Giải Thích Kinh Mahāli

(Mahālisuttavaṇṇanā )

Xem Trường Bộ Kinh – Kinh Mahāli

359. Evaṃ me sutaṃ — ekaṃ samayaṃ bhagavā vesāliyanti mahālisuttaṃ. tatrāyaṃ apubbapadavaṇṇanā. Vesāliyanti punappunaṃ visālabhāvūpagamanato vesālīti laddhanāmake nagare. Mahāvaneti bahinagare himavantena saddhiṃ ekābaddhaṃ hutvā ṭhitaṃ sayaṃ jātavanaṃ atthi, yaṃ mahantabhāveneva mahāvananti vuccati, tasmiṃ mahāvane. Kūṭāgārasālāyanti tasmiṃ vanasaṇḍe saṅghārāmaṃ patiṭṭhapesuṃ. tattha kaṇṇikaṃ yojetvā thambhānaṃ upari kūṭāgārasālāsaṅkhepena devavimānasadisaṃ pāsādaṃ akaṃsu, taṃ upādāya sakalopi saṅghārāmo “kūṭāgārasālā”ti paññāyittha. Bhagavā taṃ vesāliṃ upanissāya tasmiṃ saṅghārāme viharati. tena vuttaṃ — “vesāliyaṃ viharati mahāvane kūṭāgārasālāyan”ti. Kosalakāti kosalaraṭṭhavāsino. Māgadhakāti magadharaṭṭhavāsino. Karaṇīyenāti avassaṃ kattabbakammena. Yañhi akātumpi vaṭṭati, taṃ kiccanti vuccati, yaṃ avassaṃ kātabbameva, taṃ karaṇīyaṃ nāma.

359. Bài Kinh Mahāli: Tôi đã nghe như vầy – Một thời đức Thế Tôn trú gần thành Sāvatthī. Trong bài Kinh Mahāli ấy được giải thích theo tuần tự như sau – Ở gần thành Vesālī: Ở gần thành phố có được tên là Vesālī, do thành phố này thường xuyên đạt đến sự thịnh vượng. Trong khu rừng Mahāvana: ở khu rừng lớn tự mọc, nằm tiếp nối với khu rừng Hy-mã-lạp ở bên ngoài thành phố được gọi là Mahāvana bởi ý nghĩa là khu rừng lớn. Nơi tu viện Kūṭāgārasālā: đã xây dựng tu viện dành cho Hội Chúng ở bìa rừng ấy. Đã kiến tạo một tòa lâu đài tựa như Thiên cung, được làm theo lối Kūṭāgārasālā, ở trên cột trụ nâng cao thanh gỗ đặt ở hai đầu nóc nhà ở tu viện dành cho Hội Chúng ấy, cả toàn bộ tu viện dành cho Hội Chúng ấy ám chỉ đến tòa lâu đài đó mới được hiện hữu là “Kūṭāgārasālā – tu viện có nóc nhọn”. Đức Thế Tôn sống gần thành Vesālī, trú tại tu viện dành cho Hội Chúng ấy. Vì lý do đó ngài đã nói rằng: “Đức Thế Tôn trú ở gần thành Vesalī, trong khu rừng Mahāvana, nơi tu viện Kūṭāgārasālā.” Người xứ Kosala: người dân ở xứ sở Kossala. Người xứ Māgadha: người dân ở xứ sở Māgadha. Vì công việc cần làm: vì công việc cần làm thật sự. Thật vậy, việc làm thậm chí không được làm cũng được gọi là phận sự, việc làm cần làm thật sự gọi là phận sự (cần làm).

360. Paṭisallīno bhagavāti nānārammaṇacārato paṭikkamma sallīno nilīno, ekībhāvaṃ upagamma ekattārammaṇe jhānaratiṃ anubhavatīti attho. Tatthevāti tasmiññeva vihāre. Ekamantanti tasmā ṭhānā apakkamma tāsu tāsu rukkhacchāyāsu nisīdiṃsu.

360. Đức Thế Tôn đang thiền tịnh: Đức Thế Tôn ẩn tránh, ẩn nấp khỏi các đối tượng khác nhau y cứ vào sự hợp nhất để thọ hưởng sự an lạc trong thiền trong trạng thái định tâm trên đối tượng. Gần tu viện Kūṭāgārasālā đó: Ở tu viện đó. Liền ngồi xuống ở một bên: Những Bà-la-môn ấy không rời khỏi nơi đó, đã cùng nhau ngồi xuống ở dưới bóng mát của cây ấy.

 

Giải Thích Câu Chuyện Oṭṭhaddha Thuộc Tộc Licchavī

361. Oṭṭhaddhoti addhoṭṭhatāya evaṃladdhanāmo. Mahatiyā licchavīparisāyāti purebhattaṃ buddhappamukhassa bhikkhusaṅghassa dānaṃ datvā bhagavato santike uposathaṅgāni adhiṭṭhahitvā gandhamālādīni gāhāpetvā ugghosanāya mahatiṃ licchavirājaparisaṃ sannipātāpetvā tāya nīlapītādivaṇṇavatthābharaṇavilepanapaṭimaṇḍitāya tāvatiṃsaparisasappaṭibhāgāya mahatiyā licchaviparisāya saddhiṃ upasaṅkami. Akālo kho mahālīti tassa oṭṭhaddhassa mahālīti mūlanāmaṃ, tena mūlanāmamattena naṃ thero mahālīti ālapati. Ekamantaṃ nisīdīti patirūpāsu rukkhacchāyāsu tāya licchaviparisāya saddhiṃ ratanattayassa vaṇṇaṃ kathayanto nisīdi.

361. Oṭṭhaddha: người tộc Licchavī có tên như vậy, bởi vì có môi bị sứt. cùng với hội chúng Licchavī đông đảo: Oṭṭhaddha thuộc tộc Licchavī đã bố thí vật thí đến Hội Chúng tỳ khưu có đức Phật là vị cầm đầu vào trước bữa ăn, đã phát nguyện chi phần uposatha ở trú xứ của đức Thế Tôn, cho người cầm những thứ vật dụng có vật thơm và tràng hoa v.v, thông báo cho hội chúng Licchavī đông đảo hội họp rồi đi vào cùng với hội chúng Licchavī đông đảo ấy, được trang điểm với các đồ trang sức và thoa phấn thơm có màu xanh và màu vàng v.v, xinh đẹp như thể hội chúng chư Thiên cõi trời Đâu Suất. Không phải thời điểm thích hợp: Mahāli là tên chính của Oṭṭhaddha ấy, trưởng lão gọi Mahāli ấy theo tên chính của vị ấy. Đã ngồi xuống một bên, ngay tại chỗ ấy: Oṭṭhaddha thuộc tộc Licchavī ngồi ca ngợi về ân đức của Tam Bảo cùng với hội chúng Licchavī đông đảo ở dưới bóng cây thích hợp.

362. Sīho samaṇuddesoti āyasmato nāgitassa bhāgineyyo sattavassakāle pabbajitvā sāsane yuttapayutto “sīho”ti evaṃnāmako sāmaṇero, so kira taṃ mahāparisaṃ disvā — “ayaṃ parisā mahatī, sakalaṃ vihāraṃ pūretvā nisinnā, addhā bhagavā ajja imissā parisāya mahantena ussāhena dhammaṃ desessati, yaṃnūnāhaṃ upajjhāyassācikkhitvā bhagavato mahāparisāya sannipatitabhāvaṃ ārocāpeyyan”ti cintetvā yenāyasmā nāgito tenupasaṅkami. Bhante kassapāti theraṃ gottena ālapati. Esā janatāti eso janasamūho.

362. Vị sa-di Siha: Vị sa-di tên là Sīha, là cháu của trưởng lão Nāgita, (vị sa-di) đã xuất gia vào lúc tám tuổi siêng năm chăm chỉ trong Giáo Pháp. Được biết vị sa-di sau khi nhìn thấy hội chúng lớn đã khởi lên suy nghĩ rằng: “Hội chúng lớn ngồi kín toàn bộ tu viện, nhất định vào ngày hôm nay đức Thế Tôn sẽ thuyết giảng Giáo Pháp với sự nỗ lực lớn lao cho đám đông dân chúng này, ta nên nói (việc này) cho thầy tế độ để thông báo cho đức Thế Tôn biết một đám đông dân chúng đến tụ hội” đã đi vào gặp Tôn giả Nāgita. Bạch ngài Kassapa: Sa-di đã nói cùng trưởng lão với họ tộc. Đám người này: đám đông dân chúng ấy.

Tvaññeva bhagavato ārocehīti sīho kira bhagavato vissāsiko, ayañhi thero thūlasarīro, tenassa[1] sarīragarutāya uṭṭhānanisajjādīsu ālasiyabhāvo īsakaṃ appahīno viya hoti. Athāyaṃ sāmaṇero bhagavato kālena kālaṃ vattaṃ karoti. Tena naṃ thero “tvampi[2] dasabalassa vissāsiko”ti vatvā gaccha tvaññevārocehīti āha. Vihārapacchāyāyanti vihārachāyāyaṃ, kūṭāgāramahāgehacchāyāya pharitokāseti attho. Sā kira kūṭāgārasālā dakkhiṇuttarato dīghā pācīnamukhā, tenassā purato mahatī chāyā patthaṭā hoti, sīho[3] tattha bhagavato āsanaṃ paññapesi.

Vậy thì chính ông hãy thưa với đức Thế Tôn: Được biết sa-di Sīha là người thân tín của đức Thế Tôn, bởi vì vị trưởng lão này có thân hình to béo, trong lúc đứng lên hoặc ngồi xuống v.v, đều khệnh khạng chậm chạp bởi vì trưởng lão có thân hình nặng nề, dường như không thể di chuyển được, vì thế vị sa-di này làm bổn phận (phục vụ) đức Thế Tôn ở mọi thời. Cho nên trưởng lão đã nói với vị sa-di ấy rằng: “Vậy thì chính ông người thân tín của đấng Thập Lực” mới nói rằng: “Vậy thì chính ông hãy thưa với đức Thế Tôn”. Ở bóng râm của trú xá: Ở dưới bóng râm của trú xá. Giải thích rằng – Ở khoảng trống của bóng râm của tu viện Kūṭāgāra to lớn đã lan tỏa đến. Được biết tu viện Kūṭāgārasāla ấy kéo dài về phía Nam và phía Bắc, có mặt trước hướng về hướng Đông. Vì vậy,  bóng râm mới trải rộng về phía trước của tu viện Kūṭāgārasāla đó, ngay cả vị sa-di Sīha cũng đã sắp đặt sẵn chỗ ngồi dành cho đức Thế Tôn dưới bóng râm ở phía trước trú xá.

363. Attha kho bhagavā dvārantarehi ceva vātapānantarehi ca nikkhamitvā vidhāvantāhi vippharantīhi chabbaṇṇāhi buddharasmīhi saṃsūcitanikkhamano valāhakantarato puṇṇacando viya kūṭāgārasālato nikkhamitvā paññattavarabuddhāsane nisīdi. tena vuttaṃ — “atha kho bhagavā vihārā nikkhamma vihārapacchāyāya paññatte āsane nisīdī”ti.

363. Khi ấy Đức Phật với hào quang sáu màu phóng tia sáng qua ô lớn và ô cửa sổ, Ngài rời khỏi tu viện Kūṭāgārasāla như thể mặt trăng ngày rằm thoát khỏi đám mây, ngồi  lên Phật tọa đã được sửa soạn sẵn. Vì thế ngài đã nói rằng: “Khi ấy đức Thế Tôn đã đi ra khỏi trú xá, và đã ngồi xuống ở chỗ ngồi đã được sửa soạn sẵn ở dưới bóng râm của trú xá.”

364-365. Purimāni, bhante, divasāni purimatarānīti ettha hiyyo divasaṃ purimaṃ nāma, tato paraṃ purimataraṃ. Tato paṭṭhāya pana sabbāni purimāni ceva purimatarāni ca honti. Yadaggeti mūladivasato paṭṭhāya yaṃ divasaṃ aggaṃ parakoṭiṃ katvā viharāmīti attho, yāva vihāsinti vuttaṃ hoti. Idāni tassa parimāṇaṃ dassento “naciraṃ tīṇi vassānī”ti āha. Atha vā yadaggeti yaṃ divasaṃ aggaṃ katvā naciraṃ tīṇi vassāni viharāmītipi attho. Yaṃ divasaṃ ādiṃ katvā naciraṃ vihāsiṃ tīṇiyeva vassānīti vuttaṃ hoti. Ayaṃ kira bhagavato pattacīvaraṃ gaṇhanto tīṇi saṃvaccharāni bhagavantaṃ upaṭṭhāsi, taṃ sandhāya evaṃ vadati. Piyarūpānīti piyajātikāni sātajātikāni. Kāmūpasaṃhitānīti kāmassādayuttāni. Rajanīyānīti rāgajanakāni. No ca kho dibbāni saddānīti kasmā sunakkhatto tāni na suṇāti? so kira bhagavantaṃ upasaṅkamitvā dibbacakkhuparikammaṃ yāci, tassa bhagavā ācikkhi, so yathānusiṭṭhaṃ paṭipanno dibbacakkhuṃ uppādetvā devatānaṃ rūpāni disvā cintesi “imasmiṃ sarīrasaṇṭhāne saddena madhurena bhavitabbaṃ, kathaṃ nu kho naṃ suṇeyyan”ti bhagavantaṃ upasaṅkamitvā dibbasotaparikammaṃ pucchi. Ayañca atīte ekaṃ sīlavantaṃ bhikkhuṃ kaṇṇasakkhaliyaṃ[4] paharitvā badhiramakāsi. tasmā parikammaṃ karontopi abhabbo dibbasotādhigamāya[5]. tenassa na bhagavā parikammaṃ kathesi. so ettāvatā bhagavati āghātaṃ bandhitvā cintesi — “addhā samaṇassa gotamassa evaṃ hoti — ‘ahampi khattiyo ayampi khattiyo, sacassa ñāṇaṃ vaḍḍhissati, ayampi sabbaññū bhavissatī’ti usūyāya mayhaṃ na kathesī”ti. So anukkamena gihibhāvaṃ patvā tamatthaṃ mahālilicchavino kathento evamāha.

364-365. Bạch Ngài mấy ngày trước và trước đó nữa: ở đây ngày hôm qua được gọi là ngày trước, ngày khác từ ngày hôm đó gọi ngày hôm kia, kể từ ngày hôm đó thì tất cả đều được gọi là ngày trước đó. Kể từ khi tôi…: Tôi sống (gần đức Thế Tôn) khoảng thời gian kể từ ngày đầu tiên, được ngài nói là tôi sống (gần đức Thế Tôn) tạm thời. Bây giờ Sunakkhatta con trai tộc Licchavī trong khi trình bày ước lượng của ngày hôm ấy mới nói rằng: “không lâu đâu, chỉ có ba năm mà thôi”. Thêm nữa ‘khoảng thời gian’ nghĩa là tôi sống (gần đức Thế Tôn) tạm thời không lâu, chỉ có ba năm. Ngài nói rằng: tôi sống (gần đức Thế Tôn) không lâu, chỉ ba năm mà thôi. Được biết Sunakkhatta con trai tộc Licchavī trong khi tiếp nhận bình bát và y phục của đức Thế Tôn, phụng sự đức Thế Tôn suốt ba năm. Sunakkhatta con trai tộc Licchavī muốn đề cập đến ba năm đó mới nói như vậy. Có vẻ đáng yêu: dễ thương, vừa ý. Liên hệ đến dục: gắn liền với sự thỏa mãn trong các dục. ​​Quyến rũ: làm khởi sanh luyến ái. Nhưng tôi không nghe được các Thiên âm: Sunakkhatta không thể nghe được các Thiên âm ấy, vì sao? Được biết Sunakkhatta ấy đến yết kiến đức Thế Tôn rồi xin đề mục hành thiền về Thiên nhãn, đức Thế Tôn đã nói cùng vị ấy, vị ấy thực hành theo lời dạy (của đức Thế Tôn) đã làm khởi sanh Thiên nhãn (có thể) nhìn thấy tất cả các Sắc tướng của tất cả chư Thiên, nghĩ rằng: “Trong hình thể này có thể có âm thanh du dương, làm thế nào ta có thể lắng nghe được âm thanh ấy?” (vị ấy) đã đi đến gặp đức Thế Tôn để hỏi về đề mục hành thiền Thiên nhĩ. Và trong thời quá khứ, Sunakkhatta này đã đánh vào mang tai của vị một vị tỳ khưu có giới hạnh, khiến cho vị ấy trở thành người bị điếc, vì lý đó ấy, cho dù có thực hành đề mục thiền này cũng không thể nào đạt được Thiên nhĩ. Cho nên, đức Thế Tôn mới không nói đến đề mục thiền. Vị ấy đã cột oan trái đối với đức Thế Tôn chỉ vì nguyên nhân như thế, nghĩ rằng – “Suy tư như thế dĩ nhiên có cùng Sa-môn Gotama, – ‘Ngay cả ta là Sát-đế-lỵ, luôn cả Oṭṭhaddha này cũng là Sát-đế-lỵ, nếu như trí tuệ sẽ tăng trưởng cho ta, ngay cả vị ấy sẽ trở thành bậc Toàn-giác’ do sự ghen tị’” mà vị ấy đã không nói cho tôi. (Vì thế) Sunakkhatta ấy đã trở lại bản thể cư sĩ theo tuần tự, trong khi nói lên ý nghĩa ấy cho đại chúng Licchavī, đã nói như vậy.

366-371. Ekaṃsabhāvitoti ekaṃsāya ekakoṭṭhāsāya bhāvito, dibbānaṃ vā rūpānaṃ dassanatthāya dibbānaṃ vā saddānaṃ savanatthāya bhāvitoti attho. Tiriyanti anudisāya. Ubhayaṃsabhāvitoti ubhayaṃsāya ubhayakoṭṭhāsāya bhāvitoti attho. Ayaṃ kho mahāli hetūti ayaṃ dibbānaṃyeva rūpānaṃ dassanāya ekaṃsabhāvito samādhi hetu. Imamatthaṃ sutvā so licchavī cintesi — “idaṃ dibbasotena saddasuṇanaṃ[6] imasmiṃ sāsane uttamatthabhūtaṃ maññe imassa nūna atthāya ete bhikkhū paññāsampi saṭṭhipi vassāni apaṇṇakaṃ brahmacariyaṃ caranti, yaṃnūnāhaṃ dasabalaṃ etamatthaṃ puccheyyan”ti.

366-371. Vị tỳ khưu có định được phát triển nhằm một mục đích: Có định được phát triển chỉ riêng một phần duy nhất, tức là một phần, giải thích rằng phát triển nhằm mục đích nhìn thấy được các Thiên sắc hoặc nhằm mục đích lắng nghe được các Thiên âm. Hướng phụ: Hướng phụ. Vị tỳ khưu có định được phát triển nhằm cả hai mục đích: Có định được phát triển nhằm cả hai mục đích, tức là cả hai phần. Này Mahāli đây là nhân: Định được Sunakkhatta phát triển nhằm một mục đích chỉ để nhìn thấy các Thiên sắc, đây là nhân. Tộc Licchavī ấy đã nghe được ý nghĩa này, suy nghĩ rằng: “Vị tỳ khưu nghe âm thanh này bằng Thiên nhĩ, Thiên nhĩ xem như thể là có bản chất cao nhất, có lợi ích ở trong Giáo Pháp này, phải chăng những vị tỳ khưu ấy thực hành Phạm hạnh suốt năm mươi năm, thậm chí sáu mươi năm không phải ít chỉ nhằm mục đích đối với Thiên nhĩ này? Nếu vậy ta nên hỏi ý nghĩa này cùng với đấng Thập Lực.”

372. Tato tamatthaṃ pucchanto “etāsaṃ nūna, bhante”tiādimāha. Samādhibhāvanānanti ettha samādhiyeva samādhibhāvanā, ubhayaṃsabhāvitānaṃ samādhīnanti attho. Atha yasmā sāsanato bāhirā etā samādhibhāvanā, na ajjhattikā. tasmā tā paṭikkhipitvā yadatthaṃ bhikkhū brahmacariyaṃ caranti, taṃ dassento bhagavā “na kho mahālī”tiādimāha.

372. Sau đó, khi hỏi ý nghĩa ấy mới nói rằng: “Bạch Ngài, chắc hẳn vì lý do chứng ngộ các sự tu tập định v.v.Các sự tu tập định: Ở đây, định ấy được gọi là sự tu tập định, tức là định được phát triển nhằm cả hai mục đích. Hơn nữa, do tu tập các định ấy nằm ngoài Giáo Pháp, không vận hành ở bên trong, vì thế đức Thế Tôn không phản bác các sự tu tập định ấy, khi thuyết về lợi ích mà vị Tỳ khưu thực hành Phạm hạnh mới thuyết rằng: “Này Mahāli, chắc chắn không phải vì lý do chứng ngộ các sự tu tập định ấy”.

 

Giải Thích Bốn Thánh Quả

373. Tiṇṇaṃ saṃyojanānanti sakkāyadiṭṭhiādīnaṃ tiṇṇaṃ bandhanānaṃ. Tāni hi vaṭṭadukkhamaye rathe satte saṃyojenti, tasmā saṃyojanānīti vuccanti. Sotāpanno hotīti maggasotaṃ āpanno hoti. Avinipātadhammoti catūsu apāyesu apatanadhammo. Niyatoti dhammaniyāmena niyato. Sambodhiparāyaṇoti uparimaggattayasaṅkhātā sambodhi paraṃ ayanaṃ assa, anena vā pattabbāti sambodhiparāyaṇo.

373. Do sự diệt tận ba sự ràng buộc: Ba sự ràng buộc có thân kiến v.v. Thật vậy, các sự ràng buộc ấy ngài gọi là kiết sử bởi là phương tiện buộc chặt tất cả chúng sanh vào cỗ xe (là các hữu) trong vòng sanh tử khổ. Trở thành vị Nhập Lưu: là vị nhập nhập vào dòng chảy của Thánh Đạo. Có pháp không bị thối đọa: có pháp không bị rơi vào bốn cõi khổ. Đã được chắc chắn: là vị đã chắc chắn bởi quy luật vận hành của pháp. Có sự giác ngộ hoàn toàn là đích đến: Sự giác ngộ được nói đến là 3 Thánh Đạo cao mà vị tỳ khưu ấy có thể đạt được diễn ra ở thời vị lai, vì thế vị tỳ khưu ấy gọi là vị có sự giác ngộ hoàn toàn là đích đến.

Tanuttāti pariyuṭṭhānamandatāya ca kadāci karahaci uppattiyā ca tanubhāvā. Orambhāgiyānanti heṭṭhābhāgiyānaṃ, ye hi baddho upari suddhāvāsabhūmiyaṃ nibbattituṃ na sakkoti. Opapātikoti sesayonipaṭikkhepavacanametaṃ. Tattha parinibbāyīti tasmiṃ uparibhaveyeva parinibbānadhammo[7]. Anāvattidhammoti tato brahmalokā puna paṭisandhivasena anāvattanadhammo. Cetovimuttinti cittavisuddhiṃ, sabbakilesabandhanavimuttassa arahattaphalacittassetaṃ adhivacanaṃ. Paññāvimuttinti etthāpi sabbakilesabandhanavimuttā arahattaphalapaññāva paññāvimuttīti veditabbā. Diṭṭheva dhammeti imasmiṃyeva attabhāve. Sayanti sāmaṃ. Abhiññāti abhijānitvā. Sacchikatvāti paccakkhaṃ katvā. Atha vā abhiññā sacchikatvāti abhiññāya abhivisiṭṭhena ñāṇena sacchikaritvātipi attho. Upasampajjāti patvā paṭilabhitvā. Idaṃ sutvā licchavirājā[8] cintesi — “ayaṃ pana dhammo[9] na sakuṇena viya uppatitvā, nāpi godhāya viya urena gantvā sakkā paṭivijjhituṃ, addhā pana imaṃ paṭivijjhantassa pubbabhāgappaṭipadāya bhavitabbaṃ, pucchāmi tāva nan”ti.

Có sự giảm nhẹ: Do sự bộc phát của phiền não có năng lực yếu và do sự sanh khởi ở thế giới nào, thời gian nào do sự giảm nhẹ. Hạ phần kiết sử: các sự ràng buộc thuộc hạ phần, là các sự ràng buộc không cho sanh khởi ở các cõi Tịnh Cư cao hơn. Trở thành hạng hóa sanh: ở đây bác bỏ các sự sanh khởi còn lại. Tại đấy viên tịch Nibbāna: có cảnh pháp là Nibbāna ở kiếp sống vị lại ấy. Có pháp không còn quay trở lại từ thế gian này nữa: có pháp không quay trở lại từ Phạm Thiên giới ấy do mãnh lực tục sanh nữa. Sự giải thoát của tâm: tâm thanh tịnh. Lời ấy là tên gọi của Tâm Quả A-ra-hán đã thoát khỏi sự trói buộc của tất cả phiền não. Tuệ chính là A-ra-hán Quả đó đã thoát khỏi sự trói buộc của tất cả phiền não, nên biết rằng tuệ giải thoát luôn cả trong câu ‘sự giải thoát của tuệ’ này. Ngay ở bản thể này: Trong chính bản thể này. Tự mình: chính mình. Thắng trí: đã thắng tri. Đã chứng ngộ: đã làm cho sáng tỏ. Hoặc là, Đã chứng ngộ bằng thắng trí: làm cho sáng tỏ bằng thắng trí, có nghĩa là – bằng trí đặc biệt phi thường. Đã đạt đến: đã chứng đạt, đã đạt được. Vua Licchavī đã lắng nghe ý nghĩa mới nghĩ rằng: “Pháp cáo thượng mà bất cứ ai có thể chứng đắc giống như loài chim bay, hay giống như con kỳ nhông di chuyển bằng ngực, đối với vị tỳ khưu đắc được pháp này chắc chắn cần phải có pháp hành ở phần sơ khởi, ta sẽ hỏi pháp ấy trước.”

 

Giảng Giải Thánh Đạo Tám Chi Phần

374-375. Tato bhagavantaṃ pucchanto “atthi pana bhante”tiādimāha. Aṭṭhaṅgikoti pañcaṅgikaṃ turiyaṃ viya aṭṭhaṅgiko gāmo viya ca aṭṭhaṅgamattoyeva hutvā aṭṭhaṅgiko, na aṅgato añño maggo nāma atthi. Tenevāha — “Seyyathidaṃ, sammādiṭṭhi … pe … sammāsamādhī”ti. Tattha sammādassanalakkhaṇā sammādiṭṭhi. Sammā abhiniropanalakkhaṇo sammāsaṅkappo. Sammā pariggahaṇalakkhaṇā sammāvācā. Sammā samuṭṭhāpanalakkhaṇo sammākammanto. Sammā vodāpanalakkhaṇo sammāājīvo. sammā paggahalakkhaṇo sammāvāyāmo. Sammā upaṭṭhānalakkhaṇā sammāsati. Sammā samādhānalakkhaṇo sammāsamādhi. Etesu ekekassa tīṇi tīṇi kiccāni honti. Seyyathidaṃ, sammādiṭṭhi tāva aññehipi attano paccanīkakilesehi saddhiṃ micchādiṭṭhiṃ pajahati, nirodhaṃ ārammaṇaṃ karoti, sampayuttadhamme ca passati tappaṭicchādakamohavidhamanavasena asammohato. sammāsaṅkappādayopi tatheva micchāsaṅkappādīni pajahanti, nirodhañca ārammaṇaṃ karonti, visesato panettha sammāsaṅkappo sahajātadhamme abhiniropeti. Sammāvācā sammā pariggaṇhati. Sammākammanto sammā samuṭṭhāpeti. Sammāājīvo sammā vodāpeti. Sammāvāyāmo sammā paggaṇhati. Sammāsati sammā upaṭṭhāpeti. Sammāsamādhi sammā padahati.

374-375. Từ đó, trong khi hỏi đức Thế Tôn mới nói rằng: “Bạch Ngài, thế thì có đạo lộ…Thánh Đạo tám chi phần: Đạo lộ liên kết với tám chi phần giống như người nhạc công gắn liền với năm loại nhạc khí, và giống như một ngôi làng với tám dòng tộc mới gọi là liên kết với tám yếu tố, các Đạo lộ khác từ tám yếu tố này không có. Bởi vì chính nguyên nhân ấy đức Thế Tôn mới nói rằng: “…tức là, chánh kiến …nt… chánh định.” Trong Đạo lộ tám chi phần ấy chánh kiến có tướng trạng thấy chân chánh. Chánh tư duy có tướng trạng hướng tâm suy xét chân chánh. Chánh ngữ có tướng trạng cân nhắc chân chánh. Chánh nghiệp có tướng trạng thiết lập vững chắc chân chánh. Chánh mạng có tướng trạng làm cho trong sạch chân chánh. Chánh tinh tấn có tướng trạng cố gắng chân chánh. Chánh niệm có tướng trạng niệm thiết lập chân chánh. Chánh định có tướng trạng đặt tâm chân chánh. Trong Đạo lộ tám chi phần ấy thì mỗi chi phần có 3 phận sự. Tức là, đối với chánh kiến dứt bỏ tà kiến cùng với phiền não đối nghịch chính nó, luôn cả những loại khác, làm sự diệt tận trở thành đối tượng, và thấy rõ các Pháp tương ưng do không bị lầm lẫn nhờ mãnh lực xua tan sự si mê đang che đậy sự thấy chân chánh ấy. Các pháp luôn cả chánh tư duy v.v, dứt trừ tà tư duy v.v,  và làm sự diệt tận trở thành đối tượng tương tự như thế. Cũng trong trường hợp này đặc biệt chánh tư duy hướng tâm suy xét đến các Pháp câu sanh. Chánh ngữ cân nhắc chân chánh. Chánh nghiệp làm cho thiết lập vững chắc chân chánh. Chánh mạng làm cho trong sạch chân chánh. Chánh tinh tấn làm cho cố gắng chân chánh. Chánh niệm làm cho niệm thiết lập chân chánh. Chánh định đặt tâm chân chánh.

Api cesā sammādiṭṭhi nāma pubbabhāge nānākkhaṇā nānārammaṇā hoti, maggakkhaṇe ekakkhaṇā ekārammaṇā. Kiccato pana “dukkhe ñāṇan”tiādīni[10] cattāri nāmāni labhati. Sammāsaṅkappādayopi pubbabhāge nānākkhaṇā nānārammaṇā honti. maggakkhaṇe ekakkhaṇā ekārammaṇā. Tesu sammāsaṅkappo kiccato “nekkhammasaṅkappo”tiādīni[11] tīṇi nāmāni labhati. Sammā vācādayo tisso viratiyopi honti, cetanādayopi honti, maggakkhaṇe pana viratiyeva. Sammāvāyāmo sammāsatīti idampi dvayaṃ kiccato sammappadhānasatipaṭṭhānavasena cattāri nāmāni labhati. Sammāsamādhi pana pubbabhāgepi maggakkhaṇepi sammāsamādhiyeva.

Lại nữa, chánh kiến ấy ở phần sơ khởi có sát-na khác nhau, có đối tượng khác nhau. Ở sát-na Đạo chỉ có một sát-na, chỉ có một đối tượng. Nhưng theo phận sự thì có được bốn tên gọi là ‘có trí trong khổ v.v.’ Luôn cả chánh tư duy ở phần sơ khởi có sát-na khác nhau, có đối tượng khác nhau. Ở sát-na Đạo chỉ có một sát-na, chỉ có một đối tượng. Trong các pháp ấy, chánh tư duy theo phận sự thì có được ba tên gọi ‘có sự tư duy về sự xuất ly’. Ba pháp có chánh ngữ v.v, là sự kiêng tránh, (hay) sự có ý định, nhưng trong sát-na Đạo chỉ là sự kiếng tránh. Hai pháp này là chánh tinh tấn và chánh niệm theo phận sự có được 4 tên gọi do mãnh lực của (bốn) chánh cần và (bốn) sự thiết lập niệm. Còn chánh định ở phần sơ khởi, hay ở sát-na của Đạo thì cũng chỉ là chánh định mà thôi.

Iti imesu aṭṭhasu dhammesu bhagavatā nibbānādhigamāya paṭipannassa yogino bahukārattā[12] paṭhamaṃ sammādiṭṭhi desitā. Ayañhi “paññāpajjoto paññāsatthan”ti[13] ca vuttā. Tasmā etāya pubbabhāge vipassanāñāṇasaṅkhātāya sammādiṭṭhiyā avijjandhakāraṃ vidhamitvā kilesacore ghātento khemena yogāvacaro nibbānaṃ pāpuṇāti. Tena vuttaṃ — “Nibbānādhigamāya paṭipannassa yogino bahukārattā paṭhamaṃ sammādiṭṭhi desitā”ti.

Trong tám pháp này, chánh kiến được đức Thế Tôn thuyết giảng trước tiên do chánh kiến là pháp có nhiều sự hỗ trợ đối với hành giả, vị hành pháp nhằm mục đích chứng đắc Nibbāna. Thật vậy tuệ này ngài nói rằng: “Tuệ là cây đèn, tuệ là vũ khí”. Vì thế, hành giả xua tan bóng tối vô minh bằng chánh kiến, được xem là Minh sát trí ở phần sơ khởi ấy, giết chết kẻ trộm cướp là phiền não, chứng đắc Nibbāna với sự an toàn. Do đó, ngài mới nói rằng: “Đức Thế Tôn thuyết giảng chánh kiến trước tiên bởi vì chánh kiến là pháp có nhiều sự trợ giúp đối với hành giả, vị hành pháp nhằm mục đích chứng đắc Nibbāna.”

Sammāsaṅkappo pana tassā bahukāro, tasmā tadanantaraṃ vutto. Yathā hi heraññiko hatthena parivaṭṭetvā parivaṭṭetvā cakkhunā kahāpaṇaṃ olokento — “Ayaṃ cheko, ayaṃ kūṭo”ti jānāti. Evaṃ yogāvacaropi pubbabhāge vitakkena vitakketvā vipassanāpaññāya olokayamāno — “Ime dhammā kāmāvacarā, ime dhammā rūpāvacarādayo”ti pajānāti. Yathā vā pana purisena koṭiyaṃ gahetvā parivaṭṭetvā parivaṭṭetvā dinnaṃ mahārukkhaṃ tacchako vāsiyā tacchetvā kamme upaneti, evaṃ vitakkena vitakketvā vitakketvā dinne dhamme yogāvacaro paññāya — “Ime kāmāvacarā, ime rūpāvacarā”tiādinā nayena paricchinditvā kamme upaneti . Tena vuttaṃ — “Sammāsaṅkappo pana tassā bahukāro, tasmā tadanantaraṃ vutto”ti. Svāyaṃ yathā sammādiṭṭhiyā evaṃ sammāvācāyapi upakārako. Yathāha — “pubbe kho, visākha[14], vitakketvā vicāretvā pacchā vācaṃ bhindatī”ti,[15] tasmā tadanantaraṃ sammāvācā vuttā.

Thêm nữa, chánh tư duy có nhiều sự trợ giúp đối với chánh kiến ấy , vì thế đức Thế Tôn mới thuyết theo tuần tự của chánh kiến ấy. Thật vậy, giống như người thợ kim hoàn dùng tay lật qua lật lại để quan sát đồng tiền vàng bằng mắt (vị ấy) biết được rằng – “Đồng tiền nay là giả, đồng tiền này là thật” như thế nào. Ngay cả hành giả cũng như thế ấy, ở phần sơ khởi suy tầm với sự suy tầm trong khi quan sát bằng Minh sát trí (vị ấy) tuệ tri rằng– “Các pháp này là Dục giới, các pháp này là Sắc giới v.v.” Hoặc là, giống như người thợ chặt cây, sau khi đốn một cây lớn được một người nắm lấy phần ngọn lật qua lật lại với cây búa, rồi đem đi sử dụng trong công việc như thế nào; vị hành giả xác định các Pháp mà sự suy tầm ban cho theo cách thức – “Những pháp này là Dục giới, những pháp này là Sắc giới v.v.” bằng trí tuệ mới đem đi sử dụng trong công việc. Vì thế ngài đã nói rằng: “Hơn nữa, chánh tư duy có nhiều sự trợ giúp đối với chánh kiến ấy, do đó đức Thế Tôn mới thuyết chánh tư duy theo tuần tự của chánh kiến ấy.” Chánh tư duy này đây có nhiều sự trợ giúp luôn cả đối với chánh ngữ cũng giống như có nhiều sự trợ giúp đối với chánh kiến ấy. Giống như được ngài nói rằng: “Hiền giả Visākha, quả thật trước tiên phải Tầm và Tứ rồi mới thốt ra lời nói”, cho nên đức Thế Tôn mới thuyết chánh ngữ theo tuần tự của chánh tư duy ấy.

Yasmā pana — “idañcidañca karissāmā”ti paṭhamaṃ vācāya saṃvidahitvā loke kammante payojenti; tasmā vācā kāyakammassa upakārikāti sammāvācāya anantaraṃ sammākammanto vutto. Catubbidhaṃ pana vacīduccaritaṃ, tividhañca kāyaduccaritaṃ pahāya ubhayaṃ sucaritaṃ pūrentasseva yasmā ājīvaṭṭhamakaṃ sīlaṃ pūreti, na itarassa, tasmā tadubhayānantaraṃ sammāājīvo vutto. Evaṃ visuddhājīvena pana “parisuddho me ājīvo”ti ettāvatā ca paritosaṃ katvā suttapamattena viharituṃ na yuttaṃ, atha kho “sabbiriyāpathesu idaṃ vīriyaṃ samārabhitabban”ti dassetuṃ tadanantaraṃ sammāvāyāmo vutto. Tato “āraddhavīriyenapi kāyādīsu catūsu vatthūsu sati sūpaṭṭhitā[16] kātabbā”ti dassanatthaṃ tadanantaraṃ sammāsati desitā. Yasmā panevaṃ sūpaṭṭhitā sati samādhissupakārānupakārānaṃ dhammānaṃ gatiyo samannesitvā pahoti ekattārammaṇe cittaṃ samādhātuṃ, tasmā sammāsatiyā anantaraṃ sammāsamādhi desitoti veditabbo. Etesaṃ dhammānaṃ sacchikiriyāyāti etesaṃ sotāpattiphalādīnaṃ paccakkhakiriyatthāya.

Hơn nữa, mọi người sau khi chuẩn bị với lời nói trước rằng – “Ta sẽ làm việc này và việc này” rồi bắt tay vào mọi việc ở đời; vì thế, lời nói là phương tiện trợ giúp đối với thân nghiệp, cho nên đức Thế Tôn mới thuyết chánh nghiệp theo tuần tự chánh ngữ. Lại nữa, giới có nuôi mạng là thứ tám thành tựu đối với hạng người đã từ bỏ bốn hành động xấu xa của khẩu và ba hành động xấu xa của thân, chỉ thực hành 2 thiện hạnh ấy không thành tựu đối với hạng người ngoài ra, vì thế đức Thế Tôn thuyết giảng chánh mạng theo tuần tự của 2 thiện hạnh ấy. Thêm nữa, người có sự nuôi mạng thanh tịnh như vậy, đã vui mừng chỉ vì nguyên nhân ấy (nói rằng): “Sự nuôi mạng của tôi đã thanh tịnh”, không thích hợp để sống như người ngủ quên hoặc người sống phóng dật, khi ấy, đức Thế Tôn mới thuyết chánh tinh tấn theo tuần tự của chánh mạng ấy, để thuyết rằng: “hành giả nên nhiệt tâm tinh tấn trong tất cả mọi oai nghi”. Sau đó, đức Thế Tôn thuyết chánh niệm theo tuần tự của chánh tinh tấn ấy, để thuyết rằng: “Niệm đã khéo được thiết lập trong bốn đối tượng – vatthu, có thân v.v, hành giả nhiệt tâm tinh tấn cũng nên thực hành”. Cũng do niệm đã khéo được thiết lập như vậy có thể theo đuổi các sanh thú của các pháp hỗ trợ định đủ để tâm (đạt đến) trạng thái chuyên nhất nơi đối tượng, vì thế nên biết rằng: Đức Thế Tôn thuyết chánh định trong tuần tự của chánh niệm. Đưa đến sự chứng ngộ các pháp ấy: vì lợi ích làm hiện rõ các pháp đó có Nhập Lưu quả v.v.

 

Nói Về Chuyện Hai Vị Du Sĩ

376-377. Ekamidāhanti idaṃ kasmā āraddhaṃ? ayaṃ kira rājā — “rūpaṃ attā”ti evaṃladdhiko, tenassa desanāya cittaṃ nādhimuccati. Atha bhagavatā tassa laddhiyā āvikaraṇatthaṃ ekaṃ kāraṇaṃ āharituṃ idamāraddhaṃ. Tatrāyaṃ saṅkhepattho — “Ahaṃ ekaṃ samayaṃ ghositārāme viharāmi, tatra vasantaṃ maṃ te dve pabbajitā evaṃ pucchiṃsu. Athāhaṃ tesaṃ buddhuppādaṃ dassetvā tantidhammaṃ nāma kathento idamavocaṃ — “Āvuso, saddhāsampanno nāma kulaputto evarūpassa satthu sāsane pabbajito, evaṃ tividhaṃ sīlaṃ pūretvā paṭhamajjhānādīni patvā ṭhito ‘taṃ jīvan’tiādīni vadeyya, yuttaṃ nu kho etamassā”ti? Tato tehi “yuttan”ti vutte “ahaṃ kho panetaṃ, āvuso, evaṃ jānāmi, evaṃ passāmi, atha ca panāhaṃ na vadāmī”ti taṃ vādaṃ paṭikkhipitvā uttari khīṇāsavaṃ dassetvā “imassa evaṃ vattuṃ na yuttan”ti avocaṃ. te mama vacanaṃ sutvā attamanā ahesunti. Evaṃ vutte sopi attamano ahosi . Tenāha — “idamavoca bhagavā. Attamano oṭṭhaddho licchavī bhagavato bhāsitaṃ abhinandī”ti.

376-377. Một thuở nọ: điều này đức Thế Tôn khởi sự do nguyên nhân gì? Được biết đức vua này có học thuyết như vầy: “Sắc là tự ngã”. Vì thế, tâm của đức vua ấy mới không hướng đến Pháp thoại. Khi đó, đức Thế Tôn mới khởi sự đến vấn đề này để đem lại một lý do nhằm mục đích làm sáng tỏ học thuyết của đức vua ấy. Trong câu chuyện ấy có nội dung vắn tắt như thế này – “Một thuở nọ, Ta cư trú ở tu viện Ghosita, lúc đó hai vị xuất gia ấy hỏi Ta như vầy. Rồi thì, Ta thuyết giảng đến việc xuất hiện của Đức Phật cho những vị xuất gia ấy, trong khi thuyết giảng Tantidhamma đã nói điều này rằng – “Này Hiền giả, thiện nam tử gọi là có sự thành tựu bởi đức tin, xuất gia trong Giáo Pháp của bậc Đạo Sư có hình thức như vậy, đã (thực hành) viên mãn ba loại giới, đã chứng đắc thiền gồm có Sơ thiền v.v, đã an trú như thế, có thể nói lời nói ấy ‘mạng sống là khác’, phải chăng lời nói ấy là thích hợp đối với thiện nam tử đó?” Khi ấy, khi cả hai vị xuất gia nói là thích hợp, ta sẽ phản bác lại học thuyết ấy rằng: “Này Hiền giả, ý nghĩa này, Ta biết như vậy, Ta thấy như vậy, Ta không nói như vậy, rồi thuyết giảng về bậc Lậu Tận vượt trội hơn, nói cùng thiện nam tử này rằng: “không thích hợp để nói như vậy,” những vị xuất gia đó sau khi lắng nghe lời nói của Ta, trở thành người có tâm hoan hỷ. Trong khi đức Thế Tôn thuyết như vậy, luôn cả đức vua cũng có sự hoan hỷ. Vì thế mới nói rằng: “Đức Thế Tôn đã nói điều này. Oṭṭhaddho thuộc tộc Licchavī hoan hỷ tín thọ lời dạy của đức Thế Tôn.”

Giải Thích Kinh Mahāli được kết thúc – Kinh thứ sáu.

Trong Chú Giải Trường Bộ Kinh là Sumaṅgalavilāsī.



[1] Therassa (Syā)

[2] Tvaṃ pana (Ka)

[3] Sīhopi (Syā), sīho ca (Ka)

[4] Kaṇṇasaṃkhaliyaṃ (Syā)

[5] Dibbasotādhigamassa (Sī, Syā)

[6] Saddaṃ suṇāti (Syā, Ka)

[7] Nibbānadhammo (Syā)

[8] Licchavi (Sī)

[9] Varadhammo (Sī, Syā)

[10] Abhi 2. 244 piṭṭhe.

[11] Abhi 2. 244 piṭṭhe.

[12] Bahukārattā (Sī)

[13] dha. sa. 20

[14] Gahapati (bahūsu) Ma 1. 376 piṭṭhe.

[15] ma. ni. 1.463

[16] Supatiṭṭhitā (Syā), supaṭṭhitā (Ka)