Giải Thích Kinh Subha

(Subhasuttavaṇṇanā )

Xem Trường Bộ Kinh – Kinh Subha

444. Evaṃ me sutaṃ … pe … sāvatthiyanti subhasuttaṃ. Tatrāyaṃ anuttānapadavaṇṇanā. Aciraparinibbute bhagavatīti aciraṃ parinibbute bhagavati, parinibbānato uddhaṃ māsamatte kāle. Nidānavaṇṇanāyaṃ vuttanayeneva bhagavato pattacīvaraṃ ādāya āgantvā khīravirecanaṃ pivitvā vihāre nisinnadivasaṃ sandhāyetaṃ vuttaṃ. Todeyyaputtoti todeyyabrāhmaṇassa putto, so kira sāvatthiyā avidūre tudigāmo nāma atthi, tassa adhipatittā todeyyoti saṅkhyaṃ gato. Mahaddhano pana hoti pañcacattālīsakoṭivibhavo, paramamaccharī — “dadato bhogānaṃ aparikkhayo nāma natthī”ti cintetvā kassaci kiñci na deti, puttampi āha —

“Añjanānaṃ khayaṃ disvā, vammikānañca sañcayaṃ.

Madhūnañca samāhāraṃ, paṇḍito gharamāvase”ti.

444. Bài Kinh Subha: “Tôi đã nghe như vầy …nt…đại đức Ānanda trú tại thành Sāvatthī.” Ở đây, bài Kinh này được giải thích theo tuần tự như sau – Khi đức Thế Tôn viên tịch Nibbāna: Khi đức Thế Tôn viên tịch Nibbāna không bao lâu, (thời gian) khoảng chừng một tháng kể từ ngày viên tịch Nibbāna. Điều này ngài nói đề cập đến ngày đại đức Ānanda cầm bình bát và y phục của đức Thế Tôn, rồi đến ngồi thọ dụng thuốc sổ trộn với sữa ở tịnh xá theo cách thức đã trình bày trong phần duyên khởi. Todeyyaputta: con trai của Bà-la-môn Todeyya, có câu chuyện kể rằng – không xa thành Sāvatthī, có một ngôi làng tên là Tudi vị Bà-la-môn này giữ chức vụ trưởng làng nên mới được gọi là Todeyya, vị ấy có tài sản ước chừng bốn mươi lăm koṭi, nhưng lại vô cùng keo kiệt. Vị ấy suy nghĩ rằng: “Tài sản của người đang bố thí không bị tiêu hao điều đó là không thể,” vị thế (vị ấy) không cho bất cứ ai cái gì.” Vị ấy đã nói chính điều đó với đứa con của mình rằng:

Bậc trí sau khi nhìn thấy sự cạn kiệt của những giọt thuốc nhỏ mắt, việc tạo thành gò mối (từ những con mối), và việc tích lũy mật ong (của đàn ong), có thể sống đời sống tại gia.

Evaṃ adānameva sikkhāpetvā kāyassa bhedā tasmiṃyeva ghare sunakho hutvā nibbatto. Subho taṃ sunakhaṃ ativiya piyāyati, attano bhuñjanakabhattaṃyeva bhojeti, ukkhipitvā varasayane sayāpeti. Atha bhagavā ekadivasaṃ nikkhante māṇave taṃ gharaṃ piṇḍāya pāvisi. sunakho bhagavantaṃ disvā bhukkāraṃ[1] karonto bhagavato samīpaṃ gato. tato naṃ bhagavā avoca “todeyya tvaṃ pubbepi maṃ ‘bho, bho’ti paribhavitvā sunakho jāto, idānipi bhukkāraṃ katvā avīciṃ gamissasī”ti. Sunakho taṃ kathaṃ sutvā vippaṭisārī hutvā uddhanantare chārikāya nipanno, manussā naṃ ukkhipitvā sayane sayāpetuṃ nāsakkhiṃsu.

Sau khi dạy bảo con trai ghi nhớ đến việc không bố thí như vậy, khi chết đã sanh trở lại làm con chó ở trong chính ngôi nhà ấy, thanh niên Subha rất yêu thương con chó ấy. Cho ăn chính những loại thức ăn mà bản thân thọ dụng, cho nằm ngủ ở chiếc giường sang trọng. Một ngày nọ đức Thế Tôn đi khất thực ở ngôi nhà ấy, sau khi nhìn thấy đức Thế Tôn con chó đã sủa, tiến đến gần ngài, đức Thế Tôn đã nói cùng con chó ấy rằng: “Này Todeyya, ngay cả vào thời quá khứ ngươi cũng đã nói lời khinh thường ta rằng: ‘Này ông, này ông’ đã sanh làm con chó, bây giờ ngươi lại sủa ta nữa thì sẽ tái sanh vào địa ngục Avīci”. Sau khi nghe lời ấy con chó đã cảm thấy rất hối hận, mới lủi thủi vào nằm trên đống tro ở giữa bếp lò, mọi người không ai có thể ẵm nó đặt lên giường được.

Subho āgantvā “kenāyaṃ sunakho sayanā oropito”ti āha. Manussā “na kenacī”ti vatvā taṃ pavattiṃ ārocesuṃ. Māṇavo sutvā “mama pitā brahmaloke nibbatto, samaṇo pana gotamo me pitaraṃ sunakhaṃ karoti yaṃ kiñci esa mukhārūḷhaṃ bhāsatī”ti kujjhitvā bhagavantaṃ musāvādena codetukāmo vihāraṃ gantvā taṃ pavattiṃ pucchi. Bhagavā tassa tatheva vatvā avisaṃvādanatthaṃ āha — “Atthi pana te, māṇava, pitarā na akkhātaṃ dhanan”ti. Atthi, bho gotama, satasahassagghanikā suvaṇṇamālā, satasahassagghanikā suvaṇṇapādukā, satasahassagghanikā suvaṇṇapāti, satasahassañca kahāpaṇanti. Gaccha taṃ sunakhaṃ appodakaṃ madhupāyāsaṃ bhojetvā sayanaṃ āropetvā īsakaṃ niddaṃ okkantakāle puccha, sabbaṃ te ācikkhissati, atha naṃ jāneyyāsi — “pitā me eso”ti. So tathā akāsi. Sunakho sabbaṃ ācikkhi[2], tadā naṃ — “pitā me”ti ñatvā bhagavati pasannacitto gantvā bhagavantaṃcuddasa pañhe pucchitvā vissajjanapariyosāne bhagavantaṃ saraṇaṃ gato, taṃ sandhāya vuttaṃ “subho māṇavo todeyyaputto”ti. sāvatthiyaṃ paṭivasatīti attano bhogagāmato āgantvā vasati.

Thanh niên Subha sau khi trở về đã hỏi rằng: “Ai đã đưa con chó rời khỏi chiếc giường”. Mọi người nói rằng: “Chẳng có ai cả” rồi thuật lại câu chuyện cho (vị ấy) nghe. Sau khi nghe (sự việc) thanh niên Subha đã nổi giận: “Cha của ta đã hóa sanh vào thế giới Phạm Thiên, nhưng Sa-môn Gotama lại nói rằng: ‘cha của ta là con chó’, Sa-môn Gotama ăn nói điều bộp chộp,” muốn lên án đức Thế Tôn đã nói lời nói dối trá nên đã đi đến tịnh xá để hỏi chuyện cùng ngài. Đức Thế Tôn đã thuật lại câu chuyện cùng thanh niên Subha như thế, rồi nói sự thật rằng: “Này Subha, còn phần tài sản mà cha của cậu chưa nói cho cậu không?” – Có thưa ngài Gotama, một vòng hoa bằng vàng trị giá một trăm ngàn đồng tiền vàng, một đôi hài vàng trị giá một trăm ngàn đồng tiền vàng, một cái mâm vàng trị giá một trăm ngàn đồng tiền vàng, và một ngàn đồng tiền vàng kahāpana. – Cậu hãy đi cho con chó ăn món cơm sữa có ít nước rồi ẵm nó lên giường nằm, đến lúc con chó chìm vào giấc ngủ một chút rồi hãy hỏi nó sẽ chỉ tất cả mọi thứ cho cậu, lúc đó cậu sẽ biết được rằng ‘chính con chó ấy là cha của mình’. Thanh niên Subha đã làm theo như thế. Con chó đã nói hết mọi thứ, cậu ta biết chắc rằng – “con chó là cha của mình” khởi lên lòng tịnh tín nơi đức Thế Tôn, đã đi đến hỏi mười bốn câu hỏi cùng đức Thế Tôn, khi kết thúc câu hỏi, cậu ta xin đi đến nương nhờ nơi đức Thế Tôn, ngài nói ý nghĩa ấy để đề cập đến thành niên Subha con trai của Todeyya. Cư ngụ ở Sāvatthī: Thanh niên Subha đã đến từ Bhogagāma rồi cư ngụ lại.

445-446. Aññataraṃ māṇavakaṃ āmantesīti satthari parinibbute “ānandatthero kirassa pattacīvaraṃ gahetvā āgato, mahājano taṃ dassanatthāya[3] upasaṅkamatī”ti sutvā “vihāraṃ kho pana gantvā mahājanamajjhe na sakkā sukhena paṭisanthāraṃ vā kātuṃ, dhammakathaṃ vā sotuṃ gehaṃ āgataṃyeva naṃ disvā sukhena paṭisanthāraṃ karissāmi, ekā ca me kaṅkhā atthi, tampi naṃ pucchissāmī”ti cintetvā aññataraṃ māṇavakaṃ āmantesi. Appābādhantiādīsu ābādhoti visabhāgavedanā vuccati, yā ekadese uppajjitvā cattāro iriyāpathe ayapaṭṭena ābandhitvā viya gaṇhati, tassā abhāvaṃ pucchāti vadati. Appātaṅkoti kicchajīvitakaro rogo vuccati, tassāpi abhāvaṃ pucchāti vadati. Gilānasseva ca uṭṭhānaṃ nāma garukaṃ hoti, kāye balaṃ na hoti, tasmā niggelaññabhāvañca balañca pucchāti vadati. phāsuvihāranti gamanaṭhānanisajjasayanesu catūsu iriyāpathesu sukhavihāraṃ pucchāti vadati. Athassa pucchitabbākāraṃ dassento “subho”tiādimāha.

445-446. Thanh niên Subha Todeyyaputta đã bảo một thanh niên trẻ khác: Khi đức Thế Tôn viên tịch Nibbāna, thanh niên Subha được tin rằng: Trưởng lão Ānanda đã cầm bình bát và y phục của ngài (đức Thế Tôn) đến, đại chúng đến để thăm ngài, nghĩ rằng: khi ta đi đến tịnh xá có lẽ cũng không thể thực hiện việc chào hỏi hoặc nghe Pháp thoại được thuận tiện ở giữa hội chúng đông đảo, sau khi nhìn thấy ngài bước vào chính ngôi nhà ấy sẽ thực hiện việc hỏi thăm được dễ dàng, và ta sẽ có một sự nghi ngờ, ta sẽ hỏi ngài rồi bảo một thanh niên trẻ khác đến. Cảm thọ là kẻ thù thì được gọi là bệnh trong cụm từ có ít bệnh. Thanh niên Subha đã nói rằng: Cảm thọ nào sanh khởi ở một phía rôi bám víu vào bốn oai nghi giống như lấy tấm sắt gì chặt vào, cậu hãy hỏi tính chất không có của thọ ấy. Ít mệt mỏi: nói đến tật bệnh khiến mạng sống gặp trở ngại, cậu hãy hỏi đến tính chất không có bệnh tật ấy. Thanh niên Subha đã nói rằng: Việc đứng dậy của người bệnh ấy thật khó khó khăn, sức mạnh ơ thân không có, vì thế cậu hãy hỏi tính chất vô bệnh và sự khỏe mạnh. Sống thoải mái: cậu hãy hỏi đến sự sống thoải mái trong bốn oai nghi là đi, đứng, ngồi, nằm. Khi các vị thầy biên soạn bộ sách trình bày đến biểu hiện nên hỏi cùng thanh niên trẻ ấy mới nói lời bắt đầu rằng: “Thanh niên Subha Todeyyaputta

447. Kālañca samayañca upādāyāti kālañca samayañca paññāya gahetvā upadhāretvāti attho. Sace amhākaṃ sve gamanakālo bhavissati, kāye balamattā ceva pharissati, gamanapaccayā ca añño aphāsuvihāro na bhavissati, athetaṃ kālañca gamanakāraṇasamavāyasaṅkhātaṃ samayañca upadhāretvā — “api eva nāma sve āgaccheyyāmā”ti vuttaṃ hoti.

447. Tùy theo thời gian và điều kiện: nghĩa là sau khi nắm lấy, sau khi nhận định thời gian và điều kiện bằng trí tuệ. Nếu như ngày mai có thời gian tôi sẽ đi, thân thể của tôi có trạng thái khỏe mạnh và không có sự không thoải mái khác bởi việc đi là duyên, khi ấy ta sẽ xem xét thời gian ấy và điều kiện được xem là hội đủ lý do để đi, nếu thế sẽ đi vào ngài mai.

448. Cetakena bhikkhunāti cetiraṭṭhe jātattā cetakoti evaṃ laddhanāmena. Sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyanti bho, ānanda, dasabalassa ko nāma ābādho[4] ahosi, kiṃ bhagavā paribhuñji, api ca satthu parinibbānena tumhākaṃ soko udapādi, satthā nāma na kevalaṃ tumhākaṃyeva parinibbuto, sadevakassa lokassa mahājāni, ko dāni añño maraṇā muccissati, yatra so sadevakassa lokassa aggapuggalo parinibbuto, idāni kaṃ aññaṃ disvā maccurājā lajjissatīti evamādinā nayena maraṇapaṭisaṃyuttaṃ sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā therassa hiyyo pītabhesajjānurūpaṃ āhāraṃ datvā bhattakiccāvasāne ekamantaṃ nisīdi.

448. Cùng với tỳ khưu Cetaka: Có được tên Cetaka bởi vì vị này sanh ra ở xứ sở Cetiya. Sau khi trao đổi lời xã giao thân thiện: Thanh niên Subha đã nói lời trao đổi xã giao đủ để nhớ đền điều có liên quán về cái chết đã trôi qua theo phương thức v.v, như vầy “thưa ngài Ānanda đấng Thập Lực đã có bệnh gì? Đức Thế Tôn đã thọ dụng gì?” Và hơn nữa, sự đau buồn khởi lên nơi các ngài do sự viên tịch Nibbāna của bậc Đạo Sư, bậc Đạo Sư của các ngài viên tịch Nibbāna không chỉ riêng các ngài (mà đó còn là) sự mất mát vô cùng to lớn cũng khởi lên cho thế giới nhân loại, cùng với thế giới chư Thiên, bây giờ còn người nào khác nữa sẽ thoát khởi sự chết, hạng người tối thượng của thế giới nhân loại cùng với thế giới chư Thiên (ngài) đã viên tịch Nibbāna, lúc này sau khi Tử Thần nhìn thấy người khác sẽ cảm thấy hổ thẹn, thanh niên Subha đã cúng dường vật thực phù hợp cùng với thức uống và thuốc men đến trưởng lão vào ngày hôm qua, sau khi hoàn tất việc thọ dụng vật thực, mới ngồi xuống ở một bên.

Upaṭṭhāko santikāvacaroti upaṭṭhāko hutvā santikāvacaro, na randhagavesī. Na vīmaṃsanādhippāyo. samīpacārīti idaṃ purimapadasseva vevacanaṃ. Yesaṃ so bhavaṃ gotamoti kasmā pucchati? Tassa kira evaṃ ahosi “yesu dhammesu bhavaṃ gotamo imaṃ lokaṃ patiṭṭhapesi, te tassa accayena naṭṭhā nu kho, dharanti nu kho, sace dharanti, ānando jānissati, handa naṃ pucchāmī”ti, tasmā pucchi.

(Ngài Ānanda) là thị giả lâu ngày của Ngài Gotama ấy, có sự thân thiết: là vị thị giả ở trong trú xứ không tìm kiếm lỗi lầm. Có sự gần gũi này là từ đồng nghĩa với từ trước (có sự thân thiết). Thanh niên Subha mới hỏi rằng: “Ngài Gotama đã ca ngợi ân đức của những Pháp nào?” Được biết thanh niên Subha có suy nghĩ như vầy “Ngài Gotama đã huấn luyện con người ở thế gian này trong những Pháp nào, những Pháp ấy khi ngài Gotama viên tịch (chúng) đã biến mất theo phải không? hay vẫn còn tiếp diễn? Ngài Ānanda sẽ biết, tôi xin phép được hỏi?” Vì thế, thanh niên Subha đã hỏi.

449. athassa thero tīṇi piṭakāni tīhi khandhehi saṅgahetvā dassento “tiṇṇaṃ kho”tiādimāha. Māṇavo saṅkhittena kathitaṃ asallakkhento — “vitthārato pucchissāmī”ti cintetvā “katamesaṃ tiṇṇan”tiādimāha.

Khi ấy, trưởng lão đã tổng hợp ba Tạng thành ba Uẩn để thuyết cho thanh niên Subha nên mới nói rằng: “(Đức Thế Tôn ấy đã có lời ca ngợi) về ba pháp uẩn…” Thanh niên Subha đã nghĩ rằng: Tôi không thể xác định được điều ngài nói một cách vắn tắt “(tôi) sẽ hỏi chi tiết” nên mới nói rằng: “Về ba pháp uẩn nào?”

 

Giải Thích Giới Uẩn

450-453. Tato therena “ariyassa sīlakkhandhassā”ti tesu dassitesu puna “katamo pana so, bho ānanda, ariyo sīlakkhandho”ti ekekaṃ pucchi. Theropissa buddhuppādaṃ dassetvā tantidhammaṃ desento[5] anukkamena bhagavatā vuttanayeneva sabbaṃ vissajjesi. Tattha atthi cevettha uttarikaraṇīyanti ettha bhagavato sāsane na sīlameva sāro, kevalañhetaṃ patiṭṭhāmattameva hoti. Ito uttari pana aññampi kattabbaṃ atthi yevāti dassesi. Ito bahiddhāti buddhasāsanato bahiddhā.

450-453. Khi trưởng lão Ānanda trình bày về những uẩn ấy với câu sau: “Về giới uẩn cao thượng” thanh niên Subha mới hỏi thành từng câu nữa rằng: “Thưa ngài Ānanda, giới uẩn cao thượng ấy…là gì?” Mặc dù trưởng lão đã thuyết giảng đến sự hiện khởi của đức Phật cho thanh niên Subha ấy, khi thuyết giảng Tantidhamma nên mới giải đáp hết tất cả Pháp theo cách thức đã được đức Thế Tôn thuyết giảng theo tuận tự ấy. Ở đó, ‘trong Pháp và Luật này còn có phận sự khác vượt trội hơn (phận sự ấy) cần được thực hành’: Ngài thuyết rằng – trong Giáo Pháp của đức Thế Tôn này không phải chỉ có giới có cốt lõi, giới ấy chỉ làm nền tảng mà thôi vẫn còn có phận sự khác vượt trội hơn (phận sự ấy) cần được thực hành nữa. Bên ngoài Giáo Pháp này: Ở bên ngoài Phật Giáo.

 

Giải Thích Định Uẩn

454. Kathañca, māṇava, bhikkhu indriyesu guttadvāro hotīti idamāyasmā ānando “katamo pana so, bho ānanda, ariyo samādhikkhandho”ti evaṃ samādhikkhandhaṃ puṭṭhopi ye te “sīlasampanno indriyesu guttadvāro satisampajaññena samannāgato santuṭṭho”ti evaṃ sīlānantaraṃ indriyasaṃvarādayo sīlasamādhīnaṃ antare ubhinnampi upakārakadhammā uddiṭṭhā, te niddisitvā[6] samādhikkhandhaṃ dassetukāmo ārabhi. Ettha ca rūpajjhānāneva āgatāni, na arūpajjhānāni, ānetvā pana dīpetabbāni. Catutthajjhānena hi asaṅgahitā arūpasamāpatti nāma natthiyeva.

454. Ngài Ānanda dầu bị hỏi đến định uẩn như vầy rằng “Thưa ngài Ānanda định uẩn cao thượng là gì?” Ngài có ý muốn chỉ cho thấy Pháp làm điều kiện hỗ trợ cả hai ở giữa Giới và Định có sự thu thúc các giác quan v.v, được ngài nên ra thuyết giảng theo tuần tự giới rằng: “Vị tỳ khưu thành tựu giới, có sự phòng vệ ở các giác quan, được đầy đủ về niệm và sự nhận biết rõ, là vị tự biết đủ” rồi thuyết giảng định uẩn nên mới bắt đầu lời sau: “Này người thanh niên, thế nào là vị tỳ khưu có sự phòng vệ ở các giác quan?” Trong trường hợp này chỉ thuyết giảng đến thiền Sắc giới không phù hợp để đem thiền Vô sắc đến để thuyết. Bởi vì (bốn) sự thể nhập Vô sắc không được nhiếp hợp vào Tứ thiền hẳn là không có.

471-480. Atthi cevettha uttarikaraṇīyanti ettha bhagavato sāsane na cittekaggatāmattakeneva pariyosānappatti nāma atthi, itopi uttari pana aññaṃ kattabbaṃ atthi yevāti dasseti. Natthi cevettha uttarikaraṇīyanti ettha bhagavato sāsane ito uttari kātabbaṃ nāma natthiyeva, arahattapariyosānañhi bhagavato sāsananti dasseti. sesaṃ sabbattha uttānatthamevāti.

471-480. trong Pháp và Luật này còn có phận sự khác vượt trội hơn (phận sự ấy) cần được thực hành’: Ngài Ānanda trình bày rằng –  gọi là sự sanh khởi của sự tận cùng không có trong Giáo Pháp của đức Thế Tôn này bởi trạng thái tâm chỉ có một đối tượng mà thôi, vẫn còn có phận sự khác vượt trội hơn (phận sự) này nữa cần được thực hành. Ở trong Pháp và Luật này không còn có phận sự (khác) vượt trội hơn (phận sự ấy) cần được thực hành: ngài trình bày rằng – phận sự cần đực thực hành vượt trội hơn (phận sự) này là không có trong Giáo Pháp của đức Thế Tôn này, bởi vì trong Giáo Pháp của đức Thế Tôn có phẩm vị A-ra-hán là điểm cuối cùng. Các từ còn lại trong các câu đều đơn giản.

Giải Thích Kinh Subha được kết thúc – Kinh thứ mười.

Trong Chú Giải Trường Bộ Kinh là Sumaṅgalavilāsī.



[1] Bhuṃkāraṃ (Sī)

[2] Dassesi (Sī)

[3] Dassanāya (Sī)

[4] Rogo (Sī, Syā)

[5] Dassento (Syā)

[6] Uddisitvā (Ka)