Appasaddānīti vihārūpacārena gacchato addhikajanassapi saddena mandasaddāni. Appanigghosānīti avibhāvitatthena nigghosena mandanigghosāni. Vijanavātānīti antosañcārino janassa vātena vigatavātāni. Manussarāhasseyyakānīti manussānaṃ rahassakaraṇassa yuttāni anucchavikāni. Paṭisallānasāruppānīti ekībhāvassa anurūpāni. Iti sandhāno gahapati “aho mama satthā yo evarūpāni senāsanāni paṭisevatī”ti añjaliṃ paggayha uttamaṅge sirasmiṃ patiṭṭhapetvā imaṃ udānaṃ udānento nisīdi.
Đã nói điều này: Gia chủ Sandhāna đang đi đến đã nói lời này rằng “Quả thât khác biệt, (các ngài du sĩ) thuộc giáo phái khác….” bởi vì bản thân đã nghe những lời của các du sĩ đó trên đường đi. Trong câu đó, các du sĩ ngoại đạo: Được gọi là các du sĩ ngoại đạo bởi vì họ thuộc giáo phái khác về quan niệm, cách cư xử, hành động, hạnh kiểm, cách sống, và bởi các oai nghi. Gặp gỡ, tụ hội lại: Tại địa điểm mà các du sĩ sau khi gặp gỡ, sau khi tụ họp đã ngồi lại thành nhóm. Các khu rừng, các nơi heo hút: các khu rừng và những nơi heo hút tức là các trú xứ ở cách xa ranh giới xóm làng. Nơi vắng vẻ: nơi ở tách biệt khỏi ranh giới của con người. Có ít âm thanh: có tiếng động nhỏ dù chỉ là tiếng động người bước đi trên đường ngang qua gần chỗ ở. Ít tiếng ồn: có tiếng động nhỏ bởi không có tiếng vang dội. Có bầu không gian vắng vẻ: vắng tiếng nói của con người đi lại ở bên trong. Tách biệt với dân chúng: thích hợp, phù hợp để thực hiện những hành động kín đáo của loài người. Thích hợp cho việc độc cư thiền tịnh: phù hợp cho việc sống một mình. Vì lẽ đó, cư sĩ Sandhāna nghĩ rằng: “Ôi, bậc Đạo Sư của chúng ta an trú ở những trú xứ có hình thức như vậy!” rồi chắp tay lên trên đầu và ngồi xuống thốt lên lời cảm hứng này. - Evaṃ vutteti evaṃ sandhānena gahapatinā udānaṃ udānentena vutte. Nigrodho paribbājako ayaṃ gahapati mama santike nisinnopi attano satthāraṃyeva thometi ukkaṃsati, amhe pana atthītipi na maññati, etasmiṃ uppannakopaṃ samaṇassa gotamassa upari pātessāmīti sandhānaṃ gahapatiṃ etadavoca.
Khi gia chủ Sandhāna nói như vậy: Khi cư sĩ Sandhāna thốt lên lời tán thán như vậy, du sĩ Nigrodha nghĩ rằng: “Vị cư sĩ này, mặc dù ngồi trong đạo tràng của ta, cũng vẫn chỉ ca ngợi và tán thán bậc Đạo Sư của mình, mà không nghĩ đến ‘sự tồn tại của ta’, ta sẽ khiến sự giận dữ khởi lên nơi vị ấy rồi trút lên trên người của Sa-môn Gotama”, nên đã nói lời này với gia chủ Sandhāna.
Yaggheti codanatthe nipāto. Jāneyyāsīti bujjheyyāsi passeyyāsi. Kena samaṇo gotamo saddhiṃ sallapatīti kena kāraṇena kena puggalena saddhiṃ samaṇo gotamo sallapati vadati bhāsati. Kiṃ vuttaṃ hoti – “Yadi kiñci sallāpakāraṇaṃ bhaveyya, yadi vā koci samaṇassa gotamassa santikaṃ sallāpatthiko gaccheyya, sallapeyya, na pana kāraṇaṃ atthi, na tassa santikaṃ koci gacchati, svāyaṃ kena samaṇo gotamo saddhiṃ sallapati, asallapanto kathaṃ unnādī bhavissatī”ti.
Mà này (yagghe): là một phân từ, với ý nghĩa ‘quở trách’. Ông cần phải biết: nên biết, nên thấy. Sa-môn Gotama trò chuyện với ai?: Sa-môn Gotama đàm luận, nói, thuyết với ai? Vì lý do gì? Có lời giải thích như thế nào? — Có lời giải thích rằng: “Giả sử có thể có lý do nào để trò chuyện, hoặc nếu như có ai đó mong muốn trò chuyện có thể đi đến trú xứ của Sa-môn Gotama để có thể trò chuyện; còn nếu không có lý do, thì chẳng có ai đi tìm Ngài. Vậy Sa-môn Gotama ấy sẽ trò chuyện với ai? Khi không được trò chuyện thì làm sao Ngài có thể rống lên tiếng rống sư tử?
Sākacchanti saṃsandanaṃ. Paññāveyyattiyanti uttarapaccuttaranayena ñāṇabyattabhāvaṃ. Suññāgārahatāti suññāgāresu naṭṭhā, samaṇena hi gotamena bodhimūle appamattikā paññā adhigatā, sāpissa suññāgāresu ekakassa nisīdato naṭṭhā. yadi pana mayaṃ viya gaṇasaṅgaṇikaṃ katvā nisīdeyya, nāssa paññā nasseyyāti dasseti. Aparisāvacaroti avisāradattā parisaṃ otarituṃ na sakkoti. Nālaṃ sallāpāyāti na samattho sallāpaṃ kātuṃ. Antamantānevāti koci maṃ pañhaṃ puccheyyāti pañhābhīto antamantāneva pantasenāsanāni sevati. Gokāṇāti ekakkhihatā kāṇagāvī. Sā kira pariyantacārinī hoti, antamantāneva sevati. Sā kira kāṇakkhibhāvena vanantābhimukhīpi na sakkoti bhavituṃ. Kasmā? Yasmā pattena vā sākhāya vā kaṇṭakena vā pahārassa bhāyati. gunnaṃ abhimukhīpi na sakkoti bhavituṃ. Kasmā? Yasmā siṅgena vā kaṇṇena vā vālena vā pahārassa bhāyati. Iṅghāti codanatthe nipāto. Saṃsādeyyāmāti ekapañhapucchaneneva saṃsādanaṃ visādamāpannaṃ kareyyāma. Tucchakumbhīva nanti rittaghaṭaṃ viya naṃ. orodheyyāmāti vinandheyyāma. Pūritaghaṭo hi ito cito ca parivattetvā na suvinandhanīyo hoti. Rittako yathāruci parivattetvā sakkā hoti vinandhituṃ, evameva hatapaññatāya rittakumbhisadisaṃ samaṇaṃ gotamaṃ vādavinandhanena samantā vinandhissāmāti vadati.
Bàn luận: bàn luận cùng nhau. Đạt được sự sáng suốt của tuệ (nhờ tranh luận): bản thể vị thiện xảo trong trí về uttara-naya (trả lời trực tiếp để giải thích vấn đề) và paccuttara-naya (phương pháp phản biện). Bị hủy hoại ở các ngôi nhà trống vắng: Bị biến mất ở các ngôi nhà trống vắng, du sĩ Nigrodha cho rằng: bởi vì Sa-môn Gotama đã đạt được chút ít trí tuệ dưới cội Bồ-đề, nên khi Sa-môn Gotama một mình ngồi ở các ngôi nhà trống, thì trí tuệ đó liền biến mất. Nhưng nếu Sa-môn Gotama đó ngồi chung với tập thể như ta thì trí tuệ của Ngài sẽ không biến mất. Không thường lui tới tập thể: không thể đi vào tập thể bởi bản chất nhút nhát. Không đủ khả năng để trò chuyện: không đủ khả năng để trò chuyện, nói chuyện. Chỉ lai vãng các trú xứ biên địa: Sa-môn Gotama sợ sệt trả lời câu hỏi rằng ai đó có thể hỏi câu hỏi cùng ta, nên chỉ lai vãng ở các trú xứ biên địa những nơi vắng vẻ bên trong, tức là ở những trú xứ thanh tịnh. Con bò chột mắt: Con bò cái bị chột hết một bên mắt. Kể rằng con bò cái bị chột mắt đó chỉ quanh quẩn ăn cỏ ở những nơi vắng vẻ bên trong. Được biết con bò ấy, dù có ý định đi về phía bìa rừng, cũng không thể đi được bởi vì là con bò chột mắt. – Tại sao? – Vì con bò mẹ chột mắt đó sợ bị lá cây, cành cây hoặc gai đâm phải, nên không thể đi đến trước mặt đàn bò. – Vì sao? – Bởi vì con bò ấy sợ bị sừng bò, tai bò hoặc đuôi bò va phải. Iṅghā: là một phân từ, với ý nghĩa khích động. Có thể nhấn chìm: chúng tôi có thể làm cho bối rối, có thể cho lúng túng chỉ bằng cách hỏi một câu hỏi. Như người bóp chiếc bình rỗng: (có thể xoay vần) vị ấy (Sa-môn Gotama) như một chiếc bình rỗng vậy. ‘Chúng tôi có thể xoay vần’ tức là có thể siết chặt. Thật vậy, một chiếc bình đã đầy, dù lăn qua lăn lại bên này bên kia, người ta cũng không thể nào siết chặt được. Còn chiếc bình rỗng, người ta có thể lật qua lật lại và siết chặt theo ý thích. Cũng tương tự như vậy, du sĩ Nigrodha này nói rằng: “Chúng ta sẽ xoay vần Sa-môn Gotama giống như xoay vần một chiếc bình rỗng không từ mọi phía bằng sự áp bức do lời nói, bởi trí tuệ của ngài đã bị khử trừ.
Iti paribbājako satthu suvaṇṇavaṇṇaṃ nalāṭamaṇḍalaṃ apassanto dasabalassa parammukhā attano balaṃ dīpento asambhinnaṃ khattiyakumāraṃ jātiyā ghaṭṭayanto caṇḍālaputto viya asambhinnakesarasīhaṃ migarājānaṃ thāmena ghaṭṭento jarasiṅgālo viya ca nānappakāraṃ tucchagajjitaṃ gajji. Upāsakopi cintesi “ayaṃ paribbājako ati viya gajjati, avīciphusanatthāya pādaṃ, bhavaggaggahaṇatthāya hatthaṃ pasārayanto viya niratthakaṃ vāyamati. Sace me satthā imaṃ ṭhānamāgaccheyya, imassa paribbājakassa yāva bhavaggā ussitaṃ mānaddhajaṃ ṭhānasova opāteyyā”ti.
Du sĩ ngoại đạo khi không thấy vầng trán có màu da vàng chói của bậc Đạo Sư vị ấy đã phô trương sức mạnh của mình sau lưng đấng Thập Lực, gầm gừ vô ích, la lối om sòm nhiều kiểu khác nhau, giống như con trai của người Chiên-đà-la chế nhạo hoàng tử Sát-đế-lỵ huyết thống không bị pha trộn bởi dòng dõi, và giống như con chó rừng chế nhạo sư tử vua các loài thú bằng sức mạnh như thế. Ngay cả vị cư sĩ cũng nghĩ rằng: “Vị du sĩ ngoại đạo này hống hách quá đáng, cố gắng vô ích, giống như duỗi chân để chạm vào địa ngục Avīci, duỗi tay để nắm lấy cảnh giới tột cùng của hiện hữu. Nếu như đức Thế Tôn của ta có thể đi đến nơi này, Ngài có thể hạ ngọn cờ ngã mạn mà vị đạo sĩ này đã dựng lên đến tận cảnh giới tột cùng của hiện hữu ngay tại một địa điểm.”
- Bhagavāpi tesaṃ taṃ kathāsallāpaṃ assosiyeva. Tena vuttaṃ “assosi kho imaṃ kathāsallāpa”nti.
Ngay cả Đức Thế Tôn cũng đã nghe được cuộc trò chuyện đó. Do dó, ngài mới nói rằng: “(Nhờ vào Thiên nhĩ giới thanh tịnh vượt trội loài người), đức Thế Tôn đã nghe được cuộc đàm thoại trò chuyện này (của gia chủ Sandhāna với du sĩ Nigrodha)”.
Sumāgadhāyāti sumāgadhā nāma pokkharaṇī, yassā tīre nisinno aññataro puriso padumanāḷantarehi asurabhavanaṃ pavisantaṃ asurasenaṃ addasa. Moranivāpoti nivāpo vuccati bhattaṃ, yattha morānaṃ abhayena saddhiṃ nivāpo dinno, taṃ ṭhānanti attho. Abbhokāseti aṅgaṇaṭṭhāne. Assāsapattāti tuṭṭhipattā somanassapattā. Ajjhāsayanti uttamanissayabhūtaṃ. Ādibrahmacariyanti purāṇabrahmacariyasaṅkhātaṃ ariyamaggaṃ. Idaṃ vuttaṃ hoti – “ko nāma so, bhante, dhammo yena bhagavatā sāvakā vinītā ajjhāsayādibrahmacariyabhūtaṃ ariyamaggaṃ pūretvā arahattādhigamavasena assāsapattā paṭijānantī”ti.
Bên bờ hồ Sumāgadhā: một người đàn ông nào đó ngồi ở các hồ nước tên là Sumāgadhā đã thấy bè lũ A-tu-la đang đi vào cõi A-tu-la thông qua cuống hoa sen. Thức ăn của nó được gọi là ‘thức ăn nuôi dưỡng’ trong từ “nơi nuôi dưỡng chim công”, điều này được giải thích là nơi mà người ta cho thức ăn cùng với sự an toàn cho các chim công. Ở ngoài trời: ở nơi là gò đất. Đã đạt được sự thư thái: đã đạt được sự mãn nguyện, đã đạt đến sự an vui. Là nơi nương nhờ (tối thượng): Tính chất là nơi nương nhờ cao thượng (Đạo cao thượng). Phạm hạnh truyền thống: là Thánh đạo, được xem là Phạm hạnh sơ khởi. Du sĩ ngoại đạo Nigrodha đã nói như vầy: “Thưa ngài, Pháp của đức Thế Tôn gọi là gì? Mà nhờ nó đức Thế Tôn hướng dẫn các đệ tử, nhờ đó các đệ tử được hướng dẫn bởi đức Thế Tôn, đã đạt được sự thư thái, – (thừa nhận Phạm hạnh truyền thống là nơi nương nhờ tối thượng?)”
Giải thích học thuyết khổ hạnh và ghê tởm
- Vippakatāti mamāgamanapaccayā aniṭṭhitā, va hutvā ṭhitā, kathehi, ahametaṃ niṭṭhapetvā matthakaṃ pāpetvā dassemīti sabbaññupavāraṇaṃ pavāresi.
Câu chuyện trao đổi: (câu chuyện trao đổi giữa chúng con) còn chưa được kết thúc, do sự đi đến của Ta làm duyên. Đức Thế Tôn đã đưa ra thỉnh mời (được gọi là) sabbaññupavāraṇā (lời mời của Trí Toàn Tri): “Ngươi hãy nói đi, Ta sẽ thuyết giảng pháp ấy cho đến kết thúc, đưa đến sự viên mãn.” - Dujjānaṃ khoti bhagavā paribbājakassa vacanaṃ sutvā ‘‘ayaṃ paribbājako mayā sāvakānaṃ desetabbaṃ dhammaṃ tehi pūretabbaṃ paṭipattiṃ pucchati, sacassāhaṃ āditova taṃ kathessāmi, kathitampi naṃ na jānissati, ayaṃ pana vīriyena pāpajigucchanavādo, handāhaṃ etasseva visaye pañhaṃ pucchāpetvā puthusamaṇabrāhmaṇānaṃ laddhiyā niratthakabhāvaṃ dassemi. Atha pacchā imaṃ pañhaṃ byākarissāmī’’ti cintetvā dujjānaṃ kho etantiādimāha. Tattha sake ācariyaketi attano ācariyavāde. Adhijeguccheti vīriyena pāpajigucchanabhāve. Kathaṃ santāti kathaṃ bhūtā. Tapojigucchāti vīriyena pāpajigucchā pāpavivajjanā. Paripuṇṇāti parisuddhā. Kathaṃaparipuṇṇāti kathaṃ aparisuddhā hotīti evaṃ pucchāti. Yatra hi nāmāti yo nāma.
Quả thật là khó biết (đối với ngươi): Đức Thế Tôn, sau khi nghe lời nói của du sĩ, ngài đã nghĩ rằng: “Du sĩ này hỏi về pháp mà Ta đã thuyết giảng cho các đệ tử, đó là lối thực hành mà họ nên được thực hành. Nếu như Ta thuyết giảng pháp ấy ngay từ đầu cho gã ấy, gã ấy sẽ không hiểu được (ý nghĩa) những lời mà Ta nói. Hơn nữa, gã này là người có học thuyết ghê tởm tội lỗi bằng sự tinh tấn. Được rồi, Ta sẽ để hắn hỏi những vấn đề thuộc phạm vi học thuyết của hắn, sau đó chỉ ra sự vô ích trong học thuyết của nhiều Sa-môn và Bà-la-môn. Khi đó, Ta sẽ giải thích câu hỏi này.” Vì vậy, Ngài mới nói rằng: “Quả thật là khó biết đối với ngươi về pháp ấy”. Ở đấy, (học thuyết) thuộc về vị thầy của ngươi: Trong học thuyết thuộc về vị thầy của ngươi. Về sự ghê tởm tối thắng: tính chất về sự ghê tởm tội lỗi (được thực hiện) bởi sự tinh tấn. Như thế nào là…: tính chất như thế nào? Sự khổ hạnh và ghê tởm: sự ghê tởm tội lỗi, sự xa lánh tội lỗi bằng sự tinh tấn. Được làm đầy đủ: được hoàn toàn trong sạch. Như thế nào là không được làm đầy đủ?: Như thế nào là không hoàn toàn thanh tịnh? Ngươi hãy hỏi như vậy. Yatra hi nāma đồng nghĩa với ‘yo nāma’ - Appasaddekatvāti nirave appasadde katvā. So kira cintesi – ‘‘samaṇo gotamo ekaṃ pañhampi na katheti, sallāpakathāpissa atibahukā natthi, ime pana ādito paṭṭhāya samaṇaṃ gotamaṃ anuvattanti ceva pasaṃsanti ca, handāhaṃ ime nissadde katvā sayaṃ kathemī’’ti. So tathā akāsi. Tena vuttaṃ ‘‘appasadde katvā’’ti. ‘‘Tapojigucchavādā’’tiādīsu tapojigucchaṃ vadāma, manasāpi tameva sārato gahetvā vicarāma, kāyenapimhā tameva allīnā, nānappakārakaṃ attakilamathānuyogamanuyuttā viharāmāti attho.
Đã làm cho (các du sĩ) im lặng: đã làm cho không có tiếng ồn, (mang lại) sự yên tĩnh. Nghe rằng vị đạo sĩ đó nghĩ rằng: “Sa môn Gotama sẽ không chỉ trả lời một câu hỏi, dù cuộc đàm luận nói chuyện của Sa-môn Gotama không quá dài, những người này cũng sẽ thuận theo và ca ngợi Sa-môn Gotama từ đầu. Thôi được, ta sẽ khiến những người này tự im lặng.” Vị ấy đã hành động như vậy. Vì thế, ngài mới nói rằng: “Đã làm cho (các du sĩ) im lặng” v.v. Học thuyết khổ hạnh và ghê tởm, v.v, đề cập đến việc “chúng tôi nói về khổ hạnh và ghê tởm, đã nắm giữ chính điều đó là cốt lõi bằng ý, bám lấy chính điều ấy bằng thân thể, (đồng thời) gắn liền với sự tinh tấn trong việc tự hành hạ bản thân bằng nhiều hình thức khác nhau, và chúng tôi sống.
Giải thích về các sự ô uế – Upakkilesā
- Tapassīti tapanissitako. ‘‘Acelako’’tiādīni sīhanāde (dī. ni. aṭṭha. 1.393) vitthāritanayeneva veditabbāni. Tapaṃ samādiyatīti acelakabhāvādikaṃ tapaṃ sammā ādiyati, daḷhaṃ gaṇhāti. Attamano hotīti ko añño mayā sadiso imasmiṃ tape atthīti tuṭṭhamano hoti. Paripuṇṇasaṅkappoti alamettāvatāti evaṃ pariyositasaṅkappo, idañca titthiyānaṃ vasena āgataṃ. Sāsanāvacarenāpi pana dīpetabbaṃ. Ekacco hi dhutaṅgaṃ samādiyati, so teneva dhutaṅgena ko añño mayā sadiso dhutaṅgadharoti attamano hoti paripuṇṇasaṅkappo. Tapassino upakkileso hotīti duvidhassāpetassa tapassino ayaṃ upakkileso hoti. Ettāvatāyaṃ tapo upakkileso hotīti vadāmi.
Kẻ thực hành khổ hạnh: người y cứ lối tu khổ hạnh. Người lõa thể v.v., nên hiểu theo cách giải thích chi tiết trong Kinh Sīhanāda. (dī. ni. aṭṭha. 1.393); Thọ trì pháp khổ hạnh: Là sự bám níu pháp khổ hạnh có bản thể lõa lồ v.v., tức là nắm giữ kiên cố. Có tâm hoan hỷ: Người du sĩ vui mừng khi biết rằng có người khác cũng thực hành khổ hạnh giống như mình. Có tư duy thỏa mãn: Có tư duy đã hoàn mãn (đã đạt được những gì vị ấy mong ước) như vầy rằng chỉ bấy nhiêu là đủ, và điều này xuất phát nhờ sức mạnh của các ngoại đạo. Ngoài ra, cũng cần được trình bày theo khả năng liên quan đến Tôn giáo. Thật vậy, có một số người thực hành hạnh đầu-đà, người ấy có tâm hoan hỷ với chính lối tu đó rằng: “Ai khác có thể thực hành hạnh đầu-đà giống như ta?” đây được gọi là có tư duy thỏa mãn. Đối với kẻ tu khổ hạnh này, đây là sự ô uế: đây là sự ô uế của hai loại người tu khổ hạnh đó. Vì lý do này, Ta nói rằng khổ hạnh là sự ô uế cho người ấy.
Attānukkaṃsetīti ‘‘ko mayā sadiso atthī’’ti attānaṃ ukkaṃsati ukkhipati. Paraṃ vambhetīti ‘‘ayaṃ na mādiso’’ti paraṃ saṃhāreti avakkhipati.
(Kẻ ấy) tâng bốc bản thân: tâng bốc, tức là khoe khoang rằng “Có ai sánh bằng ta”. Khi dễ kẻ khác: Khi dễ, tức là xem thường người khác rằng– “Kẻ này không sánh bằng ta”.
Majjatīti mānamadakaraṇena majjati. Mucchatīti mucchito hoti gadhito ajjhāpanno. Pamādamāpajjatīti etadeva sāranti pamādamāpajjati. Sāsane pabbajitopi dhutaṅgasuddhiko hoti, na kammaṭṭhānasuddhiko. Dhutaṅgameva arahattaṃ viya sārato pacceti.
Say sưa: say đắm bởi cơn say là ngã mạn. Mê muội: trở nên mê mờ, bị dính mắc, bị ràng buộc. Rơi vào sự xao lãng: rơi vào sự buông lung (nghĩ rằng) chỉ có điều này là cốt lõi. Vị du sĩ này dù đã xuất gia trong Giáo pháp, là người có hạnh đầu-đà thanh tịnh chứ không phải có đề mục thiền định thanh tịnh. Ông ta chỉ nắm giữ lối tu khổ hạnh như là cốt lõi, giống như nắm giữ bản thể A-ra-hán.
- Lābhasakkārasilokanti ettha cattāro paccayā labbhantīti lābhā, teyeva suṭṭhu katvā paṭisaṅkharitvā laddhā sakkāro, vaṇṇabhaṇanaṃ siloko. Abhinibbattetīti acelakādibhāvaṃ terasadhutaṅgasamādānaṃ vā nissāya mahālābho uppajjati, tasmā ‘‘abhinibbattetī’’ti vutto. Sesamettha purimavāranayeneva duvidhassāpi tapassino vasena veditabbaṃ.
Lợi lộc và sự trọng vọng và sự nổi tiếng: Ở đây, lợi lộc (với ý nghĩa) đạt được bốn món vật dụng; sau khi đã được chuẩn bị, đã làm kỹ lưỡng (vị ấy) đã nhận được những món vật dụng đó, được gọi là sự trọng vọng . Nói lời tán dương, gọi là sự nổi tiếng. Tạo ra: Lợi lộc lớn được phát sinh do nương tựa vào bản thể lõa lồ v.v., hoặc do việc thọ trì mười ba hạnh đầu-đà của vị ấy. Vì thế, vị đạo sĩ đã nói “đã tạo ra” như vậy. Các từ còn lại trong đoạn này nên được hiểu theo phương diện của hai nhóm người khổ hạnh, theo nghĩa đã nói ở trước. - Vodāsaṃ āpajjatīti dvebhāgaṃ āpajjati, dve bhāge karoti. Khamatīti ruccati. Nakkhamatīti na ruccati. Sāpekkho pajahatīti sataṇho pajahati. Kathaṃ? Pātova khīrabhattaṃ bhutto hoti. Athassa maṃsabhojanaṃ upaneti. Tassa evaṃ hoti ‘‘idāni evarūpaṃ kadā labhissāma, sace jāneyyāma, pātova khīrabhattaṃ na bhuñjeyyāma, kiṃ mayā sakkā kātuṃ, gaccha bho, tvameva bhuñjā’’ti jīvitaṃ pariccajanto viya sāpekkho pajahati.
Thực hiện sự phân biệt các thức ăn: chia thành hai phần, tức là làm thành hai phần. Thích hợp: Ưa thích. Không thích hợp: Không ưa thích. Dứt bỏ món ấy: người có sự mong muốn vứt bỏ. – Như thế nào? – Vào buổi sáng, người ấy thọ dụng sữa. Lúc đó, thí chủ lại mang thịt đến cho vị ấy. Vị ấy có suy nghĩ như vầy: “Bây giờ, khi nào ta sẽ có được như thế này nữa?” Nếu biết như vậy, ta không nên thọ dụng sữa vào buổi sáng. Ta có thể làm gì? Vì vậy, người ấy hướng đến việc vứt bỏ như từ bỏ mạng sống bằng cách nói: “Thưa ngài, hãy đi, hãy dụng.”
Gadhitoti gedhajāto. Mucchitoti balavataṇhāya mucchito saṃmuṭṭhassatī hutvā. Ajjhāpannoti āmise atilaggo, ‘‘bhuñjissatha, āvuso’’ti dhammanimantanamattampi akatvā mahante mahante kabaḷe karoti. Anādīnavadassāvītiādīnavamattampi na passati. Anissaraṇapaññoti idha mattaññutānissaraṇapaccavekkhaṇaparibhogamattampi na karoti. Lābhasakkārasilokanikantihetūti lābhādīsu taṇhāhetu.
Bị trói buộc: Đã khởi lên sự tham đắm. Mê mẩn: đã quên lãng, bởi sức mạnh của tham ái, tức là người có niệm bị quên lãng. Bị lôi cuốn: vướng mắc trong tài vật. Không thực hiện dù chỉ một lời mời đúng pháp rằng: “Này hiền giả, các vị sẽ thọ dụng”, mà làm thành những miếng lớn. Không nhìn thấy sự bất lợi: không nhìn thấy ngay cả sự bất lợi. Không biết rõ lối thoát ra: Sự biết chừng mực được gọi là ‘sự thoát ra’ trong cụm từ ‘không biết rõ lối thoát ra’ này, người ấy thậm chí không thực hành sự quán sát hay sự thọ dụng (một cách đúng đắn). Vì lý do lợi lộc, sự trọng vọng và sự nổi tiếng: Nguyên nhân của sự tham ái (và dính mắc) trong lợi lộc, v.v.
- Saṃbhakkhetīti saṃkhādati. Asanivicakkanti vicakkasaṇṭhānā asaniyeva. Idaṃ vuttaṃ hoti ‘‘asanivicakkaṃ imassa dantakūṭaṃ mūlabījādīsu na kiñci na saṃbhuñjati. Atha ca pana naṃ samaṇappavādena samaṇoti sañjānantī’’ti. Evaṃ apasādeti avakkhipati. Idaṃ titthiyavasena āgataṃ. Bhikkhuvasena panettha ayaṃ yojanā, attanā dhutaṅgadharo hoti, so aññaṃ evaṃ apasādeti ‘‘kiṃ samaṇā nāma ime samaṇamhāti vadanti, dhutaṅgamattampi natthi, uddesabhattādīni pariyesantā paccayabāhullikā vicarantī’’ti. Lūkhājīvinti acelakādivasena vā dhutaṅgavasena vā lūkhājīviṃ. Issāmacchariyanti parassa sakkārādisampattikhīyanalakkhaṇaṃ issaṃ, sakkārādikaraṇaakkhamanalakkhaṇaṃ macchariyañca.
Nhai ăn (mọi thứ): nhai và nuốt trọn. Với quai hàm nhanh như tia chớp: (hàm răng) có hình dáng sắc bén giống như tia sét. Điều này được nói rằng: Đầu răng của vị ấy sắc bén như tia chớp. Không phải là không ăn các mầm giống nào trong số các loại mầm giống từ rễ, v.v. Nhưng cũng vì thế, mọi người nhớ biết vị ấy là bậc Sa-môn, bởi sự giả danh là Sa-môn. Vị ấy (thể hiện thái độ) công kích, khinh thường người khác với biểu hiện như vậy. Điều này xuất phát do tác động của bọn ngoại đạo. Nhưng cũng bởi tác động của các tỳ khưu, trong trường hợp này có lời giải thích kèm theo như sau: Vị tỳ khưu này, tự mình thực hành hạnh đầu đà, vị ấy khinh thường người khác như vầy: “Làm sao những người này có thể được gọi là Sa-môn? Họ chỉ nói rằng “Chúng tôi là Sa-môn”, nhưng ngay cả phẩm hạnh của hạnh đầu đà cũng không có. Những người này khi đi tầm cầu những bữa ăn được chỉ định v.v., được gọi là sự ham muốn nhiều với bốn món vật dụng (mà) đi vòng quanh.” Có sự nuôi mạng hổ lốn: người có sự nuôi mạng hổ lốn với bản thể lõa lồ, v.v., hoặc do tác động của hạnh đầu đà. Sự ganh tỵ và bỏn xẻn: sự ganh tỵ có sự suy giảm các thành tựu như sự trọng vọng, v.v., của người khác là tướng trạng; và sự bỏn xẻn có sự không chấp nhận thực hiện sự trọng vọng, v.v, là tướng trạng. - Āpāthakanisādīhotīti manussānaṃ āpāthe dassanaṭṭhāne nisīdati. Yattha te passanti, tattha ṭhito vaggulivataṃ carati, pañcātapaṃ tappati, ekapādena tiṭṭhati, sūriyaṃ namassati. Sāsane pabbajitopi samādinnadhutaṅgo sabbarattiṃ sayitvā manussānaṃ cakkhupathe tapaṃ karoti, mahāsāyanheyeva cīvarakuṭiṃ karoti, sūriye uggate paṭisaṃharati, manussānaṃ āgatabhāvaṃ ñatvā ghaṇḍiṃ paharitvā cīvaraṃ matthake ṭhapetvā caṅkamaṃ otarati, sammuñjaniṃ gahetvā vihāraṅgaṇaṃ sammajjati.
Có việc ngồi ở nơi được mọi người nhìn thấy: ngồi ở đường đi, tức là ở nơi mà mọi người có thể nhìn thấy. Người tu khổ hạnh đứng ở nơi mà mọi người có thể nhìn thấy thường dạy về hạnh con dơi, thực hành năm pháp khổ hạnh, đứng bằng một chân, lễ bái mặt trời. Ngay cả tỳ khưu đã xuất gia trong Giáo pháp, sau khi thực hành hạnh đầu đà đã nằm ngủ suốt đêm, thực hành khổ hạnh ở con đường nơi mọi người có thể thấy, vào buổi chiều làm túp lều bằng vải ở ngay trên chiếc giường lớn, khi mặt trời mọc thì cất đi. Vừa biết có người đến tìm thì đánh chuông, đặt y lên đầu rồi đi kinh hành, (sau đó) cầm chổi quét dọn sân tịnh xá.
Attānanti attano guṇaṃ adassayamānoti ettha a-kāro nipātamattaṃ, dassayamānoti attho. Idampi me tapasminti idampi kammaṃ mameva tapasmiṃ, paccatte vā bhummaṃ, idampi mama tapoti attho. So hi asukasmiṃ ṭhāne acelako atthi muttācārotiādīni sutvā amhākaṃ esa tapo, amhākaṃ so antevāsikotiādīni bhaṇati. Asukasmiṃ vā pana ṭhāne paṃsukūliko bhikkhu atthītiādīni sutvā amhākaṃ esa tapo, amhākaṃ so antevāsikotiādīni bhaṇati.
Bản thân: đức hạnh của bản mình. Từ ‘a’ trong từ ‘adassayamāno’ chỉ là một phân từ, có nghĩa là đang biểu lộ. Ngay cả việc này cũng là khổ hạnh của tôi: ngay cả hành động này cũng chính là khổ hạnh của tôi. Hoặc, “là khổ hạnh” ở đây là cách thứ bảy (định sở cách), được dùng với nghĩa cách thứ nhất (chủ cách). Có nghĩa là: ngay cả hành động này cũng là khổ hạnh của tôi. Thật vậy, người có khổ hạnh ấy sau khi nghe rằng có những đạo sĩ lõa có hành vi phóng túng ở chỗ kia v.v., liền nói rằng: “Đây là khổ hạnh của tôi, đạo sĩ lõa thể kia là đệ tử của tôi” v.v. Hoặc hơn nữa, sau khi nghe rằng: “Vị tỳ khưu mặc y phấn tảo ở chỗ kia v.v., cũng nói rằng: “Đây là khổ hạnh của tôi, vị tỳ khưu ấy là đệ tử của tôi” v.v.
Kiñcidevāti kiñci vajjaṃ diṭṭhigataṃ vā. Paṭicchannaṃ sevatīti yathā aññe na jānanti, evaṃ sevati. Akkhamamānaṃ āha khamatīti aruccamānaṃyeva ruccati meti vadati. Attanā kataṃ atimahantampi vajjaṃ appamattakaṃ katvā paññapeti, parena kataṃ dukkaṭamattaṃ vītikkamampi pārājikasadisaṃ katvā dasseti. Anuññeyyanti anujānitabbaṃ anumoditabbaṃ.
Bất cứ việc (lỗi lầm) gì: Bất cứ lỗi lầm hoặc tà kiến gì. Hành xử một cách lấp liếm: (Hành xử) theo cách mà người khác không biết, (vị ấy) hành xử đúng như vậy. Đã nói “thích hợp” trong khi không thích hợp: thường nói đến những điều mà bản thân không ưa thích là ‘tôi ưa thích’. Người có khổ hạnh thường quy định những lỗi lầm mà mình đã tạo rất nặng (cho rằng) ‘(lỗi lầm đó) nhỏ nhoi’, nhưng lại chỉ ra những lỗi lầm mà người khác đã tạo dù chỉ là phạm tác-ác cũng giống như phạm bất-cộng-trụ. Đáng được tán đồng: nên được biết theo, nên được tùy hỷ.
- Kodhanohoti upanāhīti kujjhanalakkhaṇena kodhena, veraappaṭinissaggalakkhaṇena upanāhena ca samannāgato. Makkhī hoti paḷāsīti paraguṇamakkhanalakkhaṇena makkhena, yugaggāhalakkhaṇena paḷāsena ca samannāgato.
Có sự giận dữ, có sự thù hằn: người thành tựu bởi sự giận dữ có sự bực tức là tướng trạng, và bởi sự thù hằn có sự không từ bỏ trả thù là tướng trạng. Có sự gièm pha, có sự ác ý: Người thành tựu bởi sự gièm pha có sự nói xấu phẩm hạnh của người khác là tướng trạng; và bởi sự ác ý có sự tranh giành là tướng trạng.
Issukī hoti maccharīti parasakkārādīsu usūyanalakkhaṇāya issāya, āvāsakulalābhavaṇṇadhammesu maccharāyanalakkhaṇena pañcavidhamaccherena ca samannāgato hoti. Saṭho hoti māyāvīti kerāṭikalakkhaṇena sāṭheyyena, katappaṭicchādanalakkhaṇāya māyāya ca samannāgato hoti. Thaddhohoti atimānīti nissinehanikkaruṇathaddhalakkhaṇena thambhena, atikkamitvā maññanalakkhaṇena atimānena ca samannāgato hoti.
Có sự ganh tỵ, có sự bỏn xẻn: người thành tựu bởi sự ganh tỵ trong sự trọng vọng của người khác, v.v, là tướng trạng; và với năm sự bỏn xẻn có sự bỏn xẻn về chỗ ở, dòng giống, lợi lộc, sắc đẹp và bỏn xẻn Pháp là tướng trạng. Có sự lừa gạt, có sự xảo trá: người thành tựu bởi sự lừa gạt có sự lừa dối là tướng trạng; và sự xảo trá có sự che đậy (lỗi lầm) đã tạo là tướng trạng. Có sự ngoan cố, có sự cao ngạo: người thành tựu bởi sự cứng đầu có sự ương ngạnh đánh mất lòng từ bi và lòng bi mẫn; và sự cao ngạo có sự khinh thường quá mức đối với người khác là tướng trạng.
Pāpiccho hotīti asantasambhāvanapatthanalakkhaṇāya pāpicchatāya samannāgato hoti. Pāpikānanti tāsaṃyeva lāmakānaṃ icchānaṃ vasaṃ gato. Micchādiṭṭhikoti natthi dinnantiādinayappavattāya ayāthāvadiṭṭhiyā upeto. Antaggāhikāyāti sāyeva diṭṭhi ucchedantassa gahitattā ‘‘antaggāhikā’’ti vuccati, tāya samannāgatoti attho. Sandiṭṭhiparāmāsītiādīsu sayaṃ diṭṭhi sandiṭṭhi, sandiṭṭhimeva parāmasati gahetvā vadatīti sandiṭṭhiparāmāsī. Ādhānaṃ vuccati daḷhaṃ suṭṭhu ṭhapitaṃ, tathā katvā gaṇhātīti ādhānaggāhī. Ariṭṭho viya na sakkā hoti paṭinissajjāpetunti duppaṭinissaggī. Yadimeti yadi ime.
Có ước muốn xấu xa: Người thành tựu bởi sự ước muốn xấu xa có sự mong mỏi ca tụng những phẩm hạnh không tồn tại là tướng trạng. Ở dưới tác động của các ước muốn xấu xa: Ở dưới tác động của chính những ước muốn xấu xa đó. Là kẻ có tà kiến: thành tựu bởi quan niệm sai lệch được vận hành theo cách thức sau– ‘sự bố thí mà người cho (đã tạo) không có kết quả, v.v. Tin theo hữu biên kiến: Chính tà kiến ấy ngài gọi là ‘tin theo hữu biên kiến’ do bởi sự chấp thủ đoạn kiến, có nghĩa là người thành tựu bởi ‘tin theo hữu biên kiến’ đó. Có sự bám víu vào quan điểm của mình: quan niệm của chính mình gọi là ‘quan niệm của bản thân’; (người nào) nắm lấy, bám víu vào chính quan niệm của mình, người ấy gọi là ‘người có sự bám víu vào quan niệm của bản thân’. Sự thiết lập kỹ lưỡng, vững chắc gọi là ‘sự thiết lập chắc chắn’; sau khi thực hiện như thế (vị ấy) nắm lấy, (với lý do đó) gọi là ‘người nắm giữ quan điểm một cách chắc chắn’. (Người nào) không thể buông bỏ (tà kiến) giống như tỳ khưu Ariṭṭha, (người ấy) gọi là có sự khó buông bỏ. Yadime được tách thành yadi ime.
Giảng về việc đạt đến vỏ ngoài của sự hoàn toàn trong sạch
- Idha, nigrodha, tapassīti evaṃ bhagavā aññatitthiyehi gahitaladdhiṃ tesaṃ rakkhitaṃ tapaṃ sabbameva saṃkiliṭṭhanti upakkilesapāḷiṃ dassetvā idāni parisuddhapāḷidassanatthaṃ desanamārabhanto idha, nigrodhātiādimāha.
Ở đây, này Nigrodha, vị tu khổ hạnh: Đức Thế Tôn sau khi thuyết giảng đoạn kinh thuộc về phía ô uế, tức là Ngài đã trình bày toàn bộ học thuyết đã được nắm giữ bởi các du sĩ ngoại đạo, pháp tu khổ hạnh mà họ gìn giữ: ‘toàn bộ tất đều là cấu uế”. Bây giờ, nhằm mục đích trình bày đoạn kinh thuộc về phía thanh tịnh, khi bắt đầu thuyết giảng, Ngài mới nói rằng: “Ở đây, này Nigrodha, v.v.”
Tattha ‘‘na attamano’’tiādīni vuttavipakkhavaseneva veditabbāni. Sabbavāresu ca lūkhatapassino ceva dhutaṅgadharassa ca vasena yojanā veditabbā. Evaṃ so tasmiṃ ṭhāne parisuddho hotīti evaṃ so tena na attamanatā na paripuṇṇasaṅkappabhāvasaṅkhātena kāraṇena parisuddho nirupakkileso hoti, uttari vāyamamāno kammaṭṭhānasuddhiko hutvā arahattaṃ pāpuṇāti. Iminā nayena sabbavāresu attho veditabbo.
Ở đây, “có tâm không hoan hỷ, v.v.” nên hiểu theo phương diện trái nghịch với điều đã nói. Trong mỗi phần, nên biết liên kết ý nghĩa với tác động của người có khổ hạnh ô uế và người thực hành hạnh đầu đà. Như vậy, vị ấy là hoàn toàn trong sạch về khía cạnh ấy: vị ấy (người có khổ hạnh) là người thanh tịnh, tức là không có ô uế, do có sự hoan hỷ bởi khổ hạnh phải chăng? bởi lý do được xem là tư duy thỏa mãn phải không? Người có khổ hạnh này, khi tinh tấn hơn nữa, cũng trở thành người có đề mục thiền định thanh tịnh, có thể chứng đắc quả vị A-la-hán. Nên hiểu ý nghĩa ở tất cả các đoạn theo phương thức này.
- Addhā kho, bhanteti bhante evaṃ sante ekaṃseneva vīriyena pāpajigucchanavādo parisuddho hotīti anujānāti. Ito parañca aggabhāvaṃ vā sārabhāvaṃ vā ajānanto aggappattā sārappattā cāti āha. Athassa bhagavā sārappattabhāvaṃ paṭisedhento na kho nigrodhātiādimāha. Papaṭikappattā hotīti sāravato rukkhassa sāraṃ phegguṃ tacañca atikkamma bahipapaṭikasadisā hotīti dasseti.
Thưa ngài, quả thật là như vậy: vị du sĩ thừa nhận rằng: “Thưa ngài, trong khi là như vậy, học thuyết ghê tởm tội lỗi bằng sự tinh tấn là thanh tịnh một cách trọn vẹn. Hơn nữa, vị ấy khi không biết tính chất tột đỉnh và tính chất cốt lõi nào khác ngoài điều này, nên mới nói rằng: “đạt đến tột đỉnh và đạt đến cốt lõi”. Lúc đó, đức Thế Tôn, khi bác bỏ học thuyết ấy là cốt lõi đối với vị đạo sĩ đó, đã nói rằng: “Này Nigrodha, không phải (chỉ chừng ấy)” v.v. Chỉ là đạt đến lớp vỏ ngoài: Đức Thế Tôn chỉ ra rằng sự ghét bỏ tội lỗi bằng khổ hạnh có hình thức như vậy giống như lớp vỏ ngoài cùng đã tách khỏi phần lõi, giác cây và vỏ cây của cây có lõi.
Giảng về việc đã đạt đến lớp da của sự hoàn toàn trong sạch
- Aggaṃpāpetūti desanāvasena aggaṃ pāpetvā desetu, sāraṃ pāpetvā desetūti dasabalaṃ yācati. Cātuyāmasaṃvarasaṃvutoti catubbidhena saṃvarena pihito. Na pāṇaṃ atipātetīti pāṇaṃ na hanati. Na bhāvitamāsīsatīti bhāvitaṃ nāma tesaṃ saññāya pañca kāmaguṇā, te na āsīsati na sevatīti attho.
Hãy…đạt đến tột đỉnh của sự thật: Xin thỉnh cầu đấng Thập Lực rằng: “Xin đức Thế Tôn hãy thuyết giảng cho (cho sự khổ hạnh và ghê tởm của tôi) đạt đến tột đỉnh sự thật, hãy thuyết cho đạt đến cốt lõi sự thật do nhờ năng lực của bài thuyết giảng. Thu thúc ở bốn điều ngăn cấm: đã đóng kín với bốn sự phòng hộ. Không giết hại sanh mạng: không giết hại sanh mạng. Không thọ hưởng năm loại dục: năm loại dục được gọi là những điều đã được thực hành bởi sự tưởng nhớ, (vị ấy) không mong cầu, không thân cận chúng.
Aduṃ cassa hotīti etañcassa idāni vuccamānaṃ ‘‘so abhiharatī’’tiādilakkhaṇaṃ. Tapassitāyāti tapassibhāvena hoti. Tattha so abhiharatīti so taṃ sīlaṃ abhiharati, uparūpari vaḍḍheti. Sīlaṃ me paripuṇṇaṃ, tapo āraddho, alamettāvatāti na vīriyaṃ vissajjeti. No hīnāyāvattatīti hīnāya gihibhāvatthāya na āvattati. Sīlato uttari visesādhigamatthāya vīriyaṃ karotiyeva, evaṃ karonto so vivittaṃ senāsanaṃ bhajati. ‘‘Arañña’’ntiādīni sāmaññaphale (dī. ni. aṭṭha. 1.216) vitthāritāneva. ‘‘Mettāsahagatenā’’tiādīni visuddhimagge vaṇṇitāni. Tacappattāti papaṭikato abbhantaraṃ tacaṃ pattā. Phegguppattāti tacato abbhantaraṃ phegguṃ pattā, pheggusadisā hotīti attho.
Việc thế ấy đưa đến (bản thể khổ hạnh) cho vị ấy: Bây giờ, và điều này sẽ được nói rằng: “Vị ấy tiến đến” là tướng trạng. Bản thể vị tu khổ hạnh: Bởi bản thể vị thực hành khổ hạnh. Ở đấy, vị ấy tiến đến: vị ấy tiến tu giới ấy, tức là thực hành làm cho tăng trưởng cao hơn nữa, nghĩa là không chấp nhận từ bỏ sự tinh tấn với ý nghĩ rằng: “Giới của ta đã trọn vẹn, khổ hạnh của ta đã bắt đầu, chừng ấy là vừa đủ.” Không quay trở lại cuộc sống tại gia thấp hèn: Vị ấy không trở lui về đời sống tại gia thấp kém, vì thực hành sự tinh tấn nhằm mục đích chứng đắc pháp thù thắng vượt trội hơn giới. Vị ấy trong khi thực hiện như vậy thường thân cận chỗ trú ngụ tách biệt. “Khu rừng rậm” v.v. đã được giải thích chi tiết trong bài Kinh Sāmaññaphala. (dī. ni. aṭṭha. 1.216); “Câu hữu với từ” v.v, đã được giải thích trong bộ Thanh Tịnh Đạo. Chỉ là đạt đến lớp vỏ trong: đã đạt đến lớp vỏ bên trong từ lớp vỏ khô bên ngoài của cây. Chỉ là đạt đến giác cây: đã đạt đến giác cây bên trong từ lớp vỏ cây, có nghĩa là giống như giác cây.
- ‘‘Ettāvatā, kho nigrodha, tapojigucchā aggappattā ca hoti sārappattā cā’’ti idaṃ bhagavā titthiyānaṃ vasenāha. Titthiyānañhi lābhasakkāro rukkhassa sākhāpalāsasadiso. Pañcasīlamattakaṃ papaṭikasadisaṃ. Aṭṭhasamāpattimattaṃ tacasadisaṃ. Pubbenivāsañāṇāvasānā abhiññā pheggusadisā. Dibbacakkhuṃ panete arahattanti gahetvā vicaranti. Tena nesaṃ taṃ rukkhassa sārasadisaṃ. Sāsane pana lābhasakkāro sākhāpalāsasadiso. Sīlasampadā papaṭikasadisā. Jhānasamāpattiyo tacasadisā. Lokiyābhiññā pheggusadisā. Maggaphalaṃ sāro. Iti bhagavatā attano sāsanaṃ onatavinataphalabhārabharitarukkhūpamāya upamitaṃ. So desanākusalatāya tato tacasārasampattito mama sāsanaṃ uttaritarañceva paṇītatarañca, taṃ tuvaṃ kadā jānissasīti attanodesanāya visesabhāvaṃ dassetuṃ ‘‘iti kho nigrodhā’’ti desanaṃ ārabhi. Te paribbājakāti te tassa parivārā tiṃsasatasaṅkhyā paribbājakā. Ettha mayaṃ anassāmāti ettha acelakapāḷiādīsu, idaṃ vuttaṃ hoti ‘‘amhākaṃ acelakapāḷimattampi natthi, kuto parisuddhapāḷi. Amhākaṃ parisuddhapāḷimattampi natthi, kuto cātuyāmasaṃvarādīni. Cātuyāmasaṃvaropi natthi, kuto araññavāsādīni. Araññavāsopi natthi, kuto nīvaraṇappahānādīni. Nīvaraṇappahānampi natthi, kuto brahmavihārādīni. Brahmavihāramattampi natthi, kuto pubbenivāsādīni. Pubbenivāsañāṇamattampi natthi, kuto amhākaṃ dibbacakkhu. Ettha mayaṃ saācariyakā naṭṭhā’’ti. Ito bhiyyo uttaritaranti ito dibbacakkhuñāṇādhigamato bhiyyo aññaṃ uttaritaraṃ visesādhigamaṃ mayaṃ sutivasenāpi na jānāmāti vadanti.
“Này Nigrodha, quả thật với chừng ấy sự khổ hạnh và ghê tởm là đạt đến tột đỉnh và đạt đến cốt lõi”, đức Thế Tôn đã nói lời này do tác động của các du sĩ ngoại đạo. Thật vậy, lợi lộc và sự trọng vọng của các du sĩ ngoại đạo giống như cành và lá cây. Năm giới chỉ như lớp vỏ khô bên ngoài. Tám thiền chứng như lớp vỏ trong. Trí về các kiếp sống quá khứ và các thần thông cuối cùng giống như giác gỗ. Và các du sĩ ngoại đạo đó đã chấp thủ trí về Thiên nhãn, cho rằng đó là quả vị A-ra-hán. Vì thế, sự chấp thủ của họ giống như lõi cây. Còn trong Giáo pháp này lợi lộc và sự trọng vọng cũng giống như cành và lá cây. Sự thành tựu giới hạnh tương như lớp vỏ khô bên ngoài. Các tầng thiền và sự thể nhập như lớp vỏ trong. Các thần thông thuộc Hiệp Thế như giác cây. Đạo và Quả mới là lõi cây. Đức Thế Tôn đã so sánh Giáo pháp của ngài như cây sai quả, cành oằn xuống và tỏa rộng ra như vậy, bởi vì ngài thiện xảo trong việc thuyết giảng. Đức Thế Tôn ấy bắt đầu thuyết giảng rằng: “Như thế, này Nigrodha, quả thật vị ấy là….” để chỉ rõ sự khác biệt trong Giáo lý của Ngài rằng: “Giáo pháp của ta cao thượng hơn, vi diệu hơn. Sự thành tựu cốt lõi của các ngươi là như vậy, bao giờ các ngươi mới có thể hiểu được giáo pháp đó?” Các du sĩ ấy: Các du sĩ, số lượng khoảng ba trăm vị đều là tùy tùng của vị ấy. Chúng tôi cùng các vị thầy đã bị mất mát về điều này: trong hệ thống giáo lý có lề lối của các lõa thể v.v. này. Điều này được nói rằng: “Ngay cả lề lối các lõa thể cũng không có đối với tôi, thì lề lối thanh tịnh làm sao có được. Thậm chí cả lề lối thanh tịnh của chúng ta cũng không có ở đó, thì bốn sự thu thúc v.v, làm sao có được. Ngay cả bốn sự thu thúc cũng không có, thì việc sống trong rừng v.v, làm sao có được. Ngay cả việc sống trong rừng cũng không có, thì việc dứt bỏ năm pháp ngăn che v.v, làm sao có được. Ngay cả việc từ bỏ năm pháp ngăn che cũng không có, thì bốn Phạm trú v.v, làm sao có được. Ngay cả bốn Phạm trú cũng không có, thì trí về các kiếp sống quá khứ v.v, làm sao có được. Ngay cả trí về các kiếp sống quá khứ cũng không có, thì trí về Thiên nhãn của chúng tôi làm sao có được. Chúng tôi cùng với các vị thầy đã bị mất mát về điều này”. (Chúng tôi không biết) nhiều hơn điều vượt lên trên điều này: Các du sĩ ngoại đạo nói rằng– “chúng tôi không biết rõ việc chứng đắc ân đức cao thượng nào khác vượt trội hơn việc chứng đắc trí về Thiên nhãn này kể cả do tác động của việc nghe.
Giảng về sự trầm tư của Nigrodha
- Atha nigrodhaṃ paribbājakanti evaṃ kirassa ahosi ‘‘ime paribbājakā idāni bhagavato bhāsitaṃ sussūsanti, iminā ca nigrodhena bhagavato parammukhā kakkhaḷaṃ durāsadavacanaṃ vuttaṃ, idāni ayampi sotukāmo jāto, kālo dāni me imassa mānaddhajaṃ nipātetvā bhagavato sāsanaṃ ukkhipitu’’nti. Atha nigrodhaṃ paribbājakaṃ etadavoca. Aparampissa ahosi ‘‘ayaṃ mayi akathente satthāraṃ na khamāpessati, tadassa anāgate ahitāya dukkhāya saṃvattissati, mayā pana kathite khamāpessati, tadassa bhavissati dīgharattaṃ hitāya sukhāyā’’ti. Atha nigrodhaṃ paribbājakaṃ etadavoca. Aparisāvacaraṃ pana naṃ karothāti ettha panāti nipāto, atha naṃ aparisāvacaraṃ karothāti attho. ‘‘Aparisāvacareta’’ntipi pāṭho, aparisāvacaraṃ vā etaṃ karotha, gokāṇādīnaṃ vā aññataranti attho.
(Đã nói) với du sĩ Nigrodha điều này: Gia chủ Sandhāna ấy đã có suy nghĩ như vầy rằng “Rõ ràng là giờ đây các du sĩ ngoại đạo này chịu lắng nghe lời nói của đức Thế Tôn, và du sĩ Nigrodha này đã nói những lời phỉ báng một cách thô tục sau lưng Đức Thế Tôn. Bây giờ, chính gã ấy đã khởi ý muốn nghe. Bây giờ là thời điểm để hạ ngọn cờ ngã mạn của vị này xuống, và nâng Giáo pháp của đức Thế Tôn lên.” Sau đó, gia chủ Sandhāna đã nói với du sĩ Nigrodha điều này. Và cả gia chủ Santhāna cũng đã có suy nghĩ khác nữa rằng: “Du sĩ này, khi ta không nói, thì (vị ấy) cũng sẽ không sám hối bậc Đạo Sư, và việc không sám hối đó sẽ đưa đến những điều bất lợi và khổ đau cho vị ấy trong tương lai. Nhưng nếu ta nói, vị ấy sẽ sám hối, việc đó sẽ mang lại lợi ích và sự an lạc cho vị ấy lâu dài.” Rồi sau đó, (gia chủ Sandhāna) đã nói với du sĩ Nigrodha điều này. ‘Pana’ trong câu ‘Aparisāvacaraṃ pana naṃ karotha’ chỉ là một phân từ, có nghĩa là ‘các vị hãy làm cho Ngài ấy không thường lui tới tập thể’. Pāḷī ‘Aparisāvacaretaṃ’ cũng có. Hoặc, có nghĩa là– các vị hãy làm cho Sa-môn Gotama ấy không dám lui tới tập thể, hoặc hãy làm cho Ngài ấy thành con bò chột mắt.
Gokāṇanti etthāpi gokāṇaṃ pariyantacāriniṃ viya karothāti attho. Tuṇhībhūtoti tuṇhībhāvaṃ upagato. Maṅkubhūtoti nittejataṃ āpanno. Pattakkhandhoti onatagīvo. Adhomukhoti heṭṭhāmukho.
Con bò chột mắt: điều này có nghĩa là– các vị hãy làm cho Sa-môn Gotama trở thành như con bò chột mắt, có sự di chuyển vòng quanh. Có trạng thái im lặng: Đã đạt đến trạng thái im lặng. Có trạng thái bối rối: mất hết quyền lực. cổ sụp xuống: cổ rụt xuống. Gục đầu: cúi mặt xuống.
- Buddhoso bhagavā bodhāyāti sayaṃ buddho sattānampi catusaccabodhatthāya dhammaṃ deseti. Dantoti cakkhutopi danto…pe… manatopi danto. Damathāyāti aññesampi damanatthāya eva, na vādatthāya. Santoti rāgasantatāya santo, dosamohasantatāya sabba akusalasabbābhisaṅkhārasantatāya santo. Samathāyāti mahājanassa rāgādisamanatthāya dhammaṃ deseti. Tiṇṇoti cattāro oghe tiṇṇo. Taraṇāyāti mahājanassa oghanittharaṇatthāya. Parinibbutoti kilesaparinibbānena parinibbuto. Parinibbānāyāti mahājanassāpi sabbakilesaparinibbānatthāya dhammaṃ deseti.
Là bậc đã giác ngộ, Đức Thế Tôn ấy (chỉ bảo Giáo pháp) nhằm mục đích giác ngộ: Đức Thế Tôn đã tự mình giác ngộ, ngài thuyết giảng Giáo pháp nhằm mục đích (trợ giúp) cho các chúng sanh giác ngộ Tứ Thánh Đế. Vị đã được thuần hóa: đã được thuần hóa về lộ nhãn …nt… đã được thuần hóa về lộ ý. Nhằm mục đích thuần hóa (những người khác): Nhằm mục đích thuần hóa những chúng sinh khác, chớ không phải để tranh luận. Đã được an tịnh: là vị đã được an tịnh do ái luyến đã lắng dịu, tức là vị đã được an tịnh do sân và si đã lắng dịu, (và) vì tất cả các pháp bất thiện và các hành (abhisaṅkhāra) đã tĩnh lặng. Đưa đến sự an tịnh: Thuyết giảng Giáo pháp nhằm mục đích đưa đến sự an tịnh ái luyến, v.v, cho đại chúng. Là vị đã băng qua: là vị đã vượt qua khỏi bốn dòng lũ. Đưa đến sự băng qua: Nhằm mục đích đưa đến sự vượt khỏi dòng lũ cho đại chúng. Là vị đã hoàn toàn tịch diệt: Là vị đã hoàn toàn tịch diệt diệt bởi phiền não Niết Bàn. Đưa đến sự hoàn toàn tịch diệt: (đức Thế Tôn) thuyết giảng Giáo Pháp nhằm mục đích đưa đến sự hoàn toàn tịch diệt tất cả ô nhiễm cho đại chúng.
Giảng về sự chứng ngộ mục đích của Phạm hạnh
- Accayotiādīni sāmaññaphale (dī. ni. aṭṭha. 1.250) vuttāni. Ujujātikoti kāyavaṅkādivirahito ujusabhāvo. Ahamanusāsāmīti ahaṃ tādisaṃ puggalaṃ anusāsāmi, dhammaṃ assa desemi. Sattāhanti sattadivasāni, idaṃ sabbampi bhagavā dandhapaññaṃ puggalaṃ sandhāyāha asaṭho pana amāyāvī ujujātiko taṃmuhutteneva arahattaṃ pattuṃ sakkhissati. Iti bhagavā ‘‘asaṭha’’ntiādivacanena saṭho hi vaṅkavaṅko, mayāpi na sakkā anusāsitunti dīpento paribbājakaṃ pādesu gahetvā mahāmerupādatale viya khipittha. Kasmā? Ayañhi atisaṭho, kuṭilacitto satthari evaṃ kathentepi buddhadhammasaṅghesu nādhimuccati, adhimuccanatthāya sotaṃ na odahati, kohaññe ṭhito satthāraṃ khamāpeti. Tasmā bhagavā tassajjhāsayaṃ viditvā ‘‘etu viññū puriso asaṭho’’tiādimāha. Saṭhaṃ panāhaṃ anusāsituṃ na sakkomīti.
Tội lỗi: đã được trình bày trong bài Kinh Sāmaññaphala. (dī. ni. aṭṭha. 1.250); Có bản chất ngay thẳng: đã tránh xa sự cong vẹo ở thân v.v., có bản chất ngay thẳng. Hãy để ta dạy bảo: Ta sẽ dạy bảo người như ông, và sẽ chỉ bảo Giáo pháp cho người như ông. Chỉ trong bảy ngày: suốt bảy ngày. Đức Thế Tôn đã hướng đến những hạng người có trí tuệ trầm tĩnh nên đã nói tất cả những lời này. Những người không có sự lừa gạt, không có sự gian trá, là những người có bản chất ngay thẳng sẽ khả năng chứng đắc quả vị A-ra-hán ngay trong khoảnh khắc ấy. Vì thế, đức Thế Tôn đã chỉ ra rằng người lừa gạt, gian trá thì Ta không thể dạy bảo bằng những lời nói như “người không có sự xảo trá” v.v., giống như nắm lấy du sĩ ở chân (rồi) ném xuống chân núi Suneru. Vì sao? Bởi vì người này rất xảo quyệt, có tâm địa gian trá. Ngay cả khi bậc Đạo Sư thuyết giảng như vậy gã ấy cũng không hướng tâm đến đức Phật, Giáo pháp và Tăng chúng, không lóng tai lắng nghe để đưa đến bản thế người hướng tâm, vẫn vững trú trong sự dối trá sám hối bậc Đạo Sư. Do đó, Đức Thế Tôn khi biết rõ tâm ý của gã ấy nên đã nói rằng: “Hãy để cho người nam không có sự lừa gạt, Ta không thể dạy bảo cho người có sự lừa gạt”. - Antevāsikamyatāti antevāsikamyatāya, amhe antevāsike icchanto. Evamāhāti ‘‘etu viññupuriso’’tiādimāha. Yo eva vo ācariyoti yo eva tumhākaṃ pakatiyā ācariyo. Uddesā no cāvetukāmoti attano anusāsaniṃ gāhāpetvā amhe amhākaṃ uddesato cāvetukāmo. Soeva vo uddeso hotūti yo tumhākaṃ pakatiyā uddeso, so tumhākaṃyeva hotu , na mayaṃ tumhākaṃ uddesena atthikā. Ājīvāti ājīvato. Akusalasaṅkhātāti akusalāti koṭṭhāsaṃ pattā. Akusalā dhammāti dvādasa akusalacittuppādadhammā taṇhāyeva vā visesena. Sā hi punabbhavakaraṇato ‘‘ponobbhavikā’’ti vuttā. Sadarathāti kilesadarathasampayuttā. Jātijarāmaraṇiyāti jātijarāmaraṇānaṃ paccayabhūtā. Saṃkilesikā dhammāti dvādasa akusalacittuppādā. Vodāniyāti, samathavipassanā dhammā. Te hi satte vodāpenti, tasmā ‘‘vodāniyā’’ti vuccanti. Paññāpāripūrinti maggapaññāpāripūriṃ. Vepullattañcāti phalapaññāvepullataṃ, ubhopi vā etāni aññamaññavevacanāneva. Idaṃ vuttaṃ hoti ‘‘tato tumhe maggapaññañceva phalapaññañca diṭṭheva dhamme sayaṃ abhiññā sacchikatvā upasampajja viharissathā’’ti. Evaṃ bhagavā paribbājake ārabbha attano ovādānusāsaniyā phalaṃ dassento arahattanikūṭena desanaṃ niṭṭhapesi.
Do ước muốn chúng ta trở thành đệ tử: Do muốn được trở thành đệ tử, tức là mong muốn chúng tôi trở thành đệ tử. Đã nói như vậy: Đức Thế Tôn đã nói rằng: “Hãy để người nam, (có sự hiểu biết, không có sự xảo trá), v.v.” Ai đang là thầy của ngươi: Người nào bình thường là thầy của ngươi. Với ý muốn chúng ta hủy bỏ tôn chỉ của chúng ta: Sa-môn Gotama mong muốn cho chúng ta tin theo lời dạy bảo của ngài, để cho chúng ta hủy bỏ tôn chỉ của chúng ta. Hãy để chính cái ấy là tôn chỉ của ngươi: Thông thường, tôn chỉ nào là tôn chỉ của các ngươi, hãy để chính cái ấy là tôn chỉ của các ngươi, Ta không có nhu cầu đối với tôn chỉ của các ngươi. Lối sống: từ cách sống. Được xem là bất thiện: thuộc về phần các pháp bất thiện. Các pháp bất thiện: các pháp là sự sinh khởi của 12 tâm bất thiện, hoặc cụ thể hơn, đó chính là tham ái. Thật vậy, tham ái đó, đức Thế Tôn gọi là “đưa đến sự tái sanh”. Có sự phiền muộn: liên quan đến sự phiền muộn do ô uế. Đưa đến sanh-già-chết (ở vị lai): là duyên của sanh, già và chết. Các pháp ô nhiễm: sự sanh khởi của mười hai tâm bất thiện. Các pháp làm cho trong sạch: Các pháp là Chỉ tịnh và Minh sát. Bởi vì các pháp ấy làm cho chúng sanh được trong sạch, cho nên, các pháp đó được đức Thế Tôn gọi là “các pháp làm cho trong sạch”. Sự viên mãn của tuệ: là sự viên mãn bởi Đạo tuệ. Và trạng thái lớn mạnh: Trạng thái lớn mạnh bởi Quả tuệ. Hoặc, cả hai thuật ngữ này đều là từ đồng nghĩa với nhau. Điều này được nói rằng: “Vì nguyên nhân đó, các ngươi, ngay ở bản thể này, tự mình, bằng thắng trí sẽ chứng ngộ, đạt đến và an trú vào Đạo tuệ và Quả tuệ.” Như vậy, đức Thế Tôn đã nhắm đến các du sĩ ngoại đạo, khi Ngài thể hiện sức mạnh của lời giáo huấn và chỉ dạy của mình, nên đã kết thúc bài pháp với đỉnh cao là quả vị A-ra-hán. - Yathā taṃ mārenāti yathā mārena pariyuṭṭhitacittā nisīdanti evameva tuṇhībhūtā…pe… appaṭibhānā nisinnā.
Như là (có tâm) đã bị Ma Vương (xâm nhập): Các du sĩ ấy đã ngồi xuống, có trạng thái im lặng, …nt… đang trầm tư, không còn vẻ sáng suốt, như là có tâm bị Ma Vương xâm nhập.
Māro kira satthā ativiya gajjanto buddhabalaṃ dīpetvā imesaṃ paribbājakānaṃ dhammaṃ deseti, kadāci dhammābhisamayo bhaveyya, handāhaṃ pariyuṭṭhāmīti so tesaṃ cittāni pariyuṭṭhāsi. Appahīnavipallāsānañhi cittaṃ mārassa yathākāmakaraṇīyaṃ hoti. Tepi mārena pariyuṭṭhitacittā thaddhaṅgapaccaṅgā viya tuṇhī appaṭibhānā nisīdiṃsu. Atha satthā ime paribbājakā ativiya niravā hutvā nisinnā, kiṃ nu khoti āvajjanto mārena pariyuṭṭhitabhāvaṃ aññāsi. Sace pana tesaṃ maggaphaluppattihetu bhaveyya, māraṃ paṭibāhitvāpi bhagavā dhammaṃ deseyya, so pana tesaṃ natthi. ‘‘Sabbepi me tucchapurisā’’ti aññāsi. Tena vuttaṃ ‘‘atha kho bhagavato etadahosi sabbepi me moghapurisā’’tiādi.
Được biết Ma Vương nghĩ rằng: “Bậc Đạo Sư đã hiển bày sức mạnh của Phật vô cùng vang dội, thuyết giảng Giáo pháp cho các du sĩ này, có lẽ sẽ có sự chứng ngộ pháp vào một lúc nào đó. Thôi được rồi, ta sẽ xâm nhập (tâm của họ), rồi Ma vương liền xâm nhập tâm của các du sĩ. Thật vậy, vì tâm vẫn chưa dứt trừ được sự lầm lạc nên mới bị Ma Vương chi phối theo ý muốn. Ngay khi các du sĩ đó có tâm bị Ma Vương xâm nhập, (họ) đã ngồi xuống, im lặng, không còn vẻ sáng suốt, trông như thể các chi phần bị cứng đờ. Lúc đó, bậc Đạo Sư nghĩ rằng: “Các du sĩ này ngồi im lặng quá, có phải có chuyện gì xảy ra? Ngài biết rằng ‘các du sĩ (có tâm) bị Ma Vương xâm nhập. Hơn nữa, nếu như nhân duyên chứng đắc Đạo Quả của các du sĩ đó có thể có, đức Thế Tôn đã ngăn cản Ma vương rồi thuyết giảng Giáo pháp, nhưng đức Thế Tôn đã biết rằng: ‘Nhân duyên chứng đắc Đạo Quả của họ không có’, (bởi vì) ‘tất cả những du sĩ này đều là những kẻ trống rỗng’. Vì thế, ngài mới nói rằng: “Khi ấy điều này đã khởi đến đức Thế Tôn: “Thậm chí tất cả những những kẻ rỗng tuếch này (đã bị tác động bởi Ma Vương ác độc), v.v.”
Tattha phuṭṭhā pāpimatāti pāpimatā mārena phuṭṭhā. Yatra hi nāmāti yesu nāma. Aññāṇatthampīti jānanatthampi. Kiṃ karissati sattāhoti samaṇena gotamena paricchinnasattāho amhākaṃ kiṃ karissati. Idaṃ vuttaṃ hoti ‘‘samaṇena gotamena ‘sayaṃ abhiññā sacchikatvā upasampajja viharissati sattāha’nti vuttaṃ, so sattāho amhākaṃ kiṃ apphāsukaṃ karissati. Handa mayaṃ sattāhabbhantare etaṃ dhammaṃ sacchikātuṃ sakkā, na sakkāti aññāṇatthampi brahmacariyaṃ carissāmā’’ti. Atha vā jānāma tāvassa dhammanti ekadivase ekavāraṃ aññāṇatthampi etesaṃ cittaṃ nuppannaṃ, sattāho pana etesaṃ kusītānaṃ kiṃ karissati, kiṃ sakkhissanti te sattāhaṃ pūretunti ayamettha adhippāyo. Sīhanādanti paravādabhindanaṃ sakavādasamussāpanañca abhītanādaṃ naditvā. Paccupaṭṭhāsīti patiṭṭhito. Tāvadevāti tasmiññeva khaṇe. Rājagahaṃ pāvisīti rājagahameva paviṭṭho. Tesaṃ pana paribbājakānaṃ kiñcāpi idaṃ suttantaṃ sutvā viseso na nibbatto, āyatiṃ pana nesaṃ vāsanāya paccayo bhavissatīti. Sesaṃ sabbattha uttānamevāti.
Ở đấy, đã bị tác động bởi Ma Vương ác độc: đã bị tác động bởi Ma Vương ác độc. Yatra hi nāmā nghĩa là một trong số các du sĩ nào đó. Vì mục đích hiểu biết: Nhằm mục đích hiểu biết. Bảy ngày sẽ không là gì: Bảy ngày được Sa-môn quy định sẽ chẳng là gì đối với chúng ta. Các du sĩ đã nói rằng: “(điều này) được nói bởi Sa môn Gotama rằng ‘du sĩ Nigrodha, tự mình, bằng thắng trí sẽ chứng ngộ, đạt đến và an trú trong vòng bảy ngày’”, bảy ngày đó sẽ gây ra sự bất an gì cho chúng ta? Thôi được rồi, chúng ta sẽ thực hành Phạm hạnh vì mục đích hiểu biết rằng: “Liệu trong vòng bảy ngày, chúng ta có thể chứng ngộ pháp đó được hay không?” Ngoài ra, trong trường hợp này có lời giải thích như sau: Các du sĩ ấy đã không khởi lên suy nghĩ vì mục đích hiểu biết dù chỉ một lần rằng: ‘Chúng ta sẽ biết được pháp của Ngài trong một ngày; hơn nữa, bảy ngày sẽ làm được gì đối với những du sĩ lười biếng đó? Làm sao những du sĩ ấy sẽ thực hành tinh tấn suốt bảy ngày được?’ Đã gầm lên tiếng gầm sư tử: đã gầm lên, gầm lên một cách không sợ hãi bất cứ ai, là sự phá vỡ học thuyết của người khác và là sự tuyên bố học thuyết của mình. Đã hiện ra: là đã hiện diện. Ngay khi ấy: là ngay trong khoảnh khắc đó. Đã đi vào thành Rājagaha: Ngài đã đi vào thành Rājagaha. Vả lại, các du sĩ đó đã không chứng đắc được những ân đức cao quý sau khi nghe bài kinh này. Mặc dù vậy, (điều đó) cũng sẽ trở thành nhân duyên đưa đến sự huân tập cho các du sĩ đó trong tương lai. Các từ còn lại ở các câu tất cả đều đã rõ ràng.
Giải thích Kinh tại khu vườn của Udumbarikā được chấm dứt –
Kinh thứ hai (25)
Trong Chú Giải Trường Bộ Kinh là Sumaṅgalavilāsī.