Giải Thích Kinh Kevaṭṭa (Kinh kiên cố)

(Kevaṭṭasuttavaṇṇanā)

Xem Trường Bộ Kinh – Kinh Kevaṭṭa (Kinh kiên cố)

481. Evaṃ me sutaṃ … pe … nāḷandāyanti kevaṭṭasuttaṃ. Tatrāyaṃ apubbapadavaṇṇanā. Pāvārikambavaneti pāvārikassa ambavane. Kevaṭṭoti idaṃ tassa gahapatiputtassa nāmaṃ. So kira cattālīsakoṭidhano[1] gahapatimahāsālo ativiya saddho pasanno ahosi. So saddhādhikattāyeva “sace eko bhikkhu aḍḍhamāsantarena vā māsantarena vā saṃvaccharena vā ākāse uppatitvā vividhāni pāṭihāriyāni dasseyya, sabbo jano ativiya pasīdeyya. Yaṃnūnāhaṃ bhagavantaṃ yācitvā pāṭihāriyakaraṇatthāya ekaṃ bhikkhuṃ anujānāpeyyan”ti cintetvā bhagavantaṃ upasaṅkamitvā evamāha.

481. Bài Kinh Kevaṭṭa: “Tôi (Ānanda) đã nghe như vầy …nt… đức Thế Tôn trú tại thành Nāḷandāya.” Ở đây, bài Kinh này được giải thích theo tuần tự như sau – Nơi rừng xoài của Pāvārika: Nơi rừng xoài của trưởng giả Pāvārika. Kevaṭṭa: đây là tên của con trai người gia chủ. Có câu chuyện kể rằng: cậu gia chủ Kevaṭṭa ấy có khối tài sản khoảng bốn mươi koṭi, là một gia chủ rất giàu có, có đức tin mãnh liệt, vô cùng tịnh tín (nơi Giáo Pháp). Chính vì có đức tin mãnh liệt vị ấy mới nghĩ rằng: “Nếu như có một vị tỳ khưu bay lên không trung, có thể hóa hiện nhiều phép kỳ diệu (về thần thông) giữa nữa tháng, hoặc một tháng, hoặc nữa năm, hoặc một năm, đại chúng càng trở nên tịnh tín, nếu thế ta sẽ khẩn cầu đức Thế Tôn cho phép một vị tỳ khưu thể hiện phép kỳ diệu (về thần thông)”, sau khi đến yết kiến đức Thế Tôn đã nói như vậy.

Tattha iddhāti samiddhā, phītāti nānābhaṇḍaussannatāya vuddhippattā. Ākiṇṇamanussāti aṃsakūṭena aṃsakūṭaṃ paharitvā viya vicarantehi manussehi ākiṇṇā. Samādisatūti āṇāpetu ṭhānantare ṭhapetu. Uttarimanussadhammāti uttarimanussānaṃ dhammato, dasakusalasaṅkhātato vā manussadhammato uttari. Bhiyyosomattāyāti pakatiyāpi pajjalitapadīpo telasnehaṃ[2] labhitvā viya atirekappamāṇena abhippasīdissati. Na kho ahanti bhagavā rājagahaseṭṭhivatthusmiṃ sikkhāpadaṃ paññapesi, tasmā “na kho ahan”tiādimāha.

Ơ đó, Thịnh vượng: đã được thành tựu. Giàu có: đạt đến sự tăng trưởng do có nhiều loại đồ vật khác nhau. Con người chật ních: nhộn nhịp bởi dòng người qua lại, trông giống như vai với vai cọ xát với nhau. Chỉ định: nghĩa là khẩn cần, thiết lập duy trì ở vị trí. Pháp thượng nhân: Pháp của bậc thượng nhân, vượt trội hơn Pháp của loài người được xem là thập thiện. (Sẽ vô cùng tịnh tín với đức Thế Tôn) nhiều hơn nữa: sẽ vô cùng tịnh tín không thể ước lường được giống như ngọn đèn được sáng chói hơn bình thường bởi vì được thêm dầu. Ta không chỉ bảo Pháp như thế: Đức Thế Tôn tuyên bố học giới trong câu chuyện của trưởng giả thành Rājagaha, vì thế đã nói rằng: “Ta không chỉ bảo Pháp như vậy…”

482. Na dhaṃsemīti na guṇavināsanena dhaṃsemi, sīlabhedaṃ pāpetvā anupubbena uccaṭṭhānato otārento nīcaṭṭhāne na ṭhapemi, atha kho ahaṃ buddhasāsanassa vuddhiṃ paccāsīsanto kathemīti dasseti. Tatiyampi khoti yāvatatiyaṃ buddhānaṃ kathaṃ paṭibāhitvā kathetuṃ visahanto nāma natthi, ayaṃ pana bhagavatā saddhiṃ vissāsiko vissāsaṃ vaḍḍhetvā vallabho hutvā atthakāmosmīti tikkhattuṃ kathesi.

482. Ta không phá hủy: Đức Thế Tôn nói rằng – ta không phá hoại khiến các ân đức Pháp bị hủy hoại, tức là đi đến sự phá hủy giới, rồi hạ xuống từ vị trí cao đặt vào vị trí thấp theo tuần tự, thật sự ta hi vọng sự tăng trưởng của Giáo Pháp nên mới nói như vậy. Lần thứ ba: giải thích rằng không ai có thể can ngăn lời nói của đức Thế Tôn đến ba lần, tuy nhiên Kevaṭṭa nói đến ba lần với suy nghĩ rằng: Ta thân thiết với đức Thế Tôn, là vị làm hài lòng, ước muốn điều lợi ích.

 

Giải Thích Phép Kỳ Diệu Về Thần Thông

483-484. Atha bhagavā ayaṃ upāsako mayi paṭibāhantepi punappunaṃ yācatiyeva. “handassa pāṭihāriyakaraṇe ādīnavaṃ dassemī”ti cintetvā “tīṇi kho”tiādimāha. Tattha amāhaṃ bhikkhunti amuṃ ahaṃ bhikkhuṃ. Gandhārīti gandhārena nāma isinā katā, gandhāraraṭṭhe vā uppannā vijjā. tattha kira bahū isayo vasiṃsu, tesu ekena katā vijjāti adhippāyo. Aṭṭīyāmīti aṭṭo pīḷito viya homi. Harāyāmīti lajjāmi. Jigucchāmīti gūthaṃ disvā viya jigucchaṃ uppādemi.

483-484: Khi ấy đức Thế Tôn nghĩ rằng: Cận sự nam này dù ta đã can ngăn cũng vẫn nhiều lần khẩn cầu, thôi được rồi ta sẽ chỉ ra lỗi lầm trong việc thị hiện phép kỳ diệu cho cậu ấy mới nói như sau: “Này Kevaṭṭa, đây là ba sự kỳ diệu…” Ở đó, amāhaṃ bhikkhuṃ tách từ thành amuṃ ahaṃ bhikkhuṃ. Học thuật tên là Gandhārī: học thuật này đạo sĩ gọi tên là Gandhārī là người thực hiện hoặc là môn học xuất phát ở xứ Gandhāra. Tương truyền rằng: ở xứ Gandhāra ấy có nhiều đạo sĩ trú ngụ, trong số những vị đạo sĩ ấy có một vị đạo sĩ đã thực hiện chú thuật này. Ta bị phiền phức: giải thích rằng – ta cảm thấy bị áp lực như thế bị siết chặt. Ta hổ thẹn: xấu hổ. Ta ghê tởm: Ta khởi lên sự ghê tởm giống như nhìn thấy phân.

 

Giải Thích Sự Kỳ Diệu Về Tha Tâm Thông

485. Parasattānanti aññesaṃ sattānaṃ. Dutiyaṃ tasseva vevacanaṃ. Ādisatīti katheti. Cetasikanti somanassadomanassaṃ adhippetaṃ. Evampi te manoti evaṃ tava mano somanassito vā domanassito vā kāmavitakkādisampayutto vā. Dutiyaṃ tasseva vevacanaṃ. Itipi te cittanti iti tava cittaṃ, idañcidañca atthaṃ cintayamānaṃ pavattatīti attho. Maṇikā nāma vijjāti cintāmaṇīti evaṃ laddhanāmā loke ekā vijjā atthi. Tāya[3] paresaṃ cittaṃ jānātīti[4] dīpeti.

485. Chúng sanh khác: thuộc nhiều loại chúng sanh khác. Câu thứ hai của hạng người khác là từ đồng nghĩa với chính từ đó. Chỉ ra: nói ra. Sự cảm nhận trong tâm: đề cập đến thọ hỷ và thọ ưu. Tâm của ngươi vận hành theo biểu hiện như thế: giải thích rằng – tâm của người vững trú trong thọ hỷ, thọ ưu hoặc tương ưng với dục tầm v.v. Ở câu thứ hai là từ đồng nghĩa với từ đó. Tâm của ngươi là như vậy: tâm của ngươi là như thế, giải thích rằng – tâm của ngươi nghĩ đến vấn đề này và vấn đề này đã diễn ra. Học thuật tên là Maṇikā: ngài chỉ ra rằng có một học thuật ở thế gian được gọi gọi như vầy là Cintāmaṇī, hạng người biết được tâm của người khác nhờ học thuật Cintāmaṇī ấy.

 

Giải Thích Sự Kỳ Diệu Về Giáo Hóa

486. Evaṃ vitakkethāti nekkhammavitakkādayo evaṃ pavattentā vitakketha. Mā evaṃ vitakkayitthāti evaṃ kāmavitakkādayo pavattentā mā vitakkayittha. Evaṃ manasi karothāti evaṃ aniccasaññameva, dukkhasaññādīsu vā aññataraṃ manasi karotha. Mā evanti “niccan”tiādinā nayena mā manasi karittha. Idanti idaṃ pañcakāmaguṇikarāgaṃ pajahatha. Idaṃ upasampajjāti idaṃ catumaggaphalappabhedaṃ lokuttaradhammameva upasampajja pāpuṇitvā nipphādetvā viharatha. Iti bhagavā iddhividhaṃ iddhipāṭihāriyanti dasseti, parassa cittaṃ ñatvā kathanaṃ ādesanāpāṭihāriyanti. Sāvakānañca buddhānañca satataṃ dhammadesanā anusāsanīpāṭihāriyanti.

486. Hãy suy tầm như vậy: hãy suy tầm để vận hành như    suy tầm về sự xuất ly v.v. Chớ suy tầm như vậy: chớ suy tầm để vận hành như vầy – suy tầm về dục v.v. Hãy tác ý như vậy: hãy tác ý đến tưởng vô thường, hoặc bất cứ tưởng nào trong tưởng về khổ như vậy. Chớ … như vậy: Chớ tác ý theo cách thức v.v, rằng là thường còn v.v. Hãy từ bỏ điều này: hãy từ bỏ sự luyến ái được tảm bởi năm loại dục. Hãy chứng ngộ cái này: hãy đạt đến, là chứng đắc, thành tựu Pháp Siêu Thế bao gồm bốn Đạo, bốn Quả này. Đức Thế Tôn thực hiện những điều kỳ điệu gọi là sự kỳ diệu về thần thông. Sau khi biết được tâm của người khác rồi nói gọi là sự kỳ diệu về tha tâm thông. Việc thuyết giảng Giáo Pháp thường xuyên của chư Thánh thinh văn đệ tử và của đức Phật gọi là sự kỳ diệu về giáo hóa.

Tattha iddhipāṭihāriyena anusāsanīpāṭihāriyaṃ mahāmoggallānassa āciṇṇaṃ, ādesanāpāṭihāriyena anusāsanīpāṭihāriyaṃ dhammasenāpatissa. Devadatte saṃghaṃ bhinditvā pañca bhikkhusatāni gahetvā gayāsīse buddhalīḷāya tesaṃ dhammaṃ desante hi bhagavatā pesitesu dvīsu aggasāvakesu dhammasenāpati tesaṃ cittācāraṃ[5] ñatvā dhammaṃ desesi, therassa dhammadesanaṃ sutvā pañcasatā bhikkhū sotāpattiphale patiṭṭhahiṃsu. Atha nesaṃ mahāmoggallāno vikubbanaṃ dassetvā dassetvā dhammaṃ desesi, taṃ sutvā sabbe arahattaphale patiṭṭhahiṃsu. Atha dvepi mahānāgā pañca bhikkhusatāni gahetvā vehāsaṃ abbhuggantvā veḷuvanamevāgamiṃsu. Anusāsanīpāṭihāriyaṃ pana buddhānaṃ satataṃ dhammadesanā, tesu iddhipāṭihāriyāadesanāpāṭihāriyāni saupārambhāni sadosāni, addhānaṃ na tiṭṭhanti, addhānaṃ atiṭṭhanato na niyyanti. anusāsanīpāṭihāriyaṃ anupārambhaṃ niddosaṃ, addhānaṃ tiṭṭhati, addhānaṃ tiṭṭhanato niyyāti. Tasmā bhagavā iddhipāṭihāriyañca ādesanāpāṭihāriyañca garahati, anusāsanīpāṭihāriyaṃyeva pasaṃsati.

Trong sự kỳ diệu ấy trưởng lão Mahāmoggallāna thể hiện sự kỳ diệu về giáo hóa bởi sự kỳ diệu về thần thông, trưởng lão Sārīputta vị Tướng quân Chánh pháp thể hiện sự kỳ diệu về giáo hóa bởi sự kỳ diệu về tha tâm thông. Khi Devadatta chia rẽ hội chúng tỳ khưu đã đưa năm trăm vị tỳ khưu đi, rồi thuyết Pháp cho những vị tỳ khưu ấy bằng Buddhalīḷā ở xứ sở Gayāsīsa, khi đức Thế Tôn truyền hai vị Tối-thượng Thinh-văn đi thì trưởng lão Sārīputta vị Tướng quân Chánh pháp sau khi biết được vāra-citta của những vị tỳ khưu ấy mới thuyết Pháp. Năm trăm vị tỳ khưu sau khi nghe Pháp thoại của trưởng lão (thì toàn bộ năm trăm vị ấy) đều chứng đắc Thánh Quả Nhập-lưu. Sau đó, trưởng lão Mahāmoggallāna đã chỉ ra việc hóa hiện các loại thần thông rồi thuyết giảng Pháp cho các vị tỳ khưu ấy, toàn bộ các vị tỳ khưu sau khi nghe đã chứng đắc Thánh Quả A-ra-hán. Khi hai bậc Long Tượng đã đưa năm trăm vị tỳ khưu bay lên bầu trời trở về tịnh xá Veḷuvana. Hơn nữa, việc thuyết giảng Giáo Pháp một cách thường xuyên của chư Phật là sự kỳ diệu về giáo hóa. Trong những sự kỳ diệu ấy sự kỳ diệu về thần thông và sự kỳ diệu về tha tâm thông vẫn bị phê phán, có lỗi lầm, không bền vững trong thời gian dài do không bền vững trong thời gian dài nên mới (không thể) dẫn dắt chúng sanh ra khỏi khổ đau. Chỉ có sự kỳ diệu về giáo hóa không bị phê phán, không có lỗi lầm, bền vững trong thời gian dài do bền vững trong thời gian dài nên mới dẫn dắt chúng sanh ra khỏi khổ đau. Vì thế, đức Thế Tôn đã phê phán sự kỳ diệu về thần thông và sự kỳ diệu về tha tâm thông, (và) chỉ ca ngời sự kỳ diệu về giáo hóa.

 

Giảng Giải Sự Diệt Tận của Sắc Đại Hiển

487. Bhūtapubbanti idaṃ kasmā bhagavatā āraddhaṃ. iddhipāṭihāriyāadesanāpāṭihāriyānaṃ aniyyānikabhāvadassanatthaṃ, anusāsanīpāṭihāriyasseva niyyānikabhāvadassanatthaṃ. Api ca sabbabuddhānaṃ mahābhūtapariyesako nāmeko bhikkhu hotiyeva. yo mahābhūte pariyesanto yāva brahmalokā vicaritvā vissajjetāraṃ[6] alabhitvā āgamma buddhameva pucchitvā nikkaṅkho hoti. Tasmā[7] buddhānaṃ mahantabhāvappakāsanatthaṃ, idañca kāraṇaṃ paṭicchannaṃ, atha naṃ vivaṭaṃ katvā desentopi bhagavā “bhūtapubban”tiādimāha.

487. Trước đây (chuyện đã từng xảy ra): Vì sao đức Thế Tôn lại bắt đầu? Bắt đầu để thuyết giảng đến sự kỳ diệu về thần thông và sự kỳ diệu về tha tâm thông không dẫn dắt chúng sanh thoát khỏi khổ đau và chỉ để thuyết giảng đến sự kỳ diệu về giáo hóa (phương tiện) để dẫn dắt chúng sanh chúng sanh thoát khỏi khổ đau. Thêm nữa, có một vị tỳ khưu tên Mahābhūtapariyesaka tầm cầu sắc đại hiện đã đi đến Phạm Thiên giới không có được câu trả lời, (thế nên) đã đi đến hỏi đức Phật thì mọi nghi hoặc (của vị ấy) đều tan biến. Vì sao? Để tuyên bố về bản thế vĩ đại của chư Phật, và lý do này đã được che đậy, sau đó đức Thế Tôn khi khai mở để thuyết giảng lý do ấy mới nói rằng: “Trước đây (chuyện đã từng xảy ra).

Tattha kattha nu khoti kismiṃ ṭhāne kiṃ āgamma kiṃ pattassa te anavasesā appavattivasena nirujjhanti. Mahābhūtakathā panesā sabbākārena visuddhimagge vuttā, tasmā sā tatova gahetabbā.

Cụm từ ‘ở nơi nào?’ con người nương vào gì? chứng đắc cái gì? Bốn sắc đại hiển ấy mới diệt không còn dư sót do mãnh lực không vận hành ở đâu? Hơn nữa, sắc đại hiển này ngài đã trình bày chi tiết trong Thanh tịnh Đạo. Vì thế, nên tìm kiếm ở Thanh Tịnh Đạo ấy.

488. Devayāniyo maggoti pāṭiyekko[8] devalokagamanamaggo nāma natthi, iddhividhañāṇasseva panetaṃ adhivacanaṃ. Tena hesa yāva brahmalokāpi kāyena vasaṃ vattento devalokaṃ yāti. Tasmā “taṃ devayāniyo maggo”ti vuttaṃ. Yena cātumahārājikāti samīpe ṭhitampi bhagavantaṃ apucchitvā dhammatāya codito devatā mahānubhāvāti maññamāno upasaṅkami. Mayampi kho, bhikkhu, na jānāmāti buddhavisaye pañhaṃ pucchitā devatā na jānanti, tenevamāhaṃsu. Atha kho so bhikkhu “mama imaṃ pañhaṃ na kathetuṃ na labbhā, sīghaṃ kathethā”ti tā devatā ajjhottharati, punappunaṃ pucchati, tā “ajjhottharati no ayaṃ bhikkhu, handa naṃ hatthato mocessāmā”ti[9] cintetvā “atthi kho bhikkhu cattāro mahārājāno”tiādimāhaṃsu. Tattha abhikkantatarāti atikkamma kantatarā[10]. Paṇītatarāti vaṇṇayasaissariyādīhi uttamatarā etena nayena sabbavāresu attho veditabbo.

488. Con đường đi đến chư Thiên: Con đường đi đến chư Thiên riêng biệt là không có, và hơn nữa câu đó là tên gọi của sự kỳ diệu về thần thông. Thật vậy, con đường ấy vận hành nhập vào mãnh lực thông qua lộ thân đi đến thế giới chư Thiên, xuyên suốt đến thế giới Phạm Thiên bằng con đường đó, vì thế ngài mới rằng: “Con đường đi đến chư Thiên”. Chư Thiên cõi Tứ Đại Thiên Vương: vị tỳ khưu không hỏi đức Thế Tôn mặc dù đang sống ở kế cận, khởi lên suy nghĩ rằng: Thông thường chư Thiên được khích lệ có đại oai lực mới đi đến tìm gặp. Này tỳ khưu, quả thật chúng tôi cũng không biết…: Chư Thiên đã bị hỏi câu hỏi trong cương vị của một bậc Giác Ngộ, họ cũng không biết nên đã nói như vậy. Sau đó, vị tỳ khưu ấy hỏi lại chư Thiên rằng: (nếu) các ông trả lời câu hỏi này của tôi không được thì hãy nói nhanh lên, nên mới hỏi đi hỏi lại. Chư thiên đã nghĩ rằng: “Vị tỳ khưu này nhắc lại ta, thôi được rồi ta sẽ đẩy vị tỳ khưu ấy ra khỏi chúng tôi mới nói rằng: “Có bốn vị Đại Thiên Vương”.Ở đó, Nổi bậc hơn: tuyệt đẹp. Xuất sắc hơn: thù thắng về màu da, danh vọng và sự hùng mạnh v.v. Có thể hiểu ý nghĩa ở đoạn thứ hai theo cách thức này.

491-493. Ayaṃ pana viseso — sakko kira devarājā cintesi “ayaṃ pañho buddhavisayo, na sakkā aññena vissajjituṃ, ayañca bhikkhu aggiṃ pahāya khajjopanakaṃ dhamanto viya, bheriṃ pahāya udaraṃ vādento viya ca, loke aggapuggalaṃ sammāsambuddhaṃ pahāya devatā pucchanto vicarati, pesemi naṃ satthusantikan”ti. Tato punadeva so cintesi “sudūrampi gantvā satthu santikeva nikkaṅkho bhavissati. Atthi ceva puggalo[11] nāmesa, thokaṃ tāva āhiṇḍanto kilamatu pacchā jānissatī”ti. tato taṃ “ahampi kho”tiādimāha. Brahmayāniyopi devayāniyasadisova. Devayāniyamaggoti vā brahmayāniyamaggoti vā dhammasetūti[12] vā ekacittakkhaṇikāppanāti vā sanniṭṭhānikacetanāti vā mahaggatacittanti vā abhiññāñāṇanti[13] vā sabbametaṃ iddhividhañāṇasseva nāmaṃ.

491-493. Tuy nhiên ý nghĩa này đặc biệt – Kể rằng vua trời Sakka suy tư rằng “vấn đề này thuộc cương vị của một bậc Giác Ngộ, những người khác không thể nào giải đáp được, và vị tỳ khưu này đã từ bỏ bậc Chánh đẳng Chánh giác là nhân vật cao cả ở thế gian để đi lòng vòng hỏi chúng chư Thiên, tựa như người từ bỏ ngọn lửa đi thổi con đom đóm, cũng giống như người bỏ cái trống để đánh cái bụng, ta sẽ đưa vị tỳ khưu ấy đi đến trú xứ của bậc Đạo Sư. Tiếp đó, vua trời Sakka suy nghĩ thêm rằng: “vị tỳ khưu ấy đã đi quá xa, sẽ hết nghi ngờ ở trú xứ của bậc Đạo Sư.” Hơn nữa, thông thường hạng người như thế này cũng tồn tại, khi đi đoạn đường dù chỉ đạt được một chút ít, kể cả có sự khó nhọc, tuy nhiên về sau sẽ biết được nên mới nói cùng vị tỳ khưu ấy như sau: “Luôn cả ta cũng không biết v.v.” Thậm chí con đường đi đến thế giới Phạm Thiên cũng tương tự như con đường đi đến thế giới chư Thiên. Con đường đi đến thế giới chư Thiên, hoặc việc đạt đến Pháp, hoặc sự vững chắc ở một sát-na tâm, hoặc có tâm nghĩ phỏng đoán, hoặc có tâm quảng đại, hoặc trí nhờ vào thắng trí, toàn bộ điều này chính là tên gọi sự kỳ diệu về thần thông.

494. Pubbanimittanti āgamanapubbabhāge nimittaṃ sūriyassa udayato aruṇuggaṃ[14] viya, tasmā idāneva brahmā āgamissati, evaṃ mayaṃ jānāmāti dīpayiṃsu. Pāturahosīti pākaṭo ahosi. Atha kho so brahmā tena bhikkhunā puṭṭho attano avisayabhāvaṃ ñatvā sacāhaṃ “na jānāmī”ti vakkhāmi, ime maṃ paribhavissanti, atha jānanto viya yaṃ kiñci kathessāmi, ayaṃ me bhikkhu veyyākaraṇena anāraddhacitto vādaṃ āropessati. “Ahamasmi bhikkhu brahmā”tiādīni pana me bhaṇantassa na koci vacanaṃ saddahissati[15]. Yaṃnūnāhaṃ vikkhepaṃ katvā imaṃ bhikkhuṃ satthusantikaṃyeva peseyyanti cintetvā “ahamasmi bhikkhu brahmā”tiādimāha.

494. Dấu hiện báo trước: ngài chỉ ra rằng dấu hiện ở phần đầu chạm đến giống như ánh bình minh có do mặt trời ló dạng, vì thế vị Phạm Thiên sẽ đến ngay lúc này, chúng tôi chỉ biết như vậy. Cho việc xuất hiện: đã xuất hiện. Lúc ấy, vị Phạm Thiên khi bị vị tỳ khưu ấy hỏi thì biết được ý nghĩa không thuộc phạm trù của mình, mới khởi lên suy nghĩ rằng: “Nếu như ta nói không biết” bọn họ sẽ khinh thường ta, nếu ta sẽ nói điều gì làm như thể ta biết thì vị tỳ khưu sẽ không hài câu trả lời của ta, (vị ấy) sẽ tranh luận với ta, dù ta nói rằng: “Này tỳ khưu, ta là vị Phạm Thiên” v.v, thì mọi người cũng sẽ không tin lời nói (ấy) nếu vậy ta sẽ từ chối (rồi) đưa vị tỳ khưu đến yết kiến bậc Đạo Sư nên mới nói rằng: “Này tỳ khưu, ta là vị Phạm Thiên v.v.”

495-496. Ekamantaṃ apanetvāti kasmā evamakāsi? Kuhakattā. Bahiddhā pariyeṭṭhinti telatthiko vālikaṃ nippīḷiyamāno viya yāva brahmalokā bahiddhā pariyesanaṃ āpajjati.

495-496. Dẫn ra ở một bên phải lẽ: tại sao lại làm như thế? Bởi sự ngạc nhiên. Đi tìm kiếm (lời giải đáp cho câu hỏi) ở bên ngoài: đi tìm kiếm (lời giải đáp cho câu hỏi) ở bên ngoài đến tận thế giới Phạm Thiên tựa như người cần dầu (mà) vắt cát vậy.

497. Sakuṇanti kākaṃ vā kulalaṃ vā. Na kho eso, bhikkhu, pañho evaṃ pucchitabboti idaṃ bhagavā yasmā padesenesa[16] pañho pucchitabbo, ayañca kho bhikkhu anupādinnakepi gahetvā nippadesato pucchati, tasmā paṭisedheti. Āciṇṇaṃ kiretaṃ buddhānaṃ, pucchāmūḷhassa janassa pucchāya dosaṃ dassetvā pucchaṃ sikkhāpetvā pucchāvissajjanaṃ. Kasmā? pucchituṃ ajānitvā paripucchanto duviññāpayo hoti. pañhaṃ sikkhāpento pana “kattha āpo cā”tiādimāha.

497. Loài chim: gồm quạ hoặc diều hâu. Này tỳ khưu, câu hỏi ấy không nên được hỏi như vậy: có lời giải thích rằng – bởi vì vị tỳ khưu nên hỏi câu hỏi đúng mục đích, và vị tỳ khưu đã nắm lấy, những điều không có tâm chiếm hữu hỏi ngoài mục đích, vì thế đức Thế Tôn mới bác bỏ. Được biết việc chỉ ra sai sót nơi câu hỏi của người lẫn lộn trong câu hỏi, rồi suy nghĩ lại câu hỏi mới trả lời sau đó là căn bản thực hành của chư Phật. Tại sao? Bởi vì người không biết để hỏi mới hỏi gọi là người không thông minh. Đức Thế Tôn cho nhớ lại câu hỏi mới nói rằng: “Ở đâu Thủy giới không có chỗ đứng v.v.

498. Tattha na gādhatīti na patiṭṭhāti, ime cattāro mahābhūtā kiṃ āgamma appatiṭṭhā bhavantīti attho. upādinnaṃyeva sandhāya pucchati[17]. Dīghañca rassañcāti saṇṭhānavasena upādārūpaṃ vuttaṃ. Aṇuṃ thūlanti khuddakaṃ vā mahantaṃ vā, imināpi upādārūpe vaṇṇamattameva kathitaṃ. Subhāsubhanti subhañca asubhañca upādārūpameva kathitaṃ. Kiṃ pana upādārūpaṃ subhanti asubhanti atthi? natthi. iṭṭhāniṭṭhārammaṇaṃ paneva kathitaṃ. Nāmañca rūpañcāti nāmañca dīghādibhedaṃ rūpañca. Uparujjhatīti nirujjhati, kiṃ āgamma asesametaṃ nappavattatīti.

498. Không có chỗ đứng: không thể duy trì, giải thích rằng – bốn sắc đại hiển này nương vào gì nên mới không vững trú, ngài hỏi đề cập đến chính thứ có tâm chiếm hữu.  Dài và ngắn: ngài nói đến sắc y sinh – upādārūpa về phương diện hình dạng. Vi tế và thô thiển: nhỏ hoặc lớn, ngài chỉ nói hình dáng trong sắc y sinh luôn cả trong câu này. Đẹp và xấu: Sắc y sinh tốt và xấu, hơn nữa, sắc y sinh đẹp, xấu tồn tại chăng? Không có, Nhưng ngài nói đến đối tượng tốt và đối tượng không tốt như vậy. Danh và sắc: Danh và sắc khác nhau có dài v.v. Bị diệt vong: bị đoạn diệt. Đức Thế Tôn chỉ rõ câu hỏi rằng: Danh và sắc ấy nương gì mới không vận hành, không dư sót.

Evaṃ pucchitabbaṃ siyāti pucchaṃ dassetvā idāni vissajjanaṃ dassento tatra veyyākaraṇaṃ bhavatīti vatvā — “viññāṇan”tiādimāha.

Câu hỏi ấy có thể nên được hỏi như vậy, sau khi trả lời câu hỏi đã nói rằng: “Trong câu hỏi ấy có lời giải đáp như sau,” rồi mới nói rằng: “Thức (thực tính biết rõ).

499. Tattha viññātabbanti viññāṇaṃ nibbānassetaṃ nāmaṃ, tadetaṃ nidassanābhāvato anidassanaṃ. Uppādanto vā vayanto vā ṭhitassa aññathattanto vā etassa natthīti anantaṃ. Pabhanti panetaṃ kira titthassa nāmaṃ, tañhi papanti etthāti papaṃ, pakārassa pana bhakāro kato. Sabbato pabhamassāti sabbatopabhaṃ. Nibbānassa kira yathā mahāsamuddassa yato yato otaritukāmā honti, taṃ tadeva titthaṃ, atitthaṃ nāma natthi. Evameva aṭṭhatiṃsāya kammaṭṭhānesu yena yena mukhena nibbānaṃ otaritukāmā honti, taṃ tadeva titthaṃ, nibbānassa atitthaṃ nāma natthi. Tena vuttaṃ “sabbatopabhan”ti. Ettha āpo cāti ettha nibbāne idaṃ nibbānaṃ āgamma sabbametaṃ āpotiādinā nayena vuttaṃ upādinnaka dhammajātaṃ nirujjhati, appavattaṃ hotīti.

499. Ở đó, nên biết rõ: thực tính biết rõ, là tên gọi của Nibbāna, Nibbāna ấy không biểu lộ bởi vì không thể minh họa. Nibbāna ấy gọi là không có điểm cuối cùng bởi không sanh, không hoại, không biến đổi của người đã chứng đắc. Trong sáng: nước trong sạch. Được biết câu này là tên gọi của bến nước. Là chỗ nước chảy, ngài đã biến chữ cái ‘pa’ thành từ chữ cái ‘bha’, bến vượt qua của Nibbāna ấy có ở chung quanh, vì thế mới gọi là có bến vượt qua ở xung quanh. Những người muốn vượt qua bất kỳ chỗ nào của đại dương, có bến đỗ là tuyến đường, nơi không có bến đỗ không có thế nào, cũng tương tự như thế ấy mọi người muốn vượt qua để đạt đến Nibbāna theo đường lối nào trong ba mươi tám Nghiệp Xứ, Nghiệp Xứ là bến đỗ, là tuyến đường, Nghiệp Xứ không phải là bến đỗ của Nibbāna không có. Vì thế, ngài mới nói rằng “có bến đỗ vượt qua mọi nơi”. Ở đây, Thủy giới này ngài y cứ Nibbāna mới nói tất cả điều ấy theo cách thức bắt đầu như sau: Thủy giới, tính chất có tâm chiếm hữu với sự diệt tận, không dư sót, là không vận hành.

Idānissa nirujjhanūpāyaṃ dassento “viññāṇassa nirodhena etthetaṃ uparujjhatī”ti āha. Tattha viññāṇanti carimakaviññāṇampi abhisaṅkhāraviññāṇampi, carimakaviññāṇassāpi hi nirodhena etthetaṃ uparujjhati. Vijjhātadīpasikhā viya apaṇṇattikabhāvaṃ yāti. Abhisaṅkhāraviññāṇassāpi anuppādanirodhena anuppādavasena uparujjhati. Yathāha “sotāpattimaggañāṇena abhisaṅkhāraviññāṇassa nirodhena ṭhapetvā sattabhave anamatagge saṃsāre ye uppajjeyyuṃ nāmañca rūpañca etthete nirujjhantī”ti sabbaṃ cūḷaniddese[18] vuttanayeneva veditabbaṃ. sesaṃ sabbattha uttānamevāti.

Đức Thế Tôn khi thuyết giảng đường lối diệt tận của pháp tánh ấy, đã nói rằng: “Do sự diệt tận của thức, ở đây, điều này (danh và sắc) được hoại diệt.” Ở đó, thức là thức cuối cùng, thức được tạo tác. Thật vậy, do sự diệt tận cuả thức thức cuối cùng, ở đây, điều này (danh và sắc) cũng hoại diệt. Đi đến bản thể không quy định giống như ngọn đèn bị đốt cháy hết (tim và dầu). Do sự không sanh và sự diệt tận của thức liên quan đến sự tạo tác (cho nên) danh và sắc bị diệt tận không sanh khởi. Như ngài đã nói rằng: “Nhờ vào trí của Đạo Nhập Lưu với sự diệt tận của thức liên quan đến sự tạo tác, các pháp nào, danh và sắc có thể sanh khởi trong sự luân hồi không biết được điểm khởi đầu tối đa là bảy kiếp sống, ở đây, các pháp này được diệt tận.” Toàn bộ nên biết theo cách thức đã được nói trong Cūḷaniddesa. Phần còn lại trong các câu đều đơn giản.

Giải Thích Kinh Kevaṭṭa được kết thúc – Kinh thứ mười một.

Trong Chú Giải Trường Bộ Kinh là Sumaṅgalavilāsī.



[1] Koṭimattadhamo (Syā, Ka)

[2] Telāsekaṃ (Sī)

[3] Yāya (Sī)

[4] Vijānantīti (Sī)

[5] Cittavāraṃ (Syā)

[6] Vissajjotāraṃ (Syā), vissajjokāsaṃ (Sī-Ṭī Abhinava 2. 415 piṭṭhe)

[7] Kasmā (Sī, Syā)

[8] Pāṭiyeko (Syā), pāṭekko (Ka)

[9] Mocemāti (Sī), muñcissāmāti (Ka)

[10] Atikkantatarā (Ka) Sī-Ṭī Abhinava 2. 416 piṭṭhe oloketabbā.

[11] Aṭṭhivedhapuggalo (Sī) Dī-Ṭṭha 2. 299 piṭṭhepi.

[12] Dhammahetūti (Sī)

[13] Abhiññāṇanti (Syā, Ka)

[14] Āruṇaggaṃ (Sī)

[15] Na saddahissati (Sī)

[16] Padeseneva (Syā, Ka)

[17] Pucchā (Sī)

[18]  Mahāniddese (bahūsu) Khu 8. 33 piṭṭhe.