Giải Thích Kinh Siṅgāla

(Siṅgālasuttavaṇṇanā (31))

Xem Trường Bộ Kinh – Kinh Siṅgāla (Kinh Giáo thọ Thi-ca-la-việt)

 

Giảng thích về duyên khởi

242. Evaṃme sutanti siṅgālasuttaṃ. Tatrāyamanuttānapadavaṇṇanā – veḷuvane kalandakanivāpeti veḷuvananti tassa uyyānassa nāmaṃ. Taṃ kira veḷūhi parikkhittaṃ ahosi aṭṭhārasahatthena ca pākārena gopuraṭṭālakayuttaṃ nīlobhāsaṃ manoramaṃ, tena veḷuvananti vuccati. Kalandakānañcettha nivāpaṃ adaṃsu, tena kalandakanivāpoti vuccati.

242. Bài Kinh Sigāla bắt đầu như sau— ‘Tôi đã nghe như vầy…’ Ở đây là phần giải thích các từ ngữ chưa được giải thích – Từ ‘Veḷuvana’ trong câu ‘ở Veḷuvana, nơi nuôi dưỡng các con sóc’ là tên của khu vườn đó. Được biết rằng khu vườn đó được bao quanh bằng hàng rào tre, có cổng vòm và tháp canh, với bức tường cao 18 sải tay, có ánh sáng màu xanh, là nơi rất dễ chịu. Vì thế, nơi đó được gọi là Veḷuvana. Và tại nơi này, mọi người đã bố thí thức ăn cho các con sóc; do đó, (nơi ấy) được gọi là nơi nuôi dưỡng các con sóc.

Pubbe kira aññataro rājā tattha uyyānakīḷanatthaṃ āgato surāmadena matto divā niddaṃ okkami. Parijanopissa ‘‘sutto rājā’’ti pupphaphalādīhi palobhiyamāno ito cito ca pakkāmi. Atha surāgandhena aññatarasmā susirarukkhā kaṇhasappo nikkhamitvā rañño abhimukho āgacchati, taṃ disvā rukkhadevatā ‘‘rañño jīvitaṃ dammī’’ti kāḷakavesena āgantvā kaṇṇamūle saddamakāsi. Rājā paṭibujjhi. Kaṇhasappo nivatto. So taṃ disvā ‘‘imāya kāḷakāya mama jīvitaṃ dinna’’nti kāḷakānaṃ tattha nivāpaṃ paṭṭhapesi, abhayaghosañca ghosāpesi. Tasmā taṃ tato pabhuti ‘‘kalandakanivāpo’’ti saṅkhyaṃ gataṃ. Kalandakāti hi kāḷakānaṃ etaṃ nāmaṃ.

Kể rằng, thuở xưa có một vị vua nọ trong khi đi dạo ở vườn (Thượng Uyển) tại nơi ấy đã uống rượu đến say, rồi ngủ thiếp đi giữa ban ngày. Ngay cả đoàn tùy tùng của Ngài, nghĩ rằng: “Đức vua đang ngủ,” bị thu hút bởi hoa trái, v.v, nên đã rời khỏi nơi đó. Lúc đó, có một con rắn hổ mang vì ngửi thấy mùi rượu, đã bò ra khỏi từ một hốc cây và nằm ngay trước mặt đức vua. Khi nhìn thấy điều đó, một vị thọ thần nghĩ rằng: “Ta sẽ cứu mạng đức vua,” liền hóa thành một con sóc đã kêu lên gần bên tai Ngài. Đức vua giật mình tỉnh dậy, và con rắn hổ cũng bò đi mất. Đức vua nhìn thấy con sóc đó, suy nghĩ rằng “con sóc này đã cứu mạng trẫm,” rồi truyền lệnh cho chuẩn bị thức ăn đặt ở nơi đó và ban bố cho sự an toàn đến tất cả loài sóc. Vì thế, từ đó trở đi, nơi ấy được xem là nơi nuôi dưỡng các con sóc.

Tena kho pana samayenāti yasmiṃ samaye bhagavā rājagahaṃ gocaragāmaṃ katvā veḷuvane kalandakanivāpe viharati, tena samayena. Siṅgālako gahapatiputtoti siṅgālakoti tassa nāmaṃ. Gahapatiputtoti gahapatissa putto gahapatiputto. Tassa kira pitā gahapatimahāsālo, nidahitvā ṭhapitā cassa gehe cattālīsa dhanakoṭiyo atthi. So bhagavati niṭṭhaṅgato upāsako sotāpanno, bhariyāpissa sotāpannāyeva. Putto panassa assaddho appasanno. Atha naṃ mātāpitaro abhikkhaṇaṃ evaṃ ovadanti – ‘‘tāta satthāraṃ upasaṅkama, dhammasenāpatiṃ mahāmoggallānaṃ mahākassapaṃ asītimahāsāvake upasaṅkamā’’ti. So evamāha – ‘‘natthi mama tumhākaṃ samaṇānaṃ upasaṅkamanakiccaṃ, samaṇānaṃ santikaṃ gantvā vanditabbaṃ hoti, onamitvā vandantassa piṭṭhi rujjati, jāṇukāni kharāni honti, bhūmiyaṃ nisīditabbaṃ hoti, tattha nisinnassa vatthāni kilissanti jīranti, samīpe nisinnakālato paṭṭhāya kathāsallāpo hoti, tasmiṃ sati vissāso uppajjati, tato nimantetvā cīvarapiṇḍapātādīni dātabbāni honti. Evaṃ sante attho parihāyati, natthi mayhaṃ tumhākaṃ samaṇānaṃ upasaṅkamanakicca’’nti. Iti naṃ yāvajīvaṃ ovadantāpi mātāpitaro sāsane upanetuṃ nāsakkhiṃsu.

Vào lúc bấy giờ: Vào lúc nào đức Thế Tôn, sau khi biến Rajagaha thành nơi dễ dàng đi khất thực, đang trú ngụ ở tịnh xá Veḷuvana, nơi nuôi dưỡng các con sóc, là vào lúc ấy. Cậu gia chủ Siṅgālaka: Siṅgālaka là tên của cậu gia chủ ấy. Con trai của gia chủ: Cậu gia chủ bởi vì là con trai của người gia chủ. Nghe rằng, cha của cậu gia chủ ấy là một đại phú gia, vị ấy có tài sản cất giữ trong nhà lên đến bốn mươi triệu đồng tiền vàng. Gia chủ đó đã đạt được niềm tin vững chắc nơi đức Thế Tôn, là một cận sự nam chứng Sơ quả Tu-đà-hoàn, ngay cả vợ của vị ấy cũng chứng Sơ quả Tu-đà-hoàn. Tuy nhiên, cậu con trai của họ lại không có đức tin, không có lòng tịnh tín. Lúc ấy, cha mẹ thường xuyên khuyên dạy cậu ấy rằng– “Này con thương, con hãy đến yết kiến bậc Đạo Sư, hãy đến gặp vị Tướng quân Chánh pháp Sāriputta, Trưởng lão Mahāmoggallāna, Trương lão Mahākassapa, và tám mươi vị Đại Thinh văn đệ tử.” Những cậu ấy đã đáp như vầy: “(Thưa cha mẹ) việc đến gặp các Sa-môn là điều không có đối với con, bởi vì sau khi đến gặp các Sa-môn phải chắp tay ở trên đầu đảnh lễ, mà sau khi đảnh lễ thì lưng sẽ đau, đầu gối sẽ chai cứng, lại còn phải ngồi trên đất, khiến áo quần lấm lem, nhàu nát. Kể từ đó, trong lúc ngồi gần sẽ có việc đàm luận; khi có đàm luận sẽ sinh ra sự quen thuộc. Từ đó, sau khi thỉnh mời phải cúng dường y phục, và đồ ăn khất thực, v.v. Khi sự việc xảy ra như vậy, lợi ích sẽ bị suy giảm. Việc đi đến yết kiến các vị Sa-môn của cha mẹ là điều không thể.” Cha mẹ dù khuyên dạy cậu ta suốt cả đời như thế nhưng cũng không thể dẫn dắt cậu ta vào Giáo Pháp.

Athassa pitā maraṇamañce nipanno ‘‘mama puttassa ovādaṃ dātuṃ vaṭṭatī’’ti cintetvā puna cintesi – ‘‘disā tāta namassāhī’’ti evamassa ovādaṃ dassāmi, so atthaṃ ajānanto disā namassissati, atha naṃ satthā vā sāvakā vā passitvā ‘‘kiṃ karosī’’ti pucchissanti. Tato ‘‘mayhaṃ pitā disā namassanaṃ karohīti maṃ ovadī’’ti vakkhati. Athassa te ‘‘na tuyhaṃ pitā etā disā namassāpeti, imā pana disā namassāpetī’’ti dhammaṃ desessanti. So buddhasāsane guṇaṃ ñatvā ‘‘puññakammaṃ karissatī’’ti. Atha naṃ āmantāpetvā ‘‘tāta, pātova uṭṭhāya cha disā namasseyyāsī’’ti āha. Maraṇamañce nipannassa kathā nāma yāvajīvaṃ anussaraṇīyā hoti. Tasmā so gahapatiputto taṃ pituvacanaṃ anussaranto tathā akāsi. Tasmā ‘‘kālasseva uṭṭhāya rājagahā nikkhamitvā’’tiādi vuttaṃ.

Sau đó, cha của cậu trong lúc nằm trên giường bệnh sắp lâm chung đã nghĩ rằng: “Ta nên khuyên dạy con trai ta,” rồi lại nghĩ tiếp rằng: “Ta sẽ khuyên dạy con ta như vầy– ‘Này con thương, con hãy lễ bái các hướng,” con ta trong khi không hiểu rõ (ý nghĩa), sẽ lễ bái các hướng. Lúc ấy, bậc Đạo Sư hoặc các vị Thinh Văn nhìn thấy cậu sẽ hỏi cậu rằng: ‘Này cậu gia chủ, cậu đang làm gì vậy?’ Cậu ấy sẽ trả lời rằng: “Cha của con đã khuyên dạy rằng– ‘con hãy thực hiện việc lễ bái các hướng.’” Khi ấy, chư vị sẽ thuyết giảng Giáo Pháp cho cậu rằng: “Cha cậu sẽ không muốn cậu lễ bái các hướng đó, mà sẽ muốn cho cậu lễ bái các hướng này,” sau khi biết được những ân đức trong Phật Giáo “cậu sẽ tạo phước thiện”. Do đó, người cha đã gọi con trai đến và nói: “Này con thương, con nên dậy sớm mỗi sáng rồi lễ bái sáu hướng.” Thông thường lời dặn của người cha nằm trên giường sắp lâm chung là điều đáng nhớ suốt đời. Vì vậy, con trai người gia chủ ấy đã nhớ lại lời cha (và) đã làm như thế. Vì vậy, Ngài mới hỏi rằng: “Này cậu gia chủ, việc gì mà ngươi lại dậy thật sớm, đi ra khỏi thành Rājagaha…” v.v.

243.Puthudisāti bahudisā. Idāni tā dassento puratthimaṃ disantiādimāha. Pāvisīti na tāva paviṭṭho, pavisissāmīti nikkhantattā pana antarāmagge vattamānopi evaṃ vuccati. Addasā kho bhagavāti na idāneva addasa, paccūsasamayepi buddhacakkhunā lokaṃ volokento etaṃ disā namassamānaṃ disvā ‘‘ajja ahaṃ siṅgālassa gahapatiputtassa gihivinayaṃ siṅgālasuttantaṃ kathessāmi, mahājanassa sā kathā saphalā bhavissati, gantabbaṃ mayā etthā’’ti. Tasmā pātova nikkhamitvā rājagahaṃ piṇḍāya pāvisi, pavisanto ca naṃ tatheva addasa. Tena vuttaṃ – ‘‘addasā kho bhagavā’’ti. Etadavocāti so kira avidūre ṭhitampi satthāraṃ na passati, disāyeva namassati. Athaṃ naṃ bhagavā sūriyarasmisamphassena vikasamānaṃ mahāpadumaṃ viya mukhaṃ vivaritvā ‘‘kiṃ nu kho tvaṃ, gahapatiputtā’’tiādikaṃ etadavoca.

243. Các phương hướng: nhiều phương hướng. Giải thích rằng: Bây giờ, cậu gia chủ khi chỉ về các hướng ấy, mới nói lời bắt đầu bằng: “Hướng đông,” v.v. (Đức Thế Tôn) đã đi vào: tuy Ngài chưa thật sự đi vào (thành Rājagaha), nhưng vì đã rời khỏi (nơi cư ngụ) với ý định rằng ‘Ta sẽ đi vào’ nên dù đang đi ở giữa đường cũng được nói rằng ‘đã đi vào’. Đức Thế Tôn đã nhìn thấy: Dù Ngài đã không thấy ngay lúc đó, (nhưng) trong khi quán xét thế gian bằng Phật nhãn vào lúc trời hừng sáng, Ngài đã nhìn thấy cậu gia chủ Siṅgāla đang lễ bái các phương hướng, Ngài nghĩ rằng: “Hôm nay, ta sẽ thuyết giảng bài Kinh Siṅgāla – một bộ kinh thuộc về giới luật của cư sĩ – cho cậu gia chủ Siṅgāla, lời dạy đó sẽ mang lại lợi ích lớn cho đại chúng, ta nên đi đến nơi đó.” Vì vậy, vào sáng sớm hôm ấy, Ngài đã khởi hành đi vào thành Rājagaha để khất thực. Và trong khi đi vào (thành Rājagaha), Ngài đã thấy điều đó đúng như vậy. Do đó. Ngài mới nói rằng– “Đức Thế Tôn đã nhìn thấy…Đức Thế Tôn đã nói với cậu gia chủ Siṅgāla điều này: Khi ấy, cậu ấy không trông thấy bậc Đạo Sư – dù Ngài đứng không xa – mà vẫn tiếp tục lễ bái các hướng. Khi đó, đức Thế Tôn đã mở miệng tựa như một đóa sen lớn đang hé nở khi chạm vào ánh mặt trời, rồi Ngài đã nói điều này rằng: “Này cậu gia chủ, việc gì mà ngươi thức dậy từ sớm…?

Giải thích về sáu phương hướng

244. Yathākathaṃ pana, bhanteti so kira taṃ bhagavato vacanaṃ sutvāva cintesi ‘‘yā kira mama pitarā cha disā namassitabbā’’ti vuttā, na kira tā etā, aññā kira ariyasāvakena cha disā namassitabbā. Handāhaṃ ariyasāvakena namassitabbā disāyeva pucchitvā namassāmīti.

244. Thưa Ngài, vậy trong giới luật của bậc Thánh, sáu hướng nên được lễ bái như thế nào?: Nghe nói, cậu gia chủ Siṅgāla sau khi nghe lời dạy đó của đức Thế Tôn, đã nghĩ rằng: “Được biết, sáu phương hướng mà cha ta nói nên lễ bái”, không phải là những phương hướng này, thật ra sáu phương hướng nên được lễ bái bởi các vị Thánh đệ tử là khác. Vậy thì, ta sẽ thỉnh vấn về những phương hướng nên được lễ bái bởi các Thánh đệ tử, rồi ta sẽ lễ bái theo đó.

So tā pucchanto yathā kathaṃ pana, bhantetiādimāha. Tattha yathāti nipātamattaṃ. Kathaṃ panāti idameva pucchāpadaṃ. Kammakilesāti tehi kammehi sattā kilissanti, tasmā kammakilesāti vuccanti. Ṭhānehīti kāraṇehi. Apāyamukhānīti vināsamukhāni. Soti so sotāpanno ariyasāvako. Cuddasa pāpakāpagatoti etehi cuddasahi pāpakehi lāmakehi apagato. Chaddisāpaṭicchādīti cha disā paṭicchādento. Ubholokavijayāyāti ubhinnaṃ idhalokaparalokānaṃ vijinanatthāya. Ayañceva loko āraddho hotīti evarūpassa hi idha loke pañca verāni na honti, tenassa ayañceva loko āraddho hoti paritosito ceva nipphādito ca. Paralokepi pañca verāni na honti, tenassa paro ca loko ārādhito hoti. Tasmā so kāyassa bhedā parammaraṇā sugatiṃ saggaṃ lokaṃ upapajjati.

Cậu ấy, khi hỏi về các phương hướng đó, mới nói rằng “Thưa Ngài, vậy trong giới luật của bậc Thánh, sáu hướng nên được lễ bái như thế nào?” Trong câu đó, ‘yathā’ chỉ là một phân từ. ‘Kathā panā’ đây chính là phần câu hỏi (như thế nào). Các ô nhiễm do hành động: Các chúng sinh sẽ bị phiền não bởi các hành động đó, vì thế chúng được gọi là “Các ô nhiễm do hành động.” Với các trường hợp: Bởi các lý do. Các cửa ngõ dẫn đến sự tiêu hoại: Các cửa ngõ dẫn đến sự tiêu hoại. Vị ấy: Ở đây chỉ vị Thánh đệ tử, cụ thể là bậc Thánh Nhập Lưu. Đã xa lánh mười bốn ác pháp: Đã tránh xa các ác pháp, tức là mười bốn pháp thấp hèn. Có sự che chở sáu hướng: Có sự che chở sáu hướng. Sự chiến thắng cả hai đời: Vì mục đích chinh phục cả hai đời– đời này và đời sau. Làm khởi lên sự hài lòng ở đời này: Bởi vì, năm điều thù hận ở đời này không tồn tại đối với vị Thánh đệ tử có hình thức như vậy; vì thế, đời này đã được vị ấy khởi sự, tức là được hoan hỷ và được hoàn thành. Luôn ở đời sau năm điều thù hận cũng không tồn tại; do đó, đời sau là được hoan hỷ. Cho nên, vị ấy, khi tan rã thân xác và mệnh chung, được tái sanh vào chốn an vui, cõi trời.

Giải thích bốn phiền não do hành động

245. Iti bhagavā saṅkhepena mātikaṃ ṭhapetvā idāni tameva vitthārento katamassa cattāro kammakilesātiādimāha. Kammakilesoti kammañca taṃ kilesasampayuttattā kileso cāti kammakileso. Sakilesoyeva hi pāṇaṃ hanati, nikkileso na hanati, tasmā pāṇātipāto ‘‘kammakileso’’ti vutto. Adinnādānādīsupi eseva nayo. Athāparanti aparampi etadatthaparidīpakameva gāthābandhaṃ avocāti attho.

245. Như vậy, đức Thế Tôn đã đặt chủ đề một cách tóm tắt, bây giờ để giải thích chi tiết mẫu đề đó, mới nói rằng: “Bốn phiền não do hành động đã được dứt bỏ của vị này là những việc nào?Phiền não do hành động: Phiền não do hành động bởi hành động đó là phiền não, (và) do liên quan đến phiền não. Thật vậy, chỉ có người có phiền não mới sát hại sinh mạng, còn người không có phiền não thì không sát hại sinh mạng; do đó, sát sanh được gọi là ‘hành động do phiền não’. Tương tự, việc lấy vật không được cho, v.v, cũng áp dụng theo cách thức này. Thêm điều khác nữa: Có nghĩa là Đức Thế Tôn đã nói thêm bài kệ được biên soạn để làm sáng tỏ ý nghĩa đó.

Giải thích bốn lý do

246. Pāpakammaṃkarotīti idaṃ bhagavā yasmā kārake dassite akārako pākaṭo hoti, tasmā ‘‘pāpakammaṃ na karotī’’ti mātikaṃ ṭhapetvāpi desanākusalatāya paṭhamataraṃ kārakaṃ dassento āha. Tattha chandāgatiṃ gacchantoti chandena pemena agatiṃ gacchanto akattabbaṃ karonto. Parapadesupi eseva nayo. Tattha yo ‘‘ayaṃ me mitto vā sambhatto vā sandiṭṭho vā ñātako vā lañjaṃ vā pana me detī’’ti chandavasena assāmikaṃ sāmikaṃ karoti, ayaṃ chandāgatiṃ gacchanto pāpakammaṃ karoti nāma. Yo ‘‘ayaṃ me verī’’ti pakativeravasena taṅkhaṇuppannakodhavasena vā sāmikaṃ assāmikaṃ karoti, ayaṃ dosāgatiṃ gacchanto pāpakammaṃ karoti nāma. Yo pana mandattā momūhattā yaṃ vā taṃ vā vatvā assāmikaṃ sāmikaṃ karoti, ayaṃ mohāgatiṃ gacchanto pāpakammaṃ karoti nāma. Yo pana ‘‘ayaṃ rājavallabho vā visamanissito vā anatthampi me kareyyā’’ti bhīto assāmikaṃ sāmikaṃ karoti, ayaṃ bhayāgatiṃ gacchanto pāpakammaṃ karoti nāma. Yo pana yaṃkiñci bhājento ‘‘ayaṃ me sandiṭṭho vā sambhatto vā’’ti pemavasena atirekaṃ deti, ‘‘ayaṃ me verī’’ti dosavasena ūnakaṃ deti, momūhattā dinnādinnaṃ ajānamāno kassaci ūnaṃ kassaci adhikaṃ deti, ‘‘ayaṃ imasmiṃ adiyyamāne mayhaṃ anatthampi kareyyā’’ti bhīto kassaci atirekaṃ deti, so catubbidhopi yathānukkamena chandāgatiādīni gacchanto pāpakammaṃ karoti nāma.

246. Làm hành động xấu xa: Đức Thế Tôn, bởi vì khi chỉ rõ hạng người đã làm (điều ác), thì hạng người không làm cũng đồng thời được hiển lộ; do đó, dù đã đặt chủ đề chính là ‘không làm hành động xấu xa’, nhưng vì Ngài khéo léo trong việc thuyết giảng, nên đã chỉ hạng người làm (điều ác) trước tiên, mới nói câu này (hạng người thường làm điều ác). Ở đấy, trong khi đi đến sự sai trái vì mong muốn: Trong khi đi đến sự sai trái vì mong muốn, vì sự yêu thương, làm điều không nên nên làm. Luôn cả những câu khác cũng áp dụng cách thức này. Ở đấy, người nào làm cho người không phải chủ sở hữu trở thành chủ sở hữu do tác động sự mong muốn rằng– “Người này là bạn của ta, hoặc là người thân thiết, hoặc là người đồng quan điểm, hoặc là thân quyến, hoặc là người đã tặng quà cho ta,” thì người ấy là người làm hành động xấu xa trong khi đi đến sự sai trái vì mong muốn. Còn người nào làm cho người không phải chủ sở hữu trở thành chủ sở hữu do tác động sân hận rằng– “người này là kẻ thù của ta” hoặc “do tác động của sự giận dữ khởi lên ở tại sát-na đó”, thì người ấy là người làm hành động xấu xa trong khi đi đến sự sai trái vì sân hận. Hơn nữa, người nào do bản tánh ngu khờ do bản tánh si mê, nói năng lung tung, làm cho người không phải chủ sở hữu trở thành chủ sở hữu, thì người ấy là người làm hành động xấu xa trong khi đi đến sự sai trái vì si mê. Ngoài ra, người nào làm cho người không phải chủ sở hữu trở thành chủ sở hữu do sợ hãi rằng– “Người này là sủng tín của đức vua hoặc là người sống dựa vào kẻ thù, (những người ấy) có thể làm tổn hại cho ta,” thì người ấy gọi là người làm hành động xấu xa trong khi đi đến sự sai trái vì sợ hãi. Tương tự, người nào trong khi phân chia bất cứ vật gì, lại cho nhiều hơn do tác động sự yêu thương: “Người này là người đồng quan điểm, hoặc là người thân thiết với ta,” nhưng lại cho ít hơn do tác động sân hận: “Người này là kẻ thù của ta.” Do bản tánh si mê, không biết vật đã cho và chưa cho, lại cho ít hơn đối với một số người, nhưng lại cho nhiều hơn đối với một số người. Sợ rằng: “Người này nếu ta không cho thứ này, thì người ấy có thể làm tổn hại đến ta,” nên đã cho nhiều hơn đối với một số người. Người ấy, dù là người có bốn sự sai trái như vậy, cũng được gọi là người làm hành động xấu xa trong khi đi đến sự sai trái vì mong muốn, v.v, theo thứ tự.

Ariyasāvako pana jīvitakkhayaṃ pāpuṇantopi chandāgatiādīni na gacchati. Tena vuttaṃ – ‘‘imehi catūhi ṭhānehi pāpakammaṃ na karotī’’ti.

Nhưng vị Thánh đệ tử, dù phải đối mặt với cái chết, cũng sẽ không đi đến sự sai trái do mong muốn, v.v. Bởi lý do đó, Ngài mới nói rằng: “Vị Thánh đệ tử không làm hành động xấu xa bởi bốn lý do này”.

Nihīyati yaso tassāti tassa agatigāmino kittiyasopi parivārayasopi nihīyati parihāyati.

Danh tiếng của vị ấy bị hủy hoại: Ngay cả danh tiếng về tiếng tăm lẫn sự vẻ vang về tùy tùng của người đã đi đến sự sai trái đó cũng bị suy giảm, bị tổn hại.

Giải thích sáu cửa ngõ dẫn đến sự tiêu hoại

247. Surāmerayamajjappamādaṭṭhānānuyogoti ettha surāti piṭṭhasurā pūvasurā odanasurā kiṇṇapakkhittā sambhārasaṃyuttāti pañca surā. Merayanti pupphāsavo phalāsavo madhvāsavo guḷāsavo sambhārasaṃyuttoti pañca āsavā. Taṃ sabbampi madakaraṇavasena majjaṃ.

247. Sự gắn bó với việc dễ duôi uống chất say là rượu và chất lên men: Ở đây, năm loại rượu là– rượu làm từ bánh ngọt, rượu làm từ bột , rượu làm từ cơm, rượu được rắc men vào ủ, rượu đã được trộn vào các hương liệu cần thiết, được gọi là rượu. Năm loại đồ ủ lên men là: chất mật từ bông hoa, nước trích ra từ trái cây, nước trích ra từ mật ong, nước trích ra từ đường mía đã được trộn vào các hương liệu cần thiết, được gọi là ‘chất lên men’. Toàn bộ những thứ đó đều được gọi là ‘chất say’ do tác động của việc làm cho say.

Pamādaṭṭhānanti pamādakāraṇaṃ. Yāya cetanāya taṃ majjaṃ pivati, tassa etaṃ adhivacanaṃ. Anuyogoti tassa surāmerayamajjappamādaṭṭhānassa anuanuyogo punappunaṃ karaṇaṃ. Yasmā panetaṃ anuyuttassa uppannā ceva bhogā parihāyanti, anuppannā ca nuppajjanti, tasmā ‘‘bhogānaṃ apāyamukha’’nti vuttaṃ. Vikālavisikhācariyānuyogoti avelāya visikhāsu cariyānuyuttatā.

Là nhân của sự dễ duôi: Là nguyên nhân của sự xao lãng. Do tác ý nào mà người uống chất say đó, điều đó là tên gọi của tác ý ấy. Sự gắn bó: Thường xuyên gắn bó, tức là làm đi làm lại nhiều lần việc uống các chất say tức là rượu và chất lên men, là nguyên nhân của sự dễ duôi. Hơn nữa, khi một người thường xuyên gắn bó với việc uống chất say này, các tài sản đã phát sanh sẽ bị suy giảm và các tài sản chưa phát sanh sẽ không phát sanh. Do đó, Ngài mới nói rằng: “là cửa ngõ dẫn đến sự tiêu hoại của cải.” Việc gắn bó với sự lai vãng ở các đường phố phi thời: Bản chất người thường xuyên gắn bó với sự đi lại ở các đường phố (các con hẻm) vào thời điểm không thích hợp,

Samajjābhicaraṇanti naccādidassanavasena samajjāgamanaṃ. Ālasyānuyogoti kāyālasiyatāya yuttappayuttatā.

Thăm viếng các cuộc hội hè: Đi xem các cuộc hội hè với việc xem ca múa, v.v. Việc gắn bó với sự lười biếng: Do bản chất người nỗ lực, siêng năng trong việc gắn bó với sự lười biếng ở thân.

Giải thích sáu cửa ngõ dẫn đến sự tiêu hoại của rượu và chất lên men

248. Evaṃ channaṃ apāyamukhānaṃ mātikaṃ ṭhapetvā idāni tāni vibhajanto cha kho me, gahapatiputta ādīnavātiādimāha. Tattha sandiṭṭhikāti sāmaṃ passitabbā, idhalokabhāvinī. Dhanajānīti dhanahāni. Kalahappavaḍḍhanīti vācākalahassa ceva hatthaparāmāsādikāyakalahassa ca vaḍḍhanī. Rogānaṃ āyatananti tesaṃ tesaṃ akkhirogādīnaṃ khettaṃ. Akittisañjananīti suraṃ pivitvā hi mātarampi paharanti pitarampi, aññaṃ bahumpi avattabbaṃ vadanti, akattabbaṃ karonti. Tena garahampi daṇḍampi hatthapādādichedampi pāpuṇanti, idhalokepi paralokepi akittiṃ pāpuṇanti, iti tesaṃ sā surā akittisañjananī nāma hoti. Kopīnanidaṃsanīti guyhaṭṭhānañhi vivariyamānaṃ hiriṃ kopeti vināseti, tasmā ‘‘kopīna’’nti vuccati, surāmadamattā ca taṃ taṃ aṅgaṃ vivaritvā vicaranti, tena nesaṃ sā surā kopīnassa nidaṃsanato ‘‘kopīnanidaṃsanī’’ti vuccati. Paññāya dubbalikaraṇīti sāgatattherassa viya kammassakatapaññaṃ dubbalaṃ karoti, tasmā ‘‘paññāya dubbalikaraṇī’’ti vuccati. Maggapaññaṃ pana dubbalaṃ kātuṃ na sakkoti. Adhigatamaggānañhi sā antomukhameva na pavisati. Chaṭṭhaṃ padanti chaṭṭhaṃ kāraṇaṃ.

248. Sau khi sắp đặt chủ đề chính của sáu cửa ngõ dẫn đến sự tiêu hoại như vậy, giờ đây, khi phân loại các chủ đề chính đó, đức Thế Tôn mới nói rằng: “Này cậu gia chủ, đây là sáu điều bất lợi…” v.v. Ở đấy, điều tự mình thấy: Sự sống ở đời này có thể tự mình nhìn thấy. Của cải bị tổn thất: suy giảm về tài sản. Gia tăng việc cãi cọ: Gây ra sự cãi cọ bằng lời nói và sự xung đột bằng tay chân, v.v. Chất say là nguồn gốc phát sanh của các loại bệnh: Chất say là lãnh vực của các loại bệnh như bệnh về mắt, v.v. Chất say là nguyên nhân làm mất danh tiếng: Bởi vì người đã uống rượu, họ có thể đánh đập cả mẹ, thậm chí cả cha; nói những lời không nên nói, làm những điều không nên làm, và nhiều điều khác nữa. Vì lý do đó, họ phải chịu sự khiển trách, chịu sự trừng phạt, thậm chí việc bị chặt tay chặt chân, v.v.; phải chịu sự mất danh tiếng ở đời này và ở đời sau. Do vậy, rượu được gọi là nguyên nhân gây ra sự mất danh tiếng đối với những người ấy. Là nguyên nhân không biết hổ thẹn: Quả thật, vật kín cần được che kín bị kẻ ấy phơi bày làm cho sự hổ thẹn bị kích động, bị hủy hoại; Vì vậy, được nói rằng “không biết hổ thẹn”. Hơn nữa, kẻ say rượu có thể để lộ các bộ phận cơ thể rồi đi lang thang. Bởi lý do đó, rượu được gọi là nguyên nhân không biết hổ thẹn, vì làm cho sự hổ thẹn bị kích động. Làm cho tuệ yếu ớt: Tuệ về sở hữu chủ của nghiệp trở nên yếu ớt, giống như trí tuệ của Trưởng lão Sāgata vậy. Vì vậy, ngài mới nói rằng: “Làm cho tuệ yếu ớt.” Tuy nhiên, chất say không thể khiến ‘Đạo về Tuệ’ suy yếu, bởi vì rượu không thể lọt vào miệng của vị đã chứng đắc Đạo. Điều thứ sáu: nguyên nhân thứ sáu.

Giải thích sáu điều bất lợi của việc lai vãng vào ban đêm

249. Attāpissa agutto arakkhito hotīti avelāya caranto hi khāṇukaṇṭakādīnipi akkamati, ahināpi yakkhādīhipi samāgacchati, taṃ taṃ ṭhānaṃ gacchatīti ñatvā verinopi naṃ nilīyitvā gaṇhanti vā hananti vā. Evaṃ attāpissa agutto hoti arakkhito. Puttadārāpi ‘‘amhākaṃ pitā amhākaṃ sāmi rattiṃ vicarati, kimaṅgaṃ pana maya’’nti itissa puttadhītaropi bhariyāpi bahi patthanaṃ katvā rattiṃ carantā anayabyasanaṃ pāpuṇanti. Evaṃ puttadāropissa agutto arakkhito hoti. Sāpateyyanti tassa puttadāraparijanassa rattiṃ caraṇakabhāvaṃ ñatvā corā suññaṃ gehaṃ pavisitvā yaṃ icchanti, taṃ haranti. Evaṃ sāpateyyampissa aguttaṃ arakkhitaṃ hoti. Saṅkiyo ca hotīti aññehi katapāpakammesupi ‘‘iminā kataṃ bhavissatī’’ti saṅkitabbo hoti. Yassa yassa gharadvārena yāti, tattha yaṃ aññena corakammaṃ paradārikakammaṃ vā kataṃ, taṃ ‘‘iminā kata’’nti vutte abhūtaṃ asantampi tasmiṃ rūhati patiṭṭhāti. Bahūnañca dukkhadhammānanti ettakaṃ dukkhaṃ, ettakaṃ domanassanti vattuṃ na sakkā, aññasmiṃ puggale asati sabbaṃ vikālacārimhi āharitabbaṃ hoti, iti so bahūnaṃ dukkhadhammānaṃ purakkhato puregāmī hoti.

249. Bản thân người này là không được hộ trì, không được bảo vệ: Bởi vì một người hay lai vãng vào ban đêm có thể dẫm phải gốc cây, gai nhọn, v.v., gặp rắn, quỷ Dạ-xoa, v.v. cả kẻ thù khi biết người đó đi đến những nơi ấy, cũng có thể mai phục bắt giữ hoặc giết chết. Như vậy bản thân người này là không được hộ trì, không được bảo vệ. Ngay cả con cái và vợ (của người đó) cũng nghĩ rằng: “Cha chúng tôi, chồng chúng tôi còn lai vãng vào ban đêm, huống chi là chúng tôi.” Do ý nghĩ ấy, con trai, con gái, thậm chí vợ của người ấy cũng đã hành động theo ước muốn (cá nhân) bên ngoài rồi đi loanh quanh vào ban đêm, và cuối cùng gặp phải sự bất hạnh, và sự suy vong. Như vậy, con cái và vợ của người này là không được hộ trì, không được bảo vệ. Tài sản: sau khi biết được rằng tính chất thường đi lại vào ban đêm của vợ con cùng với người hầu cận của người đó, chúng đã lẻn vào ngôi nhà trống vắng người– muốn thứ nào, thì lấy đi thứ đó. Như vậy, tài sản của người này là không được hộ trì, không được bảo vệ. Là bị nghi ngờ trong các tình huống xấu xa: Người đó dễ bị nghi ngờ rằng ‘người này sẽ trở thành người đã làm’ những hành động xấu ác đã được làm bởi người khác, là người đáng bị nghi ngờ. (Người nào) đi qua cửa nhà của người này người nọ, và hành vi trộm cắp, hoặc hành vi sai trái đối với vợ người đã được thực hiện bởi người khác, trong khi nói rằng: “Hành động đó đã được làm bởi người này”, dù sự việc không thật, không tồn tại, nhưng sự việc cũng dần được trở thành, được xác lập ở nơi người đó. Việc lai vãng vào ban đêm là (nguyên nhân) của rất nhiều sự rắc rối: Bất cứ ai cũng không thể nói rằng “sự khổ đau có chừng này, ưu phiền có chừng này”, trong khi không có người khác (để đổ lỗi) thì tất cả (mọi lỗi lầm) đều quy cho hạng người thường lai vãng vào ban đêm. Do vậy, người ấy là người đầu tiên phải đối diện với rất nhiều rắc rối.

Giải thích sáu điều bất lợi của việc thăm viếng các cuộc hội hè

250. Kvanaccanti ‘‘kasmiṃ ṭhāne naṭanāṭakādinaccaṃ atthī’’ti pucchitvā yasmiṃ gāme vā nigame vā taṃ atthi, tattha gantabbaṃ hoti, tassa ‘‘sve naccadassanaṃ gamissāmī’’ti ajja vatthagandhamālādīni paṭiyādentasseva sakaladivasampi kammacchedo hoti, naccadassanena ekāhampi dvīhampi tīhampi tattheva hoti, atha vuṭṭhisampattiyādīni labhitvāpi vappādikāle vappādīni akarontassa anuppannā bhogā nuppajjanti, tassa bahi gatabhāvaṃ ñatvā anārakkhe gehe corā yaṃ icchanti, taṃ karonti, tenassa uppannāpi bhogā vinassanti. Kva gītantiādīsupi eseva nayo. Tesaṃ nānākaraṇaṃ brahmajāle vuttameva.

250. Có nhảy múa ở đâu?: Khi hỏi rằng “ở đâu có các buổi biểu diễn nhảy múa, tuồng hát, v.v.,?” – Nếu có tại làng mạc hoặc thị trấn nào, (người ấy) sẽ tìm đến nơi đến. Rồi người ấy nghĩ rằng: “Ngày mai ta sẽ đi xem múa hát,” và ngay trong ngày hôm đó, họ bắt đầu chuẩn bị xiêm y, tràng hoa, hương thơm, v.v., khiến toàn bộ công việc trong ngày trong ngày bị gián đoạn. Họ có thể ở lại nơi ấy một ngày, hai ngày, hoặc thậm chí là ba ngày để xem biểu diễn. Dù có điều kiện thời tiết thuận lợi như mưa đúng thời, họ vẫn không thực hiện việc gieo hạt đúng mùa vụ, v.v. (Do đó), của cải chưa phát sanh sẽ không phát sanh. Sau khi biết được chủ nhà đã đi vắng bọn cướp đã đột nhập vào nhà không ai trông giữ– muốn thứ gì, thì lấy đi thứ đó. Vì vậy, ngay cả của cải đã phát sanh cũng sẽ bị mất. Có ca hát ở đâu? v.v. cũng nên hiểu theo cách tương tự. Sự sai khác của những người ấy đã được trình bày trong Kinh Brahmajāla.

Giải thích sáu điều bất lợi của việc dễ duôi ở các trò cờ bạc

251. Jayaṃ veranti ‘‘jitaṃ mayā’’ti parisamajjhe parassa sāṭakaṃ vā veṭhanaṃ vā gaṇhāti, so ‘‘parisamajjhe me avamānaṃ karosi, hotu, sikkhāpessāmi na’’nti tattha veraṃ bandhati, evaṃ jinanto sayaṃ veraṃ pasavati. Jinoti aññena jito samāno yaṃ tena tassa veṭhanaṃ vā sāṭako vā aññaṃ vā pana hiraññasuvaṇṇādivittaṃ gahitaṃ, taṃ anusocati ‘‘ahosi vata me, taṃ taṃ vata me natthī’’ti tappaccayā socati. Evaṃ so jino vittaṃ anusocati. Sabhāgatassa vacanaṃ na rūhatīti vinicchayaṭṭhāne sakkhipuṭṭhassa sato vacanaṃ na rūhati, na patiṭṭhāti, ‘‘ayaṃ akkhasoṇḍo jūtakaro, mā tassa vacanaṃ gaṇhitthā’’ti vattāro bhavanti. Mittāmaccānaṃparibhūto hotīti tañhi mitāmaccā evaṃ vadanti – ‘‘samma, tvampi nāma kulaputto jūtakaro chinnabhinnako hutvā vicarasi, na te idaṃ jātigottānaṃ anurūpaṃ, ito paṭṭhāya mā evaṃ kareyyāsī’’ti. So evaṃ vuttopi tesaṃ vacanaṃ na karoti. Tato tena saddhiṃ ekato na tiṭṭhanti na nisīdanti. Tassa kāraṇā sakkhipuṭṭhāpi na kathenti. Evaṃ mittāmaccānaṃ paribhūto hoti.

251. Người thắng tạo ra sự thù nghịch cho chính mình: Kẻ chiến thắng thường lấy đi áo choàng hoặc chiếc khăn quấn đầu của kẻ thua giữa đám đông, với ý nghĩ rằng: “Ta đã thắng cuộc”. Tuy nhiên, hành động đó khiến cho người chiến thắng bị cột oan trái với kẻ thua, (với ý nghĩa): “Hắn đã xem thường ta giữa đám đông, thôi được, ta sẽ dạy cho hắn một bài học”. Như vậy, người thắng cuộc đã tạo ra sự thù nghịch cho chính mình. Kẻ thua: Kẻ thua cuộc cảm thấy buồn phiền, tiếc nuối về các vật dụng như khăn quấn đầu, áo choàng hoặc các tài sản khác như tiền bạc, vàng bạc, v.v., của mình mà người khác đã lấy đi. Họ sầu muộn do tài sản đó làm nhân (rằng): “Tài sản đó quả thật đã từng thuộc về ta, nhưng giờ đây chúng không còn có cho ta nữa”. Như vậy, kẻ thua cuộc cảm thấy sầu muộn về của cải bị mất. Lời nói của người ấy ở cuộc hội họp không có giá trị: Khi kẻ ấy bị hỏi với tư cách là nhân chứng tại nơi xét xử, thì lời nói ấy không được tin cậy (không có giá trị). Mọi người sẽ bảo: “Người này là kẻ nghiện chơi xúc xắc, là kẻ nghiện cờ bạc, các vị chớ tin lời nói của hắn.” Là bị khinh miệt bởi các bạn bè thân hữu: Thật vậy, bạn bè và thân hữu sẽ nói với kẻ ấy rằng: “Này bạn, bạn là con trai của một gia đình danh giá mà lại sa ngã trở thành con bạc, là kẻ biến chất, là kẻ phá hủy (sự hổ thẹn, và ghê sợ tội lỗi), đi lang thang, điều này thật không xứng đáng đối với dòng dõi và gia tộc của bạn. Từ nay trở về sau, bạn không nên làm như vậy nữa.”. Dù được họ khuyên răn như thế, nhưng kẻ ấy vẫn không nghe theo. Từ đó, họ không còn đứng, không còn ngồi chung với kẻ ấy. Thậm chí khi được hỏi làm nhân chứng, họ cũng từ chối trả lời. Vì vậy, kẻ cờ bạc là kẻ bị bạn bè và thân hữu khinh miệt.

Āvāhavivāhakānanti āvāhakā nāma ye tassa gharato dārikaṃ gahetukāmā. Vivāhakā nāma ye tassa gehe dārikaṃ dātukāmā. Apatthito hotīti anicchito hoti. Nālaṃ dārabharaṇāyāti dārabharaṇāya na samattho. Etassa gehe dārikā dinnāpi etassa gehato āgatāpi amhehi eva positabbā bhavissatiyeva.

Việc rước dâu và việc đưa dâu: Người mong muốn đón con dâu vào nhà mình được gọi là việc rước dâu. Người mong muốn gả cô con gái ra khỏi nhà mình được gọi là việc đưa dâu. Là không được mong ước: Không ai mong muốn. Người cờ bạc không thể nuôi vợ: Kẻ ấy không có khả năng để nuôi vợ. Dù con gái (chúng ta) được gả vào vào nhà kẻ ấy, hay (cô con gái) được mang về từ nhà kẻ ấy, thì rốt cuộc chính chúng ta sẽ phải nuôi dưỡng (cho cô gái ấy).

Giải thích sáu điều bất lợi của việc gắn bó với bạn bè ác xấu

252. Dhuttāti akkhadhuttā. Soṇḍāti itthisoṇḍā bhattasoṇḍā pūvasoṇḍā mūlakasoṇḍā. Pipāsāti pānasoṇḍā. Nekatikāti patirūpakena vañcanakā. Vañcanikāti sammukhāvañcanāhi vañcanikā. Sāhasikāti ekāgārikādisāhasikakammakārino. Tyāssa mittā hontīti te assa mittā honti. Aññehi sappurisehi saddhiṃ na ramati gandhamālādīhi alaṅkaritvā varasayanaṃ āropitasūkaro gūthakūpamiva, te pāpamitteyeva upasaṅkamati. Tasmā diṭṭhe ceva dhamme samparāyañca bahuṃ anatthaṃ nigacchati.

252. Những kẻ cờ bạc: người cờ bạc. Những kẻ say sưa: kẻ say mê đàn bà, kẻ say mê ăn uống (không biết tiết chế trong sinh hoạt), kẻ say mê rượu (nghiện uống, ham uống), kẻ say mê ăn các loại củ và rễ. Những kẻ nghiện rượu: kẻ say mê rượu. Những kẻ lừa đảo: Đánh lừa bằng đồ giả. Những kẻ tráo trở: Đánh lừa ngay ở trước mặt (lừa gạt trắng trợn). Những kẻ hung ác: là người thực hiện hành động thô bạo như cướp nhà. Những kẻ đó là bạn của hắn: Những kẻ nghiện rượu là bạn bè của hắn. Hắn không vui thích với (sự thân cận) các bậc chân nhân khác, chỉ tìm đến những bạn bè ác xấu đó, việc đó cũng giống như một con lợn đã được trang điểm bằng hương thơm, vòng hoa, v.v., rồi đặt nằm trên chiếc giường sang trọng, nhưng vẫn thích đầm mình trong hố phân. Bởi vậy, hạng người kết giao với bạn bè ác xấu chắc chắn gặp rất nhiều sự tai hại trong đời này và đời sau.

Giải thích sáu điều bất lợi của sự lười biếng

253. Atisītanti kammaṃ na karotīti manussehi kālasseva vuṭṭhāya ‘‘etha bho kammantaṃ gacchāmā’’ti vutto ‘‘atisītaṃ tāva, aṭṭhīni bhijjanti viya, gacchatha tumhe pacchā jānissāmī’’ti aggiṃ tapanto nisīdati. Te gantvā kammaṃ karonti. Itarassa kammaṃ parihāyati. Atiuṇhantiādīsupi eseva nayo.

253. Lấy cớ lạnh quá rồi không làm việc: Mọi người thức dậy từ sáng sớm và nói: “Này ông bạn, chúng ta hãy cùng đi làm việc!” – Kẻ lười biếng sẽ nói: “Thời tiết còn quá lạnh, xương cốt sẽ vỡ vụn mất, các ông cứ đi trước đi, tôi sẽ theo sau,” rồi ngồi sưởi ấm bên ngọn lửa. Những người ấy thì đi làm việc. Công việc của kẻ lười biếng sẽ bị sa sút. Luôn cả câu ‘nóng quá rồi không làm việc, v.v,’ cũng áp dụng cách thức này.

Hoti pānasakhā nāmāti ekacco pānaṭṭhāne surāgeheyeva sahāyo hoti. ‘‘Pannasakhā’’tipi pāṭho, ayamevattho. Sammiyasammiyoti samma sammāti vadanto sammukheyeva sahāyo hoti, parammukhe verīsadiso otārameva gavesati. Atthesujātesūti tathārūpesu kiccesu samuppannesu. Verappasavoti verabahulatā. Anatthatāti anatthakāritā. Sukadariyatāti suṭṭhu kadariyatā thaddhamacchariyabhāvo. Udakamiva iṇaṃ vigāhatīti pāsāṇo udakaṃ viya saṃsīdanto iṇaṃ vigāhati.

Có loại bạn mang tên là bạn nhậu: Một số người chỉ là bạn đồng hành với nhau trong quán rượu. Cũng có văn bản ghi ‘pannasakhā’, có ý nghĩa tương tự. Có loại bạn (chỉ ở đầu môi): Bạn mến, bạn mến: Một số người nói rằng “bạn mến, bạn mến” khi ở trước mặt, (nhưng) sau lưng thì lại là kẻ thù, tìm đủ mọi cách để hãm hại. Người nào là bạn đồng hành vào những lúc hữu sự: Khi những sự việc có hình thức như thế xảy ra. Luôn nung nấu sự thù hận: trạng thái chứa đầy sự thù hận. Có bản tánh gây ra điều bất lợi: Trạng thái tạo ra ra sự tai hại. Có bản chất vô cùng keo kiệt: Có bản chất bỏn xẻn cố chấp, tính chất bỏn xẻn cực độ. Kẻ ấy chìm sâu trong nợ nần tựa như tảng đá chìm xuống nước: Kẻ ấy chìm sâu vào nợ nần như tảng đá chìm xuống nước.

Rattinuṭṭhānadessināti rattiṃ anuṭṭhānasīlena. Atisāyamidaṃ ahūti idaṃ atisāyaṃ jātanti ye evaṃ vatvā kammaṃ na karonti. Iti vissaṭṭhakammanteti evaṃ vatvā pariccattakammante. Atthā accenti māṇaveti evarūpe puggale atthā atikkamanti, tesu na tiṭṭhanti.

Chán ghét việc thức dậy vào ban đêm (lúc trời chưa sáng): Không thức dậy vào ban đêm. Kẻ đã nói điều này quá chiều (trời đã tối): Những kẻ đã nói như vầy ‘giờ này đã muộn lắm rồi,’ rồi không làm việc. Những thanh niên với các công việc bị bỏ bê như thế: Sau khi nói như vậy đã bỏ bê hết mọi việc. Các sự tấn hóa bỏ qua những kẻ này: Các sự lợi ích bỏ qua các hạng người có hình thức như vậy, tức là đã thiết lập ở các hạng người ấy.

Tiṇā bhiyyoti tiṇatopi uttari. So sukhaṃ na vihāyatīti so puriso sukhaṃ na jahāti, sukhasamaṅgīyeva hoti. Iminā kathāmaggena imamatthaṃ dasseti ‘‘gihibhūtena satā ettakaṃ kammaṃ na kātabbaṃ, karontassa vaḍḍhi nāma natthi. Idhaloke paraloke garahameva pāpuṇātī’’ti.

Cao hơn cọng cỏ: Cao hơn cọng cỏ. Kẻ ấy không đánh mất hạnh phúc: Người đàn ông ấy không đánh mất hạnh phúc, mà chắc chắn là có sự an lạc. Đức Thế Tôn đã trình bày nội dung này bằng việc thuyết giảng về đạo lộ này– “Trong cương vị người tại gia không nên làm công việc này, sự phát triển là không có ở người thực hiện (những hành vi đó), người đó chỉ nhận được sự khiển trách cả ở đời này và đời sau.

Giải thích các hạng giả vờ làm bạn

254. Idāni yo evaṃ karoto anattho uppajjati, aññāni vā pana yāni kānici bhayāni yekeci upaddavā yekeci upasaggā, sabbe te bālaṃ nissāya uppajjanti. Tasmā ‘‘evarūpā bālā na sevitabbā’’ti bāle mittapatirūpake amitte dassetuṃ cattārome, gahapatiputta amittātiādimāha. Tattha aññadatthuharoti sayaṃ tucchahattho āgantvā ekaṃsena yaṃkiñci haratiyeva. Vacīparamoti vacanaparamo vacanamatteneva dāyako kārako viya hoti. Anuppiyabhāṇīti anuppiyaṃ bhaṇati. Apāyasahāyoti bhogānaṃ apāyesu sahāyo hoti.

254. Hiện tại, đức Thế Tôn khi chỉ ra những kẻ không phải là bạn, là bạn giả dối, là người ngu si rằng: “Kẻ nào làm như vậy, thì sự tiêu hoại phát sanh nơi kẻ ấy. Hoặc các sự sợ hãi khác, sự hiểm nguy nào, sự nguy hiểm nào, tất cả đều khởi lên do y cứ ở kẻ ngu. Vì thế, không nên thân cận với kẻ ngu có hình thức như vậy,” nên mới nói rằng: “Này cậu gia chủ, đây là bốn hạng người không phải là bạn.” Trong câu đó, kẻ chỉ lấy đi không là bạn: Bản thân đã đi đến với hai bàn tay trắng, rồi chỉ biết lấy đi thứ này thứ kia của người khác. Kẻ chỉ giỏi nói: Là giống như người cho, người thực hiện chỉ bằng lời nói (tức là chỉ hứa hẹn chứ không làm). Kẻ nịnh hót (nói lấy lòng): Kẻ nói hùa theo. Kẻ rủ rê vào con đường bại vong: Là bạn đồng hành trên con đường tiêu hao tài sản.

255. Evaṃ cattāro amitte dassetvā puna tattha ekekaṃ catūhi kāraṇehi vibhajanto catūhi kho, gahapatiputtātiādimāha. Tattha aññadatthuharo hotīti ekaṃsena hārakoyeva hoti. Sahāyassa gehaṃ rittahattho āgantvā nivatthasāṭakādīnaṃ vaṇṇaṃ bhāsati, so ‘‘ativiya tvaṃ samma imassa vaṇṇaṃ bhāsasī’’ti aññaṃ nivāsetvā taṃ deti. Appena bahumicchatīti yaṃkiñci appakaṃ datvā tassa santikā bahuṃ pattheti. Bhayassakiccaṃ karotīti attano bhaye uppanne tassa dāso viya hutvā taṃ taṃ kiccaṃ karoti, ayaṃ sabbadā na karoti, bhaye uppanne karoti, na pemenāti amitto nāma jāto. Sevati atthakāraṇāti mittasanthavavasena na sevati, attano atthameva paccāsīsanto sevati.

255. Như vậy, đức Thế Tôn sau khi trình bày về bốn loại người không phải là bạn, trong khi phân loại từng loại người với bốn trường hợp, Ngài đã nói rằng: “Này cậu gia chủ, … với bốn trường hợp.” Trong đó, là kẻ chỉ biết lấy đi: Là người chỉ xác định lấy đi (chỉ nghĩ đến việc nhận lợi ích từ người khác). Giải thích rằng– Sau khi đến nhà của thân hữu với hai bàn tay trắng rồi đề cập đến giá trị của chiếc áo choàng mà mình đang mặc, v.v. Kẻ ấy nói rằng: “Này bạn thân, bạn đã khen ngợi về giá trị của tấm áo choàng này quá mức,” nên đã mặc vào chiếc áo khác và cho lại chiếc áo đó. Cho ít muốn nhiều: Cho đi bất cứ một thứ gì đó rất ít ỏi, nhưng lại mong nhận được nhiều thứ từ người khác. Làm việc do sợ hãi: Khi sự sợ hãi xảy ra đối với bản thân mới làm việc này việc nọ như là một kẻ nô bộc của người kia; Kẻ này không làm việc ở mọi thời, khi hiểm nạn xảy ra thì mới làm, không làm với sự yêu thương. (Do đó) kẻ chỉ biết lấy đi không phải là bạn. Thân cận vì lý do lợi ích: Không thân cận vì tình bạn, mà chỉ thân cận vì mong cầu lợi ích riêng.

256. Atītena paṭisantharatīti sahāye āgate ‘‘hiyyo vā pare vā na āgatosi, amhākaṃ imasmiṃ vāre sassaṃ ativiya nipphannaṃ, bahūni sāliyavabījādīni ṭhapetvā maggaṃ olokentā nisīdimha, ajja pana sabbaṃ khīṇa’’nti evaṃ atītena saṅgaṇhāti. Anāgatenāti ‘‘imasmiṃ vāre amhākaṃ sassaṃ manāpaṃ bhavissati, phalabhārabharitā sāliādayo, sassasaṅgahe kate tumhākaṃ saṅgahaṃ kātuṃ samatthā bhavissāmā’’ti evaṃ anāgatena saṅgaṇhāti. Niratthakenāti hatthikkhandhe vā assapiṭṭhe vā nisinno sahāyaṃ disvā ‘‘ehi, bho, idha nisīdā’’ti vadati. Manāpaṃ sāṭakaṃ nivāsetvā ‘‘sahāyakassa vata me anucchaviko añño pana mayhaṃ natthī’’ti vadati, evaṃ niratthakena saṅgaṇhāti nāma. Paccuppannesu kiccesu byasanaṃ dassetīti ‘‘sakaṭena me attho’’ti vutte ‘‘cakkamassa bhinnaṃ, akkho chinno’’tiādīni vadati.

256. Kẻ tiếp đãi khách ở thời quá khứ: Khi thân hữu đến chơi, kẻ chỉ giỏi nói giúp đỡ bằng những câu chuyện đã qua như vầy: “Hôm qua hay hôm kia bạn không đến; Vụ mùa lần này của chúng tôi rất được năng suất, sau khi chuẩn bị rất nhiều lúa sālī, lúa mạch, và hạt giống, v.v, (chúng tôi) đã ngồi nhìn ra đường chờ bạn, nhưng hôm nay mọi thứ đã hết sạch.” Ở thời vị lai: Kẻ chỉ giỏi nói giúp đỡ bằng những câu chuyện chưa đến như vầy: “Vụ mùa của chúng tôi lần này sẽ rất đáng mừng, có gạo sālī, v.v, đã trĩu nặng hạt. Sau khi mùa màng đã được thu hoạch, chúng tôi sẽ có thể giúp đỡ các bạn.” Bằng những lời sáo rỗng: Trong khi ngồi trên cổ voi hoặc ngồi trên lưng ngựa, nhìn thấy bạn hữu, liền nói rằng: “Bạn mến, hãy đến ngồi ở chỗ này!” (Kẻ chỉ giỏi nói) sau khi mặc chiếc áo choàng được yêu thích, đã nói rằng: ‘Chiếc áo này quả thật thích hợp đối với bạn của ta, còn ta lại chẳng có chiếc áo nào khác (để tặng bạn).’” Như vậy được gọi là thu phục nhân tâm bằng những lời sáo rỗng. Khi có việc ở hiện tại thì cho thấy sự bất lực: Khi nói rằng– “Tôi cần một cỗ xe,” (kẻ chỉ giỏi nói) đã nói lời như sau– “Tiếc quá, bánh xe hoặc trục xe đã gãy.”

257. Pāpakampissa anujānātīti pāṇātipātādīsu yaṃkiñci karomāti vutte ‘‘sādhu samma karomā’’ti anujānāti. Kalyāṇepi eseva nayo. Sahāyo hotīti ‘‘asukaṭṭhāne suraṃ pivanti, ehi tattha gacchāmā’’ti vutte sādhūti gacchati. Esa nayo sabbattha. Iti viññāyāti ‘‘mittapatirūpakā ete’’ti evaṃ jānitvā.

257. Chấp nhận việc làm ác của bạn: Khi bạn nói rằng “chúng ta sẽ làm những đó như sát sanh, v.v., kẻ nịnh hót sẽ chiều lòng bạn rằng– “Tốt lắm, chúng ta hãy cùng làm.” Ngay cả trong việc tốt đẹp cũng áp dụng cách thức tương tự. Là bạn đồng hành: Khi bạn nói rằng “mọi người đang uống rượu ở đằng kia, bạn hãy đến đây, chúng ta hãy đi đến đó,” kẻ bị lôi kéo vào con đường bại vong (sẽ) đáp rằng “tốt lắm,” rồi đi. Cách thức này áp dụng cho các đoạn kế tiếp. Bậc sáng suốt biết như thế: Đã biết như vầy “những kẻ là bạn giả dối là như thế.”

Giải thích bạn chí tình

260. Evaṃ na sevitabbe pāpamitte dassetvā idāni sevitabbe kalyāṇamitte dassento puna cattārome, gahapatiputtātiādimāha. Tattha suhadāti sundarahadayā.

260. Đức Thế Tôn, sau khi đã trình bày về những người bạn xấu không nên thân cận như vậy, giờ đây khi chỉ ra những người bạn lành nên thân cận, nên ngài mới nói rằng: “Này cậu gia chủ, đây là bốn hạng thân hữu chí tình, v.v.” Trong câu đó, tình bạn hữu: người bạn có tâm tốt.

261. Pamattaṃ rakkhatīti majjaṃ pivitvā gāmamajjhe vā gāmadvāre vā magge vā nipannaṃ disvā ‘‘evaṃnipannassa kocideva nivāsanapārupanampi hareyyā’’ti samīpe nisīditvā pabuddhakāle gahetvā gacchati. Pamattassasāpateyyanti sahāyo bahigato vā hoti suraṃ pivitvā vā pamatto, gehaṃ anārakkhaṃ ‘‘kocideva yaṃkiñci hareyyā’’ti gehaṃ pavisitvā tassa dhanaṃ rakkhati. Bhītassāti kismiñcideva bhaye uppanne ‘‘mā bhāyi, mādise sahāye ṭhite kiṃ bhāyasī’’ti taṃ bhayaṃ haranto paṭisaraṇaṃ hoti. Taddiguṇaṃ bhoganti kiccakaraṇīye uppanne sahāyaṃ attano santikaṃ āgataṃ disvā vadati ‘‘kasmā āgatosī’’ti? Rājakule kammaṃ atthīti. Kiṃ laddhuṃ vaṭṭatīti? Eko kahāpaṇoti. ‘‘Nagare kammaṃ nāma na ekakahāpaṇena nipphajjati, dve gaṇhāhī’’ti evaṃ yattakaṃ vadati, tato diguṇaṃ deti.

261. Bảo vệ bạn khi bạn bị xao lãng (say rượu): Khi nhìn thấy bạn say rượu và đang nằm ngủ ở giữa làng, hay ở cổng làng, hoặc ở bên vệ đường, (người bạn thân hữu chí tình) nghĩ rằng: ‘Bạn mình ta nằm ngủ như thế này, bất cứ ai cũng có thể lấy trộm quần áo trong và áo choàng của cậu ấy’ (người ấy) liền ngồi bên cạnh bạn cho đến khi bạn tỉnh dậy, rồi mới đưa bạn về nhà. Bảo vệ tài sản của bạn khi bạn bị xao lãng (say rượu): Khi bạn đi vắng hoặc đã uống đến say mềm, nhà cửa không ai trông coi– “bất cứ ai cũng có thể lẻn vào lấy đi bất kỳ thứ gì,” người ấy liền vào nhà để canh giữ tài sản cho bạn. Là nơi nương tựa của bạn khi bạn bị hoảng sợ: Khi có nỗi sợ hãi nào đó khởi lên, (bạn thân hữu chí tình) liền trấn an: “Đừng sợ! Khi vẫn còn có một người bạn như ta ở đây, cậu còn sợ điều gì nữa?” (người ấy) đã giúp bạn xua tan nỗi sợ đó, (và) trở thành nơi nương tựa vững chắc. Giúp cho của cải gấp hai lần (so với nhu cầu): Khi có công việc cần làm sanh khởi, (người bạn thân hữu chí tình) khi thấy bạn đến tư xá, liền hỏi: “Vì sao bạn tới đây?” – Bạn đáp: ‘Tôi có việc trong hoàng tộc’. – Bạn thân hữu chí tình: Bạn cần được điều gì? – Xin một kahāpaṇa. – Thông thường, công việc trong thành không thể hoàn thành chỉ với một kahāpaṇa. Bạn hãy nhận lấy hai kahāpaṇa. Người ấy đã cho bạn gấp đôi số tiền bạn yêu cầu.”

262. Guyhamassa ācikkhatīti attano guyhaṃ nigūhituṃ yuttakathaṃ aññassa akathetvā tasseva ācikkhati. Guyhamassa parigūhatīti tena kathitaṃ guyhaṃ yathā añño na jānāti, evaṃ rakkhati. Āpadāsu na vijahatīti uppanne bhaye na pariccajati. Jīvitampissa atthāyāti attano jīvitampi tassa sahāyassa atthāya pariccattameva hoti, attano jīvitaṃ agaṇetvāpi tassa kammaṃ karotiyeva.

262. Nói ra điều bí mật (của mình) cho bạn: Không nói những điều bí mật của mình cho người khác, mà chỉ kể cho bạn mà thôi. Giấu kín điều bí mật cho bạn: Người đồng vui đồng khổ giữ kín điều bí mật mà bạn đã kể, không để người khác biết. Không bỏ rơi bạn khi gặp hoạn nạn: người đồng vui đồng khổ sẽ không bỏ mặt bạn khi nguy hiểm xảy ra. Sẵn sàng hy sinh mạng sống của bản thân vì lợi ích của bạn: Ngay cả mạng sống của bản thân cũng được buông bỏ vì lợi ích của người bạn ấy, người đồng vui đồng khổ này không màng đến mạng sống của mình, mà thực hiện công việc đó cho bạn.

263. Pāpā nivāretīti amhesu passantesu passantesu tvaṃ evaṃ kātuṃ na labhasi, pañca verāni dasa akusalakammapathe mā karohīti nivāreti. Kalyāṇe nivesetīti kalyāṇakamme tīsu saraṇesu pañcasīlesu dasakusalakammapathesu vattassu, dānaṃ dehi puññaṃ karohi dhammaṃ suṇāhīti evaṃ kalyāṇe niyojeti. Assutaṃ sāvetīti assutapubbaṃ sukhumaṃ nipuṇaṃ kāraṇaṃ sāveti. Saggassa magganti idaṃ kammaṃ katvā sagge nibbattantīti evaṃ saggassa maggaṃ ācikkhati.

263. Ngăn chặn làm điều ác: Người khuyên bảo điều lợi ích (sẽ) ngăn chặn rằng: Khi tôi đang nhìn thấy, cậu không được làm như thế, chớ gây ra năm sự thù nghịch, (và) mười đường lối tạo nghiệp bất thiện! Khuyến khích làm điều lành: Người khuyên bảo điều lợi ích khuyến khích làm điều lành như vầy– “Cậu hãy thực hành các nghiệp lành, quy y Tam Bảo, thọ trì năm giới, và thực hành mười đường lối tạo nghiệp thiện, hãy bố thí, hãy tạo phước, và hãy lắng nghe pháp. Nói cho nghe điều chưa từng nghe: Nói cho nghe điều chưa từng được nghe trước đây về nhân quả tinh tế, làm cho thông minh. Nói ra đạo lộ đưa đến cõi Trời: Người khuyên bảo điều lợi ích sẽ chỉ dẫn đạo lộ đưa đến cõi Trời như vầy: “Sau thực hiện nghiệp này được hóa sanh vào cõi Trời.”

264. Abhavenassa na nandatīti tassa abhavena avuḍḍhiyā puttadārassa vā parijanassa vā tathārūpaṃ pārijuññaṃ disvā vā sutvā vā na nandati, anattamano hoti. Bhavenāti vuḍḍhiyā tathārūpassa sampattiṃ vā issariyappaṭilābhaṃ vā disvā vā sutvā vā nandati, attamano hoti. Avaṇṇaṃ bhaṇamānaṃ nivāretīti ‘‘asuko virūpo na pāsādiko dujjātiko dussīlo’’ti vā vutte ‘‘evaṃ mā bhaṇi, rūpavā ca so pāsādiko ca sujāto ca sīlasampanno cā’’tiādīhi vacanehi paraṃ attano sahāyassa avaṇṇaṃ bhaṇamānaṃ nivāreti. Vaṇṇaṃ bhaṇamānaṃ pasaṃsatīti ‘‘asuko rūpavā pāsādiko sujāto sīlasampanno’’ti vutte ‘‘aho suṭṭhu vadasi, subhāsitaṃ tayā, evametaṃ, esa puriso rūpavā pāsādiko sujāto sīlasampanno’’ti evaṃ attano sahāyakassa paraṃ vaṇṇaṃ bhaṇamānaṃ pasaṃsati.

264. Không vui với sự không hưng thịnh của bạn: Người bạn có lòng thương tưởng, sau khi nhìn thấy hoặc sau khi nghe đến sự mất mát như thế của vợ con hoặc tùy tùng– do sự suy sụp, tức là do sự không hưng thịnh của người bạn ấy thì không vui lòng, không hài lòng. Với sự hưng thịnh: Người bạn có lòng thương tưởng, sau khi thấy hoặc sau khi nghe về sự sung túc của mùa màng, v.v., hoặc việc đạt được quyền lực, do sự hưng thịnh như thế của người bạn ấy– thì cảm thấy vui mừng và hài lòng. Ngăn cản người đang nói xấu về bạn mình: Khi có người nói rằng– “người kia có vóc dáng xấu, không dễ mến, có xuất thân thấp kém, hoặc là người có giới tồi,” người bạn có lòng thương tưởng, sẽ ngăn cản người đã chê bai bạn mình bằng những lời như vầy: “Anh đừng nói như vậy chứ! Cậu ta có vóc dáng dáng đẹp, dễ mến, có xuất thân tốt và đầy đủ giới hạnh.” Khen ngợi người đang nói tốt về bạn mình: Khi có người nói rằng– “người kia có vóc dáng xinh đẹp, dễ mến, có xuất thân tốt, đầy đủ giới hạnh,” người bạn có lòng thương tưởng sẽ khen ngợi những người đã nói lời khen ngợi bạn của mình như vầy: “Ôi, anh thật khéo nói! Lời nói của anh thật khéo léo. Chàng trai này có vóc dáng xinh đẹp, dễ mến, có xuất thân tốt, và đầy đủ giới hạnh.”

265.Jalaṃ aggīva bhāsatīti rattiṃ pabbatamatthake jalamāno aggi viya virocati.

265. (Bậc sáng suốt đầy đủ giới) sáng chói tựa như ngọn lửa đang cháy rực: Chói sáng tựa như ngọn lửa chiếu sáng trên đỉnh núi vào ban đêm.

Bhoge saṃharamānassāti attānampi parampi apīḷetvā dhammena samena bhoge sampiṇḍentassa rāsiṃ karontassa. Bhamarasseva irīyatoti yathā bhamaro pupphānaṃ vaṇṇagandhaṃ apothayaṃ tuṇḍenapi pakkhehipi rasaṃ āharitvā anupubbena cakkappamāṇaṃ madhupaṭalaṃ karoti, evaṃ anupubbena mahantaṃ bhogarāsiṃ karontassa. Bhogā sannicayaṃ yantīti tassa bhogā nicayaṃ gacchanti. Kathaṃ? Anupubbena upacikāhi saṃvaḍḍhiyamāno vammiko viya. Tenāha ‘‘vammikovupacīyatī’’ti. Yathā vammiko upaciyati, evaṃ nicayaṃ yantīti attho.

Người đang gom góp các của cải: Khi một người sống không tự làm khổ mình hay người khác, đang gom góp các của cải hợp pháp, chân chính, tức là làm (tích lũy) thành đống. Như ong làm tổ: Giống như con ong không làm hại sắc và hương của các loài hoa, đã mang lại phấn hoa bằng cái vòi, hoặc bằng đôi cánh, rồi từ từ tạo thành tổ ong có kích thước bằng bánh xe; cũng vậy, người đang từng bước tạo ra của cải lớn. Các của cải đi đến sự tích lũy cho người ấy: Các của cải đi đến sự gia tăng cho người ấy. Như thế nào? Giống như gò mối được các con mối vun bồi lên dần dần. Vì vậy, ngài mới nói rằng: “Như gò mối được các con mối vun bồi.” Giải thích rằng: Các của cải đi đến sự tích lũy, như gò mối được các con mối vun bồi.

Samāhatvāti samāharitvā. Alamatthoti yuttasabhāvo samattho vā pariyattarūpo gharāvāsaṃ saṇṭhāpetuṃ.

Sau khi đã thu thập: Sau khi đã thu gom. Có đủ khả năng: Người gia chủ có trạng thái phù hợp, hoặc là người có khả năng, hoặc là người mong muốn duy trì đời sống tại gia.

Idāni yathā vā gharāvāso saṇṭhapetabbo, tathā ovadanto catudhā vibhaje bhogetiādimāha. Tattha sa ve mittāni ganthatīti so evaṃ vibhajanto mittāni ganthati nāma abhejjamānāni ṭhapeti. Yassa hi bhogā santi, so eva mitte ṭhapetuṃ sakkoti, na itaro.

Bây giờ, đời sống tại gia nên được thiết lập như thế nào, thì ban bố lời giáo huấn thế ấy, nên Ngài mới thuyết rằng: Người tại gia nên chia các của cải thành bốn phần, v.v. Ở đấy, vị ấy thực sự kết nối các bạn hữu: Khi người tại gia chia tài sản như vậy, được gọi là ‘sự kết nối các bạn hữu’, tức là duy trì sự không chia rẽ. Người có tài sản sẽ có khả năng liên kết với bạn bè; ngoài ra thì không thể.

Ekenabhoge bhuñjeyyāti ekena koṭṭhāsena bhoge bhuñjeyya. Dvīhi kammaṃ payojayeti dvīhi koṭṭhāsehi kasivāṇijjādikammaṃ payojeyya. Catutthañca nidhāpeyyāti catutthaṃ koṭṭhāsaṃ nidhāpetvā ṭhapeyya. Āpadāsu bhavissatīti kulānañhi na sabbakālaṃ ekasadisaṃ vattati, kadāci rājādivasena āpadāpi uppajjanti, tasmā evaṃ āpadāsu uppannāsu bhavissatīti ‘‘ekaṃ koṭṭhāsaṃ nidhāpeyyā’’ti āha. Imesu pana catūsu koṭṭhāsesu katarakoṭṭhāsaṃ gahetvā kusalaṃ kātabbanti? ‘‘Bhoge bhuñjeyyā’’ti vuttakoṭṭhāsaṃ. Tato gaṇhitvā bhikkhūnampi kapaṇaddhikādīnampi dātabbaṃ, pesakāranhāpitaādīnampi vetanaṃ dātabbaṃ.

Vị ấy thọ hưởng một phần của cải: (Vị ấy) có thể thọ hưởng tài sản với một phần. Đầu tư công việc với hài phần: Nên đầu tư vào các công việc như nông nghiệp, và buôn bán, v.v, với hai phần. Và để giành phần thứ tư: Hãy để giành phần thứ tư để tiết kiệm. Nó sẽ được dùng vào những lúc nguy khốn: Bởi vì công việc trong các gia đình không phải lúc nào cũng vận hành thuận lợi ở mọi thời. Đôi khi, ngay cả nguy hiểm cũng có thể phát sanh do quyền lực của vua chúa, v.v. Vì vậy, tài sản sẽ có để dùng trong những lúc nguy khốn như thế. Do đó, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Người tại gia nên cất giữ một phần (tài sản).” Vậy trong bốn phần tài sản này, nên lấy phần nào để làm việc thiện? Phần đã được nói rằng– “Thọ hưởng một phần của cải”. Sau khi trích từ phần đó nên cúng dường đến các vị Tỳ khưu, những người nghèo khổ và người ăn xin, v.v., và nên cho đến những người thợ dệt, thợ cạo, v.v.

Giải thích sự che chở sáu hướng

266. Iti bhagavā ettakena kathāmaggena evaṃ gahapatiputtassa ariyasāvako catūhi kāraṇehi akusalaṃ pahāya chahi kāraṇehi bhogānaṃ apāyamukhaṃ vajjetvā soḷasa mittāni sevanto gharāvāsaṃ saṇṭhapetvā dārabharaṇaṃ karonto dhammikena ājīvena jīvati, devamanussānañca antare aggikkhandho viya virocatīti vajjanīyadhammavajjanatthaṃ sevitabbadhammasevanatthañca ovādaṃ datvā idāni namassitabbā cha disā dassento kathañca gahapatiputtātiādimāha.

266. Chỉ bấy nhiêu với bài giảng về đạo lộ này, đức Thế Tôn đã ban lời giáo huấn nhằm mục đích xa lánh các pháp nên được xa tránh và nhằm mục đích thân cận các pháp nên được thân cận rằng: “Này cậu gia chủ, vị Thánh đệ tử dứt bỏ ác nghiệp với với bốn lý do, tránh xa cửa ngõ dẫn đến sự tiêu hoại tài sản với sáu trường hợp, kết giao với mười sáu loại bạn chí tình, duy trì đời sống gia đình, thực hiện việc nuôi dưỡng vợ con, sống bằng nghề nghiệp chân chính, – sẽ sáng chói tựa như ngọn lửa giữa thế giới loài người và thế giới chư thiên. Bây giờ, khi chỉ ra sáu hướng đáng được lễ bái, Ngài đã thuyết rằng: “Này cậu gia chủ, vị Thánh đệ tử có sự che chở sáu hướng là như thế nào?

Tattha chaddisāpaṭicchādīti yathā chahi disāhi āgamanabhayaṃ na āgacchati, khemaṃ hoti nibbhayaṃ evaṃ viharanto ‘‘chaddisāpaṭicchādī’’ti vuccati. ‘‘Puratthimā disā mātāpitaro veditabbā’’tiādīsu mātāpitaro pubbupakāritāya puratthimā disāti veditabbā. Ācariyā dakkhiṇeyyatāya dakkhiṇā disāti. Puttadārā piṭṭhito anubandhanavasena pacchimā disāti. Mittāmaccā yasmā so mittāmacce nissāya te te dukkhavisese uttarati, tasmā uttarā disāti. Dāsakammakarā pādamūle patiṭṭhānavasena heṭṭhimā disāti. Samaṇabrāhmaṇā guṇehi upari ṭhitabhāvena uparimā disāti veditabbā.

Ở đấy, vị Thánh đệ tử có sự che chở sáu hướng: Trong khi sống như vậy, việc đi đến nỗi sợ hãi từ sáu hướng không xảy đến, là sự an toàn, tránh xa sự sợ hãi; nên Ngài mới nói rằng– “Vị Thánh đệ tử là vị che chở cả sáu hướng”. “Hướng Đông nên được nhận biết là mẹ và cha, v.v,” Nên được nhận biết rằng: mẹ và cha là hướng Đông, bởi vì ‘mẹ và cha’ là người có ơn đầu tiên. Thầy dạy học là hướng Nam bởi vì ‘thầy dạy học’ là người xứng đáng nhận lễ vật cúng dường. Vợ con là hướng Tây về phương diện đi theo sau. Bạn bè và thân hữu (là hướng Bắc): Bởi vì người con trai của gia đình danh giá nhờ bạn bè và thân hữu (mà) vượt qua được những khó khăn trắc trở ấy; do đó (bạn bè và thân hữu) được gọi là hướng Bắc. Người nô bộc và người làm công là hướng dưới về phương diện được đặt ở xác lòng bàn chân (phục vụ). Các Sa-môn và Bà-la-môn là hướng trên bởi bản thể đã được thiết lập ở phía trên do nhờ các đức hạnh.

267. Bhato ne bharissāmīti ahaṃ mātāpitūhi thaññaṃ pāyetvā hatthapāde vaḍḍhetvā mukhena siṅghāṇikaṃ apanetvā nahāpetvā maṇḍetvā bhato bharito jaggito, svāhaṃ ajja te mahallake pādadhovananhāpanayāgubhattadānādīhi bharissāmi.

267. Được nuôi dưỡng, tôi sẽ phụng dưỡng họ: Tôi đã được cha mẹ cho uống sữa, giúp tay chân phát triển, hút nước mũi bằng miệng, đã tắm rửa, đã trang điểm, đã nuôi nấng và chăm sóc. Vì vậy, tôi sẽ phụng dưỡng cha mẹ trong lúc già yếu bằng việc rửa chân, tắm rửa, dâng cháo và cơm, v.v.

Kiccaṃ nesaṃ karissāmīti attano kammaṃ ṭhapetvā mātāpitūnaṃ rājakulādīsu uppannaṃ kiccaṃ gantvā karissāmi. Kulavaṃsaṃ saṇṭhapessāmīti mātāpitūnaṃ santakaṃ khettavatthuhiraññasuvaṇṇādiṃ avināsetvā rakkhantopi kulavaṃsaṃ saṇṭhapeti nāma. Mātāpitaro adhammikavaṃsato hāretvā dhammikavaṃse ṭhapentopi, kulavaṃsena āgatāni salākabhattādīni anupacchinditvā pavattentopi kulavaṃsaṃ saṇṭhapeti nāma. Idaṃ sandhāya vuttaṃ – ‘‘kulavaṃsaṃ saṇṭhapessāmī’’ti.

Tôi sẽ làm bổn phận đối với họ: Tôi sẽ tạm gác lại công việc của bản thân để làm những việc đã phát sanh trong hoàng tộc, v.v., cho cha mẹ. Tôi sẽ gìn giữ truyền thống gia đình: Con cái không để ruộng đất, của cải, vàng bạc, v.v., của cha mẹ bị thất thoát, ngay cả khi bảo quản và duy trì chúng cũng được gọi là ‘duy trì truyền thống gia đình’. Con cái khiến cho cha mẹ loại bỏ gia tộc gắn liền với điều phi pháp, được an trú vào gia tộc gắn liền với điều đúng pháp. Không cắt đứt những truyền thống đang tiếp diễn như việc phân phối bữa ăn theo thẻ đã có từ đời cha ông (truyền thống gia đình), mà còn duy trì chúng, đó cũng được gọi là duy trì truyền thống gia đình. Ngài đề cập đến điều này mới nói rằng: “Tôi sẽ duy trì truyền thống gia đình.”

Dāyajjaṃ paṭipajjāmīti mātāpitaro attano ovāde avattamāne micchāpaṭipanne dārake vinicchayaṃ patvā aputte karonti, te dāyajjārahā na honti. Ovāde vattamāne pana kulasantakassa sāmike karonti, ahaṃ evaṃ vattissāmīti adhippāyena ‘‘dāyajjaṃ paṭipajjāmī’’ti vuttaṃ.

Tôi sẽ thực hành để xứng đáng việc thừa kế: Cha mẹ khi đã đến tòa án có thể tuyên bố rằng đứa con không tuân theo lời dạy của họ, thực hành sai trái, chúng không còn được xem là con, và cũng không xứng đáng để nhận quyền thừa kế tài sản. Tuy nhiên, cha mẹ sẽ cho phép đứa con biết nghe lời trở thành người thừa kế, chủ sở hữu tài sản trong gia đình. Vì vậy, Ngài đã nói: “Tôi sẽ thực hành để xứng đáng việc thừa kế” với ý muốn rằng– ‘Tôi sẽ thực hành như vậy’.

Dakkhiṇaṃ anuppadassāmīti tesaṃ pattidānaṃ katvā tatiyadivasato paṭṭhāya dānaṃ anuppadassāmi. Pāpā nivārentīti pāṇātipātādīnaṃ diṭṭhadhammikasamparāyikaṃ ādīnavaṃ vatvā, ‘‘tāta, mā evarūpaṃ karī’’ti nivārenti, katampi garahanti. Kalyāṇe nivesentīti anāthapiṇḍiko viya lañjaṃ datvāpi sīlasamādānādīsu nivesenti. Sippaṃ sikkhāpentīti attano ovāde ṭhitabhāvaṃ ñatvā vaṃsānugataṃ muddāgaṇanādisippaṃ sikkhāpenti. Patirūpenāti kulasīlarūpādīhi anurūpena.

Khi cha mẹ qua đời, tôi sẽ cúng dường hồi hướng phước báu đến họ: Tôi sẽ thực hành bố thí, hồi hướng phần phước báu đến cha mẹ, và sẽ tăng cường việc bố thí để hồi hướng kể từ ngày thứ ba (sau khi họ mất). Cha mẹ ngăn chặn con cái làm điều ác: Cha mẹ nói đến các điều bất lợi vận hành ở đời này và đời sau của việc sát sanh, v.v., rồi ngăn cản chúng như sau: “Này con yêu, con không nên tạo các nghiệp có hình thức như thế!” Đồng thời, cũng cần khiển trách nếu các con đã vi phạm. Cha mẹ khuyến khích con cái làm điều lành: Cha mẹ nên trả thù lao (ban thưởng) như Trưởng giả Anāthapiṇḍika, để cho con cái được an trú trong việc thọ trì giới, v.v. Cho con học tập nghề nghiệp (chính đáng): Sau khi biết được bản thể con cái đã vững trú trong lời dạy của mình, thì cho chúng học tập các nghề nghiệp như tính toán cấp cao, v.v., đi theo truyền thống gia đình. Cho con cưới người vợ phù hợp: (cha mẹ sẽ chọn người vợ) phù hợp với gia thế, giới hạnh và dung mạo, v.v. (cho con cái).

Samaye dāyajjaṃ niyyādentīti samaye dhanaṃ denti. Tattha niccasamayo kālasamayoti dve samayā. Niccasamaye denti nāma ‘‘uṭṭhāya samuṭṭhāya imaṃ gaṇhitabbaṃ gaṇha, ayaṃ te paribbayo hotu, iminā kusalaṃ karohī’’ti denti. Kālasamaye denti nāma sikhāṭhapanaāvāhavivāhādisamaye denti. Apica pacchime kāle maraṇamañce nipannassa ‘‘iminā kusalaṃ karohī’’ti dentāpi samaye denti nāma.

Trao lại của cải thừa tự đúng thời điểm: Cho của cải hợp thời. Ở đấy, có hai thời điểm là thời điểm cố định thời điểm đặc biệt. Cha mẹ cho của cải bằng lời nói rằng: “Con hãy nhanh chóng đứng dậy nhận lấy những thứ đáng được nhận này, đây sẽ là khoản chi tiêu của con, con hãy tạo phước với khoản chi tiêu này,” như vậy được gọi là cho vào thời điểm cố định. Cha mẹ cho của cải vào dịp cắt búi tóc, lễ kết hôn, v.v., được gọi là cho vào thời điểm đặc biệt. Mặt khác, cha mẹ thậm chí cho (tài sản) với lời nói rằng: “Con hãy tạo phước bằng số tài sản này, cho đứa con đang nằm trên giường bệnh vào giờ phút cuối cùng,” đó cũng được gọi là cho đúng thời điểm.

Paṭicchannā hotīti yaṃ puratthimadisato bhayaṃ āgaccheyya, yathā taṃ nāgacchati, evaṃ pihitā hoti. Sace hi puttā vippaṭipannā, assu, mātāpitaro daharakālato paṭṭhāya jagganādīhi sammā paṭipannā, ete dārakā, mātāpitūnaṃ appatirūpāti etaṃ bhayaṃ āgaccheyya. Puttā sammā paṭipannā, mātāpitaro vippaṭipannā, mātāpitaro puttānaṃ nānurūpāti etaṃ bhayaṃ āgaccheyya. Ubhosu vippaṭipannesu duvidhampi taṃ bhayaṃ hoti. Sammā paṭipannesu sabbaṃ na hoti. Tena vuttaṃ – ‘‘paṭicchannā hoti khemā appaṭibhayā’’ti.

(Hướng Đông ấy của người này) là được che chở. Nỗi sợ hãi có thể xảy đến từ hướng Đông nào, thì (sẽ) không xảy đến ở hướng đó, như vậy (hướng Đông) là đã được che chở. Giả sử con cái thực hành sai trái, còn cha mẹ thực hành đúng đắn trong việc nuôi dưỡng, v.v., (con cái) từ khi chúng còn nhỏ, thì những đứa con đó cũng không xứng đáng với (công ơn) của cha mẹ, (do đó), nỗi sợ hãi đó có thể xảy đến. Ngược lại, nếu con cái thực hành đúng đắn, nhưng cha mẹ lại thực hành sai trái, thì cha mẹ cũng không xứng đáng với (sự phụng dưỡng) của con cái, (do đó), nỗi sợ hãi này có thể xảy đến. Nếu cả hai đều thực hành sai trái, thì nỗi sợ hãi có đến cả hai. Chỉ khi cả hai cùng thực hành đúng đắn, thì nỗi sợ hãi không có cho tất cả. Vì lý do đó, Ngài mới nói rằng– “Hướng Đông của người ấy là được che chở, an toàn, không có hoảng sợ.”

Evañca pana vatvā bhagavā siṅgālakaṃ etadavoca – ‘‘na kho te, gahapatiputta, pitā lokasammataṃ puratthimaṃ disaṃ namassāpeti. Mātāpitaro pana puratthimadisāsadise katvā namassāpeti. Ayañhi te pitarā puratthimā disā akkhātā, no aññā’’ti.

Và hơn nữa, sau khi nói như vậy, Ngài đã nói với cậu gia chủ Siṅgāla điều này: “Này cậu gia chủ, cha của cậu không bảo cậu lễ bái hướng Đông được đồng tình bởi thế gian. Mà cha của cậu đã đặt ‘cha mẹ’ tương đương với hướng Đông rồi bảo con lễ bái. Thật vậy, Cha của cậu đã nói về hướng Đông này, chứ không nói đến hướng nào khác.”

268. Uṭṭhānenāti āsanā uṭṭhānena. Antevāsikena hi ācariyaṃ dūratova āgacchantaṃ disvā āsanā vuṭṭhāya paccuggamanaṃ katvā hatthato bhaṇḍakaṃ gahetvā āsanaṃ paññapetvā nisīdāpetvā bījanapādadhovanapādamakkhanāni kātabbāni. Taṃ sandhāya vuttaṃ ‘‘uṭṭhānenā’’ti. Upaṭṭhānenāti divasassa tikkhattuṃ upaṭṭhānagamanena. Sippuggahaṇakāle pana avassakameva gantabbaṃ hoti. Sussūsāyāti saddahitvā savanena. Asaddahitvā suṇanto hi visesaṃ nādhigacchati. Pāricariyāyāti avasesakhuddakapāricariyāya. Antevāsikena hi ācariyassa pātova vuṭṭhāya mukhodakadantakaṭṭhaṃ datvā bhattakiccakālepi pānīyaṃ gahetvā paccupaṭṭhānādīni katvā vanditvā gantabbaṃ. Kiliṭṭhavatthādīni dhovitabbāni, sāyaṃ nahānodakaṃ paccupaṭṭhapetabbaṃ. Aphāsukāle upaṭṭhātabbaṃ. Pabbajitenapi sabbaṃ antevāsikavattaṃ kātabbaṃ. Idaṃ sandhāya vuttaṃ – ‘‘pāricariyāyā’’ti. Sakkaccaṃ sippapaṭiggahaṇenāti sakkaccaṃ paṭiggahaṇaṃ nāma thokaṃ gahetvā bahuvāre sajjhāyakaraṇaṃ, ekapadampi visuddhameva gahetabbaṃ.

268. Với sự đứng lên: Với sự đứng lên từ chỗ ngồi. Thực vậy, khi học trò nhìn thấy thầy dạy học đang đi đến từ đằng xa, cần phải đứng dậy rời khỏi chỗ ngồi để tiếp đón, sau khi nhận lấy gói đồ đạc từ tay, trải chỗ ngồi rồi mời thầy ngồi xuống, nên thực hiện các công việc như quạt, rửa chân, xoa bóp chân, v.v. Ngài nói đề cập đến điều này: “Với sự đứng lên”. Với sự thân cận: Với sự đi đến hầu cận (thầy) mỗi ngày ba lần. Nhưng nhất định là nên đi đến vào giờ học nghề. Với sự mong muốn lắng nghe: Với sự mong muốn lắng nghe. Thật vậy, trong khi không mong muốn lắng nghe thì không thể đạt được sự thù thắng. Với sự hầu hạ: Với sự chăm sóc những việc nhỏ nhặt, không quá sức. Thật vậy, người học trò nên dậy sớm, chuẩn bị nước súc miệng, bàn chải đánh răng; ngay cả trong bữa ăn cũng nên mang nước uống đến cho (thầy) rồi làm việc hầu hạ; sau khi làm phận sự về thọ thực thì nên đảnh lễ trước khi trở về; nên giặt giũ y phục bẩn; nên chuẩn bị nước tắm vào buổi chiều; nên chăm sóc khi thầy không khỏe. Ngay cả bậc xuất gia cũng nên thực hành mọi bổn phận của người đệ tử. Ngài nói đề cập đến điều này– “Với sự hầu hạ”. Với việc tiếp nhận học nghệ một cách nghiêm chỉnh: Sau khi nắm lấy một chút ít (kiến thức), rồi ôn luyện nhiều lần được gọi là học tập một cách nghiêm chỉnh; dù chỉ một câu cũng nên nắm lấy (ý nghĩa) một cách thật chuẩn xác.

Suvinītaṃ vinentīti ‘‘evaṃ te nisīditabbaṃ, evaṃ ṭhātabbaṃ, evaṃ khāditabbaṃ, evaṃ bhuñjitabbaṃ, pāpamittā vajjetabbā, kalyāṇamittā sevitabbā’’ti evaṃ ācāraṃ sikkhāpenti vinenti. Suggahitaṃ gāhāpentīti yathā suggahitaṃ gaṇhāti, evaṃ atthañca byañjanañca sodhetvā payogaṃ dassetvā gaṇhāpenti. Mittāmaccesu paṭiyādentīti ‘‘ayaṃ amhākaṃ antevāsiko byatto bahussuto mayā samasamo, etaṃ sallakkheyyāthā’’ti evaṃ guṇaṃ kathetvā mittāmaccesu patiṭṭhapenti.

Huấn luyện điều đã khéo được huấn luyện: Các vị thầy huấn luyện học trò, tức là dạy dỗ cách ứng xử như vầy: “Con nên ngồi như thế này, nên đứng như thế này, nên nhai như thế này, nên ăn uống như thế này, nên tránh xa bạn bè xấu, và nên thân cận với những người bạn lành.” Bảo nắm giữ điều đã khéo được nắm giữ: Sau khi sửa chữa đúng về mặt ý nghĩa và văn tự, đã làm sáng tỏ đoạn văn rồi dạy cho học trò cách nắm giữ theo cách đã khéo được nắm giữ. Khen ngợi với bạn bè và thân hữu: Các vị thầy nói đến ưu điểm của học trò như vầy: “Người học trò này của tôi là bậc đa văn, tương đương với tôi, Các vị hãy nên chú ý đến người này,” làm cho người học trò được nổi bật giữa bạn bè và thân hữu.

Disāsu parittāṇaṃ karontīti sippasikkhāpanenevassa sabbadisāsu rakkhaṃ karonti. Uggahitasippo hi yaṃ yaṃ disaṃ gantvā sippaṃ dasseti, tattha tatthassa lābhasakkāro uppajjati. So ācariyena kato nāma hoti, guṇaṃ kathentopissa mahājano ācariyapāde dhovitvā vasitaantevāsiko vata ayanti paṭhamaṃ ācariyasseva guṇaṃ kathenti, brahmalokappamāṇopissa lābho uppajjamāno ācariyasantakova hoti.

Thực hiện sự che chở trong các phương hướng: Các vị thầy thực hiện việc bảo vệ học trò ở mọi phương hướng bằng cách cho học nghề. Bởi vì, người đã học nghệ khi đi đến phương nào thể hiện (kỹ năng) nghề nghiệp, thì ở phương đó lợi lộc và sự tôn kinh sanh khởi cho người ấy. Những điều ấy là đã được tạo nên bởi vị thầy, đại chúng, ngay cả khi nói đến ưu điểm của người học trò ấy, chắc chắn sẽ nói đến ưu điểm của vị thầy trước rằng: “Người học trò này của vị ấy là học trò đã từng rửa chân cho thầy.” Lợi lộc trong khi sanh khởi cho người học trò ấy, dù bao la đến tận cõi trời Phạm thiên, thì cũng là thuộc về vị thầy.

Apica yaṃ vijjaṃ parijappitvā gacchantaṃ aṭaviyaṃ corā na passanti, amanussā vā dīghajātiādayo vā na viheṭhenti, taṃ sikkhāpentāpi disāsu parittāṇaṃ karonti. Yaṃ vā so disaṃ gato hoti, tato kaṅkhaṃ uppādetvā attano santikaṃ āgatamanusse ‘‘etissaṃ disāyaṃ amhākaṃ antevāsiko vasati, tassa ca mayhañca imasmiṃ sippe nānākaraṇaṃ natthi, gacchatha tameva pucchathā’’ti evaṃ antevāsikaṃ paggaṇhantāpi tassa tattha lābhasakkāruppattiyā parittāṇaṃ karonti nāma, patiṭṭhaṃ karontīti attho. Sesamettha purimanayeneva yojetabbaṃ.

Mặt khác, các tên cướp trong rừng không nhìn thấy, hoặc các hàng phi nhân, hoặc các loài rắn, v.v., không gây tổn thương đến người học trò nào, trong khi đi đã đọc thầm thần chú; người học trò đó ngay cả đang được các vị thầy chỉ dạy cũng được gọi là thực hiện việc che chở trong các phương hướng.” Các vị thầy thậm chí còn khen ngợi học trò như vầy: “Học trò của chúng tôi hiện đang cư ngụ ở phương hướng này, về mặt nghề nghiệp (kiến thức) thì không có sự khác biệt giữa người học trò đó và chúng tôi. Các vị có thể trực tiếp hỏi chính người ấy.” Khi có người nảy sinh sự nghi ngờ từ phương hướng mà người học trò ấy đã đến, rồi tìm tới vị thầy dạy học, thì việc đó cũng được gọi là thực hiện sự che chở vì lợi lộc và sự tôn kính sanh khởi cho người ấy ở nơi đó. Giải thích thêm rằng: (thầy dạy học) làm cho người ấy trở thành nơi nương tựa. Đoạn còn lại trong vấn đề này nên được kết hợp theo cách thức trước đó.

269. Tatiyadisāvāre sammānanāyāti devamāte tissamāteti evaṃ sambhāvitakathākathanena. Anavamānanāyāti yathā dāsakammakarādayo pothetvā viheṭhetvā kathenti, evaṃ hīḷetvā vimānetvā akathanena. Anaticariyāyāti taṃ atikkamitvā bahi aññāya itthiyā saddhiṃ paricaranto taṃ aticarati nāma, tathā akaraṇena. Issariyavossaggenāti itthiyo hi mahālatāsadisampi ābharaṇaṃ labhitvā bhattaṃ vicāretuṃ alabhamānā kujjhanti, kaṭacchuṃ hatthe ṭhapetvā tava ruciyā karohīti bhattagehe vissaṭṭhe sabbaṃ issariyaṃ vissaṭṭhaṃ nāma hoti, evaṃ karaṇenāti attho. Alaṅkārānuppadānenāti attano vibhavānurūpena alaṅkāradānena. Susaṃvihitakammantāti yāgubhattapacanakālādīni anatikkamitvā tassa tassa sādhukaṃ karaṇena suṭṭhu saṃvihitakammantā. Saṅgahitaparijanāti sammānanādīhi ceva paheṇakapesanādīhi ca saṅgahitaparijanā. Idha parijano nāma sāmikassa ceva attano ca ñātijano. Anaticārinīti sāmikaṃ muñcitvā aññaṃ manasāpi na pattheti. Sambhatanti kasivāṇijjādīni katvā ābhatadhanaṃ. Dakkhāca hotīti yāgubhattasampādanādīsu chekā nipuṇā hoti. Analasāti nikkosajjā. Yathā aññā kusītā nisinnaṭṭhāne nisinnāva honti ṭhitaṭṭhāne ṭhitāva, evaṃ ahutvā vipphāritena cittena sabbakiccāni nipphādeti. Sesamidhāpi purimanayeneva yojetabbaṃ.

269. Ý nghĩa ở hướng thứ ba nên được hiểu như sau— với sự tôn trọng: Với việc nói những lời khen ngợi như vầy rằng: “Mẹ vị thiên, mẹ vị thần”. Với sự không xem thường: Với việc không dùng những lời lẽ miệt thị, khinh thường như thế; giống như mọi người đã đánh đập, hành hạ với những người nô bộc và người làm công rồi nói chuyện. Với việc không ngoại tình: Không bỏ bê vợ con rồi đi chăm sóc người phụ nữ khác bên ngoài thì được gọi là hành vi ngoại tình. (Vậy thì) với việc không làm như vậy (nghĩa là không ngoại tình). Với sự buông bỏ quyền hành và trao hẳn quyền hành: Thật vậy, phụ nữ dù có được những loại trang sức quý giá như đồ trang sức Mahālatā (một loại trang sức rất đẹp và đắt tiền được chế tác bằng vàng), nhưng nếu không được sửa soạn bữa ăn thì họ sẽ tức giận, khi người chồng đặt vá múc thức ăn để vào tay vợ và nói rằng: “Này em, em hãy làm theo ý thích của em, rồi giao hẳn việc bếp núc cho (vợ), đó được gọi là trao toàn bộ quyền hành. Giải thích rằng: với việc làm như thế. Với việc ban tặng đồ trang sức: Với việc trao trang sức phù hợp với tài sản của mình. Là người sắp xếp công việc khéo léo: Người vợ không lơ là trong việc nấu cháo, nấu cơm, v.v., biết cách thu xếp các công việc trong nhà một cách hợp lý, đem lại điều tốt đẹp cho chồng. Thiết đãi tử tế đối với bà con: Thiết đãi tử tế với những người xung quanh bằng sự tôn trọng, v.v., và gửi lời hỏi thăm, v.v. Ở đây, những người xung quanh là bà con thân quyến bên chồng và của mình (họ hàng hai bên) đều được gọi là “những người xung quanh”. Với việc không ngoại tình: Không bỏ mặc chồng để mong muốn người đàn ông khác, ngay cả trong tâm tưởng. Gìn giữ tài sản của chồng: Giữ gìn tài sản mà chồng đã làm ra từ nông nghiệp, buôn bán, v.v., không để thất thoát. Là người khéo léo: Là người khéo léo, tỉ mỉ trong việc chuẩn bị các món ăn như cháo, cơm, thức uống v.v. Không biếng nhác: Không lười biếng. Như những người phụ nữ lười biếng khác, ngồi ì tại chỗ đang ngồi, đứng ì tại chỗ đang đứng; Trái lại, người vợ không phải như thế (tức là người vợ siêng năng), sẽ hoàn thành mọi công việc với tấm lòng rộng lượng. Đoạn còn lại trong vấn đề này nên được kết hợp theo cách thức trước đó.

270. Catutthadisāvāre avisaṃvādanatāyāti yassa yassa nāmaṃ gaṇhāti, taṃ taṃ avisaṃvādetvā idampi amhākaṃ gehe atthi, idampi atthi, gahetvā gacchāhīti evaṃ avisaṃvādetvā dānena. Aparapajā cassa paṭipūjentīti sahāyassa puttadhītaro pajā nāma, tesaṃ pana puttadhītaro ca nattupanattakā ca aparapajā nāma. Te paṭipūjenti keḷāyanti mamāyanti maṅgalakālādīsu tesaṃ maṅgalādīni karonti. Sesamidhāpi purimanayeneva veditabbaṃ.

270. Ý nghĩa ở hướng thứ tư nên được hiểu như sau— Với việc không lường gạt: Với việc không nói sai sự thật về đó, dù với người đã nắm giữ, không cố tình nói sai sự thật rồi bố thí như vầy rằng: ‘Cái này có trong nhà chúng tôi, thậm chí cái này cũng có, bạn hãy nhận lấy đi.’ Trân trọng con cái của người này: Con trai con gái của thân hữu được gọi là ‘con cái’. Còn con trai con gái của những đứa con đó (con của con), tức là cháu nội, cháu cố, được gọi là ‘những con cháu khác’. (Chúng ta) nên trân trọng, niềm nở, và quý mến họ, tổ chức các nghi lễ cầu phúc, v.v., cho họ trong việc thực hiện nghi thức cầu an, v.v. Đoạn còn lại trong vấn đề này nên được kết hợp theo cách thức trước đó.

271. Yathābalaṃ kammantasaṃvidhānenāti daharehi kātabbaṃ mahallakehi, mahallakehi vā kātabbaṃ daharehi, itthīhi kātabbaṃ purisehi, purisehi vā kātabbaṃ itthīhi akāretvā tassa tassa balānurūpeneva kammantasaṃvidhānena. Bhattavetanānuppadānenāti ayaṃ khuddakaputto, ayaṃ ekavihārīti tassa tassa anurūpaṃ sallakkhetvā bhattadānena ceva paribbayadānena ca. Gilānupaṭṭhānenāti aphāsukakāle kammaṃ akāretvā sappāyabhesajjādīni datvā paṭijagganena. Acchariyānaṃ rasānaṃ saṃvibhāgenāti acchariye madhurarase labhitvā sayameva akhāditvā tesampi tato saṃvibhāgakaraṇena. Samaye vossaggenāti niccasamaye ca kālasamaye ca vossajjanena. Niccasamaye vossajjanaṃ nāma sakaladivasaṃ kammaṃ karontā kilamanti. Tasmā yathā na kilamanti, evaṃ velaṃ ñatvā vissajjanaṃ. Kālasamaye vossaggo nāma chaṇanakkhattakīḷādīsu alaṅkāra– bhaṇḍa– khādanīya– bhojanīyādīni datvā vissajjanaṃ. Dinnādāyinoti corikāya kiñci agahetvā sāmikehi dinnasseva ādāyino. Sukatakammakarāti ‘‘kiṃ etassa kammena katena, na mayaṃ kiñci labhāmā’’ti anujjhāyitvā tuṭṭhahadayā yathā taṃ kammaṃ sukataṃ hoti, evaṃ kārakā. Kittivaṇṇaharāti parisamajjhe kathāya sampattāya ‘‘ko amhākaṃ sāmikehi sadiso atthi, mayaṃ attano dāsabhāvampi na jānāma, tesaṃ sāmikabhāvampi na jānāma, evaṃ no anukampantī’’ti guṇakathāhārakā. Sesamidhāpi purimanayeneva yojetabbaṃ.

271. Với sự sắp xếp công việc phù hợp với sức lực: Với sự sắp xếp công việc phù hợp với sức lực của từng người– không giao cho người già những công việc mà người trẻ làm, hoặc không giao cho người trẻ những công việc mà người già làm; không giao cho đàn ông những công việc mà phụ nữ làm, hoặc không giao cho phụ nữ những công việc mà đàn ông làm. Với việc ban phát thức ăn và chi phí sinh hoạt: Với việc xác định nhu cầu của từng cá nhân (rằng): ‘Người này có con nhỏ, người này chỉ sống một mình’, rồi ban phát thức ăn và chi phí sinh hoạt (đến họ). Với sự chăm sóc khi ốm đau: Không ép buộc (họ) làm việc trong thời gian đau ốm, đồng thời, cũng chăm sóc và cung cấp điều kiện về thuốc men để giúp họ mau chóng khỏi bệnh, v.v. Với việc san sẻ các món ăn tuyệt vời: Khi có được những món ăn ngon lạ, không tự mình thưởng thức hết mà chia sẻ cho những người nô bộc và người làm công ấy. Với việc cho nghỉ ngơi đúng thời điểm: Với việc cho nghỉ ngơi vào thời điểm cố định và thời điểm đặc biệt. Những người nô bộc và người làm công luôn làm việc liên tục thường cảm thấy mệt mỏi. Do đó, việc biết thời gian để họ nghỉ ngơi theo cách mà họ không bị kiệt sức được gọi là cho nghỉ ngơi vào thời điểm cố định. Việc cho tặng đồ trang sức, đồ dùng, vật thực loại cứng, vật thực loại mềm, v.v., vào các ngày đại lễ, lễ hội truyền thống, và các dịp vui chơi, v.v., rồi cho họ nghỉ ngơi được gọi là cho nghỉ ngơi vào thời điểm đặc biệt. Chỉ lấy vật đã được cho: không cầm lấy bất cứ vật gì như thể kẻ trộm , mà chỉ nhận lấy vật đã được cho. Là những nhân công làm tốt công việc: Không ca thán kiểu “Tại sao chúng tôi phải làm công cho hắn? Chúng tôi không nhận được gì cả!” (Thay vào đó), với tâm vui vẻ, là người chu toàn nhiệm vụ; (những người nhân công) đã làm như thế. Truyền di danh tiếng và phẩm chất tốt đẹp của người chủ: Trong lúc trò chuyện giữa tập thể, (họ) truyền di danh tiếng và phẩm chất tốt đẹp của người chủ rằng: “Không có ai giống như chủ nhân của chúng tôi. Chúng tôi thậm chí không biết bản thể nô bộc của chính mình, mà cũng không biết bản thể chủ nhân của các vị ấy. Họ giúp đỡ chúng tôi như vậy.” Đoạn còn lại trong vấn đề này nên được kết hợp theo cách thức trước đó.

272. Mettena kāyakammenātiādīsu mettacittaṃ paccupaṭṭhapetvā katāni kāyakammādīni mettāni nāma vuccanti. Tattha bhikkhū nimantessāmīti vihāragamanaṃ , dhamakaraṇaṃ gahetvā udakaparissāvanaṃ, piṭṭhiparikammapādaparikammādikaraṇañca mettaṃ kāyakammaṃ nāma. Bhikkhū piṇḍāya paviṭṭhe disvā ‘‘sakkaccaṃ yāguṃ detha, bhattaṃ dethā’’tiādivacanañceva, sādhukāraṃ datvā dhammasavanañca sakkaccaṃ paṭisanthārakaraṇādīni ca mettaṃ vacīkammaṃ nāma. ‘‘Amhākaṃ kulūpakattherā averā hontu abyāpajjā’’ti evaṃ cintanaṃ mettaṃ manokammaṃ nāma. Anāvaṭadvāratāyāti apihitadvāratāya. Tattha sabbadvārāni vivaritvāpi sīlavantānaṃ adāyako akārako pihitadvāroyeva. Sabbadvārāni pana pidahitvāpi tesaṃ dāyako kārako vivaṭadvāroyeva. Iti sīlavantesu gehadvāraṃ āgatesu santaṃyeva natthīti avatvā dātabbaṃ. Evaṃ anāvaṭadvāratā nāma hoti.

272. Ngài nói rằng với tâm từ thông qua thân nghiệp (mà người con trai của gia đình danh giá) thực hiện sau khi thiết lập tâm từ trong câu: “Với thân nghiệp từ ái, v.v. Trong câu đó, việc đi đến trú xá với ý nghĩ ‘tôi sẽ thỉnh các vị Tỳ khưu,’ việc mang theo bình lọc nước và thực hiện các công việc như xoa bóp lưng, xoa bóp chân, v.v., được gọi là tâm từ thông qua thân nghiệp. Việc nhìn thấy các vị Tỳ khưu đi vào làng để khất thực, rồi nói những lời như sau: “Hãy cúng dường cháo, hãy cúng dường thức ăn với lòng tôn kính”, việc tán thán, việc lắng nghe Giáo Pháp, và việc thực hiện sự tiếp rước v.v., với lòng tôn kính được gọi là tâm từ thông qua khẩu nghiệp. Việc suy nghĩ như vầy: “Nguyên cho vị Trưởng lão thường tới lui với gia đình của chúng ta không thù hận, không thù oán,” được gọi là tâm từ thông qua ý nghiệp. Với trạng thái cánh cửa không đóng lại: Với trạng thái người không đóng lại cánh cửa. Ở đấy, người con trai của gia đình danh giá dù mở tất cả các cánh cửa nhưng không bố thí, không tiếp rước các bậc có giới hạnh thì vẫn gọi là người đang đóng cánh cửa. Ngược lại, người con trai của gia đình danh giá dù đóng tất cả các cánh cửa nhưng bố thí, tiếp rước các bậc có giới hạnh thì vẫn gọi là người đang mở cánh cửa. Khi bậc có giới hạnh đến trước cửa nhà, không nên nói những thứ đang hiện có là ‘không có’ rồi sau đó mới bố thí, như vậy được gọi là “trạng thái cánh cửa không đóng lại.”

Āmisānuppadānenāti purebhattaṃ paribhuñjitabbakaṃ āmisaṃ nāma, tasmā sīlavantānaṃ yāgubhattasampadānenāti attho. Kalyāṇena manasā anukampantīti ‘‘sabbe sattā sukhitā hontu averā arogā abyāpajjā’’ti evaṃ hitapharaṇena. Apica upaṭṭhākānaṃ gehaṃ aññe sīlavante sabrahmacārī gahetvā pavisantāpi kalyāṇena cetasā anukampanti nāma. Sutaṃ pariyodāpentīti yaṃ tesaṃ pakatiyā sutaṃ atthi, tassa atthaṃ kathetvā kaṅkhaṃ vinodenti, tathattāya vā paṭipajjāpenti. Sesamidhāpi purimanayeneva yojetabbaṃ.

Với việc thường xuyên cúng dường các dụng cần thiết: Giải thích rằng– Phần thức ăn nên được thọ dụng trước bữa ăn gọi là vật thực; Do đó, với việc cúng dường cháo và vật thực đến các bậc có giới hạnh. Thương tưởng với tâm ý tốt đẹp: Với việc lan tỏa điều lợi ích như vầy rằng: “Nguyện cho tất cả chúng sanh hãy được sự an vui, không có thù oán, không có bệnh tật, không làm hại lẫn nhau.” Mặt khác, các Sa-môn và Bà-la-môn đã dẫn theo những vị đồng Phạm hạnh có giới hạnh khác, rồi bước vào nhà của các cư sĩ hộ độ ấy, cũng được gọi là thương tưởng với tâm ý tốt đẹp. Làm sáng tỏ điều đã được nghe: Có điều nào mà các người con trai của gia đình danh giá đó đã được nghe một cách thông thường, các Sa-môn và Bà-la-môn sẽ giải thích rõ ý nghĩa của điều đó, làm tiêu tan sự nghi ngờ hoặc cho thực hành nhằm đạt đến bản thể thật. Đoạn còn lại trong vấn đề này nên được kết hợp theo cách thức trước đó.

273. Alamattoti puttadārabharaṇaṃ katvā agāraṃ ajjhāvasanasamattho. Paṇḍitoti disānamassanaṭṭhāne paṇḍito hutvā. Saṇhoti sukhumatthadassanena saṇhavācābhaṇanena vā saṇho hutvā. Paṭibhānavāti disānamassanaṭṭhāne paṭibhānavā hutvā nivātavuttīti nīcavutti. Atthaddhoti thambharahito. Uṭṭhānakoti uṭṭhānavīriyasampanno. Analasoti nikkosajjo. Acchinnavuttīti nirantarakaraṇavasena akhaṇḍavutti. Medhāvīti ṭhānuppattiyā paññāya samannāgato.

273. Người gia chủ có khả năng: Người gia chủ có khả năng chu toàn nhiệm vụ chăm sóc vợ và con, duy trì đời sống tại gia. Bậc sáng suốt: là người sáng suốt trong vị thế lễ bái các phương hướng. Là vị tinh tế: Là người tinh tế với việc nhìn thấy sự vi tế hoặc với việc nói lời nói mềm mỏng. Có tài ứng đối: Là người có tài ứng đối trong vị thế lễ bái các phương hướng. Khiêm nhường: Hành xử khiêm tốn. Không ương ngạnh: tránh xa sự cứng đầu (ngang bướng). Có sự tinh tấn: Đã đầy đủ sự siêng năng và tinh tấn. Không biếng nhác: Người không có sự lười biếng. Có lối cư xử không gián đoạn: Có lối cư xử không bị gián đoạn bởi khả năng thực hiện liên tục. Có trí tuệ: Thành tựu về tuệ làm sanh khởi vị thế.

Saṅgāhakoti catūhi saṅgahavatthūhi saṅgahakaro. Mittakaroti mittagavesano. Vadaññūti pubbakārinā, vuttavacanaṃ jānāti. Sahāyakassa gharaṃ gatakāle ‘‘mayhaṃ sahāyakassa veṭhanaṃ detha, sāṭakaṃ detha, manussānaṃ bhattavetanaṃ dethā’’ti vuttavacanamanussaranto tassa attano gehaṃ āgatassa tattakaṃ vā tato atirekaṃ vā paṭikattāti attho. Apica sahāyakassa gharaṃ gantvā imaṃ nāma gaṇhissāmīti āgataṃ sahāyakaṃ lajjāya gaṇhituṃ asakkontaṃ anicchāritampi tassa vācaṃ ñatvā yena atthena so āgato, taṃ nipphādento vadaññū nāma. Yena yena vā pana sahāyakassa ūnaṃ hoti, oloketvā taṃ taṃ dentopi vadaññūyeva. Netāti taṃ taṃ atthaṃ dassento paññāya netā. Vividhāni kāraṇāni dassento netīti vinetā. Punappunaṃ netīti anunetā.

Là người thu phục quần chúng: Thực hiện việc thu phục với bốn việc làm thu phục. Ưa kết bạn: Tìm kiếm bạn bè. Là người hiểu rõ lời nói: Hiểu rõ lời nói đã được nói bởi người thi ân. Giải thích rằng: Khi đi đến nhà của thân hữu, nhớ lại lời nói đã được nói (của người thi ân) rằng: “Hãy tặng khăn quấn đầu, hãy tặng tấm áo choàng cho thân hữu của ta; hãy cho thức ăn và chi phí sinh hoạt đến những người (cần giúp đỡ),” khi họ đến nhà mình, là người chỉ làm đúng bấy nhiêu hoặc nhiều hơn (điều được dặn). Hơn nữa, biết rõ bạn đến với ý nghĩ rằng: “Tôi sẽ đi đến nhà cậu, sẽ cầm lấy những vật này đi” nhưng (khi đến) không thể nhận lấy vì hổ thẹn, và biết rõ lời nói của bạn, mặc dù không mong muốn, (tuy nhiên) cậu đến với lợi ích nào, thì cũng làm lợi ích đó được thành tựu, được gọi là người hiểu rõ lời nói. Ngoài ra, bất cứ thứ nào mà bạn còn thiếu, sau khi xem xét rồi cho những thứ đó – cũng được gọi là người hiểu rõ lời nói. Là người hướng dẫn: Khi giải thích ý nghĩa đó, là người hướng dẫn bằng tuệ. Giải thích nhiều lý do bằng nhiều cách, hướng dẫn thì được gọi là người huấn luyện. Hướng dẫn thường xuyên thì được gọi là người lãnh đạo.

Tattha tatthāti tasmiṃ tasmiṃ puggale. Rathassāṇīva yāyatoti yathā āṇiyā satiyeva ratho yāti, asati na yāti, evaṃ imesu saṅgahesu satiyeva loko vattati, asati na vattati. Tena vuttaṃ – ‘‘ete kho saṅgahā loke, rathassāṇīva yāyato’’ti.

Tattha tattha: (sự xứng đáng) với từng cá nhân. Ví như cái chốt của cỗ xe đang chạy: Giống như khi cái chốt xe (trục bánh xe) vẫn còn, thì cỗ xe có thể vận hành; nhưng nếu cái chốt xe không còn nữa, thì cỗ xe cũng không thể chuyển động. Tương tự như vậy, thế giới chỉ có thể vận hành khi các pháp thu phục này vẫn còn tồn tại; nhưng khi các pháp ấy biến mất, thì thế giới sẽ không thể vận hành được nữa. Vì lý do đó, Ngài đã nói rằng: “Các pháp thu phục này ở thế gian ví như cái chốt của cỗ xe đang chạy.”

Na mātā puttakāraṇāti yadi mātā ete saṅgahe puttassa na kareyya, puttakāraṇā mānaṃ vā pūjaṃ vā na labheyya.

Người mẹ hay người cha (có thể không nhận được sự tôn kính hoặc cúng dường từ người con: Nếu người mẹ không thể thực hiện các pháp thu phục này đối với con cái, thì người mẹ sẽ không thể nhận được sự tôn kính hoặc sự cúng dường phát xuất từ người con.

Saṅgahā eteti upayogavacane paccattaṃ. ‘‘Saṅgahe ete’’ti vā pāṭho. Sammapekkhantīti sammā pekkhanti. Pāsaṃsā ca bhavantīti pasaṃsanīyā ca bhavanti.

Saṅgahā ete (Có các pháp thu phục này): Là cách thứ nhất (Chủ cách) được dùng với ý nghĩa của cách thứ hai (Đối cách). Hoặc có văn bản là ‘Saṅgahe ete’. Sammapekkhanti (xem xét kỹ lưỡng): tách từ thành sammā pekkhanti. Và các vị ấy là được khen ngợi: (Các vị ấy) xứng đáng nhận được lời tán thán.

274. Iti bhagavā yā disā sandhāya te gahapatiputta pitā āha ‘‘disā namasseyyāsī’’ti, imā tā cha disā. Yadi tvaṃ pitu vacanaṃ karosi, imā disā namassāti dassento siṅgālassa pucchāya ṭhatvā desanaṃ matthakaṃ pāpetvā rājagahaṃ piṇḍāya pāvisi. Siṅgālakopi saraṇesu patiṭṭhāya cattālīsakoṭidhanaṃ buddhasāsane vikiritvā puññakammaṃ katvā saggaparāyaṇo ahosi. Imasmiñca pana sutte yaṃ gihīhi kattabbaṃ kammaṃ nāma, taṃ akathitaṃ natthi, gihivinayo nāmāyaṃ suttanto. Tasmā imaṃ sutvā yathānusiṭṭhaṃ paṭipajjamānassa vuddhiyeva pāṭikaṅkhā, no parihānīti.

274. Như vậy, đức Thế Tôn khi chỉ rõ – “Này cậu gia chủ, cha của cậu đã nói rằng: ‘con hãy lễ bái các phương hướng’ đề cập đến các phương hướng nào, thì đây là sáu phương hướng đó (đã được trình bày trong Chánh Kinh). Nếu cậu muốn thực hành theo lời của cha cậu, thì cậu hãy lễ bái các phương hướng này. Sau khi đặt câu hỏi cho Singāla, và đưa đến kết thúc bài pháp thoại, Ngài đã đi vào thành Rājagaha để khất thực. Cậu gia chủ Singāla cũng đã thiết lập vào sự quy y Tam Bảo, rồi phân phát tài sản trị giá bốn mươi triệu để tạo các việc phước thiện trong Phật giáo, và đã trở thành người có cõi trời làm nơi hướng đến trong thời vị lai. Và hơn nữa, cũng trong bài Kinh này, bất kỳ hành động nào nên được thực hiện bởi người cư sĩ, hành động đó không được (đức Thế Tôn) nói đến là không có. Bài Kinh này được gọi là “Giới Luật của người tại gia – Gihivinaya”. Do đó, sau khi lắng nghe và thực hành theo những điều đã được chỉ dạy trong bài Kinh này, chỉ có sự tăng trưởng là điều được mong đợi, không có sự suy thoái.

Giải Thích Kinh Về Siṅgāla được kết thúc – Kinh thứ tám (31).

Trong Chú Giải Trường Bộ Kinh là Sumaṅgalavilāsī.