Giải Thích Kinh Jāliya

(Jāliyasuttavaṇṇanā )

Xem Trường Bộ Kinh – Kinh Jāliya

378. Evaṃ me sutaṃ … pe … kosambiyanti jāliyasuttaṃ. Tatrāyaṃ apubbapadavaṇṇanā. Ghositārāmeti ghositena seṭṭhinā kate ārāme. Pubbe kira allakapparaṭṭhaṃ[1] nāma ahosi. Tato kotūhaliko nāma daliddo chātakabhayena saputtadāro avantiraṭṭhaṃ[2] gacchanto puttaṃ vahituṃ asakkonto chaḍḍetvā agamāsi, mātā nivattitvā taṃ gahetvā gatā, te ekaṃ gopālakagāmaṃ pavisiṃsu. Gopālakena ca[3] tadā bahupāyāso paṭiyatto hoti, te tato[4] pāyāsaṃ labhitvā bhuñjiṃsu. Atha so puriso balavapāyāsaṃ bhutto[5] jīrāpetuṃ asakkonto rattibhāge kālaṃ katvā tattheva sunakhiyā kucchismiṃ paṭisandhiṃ gahetvā kukkuro jāto, so gopālakassa piyo ahosi. Gopālako ca paccekabuddhaṃ upaṭṭhahati. Paccekabuddhopi bhattakiccapariyosāne[6] kukkurassa ekekaṃ piṇḍaṃ deti, so paccekabuddhe sinehaṃ uppādetvā gopālakena saddhiṃ paṇṇasālampi gacchati. Gopālake asannihite bhattavelāyaṃ sayameva gantvā kālārocanatthaṃ[7] paṇṇasāladvāre bhussati, antarāmaggepi caṇḍamige disvā bhussitvā palāpeti. so paccekabuddhe mudukena cittena kālaṃkatvā devaloke nibbatti. Tatrassa ghosakadevaputto tveva nāmaṃ ahosi. So devalokato cavitvā kosambiyaṃ ekassa kulassa ghare nibbatti. Taṃ aputtako seṭṭhi tassa mātāpitūnaṃ dhanaṃ datvā puttaṃ katvā aggahesi. Atha attano putte jāte sattakkhattuṃ ghātāpetuṃ upakkami. So puññavantatāya sattasupi ṭhānesu maraṇaṃ appatvā avasāne ekāya seṭṭhidhītāya veyyattiyena laddhajīvito aparabhāge pituaccayena seṭṭhiṭṭhānaṃ patvā ghosakaseṭṭhi[8] nāma jāto. Aññepi kosambiyaṃ kukkuṭaseṭṭhi, pāvāriyaseṭṭhīti dve seṭṭhino atthi, iminā saddhiṃ tayo ahesuṃ.

378. Bài Kinh Jāliya – Tôi đã nghe như vầy …nt… trong thành Kosambī. Trong bài Kinh Jāliya ấy được giải thích theo tuần tự như sau – Ở tu viện Ghosita: Trong khu vườn đã được xây dựng bởi trưởng giả Ghosita. Kể rằng trong thời quá khứ đã có một thành phố tên là Adamiḷa. Một người đàn ông nghèo khổ tên là Kotūhalaka cùng với vợ và con trai rời khỏi thành phố ấy đi đến thành phố Avantī do nạn đói khát, khi không thể dẫn đứa con đi được nữa (họ) đã bỏ lại rồi tiếp tục lên đường. Người mẹ đã quay lại ẵm đứa con ấy đi. Họ đã cùng đi đến ngôi nhà của một người nuôi bò. Và vào lúc ấy, có nhiều phần cơm sữa đã được chuẩn bị bởi người nuôi bò, đôi vợ chồng đó cũng đã nhận được phần cơm sữa từ nhà đó rồi thọ dụng. Khi ấy người đàn ông đã ăn quá nhiều cơm sữa không thể tiêu hóa được nên đã chết vào buổi chiều tối, rồi tái sanh vào bụng con chó mẹ, sanh làm con chó con ngay trong chính ngôi nhà người nuôi bò. Con chó con đó có được tình yêu thương của người nuôi bò. Và người nuôi bò cũng hộ độ một vị Phật-Độc-Giác. Phía đức Phật-Độc-Giác đã cho đến cho con chó một vắt cơm sau khi đã thọ dụng xong. Con chó con đã khởi lên sự yêu quý nơi đức Phật-Độc-Giác, mới đi đến am tranh với người nuôi bò. Khi người nuôi bò bận rộn trong thời gian chuẩn bị thức ăn thì con chó con đó một mình chạy đi rồi sủa lên ở cửa am tranh để thông báo thời gian. Thậm chí khi gặp thú dữ ở trên đường cũng sủa để cho thú dữ bỏ đi. Con cho con có tâm cung kính đối với đức Phật-Độc-Giác, sau khi chết đã hóa sanh vào thế giới chư Thiên. Ở cõi trời vị Thiên tử đó có tên là Thiên tử Ghosaka. Sau khi luân chuyển từ thế giới chư Thiên đã hạ sanh vào gia đình ở thành Kosambī. Vị triệu phú là người không có con trai mới cho tài sản đến cha mẹ của người con đó, rồi nhận đứa bé đó làm con trai. Sau đó khi đứa con ruột của mình được sinh ra, vị triệu phú đó đã ra sức nỗ lực nhằm mục đích sát hại (đứa con nuôi) đến tận bảy lần. Đứa bé đó do nhờ phước báu đã thoát khỏi cái chết đến bảy lần, lần cuối cùng thoát nạn do nhờ sự thông minh của cô con gái của một người triệu phú khác. Từ đó, khi cha vị ấy qua đời thì vị ấy có được vị trí triệu phú tên là Ghosita. Trong thành Kosambī có hai vị triệu phú khác là triệu phú Kukkuṭa và triệu phú Pāvārika, tính luôn cả triệu phú Ghosita nữa thì có 3 người.

Tena ca samayena himavantato pañcasatatāpasā sarīrasantappanatthaṃ antarantarākosambiṃ āgacchanti, tesaṃ ete tayo seṭṭhī attano attano uyyānesu paṇṇakuṭiyo katvā upaṭṭhānaṃ karonti. Athekadivasaṃ te tāpasā himavantato āgacchantā mahākantāre tasitā kilantā ekaṃ mahantaṃ vaṭarukkhaṃ patvā[9] tattha adhivatthāya devatāya santikā saṅgahaṃ paccāsisantā nisīdiṃsu. Devatā sabbālaṅkāravibhūsitaṃ hatthaṃ pasāretvā tesaṃ pānīyapānakādīni[10] datvā kilamathaṃ paṭivinodesi, ete devatāyānubhāvena vimhitā pucchiṃsu — “kiṃ nu kho, devate, kammaṃ katvā tayā ayaṃ sampatti laddhā”ti? Devatā āha — “Loke buddho nāma bhagavā uppanno, so etarahi sāvatthiyaṃ viharati, anāthapiṇḍiko gahapati taṃ upaṭṭhahati. So uposathadivasesu attano bhatakānaṃ pakatibhattavetanameva datvā uposathaṃ kārāpesi. Athāhaṃ ekadivasaṃ majjhanhike[11] pātarāsatthāya āgato kañci bhatakakammaṃ akarontaṃ disvā — ‘ajja manussā kasmā kammaṃ na karontī’ti pucchiṃ. Tassa me tamatthaṃ ārocesuṃ. Athāhaṃ etadavocaṃ — ‘idāni upaḍḍhadivaso gato, sakkā nu kho upaḍḍhuposathaṃ kātun’ti. Tato seṭṭhissa paṭivedetvā “sakkā kātun”ti āha. Svāhaṃ upaḍḍhadivasaṃ upaḍḍhuposathaṃ samādiyitvā tadaheva kālaṃ katvā imaṃ sampattiṃ paṭilabhin”ti.

Và vào lúc bấy giờ có năm trăm vị đạo sĩ từ núi Hy-mã-lạp đã cùng nhau đi đến thành Kossambī để làm ấm cơ thể, cả ba vị triệu phú đã cho xây dựng am tranh ở vườn hoa của mỗi vị, thực hiện việc hộ độ đối với những vị đạo sĩ ấy. Một ngày nọ những vị đạo sĩ ấy từ núi Hy-mã-lạp đã bị đói khát, bị mệt nhọc trong lúc đi qua sa mạc đến một cây đa nước lớn, cùng nhau ngồi xuống chờ đợi sự giúp đỡ từ chúng chư Thiên cư ngụ ở tại cây đa ấy. Vị Thiên đã duỗi cánh tay được trang hoàng với tất cả đồ trang sức ban cho các đạo sĩ những thứ vật dụng gồm có nước uống, nước sử dụng v.v, để xua sự mệt nhọc, các vị đạo sĩ ấy tươi cười nhờ oai lực của chư Thiên mới hỏi rằng – “Thưa vị Thiên nhân, ngài đã tạo nghiệp lực gì để đạt được sự thành tựu này.” Vị Thiên đáp rằng – “Đức Phật Thế Tôn đã xuất hiện ở thế gian, bây giờ ngài cư ngụ ở thành Sāvatthī, gia chủ Anāthapiṇḍika đang hộ độ đức Thế Tôn ấy.” Vào các ngày trai giới uposatha, gia chủ Anāthapiṇḍika cho thức ăn và trả công như bình thường đến những người làm công của mình, rồi cho thọ trì bát quan trai giới. Một ngày nọ vào lúc chính ngọ (buổi trưa) tôi đi đến để lấy phần thức ăn sáng, đã không nhìn thấy ai làm việc mới hỏi (người làm bếp) rằng: “Tại sao vào ngày hôm nay tất cả người lại không làm việc, bọn họ đã nói ý nghĩa ấy cho tôi. Sau đó tôi mới nói lời này rằng: ‘Bây giờ, đã nửa ngày trôi qua rồi, tôi có thể thọ trì bát quan trai giới nửa ngày còn lại hay không?” Khi ấy, ngài trưởng giả đã hoan hỷ nói rằng: “Có thể thọ trì được” (do đó) tôi đã thọ trì nửa ngày bát quan trai giới vào nửa ngày hôm đó, và cũng đã từ trần vào chính ngày hôm ấy (do thiện nghiệp ấy) tôi đã đạt được sự thành tựu này.

Atha te tāpasā “buddho kira uppanno”ti sañjātapītipāmojjā tatova sāvatthiṃ gantukāmā hutvāpi — “Bahukārā no upaṭṭhākaseṭṭhino tesampi imamatthamārocessāmā”ti kosambiṃ gantvā seṭṭhīhi katasakkārabahumānā “tadaheva mayaṃ gacchāmā”ti āhaṃsu. “Kiṃ, bhante, turitāttha, nanu tumhe pubbe cattāro pañca māse vasitvā gacchathā”ti ca vutte taṃ pavattiṃ ārocesuṃ. “Tena hi, bhante, saheva gacchāmā”ti ca vutte “gacchāma mayaṃ, tumhe saṇikaṃ āgacchathā”ti sāvatthiṃ gantvā bhagavato santike pabbajitvā arahattaṃ pāpuṇiṃsu. Tepi seṭṭhino pañcasatapañcasatasakaṭaparivārā sāvatthiṃ gantvā dānādīni datvā kosambiṃ āgamanatthāya bhagavantaṃ yācitvā paccāgamma tayo vihāre kāresuṃ. Tesu kukkuṭaseṭṭhinā kato kukkuṭārāmo nāma, pāvāriyaseṭṭhinā kato pāvārikambavanaṃ nāma, ghositaseṭṭhinā kato ghositārāmo nāma ahosi. Taṃ sandhāya vuttaṃ — “Kosambiyaṃ viharati ghositārāme”ti.

Lúc đó, các đạo sĩ khởi lên sự vui mừng và hân hoan “Được biết đức Phật đã xuất hiện” có ước muốn đi đến thành Sāvatthī – họ đã cùng nhau đi đến thành Kosambī với suy nghĩ rằng: “trưởng giả người phục vụ có nhiều sự trợ giúp cho chúng ta, chúng ta sẽ nói ý nghĩa này đến các vị trưởng giả ấy”, trong khi nhiều sự cung kính đã được thực hiện bởi các trưởng giả (các vị) đã nói rằng: “Chúng tôi sẽ đi vào ngày hôm nay.” – Các trưởng giả đã nói rằng: “Các ngài vội làm gì? Trước đây các ngài an trú suốt bốn tháng mới đi không phải sao?” (Các vị đạo sĩ) đã thuật lại câu chuyện đó. Và khi ấy các trưởng giả đã nói (rằng) “Bạch các ngài, nếu như thế, chúng tôi sẽ đi cùng” – (các vị đạo sĩ) mới nói (rằng): “Chúng tôi sẽ đi trước, các ngài hãy theo sau” rồi lên đường đi đến thành Sāvatthī, sau khi xuất gia ở trú xứ của đức Thế Tôn (các vị ấy) đã chứng đắc phẩm vị A-ra-hán. Còn các vị trưởng giả ấy mỗi vị có năm trăm cỗ xe tháp tùng đi đến thành Sāvatthī đã làm các phận sự có bố thí v.v, đã khẩn cầu đức Thế Tôn về việc đi đến (an trú) ở thành Kosambī, rồi quay trở về xây dựng ba ngôi tịnh xá. Trong số những vị trưởng giả ấy thì triệu phú Kukkuṭa cho xây dựng tu viện Kukkuṭa, triệu phú Pāvāriya cho xây dựng tu viện Pāvārika ở vườn xoài, triệu phú Ghosita cho xây dựng tu viện Ghosita. Ngài có ý muốn đề cập đến tu viện Ghosita đó mới nói rằng: “An trú ở tu viện Ghosita tại thành Kosambī.”

Muṇḍiyoti[12] idaṃ tassa nāmaṃ. Jāliyoti idampi itarassa[13] nāmameva. Yasmā panassa upajjhāyo dārumayena pattena piṇḍāya carati, tasmā dārupattikantevāsīti vuccati. Etadavocunti upārambhādhippāyena vādaṃ āropetukāmā hutvā etadavocuṃ. Iti kira nesaṃ ahosi, sace samaṇo gotamo “taṃ jīvaṃ taṃ sarīran”ti vakkhati, athassa mayaṃ etaṃ vādaṃ āropessāma — “bho gotama, tumhākaṃ laddhiyā idheva satto bhijjati, tena vo vādo ucchedavādo hotī”ti. Sace pana “aññaṃ jīvaṃ aññaṃ sarīran”ti vakkhati, athassetaṃ vādaṃ āropessāma “tumhākaṃ vāde rūpaṃ bhijjati, na satto bhijjati. tena vo vāde satto sassato āpajjatī”ti. Atha bhagavā “ime vādāropanatthāya pañhaṃ pucchanti, mama sāsane ime dve ante anupagamma majjhimā paṭipadā atthīti na jānanti, handa nesaṃ pañhaṃ avissajjetvā tassāyeva paṭipadāya āvibhāvatthaṃ dhammaṃ desemī”ti cintetvā “tena hāvuso”tiādimāha.

Muṇḍiya này là tên của du sĩ ngoại đạo ấy. Luôn cả ‘Jāliya’ cũng chính là tên của một vị du sĩ ngoại đạo khác. Cũng bởi vì thầy tế độ của Jāliya ấy đi khất thực với bình bát được làm bằng gỗ, do đó mới gọi là ‘học trò của vị xuất gia, người sử dụng bình bát gỗ’. Đã nói với đức Thế Tôn: Cả hai vị xuất gia mong muốn đưa ra học thuyết với ý định tranh luận mới nói vấn đề ấy. Được biết cả hai vị xuất gia ấy có suy nghĩ như vầy, nếu như Sa-môn Gotama nói rằng: “Mạng sống ấy, thân xác ấy.” Sau đó, chúng ta sẽ tranh luận học thuyết của Sa-môn Gotama ấy rằng – “Thưa ngài Gotama, theo học thuyết của ngài, chúng sanh trong thế giới này (sẽ) đoạn diệt bởi nguyên nhân ấy, học thuyết của ngài là  thuyết về đoạn diệt.” Còn nếu như (vị ấy) nói rằng: “Mạng sống là khác, thân xác là khác”, khi đó, chung ta sẽ sẽ tranh luận học thuyết của Sa-môn Gotama ấy rằng: “Sắc trong học thuyết đoạn diệt, chúng sanh không đoạn diệt, vì thế học thuyết của ngài (là học thuyết) chúng sanh thường tồn”. Lúc đó, đức Thế Tôn đã khởi lên suy nghĩ rằng: “Những vị xuất gia này hỏi vấn đề nhằm mục đích nêu ra học thuyết, tuy nhiên những vị này không thế dẫn chứng đến tận cùng của hai học thuyết này trong Giáo Pháp của Ta, mới không biết được con đường trung đạo có tồn tại, thôi được rồi, ta sẽ không trả lời vấn đề của những vị xuất gia ấy mà sẽ thuyết Giáo Pháp để làm sáng tỏ con đường trung đạo đối với chính điều đó” mới nói rằng: “Này hiền giả, nếu như thế hãy lắng nghe…

379-380. Tattha kallaṃ nu kho tassetaṃ vacanāyāti tassetaṃ saddhāpabbajitassa tividhaṃ sīlaṃ paripūretvā paṭhamajjhānaṃ pattassa[14] yuttaṃ nu kho etaṃ vattunti attho. Taṃ sutvā paribbājakā puthujjano nāma yasmā nibbicikiccho na hoti, tasmā kadāci evaṃ vadeyyāti maññamānā — “kallaṃ tassetaṃ vacanāyā”ti āhaṃsu. Atha ca panāhaṃ na vadāmīti ahaṃ etamevaṃ jānāmi, no ca evaṃ vadāmi, atha kho kasiṇaparikammaṃ katvā bhāventassa paññābalena uppannaṃ mahaggatacittametanti saññaṃ ṭhapesiṃ. Na kallaṃ tassetanti idaṃ te paribbājakā — “yasmā khīṇāsavo vigatasammoho tiṇṇavicikiccho, tasmā na yuttaṃ tassetaṃ vattun”ti maññamānā vadanti. Sesamettha[15] uttānatthamevāti.

379-380. Trong câu đó, ‘phải chăng điều ấy là thích hợp cho vị ấy về lời nói?’ vị xuất gia với đức tin thực hành tròn đủ ba loại giới chứng đắc Sơ thiền ấy, thích hợp nói lời nói ấy hay không? Giải thích rằng: Lời nói ấy thích hợp (cho vị ấy) nói với lời nói. Các du sĩ ngoại đạo sau khi lắng nghe Phật ngôn đã suy nghĩ rằng: Thông thường hạng phàm nhân không chấm dứt sự nghi ngờ, do dó, thỉnh thoảng mới nói như thế, đã nói rằng: “Điều ấy (là thích hợp) cho vị ấy về lời nói”. Tuy nhiên Ta không nói rằng: Ta thiết lập tưởng rằng: điều ấy Ta biết như vậy, và Ta không nói như vậy, nếu như và khi vị tỳ khưu thực hành đề mục biến xứ, tâm Đáo Đại ấy sanh khởi nhờ tuệ lực. Không thích hợp để nói rằng: Những du sĩ ngoại đạo ấy suy nghĩ điều này nói rằng: “Bậc Lậu Tận đã xa lìa si mê, xa lìa sự nghi hoặc, vì thế bậc Lậu Tận ấy không thích hợp để nói lời nói ấy”. Từ còn lại trong bài Kinh Jāliya ấy đều có ý nghĩa đơn giản.

Giải Thích Kinh Jāliya được kết thúc – Kinh thứ bảy.

Trong Chú Giải Trường Bộ Kinh là Sumaṅgalavilāsī.



[1] Ajitaraṭṭhaṃ (Sī), Damiḷaraṭṭhaṃ (Syā), Adillaraṭṭhaṃ nāma (I)

[2] Anantararaṭṭhaṃ (Sī)

[3] Gopālakānaṃ ca (Sī)

[4] Te taṃ (Syā)

[5] Bhuñjanto (Ka)

[6] Bhattakiccakāle (Sī, Syā)

[7] Velārocanatthaṃ (Syā)

[8] Ghosakaseṭṭhi (Sī)

[9] Pattā (Ka)

[10] Pānīyanahānodakāni (Sī)

[11] Majjhantike (Sī, Syā)

[12] Maṇḍiyoti (Sī, Syā)

[13] Tassa (Ka)

[14] Etaṃ vacanāya etaṃ vattuṃ yuttanti attho (Sī), etaṃ vacanāya vattuṃ yuttanti attho (Syā) yuttaṃ nu kho vacanāya, etaṃ vattuṃ yuttanti attho (?)

[15] Sesaṃ sabbattha (Sī)