Giải Thích Kinh Lohicca
(Lohiccasuttavaṇṇanā )Xem Trường Bộ Kinh – Kinh Lohicca
Nói Về Câu Chuyện Bà-la-môn Lohicca
501. Evaṃ me sutaṃ … pe … kosalesūti lohiccasuttaṃ. Tatrāyaṃ anuttānapadavaṇṇanā. Sālavatikāti tassa gāmassa nāmaṃ, so kira vatiyā viya samantato sālapantiyā parikkhitto. Tasmā sālavatikāti vuccati. Lohiccoti tassa brāhmaṇassa nāmaṃ.
501. Bài Kinh Lohicca: “Tôi đã nghe như vầy …nt… ở xứ Kosala”. Ở đây, bài Kinh này được giải thích theo tuần tự như sau – Làng Sālavatikā: là tên của ngôi làng ấy, được biết ngôi làng ấy có hàng rào cây Sāla xung quanh. Vì thế, mới gọi là làng Sālavatikā. Lohicca: là tên của vị Bà-la-môn ấy
502-503. Pāpakanti parānukampā virahitattā lāmakaṃ, na pana ucchedasassatānaṃ aññataraṃ. Uppannaṃ hotīti jātaṃ hoti, na kevalañca citte jātamattameva. So kira tassa vasena[1] parisamajjhepi evaṃ bhāsatiyeva. Kiñhi paro parassāti paro yo anusāsīyati, so tassa anusāsakassa kiṃ karissati. Attanā paṭiladdhaṃ kusalaṃ dhammaṃ attanāva sakkatvā garuṃ katvā[2] vihātabbanti vadati.
502-503. Xấu xa: được gọi là xấu ác bởi lìa khỏi việc trợ giúp người khác. Tuy nhiên, không phải Đoạn Kiến và Thường Kiến nào đó. Đã khởi lên: đã khởi lên, và không chỉ khởi lên trong tâm. Được biết Bà-la-môn Lohicca ấy nói như thế, ngay cả ở giữa hội chúng theo mãnh lực của tâm. Bởi vì người khác sẽ làm điều gì cho người khác?: Giải thích – người khác nói rằng: người bị vị ấy nhắc nhở sẽ làm điều gì đối với người chỉ bảo , chính bản thân xứng đáng cung kính, tôn trọng Thiện Pháp mà bản thân được thành tựu.
504-507. Rosikaṃ nhāpitaṃ āmantesīti rosikāti evaṃ itthiliṅgavasena laddhanāmaṃ nhāpitaṃ āmantesi. So kira bhagavato āgamanaṃ sutvā cintesi — “Vihāraṃ gantvā diṭṭhaṃ nāmaṃ[3] bhāro, gehaṃ pana āṇāpetvā passissāmi ceva yathāsatti ca āgantukabhikkhaṃ dassāmī”ti, tasmā evaṃ[4] nhāpitaṃ āmantesi.
504-507. Đã bảo thợ cắt tóc Bhesikā: Bà-la-môn Lohicca đã gọi thợ cắt tóc Bhesikā, người có tên gọi (được chia theo) nữ tánh như vầy Rosikā. Tương truyền vị ấy biết được việc đi đến của đức Thế Tôn đã nghĩ rằng – “Việc đến yết kiến đức Phật ở chỗ cư ngụ (của ngài) là gánh nặng, tuy nhiên tôi (sẽ) mời Ngài đến tư gia rồi yết kiến và sẽ cúng dường đồ ăn khất thực đến vị tăng khách tùy theo khả năng”. Vì thế, Bà-la-môn Lohicca mới gọi thợ cắt tóc Bhesikā đến.
508. Piṭṭhito piṭṭhitoti kathāphāsukatthaṃ pacchato pacchato anubandho hoti. Vivecetūti vimocetu[5], taṃ diṭṭhigataṃ vinodetūti vadati. Ayaṃ kira upāsako lohiccassa brāhmaṇassa piyasahāyako. Tasmā tassa atthakāmatāya evamāha. Appeva nāma siyāti ettha paṭhamavacanena bhagavā gajjati, dutiyavacanena anugajjati. Ayaṃ kirettha adhippāyo — Rosike etadatthameva mayā cattāri asaṅkhyeyyāni. Kappasatasahassañca vividhāni dukkarāni karontena pāramiyo pūritā, etadatthameva sabbaññutaññāṇaṃ paṭividdhaṃ, na me lohiccassa diṭṭhigataṃ bhindituṃ bhāroti, imamatthaṃ dassento paṭhamavacanena bhagavā gajjati. Kevalaṃ rosike lohiccassa mama santike āgamanaṃ vā nisajjā vā allāpasallāpo vā hotu, sacepi lohiccasadisānaṃ satasahassassa kaṅkhā[6] hoti, paṭibalo ahaṃ vinodetuṃ lohiccassa pana ekassa diṭṭhivinodane mayhaṃ ko bhāroti imamatthaṃ dassento dutiyavacanena bhagavā anugajjatīti veditabbo.
508. Đi theo sát phía sau: Rosikā người thợ cắt tóc đi theo Ngài sát ở phía sau để thuận tiện trong việc trò chuyện. Lìa khỏi: hãy xua tan, Rosikā nói với đức Thế Tôn rằng – Cầu xin đức Thế Tôn hãy (giúp cho Bà-la-môn Lohicca) lìa khỏi tà kiến xấu xa. Được biết Rosikā này là cận sự nam, là người bạn yêu quý của Bà-la-môn Lohicca. Do đó, mới nói như vậy vì mong mỏi điều lợi ích cho Bà-la-môn Lohicca. Có lẽ là như vậy, này Bhesikā: Ở đây, đức Thế Tôn thốt ra (lời nói) với lời nói đầu tiên, thốt ra (lời nói) lần nữa với lời nói thứ hai.” Trong câu này, nên biết giải thích như sau – Đức Thế Tôn khi thuyết giảng ý nghĩa này “Này Rosikā, tôi thực hiện nhiều hành động và làm tròn đủ các Ba-la-mật suốt bốn a-tăng-kỳ và trăm ngàn đại kiếp cũng chính vì lợi ích này, Ta đã thấu triệt Toàn-giác-trí cũng chính vì lợi ích này, việc xua tan tà kiến xấu xa của Bà-la-môn Lohicca không phải vấn đề khó khăn đối với Ta, đây gọi là thốt lên (lời nói) với lời nói đầu tiên. Và khi trình bày ý nghĩa này rằng: “Này Rosikā việc đến, việc ngồi, hay việc trò chuyện và đàm luận trong trú xứ của Bà-la-môn Lohicca, tất cả những điều này phải được nêu lên trước tiên, luôn cả một người như Bà-la-môn Lohicca có nghi ngờ (đặt) hàng trăm ngàn câu hỏi. Ta cũng có sức mạnh đủ để xua tan những nghi ngờ (đó). Nhưng trong việc xua tan tà kiến xấu xa của riêng Bà-la-môn Lohicca, lẽ nào lại là vấn đề nghiêm trọng đối với Ta, thế nên (ngài) mới thốt lên (lời nói) lần nữa với lời nói thứ hai.
Việc Can Ngăn Sự Tà Kiến Xấu Xa Của Bà-la-môn Lohicca
509. Samudayasañjātīti samudayassa sañjāti bhoguppādo, tato uṭṭhitaṃ dhanadhaññanti attho. Ye taṃ upajīvantīti ye ñātiparijanadāsakammakarādayo janā taṃ nissāya jīvanti. Antarāyakaroti lābhantarāyakaro. Hitānukampīti ettha hitanti vuḍḍhi. Anukampatīti anukampī, icchatīti attho, vuḍḍhiṃ icchati vā no vāti vuttaṃ hoti. Nirayaṃ vā tiracchānayoniṃ vāti sace sā micchādiṭṭhi sampajjati, niyatā hoti, ekaṃsena niraye nibbattati, no ce, tiracchānayoniyaṃ nibbattatīti attho.
509. Kết quả được mang lai: Sự phát khởi của điều kiện, là việc phát sanh của tài sản, có nghĩa là tài sản và thóc lúa phát sanh từ lợi ích đó. Ai sống phụ thuộc vào ông: mọi người có thân quyến, đồ chúng, người hầu và người lao động v.v, nương nhờ vị ấy để nuôi mạng. Kẻ gây chướng ngại: kẻ gây chướng ngại về lợi tức. Từ ‘lợi ích’ trong cụm từ ‘quan tâm đến điều lợi ích’: (bào gồm) sự tăng trưởng. Người thương yêu: là có lòng thương xót, ngài đã nói giải thích rằng: ước muốn sự tăng trưởng hoặc không ước muốn (qua tâm hoặc không quan tâm). Hoặc là địa ngục hoặc là thai bào của loài thú: Nếu như tà kiến xấu xa ấy thành tựu, thì chắc chắn sanh vào địa ngục, nếu không thì sanh vào thai bào của loài thú.
510-512. Idāni yasmā yathā attano lābhantarāyena sattā saṃvijjanti[7] na tathā paresaṃ, tasmā suṭṭhutaraṃ brāhmaṇaṃ pavecetukāmo[8] “taṃ kiṃ maññasī”ti dutiyaṃ upapattimāha. Ye cimeti ye ca ime tathāgatassa dhammadesanaṃ sutvā ariyabhūmiṃ okkamituṃ asakkontā kulaputtā dibbā gabbhāti upayogatthe paccattavacanaṃ, dibbe gabbheti attho. Dibbā, gabbhāti ca channaṃ devalokānametaṃ adhivacanaṃ. Paripācentīti devalokagāminiṃ paṭipadaṃ pūrayamānā dānaṃ, dadamānā, sīlaṃ rakkhamānā, gandhamālādīhi pūjaṃ kurumānā[9], bhāvanaṃ bhāvayamānā pācenti vipācenti paripācenti pariṇāmaṃ gamenti. Dibbānaṃ bhavānaṃ abhinibbattiyāti dibbabhavā nāma devānaṃ vimānāni, tesaṃ nibbattanatthāyāti attho. Atha vā dibbā gabbhāti dānādayo puññavisesā. Dibbā bhavāti devaloke vipākakkhandhā, tesaṃ nibbattanatthāya tāni puññāni karontīti attho. Tesaṃ antarāyakaroti tesaṃ maggasampattiphalasampattidibbabhavavisesānaṃ antarāyakaro. Iti bhagavā ettāvatā aniyamiteneva opammavidhinā yāva bhavaggā uggataṃ brāhmaṇassa mānaṃ bhinditvā idāni codanārahe tayo satthāre dassetuṃ “tayo kho me, lohiccā”tiādimāha.
510-512. Bây giờ, bởi vì đức Thế Tôn có ước muốn để Bà-la-môn khởi lên sầu não hơn nữa giống như các chúng sanh bị xao động bởi chướng ngại về lợi đắc của chính mình, không phải bị xao động do chướng ngại về lợi đắc của người khác, do đó ngài đã nói câu chuyện sanh khởi lần thứ hai “Này Lohicca, ông nghĩ gì về việc này?” Các thiện nam tử này: Sau khi các thiện nam tử này đã nghe Pháp thoại của Như Lai, không thể không nhập vào địa phận của các bậc Thánh nhân. Bào thai Thiên giới: hình thức của từ là ‘Chủ Cách’ được sử dụng trong ý nghĩa ‘Đối Cách’ (được dịch là) bào thai Thiên giới. Hơn nữa, bào thai Thiên giới này là tên gọi của sáu cõi trời. Các thiện nam tử được nuôi dưỡng: Các thiện nam tử hoàn thiện đạo lộ thực hành đưa đến Thiên giới, bố thí, trì giới, thực hành lễ bái bằng vật thơm và tràng hoa v.v, phát triển tu tập gọi là nuôi dưỡng, rèn luyện, gọi là hiểu được sự thay đổi. Nhằm đến việc sanh lên các cõi Trời: Thiên cung của các Thiên giới gọi là cõi trời, nhằm mục đích sanh vào các thiên cung ấy. Thêm nữa, bào thai Thiên giới: ám chỉ đến phước báu đặc biệt có bố thí v.v. Cõi trời: Tất cả các cõi thuộc Dị thục quả Uẩn ở cõi trời, các thiện nam tử tạo phước báo nhằm sanh vào các cõi đó. Gây chướng ngại cho thiện nam tử: Gây chướng ngại cho việc thành tựu Đạo, thành tựu Quả và sự đặc biệt của cõi ấy thuộc thiên giới của những vị ấy. Đứ Thế Tôn khi đã phá tan ngã mạn của Bà-la-môn đến cõi trời cao nhất bằng phương pháp ví dụ mà không chỉ rõ, bây giờ để trình bày đến ba hạng đạo sư đáng bị quở trách nên mới nói rằng: “Này Lohicca, ba hạng đạo sư này…”
Giảng Giải Về Ba Hạng Đạo Sư
513. Tattha sā codanāti tayo satthāre codentassa codanā. Na aññā cittaṃ upaṭṭhapentīti aññāya ājānanatthāya cittaṃ na upaṭṭhapenti. Vokkammāti nirantaraṃ tassa sāsanaṃ akatvā tato ukkamitvā[10] vattantīti attho. Osakkantiyā vā ussakkeyyāti paṭikkamantiyā upagaccheyya, anicchantiyā iccheyya, ekāya sampayogaṃ anicchantiyā eko iccheyyāti vuttaṃ hoti. Parammukhiṃ vā āliṅgeyyāti daṭṭhumpi anicchamānaṃ parammukhiṃ ṭhitaṃ pacchato gantvā āliṅgeyya. Evaṃsampadamidanti imassāpi satthuno “mama ime sāvakā”ti sāsanā vokkamma vattamānepi te lobhena[11] anusāsato imaṃ lobhadhammaṃ evaṃsampadameva īdisameva vadāmi. Iti so evarūpo tava lobhadhammo yena tvaṃ osakkantiyā ussakkanto viya parammukhiṃ āliṅganto viya ahosītipi taṃ codanaṃ arahati. Kiñhi paro parassa karissatīti yena dhammena pare anusāsi, attānameva tāva tattha[12] sampādehi, ujuṃ karohi. Kiñhi paro parassa karissatīti codanaṃ arahati.
513. Việc quở trách: việc quở trách của của người khiển trách cả ba hạng đạo sư ấy. Không lập tâm để hiểu: không lập tâm để hiểu biết toàn diện, là vì lợi ích cho việc biết toàn diện. Chệch khỏi: không thực hiện theo lời dạy của đạo sư ấy liên tục, thực hành chệch khỏi từ lời dạy ấy. Có thể nài ép người nữ không ưng thuận: Tiến vào tìm kiếm người nữ đang tránh né, (người đàn ông) muốn người nữ (nhưng người nữ) không muốn, tức là mong muốn chỉ từ phía người đàn ông còn phía người nữa thì không muốn. Hoặc ôm chầm lấy người nữ đã ngoảnh mặt đi: Người đàn ông đi ở phía sau rồi ôm chầm lấy người nữ, người không muốn ngay cả việc nhìn thấy, đứng ở phía sau. Cũng tương như vậy: khi vị đạo sư này nghĩ rằng – “nhóm này là đệ tử của ta” rồi dạy các đệ tử tránh né thực hành từ lời dạy bằng sự tham lam, ta mới thuyết pháp tham này, có ví dụ cũng tương tự thế ấy vị đạo sư ấy xứng đáng bị quở trách rằng: “Ông cũng giống như người đàn ông nài ép người nữ không ưng thuận, cũng giống như người đàn ông ôm chầm người nữ đã ngoảnh mặt đi với pháp tham nào thì pháp tham ấy của vị ấy cũng có hình thức là như thế. Bởi vì có ai sẽ làm được điều gì cho ai?: Bậc đạo sư xứng đáng bị quở trách rằng: “ông dạy người khác với pháp nào, chính bản thân (hãy) thành tựu với pháp ấy trước, hãy làm cho ngay thẳng.” Bởi vì người khác sẽ làm được điều gì cho người khác?
514. Niddāyitabbanti sassarūpakāni[13] tiṇāni uppāṭetvā parisuddhaṃ kātabbaṃ.
514. Nơi bản thân cần làm tốt: Nên nhổ cỏ làm hại cây lúa, rồi dọn dẹp cho ngăn nắp.
515. Tatiyacodanāya kiñhi paro parassāti anusāsanaṃ asampaṭicchanakālato paṭṭhāya paro anusāsitabbo, parassa anusāsakassa kiṃ karissatīti nanu tattha appossukkataṃ āpajjitvā attanā paṭividdhadhammaṃ attanāva mānetvā pūjetvā vihātabbanti evaṃ codanaṃ arahatīti attho.
515. Sự quở trách lần thứ ba, bởi vì có ai sẽ làm được điều gì cho ai? có nghĩa là người khác bị nhắc nhở kể từ lúc không tiếp nhận lời dạy sẽ làm được gì cho người khác, tức là người nhắc nhở. Nghĩa là vị đạo sư ấy xứng đáng bị quở trách như vầy rằng: “chính bản thân phải đạt đến sự ít nỗ lực, rồi mới nên lễ bái pháp mà bản thân biết rõ, thấy triệt không phải sao?”
Giảng Giải Vị Đạo Sư Không Đáng Bị Quở Trách
516. Na codanārahoti ayañhi yasmā paṭhamameva attānaṃ patirūpe patiṭṭhāpetvā sāvakānaṃ dhammaṃ deseti. Sāvakā cassa assavā hutvā yathānusiṭṭhaṃ paṭipajjanti, tāya ca paṭipattiyā mahantaṃ visesamadhigacchanti. tasmā na codanārahoti.
516. Không đáng bị quở trách: bởi vì bậc đạo sư này đặt mình theo đúng lời chỉ dạy trước, mới thuyết pháp cho chúng đệ tử. Và đệ tử của vị ấy là vị vâng lời hành theo lời chỉ bảo (ấy) chứng đạt cao (pháp) đặc biệt lớn lao. Vì thế, vị ấy mới không đáng bị quở trách.
517. Narakapapātaṃ papatantoti mayā gahitāya diṭṭhiyā ahaṃ narakapapātaṃ papatanto. Uddharitvā thale patiṭṭhāpitoti taṃ diṭṭhiṃ bhinditvā[14] dhammadesanāhatthena apāyapatanato uddharitvā saggamaggathale ṭhapitomhīti vadati. Sesamettha uttānamevāti.
517. Đang rơi vào vực thẳm của địa ngục: Do tôi giữ lấy tà kiến xấu xa mới rơi vào vào vực thẳm của địa ngục. Đã được (đức Thế Tôn) nâng lên và đặt đứng ở đất liền: Bà-la-môn đã nói rằng – Tôi đã cắt đứt tà kiến xấu xa, (đức Thế Tôn) đã đưa (tôi) lên từ vực thẳm của địa ngục bằng đôi tay là Pháp thoại, rồi đặt (tôi) đứng trên đất liền là đạo lộ (đưa đến) thiên giới. Các từ còn lại đều đơn giản.
Giải Thích Kinh Lohicca được kết thúc – Kinh thứ mười hai.
Trong Chú Giải Trường Bộ Kinh là Sumaṅgalavilāsī.
[1] Tasseva (Ka)
[2] Garukatvā (Sā)
[3] Daṭṭhabbaṃ nāma (Sī, Syā)
[4] Taṃ (Sī, Syā)
[5] Mocetu (Ka)
[6] Satasahassasaṇkhyā (Ka)
[7] Santāsaṃ vijjanti (Sī)
[8] Saṃvejetukāmo (Sī)
[9] Pūjayamānā (Ka)
[10] Okkamitvāpi (Syā), upakkamitvā (Ka)
[11] Mohena (Sī)
[12] Cettha (Sī)
[13] Sassadūsikāni (Sī), sassadūsakāni (Syā)
[14] Chinditvā (Syā), chinditvāva (Ka)