Giải Thích Kinh Khởi Niềm Tịnh Tín

(Sampasādanīyasuttasuttavaṇṇanā (28))

Xem Trường Bộ Kinh – Kinh Khởi Niềm Tịnh Tín (Kinh Tự Hoan Hỷ)

 

Giảng thích về tiếng rống sư tử của Sāriputta

141. Evaṃme sutanti sampasādanīyasuttaṃ. Tatrāyamanuttānapadavaṇṇanā – nāḷandāyanti nāḷandāti evaṃnāmake nagare, taṃ nagaraṃ gocaragāmaṃ katvā. Pāvārikambavaneti dussapāvārikaseṭṭhino ambavane. Taṃ kira tassa uyyānaṃ ahosi. So bhagavato dhammadesanaṃ sutvā bhagavati pasanno tasmiṃ uyyāne kuṭileṇamaṇḍapādipaṭimaṇḍitaṃ bhagavato vihāraṃ katvā niyyātesi. So vihāro jīvakambavanaṃ viya ‘‘pāvārikambavana’’ntveva saṅkhyaṃ gato, tasmiṃ pāvārikambavane viharatīti attho. Bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘evaṃpasanno ahaṃ, bhante, bhagavatī’’ti. Kasmā evaṃ avoca? Attano uppannasomanassapavedanatthaṃ.

141. Bài Kinh Khởi Niềm Tịnh Tín bắt đầu như sau— ‘Tôi đã nghe như vầy…’ Ở đây là phần giải thích các từ ngữ chưa được giải thích – Trú tại Nāḷandā: Ở gần thành phố có tên như vầy rằng ‘Nāḷandā’, Đức Thế Tôn đã biến thành phố Nāḷandā trở thành nơi để đi khất thực. Trong rừng xoài của Pāvārika: Ở khu rừng xoài của nhà triệu phú bán vải và áo choàng. Nghe rằng rừng xoài đó đã trở thành vườn hoa của nhà triệu phú ấy. Vị ấy sau khi lắng bài thuyết Pháp của đức Thế Tôn, đã có lòng tịnh tín đối với đức Thế Tôn, và đã cho xây dựng trú xá gồm có các liêu cốc, hang động, mái che, v.v… ở khu vườn hóa đó rồi dâng cúng lên đức Thế Tôn. Trú xá đó đã được đặt tên là ‘rừng xoài của Pāvārika’, giống như rừng xoài của lương y Jīvaka. Giải thích rằng– đức Thế Tôn đã trú nơi ‘rừng xoài của Pāvārika’ đó. Trưởng lão Sāriputta đã thưa lời này với đức Thế Tôn: “Bạch Ngài, con có lòng tịnh tín đối với đức Thế Tôn như vậy.” Tại sao Trưởng lão lại thưa như vậy? – Để tuyên bố niềm hoan hỷ đã khởi lên nơi bản thân.

Tatrāyamanupubbikathā – thero kira taṃdivasaṃ kālasseva sarīrappaṭijagganaṃ katvā sunivatthanivāsano pattacīvaramādāya pāsādikehi abhikkantādīhi devamanussānaṃ pasādaṃ āvahanto nāḷandavāsīnaṃ hitasukhamanubrūhayanto piṇḍāya pavisitvā pacchābhattaṃ piṇḍapātapaṭikkanto vihāraṃ gantvā satthu vattaṃ dassetvā satthari gandhakuṭiṃ paviṭṭhe satthāraṃ vanditvā attano divāṭṭhānaṃ agamāsi. Tattha saddhivihārikantevāsikesu vattaṃ dassetvā paṭikkantesu divāṭṭhānaṃ sammajjitvā cammakkhaṇḍaṃ paññapetvā udakatumbato udakena hatthapāde sītale katvā tisandhipallaṅkaṃ ābhujitvā kālaparicchedaṃ katvā phalasamāpattiṃ samāpajji.

Trong vấn đề này, có sự trình bày theo trình tự như sau – Kể rằng, vào ngày hôm ấy, Trưởng lão đã tắm rửa từ sáng sớm, mặc y phục chỉnh tề, ôm bát và y, đem lại niềm tịnh tín cho chư Thiên và loài người bằng những oai nghi như bước tới, v.v, đáng tịnh tín với mong muốn tăng thêm lợi ích và sự an lạc cho dân chúng thành phố Nālandā nên Ngài mới đi khất thực, sau thời thọ thực ngài đã trở về trú xá từ việc đi khất thực, rồi thực hiện các bổn phận đối với bậc Đạo Sư. Trong khi bậc Đạo Sư bước vào hương thất, ngài đã đảnh lễ bậc Đạo Sư rồi trở về nơi nghỉ ban ngày của mình. Khi các sa-di đồng trú và các đệ tử ở nơi đó đã thực hiện bổn phận xong và rời đi, Trưởng lão đã quét dọn chỗ nghỉ ban ngày đó, đã trải tấm da ra, đã lấy nước từ chum để làm mát tay và chân, rồi xếp chân thế kiết già với ba điểm tiếp xúc, sau khi xác định thời gian (Ngài) đã thể nhập vào Thánh Quả.

So yathāparicchinnakālavasena samāpattito vuṭṭhāya attano guṇe anussaritumāraddho. Athassa guṇe anussarato sīlaṃ āpāthamāgataṃ. Tato paṭipāṭiyāva samādhi paññā vimutti vimuttiñāṇadassanaṃ paṭhamaṃ jhānaṃ dutiyaṃ jhānaṃ tatiyaṃ jhānaṃ catutthaṃ jhānaṃ ākāsānañcāyatanasamāpatti viññānañcāyatanasamāpatti ākiñcaññāyatanasamāpatti nevasaññānāsaññāyatanasamāpatti vipassanāñāṇaṃ manomayiddhiñāṇaṃ iddhividhañāṇaṃ dibbasotañāṇaṃ cetopariyañāṇaṃ pubbenivāsānussatiñāṇaṃ dibbacakkhuñāṇaṃ…pe… sotāpattimaggo sotāpattiphalaṃ…pe… arahattamaggo arahattaphalaṃ atthapaṭisambhidā dhammapaṭisambhidā niruttipaṭisambhidā paṭibhānapaṭisambhidā sāvakapāramīñāṇaṃ. Ito paṭṭhāya kappasatasahassādhikassa asaṅkhyeyyassa upari anomadassībuddhassa pādamūle kataṃ abhinīhāraṃ ādiṃ katvā attano guṇe anussarato yāva nisinnapallaṅkā guṇā upaṭṭhahiṃsu.

Ngài đã xuất khỏi sự thể nhập Thánh Quả theo đúng thời gian quy định rồi bắt đầu tùy niệm về đức hạnh của bản thân. Khi ấy, trong lúc Ngài đang tùy niệm về những đức hạnh đã đi đến phạm vi của Giới. Tiếp đó là Định, Tuệ, Giải thoát, Giải thoát tri kiến, Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền, sự chứng đạt Không vô biên xứ, sự chứng đạt Thức vô biên xứ, sự chứng đạt Vô sở hữu xứ, sự chứng đạt Phi tưởng phi phi tưởng xứ, Trí về Minh sát, Trí về thần thông do ý tạo, Trí về các sự thành tựu, Trí về thiên nhĩ, Trí biết được tâm, Trí nhớ về các kiếp sống trước, Trí về thiên nhãn …nt… Đạo Nhập Lưu, Quả Nhập Lưu …nt… Đạo A-ra-hán, Quả A-ra-hán, sự phân tích ý nghĩa, sự phân tích pháp, sự phân tích ngôn từ, sự phân tích phép biện giải, và Trí về sự toàn hỏa của bậc Thinh Văn cũng hiện khởi theo tuần tự. Kể từ đó, khi ngài đang tùy niệm về những đức hạnh của mình, bắt đầu từ sự phát nguyện đã được thực hiện dưới chân đức Phật Anomadassī, trải qua một a-tăng-kỳ và hơn một trăm ngàn đại kiếp, cho đến thời điểm đang ngồi kiết già, tất cả những đức hạnh ấy đều hiện ra.

Evaṃ thero attano guṇe anussaramāno guṇānaṃ pamāṇaṃ vā paricchedaṃ vā daṭṭhuṃ nāsakkhi. So cintesi – ‘‘mayhaṃ tāva padesañāṇe ṭhitassa sāvakassa guṇānaṃ pamāṇaṃ vā paricchedo vā natthi. Ahaṃ pana yaṃ satthāraṃ uddissa pabbajito, kīdisā nu kho tassa guṇā’’ti dasabalassa guṇe anussarituṃ āraddho. So bhagavato sīlaṃ nissāya, samādhiṃ paññaṃ vimuttiṃ vimuttiñāṇadassanaṃ nissāya, cattāro satipaṭṭhāne nissāya, cattāro sammappadhāne cattāro iddhipāde cattāro magge cattāri phalāni catasso paṭisambhidā catuyoniparicchedakañāṇaṃ cattāro ariyavaṃse nissāya dasabalassa guṇe anussaritumāraddho.

Trưởng lão đã tùy niệm vô số đức hạnh của mình như vậy, nhưng vẫn không thể nhìn thấy được giới hạn hay xác định được đức hạnh của chúng (đệ tử). Ngài khởi lên ý nghĩ rằng: “Sự giới hạn hay xác định các đức hạnh của một đệ tử đang an trú trong một khía cạnh của Trí dường như không có đối với ta. Còn ta xuất gia y chỉ bậc Đạo Sư nào, bậc Đạo Sư ấy có đức hạnh như thế nào nhỉ? (sau khi nghĩ như vậy), vị ấy bắt đầu tùy niệm về những đức hạnh của đức Thập Lực. Ngài đã nương vào Giới, Định, Tuệ, Giải thoát, Giải thoát tri kiến, Bốn sự thiết lập niệm của đức Thế Tôn; nương vào Bốn Chánh Cần, Bốn nền tảng của thần thông, Bốn Thánh Đạo, Bốn Thánh Quả, Bốn Vô Ngại Giải, Bốn trí phân định về nguồn gốc sanh ra, Bốn dòng dõi bậc Thánh của đức Thập Lực, rồi bắt đầu tùy niệm về những đức hạnh của đức Thập Lực.

Tathā pañca padhāniyaṅgāni, pañcaṅgikaṃsammāsamādhiṃ, pañcindriyāni, pañca balāni, pañca nissaraṇiyā dhātuyo, pañca vimuttāyatanāni, pañca vimuttiparipācaniyā paññā, cha sāraṇīye dhamme, cha anussatiṭṭhānāni, cha gārave, cha nissaraṇiyā dhātuyo, cha satatavihāre, cha anuttariyāni, cha nibbedhabhāgiyā paññā, cha abhiññā, cha asādhāraṇañāṇāni, satta aparihāniye dhamme, satta ariyadhanāni, satta bojjhaṅge, satta sappurisadhamme, satta nijjaravatthūni, satta paññā, satta dakkhiṇeyyapuggale, satta khīṇāsavabalāni, aṭṭha paññāpaṭilābhahetū, aṭṭha sammattāni, aṭṭha lokadhammātikkame, aṭṭha ārambhavatthūni, aṭṭha akkhaṇadesanā, aṭṭha mahāpurisavitakke, aṭṭha abhibhāyatanāni, aṭṭha vimokkhe, nava yonisomanasikāramūlake dhamme, nava pārisuddhipadhāniyaṅgāni, nava sattāvāsadesanā, nava āghātappaṭivinaye, nava paññā, nava nānattāni, nava anupubbavihāre, dasa nāthakaraṇe dhamme, dasa kasiṇāyatanāni, dasa kusalakammapathe, dasa tathāgatabalāni, dasa sammattāni, dasa ariyavāse, dasa asekkhadhamme, ekādasa mettānisaṃse, dvādasa dhammacakkākāre, terasa dhutaṅgaguṇe, cuddasa buddhañāṇāni, pañcadasa vimuttiparipācaniye dhamme, soḷasavidhaṃ ānāpānassatiṃ, aṭṭhārasa buddhadhamme, ekūnavīsati paccavekkhaṇañāṇāni, catucattālīsa ñāṇavatthūni, paropaṇṇāsa kusaladhamme, sattasattati ñāṇavatthūni, catuvīsatikoṭisatasahassa samāpatti sañcaramahāvajirañāṇaṃ nissāya dasabalassa guṇe anussarituṃ ārabhi.

Hơn nữa, Trưởng lão y cứ vào năm chi phần nỗ lực, năm chi của chánh định, ngũ căn, ngũ lực, năm xuất ly giới, năm giải thoát giới, năm giải thoát xứ, năm loại tuệ đưa đến sự chín muồi của giải thoát, sáu pháp hòa kính, sáu tùy niệm xứ, sáu pháp kính trọng, sáu xuất ly giới, sáu pháp thường trú, sáu điều cao thượng, sáu tuệ liên quan đến thấu triệt, sáu thần thông, sáu loại trí không phổ thông (đến các vị Thinh Văn), bảy pháp bất thối, bảy loại tài sản của bậc Thánh, bảy giác chi, bảy pháp bậc chân nhân, bảy sự việc làm thoái hóa, bảy loại tuệ, bảy hạng người đáng cúng dường, bảy lực của bậc Lậu Tận, tám nhân đạt được trí tuệ, tám trạng thái chân chánh, sự vượt khỏi tám pháp thế gian, tám nền tảng để làm phát khởi nỗ lực, tám giáo giới về thời điểm không thể hành đức hạnh, tám pháp suy tầm của bậc đại nhân, tám thắng xứ (của thiền), tám giải thoát, chín pháp có tác ý đúng đường lối làm gốc, chín chi phần nỗ lực thanh tịnh, chín hữu tình cư, chín sự giải trừ xung đột, chín trí tuệ, chín tánh sai biệt, chín loại tưởng, chín sự an trú theo tuần tự, chín sự diệt tận theo tuần tự, mười pháp tạo thành chỗ nương, mười biến xứ, mười đường lối tạo nghiệp thiện, mười Như Lai lực, mười bản thể chân chánh, mười đặc tính của đời sống các bậc Thánh, mười pháp thuộc về bậc Vô học, mười một lợi ích niệm tâm từ, mười hai thể pháp luân, mười ba pháp đầu đà, mười bốn Phật trí, mười lăm pháp đưa đến sự chín muồi của giải thoát, mười sáu phương pháp niệm hơi thở vào niệm hơi thở ra, mười tám đặc tánh của đức Phật, mười chín loại tuệ về quán xét lại, bốn mươi bốn nền tảng của trí, hơn năm mươi thiện pháp, bảy mươi bảy nền tảng của trí, hai triệu bốn trăm ngàn koṭi trí tuệ kim cang vĩ đại đồng sanh với sự thành tựu, rồi bắt đầu tùy niệm đến đức hạnh của đức Thập Lực.

Tasmiṃyeva ca divāṭṭhāne nisinnoyeva upari ‘‘aparaṃ pana, bhante, etadānuttariya’’nti āgamissanti soḷasa aparampariyadhammā, tepi nissāya anussarituṃ ārabhi.

Hơn nữa, Trưởng lão Sāriputta, khi đang ngồi ở tại nơi nghỉ ban ngày đó, đã y cứ vào 16 Pháp phi truyền thừa, sẽ được đề cập tiếp theo trong bản Pāḷī “Còn điều khác nữa, bạch Ngài, theo cách thức mà đức Thế Tôn, v.v.”, rồi bắt đầu tùy niệm về những đức hạnh của đức Thập Lực.

So ‘‘kusalapaññattiyaṃ anuttaro mayhaṃ satthā, āyatanapaññattiyaṃ anuttaro, gabbhāvakkantiyaṃ anuttaro, ādesanāvidhāsu anuttaro, dassanasamāpattiyaṃ anuttaro, puggalapaññattiyaṃ anuttaro, padhāne anuttaro, paṭipadāsu anuttaro, bhassasamācāre anuttaro, purisasīlasamācāre anuttaro, anusāsanīvidhāsu anuttaro, parapuggalavimuttiñāṇe anuttaro, sassatavādesu anuttaro, pubbenivāsañāṇe anuttaro, dibbacakkhuñāṇe anuttaro, iddhividhe anuttaro, iminā ca iminā ca anuttaro’’ti evaṃ dasabalassa guṇe anussaranto bhagavato guṇānaṃ neva antaṃ, na pamāṇaṃ passi.

Trưởng lão Sāriputta đã tùy niệm về những đức hạnh của đức Thập Lực như vầy: “Bậc Đạo Sư của chúng ta là bậc vô thượng trong sự phân loại các pháp thiện, vô thượng trong sự phân loại các xứ, vô thượng trong các trường hợp nhập thai, vô thượng trong các phương thức điểm chỉ (tâm của người khác), vô thượng trong sự thể nhập việc thấy biết, vô thượng trong sự phân loại về hạng người, vô thượng trong các sự nỗ lực, vô thượng trong các lối thực hành, vô thượng về hành vi nói năng, vô thượng về hành vi đạo đức, vô thượng trong các cách thức giáo huấn, vô thượng trong trí giải thoát của người khác, vô thượng trong các học thuyết trường tồn, vô thượng trong trí nhớ lại các kiếp sống quá khứ, vô thượng trong trí về thiên nhãn, vô thượng trong các loại thần thông, vô thượng bằng Pháp này.” Dù tùy niệm như vậy, Ngài vẫn không thể thấy được tận cùng, mà cùng không nhìn thấy được giới hạn của các đức hạnh của đức Thế Tôn.

Thero attanopi tāva guṇānaṃ antaṃ vā pamāṇaṃ vā nāddasa, bhagavato guṇānaṃ kiṃ passissati? Yassa yassa hi paññā mahatī ñāṇaṃ visadaṃ, so so buddhaguṇe mahantato saddahati. Lokiyamahājano ukkāsitvāpi khipitvāpi ‘‘namo buddhāna’’nti attano attano upanissaye ṭhatvā buddhānaṃ guṇe anussarati. Sabbalokiyamahājanato eko sotāpanno buddhaguṇe mahantato saddahati. Sotāpannānaṃ satatopi sahassatopi eko sakadāgāmī. Sakadāgāmīnaṃ satatopi sahassatopi eko anāgāmī. Anāgāmīnaṃ satatopi sahassatopi eko arahā buddhaguṇe mahantato saddahati. Avasesaarahantehi asīti mahātherā buddhaguṇe mahantato saddahanti. Asītimahātherehi cattāro mahātherā. Catūhi mahātherehi dve aggasāvakā. Tesupi sāriputtatthero, sāriputtattheratopi eko paccekabuddho buddhaguṇe mahantato saddahati. Sace pana sakalacakkavāḷagabbhe saṅghāṭikaṇṇena saṅghāṭikaṇṇaṃ pahariyamānā nisinnā paccekabuddhā buddhaguṇe anussareyyuṃ, tehi sabbehipi eko sabbaññubuddhova buddhaguṇe mahantato saddahati.

Trưởng lão còn không thấy được tận cùng, mà cũng không nhìn thấy được giới hạn về các đức hạnh của chính mình trước, thì làm sao có thể thấy được các đức hạnh của đức Thế Tôn? Người nào có tuệ vĩ đại và có trí mạnh mẽ, người ấy càng tin sâu sắc vào đức hạnh của đức Phật. Đám đông phàm nhân ở thế gian, dù ho hay hắt hơi, vẫn vững trú tùy theo nhân duyên riêng của mình mà tùy niệm đến đức hạnh của chư Phật rằng: “Con xin đảnh lễ đến chư Phật!” Một vị Nhập Lưu tin tưởng vào đức hạnh của đức Phật nhiều hơn toàn bộ đám đông phàm nhân ở thế gian. Một vị Nhất Lai tin tưởng vào đức hạnh của đức Phật nhiều hơn hàng trăm hàng ngàn vị Nhập Lưu. Một vị Bất Lai (Bất Lai) tin tưởng vào đức hạnh của đức Phật nhiều hơn hàng trăm hàng ngàn vị Nhất Lai. Một vị A-ra-hán (bậc Thánh Vô học) tin tưởng vào đức hạnh của đức Phật nhiều hơn hàng trăm hàng ngàn vị Bất Lai. Tám mươi vị Đại Trưởng lão tin tưởng vào đức hạnh của đức Phật nhiều hơn các vị A-ra-hán còn lại. Bốn vị Đại Trưởng lão tin tưởng vào đức hạnh của đức Phật nhiều hơn tám mươi vị Đại Trưởng lão. Hai vị Đại Thinh văn tin vào đức hạnh của Đức Phật nhiều hơn bốn vị Đại Trưởng lão. Trong số hai vị Đại Thinh văn đó, Trưởng lão Sāriputta tin tưởng vào đức hạnh của đức Phật nhiều hơn Trưởng lão Moggallāna. Một vị Phật Độc Giác tin tưởng vào đức hạnh của đức Phật nhiều hơn Trưởng lão Sāriputta. Giả sử tất cả các vị Phật Độc Giác có thể ngồi toàn bộ trong lòng vũ trụ, các y hai lớp của vị này chạm vào y hai lớp của vị kia, rồi cùng nhau tùy niệm về đức hạnh của đức Phật, thì chỉ duy nhất một vị Phật Toàn Giác tin tưởng vào phẩm chất của Đức Phật nhiều hơn tất cả những vị Phật Độc Giác ấy.

Seyyathāpi nāma mahājano ‘‘mahāsamuddo gambhīro uttāno’’ti jānanatthaṃ yottāni vaṭṭeyya, tattha koci byāmappamāṇaṃ yottaṃ vaṭṭeyya, koci dve byāmaṃ, koci dasabyāmaṃ, koci vīsatibyāmaṃ, koci tiṃsabyāmaṃ, koci cattālīsabyāmaṃ, koci paññāsabyāmaṃ, koci satabyāmaṃ, koci sahassabyāmaṃ, koci caturāsītibyāmasahassaṃ. Te nāvaṃ āruyha, samuddamajjhe uggatapabbatādimhi vā ṭhatvā attano attano yottaṃ otāreyyuṃ, tesu yassa yottaṃ byāmamattaṃ, so byāmamattaṭṭhāneyeva udakaṃ jānāti…pe… yassa caturāsītibyāmasahassaṃ, so caturāsītibyāmasahassaṭṭhāneyeva udakaṃ jānāti. Parato udakaṃ ettakanti na jānāti. Mahāsamudde pana na tattakaṃyeva udakaṃ, atha kho anantamaparimāṇaṃ. Caturāsītiyojanasahassaṃ gambhīro hi mahāsamuddo, evameva ekabyāmayottato paṭṭhāya navabyāmayottena ñātaudakaṃ viya lokiyamahājanena diṭṭhabuddhaguṇā veditabbā. Dasabyāmayottena dasabyāmaṭṭhāne ñātaudakaṃ viya sotāpannena diṭṭhabuddhaguṇā. Vīsatibyāmayottena vīsatibyāmaṭṭhāne ñātaudakaṃ viya sakadāgāminā diṭṭhabuddhaguṇā. Tiṃsabyāmayottena tiṃsabyāmaṭṭhāne ñātaudakaṃ viya anāgāminā diṭṭhabuddhaguṇā. Cattālīsabyāmayottena cattālīsabyāmaṭṭhāne ñātaudakaṃ viya arahatā diṭṭhabuddhaguṇā. Paññāsabyāmayottena paññāsabyāmaṭṭhāne ñātaudakaṃ viya asītimahātherehi diṭṭhabuddhaguṇā. Satabyāmayottena satabyāmaṭṭhāne ñātaudakaṃ viya catūhi mahātherehi diṭṭhabuddhaguṇā. Sahassabyāmayottena sahassabyāmaṭṭhāne ñātaudakaṃ viya mahāmoggallānattherena diṭṭhabuddhaguṇā. Caturāsītibyāmasahassayottena caturāsītibyāmasahassaṭṭhāne ñātaudakaṃ viya dhammasenāpatinā sāriputtattherena diṭṭhabuddhaguṇā. Tattha yathā so puriso mahāsamudde udakaṃ nāma na ettakaṃyeva, anantamaparimāṇanti gaṇhāti, evameva āyasmā sāriputto dhammanvayena anvayabuddhiyā anumānena nayaggāhena sāvakapāramīñāṇe ṭhatvā dasabalassa guṇe anussaranto ‘‘buddhaguṇā anantā aparimāṇā’’ti saddahi.

Đám đông người đang se sợi dây thừng nhằm mục đích để biết được rằng: “độ sâu-cạn của đại dương ra sao”. Trong số họ, một số người se được sợi dây dài khoảng một sải(tay), một số người được 2 sải, một số người được 10 sải, một số người được 20 sải, một số người được 30 sải, một số người được 40 sải, một số người được 50 sải, một số người được 100 sải, một số người được 1.000 sải, thậm chí một số người được 84.000 sải. Họ cùng nhau bước xuống thuyền, đứng giữa đại dương hoặc trên đỉnh núi cao, rồi thả dây sợi dây thừng của mình xuống. Trong số những người ấy, người nào có dây dài một sải, người ấy chỉ biết được độ sâu nước trong khoảng một sải mà thôi …nt… còn người nào có dây dài đến 84.000 sải thì người ấy chỉ biết được độ sâu nước khoảng 84.000 sải. Từ đó trở đi, thì họ không thể biết được rằng nước trong đại dương sâu đến mức nào nữa. Và hơn nữa, nước trong đại dương không chỉ có chừng ấy, thật ra (nước) có rất nhiều không thể đo lường được, bởi vì đại dương sâu đến 84.000 do-tuần, tương tự y như thế ấy, nên biết rằng đức hạnh của đức Phật được nhìn thấy bởi đám đông dân chúng ở thế gian cũng giống như lượng nước được biết bằng sợi dây thừng dài từ 1 sải đến 9 sải. Đức hạnh của đức Phật được nhìn thấy bởi bậc Thánh Nhập Lưu, ví như lượng nước được biết ở độ sâu 10 sải bằng sợi dây thừng dài 10 sải. Đức hạnh của Phật đức được nhìn thấy bởi bậc Nhất Lai, ví như lượng nước được biết ở độ sâu 20 sải bằng sợi dây thừng dài 20 sải. Đức hạnh của đức Phật được nhìn thấy bởi vị Bất Lai, ví như lượng nước được biết ở độ sâu 30 sải bằng sợi dây thừng dài 30 sải. Đức hạnh của đức Phật được nhìn thấy bởi bậc A-ra-hán, ví như lượng nước được biết ở độ sâu 40 sải bằng sợi dây thừng dài 40 sải. Đức hạnh của đức Phật được nhìn thấy bởi tám mươi vị Đại Trưởng lão, ví như lượng nước được biết ở độ sâu 50 sải bằng sợi dây thừng dài 50 sải. Đức hạnh của đức Phật được nhìn thấy bởi Bốn vị Đại Trưởng lão, ví như lượng nước được biết ở độ sâu 100 sải bằng sợi dây thừng dài 100 sải. Đức hạnh của đức Phật được nhìn thấy bởi Trưởng lão Mahāmoggallāna, ví như lượng nước được biết ở độ sâu 1.000 sải bằng sợi dây thừng dài 1.000 sải. Đức hạnh của đức Phật được nhìn thấy bởi vị Tướng quân Chánh pháp Sāriputta, ví như lượng nước được biết được ở độ sâu khoảng 84.000 sải bằng sợi dây thừng dài 84.000 sải. Trong số những người đó, người nào giữ lấy rằng “lượng nước trong đại dương không chỉ có chừng ấy, mà là vô tận, không thể đo lường, cũng tương tự như thế ấy, Trưởng lão Sāriputta đã vững trú trong trí toàn hảo của Thinh văn, trong khi tùy niệm về đức hạnh của đức Thập Lực bằng sự y theo Pháp, bằng trí tuệ suy luận, bằng sự kết luận, bằng cách nắm bắt phương pháp, nên mới có sự tin tưởng rằng “Đức hạnh của đức Phật là là vô biên, không thể đo lường”.

Therena hi diṭṭhabuddhaguṇehi dhammanvayena gahetabbabuddhaguṇāyeva bahutarā. Yathā kathaṃ viya? Yathā ito nava ito navāti aṭṭhārasa yojanāni avattharitvā gacchantiyā candabhāgāya mahānadiyā puriso sūcipāsena udakaṃ gaṇheyya, sūcipāsena gahitaudakato aggahitameva bahu hoti. Yathā vā pana puriso mahāpathavito aṅguliyā paṃsuṃ gaṇheyya, aṅguliyā gahitapaṃsuto avasesapaṃsuyeva bahu hoti. Yathā vā pana puriso mahāsamuddābhimukhiṃ aṅguliṃ kareyya, aṅguliabhimukhaudakato avasesaṃ udakaṃyeva bahu hoti. Yathā ca puriso ākāsābhimukhiṃ aṅguliṃ kareyya, aṅguliabhimukhaākāsato sesaākāsappadesova bahu hoti. Evaṃ therena diṭṭhabuddhaguṇehi adiṭṭhā guṇāva bahūti veditabbā. Vuttampi cetaṃ –

Thật vậy, riêng những đức hạnh của đức Phật (điều mà con người) cần được nắm lấy bởi sự y theo Pháp có nhiều hơn so với những đức hạnh của đức Phật được nhìn thấy bởi Trưởng lão. Được ngài giải thích ra sao? – Ngài giải thích rằng: Một người có thể dùng lỗ kim để múc nước từ con sông lớn tên Candabhāgā, đang chảy tràn khắp một vùng rộng đến 18 do-tuần, tức là 9 do-tuần (ở bờ) bên này và 9 do-tuần (ở bờ) bên kia. Lượng nước mà người đó không thể múc đi thì nhiều hơn lượng nước mà người đó dùng lỗ kim múc được. Hoặc một người có thể dùng ngón tay lấy hạt bụi từ bề mặt quả địa cầu to lớn; lượng bụi còn lại (ở quả địa cầu) thì nhiều hơn bụi mà người đó lấy được bằng ngón tay. Hoặc một người có thể chỉ ngón tay vào đại dương; lượng nước còn lại (trong đại dương) thì nhiều hơn lượng nước ở chỗ người đó chỉ ngón tay vào. Và một người có thể chỉ ngón tay vào không khí; lượng không khí còn lại (ở trong không trung) thì nhiều hơn lượng không khí ở chỗ người đó chỉ ngón tay vào. Tương tự như thế, những đức hạnh của đức Phật mà Trưởng lão không thể nhìn thấy (bậc trí giả) nên biết rằng có nhiều hơn những đức hạnh được nhìn thấy. Và điều này đã được ngài nói rằng—

‘‘Buddhopi buddhassa bhaṇeyya vaṇṇaṃ,

Kappampi ce aññamabhāsamāno;

Khīyetha kappo ciradīghamantare,

Vaṇṇo na khīyetha tathāgatassā’’ti.

Thậm chí một vị Phật có thể nói về đức hạnh của một vị Phật (khác), nếu như nói về đức hạnh của nhau suốt một kiếp, kiếp đó (có thể) đi đến kết thúc trong một khoảng thời gian rất dài, tuy nhiên cũng không thể nào nói hết được đức hạnh của Như Lai”.

Evaṃ therassa attano ca satthu ca guṇe anussarato yamakamahānadīmahogho viya abbhantare pītisomanassaṃ avattharamānaṃ vāto viya bhastaṃ, ubbhijjitvā uggataudakaṃ viya mahārahadaṃ sakalasarīraṃ pūreti. Tato therassa ‘‘supatthitā vata me patthanā, suladdhā me pabbajjā, yvāhaṃ evaṃvidhassa satthu santike pabbajito’’ti āvajjantassa balavataraṃ pītisomanassaṃ uppajji.

Như vậy, khi Trưởng lão đang tùy niệm về đức hạnh của bản thân và đức hạnh của bậc Đạo Sư như vậy, hỷ lạc (sanh khởi) lan tỏa bên trong (cơ thể), tựa như dòng nước lớn làm tràn ngập hai con sông lớn, khiến toàn bộ thân thể được tràn đầy (bởi hỷ lạc), cũng giống như luồng gió làm cho túi khí được căng tròn, và tựa như dòng nước dâng trào làm đầy dòng nước lớn. Lúc đó, Trưởng lão nghĩ rằng: “Quả thật, sự phát nguyện của ta đã khéo được thiết lập, việc xuất gia của ta đã khéo léo thành đạt, là việc ta được xuất gia trong trú xứ của bậc Đạo Sư, vị có đức hạnh như vậy”, hỷ lạc vô cùng lớn đã sanh khởi cho Trưởng lão khi đang suy nghĩ như thế.

Atha thero ‘‘kassāhaṃ imaṃ pītisomanassaṃ āroceyya’’nti cintento añño koci samaṇo vā brāhmaṇo vā devo vā māro vā brahmā vā mama imaṃ pasādaṃ anucchavikaṃ katvā paṭiggahetuṃ na sakkhissati, ahaṃ imaṃ somanassaṃ satthunoyeva pavedeyyāmi, satthāva me paṭiggaṇhituṃ sakkhissati, so hi tiṭṭhatu mama pītisomanassaṃ, mādisassa samaṇasatassa vā samaṇasahassassa vā samaṇasatasahassassa vā somanassaṃ pavedentassa sabbesaṃ manaṃ gaṇhanto paṭiggahetuṃ sakkoti. Seyyathāpi nāma aṭṭhārasa yojanāni avattharamānaṃ gacchantiṃ candabhāgamahānadiṃ kusumbhā vā kandarā vā sampaṭicchituṃ na sakkonti, mahāsamuddova taṃ sampaṭicchati. Mahāsamuddo hi tiṭṭhatu candabhāgā, evarūpānaṃ nadīnaṃ satampi sahassampi satasahassampi sampaṭicchati, na cassa tena ūnattaṃ vā pūrattaṃ vā paññāyati, evameva satthā mādisassa samaṇasatassa samaṇasahassassa samaṇasatasahassassa vā pītisomanassaṃ pavedentassa sabbesaṃ manaṃ gaṇhanto paṭiggahetuṃ sakkoti. Sesā samaṇabrāhmaṇādayo candabhāgaṃ kusumbhakandarā viya mama somanassaṃ sampaṭicchituṃ na sakkonti. Handāhaṃ mama pītisomanassaṃ satthunova ārocemīti pallaṅkaṃ vinibbhujitvā cammakkhaṇḍaṃ papphoṭetvā ādāya sāyanhasamaye pupphānaṃ vaṇṭato chijjitvā paggharaṇakāle satthāraṃ upasaṅkamitvā attano somanassaṃ pavedento evaṃpasanno ahaṃ, bhantetiādimāha. Tattha evaṃpasannoti evaṃ uppannasaddho, evaṃ saddahāmīti attho. Bhiyyobhiññataroti bhiyyataro abhiññāto, bhiyyatarābhiñño vā, uttaritarañāṇoti attho. Sambodhiyanti sabbaññutaññāṇe arahattamaggañāṇe vā, arahattamaggeneva hi buddhaguṇā nippadesā gahitā honti. Dve hi aggasāvakā arahattamaggeneva sāvakapāramīñāṇaṃ paṭilabhanti. Paccekabuddhā paccekabodhiñāṇaṃ. Buddhā sabbaññutaññāṇañceva sakale ca buddhaguṇe. Sabbañhi nesaṃ arahattamaggeneva ijjhati. Tasmā arahattamaggañāṇaṃ sambodhi nāma hoti. Tena uttaritaro bhagavatā natthi. Tenāha ‘‘bhagavatā bhiyyobhiññataro yadidaṃ sambodhiya’’nti.

Sau đó, Trưởng lão nghĩ rằng: “Ta nên nói niềm hỷ lạc này cho ai đây?” Rồi Ngài lại nghĩ tiếp: “Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên, Ma vương, hay Phạm thiên không một ai khác có khả năng nắm bắt trọn vẹn một cách đúng đắn niềm tịnh tín này của ta, ta nên bày tỏ niềm hỷ lạc này cho chính bậc Đạo Sư, chỉ có bậc Đạo Sư mới có thể nắm bắt trọn vẹn niềm hỷ lạc của ta. Hỷ lạc của ta hãy tạm gác lại. Dù là một trăm, hoặc một ngàn, hay thậm chí một trăm ngàn vị Sa-môn như ta đang tuyên bố niềm hỷ lạc thì bậc Đạo Sư của ta, trong lúc nắm bắt tâm trí của tất cả thì Ngài vẫn có thể nắm bắt trọn vẹn niềm hoan hỷ đó, giống như một đầm lầy hay một khe núi không thể chứa đựng được (lượng nước) từ con sông lớn tên Candabhāgā đang chảy tràn ngập đến 18 do-tuần, mà chỉ đại dương mới có thể chứa đựng được lượng nước ấy. Hãy tạm gác lại con sông lớn Candabhāgā trước. Dù là một trăm, một ngàn, hay một trăm ngàn con sông lớn có hình thức như vậy, đại dương vẫn có thể chứa đựng được hết toàn bộ (lượng nước) mà không hề xuất hiện tình trạng vơi hay đầy bởi lượng nước ấy của đại dương đó. Cũng tương tự y như thế, bậc Đạo Sư của chúng ta, khi vị Sa-môn như ta dù là một trăm, một ngàn, hay một trăm ngàn (chăng nữa) đang tuyên bố niềm hỷ lạc, trong lúc nắm bắt tâm trí của tất cả thì Ngài vẫn có thể nắm bắt trọn vẹn niềm hoan hỷ đó. Các vị Sa-môn, Bà-la-môn còn lại không thể nắm bắt được niềm hỷ lạc của ta, giống như đầm lầy và khe núi không thể chứa đựng được lượng nước của con sông lớn Candabhāgā vậy. Như vậy, ta sẽ bày tỏ niềm hỷ lạc của mình đến chính bậc Đạo Sư! Nghĩ vậy, ngài liền rời bỏ tư thế kiết già, đập giũ tấm da, và đi vào yết kiến bậc Đạo Sư vào buổi chiều, lúc mà những cánh hoa đã lìa khỏi cuống rơi xuống, khi muốn bày tỏ niềm hỷ lạc của bản thân, đã nói (với đức Thế Tôn) điều này rằng: “Bạch Ngài, con được tịnh tín với đức Thế Tôn như vậy, v.v.” Ở đấy, con được tịnh tín với đức Thế Tôn như vậy: có niềm tịnh tín đã khởi lên như vậy, có nghĩa là con tin tưởng như vậy. Có thắng trí cao hơn: Vị có danh tiếng vượt trội, hoặc người có trí tuệ vượt trội, có nghĩa là người có tuệ giác cao hơn. Trí Toàn Giác: Trong trí Toàn Giác, hoặc trí về Đạo của bậc Thánh A-ra-hán. Bởi vì đức hạnh của đức Phật không có phần riêng biệt, mà ngài đã nắm lấy bằng chính Đạo A-ra-hán. Thật vậy, hai vị Thinh Văn hàng đầu (Trưởng lão Sāriputta và Trưởng lão Moggallāna) đạt được trí toàn hảo của bậc Thinh văn cũng chính bằng Đạo A-ra-hán. Các vị Phật Độc Giác đạt được trí tuệ Độc Giác, và chư Phật thì đạt được toàn bộ cả trí toàn tri và cả các đức hạnh của vị Phật. Thật vậy, bởi vì trí toàn tri, v.v, đó được thành tựu cho các vị ấy chính bằng Đạo A-ra-hán. Do đó, trí về Đạo của bậc A-ra-hán mới được gọi là sự giác ngộ hoàn toàn. Vì lý do đó mới không có một người nào vượt trội hơn đức Thế Tôn bởi Đạo A-ra-hán ấy. Cho nên, Trưởng lão Sāriputta đã nói rằng: “Không có Sa-môn hay Bà-la-môn nào khác có thắng trí cao hơn đức Thế Tôn, tức là Trí Toàn Giác.

142. Uḷārāti seṭṭhā. Ayañhi uḷārasaddo ‘‘uḷārāni khādanīyāni khādantī’’tiādīsu (ma. ni. 1.366) madhure āgacchati. ‘‘Uḷārāya khalu bhavaṃ, vacchāyano, samaṇaṃ gotamaṃ pasaṃsāya pasaṃsatī’’tiādīsu (ma. ni. 3.280) seṭṭhe. ‘‘Appamāṇo uḷāro obhāso’’tiādīsu (dī. ni. 2.32) vipule. Svāyamidha seṭṭhe āgato. Tena vuttaṃ – ‘‘uḷārāti seṭṭhā’’ti. Āsabhīti usabhassa vācāsadisī acalā asampavedhī. Ekaṃso gahitoti anussavena vā ācariyaparamparāya vā itikirāya vā piṭakasampadānena vā ākāraparivitakkena vā diṭṭhinijjhānakkhantiyā vā takkahetu vā nayahetu vā akathetvā paccakkhato ñāṇena paṭivijjhitvā viya ekaṃso gahito, sanniṭṭhānakathāva kathitāti attho.

142. Uḷāra: Cao thượng. Thật ra,“uḷāra” này được dùng với nghĩa là ‘vật ngon ngọt’ như trong câu sau: “Nhai ăn những các vật thực nhai ngon ngọt, v.v.(ma. ni. 1.366); với nghĩa là ‘cao thượng’ trong câu: “Thật là cao quý lời Tôn giả Vacchāyana tán thán Sa-môn Gotama.” (ma. ni. 3.280); với nghĩa ‘quảng đại’ trong câu: “có ánh sáng vô lượng, cao quý(dī. ni. 2.32); Ở đây, từ “Uḷāra” sử dụng với ý nghĩa ‘cao thượng’. Hùng hồn: Lời nói không lung lay, không rung động, tựa như lời nói của người hùng dũng. Nắm giữ chắc nịch: đã nắm giữ một cách chắc chắn, như đã thấu triệt bằng trí tuệ rõ ràng, không nói do nghe theo lời truyền miệng, không phải do tin theo sự truyền thừa của các vị thầy, không phải do nghe nói như thế (tin tức), không phải do sự thành tựu của việc thu thập kiến thức, không phải do suy đoán theo biểu hiện, không phải do thích hợp với quan điểm của mình, không phải do nhân suy nghĩ, hoặc cũng không phải do nhân suy luận, có nghĩa là những điều đã được ngài nói thì những lời ấy đều được nói một cách chắc chắn.

Sīhanādoti seṭṭhanādo, neva dandhāyantena na gaggarāyantena sīhena viya uttamanādo naditoti attho. Kiṃ te sāriputtāti imaṃ desanaṃ kasmā ārabhīti? Anuyogadāpanatthaṃ. Ekacco hi sīhanādaṃ naditvā attano sīhanāde anuyogaṃ dātuṃ na sakkoti, nighaṃsanaṃ nakkhamati, lepe patitamakkaṭo viya hoti. Yathā dhamamānaṃ aparisuddhalohaṃ jhāyitvā jhāmaaṅgāro hoti, evaṃ jhāmaṅgāro viya hoti. Eko sīhanāde anuyogaṃ dāpiyamāno dātuṃ sakkoti, nighaṃsanaṃ khamati, dhamamānaṃ niddosajātarūpaṃ viya adhikataraṃ sobhati, tādiso thero. Tena naṃ bhagavā ‘‘anuyogakkhamo aya’’nti ñatvā sīhanāde anuyogadāpanatthaṃ imampi desanaṃ ārabhi.

Tiếng rống sư tử: Tiếng rống cao thượng, có nghĩa là đã rống lên tiếng rống cao vô thượng tựa như sư tử, không phải phát ra âm thanh chậm chạp, mà cũng không phải phát ra âm thanh giống như máy bơm. Này Sāriputta, có phải những vị nào…?: Tại sao đức Thế Tôn lại bắt đầu thuyết lời này? – Để tạo duyên cớ cho việc chất vấn. Bởi vì, một số người sau khi rống lên tiếng rống sư tử lại không thể trả lời các câu chất vấn trong tiếng sư tử rống của bản thân, không thể chịu đựng sự công kích, trở thành giống như con khỉ bị dính keo vậy. Than hồng đang cháy dùng để nung luyện kim loại không tinh khiết của người thợ kim hoàng, người ấy cũng trở thành giống như than hồng đang cháy vậy. Một người khi bị chất vấn về tiếng rống sư tử có thể trả lời, chịu đựng được sự công kích, (thì) càng trở nên rạng rỡ hơn, giống như vàng ròng không tì vết (trong sáng) của người thợ kim hoàn, Trưởng lão (Sāriputta) là người như thế. Do đó, Đức Thế Tôn, sau khi khi biết rõ Trưởng lão ấy rằng: “Sāriputta này có thể chịu đựng sự chất vấn,” nên mới bắt đầu thuyết giảng điều này để cho ngài trả lời sự chất vấn về tiếng rống sư tử.

Tattha sabbe teti sabbe te tayā. Evaṃsīlātiādīsu lokiyalokuttaravasena sīlādīni pucchati. Tesaṃ vitthārakathā mahāpadāne kathitāva.

Trong số những câu ấy, tất cả các đức Thế Tôn: tất cả các đức Thế Tôn ấy đều được ngươi nhận ra. Có giới hạnh như vậy, v.v, Đức Thế Tôn hỏi về giới hạnh v.v., do tác động các giới hạnh thuộc về Pháp Hiệp Thế và Pháp Siêu Thế. Những lời đó đã được giải thích chi tiết trong Kinh Mahāpadāna.

Kiṃ pana te, sāriputta, ye te bhavissantīti atītā ca tāva niruddhā, apaṇṇattikabhāvaṃ gatā dīpasikhā viya nibbutā, evaṃ niruddhe apaṇṇattikabhāvaṃ gate tvaṃ kathaṃ jānissasi, anāgatabuddhānaṃ pana guṇā kinti tayā attano cittena paricchinditvā viditāti pucchanto evamāha. Kiṃ pana te, sāriputta, ahaṃ etarahīti anāgatāpi buddhā ajātā anibbattā anuppannā, tepi kathaṃ tvaṃ jānissasi? Tesañhi jānanaṃ apade ākāse padadassanaṃ viya hoti. Idāni mayā saddhiṃ ekavihāre vasasi, ekato bhikkhāya carasi, dhammadesanākāle dakkhiṇapasse nisīdasi, kiṃ pana mayhaṃ guṇā attano cetasā paricchinditvā viditā tayāti anuyuñjanto evamāha.

Còn nữa, này Sāriputta, có phải những vị nào sẽ là (các bậc A-ra-hán),…?: Đức Thế Tôn trong khi hỏi rằng: “Và những vị Phật trong thời quá khứ đã viên tịch Niết Bàn, đã đi đến bản thể không thể quy định, đã dập tắt tựa như cây đèn đã bị lụi tàn, khi chư Phật đã viên tịch Niết Bàn, tức là đã đi đến bản thể không thể quy định như thế, làm sao ngươi nhận ra được? Và những đức hạnh của chư Phật trong thời vị lai, có phải ngươi tự mình nhận ra và biết được bằng tâm?” Do đó, Ngài đã nói như vậy. Thêm nữa, này Sāriputta, có phải Ta….?: Đức Thế Tôn trong khi chất vấn rằng: “Ngay cả những vị Phật chưa đến, tức là chưa sanh ra, vẫn chưa sanh đến, vẫn chưa hiện khởi, người sẽ nhận biết được những vị Phật đó như thế nào? Bởi vì việc nhận biết về những vị Phật đó là giống như việc tìm dấu chân trong không trung, nơi không có dấu chân nào cả. Bây giờ, ngươi cư ngụ cùng một trú xá với Ta, cùng đi khất thực, trong thời gian Ta thuyết giảng Giáo Pháp, ngươi cũng ngồi ở bên phải của ta, có phải những đức hạnh của Ta ngươi đã tự mình nhận ra và biết được tâm?” Nên Ngài mới nói như vậy.

Thero pana pucchite pucchite ‘‘no hetaṃ, bhante’’ti paṭikkhipati. Therassa ca viditampi atthi aviditampi atthi, kiṃ so attano viditaṭṭhāne paṭikkhepaṃ karoti, aviditaṭṭhāneti? Viditaṭṭhāne na karoti, aviditaṭṭhāneyeva karotīti. Thero kira anuyoge āraddheyeva aññāsi. Na ayaṃ anuyogo sāvakapāramīñāṇe, sabbaññutaññāṇe ayaṃ anuyogoti attano sāvakapāramīñāṇe paṭikkhepaṃ akatvā aviditaṭṭhāne sabbaññutaññāṇe paṭikkhepaṃ karoti. Tena idampi dīpeti ‘‘bhagavā mayhaṃ atītānāgatapaccuppannānaṃ buddhānaṃ sīlasamādhipaññāvimuttikāraṇajānanasamatthaṃ sabbaññutaññāṇaṃ natthī’’ti.

Hơn nữa, trong khi Đức Thế Tôn hỏi đi hỏi lại như vậy, Trưởng lão (Sāriputta) liền đáp phủ nhận rằng: “Bạch Ngài, chắc chắn không có việc ấy.” Vậy thì có những trường hợp Trưởng lão biết và có những trường hợp Trưởng lão không biết, vị ấy thực hiện việc phản biện như thế nào ở những trường hợp mình biết và những trường hợp mình không biết? Ở những trường hợp mình biết thì Trưởng lão không phản biện. Còn ở những trường hợp mình không biết thì Trưởng lão mới phản biện. Nghe rằng, khi bắt đầu sự chất vấn Trưởng lão đã biết rằng: Đây là sự chất vấn về trí toàn hảo của Thinh Văn, đây là sự chất vấn về trí toàn tri. Trưởng lão đã không thực hiện phản bác về trí toàn hảo của Thinh Văn của chính mình, mà phản biện trong trí toàn trí, là trường hợp mà bản thân không biết. Vì thế, Trưởng lão Sāriputta đã tuyên bố ý nghĩa này: “Bạch Đức Thế Tôn, trí toàn tri có thể biết được nhân của giới, định, tuệ và giải thoát của chư Phật trong thời quá khứ, vị lai và hiện tại của con là không có.”

Etthāti etesu atītādibhedesu buddhesu. Atha kiñcarahīti atha kasmā evaṃ ñāṇe asati tayā evaṃ kathitanti vadati.

Trong vấn đề này: Trong số các vị Phật khác biệt nhau như chư Phật trong quá khứ, v.v. Vậy thì tại sao: Đức Thế Tôn nói rằng: “Nếu đã như thế, trong khi trí như vậy không có, thì tại sao ngươi lại nói lời như thế?”

143. Dhammanvayoti dhammassa paccakkhato ñāṇassa anuyogaṃ anugantvā uppannaṃ anumānañāṇaṃ nayaggāho vidito. Sāvakapāramīñāṇe ṭhatvāva imināva ākārena jānāmi bhagavāti vadati. Therassa hi nayaggāho appamāṇo apariyanto. Yathā sabbaññutaññāṇassa pamāṇaṃ vā pariyanto vā natthi, evaṃ dhammasenāpatino nayaggāhassa.

143. Truyền thống của Giáo Pháp: trí tuệ suy luận về Pháp, là sự hiểu biết khởi lên thuận theo sự chất vấn, tức là sự nắm bắt do suy luận mà con biết được. Do chỉ vững trú trong trí toàn hảo của Thinh Văn, Trưởng lão mới nói rằng: “Bạch đức Thế Tôn, con chỉ biết theo biểu hiện này mà thôi.” Thật vậy, sự nắm bắt do suy luận của Trưởng lão là không có ước lượng và không có giới hạn. Cũng như ước lượng và giới hạn của trí toàn tri là không có, sự nắm bắt do suy luận của Tướng quân Chánh pháp cũng tương tự y như thế.

Tena so ‘‘iminā evaṃvidho, iminā anuttaro satthā’’ti jānāti. Therassa hi nayaggāho sabbaññutaññāṇagatiko eva. Idāni taṃ nayaggāhaṃ pākaṭaṃ kātuṃ upamāya dassento seyyathāpi, bhantetiādimāha. Tattha yasmā majjhimapadese nagarassa uddhāpapākārādīni thirāni vā hontu, dubbalāni vā, sabbaso vā pana mā hontu, corāsaṅkā na hoti, tasmā taṃ aggahetvā paccantimanagaranti āha. Daḷhuddhāpanti thirapākārapādaṃ. Daḷhapākāratoraṇanti thirapākārañceva thirapiṭṭhasaṅghāṭañca. Ekadvāranti kasmā āha? Bahudvāre hi nagare bahūhi paṇḍitadovārikehi bhavitabbaṃ. Ekadvāre ekova vaṭṭati. Therassa ca paññāya sadiso añño natthi. Tasmā attano paṇḍitabhāvassa opammatthaṃ ekaṃyeva dovārikaṃ dassetuṃ ekadvāra’’nti āha. Paṇḍitoti paṇḍiccena samannāgato. Byattoti veyyattiyena samannāgato visadañāṇo. Medhāvīti ṭhānuppattikapaññāsaṅkhātāya medhāya samannāgato. Anupariyāyapathanti anupariyāyanāmakaṃ pākāramaggaṃ. Pākārasandhinti dvinnaṃ iṭṭhakānaṃ apagataṭṭhānaṃ. Pākāravivaranti pākārassa chinnaṭṭhānaṃ.

Vì lý do ấy, Trưởng lão biết rằng: “Bằng những phương pháp như vậy, bậc Đạo Sư là vị tối thượng với những phương pháp này.” Thực vậy, sự nắm bắt do suy luận của Trưởng lão cũng vận hành thuận theo trí toàn tri ấy. Bây giờ, khi trình bày ví dụ để làm sáng tỏ sự nắm bắt do suy luận đó, nên đã thưa rằng: “Bạch Đức Thế Tôn, cũng giống như….” Ở đấy, những lỗ châu mai (ở tường thành) và thành lũy vững chắc, v.v, ở khu vực trung tâm của thành phố dù có kiên cố hay kiên cố, hoặc giả hoàn toàn không có, thì cũng không có sự lo sợ về giặc cướp, Vì thế, Trưởng lão đã không đề cập đến khu vực trung tâm mà lại nói rằng: “Thành trì ở biên địa, v.v.” Có nền móng chắc chắn: Có nền móng kiên cố. Có tường thành và cổng vòm chắc chắn: có thành lũy chắc chắn và có cổng thành kiên cố. Tại sao Trưởng lão lại nói rằng: “Có một cửa ra vào.” – Bởi vì thành lũy có nhiều cửa ra vào thì cần có nhiều người gác cổng sáng suốt, nhưng ở thành trì chỉ có một cửa ra vào thì chỉ cần một người gác cổng mà thôi. Hơn nữa, không một ai khác có thể sánh bằng trí tuệ của Trưởng lão. Do đó, để minh họa cho người chỉ giữ một cửa ra vào (và) nhằm mục đích so sánh bản thể sáng suốt của chính mình, Trưởng lão đã nói rằng: “có một cửa ra vào”. Sáng suốt: được thành tựu bởi bản thể sáng suốt. Có kinh nghiệm: có trí tuệ trong sáng được thành tựu bởi (trí tuệ) sắc bén. Thông minh: được thành tựu bởi sự khôn ngoan là tuệ sanh lên đúng trường hợp. Tuần tự theo con đường (vòng quanh): con đường xung quanh tường thành được gọi là Anupariyāya. Chỗ nứt nẻ của tường thành: ở chỗ không có hai viên gạch được nối liền. Khe hở của tường thành: Khe hở của tường thành.

Cetaso upakkileseti pañca nīvaraṇāni cittaṃ upakkilesenti kiliṭṭhaṃ karonti upatāpenti vibādhenti, tasmā ‘‘cetaso upakkilesā’’ti vuccanti. Paññāya dubbalīkaraṇeti nīvaraṇā uppajjamānā anuppannāya paññāya uppajjituṃ na denti, uppannāya paññāya vaḍḍhituṃ na denti, tasmā ‘‘paññāya dubbalīkaraṇā’’ti vuccanti. Suppatiṭṭhitacittāti catūsu satipaṭṭhānesu suṭṭhu ṭhapitacittā hutvā. Satta bojjhaṅge yathābhūtanti satta bojjhaṅge yathāsabhāvena bhāvetvā. Anuttaraṃ sammāsambodhinti arahattaṃ sabbaññutaññāṇaṃ vā paṭivijjhiṃsūti dasseti.

Những cấu uế của tâm: Năm pháp ngăn che khiến tâm uế nhiễm, tức là làm cho tâm trở nên ô uế, bị giày vò, bị quấy nhiễu. Do đó, năm pháp ngăn che được gọi là “những cấu uế của tâm.” Làm cho tuệ yếu đuối: Các pháp ngăn che trong khi được sanh lên, chúng không để cho tuệ chưa sanh khởi được sanh khởi, và cũng không cho tuệ đã sanh khởi được phát triển. Do đó, những pháp ngăn che này được gọi là “làm cho tuệ yếu đuối”. Có tâm đã khéo được thiết lập: Là người có tâm đã được thiết lập khéo léo trong bốn sự thiết lập niệm. Sau khi phát triển thất giác chi đúng theo bản thể: Sau khi phát triển bảy chi phần đưa đến giác ngộ đúng theo thực tính. Phẩm vị Chánh đẳng Chánh giác vô thượng: Trưởng lão chỉ cho thấy rằng chư Phật đã thấu triệt phẩm vị A-ra-hán hoặc trí toàn tri.

Apicettha satipaṭṭhānāti vipassanā. Sambojjhaṅgā maggo. Anuttarāsammāsambodhi arahattaṃ. Satipaṭṭhānāti vā maggāti vā bojjhaṅgamissakā. Sammāsambodhi arahattameva. Dīghabhāṇakamahāsīvatthero panāha ‘‘satipaṭṭhāne vipassanāti gahetvā bojjhaṅge maggo ca sabbaññutaññāṇañcāti gahite sundaro pañho bhaveyya, na panevaṃ gahita’’nti. Iti thero sabbaññubuddhānaṃ nīvaraṇappahāne satipaṭṭhānabhāvanāya sambodhiyañca majjhe bhinnasuvaṇṇarajatānaṃ viya nānattābhāvaṃ dasseti.

Và hơn nữa, sự thiết lập niệm trong trường hợp này gồm thiền quán. Các giác chi gồm Đạo. Phẩm vị Chánh đẳng Chánh giác vô thượng gồm quả vị A-ra-hán. Ngoài ra, sự thiết lập niệm bao gồm thiền quán không pha trộn với các giác chi, Chánh đẳng Chánh giác chính là quả vị A-ra-hán. Trưởng lão Mahāsīva, vị trì tụng Trường Bộ Kinh, đã nói rằng: “Sau khi ngài nắm giữ sự thiết lập niệm làm thiền quán, đã nắm lấy các giác chi làm đạo lộ và trí toàn tri, có thể có một câu hỏi tốt đẹp, nhưng điều này ngài đã không nắm giữ như vậy.” Trưởng lão đã trình bày tính chất khác biệt ở giữa sự từ bỏ các pháp ngăn che, trong việc tu tập sự thiết lập niệm, và trong trí toàn giác của chư Phật Toàn Giác, giống như việc chỉ ra sự khác biệt giữa vàng và bạc là như thế.

Idha ṭhatvā upamā saṃsandetabbā – āyasmā hi sāriputto paccantanagaraṃ dassesi, pākāraṃ dassesi, pariyāyapathaṃ dassesi, dvāraṃ dassesi, paṇḍitadovārikaṃ dassesi, nagaraṃ pavesanakanikkhamanake oḷārike pāṇe dassesi, paṇḍitadovārikassa tesaṃ pāṇānaṃ pākaṭabhāvañca dassesi. Tattha kiṃ kena sadisanti ce. Nagaraṃ viya hi nibbānaṃ, pākāro viya sīlaṃ, pariyāyapatho viya hirī, dvāraṃ viya ariyamaggo, paṇḍitadovāriko viya dhammasenāpati, nagarappavisanakanikkhamanakaoḷārikapāṇā viya atītānāgatapaccuppannā buddhā, dovārikassa tesaṃ pāṇānaṃ pākaṭabhāvo viya āyasmato sāriputtassa atītānāgatapaccuppannabuddhānaṃ sīlasamathādīhi pākaṭabhāvo. Ettāvatā therena bhagavā evamahaṃ sāvakapāramīñāṇe ṭhatvā dhammanvayena nayaggāhena jānāmīti attano sīhanādassa anuyogo dinno hoti.

Bậc trí hiện có ở đây nên được ví dụ so sánh này – Bởi vì, trưởng lão Sāriputta đã chỉ ra thành trì ở biên thùy, đã chỉ ra tường thành, đã chỉ ra con đường xung quanh tường thành, đã chỉ ra một cửa ra vào, đã chỉ ra người gác cổng sáng suốt, các sinh vật to lớn ra vào thành trì, và đã chỉ ra sự xuất hiện của các sinh vật đó đối với người gác cổng. Trong ví dụ so sánh này, giả sử có câu hỏi rằng: “Cái gì giống với cái gì?” Thì nên được trả lời rằng: Thật vậy, Niết Bàn giống như thành trì, Giới giống như tường thành. Tàm (sự hổ thẹn) giống như con đường xung quanh tường thành. Thánh Đạo giống như cửa ra vào. Tướng quân Chánh pháp (Trưởng lão Sāriputta) giống như người gác cổng sáng suốt, chư Phật đã hiện khởi trong thời quá khứ, (sẽ hiện khởi) trong thời tương lai và (đang hiện khởi) ở hiện tại, giống như các sinh vật to lớn ra vào thành trì, trạng thái xuất hiện với Giới và Đinh, v.v, của các vị Phật trong thời quá khứ và hiện tại cho Trưởng lão Sāriputta giống như sự xuất hiện của những sinh vật đối với người gác cổng. Chỉ chừng ấy lời như thế là cách Trưởng lão đã trả lời câu chất vấn về tiếng rống sư tử của mình rằng: “Bạch Đức Thế Tôn, con đã vững trú trong trí toàn hảo của Thinh Văn như vậy biết được bằng sự suy luận thuận theo Pháp, bằng cách nắm bắt phương pháp.”

144. Idhāhaṃ, bhante, yena bhagavāti imaṃ desanaṃ kasmā ārabhi? Sāvakapāramīñāṇassa nipphattidassanatthaṃ. Ayañhettha adhippāyo, bhagavā ahaṃ sāvakapāramīñāṇaṃ paṭilabhanto pañcanavutipāsaṇḍe na aññaṃ ekampi samaṇaṃ vā brāhmaṇaṃ vā upasaṅkamitvā sāvakapāramīñāṇampi paṭilabhiṃ, tumheyeva upasaṅkamitvā tumhe payirupāsanto paṭilabhinti. Tattha idhāti nipātamattaṃ.

144. Ở đây, bạch Ngài, con đã đi đến gặp đức Thế Tôn: Tại sao trưởng lão bắt đầu thuyết giảng điều này? Để thấy rõ sự thành tựu của trí toàn hảo của bậc Thinh Văn. Bởi vì, trong vấn đề này có lời giải thích như sau: “Bạch đức Thế Tôn, trong khi đạt được trí toàn hảo của bậc Thinh Văn con đã đến gặp các vị Sa-môn hay Bà-la-môn kể cả một số vị khác trong số chín mươi lăm vị xuất gia ngoài Phật giáo cũng không thể đạt được trí toàn hảo của bậc Thinh Văn, sau khi đến gặp riêng đức Thế Tôn, trong khi ngồi gần Ngài con đã đạt được (trí toàn hảo của bậc Thinh Văn).” Trong số những từ đó thì ‘idha’ chỉ là một phân từ.

Upasaṅkamiṃ dhammasavanāyāti tumhe upasaṅkamanto panāhaṃ na cīvarādihetu upasaṅkamanto, dhammasavanatthāya upasaṅkamanto. Evaṃ upasaṅkamitvā sāvakapāramīñāṇaṃ paṭilabhiṃ. Kadā pana thero dhammasavanatthāya upasaṅkamantoti. Sūkarakhataleṇe bhāgineyyadīghanakhaparibbājakassa vedanāpariggahasuttantakathanadivase (ma. ni. 2.205) upasaṅkamanto, tadāyeva sāvakapāramīñāṇaṃ paṭilabhīti. Taṃdivasañhi thero tālavaṇṭaṃ gahetvā bhagavantaṃ bījamāno ṭhito taṃ desanaṃ sutvā tattheva sāvakapāramīñāṇaṃ hatthagataṃ akāsi. Uttaruttaraṃ paṇītapaṇītanti uttaruttarañceva paṇītapaṇītañca katvā desesi. Kaṇhasukkasappaṭibhāganti kaṇhañceva sukkañca. Tañca kho sappaṭibhāgaṃ savipakkhaṃ katvā. Kaṇhaṃ paṭibāhitvā sukkaṃ, sukkaṃ paṭibāhitvā kaṇhanti evaṃ sappaṭibhāgaṃ katvā kaṇhasukkaṃ desesi, kaṇhaṃ desentopi ca saussāhaṃ savipākaṃ desesi, sukkaṃ desentopi saussāhaṃ savipākaṃ desesi.

Con đã đi đến gặp (đức Thế Tôn) để nghe Pháp: Hơn nữa, trong khi đến gặp Ngài con không phải đến vì nhân y phục, v.v, con đến nhằm mục đích nghe Pháp. Sau khi đến (với mục đích) như vậy, con đã đạt được trí toàn hảo của bậc Thinh Văn. – Trưởng lão đi đến gặp (đức Thế Tôn) để nghe Pháp vào lúc nào (mà đạt được trí toàn hảo của bậc Thinh Văn)? – Trưởng lão đi đến gặp vào ngày đức Thế Tôn thuyết giảng bài Kinh Vedanāpariggaha (Kinh Phân Tích Về Thọ, ma. ni. 2.205) cho du sĩ ngoại đạo Dīghanakha là cháu của ngài ở tại hang động Sūkarakhatā. Chính vào lúc đó, Trưởng lão đã đạt được trí toàn hảo của bậc Thinh Văn. Thật vậy, vào ngày hôm ấy, sau khi cầm lấy quạt lá cọ đứng quạt đức Thế Tôn, Ngài đã nghe bài thuyết giảng đó, đã làm trí toàn hảo của bậc Thinh Văn nằm trong lòng bàn tay mình ngay tại nơi ấy. Càng lúc càng cao hơn, càng lúc càng thù thắng hơn: Đức Thế Tôn đã chỉ bảo Pháp, đã làm cho chúng càng lúc càng cao hơn, và càng lúc càng thù thù thắng hơn. Với sự đối chiếu giữa hai pháp đen và trắng: Pháp đen và pháp trắng. Và chúng đã được thực hiện bằng sự đối lập, bằng sự đối chiếu. (Đức Thế Tôn) đã chỉ bảo về hai pháp đen và trắng đã được thực hiện bằng sự đối chiếu như vầy– Sau khi loại bỏ pháp đen (ngài) chỉ bảo về pháp trắng, và sau khi loại bỏ pháp trắng (ngài) chỉ bảo về pháp đen, và ngoài ra, trong khi chỉ bảo về pháp đen Ngài đã chỉ bảo cùng với sự gắng sức (và) với quả dị thục, còn trong khi chỉ bảo pháp trắng Ngài đã chỉ bảo cùng với sự gắng sức (và) với quả dị thục.

Tasmiṃ dhamme abhiññā idhekaccaṃ dhammaṃ dhammesu niṭṭhamagamanti tasmiṃ desite dhamme ekaccaṃ dhammaṃ nāma sāvakapāramīñāṇaṃ sañjānitvā dhammesu niṭṭhamagamaṃ. Katamesu dhammesūti? Catusaccadhammesu. Etthāyaṃ therasallāpo, kāḷavallavāsī sumatthero tāva vadati ‘‘catusaccadhammesu idāni niṭṭhagamanakāraṇaṃ natthi. Assajimahāsāvakassa hi diṭṭhadivaseyeva so paṭhamamaggena catusaccadhammesu niṭṭhaṃ gato, aparabhāge sūkarakhataleṇadvāre upari tīhi maggehi catusaccadhammesu niṭṭhaṃ gato, imasmiṃ pana ṭhāne ‘dhammesū’ti buddhaguṇesu niṭṭhaṃ gato’’ti. Lokantaravāsī cūḷasīvatthero pana ‘‘sabbaṃ tatheva vatvā imasmiṃ pana ṭhāne ‘dhammesū’ti arahatte niṭṭhaṃ gato’’ti āha. Dīghabhāṇakatipiṭakamahāsīvatthero pana ‘‘tatheva purimavādaṃ vatvā imasmiṃ pana ṭhāne ‘dhammesū’ti sāvakapāramīñāṇe niṭṭhaṃ gato’’ti vatvā ‘‘buddhaguṇā pana nayato āgatā’’ti āha.

Ở đây con đã biết thấu đáo một pháp nào đó và con đã đi đến sự thành tựu trong các pháp: Khi pháp ấy được chỉ bảo con đã biết được rõ ràng bằng trí toàn hảo của bậc Thinh Văn gọi là một pháp nào đó, đã đi đến việc hoàn thiện về các pháp. – Trong những pháp nào? – Trong bốn Chân Lý cao thượng. Về vấn đề này, có sự tranh luận của các Trưởng lão như sau– Trưởng lão Sumana, người ngụ tại trú xá Kāḷavalla, đã nói trước rằng: “Bây giờ, không lý do của việc đi đến sự hoàn thiện trong bốn Chân Lý cao thượng. Thật vậy, vào chính ngày gặp Đại Trưởng lão Assaji, (thì) Trưởng lão Sāriputta đã đạt đến sự thành tựu trong bốn Chân Lý cao thượng với Đạo thứ nhất (Đạo Nhập Lưu). Sau đó, ngài đã đạt được sự thành tựu trong bốn Chân Lý cao thượng với ba Đạo cao tại cổng hang động Sūkarakhatā. Nhưng trong trường hợp này, “ngài đã đạt được sự thành tựu trong các đức hạnh của đức Phật, được gọi là ‘thành tựu trong các Pháp’”. Còn Trưởng lão Cūḷasīva, vị cư ngụ tại trú xá Lokanta, sau khi nói toàn bộ (sự việc) y như vậy, đã nói thêm rằng: “Trong trường hợp này, Trưởng lão đã đạt được sự thành tựu trong phẩm vị A-ra-hán, được gọi là ‘thành tựu trong các Pháp.’” Còn Trưởng lão Mahāsīva, vị thông thuộc Tam Tạng, bậc trì tụng Trường Bộ Kinh “sau khi nói lời nói ban đầu y như vậy, đã nói rằng: “Trong trường hợp này, Trưởng lão đã đạt đến sự thành tựu về trí toàn hảo của bậc Thinh Văn, được gọi là ‘thành tựu trong các Pháp.’” Sau đó, ngài lại nói thêm: “Hơn nữa, những đức hạnh của đức Phật đã đến theo phương thức này.”

Satthari pasīdinti evaṃ sāvakapāramīñāṇadhammesu niṭṭhaṃ gantvā bhiyyosomattāya ‘‘sammāsambuddho vata so bhagavā’’ti satthari pasīdiṃ. Svākkhāto bhagavatā dhammoti suṭṭhu akkhāto sukathito niyyāniko maggo phalatthāya niyyāti rāgadosamohanimmadanasamattho.

Con đã tịnh tín với bậc Đạo Sư: Con đã đi đến sự thành tựu trong các pháp là trí toàn hảo của bậc Thinh Văn như vậy, đã có sự tịnh tín với bậc Đạo Sư nhiều hơn nữa “Đức Thế Tôn ấy quả thật là bậc Chánh đẳng Chánh giác”. Pháp là được khéo thuyết giảng bởi đức Thế Tôn: Đạo là pháp dẫn xuất ra khỏi đã được khéo thuyết giảng, đã được giảng giải khéo léo dẫn xuất để chứng đắc Thánh Quả, có khả năng trừ diệt luyến ái, sân hận và si mê.

Suppaṭipanno saṅghoti buddhassa bhagavato sāvakasaṅghopi vaṅkādidosavirahitaṃ sammāpaṭipadaṃ paṭipannattā suppaṭipannoti pasannomhi bhagavatīti dasseti.

Hội Chúng tỳ khưu đã thực hành tốt đẹp: Trưởng lão chỉ ra rằng: “Con có niềm tịnh tín nơi đức Thế Tôn rằng ngay cả Hội Chúng đệ tử của đức Thế Tôn Phật cũng được gọi là đã thực hành tốt đẹp, bởi vì đã thực hành theo lối thực hành chân chánh, tránh xa các lỗi lầm như sự gian xảo, v.v.

Giảng giải sự chỉ bảo về các pháp thiện

145. Idāni divāṭṭhāne nisīditvā samāpajjite soḷasa aparāpariyadhamme dassetuṃ aparaṃ pana bhante etadānuttariyanti desanaṃ ārabhi. Tattha anuttariyanti anuttarabhāvo. Yathā bhagavādhammaṃ desetīti yathā yenākārena yāya desanāya bhagavā dhammaṃ deseti, sā tumhākaṃ desanā anuttarāti vadati. Kusalesu dhammesūti tāya desanāya desitesu kusalesu dhammesupi bhagavāva anuttaroti dīpeti. Yā vā sā desanā, tassā bhūmiṃ dassentopi ‘‘kusalesu dhammesū’’ti āha. Tatrime kusalā dhammāti tatra kusalesu dhammesūti vuttapade ime kusalā dhammā nāmāti veditabbā. Tattha ārogyaṭṭhena, anavajjaṭṭhena, kosallasambhūtaṭṭhena, niddarathaṭṭhena, sukhavipākaṭṭhenāti pañcadhā kusalaṃ veditabbaṃ. Tesu jātakapariyāyaṃ patvā ārogyaṭṭhena kusalaṃ vaṭṭati. Suttantapariyāyaṃ patvā anavajjaṭṭhena. Abhidhammapariyāyaṃ patvā kosallasambhūtaniddarathasukhavipākaṭṭhena. Imasmiṃ pana ṭhāne bāhitikasuttantapariyāyena (ma. ni. 2.358) anavajjaṭṭhena kusalaṃ daṭṭhabbaṃ.

145. Lúc bấy giờ, Trưởng lão ngồi tại chỗ nghỉ ban ngày, để thuyết giảng thêm 16 Pháp thuộc truyền thống khác mà bản thân đã thấu đạt, mới bắt đầu thuyết rằng: “Còn điều khác nữa, bạch Ngài, theo cách thức mà đức Thế Tôn…là vô thượng.” Ở đấy, là vô thượng: có bản chất vô thượng. Theo cách thức mà đức Thế Tôn chỉ bảo Pháp: Trưởng lão thưa rằng: “Đức Thế Tôn chỉ bảo Pháp bằng cách thức nào, bằng biểu hiện, bằng pháp thoại nào, thì pháp thoại của Ngài ấy đều được xem là vô thượng.” Về các pháp thiện: Trưởng lão giải thích rằng đức Thế Tôn là đấng vô thượng, ngay cả trong các pháp thiện mà Ngài đã chỉ bảo bằng pháp thoại đó. Hơn nữa, Trưởng lão ngay cả khi trình bày về phạm vi của pháp thoại ấy, mới nói rằng “về các pháp thiện.” Ở đấy các pháp thiện này: Trong câu đã được nói rằng ‘ở đây, các pháp thiện này’ nên biết rằng những pháp này được xem là các pháp thiện. Ở đấy (về các pháp thiện) nên hiểu pháp thiện theo năm phần là (1) với ý nghĩa không có bệnh tật, (2) với ý nghĩa không có lỗi lầm, (3) với ý nghĩa là nguồn sanh khởi của sự thiện xảo, (4) với ý nghĩa hết lo âu/bồn chồn, (5) và với ý nghĩa có sự an lạc là kết quả. Trong những ý nghĩa ấy, thiện phù hợp với ý nghĩa không có bệnh tật vì căn cứ theo bài giảng trong Bổn Sanh. Thiện phù hợp với ý nghĩa không có lỗi lầm vì căn cứ theo bài giảng trong Kinh. Thiện phù hợp với nghĩa là nguồn sanh khởi của sự thiện xảo, hết lo âu/bồn chồn, và có sự an lạc là kết quả vì căn cứ theo bài giảng trong Abhidhamma. Nhưng trong trường hợp này, thiện nên được hiểu với ý nghĩa không có lỗi lầm theo bài giảng trong Kinh Bāhitika (ma. ni. 2.358).

Cattāro satipaṭṭhānāti cuddasavidhena kāyānupassanāsatipaṭṭhānaṃ, navavidhena vedanānupassanāsatipaṭṭhānaṃ, soḷasavidhena cittānupassanāsatipaṭṭhānaṃ, pañcavidhena dhammānupassanāsatipaṭṭhānanti evaṃ nānānayehi vibhajitvā samathavipassanāmaggavasena lokiyalokuttaramissakā cattāro satipaṭṭhānā desitā. Phalasatipaṭṭhānaṃ pana idha anadhippetaṃ. Cattāro sammappadhānāti paggahaṭṭhena ekalakkhaṇā, kiccavasena nānākiccā. ‘‘Idha bhikkhu anuppannānaṃ pāpakānaṃ akusalānaṃ dhammānaṃ anuppādāyā’’tiādinā nayena samathavipassanāmaggavasena lokiyalokuttaramissakāva cattāro sammappadhānā desitā. Cattāro iddhipādāti ijjhanaṭṭhena ekasaṅgahā, chandādivasena nānāsabhāvā. ‘‘Idha bhikkhu chandasamādhipadhānasaṅkhārasamannāgataṃ iddhipādaṃ bhāvetī’’tiādinā nayena samathavipassanāmaggavasena lokiyalokuttaramissakāva cattāro iddhipādā desitā.

Bốn sự thiết lập niệm: Sau khi (đức Thế Tôn) phân loại theo nhiều cách khác nhau, ngài đã chỉ bảo về bốn sự thiết lập niệm (mà) có sự pha trộn giữa Pháp Hiệp Thế và Pháp Siêu Thế do tác động Chỉ tịnh, Minh sát, và Đạo như vầy rằng: Sự thiết lập niệm về quán xét thân (trên thân) bằng 14 phương pháp, sự thiết lập niệm về quán xét thọ (trên thọ) bằng 9 phương pháp, sự thiết lập niệm về quán xét tâm (trên tâm) bằng 16 phương pháp, sự thiết lập niệm về quán xét pháp (trên pháp) bằng 5 phương pháp. Tuy nhiên, trong trường hợp này, không đề cập đến sự thiết lập niệm về Quả. Bốn chánh cần: Bốn chánh cần có chung tướng trạng theo ý nghĩa ra sức, đa dạng về phận sự do tác động phận sự, đã được (đức Thế Tôn) chỉ bảo có sự pha trộn giữa Pháp Hiệp Thế và Pháp Siêu Thế nhờ vào tác động Chỉ tịnh, Minh sát và Đạo theo phương thức như sau: “Vị Tỳ khưu trong Giáo Pháp này, với mục đích khiến cho các ác, bất thiện pháp (từ trước chưa sanh khởi) không cho sanh khởi, v.v.” Bốn nền tảng của thần thông: Bốn nền tảng của thần thông có chung sự tập hợp theo ý nghĩa thành tựu, có thực tính đa dạng do tác động sự ước muốn, v.v, đã được đức Thế Tôn chỉ bảo chính có sự pha trộn giữa Pháp Hiệp Thế và Pháp Siêu Thế do tác động Chỉ tịnh, Minh sát và Đạo theo phương thức như sau: “Vị Tỳ khưu trong Giáo Pháp này tu tập về nền tảng của thần thông hội đủ (các yếu tố) định do ước muốn và các tạo tác do nỗ lực, v.v.”

Pañcindriyānīti ādhipateyyaṭṭhena ekalakkhaṇāni, adhimokkhādisabhāvavasena nānāsabhāvāni. Samathavipassanāmaggavaseneva ca lokiyalokuttaramissakāni saddhādīni pañcindriyāni desitāni. Pañca balānīti upatthambhanaṭṭhena akampiyaṭṭhena vā ekasaṅgahāni, salakkhaṇena nānāsabhāvāni. Samathavipassanāmaggavaseneva lokiyalokuttaramissakāni saddhādīni pañca balāni desitāni. Satta bojjhaṅgāti niyyānaṭṭhena ekasaṅgahā, upaṭṭhānādinā salakkhaṇena nānāsabhāvā. Samathavipassanā maggavaseneva lokiyalokuttaramissakā satta bojjhaṅgā desitā.

Năm quyền: năm quyền có tín quyền, v.v, có chung trạng thái với ý nghĩa pháp chủ đạo, có thực tính đa dạng do tác động bản chất của sự cương quyết, đã được Đức Thế Tôn chỉ bảo có sự pha trộn giữa Pháp Hiệp Thế và Pháp Siêu Thế do tác động Chỉ tịnh, Minh sát và Đạo. Năm lực: Năm lực có tín lực, v.v, có chung sự tập hợp với ý nghĩa không dao động, hoặc với ý nghĩa nâng đỡ, có thực tính đa dạng bởi tướng trạng của chúng, đã được đức Thế Tôn chỉ bảo có sự pha trộn giữa Pháp Hiệp Thế và Pháp Siêu Thế do tác động Chỉ tinh, Minh sát và Đạo. Bảy yếu tố đưa đến giác ngộ: bảy yếu tố đưa đến giác ngộ có chung sự tập hợp với ý nghĩa dẫn xuất (ra khỏi luân hồi), có thực tính đa dạng bởi trạng thái của chúng có sự thiết lập, v.v, đã được (đức Thế Tôn) chỉ bảo có sự pha trộn giữa Pháp Hiệp Thế và Pháp Siêu Thế do tác động Chỉ tinh, Minh sát và Đạo.

Ariyo aṭṭhaṅgiko maggoti hetuṭṭhena ekasaṅgaho, dassanādinā salakkhaṇena nānāsabhāvo. Samathavipassanāmaggavaseneva lokiyalokuttaramissako ariyo aṭṭhaṅgiko maggo desitoti attho.

Đạo lộ thánh thiện tám chi phần: Đạo lộ thánh thiện tám chi phần có chung sự tập hợp bởi ý nghĩa làm nhân và có thực tính đa dạng theo tướng trạng của chúng có sự thấy (chánh kiến), v.v, đã được (đức Thế Tôn) chỉ bảo có sự pha trộn giữa Pháp Hiệp Thế và Pháp Siêu Thế do tác động Chỉ tinh, Minh sát và Đạo.

Idha, bhante, bhikkhu āsavānaṃ khayāti idaṃ kimatthaṃ āraddhaṃ? Sāsanassa pariyosānadassanatthaṃ. Sāsanassa hi na kevalaṃ maggeneva pariyosānaṃ hoti, arahattaphalena pana hoti. Tasmā taṃ dassetuṃ idamāraddhanti veditabbaṃ. Etadānuttariyaṃ, bhante, kusalesu dhammesūti bhante yā ayaṃ kusalesu dhammesu evaṃdesanā, etadānuttariyaṃ. Taṃbhagavāti taṃ desanaṃ bhagavā asesaṃ sakalaṃ abhijānāti. Taṃ bhagavatoti taṃ desanaṃ bhagavato asesaṃ abhijānato. Uttari abhiññeyyaṃ natthīti taduttari abhijānitabbaṃ natthi, ayaṃ nāma ito añño dhammo vā puggalo vā yaṃ bhagavā na jānātīti idaṃ natthi. Yadabhijānaṃ añño samaṇo vāti yaṃ tumhehi anabhiññātaṃ, taṃ añño samaṇo vā brāhmaṇo vā abhijānanto bhagavatā bhiyyobhiññataro assa, adhikatarapañño bhaveyya. Yadidaṃ kusalesu dhammesūti ettha yadidanti nipātamattaṃ, kusalesu dhammesu bhagavatā uttaritaro natthīti ayametthattho. Iti bhagavāva kusalesu dhammesu anuttaroti dassento ‘‘imināpi kāraṇena evaṃpasanno ahaṃ, bhante, bhagavatī’’ti dīpeti. Ito paresu aparaṃ panātiādīsu visesamattameva vaṇṇayissāma. Purimavārasadisaṃ pana vuttanayeneva veditabbaṃ.

Ở đây, bạch Ngài, các vị Tỳ khưu do sự cạn kiệt của các lậu hoặc: Tại sao Trưởng lão lời này? Để chỉ rõ sự rốt ráo của Giáo Pháp. Thật vậy, sự rốt ráo của Giáo Pháp không chỉ có Đạo mà còn có cả Quả A-ra-hán. Do đó, nên biết rằng Trưởng lão bắt đầu lời này là để chỉ rõ sự rốt ráo của Giáo Pháp ấy. Bạch Ngài, sự chỉ bảo ấy về các pháp thiện là vô thượng: Bạch Ngài, việc thuyết giảng như vầy về các pháp thiện này, (các pháp thiện này) được xem là vô thượng. Đức Thế Tôn (biết thấu đáo) về điều ấy: Đức Thế Tôn biết rõ toàn bộ pháp thoại ấy không thiếu sót. Trong khi đức Thế Tôn (biết thấu đáo) về điều ấy: Trong khi đức Thế Tôn biết rõ toàn bộ pháp thoại ấy không thiếu sót. Không có điều gì có thể được biết thấu đáo hơn nữa: Không có điều gì cần được biết rõ hơn nữa, nghĩa là lời này “pháp hoặc hạng người nào khác ngoài những điều này mà đức Thế Tôn không biết, (thì) điều này là không có.” Không có vị Sa-môn…nào khác có thể biết thấu đáo về điều này (hơn đức Thế Tôn): Điều nào mà Ngài không được biết thấu đáo, Sa-môn hay Bà-la-môn nào khác biết được thấu đáo về điều đó hơn đức Thế Tôn, (tức là) có tuệ vượt trội hơn đức Thế Tôn (điều đó là không thể xảy ra). Ở đấy từ ‘yadidaṃ’ trong câu ‘Yadidaṃ kusalesu dhammesu (tức là về các pháp thiện)’ chỉ là một phân từ, ở đây điều này có nghĩa là không có vị Sa-môn hay Bà-la-môn nào khác có thể biết thấu đáo hơn đức Thế Tôn về các pháp thiện. Trưởng lão Sāriputta khi thuyết rằng: “Như vậy, chỉ có đức Thế Tôn là đấng vô thượng về các thiện pháp thiện”, mới tuyên bố rằng: “Cũng với lý do này, bạch Ngài, con có lòng tịnh tín như vậy đối với đức Thế Tôn.” Còn có điều khác nữa, v.v, từ đây ở những đoạn kế tiếp chúng tôi sẽ chỉ giải thích những điểm khác biệt mà thôi. Còn những phần giống với những phần đã đề cập trước đó, nên được hiểu theo phương cách đã giải thích.

Giải thích việc phân loại các xứ-āyatana

146. Āyatanapaṇṇattīsūti āyatanapaññāpanāsu. Idāni tā āyatanapaññattiyo dassento chayimāni, bhantetiādimāha. Āyatanakathā panesā visuddhimagge vitthārena kathitā, tena na taṃ vitthārayissāma, tasmā tattha vuttanayeneva sā vitthārato veditabbā.

146. Về việc phân loại các xứ: trong việc phân loại các xứ. Bây giờ, khi trình bày về việc phân loại về xứ đó, Trưởng lão Sāriputta đã nói rằng: “Bạch Ngài, sáu nội và ngoại xứ này…” Hơn nữa, bài thuyết giảng về xứ này đã được giảng giải chi tiết trong bộ Visuddhimagga (Thanh Tịnh Đạo). Vì vậy, tôi sẽ không giải thích chi tiết về các xứ đó ở đây. Do đó, nên hiểu chi tiết bài thuyết giảng về xứ theo phương cách đã được trình bày trong bộ Visuddhimagga ấy.

Etadānuttariyaṃ, bhante, āyatanapaṇṇattīsūti yāyaṃ āyatanapaṇṇattīsu ajjhattikabāhiravavatthānādivasena evaṃ desanā, etadānuttariyaṃ. Sesaṃ vuttanayameva.

Bạch ngài, sự chỉ bảo ấy về việc phân loại các xứ là vô thượng: Sự chỉ bảo như vậy do tác động việc xác định các nội xứ và ngoài xứ, v.v, điều này là vô thượng về việc phân loại các xứ. Những từ còn lại có ý nghĩa tương tự như đã giải thích trước đó.

Giải thích sự chỉ bảo trong các trường hợp nhập thai

147. Gabbhāvakkantīsūti gabbhokkamanesu. Tā gabbhāvakkantiyo dassento catasso imā, bhantetiādimāha. Tattha asampajānoti ajānanto sammūḷho hutvā. Mātukucchiṃ okkamatīti paṭisandhivasena pavisati. Ṭhātīti vasati. Nikkhamatīti nikkhamantopi asampajāno sammūḷhova nikkhamati. Ayaṃ paṭhamāti ayaṃ pakatilokiyamanussānaṃ paṭhamā gabbhāvakkanti.

147. Về các trường hợp nhập thai: Trong các trường hợp nhập thai. Trưởng lão Sāriputta, khi trình bày về các trường hợp nhập thai đó, đã nói rằng: “Bạch Ngài, bốn trường hợp nhập thai…” Trong số bốn trường ấy, không nhận biết: đã không biết, đã mê muội. Trong lúc nhập vào bụng mẹ: Nhập vào bụng mẹ do mãnh lực tục sanh. Tồn tại: sống. Ra khỏi bụng mẹ: Ngay cả khi ra khỏi bụng mẹ cũng không biết, hoàn toàn mê muội. Đây là trường hợp nhập thai thứ nhất: Đây được xem là trường hợp nhập vào bụng mẹ thứ nhất của loài người ở thế gian theo tự nhiên.

Sampajāno mātukucchiṃ okkamatīti okkamanto sampajāno asammūḷho hutvā okkamati.

Nhập vào bụng mẹ có nhận biết: (chúng sanh) khi nhập thai (vào bụng mẹ) có nhận biết là người không mê muội lúc nhập thai.

Ayaṃdutiyāti ayaṃ asītimahātherānaṃ sāvakānaṃ dutiyā gabbhāvakkanti. Te hi pavisantāva jānanti, vasantā ca nikkhamantā ca na jānanti.

Đây là trường hợp nhập thai thứ nhì: Đây được xem là trường hợp nhập thai thứ nhì của tám mươi vị Đại Trưởng lão. Thật vậy, những vị ấy biết được ngay khi nhập thai, còn khi ở trong bào thai và khi ra khỏi bào thai thì không biết.

Ayaṃ tatiyāti ayaṃ dvinnañca aggasāvakānaṃ paccekabodhisattānañca tatiyā gabbhāvakkanti. Te kira kammajehi vātehi adhosirā uddhaṃpādā anekasataporise papāte viya yonimukhe khittā tāḷacchiggaḷena hatthī viya sambādhena yonimukhena nikkhamamānā anantaṃ dukkhaṃ pāpuṇanti. Tena nesaṃ ‘‘mayaṃ nikkhamamhā’’ti sampajānatā na hoti. Evaṃ pūritapāramīnampi ca sattānaṃ evarūpe ṭhāne mahantaṃ dukkhaṃ uppajjatīti alameva gabbhāvāse nibbindituṃ alaṃ virajjituṃ.

Đây là trường hợp nhập thai thứ ba: Đây được xem là việc nhập thai thứ ba của hai vị Thinh Văn hàng đầu và của các vị Độc Giác Phật. Nghe rằng, những vị ấy bị cơn gió sanh lên từ nghiệp thổi quay đầu xuống dưới, chân đưa lên trên, nằm ở miệng cổ tử cung, giống như đang ở trong một cái hố sâu thẳm hàng trăm đầu người, khi ra khỏi cổ tử cung chật hẹp phải cam chịu vô vàn đau khổ, ví như con voi rời khỏi thân cây cọ rỗng phải chịu đựng sự đau đớn. Vì lý do đó, những chúng sanh này không có sự nhận biết rằng “chúng ta đã ra khỏi”. Sự đau khổ lớn lao trong trường hợp có hình thức như vậy sanh khởi đối với những chúng sanh dù đã làm tròn đủ các Ba-la-mật như vậy, thật vừa đủ để nhàm chán, vừa đủ để tránh xa trong việc nhập thai.

Ayaṃ catutthāti ayaṃ sabbaññubodhisattānaṃ vasena catutthā gabbhāvakkanti. Sabbaññubodhisattā hi mātukucchismiṃ paṭisandhiṃ gaṇhantāpi jānanti, tattha vasantāpi jānanti, nikkhamantāpi jānanti, nikkhamanakālepi ca te kammajavātā uddhaṃpāde adhosire katvā khipituṃ na sakkonti, dve hatthe pasāretvā akkhīni ummīletvā ṭhitakāva nikkhamanti. Bhavaggaṃ upādāya avīciantare añño tīsu kālesu sampajāno nāma natthi ṭhapetvā sabbaññubodhisatte. Teneva nesaṃ mātukucchiṃ okkamanakāle ca nikkhamanakāle ca dasasahassilokadhātu kampatīti. Sesamettha vuttanayeneva veditabbaṃ.

Đây là trường hợp nhập thai thứ tư: Đây là trường hợp nhập thai thứ tư nhờ vào năng lực của các đức Bồ Tát Toàn Giác. Thật vậy, các đức Bồ Tát Toàn Giác, ngay cả khi tục sanh vào bào thai của người mẹ (vị ấy) cũng biết rõ, và khi ở trong thai (vị ấy) cũng biết rõ, và thậm chí khi đản sinh từ bụng mẹ, gió sanh lên từ nghiệp cũng không thể thổi khiến cho các đức Bồ Tát Toàn Giác ấy có chân xoay lên trên và đầu xoay xuống dưới. Các đức Bồ Tát Toàn Giác ấy đã vươn hai tay ra, đã mở mắt, đã đứng dậy rồi bước ra khỏi (tử cung của người mẹ). Ngoại trừ đức Bồ Tát Toàn Giác thì không một chúng sanh nào khác từ cõi địa ngục Avīci cho đến cảnh giới tột cùng của hiện hữu được gọi là biết rõ trong cả ba giai đoạn (nhập thai, trong thai, và ra khỏi thai). Chính vì lý do đó, vào thời điểm các đức Bồ Tát Toàn Giác ấy nhập thai vào bụng mẹ và vào thời điểm đản sinh, mười ngàn thế giới đã rúng động. Các từ còn lại trong việc nhập thai vào bụng mẹ nên được hiểu theo phương cách đã được trình bày trước đó.

Giải thích sự chỉ bảo về các phương thức đoán biết (tâm của người khác)

148. Ādesanavidhāsūti ādesanakoṭṭhāsesu. Idāni tā ādesanavidhā dassento catasso imātiādimāha. Nimittena ādisatīti āgatanimittena gatanimittena ṭhitanimittena vā idaṃ nāma bhavissatīti katheti.

148. Về các phương thức đoán biết (tâm của người khác): trong phương thức thuyết pháp đoán biết tâm người khác. Bây giờ, Trưởng lão Sāriputta khi trình bày các phương thức thuyết pháp đoán biết tâm người khác, mới nói rằng: “Bạch Ngài, bốn phương thức điểm chỉ…Dựa vào tướng rồi đoán biết: Trưởng lão Sāriputta nói rằng: việc thuyết pháp đoán biết tâm người khác có thể được thực hiện bằng tướng đến, tướng đi, và tướng đứng.

Tatridaṃ vatthu – eko rājā tisso muttā gahetvā purohitaṃ pucchi ‘‘kiṃ me, ācariya, hatthe’’ti? So ito cito ca olokesi. Tena ca samayena ekā sarabū ‘‘makkhikaṃ gahessāmī’’ti pakkhandi, gahaṇakāle makkhikā palātā, so makkhikāya muttattā ‘‘muttā mahārājā’’ti āha. Muttā tāva hotu, kati muttāti? So puna nimittaṃ olokesi. Atha avidūre kukkuṭo tikkhattuṃ saddaṃ nicchāresi. Brāhmaṇo ‘‘tisso mahārājā’’ti āha. Evaṃ ekacco āgatanimittena katheti. Etenupāyena gataṭhitani mittehipi kathanaṃ veditabbaṃ.

Trong câu đó, có câu chuyện sau đây làm ví dụ – Một vị vua sau khi cầm lấy ba viên ngọc trai đã hỏi viên quan tế tự rằng: “Thưa Thầy, cái gì ở trong tay của tôi?” Viên quan tế tự ấy nhìn bên này và bên kia. Lúc bấy giờ, có một con tắc kè đang chạy xong vào với ý định “ta sẽ bắt ruồi mà ăn,” vào lúc định bắt thì con ruồi đã bay mất. – Viên quan tế tự liền tâu rằng: “Tâu Đại vương, là ngọc trai,” Bởi vì con ruồi đã bay mất. – Đức vua lại hỏi: “(nếu) ngọc trai hãy cứ để đó, nhưng có bao nhiêu viên ngọc?” – Vị ấy lại nhìn vào “tướng” đó. Sau đó, một con gà trống cất tiếng gáy ba lần ở gần đó. Vị Bà-la-môn (tức viên quan tế tự) liền tâu rằng: “Tâu Đại vương, có ba viên.” Một số người nói chuyện bằng tướng đến như vậy. Nên hiểu việc nói chuyện bằng tướng đi và tướng đứng cũng tương tự theo phương thức ấy.

Amanussānanti yakkhapisācādīnaṃ. Devatānanti cātumahārājikādīnaṃ. Saddaṃ sutvāti aññassa cittaṃ ñatvā kathentānaṃ saddaṃ sutvā. Vitakkavipphārasaddanti vitakkavipphāravasena uppannaṃ vippalapantānaṃ suttapamattādīnaṃ saddaṃ. Sutvāti taṃ saddaṃ sutvā. Yaṃ vitakkayato tassa so saddo uppanno, tassa vasena ‘‘evampi te mano’’ti ādisati.

Các phi nhân: nhóm Dạ-xoa và ngạ quỷ, v.v. Chư Thiên: Chư Thiên cư ngụ ở cõi trời Tứ Thiên vương, v.v. Lắng nghe âm thanh: Lắng nghe âm thanh của nói của các vị chư thiên và các phi nhân, những người đã biết được tâm của người khác rồi mới nói ra. (Lắng nghe) âm thanh do sự lan tỏa ý nghĩ của người đang suy tầm: Âm thanh của những người đang ngủ hoặc xao lãng v.v., những người đang bị mộng du, nói lảm nhảm, được khởi lên do sự lan tỏa của người đang suy tầm. Đã nghe: Đã nghe âm thanh ấy. Âm thanh ấy khởi lên cho người nào đang có suy tầm về vấn đề nào, thì vị ấy sẽ đoán biết được rằng: “Ý của người đó là như thế này,” do nhờ vào năng lực của sự suy tầm ấy.

Manosaṅkhārā paṇihitāti cittasaṅkhārā suṭṭhapitā. Vitakkessatīti vitakkayissati pavattessatīti pajānāti. Jānanto ca āgamanena jānāti, pubbabhāgena jānāti, antosamāpattiyaṃ cittaṃ oloketvā jānāti. Āgamanena jānāti nāma kasiṇaparikammakāleyeva yenākārena esa kasiṇabhāvanaṃ āraddho paṭhamajjhānaṃ vā …pe… catutthajjhānaṃ vā aṭṭhasamāpattiyo vā nibbattessatīti jānāti. Pubbabhāgena jānāti nāma samathavipassanāya āraddhāyeva jānāti, yenākārena esa vipassanaṃ āraddho sotāpattimaggaṃ vā nibbattessati, sakadāgāmimaggaṃ vā nibbattessati, anāgāmimaggaṃ vā nibbattessati, arahattamaggaṃ vā nibbattessatīti jānāti. Antosamāpattiyaṃ cittaṃ oloketvā jānāti nāma yenākārena imassa manosaṅkhārā suṭṭhapitā, imassa nāma cittassa anantarā imaṃ nāma vitakkaṃ vitakkessati. Ito vuṭṭhitassa etassa hānabhāgiyo vā samādhi bhavissati, ṭhitibhāgiyo vā visesabhāgiyo vā nibbedhabhāgiyo vā abhiññāyo vā nibbattessatīti jānāti.

Các sự tạo tác ở ý (của người này) được định hướng: Các sự tạo tác ở tâm đã khéo được thiết lập. (Cái tầm kế tiếp của tâm này) sẽ suy tầm theo: (vị ấy) biết rõ rằng: người này sẽ suy tầm, (sự tạo tác của tâm) sẽ vận hành. Hơn nữa, trong khi biết (vị ấy) biết được bằng tướng đến, biết được bằng phần tướng ban đầu, và sau khi xem xét nội tâm trong sự thể nhập (vị ấy) biết được. Hạng người biết được rằng: ngay trong lúc thực hành đề mục thiền định kasiṇa (biến xứ) đó, hạng người này bắt đầu tu tập đề mục thiền định kasina với biểu hiện nào thì Sơ thiền …nt… hoặc Tứ thiền, hoặc tám tầng thiền sẽ sanh khởi, hạng người này được gọi là biết được bằng tướng đến. Một số hạng người biết được khi bắt đầu tu tập Chỉ tịnh và Minh sát, tức là biết rằng: hạng người này bắt đầu tu tập thiền quán với biểu hiện nào thì Đạo Nhập Lưu …nt… cho đến Đạo A-ra-hán sẽ sanh khởi, hạng người này được gọi là biết được bằng phần tướng ban đầu. Một số hạng người biết được rằng: “Các sự tạo tác ở tâm của hạng người này đã khéo thiết lập với biểu hiện nào, vị ấy sẽ suy tầm đến suy tầm này, là cái tâm kế tiếp của tâm này, khi hạng người ấy xuất khỏi suy tầm đã khéo thiết lập. Định liên quan đến thoái hóa, hoặc định liên quan đến bền vững, hoặc định liên quan đến thù thắng, hoặc định liên quan đến thấu triệt, hoặc định liên quan đến thắng trí sẽ sanh khởi của vị ấy, hạng người này được gọi là biết được sau khi xem xét nội tâm trong sự thể nhập.

Tattha puthujjano cetopariyañāṇalābhī puthujjanānaṃyeva cittaṃ jānāti, na ariyānaṃ. Ariyesupi heṭṭhimo heṭṭhimo uparimassa uparimassa cittaṃ na jānāti, uparimo pana heṭṭhimassa jānāti. Etesu ca sotāpanno sotāpattiphalasamāpattiṃ samāpajjati. Sakadāgāmī, anāgāmī, arahā, arahattaphalasamāpattiṃ samāpajjati. Uparimo heṭṭhimaṃ na samāpajjati. Tesañhi heṭṭhimā heṭṭhimā samāpatti tatrupapattiyeva hoti. Tatheva taṃ hotīti idaṃ ekaṃsena tatheva hoti. Cetopariyañāṇavasena ñātañhi aññathābhāvī nāma natthi. Sesaṃ purimanayeneva yojetabbaṃ.

Trong số những người đó, hạng Phàm nhân đạt được tha tâm thông (trí biết được tâm) chỉ biết được tâm của hạng Phàm phu mà thôi, nhưng không thể nào biết được tâm của các bậc Thánh nhân. Ngay cả các bậc Thánh nhân, vị đã an trú trong Thánh Đạo thấp hơn không thể biết được tâm của vị an trú trong Thánh Đạo cao hơn. Ngược lại, bậc Thánh nhân đã an trú trong Thánh Đạo cao hơn có thể biết được tâm của vị an trú trong Thánh Đạo thấp hơn. Trong số những vị ấy: Vị Thánh Nhập Lưu đạt đến sự thể nhập Quả Nhập Lưu, vị Thánh Nhất Lai đạt đến sự thể nhập Quả Nhất Lai, vị Thánh Bất Lai đạt đến sự thể nhập Quả Bất Lai, vị Thánh A-ra-hán đạt đến sự thể nhập Quả A-ra-hán. Vị đạt đến Thánh Quả cao không nhập vào sự thể nhập Thánh quả thấp. Bởi vì, sự thể nhập ở (Thánh Quả) thấp hơn của các vị ấy cũng có sự vận hành trong chính sự thể nhập ấy tương tự. Điều ấy vẫn là y như thế: Điều này đúng là như vậy, hoàn toàn là như vậy. Bởi vì, sự hình thành theo một cách khác được biết do mãnh lực tha tâm thông là không có. Các từ còn lại nên được liên kết theo phương cách đã giải thích trước đó.

Giải thích sự chỉ bảo về sự thể nhập việc thấy

149. Ātappamanvāyātiādi brahmajāle vitthāritameva. Ayaṃ panettha saṅkhepo, ātappanti vīriyaṃ. Tadeva padahitabbato padhānaṃ. Anuyuñjitabbato anuyogo. Appamādanti satiavippavāsaṃ. Sammāmanasikāranti anicce aniccantiādivasena pavattaṃ upāyamanasikāraṃ. Cetosamādhinti paṭhamajjhānasamādhiṃ. Ayaṃ paṭhamā dassanasamāpattīti ayaṃ dvattiṃ sākāraṃ paṭikūlato manasikatvā paṭikūladassanavasena uppāditā paṭhamajjhānasamāpatti paṭhamā dassanasamāpatti nāma, sace pana taṃ jhānaṃ pādakaṃ katvā sotāpanno hoti, ayaṃ nippariyāyeneva paṭhamā dassanasamāpatti.

149. Nhờ sự nhiệt tâm: Đức Thế Tôn đã giải thích chi tiết trong bài Kinh Phạm Võng (Brahmajāla Sutta). Còn ở đây, điều này là phần tóm tắt. Sự tin tấn gọi là sự nhiệt tâm. Chính sự nhiệt tâm ấy gọi là sự nỗ lực bởi vì đó là điều mà một người nên được thiết lập. Gọi là sự chuyên cần vì đó là điều mà một người nên được thực hành. Sự không xao lãng: sự không lìa khỏi niệm. Nhờ sự tác ý đúng đắn: tác ý đúng đường lối được vận hành do mãnh lực việc xem xét sự vô thường là vô thường, v.v. Trạng thái định tâm: Định trong Sơ thiền. Đây là sự thể nhập việc thấy thứ nhất: Sự thể nhập Sơ thiền mà hành giả tác ý đến ba mươi hai biểu hiện với vật bất tịnh đã làm cho sanh khởi do tác động việc thấy vật bất tịnh này, đây là sự thể nhập việc thấy thứ nhất, nhưng nếu hành giả lấy thiền đó làm nền tảng để trở thành bậc Thánh Nhập Lưu, đây cũng chính là sự thể nhập việc thấy thứ nhất theo cách trực tiếp.

Atikkamma cāti atikkamitvā ca. Chavimaṃsalohitanti chaviñca maṃsañca lohitañca. Aṭṭhiṃ paccavekkhatīti aṭṭhi aṭṭhīti paccavekkhati. Aṭṭhi aṭṭhīti paccavekkhitvā uppāditā aṭṭhiārammaṇā dibbacakkhupādakajjhānasamāpatti dutiyā dassanasamāpatti nāma. Sace pana taṃ jhānaṃ pādakaṃ katvā sakadāgāmimaggaṃ nibbatteti. Ayaṃ nippariyāyena dutiyā dassanasamāpatti. Kāḷavallavāsī sumatthero pana ‘‘yāva tatiyamaggā vaṭṭatī’’ti āha.

Và sau khi vượt qua: Và sau khi vượt qua. Da, thịt và máu: da, thịt và máu. (Vị ấy) quán xét chỉ mỗi xương: (Vị ấy) quán xét rằng “xương, xương”. “Xương, xương” nghĩa là sự thể nhập thiền có trí về thiên nhãn làm nền tảng, có xương là đối tượng mà hành giả sau khi quán xét đã làm sanh khởi, đây là sự thể nhập việc thấy thứ nhì. Nhưng nếu hành giả lấy thiền đó làm nền tảng khiến Đạo Nhất Lai được sanh khởi. đây cũng chính là sự thể nhập việc thấy thứ nhì theo cách trực tiếp. Còn Trưởng lão Sumana ngụ tại trú xá Kāḷavalla thì cho rằng “Phải nên bắt đầu từ Đạo thứ ba.”

Viññāṇasotanti viññāṇameva. Ubhayato abbocchinnanti dvīhipi bhāgehi acchinnaṃ. Idha loke patiṭṭhitañcāti chandarāgavasena imasmiñca loke patiṭṭhitaṃ. Dutiyapadepi eseva nayo. Kammaṃ vā kammato upagacchantaṃ idha loke patiṭṭhitaṃ nāma. Kammabhavaṃ ākaḍḍhantaṃ paraloke patiṭṭhitaṃ nāma. Iminā kiṃ kathitaṃ? Sekkhaputhujjanānaṃ cetopariyañāṇaṃ kathitaṃ. Sekkhaputhujjanānañhi cetopariyañāṇaṃ tatiyā dassanasamāpatti nāma.

Chính thức ấy được gọi là dòng tâm thức. Không bị đứt đôi: Dòng tâm thức ấy không bị cắt đứt thành hai phần. Được thiết lập ở đời này: Được thiết lập ở đời này do tác động của mong muốn và luyến ái. Luôn cả trong hai câu này cũng áp dụng cách thức này tương tự. Hoặc là, dòng tâm thức khi đi đến nghiệp do nghiệp gọi là được thiết lập ở đời này. Dòng tâm thức khi lôi kéo đến Nghiệp hữu, được gọi là được thiết lập ở đời sau. Với câu này ngài đã nói điều gì? – Vị ấy đã nói về tha tâm thông của các Phàm nhân và vị Hữu học. Thật vậy, tha tâm thông của các hạng Phàm nhân và vị Hữu học được gọi là sự thiết lập việc thấy thứ ba.

Idha loke appatiṭṭhitañcāti nicchandarāgattā idhaloke ca appatiṭṭhitaṃ. Dutiyapadepi eseva nayo. Kammaṃ vā kammato na upagacchantaṃ idha loke appatiṭṭhitaṃ nāma. Kammabhavaṃ anākaḍḍhantaṃ paraloke appatiṭṭhitaṃ nāma. Iminā kiṃ kathitaṃ? Khīṇāsavassa cetopariyañāṇaṃ kathitaṃ. Khīṇāsavassa hi cetopariyañāṇaṃ catutthā dassanasamāpatti nāma.

Không được thiết lập ở đời này: Không được thiết lập ở đời này do không còn mong muốn và luyến ái. Luôn cả trong câu thứ nhì cũng áp dụng cách thức này tương tự. Hoặc là, dòng tâm thức không đạt đến nghiệp do nghiệp gọi là không được thiết lập ở đời này. Khi không lôi kéo đến Nghiệp hữu gọi là không được thiết lập ở đời sau. – Với câu này ngài đã nói điều gì? Ngài đã nói về tha tâm thông của bậc Lậu Tận. Bởi vì, tha tâm thông của bậc Lậu Tận được gọi là sự thiết lập việc thấy thứ tư.

Apica dvattiṃsākāre āraddhavipassanāpi paṭhamā dassanasamāpatti. Aṭṭhiārammaṇe āraddhavipassanā dutiyā dassanasamāpatti. Sekkhaputhujjanānaṃ cetopariyañāṇaṃ khīṇāsavassa cetopariyañāṇanti idaṃ padadvayaṃ niccalameva. Aparo nayo paṭhamajjhānaṃ paṭhamā dassanasamāpatti. Dutiyajjhānaṃ dutiyā. Tatiyajjhānaṃ tatiyā. Catutthajjhānaṃ catutthā dassanasamāpatti. Tathā paṭhamamaggo paṭhamā dassanasamāpatti. Dutiyamaggo dutiyā. Tatiyamaggo tatiyā. Catutthamaggo catutthā dassanasamāpattīti. Sesamettha purimanayeneva yojetabbaṃ.

Và hơn nữa, ngay cả nỗ lực thiền quán dựa trên ba mươi hai thể trược cũng là sự thiết lập việc thấy thứ nhất. Nỗ lực thiền quán dựa trên đề mục thiền định có xương làm đối tượng là sự thiết lập việc thấy thứ nhì. Cả hai câu này là: tha tâm thông của các vị Hữu Học và các phàm nhân và tha tâm thông của bậc Lậu Tận không dao động. Ngoài ra, Sơ thiền là sự thiết lập việc thấy thứ nhất. Nhị thiền là sự thiết lập việc thấy thứ nhì. Tam thiền là sự thiết lập việc thấy thứ ba. Tứ thiền là sự thiết lập việc thấy thứ tư. Cũng thế ấy, Sơ Đạo là sự thiết lập việc thấy thứ nhất. Nhị Đạo là sự thiết lập việc thấy thứ nhì. Tam Đạo là sự thiết lập việc thấy thứ ba. Tứ Đạo là sự thiết lập việc thấy thứ tư. Từ còn lại trong cầu này nên hiểu gắn kết theo phương thức (đã được giải thích) trước đó.

Giải thích sự chỉ bảo về sự phân loại các hạng người

150. Puggalapaṇṇattīsūti lokavohāravasena ‘‘satto puggalo naro poso’’ti evaṃ paññāpetabbāsu lokapaññattīsu. Buddhānañhi dve kathā sammutikathā, paramatthakathāti poṭṭhapādasutte (dī. ni. aṭṭha. 1.439-443) vitthāritā.

150. Về sự phân loại các hạng người: Về việc phân loại các hạng người nên được phân loại như vầy rằng “chúng sanh, cá nhân, đàn ông, người nam” theo quy định của thế gian. Thật vậy, cả hai cách thuyết giảng là thuyết giảng theo Tục đế và thuyết giảng theo Chân đế của chư Phật đã được giải thích chi tiết trong kinh Poṭṭhapāda. (dī. ni. aṭṭha. 1.439-443).

Tattha puggalapaṇṇattīsūti ayaṃ sammutikathā. Idāni ye puggale paññapento puggalapaṇṇattīsu bhagavā anuttaro hoti, te dassento sattime bhante puggalā. Ubhatobhāgavimuttotiādimāha. Tattha ubhatobhāgavimuttoti dvīhi bhāgehi vimutto, arūpasamāpattiyā rūpakāyato vimutto, maggena nāmakāyato. So catunnaṃ arūpasamāpattīnaṃ ekekato vuṭṭhāya saṅkhāre sammasitvā arahattappattānaṃ, catunnaṃ, nirodhā vuṭṭhāya arahattappattaanāgāmino ca vasena pañcavidho hoti.

Trong số hai cách thuyết giảng này thì sự phân loại các hạng người gọi là thuyết giảng theo Tục đế. Đức Thế Tôn khi phân loại các hạng người nào, là người vô thượng về sự phân loại các hạng người. Bây giờ, Trưởng lão Sāriputta, khi trình bày về những hạng người đó, nên mới đáp rằng: “Bạch Ngài, bảy hạng người này là: hạng giải thoát cả hai phần, v.v.” Ở đấy, hạng người giải thoát cả hai phần: Hạng người đã được giải thoát cả hai phần– là giải thoát từ sắc thân nhờ sự thể nhập vô sắc và giải thoát từ danh thân bởi Đạo. Hạng người ấy, sau khi xuất khỏi một trong bốn sự thể nhập vô sắc, đã quán xét các sự tạo tác, trở thành năm hạng người về phương diện hạng người, đó là: bốn hạng Thánh nhân đã chứng đắc Quả A-ra-hán, và bậc Thánh Bất Lai đã xuất khỏi sự thể nhập thiền diệt rồi chứng đắc Quả A-ra-hán.

Pāḷi panettha ‘‘katamo ca puggalo ubhatobhāgavimutto? Idhekacco puggalo aṭṭhavimokkhe kāyena phusitvā viharati, paññāya cassa disvā āsavā parikkhīṇā hontī’’ti (dhātu. 24) evaṃ aṭṭhavimokkhalābhino vasena āgatā. Paññāya vimuttoti paññāvimutto. So sukkhavipassako ca, catūhi jhānehi vuṭṭhāya arahattaṃ pattā cattāro cāti imesaṃ vasena pañcavidhova hoti.

Hơn nữa, trong đoạn Kinh Pāḷi này “Và hạng người giải thoát cả hai phần là như thế nào?” Tức là, một số hạng người ở đời này an trú sau khi chạm đến tám giải thoát bằng thân, và các lậu hoặc của vị ấy đã cạn kiệt hoàn toàn do thấy bằng trí tuệ.” Hạng người này được gọi là người đã giải thoát cả hai phần. Đoạn Kinh này được dẫn chứng do nhờ năng lực của vị đã đạt được tám giải thoát như vậy. (dhātu. 24); Paññāvimutto nghĩa là hạng người giải thoát do tuệ. Hạng người giải thoát do tuệ có năm nhờ vào năng lực của những vị này là: (1) hạng người thuần quán (sukkhavipassaka), và bốn hạng người đã xuất khỏi bốn tầng thiền rồi chứng đắc Quả A-ra-hán.

Pāḷi panettha aṭṭhavimokkhapaṭikkhepavaseneva āgatā. Yathāha ‘‘na heva kho aṭṭha vimokkhe kāyena phusitvā viharati. Paññāya cassa disvā āsavā parikkhīṇā honti. Ayaṃ vuccati puggalo paññāvimutto’’ti (dhātu. 25).

Hơn nữa, đoạn Kinh Pāḷi ở đây được dẫn chứng về phương diện của những pháp đối nghịch với tám giải thoát, giống như đức Thế Tôn đã nói: “Hạng người an trú sau khi chạm đến tám giải thoát bằng thân. Và vì thấy bằng tuệ mà các lậu hoặc của vị ấy đã cạn kiệt hoàn toàn. Hạng người này được gọi là hạng người được giải thoát do tuệ.” (dhātu. 25).

Phuṭṭhantaṃ sacchi karotīti kāyasakkhi. So jhānaphassaṃ paṭhamaṃ phusati, pacchā nirodhaṃ nibbānaṃ sacchikaroti, so sotāpattiphalaṭṭhaṃ ādiṃ katvā yāva arahattamaggaṭṭhā chabbidho hotīti veditabbo. Tenevāha ‘‘idhekacco puggalo aṭṭha vimokkhe kāyena phusitvā viharati, paññāya cassa disvā ekacce āsavā parikkhīṇā honti. Ayaṃ vuccati puggalo kāyasakkhī’’ti (dhātu. 26).

Hạng người tác chứng bằng thân đã chạm đến, được gọi là có thân chứng. Vị ấy xúc chạm với sự xúc chạm của thiền trước, sau đó tác chứng sự tịch diệt Niết Bàn. Thân chứng ấy nên được hiểu là có sáu, bắt đầu từ vị đang an trú trong Quả Nhập Lưu cho đến vị đang an trú trong Đạo A-ra-hán. Vì lý do đó, Đức Thế Tôn đã nói rằng: “Ở đây, một số hạng người sống sau khi chạm đến tám giải thoát bằng thân thể trong tám giải thoát, và vì thấy bằng tuệ (mà) các lậu hoặc của vị ấy đã cạn kiệt hoàn toàn. Hạng người này được gọi là có thân chứng.” (dhātu. 26).

Diṭṭhantaṃ pattoti diṭṭhippatto. Tatridaṃ saṅkhepalakkhaṇaṃ, dukkhā saṅkhārā sukho nirodhoti ñātaṃ hoti diṭṭhaṃ viditaṃ sacchikataṃ passitaṃ paññāyāti diṭṭhippatto. Vitthārato panesopi kāyasakkhi viya chabbidho hoti. Tenevāha – ‘‘idhekacco puggalo idaṃ dukkhanti yathābhūtaṃ pajānāti…pe… ayaṃ dukkhanirodhagāminī paṭipadāti yathābhūtaṃ pajānāti, tathāgatappaveditā cassa dhammā paññāya vodiṭṭhā honti vocaritā, paññāya cassa disvā ekacce āsavā parikkhīṇā honti. Ayaṃ vuccati puggalo diṭṭhippatto’’ti (dhātu. 27).

Hạng người đạt đến tột cùng của sự thấy, gọi là người đạt được do kiến. Trong câu đó có tướng trạng tóm lược như sau– (hạng người ấy) đã biết, đã thấy, đã hiểu, đã tác chứng, đã chạm đến bằng tuệ rằng ‘Các hành là khổ, tịch diệt (các hành) là lạc’ hạng người ấy gọi là người đạt được do kiến. Chính vì lý do đó, đức Thế Tôn đã thuyết rằng: “Ở đây, một số hạng người biết rõ: “Đây là Khổ’ đúng theo thực thể, …nt… biết rõ: ‘Đây là sự thực hành đưa đến sự Diệt Khổ’ đúng theo thực thể, các pháp đã được đức Như Lai tuyên bố (những pháp ấy) đã được người ấy nhận định, đã được thẩm sát bằng tuệ, và chỉ có một số lậu hoặc được cạn kiệt do thấy bằng tuệ. Hạng người này được gọi là người đạt được do kiến.” (dhātu. 27);

Saddhāya vimuttoti saddhāvimutto. Sopi vuttanayeneva chabbidho hoti. Tenevāha – ‘‘idhekacco puggalo idaṃ dukkhanti yathābhūtaṃ pajānāti, ayaṃ dukkhasamudayoti yathābhūtaṃ pajānāti, ayaṃ dukkhanirodhoti yathābhūtaṃ pajānāti, ayaṃ dukkhanirodhagāminī paṭipadāti yathābhūtaṃ pajānāti, tathāgatappaveditā cassa dhammā paññāya vodiṭṭhā honti vocaritā, paññāya cassa disvā ekacce āsavā parikkhīṇā honti no ca kho yathā diṭṭhippattassa. Ayaṃ vuccati puggalo saddhāvimutto’’ti (dhātu. 28). Etesu hi saddhāvimuttassa pubbabhāgamaggakkhaṇe saddahantassa viya, okappentassa viya, adhimuccantassa viya ca kilesakkhayo hoti. Diṭṭhippattassa pubbabhāgamaggakkhaṇe kilesacchedakaṃ ñāṇaṃ adandhaṃ tikhiṇaṃ sūraṃ hutvā vahati. Tasmā yathā nāma nātitikhiṇena asinā kadaliṃ chindantassa chinnaṭṭhānaṃ na maṭṭhaṃ hoti, asi na sīghaṃ vahati, saddo suyyati, balavataro vāyāmo kātabbo hoti, evarūpā saddhāvimuttassa pubbabhāgamaggabhāvanā. Yathā pana atinisitena asinā kadaliṃ chindantassa chinnaṭṭhānaṃ maṭṭhaṃ hoti, asi sīghaṃ vahati, saddo na suyyati, balavataraṃ vāyāmakiccaṃ na hoti, evarūpā paññāvimuttassa pubbabhāgamaggabhāvanā veditabbā.

Hạng người được giải thoát do đức tin là hạng người được giải thoát nhờ vào đức tin. Ngay cả người được giải thoát bằng đức tin đó cũng có sáu hạng, theo cách thức đã giải thích trước. Vì lý do ấy, Đức Thế Tôn đã thuyết rằng: “Ở đây, một số người biết rõ: “Đây là Khổ’ đúng theo thực thể, biết rõ: ‘Đây là nguyên nhân của Khổ’ đúng theo thực thể, biết rõ: ‘Đây là sự Diệt Khổ’ đúng theo thực thể, biết rõ: ‘Đây là sự thực hành đưa đến sự Diệt Khổ’ đúng theo thực thể, Và các pháp đã được đức Như Lai tuyên bố, đã được người ấy thấy rõ, đã được thẩm sát bằng tuệ, và chỉ có một số lậu hoặc được cạn kiệt do thấy bằng tuệ. Tuy nhiên, không phải là thấy rõ đúng theo thực thể giống như sự thấy rõ của người đạt được do kiến. Hạng người này được gọi là hạng người được giải thoát do đức tin.” (dhātu. 28); Bởi vì, trong hai hạng người này: Sự cạn kiệt phiền não như người đang tin tưởng, giống như người đang tin cậy, và như người đang hướng đến ở sát-na Đạo là phần đầu của hạng người được giải thoát do đức tin. Trí cắt đứt phiền não là trí không chậm chạp, sắc bén và dũng mãnh, dẫn dắt ở sát-na Đạo là phần đầu của hạng người đã đạt được do kiến. Vì thế, tương tự như khi một người cầm lấy một con dao cùn để chặt cây chuối, dấu vết chặt không được nhẵn, mà con dao cũng không đi qua trơn tru, âm thanh (lớn) được nghe thấy, và cần phải thực hiện sự ra sức mạnh hơn. Cũng vậy, sự tu tập về Đạo là phần đầu của hạng người được giải thoát do đức tin có hình thức như thế cũng nên được hiểu như vậy. Tương tự, giống như khi một người sử dụng con dao đã được mài sắc bén để chặt cây chuối, dấu vết chặt được nhẵn, con dao đi qua trơn tru, mà âm thanh (lớn) cũng không được nghe thấy, và phận sự là sự ra sức với sức mạnh cũng không có. Cũng vậy, sự tu tập về Đạo là phần đầu của người được giải thoát do tuệ có hình thức như vậy cũng nên được hiểu như thế.

Dhammaṃ anussaratīti dhammānusārī. Dhammoti paññā, paññāpubbaṅgamaṃ maggaṃ bhāvetīti attho. Saddhānusārimhipi eseva nayo, ubhopete sotāpattimaggaṭṭhāyeva. Vuttampi cetaṃ ‘‘yassa puggalassa sotāpattiphalasacchikiriyāya paṭipannassa paññindriyaṃ adhimattaṃ hoti, paññāvāhiṃ paññāpubbaṅgamaṃ ariyamaggaṃ bhāveti. Ayaṃ vuccati puggalo dhammānusārī’’ti.

Hạng có thiên hướng về pháp do tùy niệm về pháp. Tuệ được gọi là pháp, được giải thích rằng: sự tu tập về Đạo có tuệ là yếu tố dẫn đầu. Ngay cả hạng người có thiên hướng về đức tin cũng có cách thức tương tự, cả hai hạng người ấy chính là những vị đang an trú trong Đạo Nhập Lưu. Và điều này đã được đức Thế Tôn nói rằng– “Tín quyền của hạng người nào thực hành đưa đến sự tác chứng Quả Nhập Lưu là vượt trội, (người ấy) tu tập đạo lộ thánh thiện có tuệ hướng đạo, có tuệ là yếu tố dẫn đầu. Đây là hạng người có thiên hướng về pháp.”

Tathā ‘‘yassa puggalassa sotāpattiphalasacchikiriyāya paṭipannassa saddhindriyaṃ adhimattaṃ hoti, saddhāvāhiṃ saddhāpubbaṅgamaṃ ariyamaggaṃ bhāveti. Ayaṃ vuccati puggalo saddhānusārī’’ti. Ayamettha saṅkhepo, vitthārato panesā ubhatobhāgavimuttādikathā visuddhimagge paññābhāvanādhikāre vuttā. Tasmā tattha vuttanayeneva veditabbā. Sesamidhāpi purimanayeneva yojetabbaṃ.

Hơn nữa, tín quyền của hạng người nào thực hành đưa đến sự tác chứng Quả Nhập Lưu là vượt trội, (Người ấy) tu tập đạo lộ thánh thiện có đức tin hướng đạo, có đức tin là yếu tố dẫn đầu. Đây là hạng người có thiên hướng về đức tin. Ở đây điều này là phần tóm tắt, còn ‘bài giảng về hạng người giải thoát cả hai phần, v.v,’ đã được giảng giải chi tiết trong phần ‘Tu Tập Tuệ’ của bộ Thanh Tịnh Đạo. Do đó, nên hiểu (ý nghĩa) theo chính phương thức đã được ngài nói trong bộ Thanh Tịnh Đạo. Những từ còn lại ở đây cũng nên được kết hợp theo phương thức đã giải thích trước đó.

Giải thích sự chỉ bảo về các sự nỗ lực

151. Padhānesūti idha padahanavasena ‘‘satta bojjhaṅgā padhānā’’ti vuttā. Tesaṃ vitthārakathā mahāsatipaṭṭhāne vuttanayeneva veditabbā. Sesamidhāpi purimanayeneva yojetabbaṃ.

151. “Bảy giác chi là sự nỗ lực” đã được đức Thế Tôn thuyết rằng: do tác động của sự nỗ lực trong câu này rằng: “Về các sự nỗ lực”. Bài giảng chi tiết về bảy giác chi ấy nên được hiểu theo phương thức đã được đức Thế Tôn thuyết trong bài Đại Kinh Thiết Lập Niệm. Những từ còn lại ở đây cũng nên được kết hợp theo phương thức đã giải thích trước đó.

Giải thích sự chỉ bảo về các lối thực hành

152. Dukkhapaṭipadādīsu ayaṃ vitthāranayo – ‘‘tattha katamā dukkhapaṭipadā dandhābhiññā paññā? Dukkhena kasirena samādhiṃ uppādentassa dandhaṃ taṃ ṭhānaṃ abhijānantassa yā paññā pajānanā …pe… amoho dhammavicayo sammādiṭṭhi, ayaṃ vuccati dukkhapaṭipadā dandhābhiññā paññā. Tattha katamā dukkhapaṭipadā khippābhiññā paññā? Dukkhena kasirena samādhiṃ uppādentassa khippaṃ taṃ ṭhānaṃ abhijānantassa yā paññā pajānanā…pe… sammādiṭṭhi, ayaṃ vuccati dukkhapaṭipadā khippābhiññā paññā. Tattha katamā sukhapaṭipadā dandhābhiññā paññā? Akicchena akasirena samādhiṃ uppādentassa dandhaṃ taṃ ṭhānaṃ abhijānantassa yā paññā pajānanā…pe… sammādiṭṭhi, ayaṃ vuccati sukhapaṭipadā dandhābhiññā paññā. Tattha katamā sukhapaṭipadā khippābhiññā paññā? Akicchena akasirena samādhiṃ uppādentassa khippaṃ taṃ ṭhānaṃ abhijānantassa yā paññā pajānanā…pe… sammādiṭṭhi, ayaṃ vuccati sukhapaṭipadā khippābhiññā paññā’’ti (vibha. 801). Ayamettha saṅkhepo, vitthāro pana visuddhimagge vutto. Sesamidhāpi purimanayeneva yojetabbaṃ.

152. Lối thực hành khổ sở, v.v, có cách thức giải thích chi tiết như sau – “Ở đấy, như thế nào là tuệ thuộc lối thực hành khổ sở với thắng trí chậm chạp? Tức là tuệ, là sự nhận biết, –nt– sự không si mê, sự chọn lựa pháp, chánh kiến của hạng người đang làm sanh khởi định tâm với sự khó khăn, khó nhọc, (và) đang biết rõ cơ sở ấy chậm chạp, điều này được gọi là ‘tuệ thuộc lối thực hành khổ sở với thắng trái chậm chạp.’ Ở đấy, như thế nào là tuệ thuộc lối thực hành khổ sở với thắng trí mau chóng? Tức là tuệ, là sự nhận biết, –nt– chánh kiến của hạng người đang làm sanh khởi định tâm vơi sự khó khăn, khó nhọc, nhưng đang biết rõ vị trí ấy mau chóng, điều này được gọi là ‘tuệ thuộc lối thực hành khổ sở với thắng trái mau chóng.’ Ở đấy, như thế nào là tuệ thuộc lối thực hành an lạc với thắng trí chậm chạp? Tức là tuệ, là sự nhận biết, …nt… chánh kiến của hạng người đang làm sanh khởi định tâm với sự không khó khăn, không khó nhọc, và đang biết rõ vị trí ấy chậm chạp, điều này được gọi là ‘tuệ thuộc lối thực hành an lạc với thắng trí chậm chạp’. Ở đấy, như thế nào là tuệ thuộc lối thực hành an lạc với thắng trí mau chóng? Tức là tuệ, là sự nhận biết, …nt… chánh kiến của hạng người đang làm sanh khởi định tâm với sự không khó khăn, không khó nhọc, và đang biết rõ vị trí ấy mau chóng, điều này được gọi là ‘tuệ thuộc lối thực hành an lạc với thắng trí mau chóng’. (vibha. 801); Ở đây điều này là phần tóm tắt, còn phần giải thích thích chỉ tiết được nói trong bộ Thanh Tịnh Đạo. Những từ còn lại ở đây cũng nên được kết hợp theo phương thức đã giải thích trước đó.

Giải thích sự chỉ báo về hành vi nói năng, hành vi đạo đức

153. Na ceva musāvādūpasañhitanti bhassasamācāre ṭhitopi kathāmaggaṃ anupacchinditvā kathentopi idhekacco bhikkhu na ceva musāvādūpasañhitaṃ bhāsati. Aṭṭha anariyavohāre vajjetvā aṭṭha ariyavohārayuttameva bhāsati. Naca vebhūtiyanti bhassasamācāre ṭhitopi bhedakaravācaṃ na bhāsati. Na ca pesuṇiyanti tassāyevetaṃ vevacanaṃ. Vebhūtiyavācā hi piyabhāvassa suññakaraṇato ‘‘pesuṇiya’’nti vuccati. Nāmamevassā etanti mahāsīvatthero avoca. Na ca sārambhajanti sārambhajā ca yā vācā, tañca na bhāsati. ‘‘Tvaṃ dussīlo’’ti vutte, ‘‘tvaṃ dussīlo tavācariyo dussīlo’’ti vā, ‘‘tuyhaṃ āpattī’’ti vutte, ‘‘ahaṃ piṇḍāya caritvā pāṭaliputtaṃ gato’’tiādinā nayena bahiddhā vikkhepakathāpavattaṃ vā karaṇuttariyavācaṃ na bhāsati. Jayāpekkhoti jayapurekkhāro hutvā, yathā hatthako sakyaputto titthiyā nāma dhammenapi adhammenapi jetabbāti saccālikaṃ yaṃkiñci bhāsati, evaṃ jayāpekkho jayapurekkhāro hutvā na bhāsatīti attho. Mantā mantā ca vācaṃ bhāsatīti ettha mantāti vuccati paññā, mantāya paññāya. Puna mantāti upaparikkhitvā. Idaṃ vuttaṃ hoti, bhassasamācāre ṭhito divasabhāgampi kathento paññāya upaparikkhitvā yuttakathameva kathetīti. Nidhānavatinti hadayepi nidahitabbayuttaṃ. Kālenāti yuttapattakālena.

153. (Một người nào đó) nói lời nói không hàm chứa việc nói dối: Ở đây, một số vị Tỳ khưu duy trì hành vi nói năng, không cắt ngang đường lối giảng giải, không nói lời nói hàm chứa việc dối trá. Sau khi đã tránh xa tám sự diễn đạt không cao quý, chỉ nói những lời nói liên hệ đến tám sự diễn đạt cao quý mà thôi. Không ly gián: (Một số Tỳ khưu) duy trì hành vi nói năng không nói những lời nói gây chia rẽ. Không đâm thọc: Cụm từ này là từ đồng nghĩa với chính cụm từ ‘không ly gián’. Thật vậy, lời nói ly gián được gọi là “lời nói đâm thọc” vì nó làm mất đi sự yêu mến lẫn nhau. Trưởng lão Mahāsīva nói rằng từ “lời nói đâm thọc” ấy là tên gọi của lời nói đó. Không tạo sự gây hấn: Lời nói nào khởi lên do sự tranh đua, vị Tỳ khưu sẽ không nói lời nói đó. Khi người khác nói: “Ngài là người có giới tồi”, hoặc “Ngài là người có giới tồi, và thầy của ngài cũng là người có giới tồi”, hay khi người khác nói: “Ngài đã phạm tội”, vị ấy sẽ không nói lời nói đưa đến sự lẩn tránh bên ngoài hoặc những lời lẽ vượt quá hành động theo cách thức như: ‘Tôi đã đi khất thực đến tận thành Pāṭalīputta’”. Với mong muốn chiến thắng: Trở thành người mong muốn chiến thắng. Giải thích rằng, (vị Tỳ khưu) đặt sự chiến thắng lên hàng đầu, tức là mong muốn chiến thắng như vậy sẽ không nói, giống như Hatthaka Sākyaputta nói bất cứ lời nói gì thật giả lẫn lộn (sự thật và giả dối) rằng: “Thông thường, các ngoại đạo có thể chiến thắng bằng Pháp, hoặc bằng phi Pháp.” Ở đây, tuệ được gọi là ‘mantā’ trong câu ‘nói lời nói với trí tuệ với sự hiểu biết (mantā mantā ca vācaṃ bhāsati)’, nói lời nói với trí trí tuệ với sự hiểu biết. Hơn nữa, trí tuệ gọi là ‘mantā’ gồm đã suy xét kỹ. Điều này được đức Thế Tôn nói rằng: Vị Tỳ khưu trong Giáo pháp này đã an trú trong hành vi nói năng, khi nói suốt cả ngày (vị ấy) sẽ suy xét kỹ lưỡng bằng trí tuệ và chỉ nói những lời phù hợp. Có giá trị: xứng đáng lưu giữ cả trong tâm trí. Hợp thời: vào thời điểm thích hợp và thời điểm đã đến.

Evaṃ bhāsitā hi vācā amusā ceva hoti apisuṇā ca apharusā ca asaṭhā ca asamphappalāpā ca. Evarūpā ca ayaṃ vācā catusaccanissitātipi sikkhattayanissitātipi dasakathāvatthunissitātipi terasadhutaṅganissitātipi sattattiṃsabodhipakkhiyadhammanissitātipi magganissitātipi vuccati. Tenāha etadānuttariyaṃ, bhante, bhassasamācāreti taṃ purimanayeneva yojetabbaṃ.

Thật vậy, lời nói mà một người đã nói như vậy là lời nói không dối trá, không đâm thọc, không thô lỗ, không khoe khoang, không nhảm nhí. Và lời nói có hình thức như vậy được gọi là lời nói y cứ vào bốn Chân Lý, lời nói y cứ vào Tam học, lời nói y cứ vào Mười đề tài thảo luận đúng pháp, lời nói y cứ vào 13 hạnh đầu-đà, lời nói y cứ vào ba mươi bảy phẩm trợ đạo, hoặc lời nói y cứ vào Thánh Đạo. Chính vì lý do đó, Trưởng lão Sāriputta đã nói rằng: “Bạch Ngài, sự chỉ bảo ấy về hành vi nói năng là vô thượng.” Lời nói ấy nên được kết hợp với cách thức đã được nói trước đó.

Sacco cassa saddho cāti sīlācāre ṭhito bhikkhu sacco ca bhaveyya saccakatho saddho ca saddhāsampanno. Nanu heṭṭhā saccaṃ kathitameva, idha kasmā puna vuttanti? Heṭṭhā vācāsaccaṃ kathitaṃ. Sīlācāre ṭhito pana bhikkhu antamaso hasanakathāyapi musāvādaṃ na karotīti dassetuṃ idha vuttaṃ. Idāni so dhammena samena jīvitaṃ kappetīti dassanatthaṃ na ca kuhakotiādi vuttaṃ. Tattha ‘‘kuhako’’tiādīni brahmajāle vitthāritāni.

Là người chân thật, có đức tin: Vị Tỳ khưu trong Giáo pháp này vững trú trong hành vi đạo đức có thể là người chân thật, nói lời chân thật, có thể là người có đức tin và thành tựu do đức tin. Chân thật đã được đức Thế Tôn nói đến ở đoạn trước rồi, tại sao ở đây Ngài lại nói đến nữa? – Ngài đã nói về lời nói chân thật ở đoạn trước. Còn ở đây, Ngài nói để thuyết rằng: “Hơn nữa, vị Tỳ khưu khi an trú trong hành vi đạo đức, sẽ không nói dối trá, thậm chí với việc nói để cười đùa.” Bây giờ, Trưởng lão để chỉ rõ rằng: “Vị Tỳ khưu duy trì mạng sống một cách chính trực, bình đẳng,” nên mới nói “không là kẻ gạt gẫm, v.v.” Trong những lời ấy thì từ “kẻ gạt gẫm, v.v,” (đức Thế Tôn) đã giải thích chi tiết trong bài Kinh Brahmajāla.

Indriyesu guttadvāro, bhojane mattaññūti chasu indriyesu guttadvāro bhojanepi pamāṇaññū. Samakārīti samacārī, kāyena vācāya manasā ca kāyavaṅkādīni pahāya samaṃ caratīti attho. Jāgariyānuyogamanuyuttoti rattindivaṃ cha koṭṭhāse katvā ‘‘divasaṃ caṅkamena nisajjāyā’’ti vuttanayeneva jāgariyānuyogaṃ yuttappayutto viharati. Atanditoti nittandī kāyālasiyavirahito. Āraddhavīriyoti kāyikavīriyenāpi āraddhavīriyo hoti, gaṇasaṅgaṇikaṃ vinodetvā catūsu iriyāpathesu aṭṭhaārabbhavatthuvasena ekavihārī. Cetasikavīriyenāpi āraddhavīriyo hoti, kilesasaṅgaṇikaṃ pahāya vinodetvā aṭṭhasamāpattivasena ekavihārī. Api ca yathā tathā kilesuppattiṃ nivārento cetasikavīriyena āraddhavīriyo hoti. Jhāyīti ārammaṇalakkhaṇūpanijjhānavasena jhāyī. Satimāti cirakatādianussaraṇasamatthāya satiyā samannāgato.

Là vị có sự phòng vệ ở các giác quan, có sự chừng mực ở vật thực: Là vị có sự phòng hộ ở sáu giác quan, và là vị có sự biết đủ ở vật thực. Có hành động ngay thẳng: người có hành vi chân chánh, có nghĩa là (vị Tỳ khưu trong Giáo pháp này) dứt bỏ sự cong vẹo ở thân, v.v, thực hành ngay thẳng ở thân, khẩu và ý. Thường xuyên luyện tập về sự tỉnh thức: Vị Tỳ khưu nỗ lực thực hành sự tỉnh thức theo cách thức mà đức Thế Tôn đã nói: “Vị Tỳ-khưu nên chia ngày và đêm thành sáu thời, (nỗ lực tinh tấn) vào ban ngày bằng việc kinh hành, bằng việc ngồi.” Không biếng nhác: Không biếng nhác, tức là tránh xa sự lười biếng ở thân. Có sự ra sức tinh tấn: Là người có sự ra sức tinh tấn, luôn cả với sự tinh tấn về thân, sau khi loại bỏ sự liên hệ với đồ chúng (vị ấy) sống một mình nhờ tác động tám nền tảng của sự ra sức tinh tấn trong cả bốn oai nghi (đi, đứng, nằm, ngồi). Là vị có sự ra sức tinh tấn với sự tinh tấn về tâm, sau khi dứt bỏ, sau khi xua đi sự liên hệ với các phiền não (vị ấy) sống một mình nhờ tác động tám thiền chứng. Và hơn nữa, việc ngăn chặn sự sanh khởi của các phiền não bằng bất kỳ phương cách nào cũng được xem là có sự ra sức tinh tấn với sự tinh tấn về tâm. Có thiền chứng: là vị có thiền chứng do tác động của sự chuyên chú vào đối tượng (ārammaṇūpanijjhāna) và sự chuyên chú vào đặc tướng (lakkhaṇūpanijjhāna). Có niệm: Được đầy đủ về niệm có khả năng ghi nhớ lại những việc đã làm từ lâu, v.v.

Kalyāṇapaṭibhānoti vākkaraṇasampanno ceva hoti paṭibhānasampanno ca. Yuttapaṭibhāno kho pana hoti no muttapaṭibhāno. Sīlasamācārasmiñhi ṭhitabhikkhu muttapaṭibhāno na hoti, yuttapaṭibhāno pana hoti vaṅgīsatthero viya. Gatimāti gamanasamatthāya paññāya samannāgato. Dhitimāti dhāraṇasamatthāya paññāya samannāgato. Matimāti ettha pana matīti paññāya nāmameva, tasmā paññavāti attho. Iti tīhipi imehi padehi paññāva kathitā. Tattha heṭṭhā samaṇadhammakaraṇavīriyaṃ kathitaṃ, idha buddhavacanagaṇhanavīriyaṃ. Tathā heṭṭhā vipassanāpaññā kathitā, idha buddhavacanagaṇhanapaññā. Na ca kāmesu giddhoti vatthukāmakilesakāmesu agiddho. Sato ca nipako cāti abhikkantapaṭikkantādīsu sattasu ṭhānesu satiyā ceva ñāṇena ca samannāgato caratīti attho. Nepakkanti paññā, tāya samannāgatattā nipakoti vutto. Sesamidhāpi purimanayeneva yojetabbaṃ.

Có tài ứng đối nhanh nhạy: là người vừa thành tựu khả năng hùng biện và thành tựu khả năng ứng đối. Hơn nữa, hạng người ấy quả thật là người có tài ứng đối chặt chẽ, không phải là người lỏng lẻo về khả năng ứng đối. Bởi vì, vị Tỳ khưu vững trú trong hành vi về đạo đức không lỏng lẻo về khả năng ứng đối. Hơn nữa, vị có tài ứng đối chặt chẽ giống như là Trưởng lão Vaṅgīsa. Có chí tiến thủ: Thành tựu về tuệ có khả năng trong việc đi đến. Có trí ghi nhớ: Thành tựu về tuệ có khả năng trong việc ghi nhớ. Hơn nữa, từ ‘mati’ trong từ ‘matimā (có trí suy luận): đây chính là tên gọi của trí tuệ. Giải thích rằng: ‘người có trí tuệ’. Chính trí tuệ đó được Ngài nói đến thông qua cả ba cụm từ này như đã trình bày. Trong đoạn Pāḷī đó, sự tinh tấn (làm phương tiện) thực hành Sa-môn Pháp đã được đề cập ở đoạn trước. Trong trường hợp này, Trưởng lão đề cập đến sự tinh tấn (làm phương tiện) học tập Phật ngôn. Hơn nữa, Tuệ Quán (vipassanā-paññā) đã được đề cập ở trước. Ở đây, Trưởng lão đề cập đến trí tuệ dùng để học tập Phật ngôn. Không thèm muốn ở các dục: Là người không thèm muốn ở các vật dục (vatthukāma) và phiền não dục (kilesakāma). Có niệm và có trí tuệ: Giải thích rằng– vị Tỳ khưu nên là người được đầy đủ về niệm và trí trong bảy trường hợp như bước tới, bước lui, v.v, (vị ấy) đi. Trí tuệ được gọi là nepakka, vị Tỳ khưu được gọi là “có trí tuệ” bởi trạng thái thành tựu với trí tuệ ấy. Các từ còn lại nên kết hợp theo phương cách đã được giải thích trước đó.

Giải thích sự chỉ bảo về cách thức giáo huấn

154. Paccattaṃ yoniso manasikārāti attano upāyamanasikārena. Yathānusiṭṭhaṃ tathā paṭipajjamānoti yathā mayā anusiṭṭhaṃ anusāsanī dinnā, tathā paṭipajjamāno. Tiṇṇaṃsaṃyojanānaṃ parikkhayātiādi vuttatthameva. Sesamidhāpi purimanayeneva yojetabbaṃ.

154. Nhờ tự thân tác ý đúng đường lối: Với sự tác ý đúng đường lối của chính mình. Trong khi thực hành theo như đã được giáo huấn: Là người thực hành đúng như những gì Ta đã chỉ dạy, khuyên bảo. Do sự diệt tận ba kiết sử (sự ràng buộc), v.v. có ý nghĩa như đã trình bày. Các từ còn lại nên kết hợp theo phương cách đã được giải thích trước đó.

155. Parapuggalavimuttiñāṇeti sotāpannādīnaṃ parapuggalānaṃ tena tena maggena kilesavimuttiñāṇe. Sesamidhāpi purimanayeneva yojetabbaṃ.

155. Về trí giải thoát của người khác: Về trí giải thoát khỏi các phiền não bằng các Đạo ấy của những hạng người khác như vị Nhập Lưu, v.v. Các từ còn lại nên kết hợp theo phương cách đã được giải thích trước đó.

Giải thích sự chỉ bảo về các học thuyết trường tồn

156. Amutrāsiṃ evaṃnāmoti eko pubbenivāsaṃ anussaranto nāmagottaṃ pariyādiyamāno gacchati. Eko suddhakhandheyeva anussarati, eko hi sakkoti, eko na sakkoti. Tattha yo sakkoti, tassa vasena aggahetvā asakkontassa vasena gahitaṃ. Asakkonto pana kiṃ karoti? Suddhakhandheyeva anussaranto gantvā anekajātisatasahassamatthake ṭhatvā nāmagottaṃ pariyādiyamāno otarati. Taṃ dassento evaṃnāmotiādimāha. So evamāhāti so diṭṭhigatiko evamāha. Tattha kiñcāpi sassatoti vatvā ‘‘te ca sattā saṃsarantī’’ti vadantassa vacanaṃ pubbāparaviruddhaṃ hoti. Diṭṭhigatikattā panesa etaṃ na sallakkhesi. Diṭṭhigatikassa hi ṭhānaṃ vā niyamo vā natthi. Imaṃ gahetvā imaṃ vissajjeti, imaṃ vissajjetvā imaṃ gaṇhātīti brahmajāle vitthāritamevetaṃ. Ayaṃ tatiyo sassatavādoti thero lābhisseva vasena tayo sassatavāde āha. Bhagavatā pana takkīvādampi gahetvā brahmajāle cattāro vuttā. Etesaṃ pana tiṇṇaṃ vādānaṃ vitthārakathā brahmajāle (dī. ni. aṭṭha. 1.30) vuttanayeneva veditabbā. Sesamidhāpi purimanayeneva vitthāretabbaṃ.

156. Ở nơi ấy, tôi đã có tên như vầy: Một người trong khi nhớ đến các kiếp quá khứ, (người ấy) có thể xác định được tên và dòng họ. Một người chỉ nhớ đến các uẩn thuần túy. Một người có thể nhớ được, một người thì không thể. Ở đây, không nắm giữ bởi sức mạnh của người có thể nhớ đến, mà nắm giữ bởi sức mạnh người không thể nhớ đến. Vậy người không thể nhớ đến thì làm được gì? (Hạng người ấy) trong khi chỉ nhớ đến các uẩn thuần túy đã an trú đến tận cùng hàng trăm ngàn kiếp, chìm vào trí tuệ để xác định được tên và dòng họ. Trưởng lão Sāriputta khi trình bày về điều đó (tên và dòng họ), đã nói bằng “có tên như vậy, v.v.Vị ấy đã nói như vậy: Kẻ chấp giữ tà kiến đó đã nói như vậy. Trong đoạn Pāḷī đó, sau khi người ấy nói là “trường tồn” rồi lại nói rằng “và các chúng sanh đó luân chuyển,” thì lời nói ấy đã có sự mâu thuẫn giữa phần đầu và phần cuối. Tuy nhiên, người ấy không thể nhận ra được điều đó vì là kẻ đã chấp giữ tà kiến. Thật vậy, cơ sở hay sự xác định rõ ràng của kẻ chấp giữ tà kiến là không có. Điều này đã được giải thích chi tiết trong Kinh Brahmajāla rằng: “Kẻ ấy đã nắm giữ cái này rồi buông bỏ cái này, sau khi buông bỏ cái này lại nắm giữ cái này.” Đây là học thuyết trường tồn thứ ba: Trưởng lão đã đề cập đến ba học thuyết trường tồn nhờ vào sức mạnh của hạng người đắc thiền. Tuy nhiên, Đức Thế Tôn đã đề cập đến bốn (học thuyết) trong Kinh Brahmajāla, bởi vì Ngài đã gộp chung cả những người theo học thuyết suy luận, hơn nữa lời nói chi tiết của những hạng người có ba học thuyết ấy nên được hiểu theo phương thức đã được trình bày trong Kinh Brahmajāla. (dī. ni. aṭṭha. 1.30); Các từ còn lại nên kết hợp theo phương cách đã được giải thích trước đó.

Giải thích sự chỉ bảo về các kiếp sống quá khứ

157. Gaṇanāya vāti piṇḍagaṇanāya. Saṅkhānenāti acchiddakavasena manogaṇanāya. Ubhayathāpi piṇḍagaṇanameva dasseti. Idaṃ vuttaṃ hoti, vassānaṃ satavasena sahassavasena satasahassavasena koṭivasena piṇḍaṃ katvāpi ettakāni vassasatānīti vā ettakā vassakoṭiyoti vā evaṃ saṅkhātuṃ na sakkā. Tumhe pana attano dasannaṃ pāramīnaṃ pūritattā sabbaññutaññāṇassa suppaṭividdhattā yasmā vo anāvaraṇañāṇaṃ sūraṃ vahati. Tasmā desanāñāṇakusalataṃ purakkhatvā vassagaṇanāyapi pariyantikaṃ katvā kappagaṇanāyapi paricchinditvā ettakanti dassethāti dīpeti. Pāḷiyattho panettha vuttanayoyeva. Sesamidhāpi purimanayeneva yojetabbaṃ.

156. Hoặc bằng cách đếm: bằng cách đếm thành nhóm. Hoặc bằng phép toán: Bằng cách tính đếm trong tâm không gián đoạn. Trong số hai cách ấy Ngài chỉ biểu thị cách đếm thành nhóm. Điều này được (Trưởng lão Sāriputta) nói rằng: “Ai không thể tạo thành nhóm với số lượng hàng trăm, hàng ngàn, hàng trăm ngàn, hàng mười triệu năm rồi đếm rằng: ‘một trăm năm chỉ chừng ấy, hoặc… mười triệu năm chỉ chừng ấy’. Trưởng lão giải thích rằng: Do Ngài đã tròn đủ về mười Ba-la-mật, do Ngài đã khéo thấu triệt trí Toàn Giác, và do trí tuệ không bị ngăn trở của Ngài tiếp diễn mạnh mẽ. Vì thế, Ngài mới có sự khéo léo trong trí về thuyết giảng làm tiền đề, đã tạo giới hạn được thời gian bằng cách đếm số năm, thậm chí bằng cách đếm kiếp cũng đã xác định, và chỉ rõ rằng “có chừng ấy”. Hơn nữa, ở đây ý nghĩa trong Pāḷī có phương thức đã được trình bày. Những phần còn lại ở đây cũng nên được hiểu theo cách đã giải thích trước đó. Và cả những từ còn lại ở đây cũng nên kết hợp theo phương cách đã được giải thích trước đó.

Giải thích sự chỉ bảo về trí sanh tử

158.Etadānuttariyaṃ, bhante, sattānaṃ cutūpapātañāṇeti bhante yāpi ayaṃ sattānaṃ cutipaṭisandhivasena ñāṇadesanā, sāpi tumhākaṃyeva anuttarā. Atītabuddhāpi evameva desesuṃ. Anāgatāpi evameva desessanti. Tumhe tesaṃ atītānāgatabuddhānaṃ ñāṇena saṃsanditvāva desayittha. ‘‘Imināpi kāraṇena evaṃpasanno ahaṃ bhante bhagavatī’’ti dīpeti. Pāḷiyattho panettha vitthāritoyeva.

158. Bạch ngài, điều này là vô thượng về trí sanh tử của các chúng sanh: Trưởng lão giải thích rằng: “Bạch Ngài, trí về thuyết giảng do nhờ tác động sự chết và tục sanh của các chúng sanh này đây, và trí về thuyết giảng ấy được xem là vô thượng của Ngài. Ngay cả chư Phật trong thời quá khứ cũng đã thuyết giảng như vậy. Và cả chư Phật trong thời vị lai cũng sẽ thuyết giảng như vậy. Ngài đã so sánh với trí tuệ của chư Phật trong thời quá khứ và thời vị lai rồi tuyên bố, “bạch Ngài, cũng với vì lý do này, con có niềm tịnh tín nơi đức Thế Tôn như vậy.” Hơn nữa, ở đây ý nghĩa trong Pāḷī ngài cũng đã giải thích chi tiết.

Giải thích sự chỉ bảo về các thần thông

159. Sāsavā saupadhikāti sadosā saupārambhā. No ariyāti vuccatīti ariyiddhīti na vuccati. Anāsavā anupadhikāti niddosā anupārambhā. Ariyāti vuccatīti ariyiddhīti vuccati.

159. Có lậu hoặc, có mầm tái sanh: Loại thần thông có lỗi lầm, có sự quở trách. Được gọi là không thuộc bậc thánh: Loại thần thông như thế không được gọi là thần thông thuộc bậc thánh. Không có lậu hoặc, không có mầm tái sanh: Không có lỗi lầm, không có sự quở trách. Được gọi là thuộc bậc thánh: Loại thần thông như vậy được gọi là thần thông thuộc bậc thánh.

Appaṭikūlasaññītattha viharatīti kathaṃ appaṭikūlasaññī tattha viharatīti? Paṭikūle satte mettaṃ pharati, saṅkhāre dhātusaññaṃ upasaṃharati. Yathāha ‘‘kathaṃ paṭikūle appaṭikūlasaññī viharati (paṭi. ma. 3.97)? Aniṭṭhasmiṃ vatthusmiṃ mettāya vā pharati, dhātuto vā upasaṃharatī’’ti. Paṭikūlasaññī tattha viharatīti appaṭikūle satte asubhasaññaṃ pharati, saṅkhāre aniccasaññaṃ upasaṃharati. Yathāha ‘‘kathaṃ appaṭikūle paṭikūlasaññī viharati? Iṭṭhasmiṃ vatthusmiṃ asubhāya vā pharati, aniccato vā upasaṃharatī’’ti. Evaṃ sesapadesupi attho veditabbo.

Tại đấy sống có tưởng không nhờm gớm (ở vật nhờm gớm): Tại đấy (vị Tỳ khưu) sống có tưởng không nhờm gớm là (có ý nghĩa) thế nào? Vị ấy chuyên chú vào lòng từ ở các chúng sanh đáng ghê gớm, tập trung vào tưởng nguyên tố (dhātusaññā) trong các Hành. Như đã nói “Vị Tỳ khưu sống có tưởng không nhờm gớm ở vật nhờm gớm là (có ý nghĩa) thế nào?” (paṭi. ma. 3.97); Đối với sự việc không được mong muốn, hoặc là chuyên chú vào lòng từ hoặc là tập trung vào bản thể.” Tại đấy sống có tưởng nhờm gớm: Vị ấy chuyên chú vào tưởng bất tịnh trong các chúng sanh không ghê gớm, tập trung vào tưởng vô thường trong các Hành. Như đã nói “(Vị Tỳ khưu) sống có tưởng nhờm gớm ở vật không nhờm gớm là (có ý nghĩa) thế nào? Đối với sự việc không được mong muốn, hoặc là chuyên chú vào bất tịnh, hoặc là tập trung vào vô thường.” Ý nghĩa trong câu còn lại cũng nên được hiểu theo phương thức như vậy.

Upekkhako tattha viharatīti iṭṭhe arajjanto aniṭṭhe adussanto yathā aññe asamapekkhanena mohaṃ uppādenti, evaṃ anuppādento chasu ārammaṇesu chaḷaṅgupekkhāya upekkhako viharati. Etadānuttariyaṃ, bhante, iddhividhāsūti, bhante, yā ayaṃ dvīsu iddhīsu evaṃdesanā, etadānuttariyaṃ. Taṃ bhagavāti taṃ desanaṃ bhagavā asesaṃ sakalaṃ abhijānāti. Taṃ bhagavatoti taṃ desanaṃ bhagavato asesaṃ abhijānato. Uttari abhiññeyyaṃ natthīti uttari abhijānitabbaṃ natthi. Ayaṃ nāma ito añño dhammo vā puggalo vā yaṃ bhagavā na jānāti idaṃ natthi. Yadabhijānaṃ añño samaṇo vā brāhmaṇo vāti yaṃ tumhehi anabhiññātaṃ añño samaṇo vā brāhmaṇo vā abhijānanto bhagavatā bhiyyobhiññataro assa, adhikatarapañño bhaveyya. Yadidaṃ iddhividhāsūti ettha yadidanti nipātamattaṃ. Iddhividhāsu bhagavatā uttaritaro natthi. Atītabuddhāpi hi imā dve iddhiyo desesuṃ, anāgatāpi imāva desessanti. Tumhepi tesaṃ ñāṇena saṃsanditvā imāva desayittha. Iti bhagavā iddhividhāsu anuttaroti dassento ‘‘imināpi kāraṇena evaṃpasanno ahaṃ, bhante, bhagavatī’’ti dīpeti. Ettāvatā ye dhammasenāpati divāṭṭhāne nisīditvā soḷasa aparampariyadhamme sammasi, teva dassitā honti.

Tại đấy sống là vị hành xả: Vị ấy không tham đắm vào đối tượng đáng ưa thích và không ghét bỏ đối tượng không đáng ưa thích, đồng thời cũng không để si mê sanh khởi, như những người khác để si mê sanh khởi với việc chăm chú vào các đối tượng không cân xứng, (vị ấy) sống là vị hành xả trong sáu đối tượng với pháp hành xả ở sáu tình huống. Bạch Ngài, sự chỉ bảo ấy về các loại thần thông là vô thượng: Bạch Ngài, sự chỉ bảo như vậy về hai loại thần thông này đây, thì sự chỉ bảo ấy là vô thượng. Đức Thế Tôn biết thấu đáo về điều ấy: Đức Thế Tôn biết thấu đáo toàn bộ về sự chỉ bảo ấy không thiếu sót. Trong khi đức Thế Tôn biết thấu đáo về điều ấy: Trong khi đức Thế Tôn biết thấu đáo về điều ấy không thiếu sót. Không có điều gì có thể được biết thấu đáo hơn nữa: Không có điều gì có thể biết thấu đáo hơn nữa. Câu này nói rằng pháp hoặc hạng người nào khác ngoài những điều này mà đức Thế Tôn không biết, điều này là không có. Không có Sa-môn hay Bà-la-môn nào khác có thể biết thấu đáo về điều này (hơn đức Thế Tôn): Điều nào mà Ngài không được biết thấu đáo, Sa-môn hay Bà-la-môn nào khác biết được thấu đáo về điều đó hơn đức Thế Tôn, (tức là) có trí tuệ vượt trội hơn đức Thế Tôn (điều đó là không thể xảy ra). Ở đấy từ ‘yadidaṃ’ trong câu ‘Yadidaṃ iddhividhāsu (tức là về các loại thần thông)’ chỉ là một phân từ. Hạng người vượt trội hơn đức Thế Tôn về các loại thần thông là không có. Thật vậy, ngay cả chư Phật trong quá khứ cũng đã thuyết giảng về hai loại thần thông này. Và chư Phật trong tương lai cũng sẽ thuyết giảng hai loại thần thông này. Ngay cả đức Thế Tôn cũng đã so sánh với trí tuệ của chư Phật đó rồi thuyết giảng các loại thần thông này. Trưởng lão Sāriputta khi trình bày: “Như vậy, đức Thế Tôn là đấng vô thượng về các loại thần thông”, mới tuyên bố rằng: “Cũng với lý do này, bạch Ngài, con có lòng tịnh tín như vậy đối với đức Thế Tôn.” Chỉ với chừng ấy lời, sau khi ngồi ở chỗ nghỉ ban ngày vị Tướng quân Chánh pháp đã quán xét mười sáu pháp khác, những pháp ấy đã được Ngài thuyết.

Giải thích về cách thức trả lời sự chất vấn

160. Idāni aparenapi ākārena bhagavato guṇe dassento yaṃ taṃ bhantetiādimāha. Tattha saddhena kulaputtenāti saddhā kulaputtā nāma atītānāgatapaccuppannā bodhisattā. Tasmā yaṃ sabbaññubodhisattena pattabbanti vuttaṃ hoti. Kiṃ pana tena pattabbaṃ? Nava lokuttaradhammā. Āraddhavīriyenātiādīsu ‘‘vīriyaṃ thāmo’’tiādīni sabbāneva vīriyavevacanāni. Tattha āraddhavīriyenāti paggahitavīriyena. Thāmavatāti thāmasampannena thiravīriyena. Purisathāmenāti tena thāmavatā yaṃ purisathāmena pattabbanti vuttaṃ hoti. Anantarapadadvayepi eseva nayo. Purisadhorayhenāti yā asamadhurehi buddhehi vahitabbā dhurā, taṃ dhuraṃ vahanasamatthena mahāpurisena. Anuppattaṃ taṃ bhagavatāti taṃ sabbaṃ atītānāgatabuddhehi pattabbaṃ, sabbameva anuppattaṃ, bhagavato ekaguṇopi ūno natthīti dasseti. Kāmesu kāmasukhallikānuyoganti vatthukāmesu kāmasukhallikānuyogaṃ. Yathā aññe keṇiyajaṭilādayo samaṇabrāhmaṇā ‘‘ko jānāti paralokaṃ. Sukho imissā paribbājikāya mudukāya lomasāya bāhāya samphasso’’ti moḷibandhāhi paribbājikāhi paricārenti sampattaṃ sampattaṃ rūpādiārammaṇaṃ anubhavamānā kāmasukhamanuyuttā, na evamanuyuttoti dasseti.

160. Bây giờ, Trưởng lão khi thuyết giảng về đức hạnh của đức Thế Tôn với các biểu hiện khác nữa mới nói rằng “Bạch ngài, điều nào…” Ở đấy, bởi người con trai gia đình danh giá có đức tin: Các đức Bồ Tát có trong thời quá khứ và hiện tại gọi là những người con trai gia đình danh giá có đức tin. Vì thế mới có lời giải thích rằng: “Điều nào mà đức Bồ Tát Toàn Tri cần phải đạt đến.” – Chín pháp Siêu Thế. Toàn bộ những lời được bắt đầu “sự tinh tấn, dõng mãnh, v.v,” trong câu có sự ra sức tinh tấn, v.v, đều là từ đồng nghĩa với sự tinh tấn. Có sự ra sức tinh tấn: người kiên trì với sự tinh tấn. Có sự bền bỉ: Đầy đủ sức mạnh, có sự tinh tấn kiên cường. Với sự bền bỉ của nam nhân: Giải thích rằng: Điều gì mà đức Bồ Tát Toàn Tri có sự bền bỉ, cần phải đạt đến với sự bền bỉ của người nam. Ở hai từ ngữ tiếp theo, cũng áp dụng cách thức tương tự như vậy. Với sự chịu đựng của nam nhân: Những trách nhiệm nào mà chư Phật, những vị có trách nhiệm không ai sánh bằng cần được gánh vác, (thì) Bậc đại nhân có khả năng gánh vác trách nhiệm đó. Điều ấy được đạt đến bởi đức Thế Tôn: Trưởng lão chỉ cho thấy rằng tất cả những điều ấy có thể đạt được bởi chư Phật ở quá khứ và ở vị lai, tất cả những điều ấy đức Thế Tôn đã đạt đến, thậm chí một đức hạnh nhỏ cũng không thiếu sót. Sự gắn bó với việc say đắm về dục lạc ở các dục: Đức Thế Tôn không thực hiện với việc say đắm về dục lạc ở các vật dục. Trưởng lão chỉ cho thấy rằng các Sa-môn và Bà-la-môn khác có Keṇiyajaṭila, v.v, nghĩ rằng “Ai biết được đời sau? Sự xúc chạm với cánh tay mềm mại, có lông mịn của nữ du sĩ này là khoái lạc,” họ đã hoan lạc với các nữ du sĩ có tóc quấn trên đầu, hưởng thụ các đối tượng như sắc, v.v., vô cùng hoàn hảo, đắm chìm vào các dục lạc. (Còn) đức Thế Tôn thì không thực hành như vậy.

Hīnanti lāmakaṃ. Gammanti gāmavāsīnaṃ dhammaṃ. Pothujjanikanti puthujjanehi sevitabbaṃ. Anariyanti na niddosaṃ. Na vā ariyehi sevitabbaṃ. Anatthasañhitanti anatthasaṃyuttaṃ. Attakilamathānuyoganti attano ātāpanaparitāpanānuyogaṃ. Dukkhanti dukkhayuttaṃ, dukkhamaṃ vā. Yathā eke samaṇabrāhmaṇā kāmasukhallikānuyogaṃ parivajjessāmāti kāyakilamathaṃ anudhāvanti, tato muñcissāmāti kāmasukhaṃ anudhāvanti, na evaṃ bhagavā. Bhagavā pana ubho ete ante vajjetvā yā sā ‘‘atthi, bhikkhave, majjhimā paṭipadā tathāgatena abhisambuddhā cakkhukaraṇī’’ti evaṃ vuttā sammāpaṭipatti, tameva paṭipanno. Tasmā ‘‘na ca attakilamathānuyoga’’ntiādimāha.

Thuộc pháp hạ liệt: Thấp hèn. Thổ thiển: Tính nết của người làng quê. Phàm tục: Nên được phục vụ bởi phàm nhân. Không cao thượng: Không phải không có lỗi lầm, hoặc không phải là điều mà các bậc Thánh nên thực hành. Không liên hệ đến lợi ích: Không liên hệ đến lợi ích. (Không thực hành) sự gắn bó với việc hành hạ bản thân: Thực hành sự gắn bó với khổ hạnh để hành hạ bản thân. Là việc khổ đau: Liên hệ đến khổ đau, hoặc khó kham nhẫn. Một số Sa-môn, Bà-la-môn nghĩ rằng: “Chúng ta sẽ tránh xa sự gắn bó với việc say đắm về dục lạc, chạy theo việc hành hạ bản thân. Sau đó, (họ lại nghĩ): ‘Chúng ta sẽ thoát khỏi những khó khăn ấy, chạy theo lạc của dục, đức Thế Tôn không như vậy. Mà đức Thế Tôn đã từ bỏ hai cực đoan đó, (và) sự thực hành đúng đắn được nói như vầy: “Này các Tỳ khưu, có lối thực hành trung hòa đã được đức Như Lai tự mình giác ngộ khiến cho mắt được thấy,” là vị thực hành theo chính lối thực hành trung hòa ấy. Vì thế, Ngài đã nói “không thực hành sự gắn bó với việc hành hạ bản thân”.

Ābhicetasikānanti abhicetasikānaṃ, kāmāvacaracittāni atikkamitvā ṭhitānanti attho. Diṭṭhadhammasukhavihārānanti imasmiṃyeva attabhāve sukhavihārānaṃ. Poṭṭhapādasuttantasmiñhi sappītikadutiyajjhānaphalasamāpatti kathitā (dī. ni. 1.432). Pāsādikasuttante saha maggena vipassanāpādakajjhānaṃ. Dasuttarasuttante catutthajjhānikaphalasamāpatti. Imasmiṃ sampasādanīye diṭṭhadhammasukhavihārajjhānāni kathitāni. Nikāmalābhīti yathākāmalābhī. Akicchalābhīti adukkhalābhī. Akasiralābhīti vipulalābhī.

Thuộc về các thắng tâm: Thuộc về các thắng tâm, có nghĩa là đã vượt qua các tâm Dục giới và trụ lại. Là các sự an trú lạc ngay ở bản thể này: là các sự an trú lạc ngay trong chính bản thể này. Thật vậy, đức Thế Tôn đã giảng về sự thể nhập Quả nhị thiền cùng với hỷ trong Kinh Poṭṭhapāda. (dī. ni. 1.432); Thiền định làm nền tảng cho Minh sát cùng với Đạo trong Kinh Pāsādika. Sự thể nhập Quả liên quan với Tứ thiền trong bài Kinh Dasuttara. Và Ngài đã nói về thiền là phương tiện để an trú lạc ngay ở hiện tại (ngay ở bản thể) trong Kinh Khởi Niềm Tịnh Tín này. Có sự đạt được theo ước muốn: Có sự đạt được (thiền) như sự ước muốn. Có sự đạt được không khó khăn: có sự đạt được không khó khăn. Có sự đạt được không khó nhọc: Có sự đạt được quảng đại.

Giảng giải về cách thức trả lời sự chất vấn

161. Ekissā lokadhātuyāti dasasahassilokadhātuyā. Tīṇi hi khettāni – jātikhettaṃ āṇākhettaṃ visayakhettaṃ. Tattha jātikhettaṃ nāma dasasahassī lokadhātu. Sā hi tathāgatassa mātukucchiṃ okkamanakāle nikkhamanakāle sambodhikāle dhammacakkappavattane āyusaṅkhārossajjane parinibbāne ca kampati. Koṭisatasahassacakkavāḷaṃ pana āṇākhettaṃ nāma. Āṭānāṭiyamoraparittadhajaggaparittaratanaparittādīnañhi ettha āṇā vattati. Visayakhettassa pana parimāṇaṃ natthi, buddhānañhi ‘‘yāvatakaṃ ñāṇaṃ, tāvatakaṃ ñeyyaṃ, yāvatakaṃ ñeyyaṃ tāvatakaṃ ñāṇaṃ, ñāṇapariyantikaṃ ñeyyaṃ, ñeyyapariyantikaṃ ñāṇa’’nti (mahāni. 55) vacanato avisayo nāma natthi.

161. Ở cùng một thế giới: Trong mười ngàn thế giới. Thật vậy, có 3 lãnh vực là jātikhetta-lãnh vực đản sinh, ānakhetta-lãnh vực uy lực và visāyakhetta-lãnh vực trí tuệ. Trong số ba lãnh vực ấy, thì mười ngàn thế giới gọi là lãnh vực đản sinh. Bởi vì, vào lúc đức Như Lai nhập thai vào bụng mẹ, vào lúc đản sanh, vào lúc ra đi xuất gia, vào lúc giác ngộ hoàn toàn, vào lúc chuyển vận bánh xe Pháp, vào lúc buông xả thọ hành và vào lúc tịch diệt Nibbāna thì mười ngàn thế giới ấy rúng động. Hơn nữa, một trăm ngàn koṭi vũ trụ được gọi là lãnh vực uy lực. Thật vậy, uy lực của các bài kinh hộ trì như bài Kinh Aṭānāṭiya, bài Kinh Mora (Kinh Chim Công), bài Kinh Dhajagga (Kinh Ngọn Cờ), bài Kinh Ratana (Kinh Châu Báu), v.v., đều vận hành trong một trăm ngàn koṭi vũ trụ ấy. Còn lãnh vực trí tuệ là không thể đo lường (vô lượng). Thật vậy, điều mà không thuộc lãnh vực trí tuệ của chư Phật là không có, bởi trong Chánh Văn Pāḷī nói rằng: “Trí là chừng nào thì điều có thể biết là chừng ấy, điều có thể biết là chừng nào thì trí là chừng ấy. Điều có thể biết có trí là giới hạn, trí có điều có thể biết là giới hạn.” (mahāni. 55).

Imesu pana tīsu khettesu ṭhapetvā imaṃ cakkavāḷaṃ aññasmiṃ cakkavāḷe buddhā uppajjantīti suttaṃ natthi, nuppañjantīti pana atthi. Tīṇi piṭakāni vinayapiṭakaṃ, suttantapiṭakaṃ abhidhammapiṭakaṃ. Tisso saṅgītiyo mahākassapattherassa saṅgīti, yasattherassa saṅgīti, moggaliputtatissattherassa saṅgītīti. Imā tisso saṅgītiyo āruḷhe tepiṭake buddhavacane ‘‘imaṃ cakkavāḷaṃ muñcitvā aññattha buddhā uppajjantī’’ti suttaṃ natthi, nuppajjantīti pana atthi.

Hơn nữa, chẳng có bài Kinh nói rằng: “Trong ba giới hạn này, chư Phật hiện khởi ở thế giới khác ngoại trừ thế giới này, Nhưng có nói rằng “chư Phật không hiện khởi”. Tam Tạng là Tạng Luật, Tạng Kinh và Tạng Abhidhamma. Ba lần kiết tập Tam Tạng là cuộc kiết tập của trưởng lão Mahākassapa, cuộc kiết tập của trưởng lão Yasa, cuộc kiết tập của trưởng lão Moggaliputtatissa. Trong Phật ngôn là Tam Tạng được nêu ra cả ba lần kiết tập này cũng chẳng có bài Kinh nào nói rằng: “ngoại trừ thế giới này thì chư Phật hiện khởi ở thế giới khác” chỉ có không sanh lên ở vũ trụ khác. “Chư Phật hiện khởi ở thế giới khác ngoại trừ thế giới này.” Nhưng có nói rằng: “Chư Phật không hiện khởi.”

Apubbaṃ acarimanti apure apacchā ekato nuppajjanti, pure vā pacchā vā uppajjantīti vuttaṃ hoti. Tattha bodhipallaṅke ‘‘bodhiṃ apatvā na uṭṭhahissāmī’’ti nisinnakālato paṭṭhāya yāva mātukucchismiṃ paṭisandhiggahaṇaṃ, tāva pubbeti na veditabbaṃ. Bodhisattassa hi paṭisandhiggahaṇe dasasahassacakkavāḷakampaneneva khettapariggaho kato. Aññassa buddhassa uppattipi nivāritā hoti. Parinibbānato paṭṭhāya ca yāva sāsapamattāpi dhātuyo tiṭṭhanti, tāva pacchāti na veditabbaṃ. Dhātūsu hi ṭhitāsu buddhāpi ṭhitāva honti. Tasmā etthantare aññassa buddhassa uppatti nivāritāva hoti. Dhātuparinibbāne pana jāte aññassa buddhassa uppatti na nivāritā.

Đồng thời (không trước không sau): không sanh lên cùng lúc, là không trước không sau. Giải thích rằng: không sanh lên trước hoặc sanh lên sau. Ở đây, khoảng thời gian kể từ khi đức Phật ngồi dưới bảo tọa Bồ-đề với lời phát nguyện rằng – “Ta sẽ không đứng dậy (nếu như) Ta không chứng đắc Bồ-đề Trí” cho đến khi Ngài thọ nhận sự tục sanh nhập thai vào bụng mẹ không nên hiểu là thời gian trước. Bởi vì ngài đã thực hiện việc xác định lãnh vực bằng cách làm cho mười ngàn thế giới rúng động vào lúc đức Bồ Tát thọ nhận sự tục sanh. Ngay cả sự hiện khởi của chư Phật khác cũng đã được ngăn chặn. Khoảng thời gian tính từ lúc viên tịch Niết Bàn cho đến khi Xá-lợi có kích thước bằng hạt cải vẫn còn tồn tại. Bởi vì khi Xá-lợi còn tồn tại thì chư Phật vẫn còn tồn tại. Vì thế, sự hiện khởi của các đức Phật khác trong giai đoạn này đã được ngăn chặn.

Giải thích về sự biến mất của Tam Tạng

Tīṇi antaradhānāni nāma pariyattiantaradhānaṃ, paṭivedhaantaradhānaṃ, paṭipattiantaradhānanti. Tattha pariyattīti tīṇi piṭakāni. Paṭivedhoti saccappaṭivedho. Paṭipattīti paṭipadā. Tattha paṭivedho ca paṭipatti ca hotipi na hotipi. Ekasmiñhi kāle paṭivedhakarā bhikkhū bahū honti, esa bhikkhu puthujjanoti aṅguliṃ pasāretvā dassetabbo hoti. Imasmiṃyeva dīpe ekavāraṃ puthujjanabhikkhu nāma nāhosi. Paṭipattipūrakāpi kadāci bahū honti, kadāci appā. Iti paṭivedho ca paṭipatti ca hotipi na hotipi. Sāsanaṭṭhitiyā pana pariyatti pamāṇaṃ. Paṇḍito hi tepiṭakaṃ sutvā dvepi pūreti.

Thật vậy, có ba sự biến mất, đó là: sự biến mất của Pháp học, sự biến mất của Pháp hành, và sự biến mất của Pháp thành. Trong 3 sự biến mất ấy thì Tam Tạng gọi là Pháp học. Việc thấu triệt các Chân Lý gọi là Pháp thành. Đạo lộ thực hành gọi là Pháp hành. Ở đây, Pháp thành và Pháp hành có (hoặc) không có. Bởi vì, một thuở nọ có nhiều vị tỳ Tỳ khưu đã thấu triệt, vị ấy (vị chưa chứng đắc) có thể bị đưa tay chỉ thẳng rằng “vị Tỳ khưu này là phàm nhân.” Vị Tỳ khưu là phàm nhân không phải chỉ có một ở châu lục này. Ngay cả những vị thực hành Pháp hành đôi khi có nhiều, thỉnh thoảng có ít. Chính vì vậy, Pháp thành và Pháp hành được gọi là có (hoặc) không có, là như thế. Tuy nhiên, Pháp học được xem là thước đo của sự tồn tại của Giáo Pháp. Bởi vì, bậc sáng trí sau khi lắng nghe Tam Tạng cũng làm tròn đủ cả hai (Pháp hành và Pháp thành).

Yathā amhākaṃ bodhisatto āḷārassa santike pañcābhiññā satta ca samāpattiyo nibbattetvā nevasaññānāsaññāyatanasamāpattiyā parikammaṃ pucchi, so na jānāmīti āha. Tato udakassa santikaṃ gantvā adhigatavisesaṃ saṃsanditvā nevasaññānāsaññāyatanassa parikammaṃ pucchi, so ācikkhi, tassa vacanasamanantarameva mahāsatto taṃ jhānaṃ sampādesi, evameva paññavā bhikkhu pariyattiṃ sutvā dvepi pūreti. Tasmā pariyattiyā ṭhitāya sāsanaṃ ṭhitaṃ hoti. Yadā pana sā antaradhāyati, tadā paṭhamaṃ abhidhammapiṭakaṃ nassati. Tattha paṭṭhānaṃ sabbapaṭhamaṃ antaradhāyati. Anukkamena pacchā dhammasaṅgaho, tasmiṃ antarahite itaresu dvīsu piṭakesu ṭhitesupi sāsanaṃ ṭhitameva hoti.

Đức Bồ Tát của chúng ta sau khi làm cho năm thắng trí và bảy thiền chứng sanh khởi ở trú xứ của đạo sĩ Āḷāra đã hỏi về (đề mục) chuẩn bị của tầng thiền Phi tưởng phi phi tưởng xứ, Đạo sĩ Āḷāra đã nói rằng: “Ta không biết.” Sau đó, đức Bồ Tát đã đến chỗ của đạo sĩ Uddaka, sau khi so sánh với các ưu điểm đặc biệt mà ngài đã chứng đạt rồi hỏi về (đối tượng) chuẩn bị của tầng thiền Phi tưởng phi phi tưởng xứ thiền. Đạo sĩ Uddaka liền nói cho Ngài biết, đức Đại nhân (Bồ Tát) đã làm cho thiền ấy sanh khởi ngay sau lời nói của đạo sĩ Uddaka như thế. Tương tự y như thế ấy, vị Tỳ khưu có trí tuệ sau khi lắng nghe Pháp học cũng làm tròn đủ cả hai (Pháp hành và Pháp thành). Do đó, khi Pháp học còn tồn tại, thì Phật Giáo còn tồn tại. Khi nào Pháp học bị biến mất, khi ấy Tạng Abhidhamma sẽ biến mất trước. Trong Tạng Abhidhamma ấy, bộ Paṭṭhāna sẽ biến mất trước tiên so với tất cả. Bộ Dhammasaṅgaha – Pháp Tụ sẽ biến mất sau đó theo thứ tự. Khi Tạng Abhidhamma đã biến mất, nhưng hai Tạng còn lại vẫn còn tồn tại, Phật Giáo còn tồn tại.

Tattha suttantapiṭake antaradhāyamāne paṭhamaṃ aṅguttaranikāyo ekādasakato paṭṭhāya yāva ekakā antaradhāyati, tadanantaraṃ saṃyuttanikāyo cakkapeyyālato paṭṭhāya yāva oghataraṇā antaradhāyati. Tadanantaraṃ majjhimanikāyo indriyabhāvanato paṭṭhāya yāva mūlapariyāyā antaradhāyati. Tadanantaraṃ dīghanikāyo dasuttarato paṭṭhāya yāva brahmajālā antaradhāyati. Ekissāpi dvinnampi gāthānaṃ pucchā addhānaṃ gacchati, sāsanaṃ dhāretuṃ na sakkoti, sabhiyapucchā āḷavakapucchā viya ca. Etā kira kassapabuddhakālikā antarā sāsanaṃ dhāretuṃ nāsakkhiṃsu.

Trong 2 Tạng còn lại ấy, Tạng Kinh sẽ biến mất trước, (trong Tạng Kinh) thì Tăng Chi Bộ sẽ biến mất trước bắt đầu từ chương mười một pháp cho đến chương một pháp. Sau đó, Tương Ưng Bộ Kinh sẽ biến mất bắt đầu từ Cakka Peyyāla cho đến Kinh Oghataraṇa. Kế tiếp, Trung Bộ Kinh sẽ biến mất bắt đầu từ bài Kinh Indriyabhāvanā cho đến bài Kinh Mūlapariyāya. Tiếp đến, Trường Bộ Kinh sẽ biến mất bắt đầu từ Kinh Dasuttara cho đến Kinh Phạm Võng. Câu hỏi về một câu kệ, hay hai câu kệ, vẫn tồn tại trong khoảng thời gian dài nhưng không thể duy trì được Phật Giáo giống như câu hỏi của Sabhiya hay câu hỏi của Aḷavaka. Được biết rằng giữa thời kỳ có trong thời của đức Phật Kassapa một khoảng thời gian thì không thể duy trì Giáo Pháp được nữa.

Dvīsu pana piṭakesu antarahitesupi vinayapiṭake ṭhite sāsanaṃ tiṭṭhati. Parivārakkhandhakesu antarahitesu ubhatovibhaṅge ṭhite ṭhitameva hoti. Ubhatovibhaṅge antarahite mātikāyapi ṭhitāya ṭhitameva hoti. Mātikāya antarahitāya pātimokkha-pabbajjā-upasampadāsu ṭhitāsu sāsanaṃ tiṭṭhati. Liṅgaṃ addhānaṃ gacchati. Setavatthasamaṇavaṃso pana kassapabuddhakālato paṭṭhāya sāsanaṃ dhāretuṃ nāsakkhi. Paṭisambhidāpattehi vassasahassaṃ aṭṭhāsi. Chaḷabhiññehi vassasahassaṃ. Tevijjehi vassasahassaṃ. Sukkhavipassakehi vassasahassaṃ. Pātimokkhehi vassasahassaṃ aṭṭhāsi. Pacchimakassa pana saccappaṭivedhato pacchimakassa sīlabhedato paṭṭhāya sāsanaṃ osakkitaṃ nāma hoti. Tato paṭṭhāya aññassa buddhassa uppatti na nivāritā.

Lại nữa khi cả 2 Tạng hoàn toàn bị biến mất nhưng khi Tạng Luật còn duy trì thì Giáo Pháp vẫn còn tồn tại. Khi bộ Parivāra Khandhaka đã biến mất, trong khi phần Luật Phân Tích của cả hai phái (Tỳ khưu và Tỳ khưu ni) còn duy trì thì Giáo pháp vẫn còn tồn tại. Khi phần Luật Phân Tích của cả hai phái đã biến mất, trong khi Mātikā còn duy trì thì Giáo pháp vẫn còn tồn tại. Khi Mātikā biến mất, trong khi giới bổn Pātimokkha, sự xuất gia và tu lên bậc trên còn duy trì, thì Giáo pháp vẫn còn tồn tại. Hình tướng (Sa-môn) vẫn tồn tại trong một thời gian dài, tuy nhiên dòng dõi những Sa-môn mặc áo trắng không thể tồn tại kể từ thời đức Phật Kassapa. Giáo Pháp được tồn tại suốt một ngàn năm bởi các vị chứng đạt các tuệ Phân Tích. (Giáo Pháp) được tồn tại suốt một ngàn năm bởi các vị có sáu thắng trí (lục thông). (Giáo Pháp) được tồn tại suốt một ngàn năm bởi các vị có Tam minh. (Giáo Pháp) được tồn tại suốt một ngàn năm bởi các vị thuần quán. (Giáo Pháp) được tồn tại suốt một ngàn năm bởi các vị trì giữ giới bổn Pāṭimokkha. Hơn nữa, Giáo Pháp được xem như là đã suy thoái, kể từ người cuối cùng (không còn) thấu triệt được Chân Lý và người cuối cùng có giới bị rạn nứt. Kể từ đó, sự xuất hiện của một vị Phật khác không bị ngăn trở nữa.

Giải thích về sự biến mất của Giáo Pháp

Tīṇi parinibbānāni nāma kilesaparinibbānaṃ khandhaparinibbānaṃ dhātuparinibbānanti. Tattha kilesaparinibbānaṃ bodhipallaṅke ahosi. Khandhaparinibbānaṃ kusinārāyaṃ. Dhātuparinibbānaṃ anāgate bhavissati.

Sāsanassa kira osakkanakāle imasmiṃ tambapaṇṇidīpe dhātuyo sannipatitvā mahācetiyaṃ gamissanti. Mahācetiyato nāgadīpe rājāyatanacetiyaṃ. Tato mahābodhipallaṅkaṃ gamissanti. Nāgabhavanatopi devalokatopi brahmalokatopi dhātuyo mahābodhipallaṅkameva gamissanti. Sāsapamattāpi dhātuyo na antarā nassissanti. Sabbadhātuyo mahābodhipallaṅke rāsibhūtā suvaṇṇakkhandho viya ekagghanā hutvā chabbaṇṇarasmiyo vissajjessanti.

Có ba sự tịch diệt hoàn toàn: (1) sự tịch diệt hoàn toàn các phiền não, (2) sự tịch diệt hoàn toàn ngũ uẩn, (3) sự tịch diệt hoàn toàn các Xá-lợi. Trong ba sự tịch diệt hoàn toàn đó, (1) sự tịch diệt hoàn toàn các phiền não đã có trong khi ngồi ở bảo tọa Bồ-đề, (2) sự tịch diệt hoàn toàn các Uẩn ở tại thành Kusinārā và (3) sự tịch diệt hoàn toàn các Xá-lợi sẽ diễn ra trong thời vị lai. Nghe rằng: vào lúc Giáo pháp hoại diệt tất cả các Xá-lợi sau khi quy tụ lại trên hòn đảo Tambapaṇṇi sẽ đi đến Đại bảo điện. Từ Đại bảo điện đi đến bảo điện Rājāyatana ở Nāgadīpa. Từ bảo điện Rājāyatana sẽ đi đến bảo tọa Đại Bồ-đề. Toàn bộ Xá-lợi từ Long Cung, và thế giới Chư thiên, luôn cả thế giới Phạm thiên sẽ đến quy tụ ngay tại bảo tọa Đại Bồ-đề. Xá-lợi có kích thước bằng hạt cải sẽ không biến mất. Toàn bộ Xá-lợi sẽ kết tụ lại thành một khối tại bảo tọa Đại Bồ-đề tạo thành khối rắn chắc tựa như một khối vàng ròng phát ra hào quang sáu màu.

Tā dasasahassilokadhātuṃ pharissanti, tato dasasahassacakkavāḷadevatā sannipatitvā ‘‘ajja satthā parinibbāti, ajja sāsanaṃ osakkati, pacchimadassanaṃ dāni idaṃ amhāka’’nti dasabalassa parinibbutadivasato mahantataraṃ kāruññaṃ karissanti. Ṭhapetvā anāgāmikhīṇāsave avasesā sakabhāvena sandhāretuṃ na sakkhissanti. Dhātūsu tejodhātu uṭṭhahitvā yāva brahmalokā uggacchissati. Sāsapamattāyapi dhātuyā sati ekajālā bhavissati. Dhātūsu pariyādānaṃ gatāsu upacchijjissati. Evaṃ mahantaṃ ānubhāvaṃ dassetvā dhātūsu antarahitāsu sāsanaṃ antarahitaṃ nāma hoti.

Hào quang của các Xá-lợi ấy sẽ lan tỏa khắp mười ngàn thế giới. Sau đó, Chư thiên ở mười ngàn thế giới tụ hội lại đã bày tỏ sự thương tiếc lớn lao vô hạn hơn cả ngày viên tịch Niết Bàn của đấng Thập Lực rằng: “bậc Đạo Sư tịch diệt Niết Bàn vào ngày hôm nay, Giáo Pháp bị suy thoái vào ngày hôm nay. Bây giờ, đây là sự chiêm bái Xá-lợi của đức Thế Tôn lần cuối cùng của chúng ta.” Ngoại trừ bậc thánh Bất Lai và bậc Lậu Tận, (thì) những người còn lại cũng sẽ không thể duy trì theo thực tính của chính mình. Hỏa giới bốc cháy bên trong các Xá-lợi loan tới cõi trời Phạm thiên. Khi các Xá-lợi chỉ có kích cỡ chỉ bằng hạt cải thì chúng sẽ bốc cháy thành một ngọn lửa duy nhất. Trong khi toàn bộ Xá-lợi đi đến sự hoàn toàn cạn kiệt thì hỏa giới cũng sẽ dập tắt. Sau khi thể hiện uy lực lớn lao như vậy thì toàn bộ Xá-lợi đều biến mất, và Giáo Pháp cũng được xem như là đã biến mất.

Yāva na evaṃ antaradhāyati, tāva acarimaṃ nāma hoti. Evaṃ apubbaṃ acarimaṃ uppajjeyyuṃ, netaṃ ṭhānaṃ vijjati. Kasmā pana apubbaṃ acarimaṃ nuppajjantīti? Anacchariyattā. Buddhā hi acchariyamanussā. Yathāha – ‘‘ekapuggalo, bhikkhave, loke uppajjamāno uppajjati acchariyamanusso. Katamo ekapuggalo? Tathāgato arahaṃ sammāsambuddho’’ti (a. ni. 1.172). Yadi ca dve vā cattāro vā aṭṭha vā soḷasa vā ekato uppajjeyyuṃ, anacchariyā bhaveyyuṃ. Ekasmiñhi vihāre dvinnaṃ cetiyānampi lābhasakkāro uḷāro na hoti. Bhikkhūpi bahutāya na acchariyā jātā, evaṃ buddhāpi bhaveyyuṃ, tasmā nuppajjanti. Desanāya ca visesābhāvato. Yañhi satipaṭṭhānādibhedaṃ dhammaṃ eko deseti. Aññena uppajjitvāpi sova desetabbo siyā, tato anacchariyo siyā. Ekasmiṃ pana dhammaṃ desente desanāpi acchariyā hoti, Vivādabhāvato ca. Bahūsu hi buddhesu uppannesu bahūnaṃ ācariyānaṃ antevāsikā viya amhākaṃ buddho pāsādiko, amhākaṃ buddho madhurassaro lābhī puññavāti vivadeyyuṃ. Tasmāpi evaṃ nuppajjanti. Api cetaṃ kāraṇaṃ milindaraññāpi puṭṭhena nāgasenattherena vitthāritameva. Vuttañhi tattha –

Như vậy, khi nào Giáo Pháp chưa biến mất, khi ấy gọi là “không có sau ”. Như thế, chư Phật sanh lên (đồng thời) không trước không sau, sự việc ấy không xảy ra. Vậy tại sao (chư Phật) không sanh lên (đồng thời) không trước không sau? Bởi vì điều đó không kỳ diệu. Bởi chư Phật là những bậc phi thường. Như Ngài đã nói rằng– “Một người, này các Tỳ khưu, khi xuất hiện ở đời, là xuất hiện một người phi thường. Một người ấy là ai? Chính là đức Thế Tôn, bậc A-ra-hán, Chánh đẳng Chánh giác.” (a. ni. 1.171-174); Và nếu như chư Phật có thể sanh lên cùng lúc – hai vị, bốn vị, tám vị, mười sáu vị, thì (điều đó) sẽ khiến họ trở thành (nhân vật) không phi thường. Thật vậy, ngay cả hai ngôi Bảo điện trong cùng một tự viện, có lợi lộc và sự cung kính là không cao quý, và cả các vị Tỳ khưu cũng không phi thường bởi có rất nhiều, ngay cả chư Phật cũng trở thành như vậy. Chính vì thế (chư Phật) không sanh lên (đồng thời). Ngoài ra, (chư Phật không xuất hiện đồng thời) vì sự thuyết giảng không có khác biệt. Thật vậy, một vị Phật thuyết pháp nào được phân chia theo thể loại có sự thiết lập niệm v.v, thì ngay khi một vị Phật khác xuất hiện chính chính pháp ấy cũng có thể thuyết giảng tương tự. Vì thế, điều đó không còn là phi thường. Nhưng chỉ khi có một vị thuyết pháp thì chính pháp thoại (ấy) cũng trở nên phi thường. Bên cạnh đó, (chư Phật không xuất hiện đồng thời) để tránh sự tranh luận. Thật vậy, khi nhiều vị Phật sanh lên đồng thời thì chư Tỳ khưu có thể tranh luận với nhau rằng: “Đức Phật của chúng ta thật đáng tịnh tín, đức Phật của chúng ta có giọng nói ngọt ngào, có lợi đắc, và có nhiều phước báu!” (Điều này) cũng giống như các học trò của nhiều vị thầy. Vì lý do ấy (chư Phật) không sanh lên đồng thời. Cho nên, khi đại đức Nāgasena bị đức vua Milinda hỏi, Ngài đã giải thích cặn kẽ về vấn đề này. Bởi vì việc ấy đã được đề cập (mi. pa. 5.1.1) —

Bhante, nāgasena, bhāsitampi hetaṃ bhagavatā ‘‘aṭṭhānametaṃ, bhikkhave, anavakāso, yaṃ ekissā lokadhātuyā dve arahanto sammāsambuddhā apubbaṃ acarimaṃ uppajjeyyuṃ, netaṃ ṭhānaṃ vijjatī’’ti. Desayantā ca, bhante nāgasena, sabbepi tathāgatā sattatiṃsa bodhipakkhiye dhamme desenti, kathayamānā ca cattāri ariyasaccāni kathenti, sikkhāpentā ca tīsu sikkhāsu sikkhāpenti, anusāsamānā ca appamādappaṭipattiyaṃ anusāsanti. Yadi, bhante nāgasena, sabbesampi tathāgatānaṃ ekā desanā ekā kathā ekasikkhā ekānusāsanī, kena kāraṇena dve tathāgatā ekakkhaṇe nuppajjanti. Ekenapi tāva buddhuppādena ayaṃ loko obhāsajāto, yadi dutiyo buddho bhaveyya, dvinnaṃ pabhāya ayaṃ loko bhiyyosomattāya obhāsajāto bhaveyya, ovadamānā ca dve tathāgatā sukhaṃ ovadeyyuṃ, anusāsamānā ca sukhaṃ anusāseyyuṃ, tattha me kāraṇaṃ desehi, yathāhaṃ nissaṃsayo bhaveyya’’nti.

Đức vua Milinda hỏi: “Thưa ngài Nāgasena, điều này cũng đã được đức Thế Tôn nói đến: ‘Này các tỳ khưu, điều này là không hợp lý và không có cơ sở, là việc hai bậc A-ra-hán, Chánh đẳng Chánh giác có thể sanh lên không trước không sau trong cùng một thế giới, sự kiện này không được biết đến’ Thưa ngài Nāgasena, trong khi thuyết giảng tất cả các đức Như Lai đều thuyết giảng ba mươi bảy Pháp trợ phần giác ngộ, trong khi giảng giải đều giảng giải bốn Chân Lý cao thượng, trong khi huấn luyện đều huấn luyện về ba sự học tập, trong khi chỉ dạy đều chỉ dạy sự thực hành về không xao lãng. Thưa ngài Nāgasena, nếu tất cả các đức Như Lai đều có sự thuyết giảng thống nhất, sự giảng giải thống nhất, sự huấn luyện thống nhất, sự chỉ dạy thống nhất, vì lý do gì hai đức Như Lai không sanh lên trong cùng một thời điểm? Bởi vì với việc sanh lên của vị Phật dù chỉ một vị thế gian này được phát sáng, nếu có thêm vị Phật thứ nhì, với hai luồng ánh sáng thế gian này có thể được phát sáng nhiều hơn thế nữa. Và hai đức Như Lai, trong khi giáo giới có thể giáo giới một cách thoải mái, trong khi chỉ dạy, có thể chỉ dạy một cách thoải mái. Về việc này, xin đại đức hãy nói cho trẫm lý do, để trẫm có thể dứt khỏi sự nghi ngờ.”

Ayaṃ, mahārāja, dasasahassī lokadhātu ekabuddhadhāraṇī, ekasseva tathāgatassa guṇaṃ dhāreti, yadi dutiyo buddho uppajjeyya, nāyaṃ dasasahassī lokadhātu dhāreyya, caleyya, kampeyya, nameyya, oṇameyya, vinameyya, vikireyya, vidhameyya, viddhaṃseyya, na ṭhānamupagaccheyya.

Đại đức Nāgasena đáp – “Tâu đại vương, mười ngàn thế giới này, có sự nâng đỡ chỉ một vị Phật, nâng đỡ đức hạnh của chỉ một đức Như Lai. Nếu vị Phật thứ nhì sanh lên, mười ngàn thế giới này không thể nâng đỡ, có thể lay động, rúng động, nghiêng qua, hạ thấp xuống, uốn cong, phân tán, tiêu tan, tiêu hoại, đưa đến không thể trú vững được.

Yathā, mahārāja, nāvā ekapurisasandhāraṇī bhaveyya, ekapurise abhirūḷhe sā nāvā samupādikā bhaveyya, atha dutiyo puriso āgaccheyya tādiso āyunā vaṇṇena vayena pamāṇena kisathūlena sabbaṅgapaccaṅgena, so taṃ nāvaṃ abhirūheyya, api nu sā, mahārāja, nāvā dvinnampi dhāreyyāti? Na hi, bhante, caleyya, kampeyya, nameyya, oṇameyya, vinameyya, vikireyya, vidhameyya, viddhaṃseyya, na ṭhānamupagaccheyya osīdeyya udaketi. Evameva kho, mahārāja, ayaṃ dasasahassī lokadhātu ekabuddhadhāraṇī, ekasseva tathāgatassa guṇaṃ dhāreti, yadi dutiyo buddho uppajjeyya, nāyaṃ dasasahassī lokadhātu dhāreyya…pe… na ṭhānamupagaccheyya.

Tâu đại vương, giống như chiếc thuyền là có sự nâng đỡ một người, khi có một người bước lên thì có thể đạt được sự yên ổn. Khi người thứ hai đi đến có cùng tuổi tác, vóc dáng, thọ mạng, kích thước, ốm mập, toàn bộ tứ chi lớn nhỏ tương đương người kia, rồi người ấy có thể bước lên chiếc thuyền ấy. Tâu đại vương, phải chăng chiếc thuyền ấy cũng có thể nâng đỡ cả hai người?” – “Thưa ngài, không đúng. Nó có thể lay động, rúng động, nghiêng qua, hạ thấp xuống, uốn cong, phân tán, tiêu tan, tiêu hoại, tiến đến việc bị hoại diệt, có thể chìm xuống nước.” – “Tâu đại vương, tương tự y như thế mười ngàn thế giới này, có sự nâng đỡ chỉ một vị Phật, nâng đỡ đức hạnh của chỉ một đức Như Lai. Nếu vị Phật thứ hai sanh lên, mười ngàn thế giới này không thể nâng đỡ, có thể lay động, rúng động, nghiêng qua, tiêu hoại…nt…, đưa đến không thể trú vững được.

Yathā vā pana, mahārāja, puriso yāvadatthaṃ bhojanaṃ bhuñjeyya chādentaṃ yāva kaṇṭhamabhipūrayitvā, so dhāto pīṇito paripuṇṇo nirantaro tandīkato anoṇamitadaṇḍajāto punadeva tāvatakaṃ bhojanaṃ bhuñjeyya, api nu kho so, mahārāja, puriso sukhito bhaveyyāti? Na hi, bhante , sakiṃ bhuttova mareyyāti; evameva kho, mahārāja, ayaṃ dasasahassī lokadhātu ekabuddhadhāraṇī …pe… na ṭhānamupagaccheyyāti.

Tâu đại vương, hoặc là giống như người nam ăn thức ăn theo như ý thích. Người ấy, sau khi chứa đầy món ăn được ưa thích đến tận cổ họng, được thỏa mãn, căng phồng, đầy ứ, không còn chỗ chứa, bị làm mệt, tựa như cây gậy cứng đờ, rồi lại ăn thức ăn chừng ấy thêm lần nữa. Tâu đại vương, phải chăng người nam ấy có thể có được thoải mái?” “Thưa ngài, không thể được. Đã được ăn một lần thôi cũng có thể chết.” – “Tâu đại vương, tương tự y như thế mười ngàn thế giới này, có sự nâng đỡ chỉ một vị Phật, …nt…, đưa đến không thể trú vững được.”

Kiṃ nu kho, bhante nāgasena, atidhammabhārena pathavī calatīti? Idha, mahārāja, dve sakaṭā ratanapūritā bhaveyyuṃ yāva mukhasamā, ekasmā sakaṭato ratanaṃ gahetvā ekasmiṃ sakaṭe ākireyyuṃ, api nu kho taṃ, mahārāja, sakaṭaṃ dvinnampi sakaṭānaṃ ratanaṃ dhāreyyāti? Na hi, bhante, nābhipi tassa phaleyya, arāpi tassa bhijjeyyuṃ, nemipi tassa opateyya, akkhopi tassa bhijjeyyāti. Kiṃ nu kho, mahārāja, atiratanabhārena sakaṭaṃ bhijjatīti? Āma, bhante,ti. Evameva kho, mahārāja, atidhammabhārena pathavī calati.

Thưa ngài Nāgasena, phải chăng với gánh nặng Giáo Pháp quá tải quả đất lay động? Tâu đại vương, ở đây hai chiếc xe hàng có thể được chứa đầy châu báu đến ngang miệng, sau khi lấy châu báu từ một chiếc xe hàng rồi đổ vào chiếc xe hàng kia. Tâu đại vương, phải chăng chiếc xe kéo ấy có thể chứa đựng châu báu của hai chiếc xe kéo? – Thưa ngài, không thể được. Thậm chí ở trục bánh xe của nó có thể nứt, ngay cả các cây căm của nó cũng có thể bị gãy, kể cả vành bánh xe của nó cũng có thể sụm xuống, trục xe của nó có thể bị gãy. – Tâu đại vương, phải chăng chiếc xe hàng bị gãy đổ với gánh nặng châu báu quá tải? – Thưa ngài, đúng vậy. Tâu đại vương, tương tợ y như thế quả đất lay động với gánh nặng Giáo Pháp quá tải.

Apica, mahārāja, imaṃ kāraṇaṃ buddhabalaparidīpanāya osāritaṃ aññampi tattha atirūpaṃ kāraṇaṃ suṇohi, yena kāraṇena dve sammāsambuddhā ekakkhaṇe nuppajjanti. Yadi, mahārāja, dve sammāsambuddhā ekakkhaṇe uppajjeyyuṃ, tesaṃ parisāya vivādo uppajjeyya ‘‘tumhākaṃ buddho amhākaṃ buddho’’ti, ubhato pakkhajātā bhaveyyuṃ. Yathā, mahārāja, dvinnaṃ balavāmaccānaṃ parisāya vivādo uppajjeyya ‘‘tumhākaṃ amacco amhākaṃ amacco’’ti, ubhato pakkhajātā honti; evameva kho, mahārāja, yadi dve sammāsambuddhā ekakkhaṇe uppajjeyyuṃ, tesaṃ parisāya vivādo uppajjeyya ‘‘tumhākaṃ buddho, amhākaṃ buddho’’ti, ubhato pakkhajātā bhaveyyuṃ, idaṃ tāva, mahārāja, ekaṃ kāraṇaṃ, yena kāraṇena dve sammāsambuddhā ekakkhaṇe nuppajjanti.

Tâu đại vương, hơn nữa lý do này được đưa ra để làm rõ năng lực của vị Phật. Xin đại vương hãy lắng nghe lý do xác đáng khác nữa cho trường hợp ấy, mà vì lý do ấy hai vị Chánh đẳng Chánh giác không thể sanh lên trong cùng một thời điểm: Tâu đại vương, nếu hai vị Chánh đẳng Chánh giác sanh lên trong cùng một thời điểm, sự tranh cãi giữa hội chúng của hai vị ấy có thể sanh khởi: ‘Phật của các vị, Phật của chúng tôi,’ rồi có thể bị sanh ra hai nhóm. Tâu đại vương, giống như sự tranh cãi giữa hội chúng của hai vị quan đại thần có quyền lực có thể sanh khởi: ‘Quan đại thần của các vị, quan đại thần của chúng tôi,’ rồi bị sanh ra hai nhóm. Tâu đại vương, tương tự y như thế nếu hai vị Chánh đẳng Chánh giác sanh lên trong cùng một thời điểm, sự tranh cãi giữa hội chúng của hai vị ấy có thể sanh khởi: ‘Phật của các vị, Phật của chúng tôi,’ rồi có thể bị sanh ra hai nhóm. Tâu đại vương, đây còn là một lý do, mà vì lý do ấy hai vị Chánh đẳng Chánh giác không thể sanh lên trong cùng một thời điểm.

Aparampi, mahārāja, uttariṃ kāraṇaṃ suṇohi, yena kāraṇena dve sammāsambuddhā ekakkhaṇe nuppajjanti. Yadi, mahārāja, dve sammāsambuddhā ekakkhaṇe uppajjeyyuṃ, ‘‘aggo buddho’’ti yaṃ vacanaṃ, taṃ micchā bhaveyya, ‘‘jeṭṭho buddho’’ti, seṭṭho buddhoti, visiṭṭho buddhoti, uttamo buddhoti, pavaro buddhoti, asamo buddhoti , asamasamo buddhoti, appaṭimo buddhoti, appaṭibhāgo buddhoti, appaṭipuggalo buddhoti yaṃ vacanaṃ, taṃ micchā bhaveyya. Imampi kho tvaṃ, mahārāja, kāraṇaṃ atthato sampaṭiccha, yena kāraṇena dve sammāsambuddhā ekakkhaṇe nuppajjanti.

Tâu đại vương, xin đại vương hãy lắng nghe thêm lý do khác nữa, mà vì lý do ấy hai vị Chánh đẳng Chánh giác không sanh lên trong cùng một thời điểm. Tâu đại vương, nếu hai vị Chánh đẳng Chánh giác có thể sanh lên trong cùng một thời điểm, thì lời nói rằng: ‘Đức Phật là cao cả’ có thể là sai trái, thì lời nói rằng: ‘Đức Phật là lớn nhất’ có thể là sai trái, thì lời nói rằng: ‘Đức Phật là hạng nhất’ có thể là sai trái, thì lời nói rằng: Đức Phật là nổi bật, đức Phật là tối thượng, đức Phật là cao quý, đức Phật là không người sánh bằng, đức Phật là không kẻ tương đương, đức Phật là không người đối xứng, đức Phật là không kẻ so sánh, đức Phật là không người đối thủ, (điều đó) có thể là sai trái. Tâu đại vương, xin đại vương hãy chấp nhận theo chính lý do này, bởi ý nghĩa đây cũng là lý do mà hai vị Chánh đẳng Chánh giác không thể sanh lên trong cùng một thời điểm.

Apica kho, mahārāja, buddhānaṃ bhagavantānaṃ sabhāvapakati esā, yaṃ ekoyeva buddho loke uppajjati. Kasmā kāraṇā? Mahantatāya sabbaññubuddhaguṇānaṃ, yaṃ aññampi, mahārāja, mahantaṃ hoti, taṃ ekaṃyeva hoti. Pathavī, mahārāja, mahantī, sā ekāyeva. Sāgaro mahanto, so ekoyeva. Sineru girirājā mahanto, so ekoyeva. Ākāso mahanto, so ekoyeva. Sakko mahanto, so ekoyeva. Māro mahanto , so ekoyeva. Mahābrahmā mahanto, so ekoyeva. Tathāgato arahaṃ sammāsambuddho mahanto, so ekoyeva lokasmiṃ. Yattha te uppajjanti, tattha aññesaṃ okāso na hoti. Tasmā, mahārāja, tathāgato arahaṃ sammāsambuddho ekoyeva loke uppajjatīti. Sukathito, bhante nāgasena, pañho opammehi kāraṇehīti (mi. pa. 5.1.1).

Tâu đại vương, thêm nữa tánh tự nhiên về bản thể của chư Phật Thế Tôn là chỉ một vị Phật sanh lên ở thế gian. Bởi vì lý do gì? Bởi vì tính chất vĩ đại về các đức hạnh của đức Phật Toàn Tri. Tâu đại vương, vật khác cũng là vĩ đại ở thế gian, vật ấy là chỉ có một. Tâu đại vương, quả đất là vĩ đại (bởi) nó chỉ có một. Biển cả là vĩ đại (bởi) nó chỉ có một. Núi Chúa Sineru là vĩ đại (bởi) nó chỉ có một. Không gian là vĩ đại (bởi) nó chỉ có một. Vua trời Sakka là vĩ đại (bởi) vị ấy chỉ có một. Ma Vương là vĩ đại (bởi) vị ấy chỉ có một. Đại Phạm Thiên là vĩ đại (bởi) vị ấy chỉ có một ở thế gian. Đức Như Lai, bậc A-ra-hán, Chánh đẳng Chánh giác là vĩ đại, bởi ngài chỉ có một mà thôi. Nơi nào những vị ấy sanh lên, thì những người khác không còn cơ hội (sanh ra) ở nơi đó. Vì thế, Tâu đại vương, Đức Như Lai, bậc A-ra-hán, Chánh đẳng Chánh giác ở thế gian chỉ có một vị.” “Thưa ngài Nāgasena, câu hỏi đã được ngài khéo được giảng giải bằng các lý lẽ (được mang lại), với ví dụ so sánh. (mi. pa. 5.1.1);

Dhammassa cānudhammanti navavidhassa lokuttaradhammassa anudhammaṃ pubbabhāgappaṭipadaṃ. Sahadhammikoti sakāraṇo. Vādānuvādoti vādoyeva.

Pháp phù hợp với pháp: Sự thực hành thuộc phần đầu là pháp phù hợp cho chín Pháp Siêu Thế. Đúng theo pháp: (Việc tranh luận) có lý do. Việc tranh luận: Chính là việc tranh luận.

Giải thích về sự kỳ diệu và phi thường.

162. Āyasmā udāyīti tayo therā udāyī nāma – lāḷudāyī, kāḷudāyī, mahāudāyīti. Idha mahāudāyī adhippeto. Tassa kira imaṃ suttaṃ ādito paṭṭhāya yāva pariyosānā suṇantassa abbhantare pañcavaṇṇā pīti uppajjitvā pādapiṭṭhito sīsamatthakaṃ gacchati, sīsamatthakato pādapiṭṭhiṃ āgacchati, ubhato paṭṭhāya majjhaṃ otarati, majjhato paṭṭhāya ubhato gacchati.

162. Đại đức Udāyi: Trưởng lão tên Udāyi có ba vị: Lāḷudāyi, Kāḷudāyi, Kahāudāyi. Ở đây, có ý muốn nói đến đại đức Mahāudāyi. Được biết rằng, khi Ngài Mahāudāyi lắng nghe bài kinh này từ đầu đến cuối, hỷ có năm màu sắc khởi lên bên trong, lan tỏa từ dưới lòng bàn chân lên đến đỉnh đầu, và từ đỉnh đầu lan xuống dưới lòng bàn chân, từ hai bên tụ lại ở giữa, rồi từ chính giữa lan ra hai bên.

So nirantaraṃ pītiyā phuṭasarīro balavasomanassena dasabalassa guṇaṃ kathento acchariyaṃ bhantetiādimāha. Appicchatāti nittaṇhatā. Santuṭṭhitāti catūsu paccayesu tīhākārehi santoso. Sallekhatāti sabbakilesānaṃ sallikhitabhāvo. Yatra hi nāmāti yo nāma. Na attānaṃ pātukarissatīti attano guṇe na āvi karissati. Paṭākaṃ parihareyyunti ‘‘ko amhehi sadiso atthī’’ti vadantā paṭākaṃ ukkhipitvā nāḷandaṃ vicareyyuṃ.

Vị ấy với cơ thể được thấm nhuần bởi hỷ, trong khi nói lên những đức hạnh của đức Thập Lực với niềm hỷ lạc mạnh mẽ đã nói lên rằng: “Bạch Ngài, thật là phi thường…Có tánh ít muốn: trạng thái không còn tham ái. Có tánh tự biết đủ: Có sự bằng lòng với ba biểu hiện trong bốn món vật dụng cần thiết. Có tánh khắc khổ: Sự gột rửa tất cả mọi phiền não. Yatra hi nāmayo hi nāma. Không bao giờ bộc lộ bản thân: Ngài không bao giờ biểu lộ đức hạnh của mình. Có thể mang cờ đi vòng quanh: Các du sĩ ngoại đạo, khi nói rằng ‘Có ai là người giống như ta chăng?’ đã giương ngọn cờ lên đi quanh thành phố Nāḷāndā.

Passakho tvaṃ, udāyi, tathāgatassa appicchatāti passa udāyi yādisī tathāgatassa appicchatāti therassa vacanaṃ sampaṭicchanto āha. Kiṃ pana bhagavā neva attānaṃ pātukaroti, na attano guṇaṃ kathetīti ce? Na, na katheti. Appicchatādīhi kathetabbaṃ, cīvarādihetuṃ na katheti. Tenevāha – ‘‘passa kho tvaṃ, udāyi, tathāgatassa appicchatā’’tiādi. Bujjhanakasattaṃ pana āgamma veneyyavasena katheti. Yathāha –

‘‘Na me ācariyo atthi, sadiso me na vijjati;

Sadevakasmiṃ lokasmiṃ, natthi me paṭipuggalo’’ti. (mahāva. 11);

Này Udāyi, ngươi hãy thấy rằng: ‘Như Lai có tánh ít muốn’: Đức Thế Tôn đã nói trong khi chấp nhận lời của Trưởng lão Udāyi rằng: “Này Udāyi, ngươi hãy thấy Như Lai có tánh ít dục ra sao!” Nếu có câu hỏi: “Tại sao đức Như Lai không tự làm mình bộc lộ, và không tự mình nói về đức hạnh (của bản thân)?” – (Có thể trả lời rằng) không phải ngài không nói. Điều đáng được nói là có tánh ít muốn, v.v, chứ không phải nói vì nguyên nhân y áo, v.v. Chính vì lý do đó, Ngài đã nói rằng: “Này Udāyi, người hãy thấy rằng: ‘Như Lai có tánh ít dục’”. Tuy nhiên, Ngài hướng đến những chúng sanh có khả năng giác ngộ mới thuyết giảng nhờ vào phương diện có thể lãnh hội được Giáo lý. Như Ngài đã nói—

Không có ai là thầy của ta, người tương đương với ta không tìm thấy.

Ở thế gian luôn cả cõi trời, không có ai là đối thủ của ta”. (mahāva. 11);

Evaṃ tathāgatassa guṇadīpikā bahū gāthāpi suttantāpi vitthāretabbā.

Nhiều bài kệ, hoặc bài Kinh thuyết về đức hạnh của đức Như Lai cũng nên được giảng giải chi tiết như vậy.

163. Abhikkhaṇaṃ bhāseyyāsīti punappunaṃ bhāseyyāsi. Pubbaṇhasamaye me kathitanti mā majjhanhikādīsu na kathayittha. Ajja vā me kathitanti mā paradivasādīsu na kathayitthāti attho. Pavedesīti kathesi. Imassa veyyākaraṇassāti niggāthakattā idaṃ suttaṃ ‘‘veyyākaraṇa’’nti vuttaṃ. Adhivacananti nāmaṃ. Idaṃ pana ‘‘iti hida’’nti paṭṭhāya padaṃ saṅgītikārehi ṭhapitaṃ. Sesaṃ sabbattha uttānatthamevāti.

163. Ngươi nên thường xuyên thuyết bài giảng Pháp này: Người nên thường xuyên thuyết giảng (bài giảng Pháp này). Giải thích rằng: Đừng nói vào buổi trưa, v.v., chỉ vì nghĩ rằng ‘Ta đã nói vào buổi sáng rồi’; hoặc đừng nói vào ngày mai (ngày mốt), v.v., chỉ vì nghĩ rằng ‘Ta đã nói vào hôm nay rồi.’” Đã công bố: đã nói. (Tên gọi) của bài giảng này: Bài Kinh này được Ngài gọi là “veyyākaraṇa” bởi vì không có kệ ngôn. Tên gọi: tên. Mặt khác, cụm từ bắt đầu từ “iti hidaṃ” này được đặt vào bởi các vị kết tập Kinh điển. Những từ còn lại ở các câu đều có ý nghĩa dễ hiểu.

Giải thích Kinh Khởi Niềm Tịnh Tín được chấm dứt – Kinh thứ năm (28)

Trong Chú Giải Trường Bộ Kinh là Sumaṅgalavilāsī.