Giải Thích Kinh Hợp Tụng
(Saṅgītisuttavaṇṇanā (33))Xem Trường Bộ Kinh – Kinh Hợp Tụng (Kinh Phúng Tụng)
296. Evaṃme sutanti saṅgītisuttaṃ. Tatrāyamapubbapadavaṇṇanā – cārikaṃ caramānoti nibaddhacārikaṃ caramāno. Tadā kira satthā dasasahassacakkavāḷe ñāṇajālaṃ pattharitvā lokaṃ volokayamāno pāvānagaravāsino mallarājāno disvā ime rājāno mayhaṃ sabbaññutaññāṇajālassa anto paññāyanti, kiṃ nu khoti āvajjanto ‘‘rājāno ekaṃ sandhāgāraṃ kāresuṃ, mayi gate maṅgalaṃ bhaṇāpessanti, ahaṃ tesaṃ maṅgalaṃ vatvā uyyojetvā ‘bhikkhusaṅghassa dhammakathaṃ kathehī’ti sāriputtaṃ vakkhāmi, sāriputto tīhi piṭakehi sammasitvā cuddasapañhādhikena pañhasahassena paṭimaṇḍetvā bhikkhusaṅghassa saṅgītisuttaṃ nāma kathessati, suttantaṃ āvajjetvā pañca bhikkhusatāni saha paṭisambhidāhi arahattaṃ pāpuṇissantī’’ti imamatthaṃ disvā cārikaṃ pakkanto. Tena vuttaṃ – ‘‘mallesu cārikaṃ caramāno’’ti.
296. Bài Kinh Hợp Tụng bắt đầu như sau— ‘Tôi đã nghe như vầy…’ Trong bài Kinh Hợp Tụng, lời giải thích sẽ được trình bày theo thứ tự từng câu như sau – (Đức Thế Tôn) trong khi đi du hành: Trong khi đi du hành liên tục. Nghe rằng, vào thời điểm đó, bậc Đạo Sư đã trải mạng lưới trí tuệ ra khắp mười ngàn thế giới, trong khi quan sát chúng sanh ở thế gian, đã nhìn thấy các vị vua xứ Malla đang ngụ ở Thành Pāvā, Ngài khởi lên suy nghĩ rằng: “Những vị vua này xuất hiện trong mạng lưới Trí Toàn Tri của Ta, có chuyện gì chăng?” Ngài liền nhận thấy ý nghĩa này: “Các vị vua này đã cho xây một hội trường mới, khi ta đi đến đó, (họ) sẽ để cho Ta giảng về pháp hạnh phúc, sau khi giảng về pháp hạnh phúc cho họ và tiễn ra về, Ta sẽ nói Sāriputta rằng: ‘Ông hãy thuyết giảng Giáo Pháp cho Hội chúng Tỳ-khưu.’ Sāriputta đã hiểu biết toàn diện Tam Tạng Pāli sẽ thuyết giảng bài Kinh Hợp Tụng cho Hội chúng Tỳ-khưu, với một nghìn không trăm mười bốn (1.014) vấn đề; sau khi suy xét bài Kinh này năm trăm vị Tỳ-khưu sẽ đạt được quả vị A-ra-hán cùng với các Tuệ Phân Tích,” rồi ra đi du hành. Vì thế, Ngài mới nói rằng– “Trong khi đi du hành ở xứ sở của những người Malla.”
Giải thích hội trường mới tên là Ubbhataka
297. Ubbhatakanti tassa nāmaṃ, uccattā vā evaṃ vuttaṃ. Sandhāgāranti nagaramajjhe sandhāgārasālā. Samaṇena vāti ettha yasmā gharavatthupariggahakāleyeva devatā attano vasanaṭṭhānaṃ gaṇhanti. Tasmā devena vāti avatvā ‘‘samaṇena vā brāhmaṇena vā kenaci vā manussabhūtenā’’ti vuttaṃ. Yena bhagavā tenupasaṅkamiṃsūti bhagavato āgamanaṃ sutvā ‘‘amhehi gantvāpi na bhagavā ānīto, dūtaṃ pesetvāpi na pakkosāpito, sayameva pana mahābhikkhusaṅghaparivāro amhākaṃ vasanaṭṭhānaṃ sampatto, amhehi ca sandhāgārasālā kāritā, ettha mayaṃ dasabalaṃ ānetvā maṅgalaṃ bhaṇāpessāmā’’ti cintetvā upasaṅkamiṃsu.
297. Ubbhataka: là tên của hội trường đó, hoặc được gọi như vậy bởi vì đó là một tòa nhà cao. Hội trường: Hội trường hội họp ở trung tâm Thành phố. Bởi vị Sa-môn: Ở đây, do các vị chư Thiên giữ lấy chỗ ở của mình trong thời gian được sở hữu đất đai để xây dựng nhà cửa. Do đó, Ngài đã không nói rằng– ‘bởi các vị Thiên’, mà lại nói rằng: “Bởi vị Sa-môn, hoặc bởi vị Bà-la-môn, hoặc bởi bất kỳ người nào.” (Những người Malla cư dân ở Pāvā) đã đi đến gặp đức Thế Tôn: Các vị vua xứ Malla, sau khi nghe tin đức Thế Tôn đi đến, liền suy nghĩ rằng: “Mặc dầu đi đến với chúng tôi, nhưng đức Thế Tôn đã không do (chúng tôi) rước đến, mặc dầu đã phái đi người sứ giả nhưng Ngài vẫn chưa được báo tin, trái lại đích thân Ngài, có Hội chúng Tỳ-khưu đông đảo làm tùy tùng, đã đạt đến chỗ trú ngụ của chúng tôi. Và do chúng tôi, hội trường đã được dựng nên. Sau khi hướng dẫn đấng Thập Lực đến nơi này, chúng tôi đã suy nghĩ rằng: “Chúng ta hãy thỉnh Ngài giảng về pháp hạnh phúc,” và đã đi đến gặp đấng Thập Lực.
298. Yena sandhāgāraṃ tenupasaṅkamiṃsūti taṃ divasaṃ kira sandhāgāre cittakammaṃ niṭṭhapetvā aṭṭakā muttamattā honti, buddhā ca nāma araññajjhāsayā araññārāmā, antogāme vaseyyuṃ vā no vā. Tasmā bhagavato manaṃ jānitvāva paṭijaggissāmāti cintetvā te bhagavantaṃ upasaṅkamiṃsu. Idāni pana manaṃ labhitvā paṭijaggitukāmā yena sandhāgāraṃ tenupasaṅkamiṃsu. Sabbasantharinti yathā sabbaṃ santhataṃ hoti evaṃ yena bhagavā tenupasaṅkamiṃsūti ettha pana te mallarājāno sandhāgāraṃ paṭijaggitvā nagaravīthiyopi sammajjāpetvā dhaje ussāpetvā gehadvāresu puṇṇaghaṭe ca kadaliyo ca ṭhapāpetvā sakalanagaraṃ dīpamālādīhi vippakiṇṇatārakaṃ viya katvā khīrapāyake dārake khīraṃ pāyyetha, dahare kumāre lahuṃ lahuṃ bhojāpetvā sayāpetha, uccāsaddaṃ mā karittha, ajja ekarattiṃ satthā antogāme vasissati, buddhā nāma appasaddakāmā hontīti bheriṃ carāpetvā sayaṃ daṇḍadīpikaṃ ādāya yena bhagavā tenupasaṅkamiṃsu.
298. Chúng tôi đã đi đến hội trường: Nghe nói vào ngày ấy, ở hội trường, công việc trang hoàng đã được hoàn tất, các giàn giáo vừa mới được tháo cất. Và chư Phật có khuynh hướng ở rừng, vui thích ở rừng, các vị có thể ngụ ở trong làng hay không? Vì thế, ngay sau khi biết được tâm ý của đức Thế Tôn, chúng ta sẽ sửa soạn,” nghĩ vậy, họ đã đi đến gặp đức Thế Tôn. Và giờ đây, sau khi đạt được tâm ý (của đức Thế Tôn), những người có ý muốn sửa soạn đã đi đến hội trường. Có trải thảm toàn bộ: Khi toàn bộ đã được trải thảm thì họ đã đi đến gặp đức Thế Tôn. Hơn nữa, ở đây các vị vua xứ Malla ấy, sau khi đã sửa soạn hội trường, đã bảo quét dọn luôn cả các con đường ở Thành phố, đã cho treo lên các lá cờ, đã cho sắp xếp các hũ nước đầy và những cây chuối ở các cửa nhà, và đã làm cho toàn thành phố rực rỡ với các cây đèn và các tràng hoa tựa như những vì sao được rải rắc (rằng): “Các người hãy cho các cháu bé chưa dứt sữa uống sữa, hãy mau mau cho các trẻ con ăn, ngủ, chớ có gây tiếng động lớn; hôm nay bậc Đạo Sư sẽ ngụ trong làng một đêm. Các vị Phật ưa thích trong sự yên tĩnh (ít thích tiếng ồn).” Sau khi cho đánh trống, họ đã tự thân cầm lấy các cây đèn rồi đi đến gặp đức Thế Tôn.
299. Bhagavantaṃyeva purakkhatvāti bhagavantaṃ purato katvā. Tattha bhagavā bhikkhūnañceva upāsakānañca majjhe nisinno ativiya virocati, samantapāsādiko suvaṇṇavaṇṇo abhirūpo dassanīyo. Purimakāyato suvaṇṇavaṇṇā rasmi uṭṭhahitvā asītihatthaṃ ṭhānaṃ gaṇhāti. Pacchimakāyato. Dakkhiṇahatthato. Vāmahatthato suvaṇṇavaṇṇā rasmi uṭṭhahitvā asītihatthaṃ ṭhānaṃ gaṇhāti. Upari kesantato paṭṭhāya sabbakesāvaṭṭehi moragīvavaṇṇā rasmi uṭṭhahitvā gaganatale asītihatthaṃ ṭhānaṃ gaṇhāti. Heṭṭhā pādatalehi pavāḷavaṇṇā rasmi uṭṭhahitvā ghanapathaviyaṃ asītihatthaṃ ṭhānaṃ gaṇhāti. Evaṃ samantā asīti hatthamattaṃ ṭhānaṃ chabbaṇṇā buddharasmiyo vijjotamānā vipphandamānā vidhāvanti. Sabbe disābhāgā suvaṇṇacampakapupphehi vikiriyamānā viya suvaṇṇaghaṭato nikkhantasuvaṇṇarasadhārāhi siñcamānā viya pasāritasuvaṇṇapaṭaparikkhittā viya verambhavātasamuṭṭhita– kiṃsukakaṇikāra– pupphacuṇṇasamākiṇṇā viya ca vippakāsanti.
299. Có đức Thế Tôn ở ngay trước mặt: đã sắp xếp chỗ ngồi có đức Thế Tôn ở trước mặt. Ở đấy, đức Thế Tôn, ngồi ở giữa các vị Tỳ khưu và các cư sĩ, tỏa sáng cực kỳ rực rỡ, khơi dậy niềm tịnh tín toàn diện, có làn da màu hoàng kim, có dáng cao sang, đáng nhìn. Từ thân phía trước phát ra hào quang màu hoàng kim đạt đến khoảng cách tám mươi cánh tay, từ thân phía sau, từ thân phía phải, từ thân phía trái phát ra hào quang có màu hoàng kim đạt đến khoảng cách tám mươi cánh tay, hào quang có màu cần cổ của chim công phát ra ở phía trên từ toàn bộ đầu tóc, bắt đầu từ đỉnh cọng tóc, đạt đến khoảng cách tám mươi cánh tay ở khoảng không của bầu trời; hào quang có màu san hô phát ra từ phía dưới hai lòng bàn chân đạt đến tầng đất cứng khoảng cách tám mươi cánh tay; tương tự như vậy ở xung quanh, các hào quang của đức Phật có sáu màu bắn ra rực rỡ, chói lọi, lung linh có khoảng cách ước chừng tám mươi cánh tay. Tất cả các khu vực tựa như đang rải rắc với các bông hoa campaka bằng vàng, tựa như đang được rưới bởi những dòng tinh chất màu hoàng kim được tuôn ra từ chiếc chậu bằng vàng, tựa như được bao quanh bởi tấm choàng màu hoàng kim đã trải thẳng, tựa như đã được phủ khắp bởi bụi phấn hoa kiṃsuka và hoa kaṇikāra đã được bốc lên bởi cơn gió thổi ở cường độ cao.
Bhagavatopi asītianubyañjanabyāmappabhādvattiṃsavaralakkhaṇasamujjalaṃ sarīraṃ samuggatatārakaṃ viya gaganatalaṃ, vikasitamiva padumavanaṃ, sabbapāliphullo viya yojanasatiko pāricchattako paṭipāṭiyā ṭhapitānaṃ dvattiṃsacandānaṃ dvattiṃsasūriyānaṃ dvattiṃsacakkavattirājānaṃ dvattiṃsadevarājānaṃ dvattiṃsamahābrahmānaṃ siriyā siriṃ abhibhavamānaṃ viya virocati. Parivāretvā nisinnā bhikkhūpi sabbeva appicchā santuṭṭhā pavivittā asaṃsaṭṭhā āraddhavīriyā vattāro vacanakkhamā codakā pāpagarahino sīlasampannā samādhisampannā paññāvimutti vimuttiñāṇadassanasampannā. Tehi parivārito bhagavā rattakambalaparikkhitto viya suvaṇṇakkhandho, rattapadumavanasaṇḍamajjhagatā viya suvaṇṇanāvā, pavāḷavedikāparikkhitto viya suvaṇṇapāsādo virocittha.
Thậm chí, thân thể chói lọi với ba mươi hai tướng trạng cao quý có vầng hào quang và tám mươi tướng phụ của đức Thế Tôn đang rực rỡ tựa như bầu trời đầy những vì sao đã mọc lên hoàn toàn, tựa như rừng sen đã nở rộ toàn bộ, tựa như cây san hô có kích thước một trăm do-tuần có các bông hoa nở rộ ở toàn thân tỏa sáng như thể phô bày sự lộng lẫy chế ngự sự lộng lẫy của 32 mặt trăng, của 32 mặt trời, của 32 vị Chuyển Luân Vương, của 32 vị Thiên Vương, của 32 vị Đại Phạm Thiên đang đứng xếp hàng. Các vị Tỳ-khưu ngồi vây quanh toàn bộ tất cả đều có ít ước muốn, tự biết đủ, sống tách biệt, không giao du, có sự ra sức tinh tấn, là những vị diễn giả có sự nhẫn nại với lời nói, là những vị quở trách, chê trách điều xấu xa, thành tựu về giới, thành tựu về định, thành tựu về tuệ, thành tựu về sự giải thoát tri kiến. Đức Thế Tôn, được tháp tùng bởi các vị Tỳ-khưu đó, chói sáng tựa như một khói vàng được bao bọc bởi tấm vải len màu đỏ, tựa như chiếc thuyền bằng vàng nổi bềnh bồng giữa rừng sen đỏ, tựa như lâu đài bằng vàng được bao quanh bởi một hàng rào ngọc san hô.
Asītimahātherāpi naṃ meghavaṇṇaṃ paṃsukūlaṃ pārupitvā maṇivammavammitā viya mahānāgā parivārayiṃsu vantarāgā bhinnakilesā vijaṭitajaṭā chinnabandhanā kule vā gaṇe vā alaggā.
Về phần tám mươi vị Đại Trưởng lão, đã choàng lên tấm y phấn tảo có màu sắc tựa đám mây, tựa như những con voi lớn được mặc vào chiếc áo giáp bằng ngọc ma-ni, có luyến ái đã bị tống khứ, có phiền não đã bị bẻ gãy, mọi sự rối rắm đã được gỡ bỏ, mọi sự ràng buộc đã bị cắt đứt, không dính mắc vào dòng dõi, hoặc hội nhóm, cùng nhau đã hội tụ vây quanh đức Thế Tôn.
Iti bhagavā sayaṃ vītarāgo vītarāgehi, vītadoso vītadosehi, vītamoho vītamohehi, nittaṇho nittaṇhehi, nikkileso nikkilesehi, sayaṃ buddho bahussutabuddhehi parivārito pattaparivāritaṃ viya kesaraṃ, kesaraparivāritā viya kaṇṇikā, aṭṭhanāgasahassaparivārito viya chaddanto nāgarājā, navutihaṃsasahassaparivārito viya dhataraṭṭho haṃsarājā, senaṅgaparivārito viya cakkavattirājā, marugaṇaparivārito viya sakko devarājā, brahmagaṇaparivārito viya hārito mahābrahmā, asamena buddhavesena aparimāṇena buddhavilāsena tassaṃ parisati nisinno pāveyyake malle bahudeva rattiṃ dhammiyā kathāya sandassetvā uyyojesi.
Đức Thế Tôn, tự mình có sự luyến ái đã được xa lìa được vây quanh bởi chư Tỳ-khưu đã ly ái luyến; có sân đã được xa lìa được vây quanh chư Tỳ-khưu đã ly sân; có si đã được xa lìa được vây quanh bởi chư Tỳ-khưu ly si; có tham ái đã được xa lìa được vây quanh bởi chư Tỳ khưu ly tham ái; không ô nhiễm được vây quanh bởi chư Tỳ-khưu không ô nhiễm, là người tự mình giác ngộ được vây quanh bởi chư Tỳ-khưu những vị đã giác ngộ nhờ sự học rộng hiểu nhiều, giống như sư tử chúa được muôn thú vây quanh, giống như hoa sen Kaṇṇikā được bao quanh bởi nhụy hoa, giống như voi chúa tên Chaddanta được vây quanh bởi đàn voi tám nghìn con, giống như chim thiên nga chúa Dhataraṭṭha được vây quanh bởi đàn chim thiên nga chín trăm ngàn con, giống như vị Chuyển Luân Vương được vây quanh bởi bốn đạo binh, giống như Thiên chủ Sakka được vây quanh bởi đông đảo chúng chư Thiên, giống như Đại Phạm Thiên Hārita được vây quanh bởi Hội chúng Phạm Thiên, trong khi ngồi ở giữa Hội chúng ấy với hình tướng của một vị Phật không ai sánh bằng, vô lượng, (và) với vẻ đẹp từ của bậc Giác Ngộ; Sau đó, khi đã chỉ dạy cho những người Malla cư dân ở Pāvā bằng bài Pháp thoại đến tận đêm khuya, (đức Thế Tôn) đã giải tán.
Ettha ca dhammikathā nāma sandhāgāraanumodanappaṭisaṃyuttā pakiṇṇakakathā veditabbā. Tadā hi bhagavā ākāsagaṅgaṃ otārento viya pathavojaṃ ākaḍḍhanto viya mahājambuṃ matthake gahetvā cālento viya yojaniyamadhugaṇḍaṃ cakkayantena pīḷetvā madhupānaṃ pāyamāno viya ca pāveyyakānaṃ mallānaṃ hitasukhāvahaṃ pakiṇṇakakathaṃ kathesi.
Và ở đây, nên được hiểu ‘bài giảng hỗn hợp-pakiṇṇakakathā’ liên quan đến sự tùy hỷ ở hội trường gọi là ‘bài Pháp thoại’. Bởi vì vào lúc ấy, đức Thế Tôn đã nói về bài giảng hỗn hợp mang lại lợi ích và sự an lạc cho những người Malla cư dân ở Pāvā, tựa như dòng sông thuộc cõi trời tuôn chảy xuống; tựa như gom góp lại dưỡng chất của địa đại, tựa như nắm lấy cây mận đỏ to lớn rung chuyển, tựa như vắt ép một tổ ong kích thước một do-tuần bằng động cơ rồi cho họ thưởng thức mật ngọt ấy.
300. Tuṇhībhūtaṃ tuṇhībhūtanti yaṃ yaṃ disaṃ anuviloketi, tattha tattha tuṇhībhūtameva. Anuviloketvāti maṃsacakkhunā dibbacakkhunāti dvīhi cakkhūhi tato tato viloketvā. Maṃsacakkhunā hi nesaṃ bahiddhā iriyāpathaṃ pariggahesi. Tattha ekabhikkhussāpi neva hatthakukkuccaṃ na pādakukkuccaṃ ahosi, na koci sīsamukkhipi, na kathaṃ kathesi, na niddāyanto nisīdi. Sabbepi tīhi sikkhāhi sikkhitā nivāte padīpasikhā viya niccalā nisīdiṃsu. Iti nesaṃ imaṃ iriyāpathaṃ maṃsacakkhunā pariggahesi. Ālokaṃ pana vaḍḍhayitvā dibbacakkhunā hadayarūpaṃ disvā abbhantaragataṃ sīlaṃ olokesi. So anekasatānaṃ bhikkhūnaṃ antokumbhiyaṃ jalamānaṃ padīpaṃ viya arahattupagaṃ sīlaṃ addasa. Āraddhavipassakā hi te bhikkhū. Iti nesaṃ sīlaṃ disvā ‘‘imepi bhikkhū mayhaṃ anucchavikā, ahampi imesaṃ anucchaviko’’ti cakkhutalesu nimittaṃ ṭhapetvā bhikkhusaṅghaṃ oloketvā āyasmantaṃ sāriputtaṃ āmantesi ‘‘piṭṭhi me āgilāyatī’’ti. Kasmā āgilāyati? Bhagavato hi chabbassāni mahāpadhānaṃ padahantassa mahantaṃ kāyadukkhaṃ ahosi. Athassa aparabhāge mahallakakāle piṭṭhivāto uppajji.
300. Hoàn toàn im lặng: (Đức Thế Tôn) đưa mắt nhìn về bất cứ hướng nào, thì Hội chúng Tỳ khưu ở hướng ấy đều hoàn toàn im lặng. Sau khi đưa mắt nhìn quanh: Sau khi đưa mắt nhìn ở hướng này, hướng nọ bằng hai loại mắt là Nhục nhãn và Thiên nhãn. Thật vậy, Ngài đã quan sát các oai nghi bên ngoài của các vị Tỳ-khưu bằng nhục nhãn. Trong số các vị đó, đã không ai có hành vi sai trái bằng tay mà cũng không có hành vi sai trái bằng chân dù chỉ một vị Tỳ khưu, không ai thò đầu ra, không nói năng linh tinh, không ngồi ngủ gật. Tất cả các vị ấy đều đã được rèn luyện với ba sự học tập, ngồi bất động, tựa như ngọn đèn dầu ở nơi không có gió. Ngài đã quan sát các oai nghi này của các vị Tỳ-khưu đó bằng Nhục nhãn là như thế. Hơn nữa, sau khi phát triển (đề mục) ánh sáng đã nhìn thấy sắc trái tim của các vị Tỳ-khưu đó, rồi Ngài quan sát nội giới bằng Thiên nhãn. Ngài đã nhìn thấy giới hạnh dẫn đến bản thể A-ra-hán của hàng trăm vị Tỳ-khưu, như thể những ngọn đèn được thắp sáng bên trong cái bình. Bởi các vị Tỳ-khưu đó đều là những vị chuyên chú nỗ lực tu tập Minh Sát. Sau khi nhìn thấy giới hạnh của chư Tỳ-khưu đó là như thế, Ngài đã suy nghĩ rằng: “Các vị Tỳ-khưu này xứng đáng đối với Ta, và Ta cũng xứng đáng đối với các vị này,” sau khi thiết lập hiện tướng ở phần bên ngoài của mắt, Ngài đã quan sát Hội chúng Tỳ-khưu, và đã bảo Đại đức Sāriputta rằng: “Ta cảm thấy đau lưng.” Tại sao Ngài bị đau lưng? – Do khi đức Thế Tôn thực hành sự tinh tấn mãnh liệt suốt 6 năm, đã khởi lên sự đau nhức ở thân. Sau đó, khi đến lúc tuổi già, chứng phong thấp đã khởi lên nơi thân Ngài.
Saṅghāṭiṃ paññāpetvāti sandhāgārassa kira ekapasse te rājāno kappiyamañcakaṃ paññapesuṃ ‘‘appeva nāma satthā nipajjeyyā’’ti. Satthāpi catūhi iriyāpathehi paribhuttaṃ imesaṃ mahapphalaṃ bhavissatīti tattha saṅghāṭiṃ paññāpetvā nipajji.
Đã trải tấm y hai lớp: Nghe nói những người xứ Malla ấy cho trải chiếc giường thích hợp ở một bên của hội trường, với ý định rằng: “Hy vọng bậc Đạo Sư có thể nghỉ ngơi.” Về phía bậc Đạo Sư nghĩ rằng: “Chiếc giường mà Ta sử dụng với cả bốn oai nghi sẽ có quả báu lớn lao cho những người xứ Malla này. Do đó, (Ngài) đã trải tấm y hai lớp, rồi nằm xuống.
Giải thích về câu chuyện đạo sĩ lõa thể bị phân hóa
301. Tassa kālaṅkiriyāyātiādīsu yaṃ vattabbaṃ, taṃ sabbaṃ heṭṭhā vuttameva.
301. Do việc mệnh chung của các vị ấy, v.v, điều gì cần được nói, tất cả điều đó đã được nói ở đoạn trước.
302. Āmantesīti bhaṇḍanādivūpasamakaraṃ svākhyātaṃ dhammaṃ desetukāmo āmantesi.
302. Đã bảo: Trong khi muốn chỉ bảo Giáo Pháp khéo được thuyết giảng làm lắng dịu các nguyên nhân nảy sanh sự xung đột, v.v. Do đó, (Đại đức Sāriputta) đã bảo (các vị Tỳ-khưu).
Giải thích về nhóm một
303. Tatthāti tasmiṃ dhamme. Saṅgāyitabbanti samaggehi gāyitabbaṃ, ekavacanehi aviruddhavacanehi bhaṇitabbaṃ. Na vivaditabbanti atthe vā byañjane vā vivādo na kātabbo. Eko dhammoti ekakadukatikādivasena bahudhā sāmaggirasaṃ dassetukāmo paṭhamaṃ tāva ‘‘eko dhammo’’ti āha. Sabbe sattāti kāmabhavādīsu saññābhavādīsu ekavokārabhavādīsu ca sabbabhavesu sabbe sattā. Āhāraṭṭhitikāti āhārato ṭhiti etesanti āhāraṭṭhitikā. Iti sabbasattānaṃ ṭhiti hetu āhāro nāma eko dhammo amhākaṃ satthārā yāthāvato ñatvā sammadakkhāto āvusoti dīpeti.
302. Trong pháp ấy: trong pháp ấy. Nên cùng nhau đọc tụng: Hội chúng Tỳ-khưu hòa hợp nên cùng nhau đọc tụng, tức là, Hội chúng Tỳ-khưu có chung một lời, có lời nói không trái nghịch, nên được cùng nhau trì tụng. Không nên tranh cãi: không nên tranh cãi về ý nghĩa hoặc về văn tự. Một pháp: Trưởng lão có ý muốn chỉ bảo về hương vị của sự hợp nhất dưới nhiều phương diện như nhóm một, nhóm hai, nhóm ba, v.v, do đó, Ngài đã nói ‘một pháp’ trước tiên hết. Tất cả chúng sanh: Tất cả chúng sanh ở các cõi như Dục hữu, v.v, Tưởng hữu, v.v, và nhất uẩn hữu, v.v. Có sự tồn tại nhờ vào vật thực: Tất cả chúng sanh ấy duy trì nhờ vào vật thực, do đó gọi là ‘có sự tồn tại nhờ vào vật thực’. Trưởng lão giải thích rằng: “Này các Đại đức, một pháp là vật thực, làm nhân cho sự tồn tại của tất cả chúng sanh, đã được bậc Đạo Sư của chúng ta biết đúng theo thực thể chân chánh thuyết giảng, là như thế.”
Nanu ca evaṃ sante yaṃ vuttaṃ ‘‘asaññasattā devā ahetukā anāhārā aphassakā’’tiādi, (vibha. 1017) taṃ vacanaṃ virujjhatīti, na virujjhati. Tesañhi jhānaṃ āhāro hoti. Evaṃ santepi ‘‘cattārome, bhikkhave, āhārā bhūtānaṃ vā sattānaṃ ṭhitiyā sambhavesīnaṃ vā anuggahāya. Katame cattāro? Kabaḷīkāro āhāro oḷāriko vā sukhumo vā, phasso dutiyo, manosañcetanā tatiyā, viññāṇaṃ catuttha’’nti (saṃ. ni. 2.11) idampi virujjhatīti, idampi na virujjhati. Etasmiñhi sutte nippariyāyena āhāralakkhaṇāva dhammā āhārāti vuttā. Idha pana pariyāyena paccayo āhāroti vutto. Sabbadhammānañhi paccayo laddhuṃ vaṭṭati. So ca yaṃ yaṃ phalaṃ janeti, taṃ taṃ āharati nāma, tasmā āhāroti vuccati. Tenevāha ‘‘avijjampāhaṃ, bhikkhave, sāhāraṃ vadāmi, no anāhāraṃ. Ko ca, bhikkhave, avijjāya āhāro? Pañcanīvaraṇātissa vacanīyaṃ. Pañcanīvaraṇepāhaṃ, bhikkhave, sāhāre vadāmi, no anāhāre. Ko ca, bhikkhave, pañcannaṃ nīvaraṇānaṃ āhāro? Ayonisomanasikārotissa vacanīya’’nti (a. ni. 10.61). Ayaṃ idha adhippeto.
Và nếu trong khi xảy ra như vậy, thì lời nào đã nói rằng: “Chư Thiên cõi Vô Tưởng là vô nhân, không có vật thực, không có xúc,v.v.,” (vibha. 1017); thì lời nói đó chẳng phải bị sai lệch rồi sao? – Không bị sai lệch. – Bởi vì, thiền là vật thực cho các vị Trời cõi Vô Tưởng. Trong khi xảy ra như vầy: “Này các Tỳ-khưu, có bốn vật thực để duy trì sự tồn tại của các chúng sanh đã sanh ra, hoặc để trợ giúp các chúng sanh đang tầm cầu sự thành hình. Bốn loại vật thực nào? Thứ nhất là Đoàn thực dù là thô hoặc tế, thứ hai là Xúc thực, thứ ba là Tư niệm thực, thứ tư là Thức thực, v.v,” (saṃ. ni. 2.11); thì chính điều này cũng bị sai lệch? – Ngay cả điều này cũng không sai lệch. – Bởi vì, trong bài Kinh này, đã được đức Thế Tôn thuyết theo cách trực tiếp rằng ‘chính các pháp có trạng thái là vật thực được gọi là vật thực’. Tuy nhiên, trong bài kinh này lại thuyết theo cách gián tiếp rằng: ‘Duyên gọi là vật thực’. Thật vậy, tất cả các pháp phù hợp có được duyên. Và duyên đó làm sanh khởi bất kỳ kết quả nào, thì nó được gọi là mang đến kết quả đó. Vì thế, duyên đó được gọi là ‘vật thực’. Vì lý do đó, đức Thế Tôn mới nói rằng: “Này các Tỳ-khưu, Ta nói rằng Vô minh có vật thực, không phải không có vật thực. Này các Tỳ-khưu, và cái gì là vật thực cho Vô minh? Nên được trả lời như vầy, năm pháp ngăn che là vật thực cho Vô minh. Này các Tỳ-khưu, Ta nói rằng năm pháp ngăn che có vật thực, không phải không có vật thực. Này các Tỳ-khưu, và cái gì là có vật thực cho năm pháp ngăn che? Nên được trả lời rằng ‘tác ý không đúng đường lối’ là vật thực của năm pháp ngăn che.’” (a. ni. 10.61); Ở đây, có ý muốn đề cập đến duyên này.
Etasmiñhi paccayāhāre gahite pariyāyāhāropi nippariyāyāhāropi sabbo gahitova hoti. Tattha asaññabhave paccayāhāro labbhati. Anuppanne hi buddhe titthāyatane pabbajitā vāyokasiṇe parikammaṃ katvā catutthajjhānaṃ nibbattetvā tato vuṭṭhāya dhī cittaṃ, dhibbatetaṃ cittaṃ cittassa nāma abhāvoyeva sādhu, cittañhi nissāyeva vadhabandhādipaccayaṃ dukkhaṃ uppajjati. Citte asati natthetanti khantiṃ ruciṃ uppādetvā aparihīnajjhānā kālaṅkatvā asaññabhave nibbattanti. Yo yassa iriyāpatho manussaloke paṇihito ahosi, so tena iriyāpathena nibbattitvā pañca kappasatāni ṭhito vā nisinno vā nipanno vā hoti. Evarūpānampi sattānaṃ paccayāhāro labbhati. Te hi yaṃ jhānaṃ bhāvetvā nibbattā, tadeva nesaṃ paccayo hoti. Yathā jiyāvegena khittasaro yāva jiyāvego atthi, tāva gacchati, evaṃ yāva jhānapaccayo atthi, tāva tiṭṭhanti. Tasmiṃ niṭṭhite khīṇavego saro viya patanti. Ye pana te nerayikā neva uṭṭhānaphalūpajīvī na puññaphalūpajīvīti vuttā, tesaṃ ko āhāroti? Tesaṃ kammameva āhāro. Kiṃ pañca āhārā atthīti ce. Pañca, na pañcāti idaṃ na vattabbaṃ. Nanu paccayo āhāroti vuttametaṃ. Tasmā yena kammena te niraye nibbattā, tadeva tesaṃ ṭhitipaccayattā āhāro hoti. Yaṃ sandhāya idaṃ vuttaṃ ‘‘na ca tāva kālaṅkaroti, yāva na taṃ pāpakammaṃ byantī hotī’’ti (ma. ni. 3.250).
Bởi vì, khi nắm giữ ‘vật thực là duyên’, tất cả (các loại vật thực) đều được nắm giữ, luôn cả vật thực gián tiếp lẫn vật thực trực tiếp. Trong cõi Vô Tưởng ấy vẫn tồn tại ‘vật thực là duyên’. Thật vậy, khi đức Phật chưa hiện khởi ở thế gian, các vị xuất gia trong thuyết ngoại giáo sau khi thực hiện sự chuẩn bị đề mục Gió nên làm sanh khởi Tứ thiền, sau khi xuất khỏi thiền đã làm cho sự hoan hỷ và ưa thích khởi lên rằng: “Tâm đáng bị khiển trách! Cái tâm này thật đáng khiển trách! Thật ra, sự vắng mặt tâm ấy chính là điều tốt đẹp! Do nương vào chính tâm ấy mà đau khổ sanh lên có sự trừng phạt, sự giam cầm, v.v., làm duyên. Khi tâm vắng mặt thì khổ đau đó cũng không hiện hữu!” Là người có thiền không bị hoại, sau khi mệnh chung, được tái sanh vào cõi trời Vô Tưởng. Người nào vững trú oai nghi nào ở cõi nhân loại, người ấy sẽ tái sanh với oai nghi ấy, (như thể bức tượng) là đứng, ngồi, hoặc nằm trong suốt năm trăm kiếp; (như nằm ngủ trong một khoảng thời gian dài đến chừng ấy). Luôn cả các chúng sanh có hình thức như thế đều có ‘vật thực là duyên’. Bởi vì, sau khi tu tập tầng thiền nào họ được tái sanh, thì nhờ chính tầng thiền ấy là duyên của họ. Ví như một mũi tên được bắn đi bởi sức kéo của dây cung; sức kéo của dây cung có chừng nào, thì mũi tên sẽ bay xa đến chừng ấy. Tương tự như thế, ‘thiền là duyên’ có chừng nào, thì sự tồn tại (của chúng sanh đó) kéo dài đến chừng đó. Tương tự, khi ‘thiền là duyên’ đó cạn kiệt, những chúng sanh đó cũng sẽ rơi xuống (tử), tựa như mũi tên đã hết lực bay. Còn các chúng sanh ở địa ngục đã được Ngài nói rằng: “Không sống nhờ kết quả của sự nỗ lực, mà cũng không sống nhờ kết quả của phước báu, thì những chúng sanh này có gì làm vật thực? Chính nghiệp ấy là vật thực của những chúng sanh ấy.” Nếu hỏi: “Có phải có năm loại vật thực chăng?” – Không nên trả lời rằng: ‘là năm, (hoặc) không phải năm’. Điều này, chằng phải Ngài đã nói “Duyên là vật thực” hay sao? – Vì thế, những chúng sanh tái sanh vào địa ngục do nghiệp nào, chính nghiệp đó là vật thực; vì là duyên để duy trì sự sống của những chúng sanh ấy. Để đề cập đến (điều đó) Ngài mới nói điều này rằng: “Và người ấy không thể mệnh chung cho đến khi ác nghiệp của người ấy chưa được tiêu trừ.” (ma. ni. 3.250);
Kabaḷīkāraṃ āhāraṃ ārabbha cettha vivādo na kātabbo. Mukhe uppanno kheḷopi hi tesaṃ āhārakiccaṃ sādheti. Kheḷopi hi niraye dukkhavedaniyo hutvā paccayo hoti, sagge sukhavedaniyo. Iti kāmabhave nippariyāyena cattāro āhārā. Rūpārūpabhavesu ṭhapetvā asaññaṃ sesānaṃ tayo. Asaññānañceva avasesānañca paccayāhāroti iminā āhārena ‘‘sabbe sattā āhāraṭṭhitikā’’ti etaṃ pañhaṃ kathetvā ‘‘ayaṃ kho āvuso’’ti evaṃ niyyātanampi ‘‘atthi kho āvuso’’ti puna uddharaṇampi akatvā ‘‘sabbe sattā saṅkhāraṭṭhitikā’’ti dutiyapañhaṃ vissajjesi.
Và ở đây không cần phải tranh luận về vấn đề Đoàn thực. Bởi vì ngay cả nước bọt tiết ra trong miệng cũng hoàn thành phận sự vật thực đối với những chúng sanh ấy. Thật vậy, nước bọt là nơi thiết lập khổ thọ ở địa ngục, còn ở cõi trời là nơi thiết lập lạc thọ, (cả hai) đều là duyên. Vì vậy, có bốn loại vật thực trực tiếp ở cõi Dục. Trong cõi Sắc và cõi Vô sắc, ngoại trừ cõi Vô Tưởng thì những cõi còn lại có ba loại vật thực. ‘Vật thực là duyên’ vẫn tồn tại đối với các chúng sanh ở cõi Vô Tưởng và những chúng sanh khác. Trưởng lão Sāriputta đã nói về vấn đề thứ nhất rằng: “Tất cả chúng sanh có sự tồn tại nhờ vào vật thực” với những vật thực này. Sau đó, Ngài đã giải quyết vấn đề thứ hai như sau: “Tất cả chúng sanh có sự tồn tại do các hành”, mà không cần phải xác định rõ như vầy– “Này các Đại đức, quả thật một pháp…”, mà cũng không cần phải giải thích thêm– “Này các Đại đức, quả thật có…”
Kasmā pana na niyyātesi na uddharittha? Tattha tattha niyyātiyamānepi uddhariyamānepi pariyāpuṇituṃ vācetuṃ dukkhaṃ hoti, tasmā dve ekābaddhe katvā vissajjesi. Imasmimpi vissajjane heṭṭhā vuttapaccayova attano phalassa saṅkharaṇato saṅkhāroti vutto. Iti heṭṭhā āhārapaccayo kathito, idha saṅkhārapaccayoti ayamettha heṭṭhimato viseso. ‘‘Heṭṭhā nippariyāyāhāro gahito, idha pariyāyāhāroti evaṃ gahite viseso pākaṭo bhaveyya, no ca gaṇhiṃsū’ti mahāsīvatthero āha. Indriyabaddhassapi hi anindriyabaddhassapi paccayo laddhuṃ vaṭṭati. Vinā paccayena dhammo nāma natthi. Tattha anindriyabaddhassa tiṇarukkhalatādino pathavīraso āporaso ca paccayo hoti. Deve avassante hi tiṇādīni milāyanti, vassante ca pana haritāni honti. Iti tesaṃ pathavīraso āporaso ca paccayo hoti. Indriyabaddhassa avijjā taṇhā kammaṃ āhāroti evamādayo paccayā, iti heṭṭhā paccayoyeva āhāroti kathito, idha saṅkhāroti. Ayamevettha viseso.
Tại sao không cần phải xác định rõ, mà cũng không cần phải giải thích thêm? Bởi vì, nếu cứ mãi xác định và lý giải chi tiết thì việc học tập và việc giảng dạy sẽ trở nên khó khăn. Do đó, Trưởng lão đã giải quyết cả hai vấn đề đó cùng một lúc. Ngay cả trong việc giải đáp vấn đề thứ hai này (có sự tồn tại do các hành), chính ‘duyên’ đã được đề cập trước đó cũng được gọi là ‘các hành’, bởi vì chúng tạo tác ra kết quả của chính nó. ‘Có vật thực là duyên’ cũng đã được nói đến trước đó, sự khác biệt nhỏ nhất trong vấn đề này chính là: Ở đây, ‘có các hành là duyên’. Tuy nhiên, Trưởng lão Mahāsīva lại nói rằng: “Trong khi nắm giữ như thế này– ‘vật thực trực tiếp được nắm giữ trước đó, còn ở đây là vật thực gián tiếp, tuy có thể có sự khác biệt rõ ràng, nhưng Ngài đã không nắm giữ theo cách đó.’” Bởi lẽ, pháp gắn liền với các quyền và pháp không gắn liền với các quyền đều cần phải có ‘duyên’. Pháp không có duyên là không có. Ở đấy, pháp không gắn liền với các quyền như cỏ, cây cối và dây leo, v.v., thì vị của đất và vị của nước làm duyên. Vì khi trời không mưa thì cỏ, v.v., sẽ khô héo. Nhưng khi trời đổ mưa, chúng trở nên xanh tốt. Vị của đất và vị của nước là duyên của cỏ, v.v., theo cách như vậy. Đối với pháp gắn liền với các quyền có các pháp như vầy vô minh, tham ái, nghiệp, vật thực là duyên. Chính các duyên đã được đề cập trước đó được Ngài gọi là ‘vật thực’; còn ở đây, Ngài gọi chúng là ‘các hành’. Trong trường hợp này, chính điều này là sự khác biệt.
Ayaṃkho, āvusoti āvuso amhākaṃ satthārā mahābodhimaṇḍe nisīditvā sayaṃ sabbaññutaññāṇena sacchikatvā ayaṃ ekadhammo desito. Tattha ekadhamme tumhehi sabbeheva saṅgāyitabbaṃ na vivaditabbaṃ. Yathayidaṃ brahmacariyanti yathā saṅgāyamānānaṃ tumhākaṃ idaṃ sāsanabrahmacariyaṃ addhaniyaṃ assa. Ekena hi bhikkhunā ‘‘atthi, kho āvuso, eko dhammo sammadakkhāto. Katamo eko dhammo? Sabbe sattā āhāraṭṭhitikā. Sabbe sattā saṅkhāraṭṭhitikā’’ti kathite tassa kathaṃ sutvā añño kathessati. Tassapi aññoti evaṃ paramparakathāniyamena idaṃ brahmacariyaṃ ciraṃ tiṭṭhamānaṃ sadevakassa lokassa atthāya hitāya bhavissatīti ekakavasena dhammasenāpati sāriputtatthero sāmaggirasaṃ dassesīti.
Này các Đại đức, quả thật: Này các Đại đức, bậc Đạo Sư của chúng ta ngồi tại Bảo tọa Đại Bồ-đề, đã tự mình tác chứng, với Trí Toàn Tri đã giảng giải một pháp này. Trong một pháp đó toàn bộ tất cả các đệ nên cùng nhau tụng đọc, không nên tranh cãi. Nhờ thế Phạm hạnh này: Lời giảng dạy về Phạm hạnh này có thể được lưu truyền, như khi các đệ đang tụng đọc. Thật vậy, khi một vị Tỳ-khưu nói rằng: “Này các Đại đức, quả thật một pháp này được bậc Đạo Sư tuyên thuyết đúng đắn. Một pháp là pháp nào? Tất cả chúng sanh có sự tồn tại do nhờ vật thực. Tất cả chúng sanh có sự tồn tại do các hành.” (Một vị khác) sau khi nghe lời nói của vị đó sẽ truyền lại cho vị khác. Một vị Tỳ-khưu khác nghe rồi thuật lại cho vị khác nữa. Cứ như vậy, bằng cách truyền đạt tiếp nối nhau, Phạm hạnh này sẽ được tồn tại lâu dài, vì lợi ích, vì sự an lạc của chư Thiên và nhân loại. Trưởng lão Sāriputta, vị Tướng quân Chánh pháp đã chỉ rõ hương vị của sự hợp nhất do tác động nhóm một pháp.
Giải thích nhóm một được kết thúc.
Giải thích nhóm hai
304. Iti ekakavasena sāmaggirasaṃ dassetvā idāni dukavasena dassetuṃ puna desanaṃ ārabhi. Tattha nāmarūpaduke nāmanti cattāro arūpino khandhā nibbānañca. Tattha cattāro khandhā nāmanaṭṭhena nāmaṃ. Nāmanaṭṭhenāti nāmakaraṇaṭṭhena. Yathā hi mahājanasammatattā mahāsammatassa ‘‘mahāsammato’’ti nāmaṃ ahosi, yathā mātāpitaro ‘‘ayaṃ tisso nāma hotu, phusso nāma hotū’’ti evaṃ puttassa kittimanāmaṃ karonti, yathā vā ‘‘dhammakathiko vinayadharo’’ti guṇato nāmaṃ āgacchati, na evaṃ vedanādīnaṃ. Vedanādayo hi mahāpathavīādayo viya attano nāmaṃ karontāva uppajjanti. Tesu uppannesu tesaṃ nāmaṃ uppannameva hoti. Na hi vedanaṃ uppannaṃ ‘‘tvaṃ vedanā nāma hohī’’ti koci bhaṇati, na cassā yena kenaci kāraṇena nāmaggahaṇakiccaṃ atthi, yathā pathaviyā uppannāya ‘‘tvaṃ pathavī nāma hohī’’ti nāmaggahaṇakiccaṃ natthi, cakkavāḷasinerumhi candimasūriyanakkhattesu uppannesu ‘‘tvaṃ cakkavāḷaṃ nāma, tvaṃ nakkhattaṃ nāma hohī’’ti nāmaggahaṇakiccaṃ natthi, nāmaṃ uppannameva hoti, opapātikā paññatti nipatati, evaṃ vedanāya uppannāya ‘‘tvaṃ vedanā nāma hohī’’ti nāmaggahaṇakiccaṃ natthi, tāya uppannāya vedanāti nāmaṃ uppannameva hoti. Saññādīsupi eseva nayo atītepi hi vedanā vedanāyeva. Saññā. Saṅkhārā. Viññāṇaṃ viññāṇameva. Anāgatepi. Paccuppannepi. Nibbānaṃ pana sadāpi nibbānamevāti. Nāmanaṭṭhena nāmaṃ. Namanaṭṭhenāpi cettha cattāro khandhā nāmaṃ. Te hi ārammaṇābhimukhaṃ namanti. Nāmanaṭṭhena sabbampi nāmaṃ. Cattāro hi khandhā ārammaṇe aññamaññaṃ nāmenti, nibbānaṃ ārammaṇādhipatipaccayatāya attani anavajjadhamme nāmeti.
304. Sau khi trình bày hương vị của sự hợp nhất do tác động nhóm một pháp, bây giờ để thuyết giảng (hương vị của sự hợp nhất) do tác động nhóm hai pháp mới bắt đầu bài thuyết Pháp tiếp theo. Trong nhóm hai pháp là danh và sắc ấy thì– danh bao gồm bốn Vô sắc uẩn và Niết Bàn. Trong danh và sắc ấy, bốn uẩn gọi là danh với ý nghĩa ‘hướng đến’. Với ý nghĩa hướng đến– tức là với ý nghĩa thực hiện định danh. Giống như Đức vua Mahāsammata có danh xưng là ‘Mahāsammata’ vì được đại chúng đồng thuận (tán dương, cùng xác nhận tên ấy), hoặc như cha mẹ đặt tên cho con cái để nhận biết như vầy “người này tên Tissa, người này tên Phussa”, hoặc như tên gọi có được nhờ vào sự thành tựu đức hạnh như “Vị Pháp sư, vị nắm vững về Luật”; Tuy nhiên, các uẩn có Thọ, v.v., thì không phải (đặt tên) theo cách ấy. Thật vậy, cũng như Đại địa, v.v,. thì Thọ, (và các pháp tương tự) v.v., có tên gọi của riêng mình, tự sanh lên. Khi các uẩn đó sanh lên, thì tên gọi của chúng cũng đồng thời sanh khởi. Thật vậy, không có ai đến nói với Thọ đã sanh rằng: “Ngươi hãy tên là Thọ”, và không (ai) có bổn phận phải đặt tên cho Thọ ấy bởi bất kỳ lý do nào. Tương tụ, như Địa đại khởi sanh cũng không (ai) có bổn phận phải đặt tên: “Ngươi hãy tên là Địa”; Khi vũ trụ, núi Suneru, mặt trăng, mặt trời, các vì sao hiện hữu, cũng không (ai) có bổn phận phải đặt tên là “ngươi hãy tên là vũ trụ … ngươi hãy tên là sao”; tên gọi ấy tự sanh khởi– sự quy định khởi lên tự nhiên, được mọi người chấp nhận.Khi thọ khởi sanh cũng không (ai) có bổn phận phải đặt tên “ngươi hãy tên là Thọ”, nhưng khi Thọ sanh khởi thì tên gọi “Thọ’ đồng thời cũng sanh khởi. Luôn cả Tưởng và các uẩn khác cũng có cách thức như thế. Ngay cả ‘Thọ’ trong quá khứ vẫn được gọi là ‘Thọ’. Tưởng, Hành, Thức– dù trong quá khứ, hay trong tương lai, thậm chí ở hiện tại– đều có tên gọi là Tưởng, Hành, Thức như nhau. Hơn nữa, Niết Bàn dù ở tương lai hay ở hiện tại cũng luôn được gọi là Niết Bàn. Danh với ý nghĩa thực hiện định danh có bản chất là như vậy. Và ở đây, bốn uẩn được gọi là ‘danh’ với ý nghĩa ‘hướng đến’, bởi chúng hướng đến các đối tượng. Tất cả mọi thứ cũng đều có thể được gọi là ‘danh’ với ý nghĩa hướng đến. Bởi bốn uẩn hướng đến lẫn nhau trong đối tượng. Niết Bàn khiến pháp không có lỗi lầm hướng đến chính nó, do duyên là Trưởng trong các đối tượng.
Rūpanti cattāro ca mahābhūtā catunnañca mahābhūtānaṃ upādāya rūpaṃ, taṃ sabbampi ruppanaṭṭhena rūpaṃ. Tassa vitthārakathā visuddhimagge vuttanayeneva veditabbā.
Sắc: Bốn sắc đại hiển và sắc y sinh nương bốn sắc đại hiển. Toàn bộ sắc đó đều được gọi là sắc với ý nghĩa ‘hoại diệt’. Lời giải thích chi tiết về Sắc đó nên được hiểu theo phương thức đã được trình bày trong bộ Thanh Tịnh Đạo.
Avijjāti dukkhādīsu aññāṇaṃ. Ayampi vitthārato visuddhimagge kathitāyeva. Bhavataṇhāti bhavapatthanā. Yathāha ‘‘tattha katamā bhavataṇhā? Yo bhavesu bhavacchando’’tiādi (dha. sa. 1319).
Vô minh: sự không biết về khổ, v.v. Vấn đề này cũng đã được trình bày chi tiết trong Thanh Tịnh Đạo. Hữu ái: sự mong muốn các hữu. Như đã nói– “Ở đây, hữu ái là gì? Sự mong muốn về hữu ở các hữu, v.v.” (dha. sa. 1319);
Bhavadiṭṭhīti bhavo vuccati sassataṃ, sassatavasena uppajjanakadiṭṭhi. Sā ‘‘tattha katamā bhavadiṭṭhi? ‘Bhavissati attā ca loko cā’ti yā evarūpā diṭṭhi diṭṭhigata’’ntiādinā (dha. sa. 1320) nayena abhidhamme vitthāritā. Vibhavadiṭṭhīti vibhavo vuccati ucchedaṃ, ucchedavasena uppajjanakadiṭṭhi. Sāpi ‘‘tattha katamā vibhavadiṭṭhi? ‘Na bhavissati attā ca loko cā’ti (dha. sa. 285). Yā evarūpā diṭṭhi diṭṭhigata’’ntiādinā (dha. sa. 1321) nayena tattheva vitthāritā.
Quan điểm về hữu: sự trường tồn được gọi là hữu, quan điểm sanh lên do tác động của sự trường tồn. Ngay cả quan điểm đó, Ngài cũng đã giải thích chi tiết trong Abhidhamma theo cách thức như sau: “Trong số các quan điểm đó, quan điểm về hữu là gì? ‘Sự nhận thấy rằng bản ngã và thế giới sẽ tồn tại’, quan điểm nào có hình thức như vậy là có sự đi đến tà kiến’” (dha. sa. 1320); Quan điểm về phi hữu: sự đoạn diệt được gọi là phi hữu, quan điểm sanh lên do tác động của sự đoạn diệt. Ngay cả quan điểm ấy, Ngài cũng đã giải thích chi tiết trong Abhidhamma với cách thức như sau: “Trong số các quan điểm đó, quan điểm về phi hữu là gì? Sự nhận thấy rằng bản ngã và thế giới sẽ không tồn tại’ (dha. sa. 285); quan điểm nào có hình thức như vậy là có sự đi đến tà kiến’” (dha. sa. 1321);
Ahirikanti ‘‘yaṃ na hirīyati hirīyitabbenā’’ti (dha. sa. 1328) evaṃ vitthāritā nillajjatā. Anottappanti ‘‘yaṃ na ottappati ottappitabbenā’’ti (dha. sa. 1329) evaṃ vitthārito abhāyanakaākāro.
Không hổ thẹn tội lỗi: Sự không xấu hổ đã được giải thích chi tiết như vầy “sự không hổ thẹn đối với những điều đáng hổ thẹn” (dha. sa. 1328). Không ghê sợ tội lỗi: Trạng thái không ghê sợ, được Ngài Tướng quân Chánh pháp Sāriputta giải thích chi tiết như vầy: “Sự không ghê sợ với những điều đáng ghê sợ.” (dha. sa. 1329);
Hirī ca ottappañcāti ‘‘yaṃ hirīyati hirīyitabbena, ottappati ottappitabbenā’’ti (dha. sa. 1330-31) evaṃ vitthāritāni hiriottappāni. Api cettha ajjhattasamuṭṭhānā hirī, bahiddhāsamuṭṭhānaṃ ottappaṃ. Attādhipateyyā hirī, lokādhipateyyaṃ ottappaṃ. Lajjāsabhāvasaṇṭhitā hirī, bhayasabhāvasaṇṭhitaṃ ottappaṃ. Vitthārakathā panettha sabbākārena visuddhimagge vuttā.
Hổ thẹn tội lỗi và ghê sợ tội lỗi: Sự hổ thẹn và sự sợ hãi được giải thích chi tiết như vầy “sự hổ thẹn với điều đáng hổ thẹn, sự ghê sợ với điều đáng tội lỗi” (dha. sa. 1330-31); Và hơn nữa, trong hai pháp này: Hổ thẹn tội lỗi có nguồn sanh khởi từ bên trong, ghê sợ tội lỗi có nguồn sanh khởi từ bên ngoài. Hổ thẹn có bản thân làm trọng đại, ghê sợ tội lỗi lấy có thế gian làm trọng đại. Hổ thẹn tội lỗi được thiết lập do thực tính là của sự xấu hổ, ghê sợ tội lỗi được thiết lập do thực tính của sự sợ hãi. Hơn nữa, ở đây lời giải thích chi tiết đã được trình bày trong Thanh Tịnh Đạo với mọi biểu hiện.
Dovacassatāti dukkhaṃ vaco etasmiṃ vippaṭikūlagāhimhi vipaccanīkasāte anādare puggaleti dubbaco, tassa kammaṃ dovacassaṃ, tassa bhāvo dovacassatā. Vitthārato panesā ‘‘tattha katamā dovacassatā? Sahadhammike vuccamāne dovacassāya’’nti (dha. sa. 1332) abhidhamme āgatā. Sā atthato saṅkhārakkhandho hoti. ‘‘Catunnañca khandhānaṃ etenākārena pavattānaṃ etaṃ adhivacana’’nti vadanti. Pāpamittatāti pāpā assaddhādayo puggalā etassa mittāti pāpamitto, tassa bhāvo pāpamittatā. Vitthārato panesā – ‘‘tattha katamā pāpamittatā? Ye te puggalā assaddhā dussīlā appassutā maccharino duppaññā. Yā tesaṃ sevanā nisevanā saṃsevanā bhajanā saṃbhajanā bhatti saṃbhatti taṃsampavaṅkatā’’ti (dha. sa. 1333) evaṃ āgatā. Sāpi atthato dovacassatā viya daṭṭhabbā.
Sự khó dạy: Khi khuyên bảo một người, người ấy thường chỉ nắm bắt những điều đáng ghét, chấp chặt vào những điều đối nghịch, không quan tâm, và lắng nghe là việc khó; Do đó, hạng người này gọi là ‘người khó dạy’, việc làm của họ được xem là ‘khó dạy’, bản chất của họ gọi là ‘sự khó dạy’. Sự khó dạy này được trình bày chi tiết trong Abhidhamma như sau: “Ở đây, sự khó dạy là như thế nào? sự khó dạy khó bảo trong khi những người đồng đạo đang nhắc nhở.” (dha. sa. 1332); Về mặt ý nghĩa thì sự khó dạy thuộc về Hành uẩn. Nhưng một số vị nói rằng– “Đây là một thuật ngữ để chỉ ‘bốn uẩn’ được vận hành theo biểu hiện như thế.” Bạn bè xấu xa: Những người ác, không có đức tin, v.v, là bạn của người đó, người ấy được gọi là người có bạn bè xấu xa, bản chất của họ được gọi là ‘người có bạn bè xấu xa’. Người có bạn bè xấu xa này được trình bày chi tiết trong Abhidhamma như vầy: “Ở đây, bạn bè xấu xa là như thế nào? Những kẻ nào không đức tin, có giới tồi, nghe ít, có tính bỏn xẻn, có ác tuệ. Sự giao du, giao thiệp, kết giao, cộng sự, sùng tín cho đến quá thương kỉnh với những kẻ đó, cả thân và tâm chiều theo những kẻ đó, v.v.” (dha. sa. 1333); Ngay cả ‘bạn bè xấu xa’, về mặt ý nghĩa, cũng nên được hiểu tương tự như ‘sự khó dạy’.
Sovacassatā ca kalyāṇamittatā ca vuttappaṭipakkhanayena veditabbā. Ubhopi panetā idha lokiyalokuttaramissakā kathitā.
Sự dễ dạy và bạn bè tốt lành: nên được hiểu theo phương thức đối nghịch lại điều đã nói trước đó. Cả hai pháp này, ở đây được nói hòa lẫn giữa Hiệp Thế và Siêu Thế.
Āpattikusalatāti ‘‘pañcapi āpattikkhandhā āpattiyo, sattapi āpattikkhandhā āpattiyo. Yā tāsaṃ āpattīnaṃ āpattikusalatā paññā pajānanā’’ti (dha. sa. 1336) evaṃ vutto āpattikusalabhāvo.
Thiện xảo về tội: Bản thể vị thiện xảo về tội được nói như vầy– “Năm nhóm tội là tội, bảy nhóm tội là tội. Sự thiện xảo là tuệ, sự nhận biết về các nhóm tội ấy.” (dha. sa. 1336);
Āpattivuṭṭhānakusalatāti ‘‘yā tāhi āpattīhi vuṭṭhānakusalatā paññā pajānanā’’ti (dha. sa. 1337) evaṃ vuttā saha kammavācāya āpattīhi vuṭṭhānaparicchedajānanā paññā.
Thiện xảo về việc thoát ra khỏi tội: Tuệ, sự hiểu biết về việc sắp đặt để thoát ra khỏi tội, cùng với tuyên ngôn hành sự được nói như vầy: “Sự thiện xảo là tuệ, là sự biết rõ về việc thoát khỏi tội đó.” (dha. sa. 1337);
Samāpattikusalatāti ‘‘atthi savitakkasavicārā samāpatti, atthi avitakkavicāramattā samāpatti, atthi avitakkaavicārā samāpatti. Yā tāsaṃ samāpattīnaṃ kusalatā paññā pajānanā’’ti (dha. sa. 1338) evaṃ vuttā saha parikammena appanāparicchedajānanā paññā. Samāpattivuṭṭhānakusalatāti ‘‘yā tāhi samāpattīhi vuṭṭhānakusalatā paññā pajānanā’’ti (dha. sa. 1339) evaṃ vuttā yathāparicchinnasamayavaseneva samāpattito vuṭṭhānasamatthā ‘‘ettakaṃ gate sūriye uṭṭhahissāmī’’ti vuṭṭhānakālaparicchedakā paññā.
Thiện xảo về nhập định: Tuệ, sự hiểu biết về việc sắp đặt an chỉ định cùng với sự chuẩn bị được nói như vầy– “Sự thể nhập hữu tầm hữu tứ, sự thể nhập vô tầm hữu tứ, sự thể nhập vô tầm vô tứ. Sự thiện xảo là tuệ, là sự biết rõ trong các sự thể nhập đó.” (dha. sa. 1338); Thiện xảo về xuất định: Tuệ xác định thời gian xuất khỏi sự thể nhập rằng– “Mặt trời mọc lên chừng này ta sẽ xuất định”, là tuệ có khả năng xuất khỏi sự thể nhập đúng thời gian đã định được nói như vầy– “sự thiện xảo là tuệ, là sự biết rõ về xuất khỏi các sự thể nhập ấy.” (dha. sa. 1339).
Dhātukusalatāti ‘‘aṭṭhārasa dhātuyo cakkhudhātu…pe… manoviññāṇadhātu. Yā tāsaṃ dhātūnaṃ kusalatā paññā pajānanā’’ti (dha. sa. 1340) evaṃ vuttā aṭṭhārasannaṃ dhātūnaṃ sabhāvaparicchedakā savanadhāraṇasammasanapaṭivedhapaññā. Manasikārakusalatāti ‘‘yā tāsaṃ dhātūnaṃ manasikārakusalatā paññā pajānanā’’ti (dha. sa. 1341) evaṃ vuttā tāsaṃyeva dhātūnaṃ sammasanapaṭivedhapaccavekkhaṇapaññā.
Thiện xảo về giới (18 giới): Tuệ nhờ vào sự lắng nghe, sự ghi nhớ, sự thấu hiểu và sự thấu triệt để xác định thực tính của 18 giới được nói như vầy– “Mười tám giới là nhãn giới …nt…ý thức giới. Sự thiện xảo là tuệ, là sự biết rõ đối với các giới ấy…” (dha. sa. 1340); Thiện xảo về tác ý (đối với các giới ấy): Tuệ nhờ vào sự thấu hiểu, sự thấu triệt và sự quán xét lại chính các giới ấy được nói như vầy– “sự thiện xảo là tuệ, là sự biết rõ về tác ý trong các giới ấy.” (dha. sa. 1341);
Āyatanakusalatāti ‘‘dvādasāyatanāni cakkhāyatanaṃ…pe… dhammāyatanaṃ. Yā tesaṃ āyatanānaṃ āyatanakusalatā paññā pajānanā’’ti (dha. sa. 1342) evaṃ vuttā dvādasannaṃ āyatanānaṃ uggahamanasikārapajānanā paññā. Apica dhātukusalatāpi uggahamanasikārasavanasammasanapaṭivedhapaccavekkhaṇesu vattati manasikārakusalatāpi āyatanakusalatāpi. Ayaṃ panettha viseso, savanauggahapaccavekkhaṇā lokiyā, paṭivedho lokuttaro, sammasanamanasikārā lokiyalokuttaramissakā. Paṭiccasamuppādakusalatāti ‘‘avijjāpaccayā saṅkhārā…pe… samudayo hotīti yā tattha paññā pajānanā’’ti (dha. sa. 1343) evaṃ vuttā dvādasannaṃ paccayākārānaṃ uggahādivasena pavattā paññā.
Thiện xảo về xứ (12 xứ): Tuệ nhờ vào sự học tập, sự tác ý, sự nhận biết 12 xứ được nói như vầy– “Mười hai xứ là nhãn xứ …nt… pháp xứ. Sự thiện xảo là tuệ, là sự biết rõ về xứ đối với các xứ ấy…” (dha. sa. 1342); Hơn nữa, sự thiện xảo về giới, sự thiện xảo về tác ý, và sự thiện xảo về xứ đều xứng đáng trong sự học tâm, sự tác ý, sự nghe, sự thấu hiểu, sự thấu triệt, và sự quán xét lại. Hơn nữa, ở đây điều này là sự khác biệt– sự nghe, sự học tập và sự quán xét lại thuộc Hiệp Thế. Sự thấu triệt thuộc Siêu Thế. Sự thấu hiểu, sự tác ý là xen lẫn giữa Hiệp Thế và Siêu Thế. Thiện xảo về sự sanh khởi vào lý duyên khởi: Tuệ vận hạnh do năng lực học tập, v.v, về mười hai nhân duyên được nói như vầy– “Các hành do duyên là vô minh …nt…là sự sanh khởi của toàn bộ khổ uẩn … là tuệ, là sự biết rõ vào lý duyên khởi đó.” (dha. sa. 1343);
Ṭhānakusalatāti ‘‘ye ye dhammā yesaṃ yesaṃ dhammānaṃ hetupaccayā uppādāya taṃ taṃ ṭhānanti yā tattha paññā pajānanā’’ti (dha. sa. 1344) evaṃ vuttā ‘‘cakkhuṃ vatthuṃ katvā rūpaṃ ārammaṇaṃ katvā uppannassa cakkhuviññāṇassa cakkhurūpaṃ (dha. sa. aṭṭha. 1344) ṭhānañceva kāraṇañcā’’ti evaṃ ṭhānaparicchindanasamatthā paññā.
Thiện xảo về sự kiện (nhân và duyên): Tuệ có khả năng xác định sự kiện như vầy: “Nhãn và sắc là sự kiện và là nhân cho nhãn thức sanh khởi dựa vào nhãn vật làm chỗ nương và sắc làm đối tượng,” (dha. sa. aṭṭha. 1344); được nói như vầy: “Những pháp nào là nhân, là duyên vì sự sanh khởi của những pháp khác, các trạng thái ấy được gọi là sự kiện; là tuệ, là sự biết rõ về sự kiện ấy…” (dha. sa. 1344);
Aṭṭhānakusalatāti ‘‘ye ye dhammā yesaṃ yesaṃ dhammānaṃ na hetū na paccayā uppādāya taṃ taṃ aṭṭhānanti yā tattha paññā pajānanā’’ti (dha. sa. 1345) evaṃ vuttā ‘‘cakkhuṃ vatthuṃ katvā rūpaṃ ārammaṇaṃ katvā sotaviññāṇādīni nuppajjanti, tasmā tesaṃ cakkhurūpaṃ na ṭhānaṃ na kāraṇa’’nti evaṃ aṭṭhānaparicchindanasamatthā paññā apica etasmiṃ duke ‘‘kittāvatā pana, bhante, ṭhānāṭhānakusalo bhikkhūti alaṃ vacanāyāti. Idhānanda, bhikkhu aṭṭhānametaṃ anavakāso, yaṃ diṭṭhisampanno puggalo kañci saṅkhāraṃ niccato upagaccheyya, netaṃ ṭhānaṃ vijjatīti pajānāti. Ṭhānañca kho etaṃ vijjati, yaṃ puthujjano kañci saṅkhāraṃ niccato upagaccheyyā’’ti (ma. ni. 3.127) imināpi suttena attho veditabbo.
Thiện xảo về phi sự kiện: Tuệ có khả năng xác định các phi sự kiện như vầy: “Nhĩ thức, v.v., không sanh khởi dựa vào nhãn vật làm chỗ nương và sắc làm đối tượng. Do đó, nhãn và sắc không phải là sự kiện, không phải là nhân cho nhĩ thức, v.v, (và các thức còn lại)” được nói như sau: “Những pháp nào không phải là nhân, không phải là duyên, do sự sanh khởi của những pháp khác, các trạng thái ấy gọi là phi sự kiện; là tuệ, là sự biết rõ về phi sự kiện ấy…” (dha. sa. 1345); Nên hiểu ý nghĩa trong nhóm hai pháp này theo bài Kinh sau – “Thưa Ngài, nhưng cho đến mức độ nào, là vừa đủ để nói– vị Tỳ-khưu khéo léo về sự kiện (việc thành lập tội) hay phi sự kiện (không thành lập tội). Ở đây, này Ānanda, vị Tỳ-khưu biết rõ rằng: “Sự việc này không xảy ra, này các Tỳ-khưu, không có được: Một người thành tựu kiến (Nhập Lưu) có thể tiến đến (chấp thủ) bất cứ hành nào là thường còn, sự việc này không xảy ra. Và sự việc này có xảy ra, này các Tỳ-khưu, kẻ phàm phu có thể tiến đến (chấp thủ) bất cứ hành nào là thường còn, sự việc này có xảy ra.” (ma. ni. 3.127);
Ajjavanti gomuttavaṅkatā candavaṅkatā naṅgalakoṭivaṅkatāti tayo anajjavā. Ekacco hi bhikkhu paṭhamavaye ekavīsatiyā anesanāsu chasu ca agocaresu carati, majjhimapacchimavayesu lajjī kukkuccako sikkhākāmo hoti, ayaṃ gomuttavaṅkatā nāma. Eko paṭhamavayepi pacchimavayepi catupārisuddhisīlaṃ pūreti, lajjī kukkuccako sikkhākāmo hoti, majjhimavaye purimasadiso, ayaṃ candavaṅkatā nāma. Eko paṭhamavayepi majjhimavayepi catupārisuddhisīlaṃ pūreti, lajjī kukkuccako sikkhākāmo hoti, pacchimavaye purimasadiso. Ayaṃ naṅgalakoṭivaṅkatā nāma. Eko sabbametaṃ vaṅkataṃ pahāya tīsupi vayesu pesalo lajjī kukkuccako sikkhākāmo hoti. Tassa yo so ujubhāvo, idaṃ ajjavaṃ nāma. Abhidhammepi vuttaṃ – ‘‘tattha katamo ajjavo. Yā ajjavatā ajimhatā avaṅkatā akuṭilatā, ayaṃ vuccati ajjavo’’ti (dha. sa. 1346). Lajjavanti ‘‘tattha katamo lajjavo? Yo hirīyati hirīyitabbena hirīyati pāpakānaṃ akusalānaṃ dhammānaṃ samāpattiyā. Ayaṃ vuccati lajjavo’’ti evaṃ vutto lajjībhāvo.
Sự chánh trực: Sự không ngay thẳng có ba: (1) uốn cong như nước tiểu bò, (2) uốn cong như mặt trăng, và (3) uốn cong như lưỡi cày. Thât vậy, có một số vị Tỳ-khưu, ở vào giai đoạn đầu của tuổi thọ theo đuổi 21 loại nghề nghiệp bất chính và 6 phi hành xứ; nhưng ở vào giai đoạn giữa và giai đoạn cuối của tuổi thọ, là có sự hổ thẹn, có sự hối hận, ưa thích sự học tập, đây được gọi là uốn cong như nước tiểu bò. Một vị khác, ở vào giai đoạn đầu và giai đoạn cuối của tuổi thọ làm tròn đủ tứ thanh tịnh giới, có sự hổ thẹn, có sự hối hận, ưa thích sự học tập; Nhưng ở vào giai đoạn giữa của tuổi thọ, tương tự như vị Tỳ-khưu trước đó (theo đuổi 21 loại nghề nghiệp bất chính và 6 phi hành xứ), đây được gọi là uốn cong như mặt trăng. Một vị khác, ở vào giai đoạn đầu và giai đoạn giữa của tuổi thọ làm tròn đủ tứ thanh tịnh giới, có sự hổ thẹn, có sự hối hận, ưa thích sự học tập; Tuy nhiên, ở vào giai đoạn cuối, tương tự như hai vị trước đó, đây được gọi là uốn cong như lưỡi cày. Một vị khác, đã dứt bỏ tất cả những sự cong vẹo đó, có giới, có sự hổ thẹn, có sự hối hận và ưa thích sự học tập trong cả ba giai đoạn của tuổi thọ. Sự ngay thẳng của vị Tỳ-khưu ấy, điều này được gọi là sự chánh trực. Ngay cả trong Abhidhamma cũng đã trình bày rằng– “Ở đây, sự chánh trực là như thế nào? Là sự ngay thẳng, sự không cong, sự không vẹo, đây được gọi là sự chánh trực.” (dha. sa. 1346); Tính e thẹn: Tính e thẹn được diễn giải như vầy– “Ở đây, tính e thẹn là như thế nào? Là sự hổ thẹn với điều đáng hổ thẹn, là sự hổ thẹn vì đã thành tựu các ác pháp, bất thiện. Đây được gọi là tính e thẹn.”
Khantīti ‘‘tattha katamā khanti? Yā khanti khamanatā adhivāsanatā acaṇḍikkaṃ anassuropo attamanatā cittassā’’ti (dha. sa. 1348) evaṃ vuttā adhivāsanakhanti. Soraccanti ‘‘tattha katamaṃ soraccaṃ? Yo kāyiko avītikkamo, vācasiko avītikkamo, kāyikavācasiko avītikkamo. Idaṃ vuccati soraccaṃ. Sabbopi sīlasaṃvaro soracca’’nti (dha. sa. 1349) evaṃ vutto suratabhāvo.
Kham nhẫn: “Ở đây, kham nhẫn là như thế nào? Sự kham nhẫn, tính kham nhẫn, tính nhẫn nại, sự không lỗ mãng, trạng thái không hoan hỷ của tâm.” (dha. sa. 1348); Sự nhã nhặn: Sự nhã nhặn được nói như vầy– “Ở đây, sự nhã nhặn là như thế nào? Là sự không vi phạm liên quan đến thân, sự không vi phạm liên quan đến khẩu, sự không vi phạm liên quan đến thân và khẩu. Điều ấy được gọi là sự nhã nhặn.” (dha. sa. 1349); Sự kham nhẫn chịu đựng được nói như vậy.
Sākhalyanti ‘‘tattha katamaṃ sākhalyaṃ? Yā sā vācā aṇḍakā kakkasā parakaṭukā parābhisajjanī kodhasāmantā asamādhisaṃvattanikā, tathārūpiṃ vācaṃ pahāya yā sā vācā neḷā kaṇṇasukhā pemanīyā hadayaṅgamā porī bahujanakantā bahujanamanāpā, tathārūpiṃ vācaṃ bhāsitā hoti. Yā tattha saṇhavācatā sakhilavācatā apharusavācatā. Idaṃ vuccati sākhalya’’nti (dha. sa. 1350) evaṃ vutto sammodakamudukabhāvo. Paṭisanthāroti ayaṃ lokasannivāso āmisena dhammena cāti dvīhi chiddo, tassa taṃ chiddaṃ yathā na paññāyati, evaṃ pīṭhassa viya paccattharaṇena āmisena dhammena ca paṭisantharaṇaṃ. Abhidhammepi vuttaṃ ‘‘tattha katamo paṭisanthāro? Āmisapaṭisanthāro ca dhammapaṭisanthāro ca. Idhekacco paṭisanthārako hoti āmisapaṭisanthārena vā dhammapaṭisanthārena vā. Ayaṃ vuccati paṭisanthāro’’ti (dha. sa. 1351). Ettha ca āmisena saṅgaho āmisapaṭisanthāro nāma. Taṃ karontena mātāpitūnaṃ bhikkhugatikassa veyyāvaccakarassa rañño corānañca aggaṃ aggahetvāpi dātuṃ vaṭṭati. Āmasitvā dinne hi rājāno ca corā ca anatthampi karonti jīvitakkhayampi pāpenti, anāmasitvā dinne attamanā honti. Coranāgavatthuādīni cettha vatthūni kathetabbāni. Tāni samantapāsādikāya vinayaṭṭhakathāyaṃ (pāci. aṭṭha. 185-7) vitthāritāni. Sakkaccaṃ uddesadānaṃ pāḷivaṇṇanā dhammakathākathananti evaṃ dhammena saṅgaho dhammapaṭisanthāro nāma.
Lời nói mềm mỏng: “Ở đây, lời nói mềm mỏng là như thế nào? Bất cứ những lời nào thô ác, tàn ác, sự châm chích kẻ khác, sự gay gắt kẻ khác, liên hệ đến phẫn nộ, không đưa đến thiền định, vị ấy dứt bỏ lời nói có hình thức như vậy, lời nói nào là dịu ngọt, êm tai, đáng yêu, đi vào lòng, tao nhã, làm đẹp lòng nhiều người, làm thích ý nhiều người, là người nói lời có hình thức như thế. Việc nói lời mềm mỏng, nói lời dịu dàng, nói lời dễ dãi, nói lời không thô lỗ. Đây được gọi là lời nói mềm mỏng.” (dha. sa. 1350); Trạng thái người nói lời thân mật, nhu thuận được nói như vậy. Sự tiếp đãi: Sự tiếp đãi bằng tài vật và bằng pháp cũng giống như lót chiếc ghế ngồi với tấm thảm trải – đời sống ở thế gian này có hai khoảng trống là bởi tài vật và bởi pháp, khoảng trống đó không xuất hiện nữa. Ngay cả, trong Abhidhamma (vị Tướng quân Chánh pháp Sāriputta) cũng đã nói rằng– “Ở đây, sự tiếp đãi là như thế nào? Sự tiếp đãi có hai cách: Sự tiếp đãi bằng tài vật và sự tiếp đãi bằng pháp. Một số người ở đời này, là người tiếp đãi với sự tiếp đãi bằng tài vật hoặc với sự tiếp đãi bằng pháp. Điều này được gọi là sự tiếp đãi.” (dha. sa. 1351); Và trong trường hợp này, việc thu phục bằng tài vật được gọi là sự tiếp đãi bằng tài vật. Khi thực hiện sự tiếp đãi bằng tài vật đó cho cha mẹ, cận sự nam sống gần các Tỳ-khưu trong một trú xứ, người làm công việc phục dịch, vua chúa, và kẻ trộm, không nên giữ lại phần tốt nhất cho bản thân rồi cho (phần không tốt). Bởi vì, nếu giữ lại (phần tốt) rồi cho (phần không tốt), thì vua chúa và kẻ trộm có thể gây ra tai họa, thậm chí còn có thể tước đoạt mạng sống (người ấy). Ngược lại, trong khi không giữ lại mà cho (phần tốt nhất), thì vua chúa và kẻ trộm trở nên hài lòng. Và trong trường hợp này, nên kể câu chuyện về tên cướp Nāga, v.v, (làm ví dụ). Những câu chuyện đó đã được trình bày chi tiết trong bộ Chú-giải Tạng Luật Samantapāsādikā. (pāci. aṭṭha. 185-7); Thu phục bằng pháp như vầy – tức là việc giảng dạy Giáo Pháp thật thận trọng, giải thích Kinh điển Pāli, và thuyết giảng về bài giảng pháp – được gọi là sự tiếp đãi bằng pháp.
Avihiṃsāti karuṇāpi karuṇāpubbabhāgopi. Vuttampi cetaṃ – ‘‘tattha katamā avihiṃsā? Yā sattesu karuṇā karuṇāyanā karuṇāyitattaṃ karuṇācetovimutti, ayaṃ vuccati avihiṃsā’’ti. Soceyyanti mettāya ca mettāpubbabhāgassa ca vasena sucibhāvo. Vuttampi cetaṃ – ‘‘tattha katamaṃ soceyyaṃ? Yā sattesu metti mettāyanā mettāyitattaṃ mettācetovimutti, idaṃ vuccati soceyya’’nti.
Không hãm hại: Gồm cả tâm bi và phần mở đầu của tâm bi. Điều này được nói rằng– “Ở đây, không hãm hại là gì? Là lòng bi mẫn, biểu hiện thương xót, trạng thái thương yêu đối với chúng sanh, bi tâm giải thoát. Đây được gọi là không hãm hại.” Sự trong sạch: Trạng thái thanh tịnh do sức mạnh của tâm từ và phần mở đầu của tâm từ. Điều này được nói rằng– “Ở đây, sự trong sạch là gì? Là sự thân thiện, biểu hiện thân thiện, trạng thái thân thiện đối với chúng sanh, từ tâm giải thoát, đây được gọi là sự trong sạch.”
Muṭṭhassaccanti sativippavāso, yathāha ‘‘tattha katamaṃ muṭṭhassaccaṃ? Yā asati ananussati appaṭissati assaraṇatā adhāraṇatā pilāpanatā sammussanatā, idaṃ vuccati muṭṭhassaccaṃ’’ (dha. sa. 1356). Asampajaññanti, ‘‘tattha katamaṃ asampajaññaṃ? Yaṃ aññāṇaṃ adassanaṃ avijjālaṅgī moho akusalamūla’’nti evaṃ vuttā avijjāyeva. Sati satiyeva. Sampajaññaṃ ñāṇaṃ.
Thất niệm: Sống thất niệm, như đã nói– “Ở đây, thất niệm là gì? Thất niệm, sự không tùy niệm, niệm không hiện tiền, trạng thái không ghi nhớ, trạng thái không ghi nhận, trạng thái lơ là, trạng thái quên lãng. Đây được gọi là thất niệm.” (dha. sa. 1356); Sự không nhận biết rõ: Chính là vô minh được nói như vầy– “Ở đây, sự không nhận biết rõ là gì? Sự không biết, sự không nhìn thấy, sự ngăn trở của vô minh, si mê, gốc rễ của bất thiện.” Niệm: chính là niệm. Sự nhận biết rõ: Trí.
Indriyesu aguttadvāratāti ‘‘tattha katamā indriyesu aguttadvāratā? Idhekacco cakkhunā rūpaṃ disvā nimittaggāhī hotī’’tiādinā (dha. sa. 1352) nayena vitthārito indriyasaṃvarabhedo. Bhojane amattaññutāti ‘‘tattha katamā bhojane amattaññutā? Idhekacco appaṭisaṅkhā ayoniso āhāraṃ āhāreti davāya madāya maṇḍanāya vibhūsanāya. Yā tattha asantuṭṭhitā amattaññutā appaṭisaṅkhā bhojane’’ti evaṃ āgato bhojane amattaññubhāvo. Anantaraduko vuttappaṭipakkhanayena veditabbo.
Sự không phòng vệ về các giác quan: Sự thiếu phòng hộ về các giác quan đã được trình bày chi tiết theo phương thức như sau– “Ở đây, sự không phòng vệ về các giác quan là gì? Một số người ở đời này, sau khi nhìn thấy cảnh sắc bằng mắt, có sự nắm giữ hình tướng, v.v,” (dha. sa. 1352); Không biết chừng mực về vật thực: Sự không biết tiết chế trong vật thực, như đã được trình bày sau đây– “Ở đây, không biết chừng mực về vật thực là như thế nào? Một số người ở đời này, không suy xét, (tác ý) không đúng đường lối rồi thọ dụng vật thực, vì vui đùa, vì đam mê, vì việc trang sức, vì việc điểm tô. Như thế là người không biết đủ, không biết chừng mực về vật thực mà không suy xét.” Nhóm hai pháp liền theo thứ tự ấy nên được hiểu theo cách thức trái nghịch với những điều đã được trình bày.
Paṭisaṅkhānabalanti ‘‘tattha katamaṃ paṭisaṅkhānabalaṃ? Yā paññā pajānanā’’ti evaṃ vitthāritaṃ appaṭisaṅkhāya akampanañāṇaṃ. Bhāvanābalanti bhāventassa uppannaṃ balaṃ. Atthato vīriyasambojjhaṅgasīsena satta bojjhaṅgā honti. Vuttampi cetaṃ – ‘‘tattha katamaṃ bhāvanābalaṃ? Yā kusalānaṃ dhammānaṃ āsevanā bhāvanā bahulīkammaṃ, idaṃ vuccati bhāvanābalaṃ. Sattabojjhaṅgā bhāvanābala’’nti.
Năng lực của sự suy xét: Trí không lay động với sự không suy xét, đã được trình bày chi tiết như vầy: “Ở đây, năng lực của sự suy xét là gì? Là tuệ, là sự biết rõ.” Năng lực của sự tu tập: Sức mạnh sanh khởi nơi người đang tu tập. Về mặt ý nghĩa, là thất giác chi (bảy yếu tố đưa đến giác ngộ) với đầu đề là tinh tấn giác chi. Và điều này được nói rằng– “Ở đây, năng lực của sự tu tập là gì? Là sự rèn luyện, sự tu tập, sự làm cho sung mãn của các thiện pháp. Đây được gọi là năng lực của sự tu tập. Ngay cả, thất giác chi cũng xem là năng lực của sự tu tập.”
Satibalanti assatiyā akampanavasena satiyeva. Samādhibalanti uddhacce akampanavasena samādhiyeva. Samatho samādhi. Vipassanā paññā. Samathova taṃ ākāraṃ gahetvā puna pavattetabbassa samathassa nimittavasena samathanimittaṃ paggāhanimittepi eseva nayo. Paggāho vīriyaṃ. Avikkhepo ekaggatā. Imehi pana sati ca sampajaññañca paṭisaṅkhānabalañca bhāvanābalañca satibalañca samādhibalañca samatho ca vippassanā ca samathanimittañca paggāhanimittañca paggāho ca avikkhepo cāti chahi dukehi parato sīladiṭṭhisampadādukena ca lokiyalokuttaramissakā dhammā kathitā.
Năng lực của niệm: chính là niệm với mãnh lực không lay động do sự thất niệm. Năng lực của định: chính là định với mãnh lực không lay động do trạo cử. Chỉ tịnh: là định. Minh sát: là tuệ. Chỉ tịnh được gọi là biểu hiện của chỉ tịnh do tác động hình tướng của chỉ tịnh, khi đã nắm giữ biểu hiện ấy thì nên tiếp tục duy trì. Biểu hiện của sự nỗ lực: cũng áp dụng cách thức này. Sự nỗ lực: Sự tinh tấn. Không tán loạn: trạng thái chuyên nhất của tâm. Từ sáu cặp đôi pháp này là– niệm và sự nhận biết rõ, năng lực của sự suy xét và năng lực của sự tu tập, niệm lực và định lực, chỉ tịnh và minh sát, biểu hiện của chỉ tịnh và biểu hiện của sự nỗ lực, sự nỗ lực và không tán loạn. Trưởng lão đã trình bày các pháp xen lẫn nhau giữa giữa Hiệp Thế và Siêu Thế thành từng cặp là sự thành tựu về giới và sự thành tựu về quan điểm.
Sīlavipattīti ‘‘tattha katamā sīlavipatti? Kāyiko vītikkamo…pe… sabbampi dussīlyaṃ sīlavipattī’’ti evaṃ vutto sīlavināsako asaṃvaro. Diṭṭhivipattīti ‘‘tattha katamā diṭṭhivipatti? Natthi dinnaṃ natthi yiṭṭha’’nti evaṃ āgatā sammādiṭṭhivināsikā micchādiṭṭhi.
Sự hư hỏng về giới: Sự không thu thúc là nhân khiến giới bị hư hoại được nói như vầy– “Ở đây, sự hư hỏng về giới là gì? Là sự vi phạm liên quan đến thân … . tất cả mọi điều giới tồi được gọi là sự hư hỏng về giới.” Sự hư hỏng về quan điểm: Tà kiến là nhân khiến chánh kiến bị hư hoại đã được trình bày như vầy– “Ở đây, sự hư hỏng về quan điểm là gì? Quan điểm cho rằng: ‘Bố thí không có kết quả, lễ bái không có kết quả’”.
Sīlasampadāti ‘‘tattha katamā sīlasampadā? Kāyiko avītikkamo’’ti evaṃ pubbe vuttasoraccameva sīlassa sampādanato paripūraṇato ‘‘sīlasampadā’’ti vuttaṃ. Ettha ca ‘‘sabbopi sīlasaṃvaro sīlasampadā’’ti idaṃ mānasikapariyādānatthaṃ vuttaṃ. Diṭṭhisampadāti ‘‘tattha katamā diṭṭhisampadā? Atthi dinnaṃ atthi yiṭṭhaṃ…pe… sacchikatvā pavedentīti yā evarūpā paññā pajānanā’’ti evaṃ āgataṃ diṭṭhipāripūribhūtaṃ ñāṇaṃ.
Sự thành tựu về giới: chính sự nhã nhặn đã được đề cập trước đó như vầy– “Ở đây, sự thành tựu về giới là gì? Là sự vi phạm liên quan đến thân”, được gọi là “sự thành tựu về giới” vì đạt đến sự thành tựu đầy đủ của giới. Và ở đây “tất cả sự thu thúc giới gọi là sự thành tựu về giới”, điều này được nói để tập hợp lấy sự không không vi phạm liên quan đến ý. Sự thành tựu về quan điểm: Trí tuệ là phương tiện làm cho hoàn thành quan điểm đã được trình bày như vầy– “Ở đây, sự thành tựu về quan điểm là gì? Là tuệ, là sư biết rõ có hình thức như vậy rằng: ‘có bố thí, có dâng hiến …nt… chứng ngộ và công bố’”.
Sīlavisuddhīti visuddhiṃ pāpetuṃ samatthaṃ sīlaṃ. Abhidhamme panāyaṃ ‘‘tattha katamā sīlavisuddhi? Kāyiko avītikkamo vācasiko avītikkamo kāyikavācasiko avītikkamo, ayaṃ vuccati sīlavisuddhī’’ti evaṃ vibhattā. Diṭṭhivisuddhīti visuddhiṃ pāpetuṃ samatthaṃ dassanaṃ. Abhidhamme panāyaṃ ‘‘tattha katamā diṭṭhivisuddhi? Kammassakatañāṇaṃ saccānulomikañāṇaṃ maggasamaṅgissañāṇaṃ phalasamaṅgissañāṇa’’nti evaṃ vuttā. Ettha ca tividhaṃ duccaritaṃ attanā katampi parena katampi sakaṃ nāma na hoti atthabhañjanato. Sucaritaṃ sakaṃ nāma atthajananatoti evaṃ jānanaṃ kammassakatañāṇaṃ nāma. Tasmiṃ ṭhatvā bahuṃ vaṭṭagāmikammaṃ āyūhitvā sukhato sukheneva arahattaṃ pattā gaṇanapathaṃ vītivattā. Vipassanāñāṇaṃ pana vacīsaccañca anulometi, paramatthasaccañca na vilometīti saccānulomikaṃ ñāṇanti vuttaṃ.
Sự thanh tịnh về giới: Giới có khả năng dẫn đến sự trong sạch. Hơn nữa, điều này trong Abhidhamma đã được phân tích như vầy: “Ở đây, sự thanh tịnh về giới là gì? Là sự không vi phạm liên quan đến thân, sự không vi phạm liên quan đến khẩu, sự không vi phạm liên quan đến thân và khẩu. Điều này được gọi là sự thanh tịnh về giới.” Sự thanh tịnh về quan điểm: Sự thấy có khả năng dẫn đến sự trong sạch. Điều này trong Abhidhamma đã được trình bày như vầy: “Ở đây, sự thanh tịnh về quan điểm là gì? Trí về nghiệp của mình đã tạo, trí thuận theo chân lý, trí của vị có dự phần ở Đạo, trí của vị có dự phần ở Quả.” Và ở đây, sự biết như vầy rằng– ba uế hạnh đã được làm bởi chính mình, hoặc đã được làm bởi người khác, không được gọi là nghiệp của mình do bẻ gãy điều lợi ích. Ngược lại, ba loại thiện hạnh được gọi là nghiệp của mình, do làm sanh khởi điều lợi ích, gọi là trí về nghiệp của mình đã tạo. Sau khi vững trú trong trí đã tích lũy nghiệp dẫn đến luân hồi, và đã đạt được bản thể A-ra-hán một cách thuận tiện thì vượt qua cách thức tính đếm. Ngoài ra, trí về minh sát, Ngài nói rằng: trí thuận theo chân lý bởi vì tùy thuận với lời nói chân thật, và không trái ngược lại với chân lý có ý nghĩa tuyệt đối (Pháp Chân Đế).
‘‘Diṭṭhivisuddhi kho pana yathādiṭṭhissa ca padhāna’’nti ettha diṭṭhivisuddhīti ñāṇadassanaṃ kathitaṃ. Yathādiṭṭhissa ca padhānanti taṃsampayuttameva vīriyaṃ. Api ca purimapadena catumaggañāṇaṃ. Pacchimapadena taṃsampayuttaṃ vīriyaṃ. Abhidhamme pana ‘‘diṭṭhivisuddhi kho panāti yā paññā pajānanā amoho dhammavicayo sammādiṭṭhi. Yathādiṭṭhissa ca padhānanti yo cetasiko vīriyārambho sammāvāyāmo’’ti evaṃ ayaṃ duko vibhatto.
Ở đây, “sự thanh tịnh về quan điểm và ra sức cho quan điểm như thế ấy”, sự biết và sự thấy ngài gọi là sự thanh tịnh về quan điểm. Sự ra sức cho quan điểm như thế ấy: Sự tinh tấn liên hệ đến sự biết và sự thấy đó. Tuy nhiên, với từ đầu tiên có nghĩa là ‘bốn trí về đạo’. Với từ sau có nghĩa là sự tinh tấn gắn liền với ‘bốn trí về đạo’ ấy. Hơn nữa, trong Abhidhamma, Ngài giải thích nhóm hai pháp này như vầy– “Sự thanh tịnh về quan điểm là tuệ, sự biết rõ, sự không si mê, sự chọn lựa pháp, chánh kiến. Sự ra sức cho quan điểm như thế ấy là pháp thuộc về tâm, sự ra sức tinh tấn, chánh tinh tấn.”
‘‘Saṃvego ca saṃvejanīyesu ṭhānesū’’ti ettha ‘‘saṃvegoti jātibhayaṃ jarābhayaṃ byādhibhayaṃ maraṇabhaya’’nti evaṃ jātiādīni bhayato dassanañāṇaṃ. Saṃvejanīyaṃ ṭhānanti jātijarābyādhimaraṇaṃ. Etāni hi cattāri jāti dukkhā, jarā dukkhā, byādhi dukkho, maraṇaṃ dukkhanti evaṃ saṃveguppattikāraṇattā saṃvejanīyaṃ ṭhānanti vuttāni. Saṃviggassa ca yoniso padhānanti evaṃ saṃvegajātassa upāyapadhānaṃ. ‘‘Idha bhikkhu anuppannānaṃ pāpakānaṃ akusalānaṃ dhammānaṃ anuppādāya chandaṃ janetī’’ti evaṃ āgatavīriyassetaṃ adhivacanaṃ.
“Sự chấn động (tâm) ở những trường hợp có thể gây chấn động” này thì “sự chấn động là sợ hãi sự sanh, sợ hãi sự già, sợ hãi sự bệnh, sợ hãi sự chết”, trí tuệ nhìn thấy sự sanh là sợ hãi như vậy. Sự chấn động (tâm) ở những trường hợp: Sanh, già, bệnh và chết. Thật vậy, bốn trường hợp này Ngài gọi là những trường hợp làm chỗ thiết lập của sự chấn động bởi vì làm nhân khiến khởi lên sự động tâm như vầy– ‘sanh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ’. Sự ra sức đúng đường lối của người bị chấn động: Sự ra sức đúng đường lối của người khởi lên sự chấn động như vậy. Lời này là thuật ngữ của sự tinh tấn đã được trình bày như vầy– “Ở đây, vị Tỳ-khưu làm sanh khởi sự mong muốn về việc không sanh khởi của các ác bất thiện pháp từ trước chưa sanh không cho sanh khởi.”
Asantuṭṭhitā ca kusalesu dhammesūti yā kusalānaṃ dhammānaṃ bhāvanāya asantuṭṭhassa bhiyyokamyatā, tāya hi samaṅgībhūto puggalo sīlaṃ pūretvā jhānaṃ uppādeti. Jhānaṃ labhitvā vipassanaṃ ārabhati. Āraddhavipassako arahattaṃ agahetvā antarā vosānaṃ nāpajjati.
Không biết đủ về các thiện pháp: Sự mong muốn nhiều hơn nữa của người không biết đủ với việc tu tập các thiện pháp. Thật vậy, một người có đầy đủ phẩm chất “không biết đủ” đó, sau khi làm tròn đủ giới, thiền (định) được sanh khởi; sau khi đắc thiền (định), bắt đầu thực hành Minh sát; sau khi bắt đầu thực hành Minh sát vẫn chưa chứng đắc A-ra-hán, sẽ không làm suy giảm (tinh tấn) ở giữa chừng.
Appaṭivānitā ca padhānasminti ‘‘kusalānaṃ dhammānaṃ bhāvanāya sakkaccakiriyatā sātaccakiriyatā aṭṭhitakiriyatā anolīnavuttitā anikkhittachandatā anikkhittadhuratā āsevanā bhāvanā bahulīkamma’’nti evaṃ vuttā rattindivaṃ cha koṭṭhāse katvā jāgariyānuyogavasena āraddhe padhānasmiṃ arahattaṃ apatvā anivattanatā.
Và không thối thất về việc ra sức: Trạng thái không nản lòng trong sự tinh tấn đã được bắt đầu, khi chưa chứng đắc quả vị A-ra-hán, nhờ vào năng lực của sự gắn bó với tỉnh thức đã chia ngày và đêm thành sáu phần, được trình bày như vầy– “trạng thái thực hành nghiêm trang, trạng thái thực hành liên tục, trạng thái thực hành ổn định, có thói quen không lười biếng, trạng thái không buông bỏ mong muốn, trạng thái không buông bỏ bổn phận, sự không tập luyện, sự không tu tập, sự không làm thường xuyên các thiện pháp.
Vijjāti tisso vijjā. Vimuttīti dve vimuttiyo, cittassa ca adhimutti, nibbānañca. Ettha ca aṭṭha samāpattiyo nīvaraṇādīhi suṭṭhu muttattā adhimutti nāma. Nibbānaṃ sabbasaṅkhatato muttattā vimuttīti veditabbaṃ.
Minh: Tam minh. Sự giải thoát: Có hai sự giải thoát, khuynh hướng của tâm và Niết Bàn. Và ở đây, tám thiền chứng được gọi là ‘khuynh hướng’ vì đã thoát khỏi tốt đẹp từ các phiền não có pháp ngăn che, v.v. Còn Niết Bàn nên biết rằng là sự giải thoát vì đã thoát khỏi toàn bộ các pháp hành.
Khaye ñāṇanti kilesakkhayakare ariyamagge ñāṇaṃ. Anuppāde ñāṇanti paṭisandhivasena anuppādabhūte taṃtaṃmaggavajjhakilesānaṃ vā anuppādapariyosāne uppanne ariyaphale ñāṇaṃ. Tenevāha ‘‘khaye ñāṇanti maggasamaṅgissa ñāṇaṃ. Anuppāde ñāṇanti phalasamaṅgissa ñāṇa’’nti. Ime kho, āvusotiādi ekake vuttanayeneva yojetabbaṃ. Iti pañcatiṃsāya dukānaṃ vasena thero sāmaggirasaṃ dassesīti.
Trí về sự diệt trừ: Trí trong Thánh Đạo làm cho phiền não cạn kiệt. Trí về sự không sanh khởi: Trí trong Thánh Quả, là quả chưa sanh khởi do mãnh lực tái tục hoặc sanh khởi sau cùng của sự không sanh khởi của phiền não bị tiêu diệt bởi các Đạo tương ứng. Bởi lý do đó Ngài mới nói rằng “trí về sự diệt trừ là trí của vị có dự phần ở Đạo, trí về sự không sanh là trí của vị có dự phần ở Quả.” Này các Đại đức, quả thật, v.v, nên được kết hợp theo phương thức đã được trình bày trong nhóm một pháp. Trưởng lão đã trình bày hương vị của sự hợp nhất do tác động nhóm hai pháp, tổng cộng là 35 cặp, là như thế.
Giải thích nhóm hai được kết thúc
Giải thích về nhóm ba
305. Iti dukavasena sāmaggirasaṃ dassetvā idāni tikavasena dassetuṃ puna ārabhi. Tattha lubbhatīti lobho. Akusalañca taṃ mūlañca, akusalānaṃ vā mūlanti akusalamūlaṃ. Dussatīti doso. Muyhatīti moho. Tesaṃ paṭipakkhanayena alobhādayo veditabbā.
305. Sau khi thuyết về hương vị của sự hợp nhất do tác động nhóm hai, bây giờ bây giờ để thuyết giảng (hương vị của sự hợp nhất) do tác động nhóm ba mới bắt đầu bài thuyết Pháp tiếp theo. Trong số các pháp đó, ‘tham’ với ý nghĩa là ‘ham muốn’. Vừa là bất thiện và cũng là gốc rễ, hoặc (tham) là gốc rễ của các bất thiện; do đó, ‘tham’ được gọi là ‘Căn bất thiện’. ‘Sân’ với ý nghĩa là sự thù ghét. ‘Si’ với ý nghĩa là say mê. Còn ‘vô tham’, v.v., nên được hiểu theo phương thức đối nghịch lại với ‘tham’, v.v., ấy. (1-2)
Duṭṭhu caritāni, virūpāni vā caritānīti duccaritāni. Kāyena duccaritaṃ, kāyato vā pavattaṃ duccaritanti kāyaduccaritaṃ. Sesesupi eseva nayo. Suṭṭhu caritāni, sundarāni vā caritānīti sucaritāni. Dvepi cete tikā paṇṇattiyā vā kammapathehi vā kathetabbā. Paññattiyā tāva kāyadvāre paññattasikkhāpadassa vītikkamo kāyaduccaritaṃ. Avītikkamo kāyasucaritaṃ. Vacīdvāre paññattasikkhāpadassa vītikkamo vacīduccaritaṃ, avītikkamo vacīsucaritaṃ. Ubhayattha paññattassa sikkhāpadassa vītikkamova manoduccaritaṃ, avītikkamo manosucaritaṃ. Ayaṃ paṇṇattikathā. Pāṇātipātādayo pana tisso cetanā kāyadvārepi vacīdvārepi uppannā kāyaduccaritaṃ. Catasso musāvādādicetanā vacīduccaritaṃ. Abhijjhā byāpādo micchādiṭṭhīti tayo cetanāsampayuttadhammā manoduccaritaṃ. Pāṇātipātādīhi viramantassa uppannā tisso cetanāpi viratiyopi kāyasucaritaṃ. Musāvādādīhi viramantassa catasso cetanāpi viratiyopi vacīsucaritaṃ. Anabhijjhā abyāpādo sammādiṭṭhīti tayo cetanāsampayuttadhammā manosucaritanti ayaṃ kammapathakathā.
Uế hạnh là những hành động xấu, hoặc những hành động sai trái. Uế hạnh do thân, hoặc những hành động xấu thể hiện qua lộ thân, được gọi là “Uế hạnh về thân”. Các từ còn lại cũng được áp dụng theo phương thức tương tự. Thiện hạnh là những hành động đúng đắn, hoặc những hành vi tốt đẹp. Cả hai khía cạnh này trong nhóm ba nên được trình bày theo sự quy định hoặc theo đường lối tạo nghiệp. Trước tiên, nói về sự quy định, sự vi phạm các điều học đã được quy định ở thân môn được gọi là uế hạnh về thân. Sự không vi phạm được gọi là thiện hạnh về thân. Sự vi phạm các điều học đã được quy định ở khẩu môn được gọi là uế hạnh về khẩu. Sự không vi phạm được gọi là thiện hạnh về khẩu. Sự vi phạm các điều học đã được quy định qua hai môn đó (thân và khẩu môn) được gọi là uế hạnh về ý; sự không vi phạm được gọi là thiện hạnh về ý. Đây là giảng về sự quy định. Hơn nữa, ba ý định như sát sanh, v.v., sanh khởi ở thân môn và khẩu môn, được gọi là uế hạnh về thân. Bốn ý định như nói dối, v.v., được gọi là uế hạnh về khẩu. Ba pháp gắn liền với ý định là tham đắm, sân hận, và tà kiến được gọi là uế hạnh về ý. Ý định và sự xa lánh cả ba nghiệp bất thiện, được sanh khởi nơi người từ bỏ sát sanh, v.v., được gọi là thiện hạnh về thân. Ý định và sự tránh xa cả bốn nghiệp bất thiện, được sanh khởi nơi người từ bỏ nói dối, v.v., được gọi là thiện hạnh về khẩu. Ba pháp liên hệ đến ý định là vô tham, vô sân, và chánh kiến được gọi là thiện hạnh về ý. Đây là giảng về đường lối tạo nghiệp. (3-4)
Kāmapaṭisaṃyutto vitakko kāmavitakko. Byāpādapaṭisaṃyutto vitakko byāpādavitakko. Vihiṃsāpaṭisaṃyutto vitakko vihiṃsāvitakko. Tesu dve sattesupi saṅkhāresupi uppajjanti. Kāmavitakko hi piye manāpe satte vā saṅkhāre vā vitakkentassa uppajjati. Byāpādavitakko appiye amanāpe satte vā saṅkhāre vā kujjhitvā olokanakālato paṭṭhāya yāva vināsanā uppajjati. Vihiṃsāvitakko saṅkhāresu nuppajjati. Saṅkhāro hi dukkhāpetabbo nāma natthi. Ime sattā haññantu vā ucchijjantu vā vinassantu vā mā vā ahesunti cintanakāle pana sattesu uppajjati.
Suy tầm liên hệ đến (năm) dục là suy tầm về dục. Suy tầm liên hệ đến thù oán là suy tầm về sân. Suy tầm liên hệ đến sự làm tổn hại là suy tầm về hãm hại. Trong các suy tầm này, hai suy tầm sanh lên ở các chúng sanh và ở các hành. Thật vậy, dục tầm sanh khởi khi nghĩ đến các chúng sanh hay các hành đáng yêu, đáng mến. Sân tầm sanh khởi kể từ lúc bực bội rồi nhìn các chúng sanh hay các hành không đáng yêu, không đáng mến cho đến khi thấy (các chúng sanh hay các hành) bị tiêu hoại. Hãm hại tầm không sanh khởi trong các hành. Bởi vì, các hành đáng làm nhân đưa đến sự khổ đau là không có. Nhưng hãm hại tầm sẽ sanh khởi đối với các chúng sanh trong lúc nghĩ rằng: “Các chúng sanh này hãy bị giết, hãy bị đoạn diệt, hãy bị tiêu hoại, hoặc đừng tồn tại.” (5)
Nekkhammapaṭisaṃyutto vitakko nekkhammavitakko. So asubhapubbabhāge kāmāvacaro hoti. Asubhajjhāne rūpāvacaro. Taṃ jhānaṃ pādakaṃ katvā uppannamaggaphalakāle lokuttaro. Abyāpādapaṭisaṃyutto vitakko abyāpādavitakko. So mettāpubbabhāge kāmāvacaro hoti. Mettājhāne rūpāvacaro. Taṃ jhānaṃ pādakaṃ katvā uppannamaggaphalakāle lokuttaro. Avihiṃsāpaṭisaṃyutto vitakko avihiṃsāvitakko. So karuṇāpubbabhāge kāmāvacaro. Karuṇājhāne rūpāvacaro. Taṃ jhānaṃ pādakaṃ katvā uppannamaggaphalakāle lokuttaro. Yadā alobho sīsaṃ hoti, tadā itare dve tadanvāyikā bhavanti. Yadā mettā sīsaṃ hoti, tadā itare dve tadanvāyikā bhavanti. Yadā karuṇā sīsaṃ hoti, tadā itare dve tadanvāyikā bhavantīti. Kāmasaṅkappādayo vuttanayeneva veditabbā. Desanāmattameva hetaṃ. Atthato pana kāmavitakkādīnañca kāmasaṅkappādīnañca nānākaraṇaṃ natthi.
Suy tầm liên hệ đến xuất ly là suy tầm về xuất ly. Suy tầm về xuất ly này là Dục giới ở phần đầu của thiền bất tịnh; là Sắc giới trong thiền bất tịnh. Và là Siêu Thế vào thời điểm Đạo và Quả sanh khởi sau khi lấy thiền đó làm nền tảng. Suy tầm liên hệ đến không thù oán là suy tầm về vô sân. Suy tầm về vô sân này là Dục giới ở phần đầu của thiền tâm từ; là Sắc giới trong thiền tâm từ. Và là Siêu thế vào thời điểm Đạo và Quả sanh khởi sau khi lấy thiền đó làm nền tảng. Suy tầm liên hệ đến sự không làm tổn hại là suy tầm về bất hại. Suy tầm về bất hại là Dục giới ở phần đầu của thiền tâm bi; là Sắc giới trong thiền tâm bi. Và là Siêu thế vào thời điểm Đạo và Quả sanh khởi sau khi lấy thiền đó làm nền tảng. Khi nào vô tham là yếu tố dẫn đầu, khi ấy hai pháp còn lại (vô sân và vô si) cũng sẽ theo sau. Khi nào tâm từ là yếu tố dẫn đầu, khi ấy hai pháp còn lại (tâm bi và tâm hỷ) cũng sẽ theo sau. Khi nào tâm bi là yếu tố dẫn đầu, khi ấy hai pháp còn lại (tâm từ và tâm hỷ) cũng sẽ theo sau tương tự. Suy tư về năm dục, v.v., nên được hiểu theo cách thức đã được giải thích. Bởi vì đây chỉ là một bài giảng mà thôi. Nhưng về mặt ý nghĩa, dục tầm, v.v., và dục tư duy, v.v., không có điều gì làm cho có sự sai khác biệt. (6-8)
Kāmapaṭisaṃyuttā saññā kāmasaññā. Byāpādapaṭisaṃyuttā saññā byāpādasaññā. Vihiṃsāpaṭisaṃyuttā saññā vihiṃsāsaññā. Tāsampi kāmavitakkādīnaṃ viya uppajjanākāro veditabbo. Taṃsampayuttāyeva hi etā. Nekkhammasaññādayopi nekkhammavitakkādisampayuttāyeva. Tasmā tāsampi tatheva kāmāvacarādibhāvo veditabbo.
Tưởng liên hệ đến dục là tưởng về dục. Tưởng liên hệ đến thù oán là tưởng về sân độc. Tưởng liên hệ đến sự làm tổn hại là tưởng về hãm hại. Biểu hiện sanh khởi của các tưởng ấy nên được hiểu tương tự với ‘suy tầm về dục’, v.v. Bởi vì, các tưởng này đều liên hệ đến các ‘suy tầm về dục’, v.v., đó. Luôn cả, ‘tưởng về xuất ly’, v.v., cũng liên hệ đến các ‘suy tầm về xuất ly’, v.v. Do đó, nên được biết trạng thái Dục giới, v.v., của các ‘tưởng’ ấy giống với chính ‘suy tầm về xuất ly,’ v.v., đó. (9-10)
Kāmadhātuādīsu ‘‘kāmapaṭisaṃyutto takko vitakko micchāsaṅkappo. Ayaṃ vuccati kāmadhātu. Sabbepi akusalā dhammā kāmadhātū’’ti ayaṃ kāmadhātu. ‘‘Byāpādapaṭisaṃyutto takko vitakko micchāsaṅkappo. Ayaṃ vuccati byāpādadhātu. Dasasu āghātavatthūsu cittassa āghāto paṭighāto anattamanatā cittassā’’ti ayaṃ byāpādadhātu. ‘‘Vihiṃsā paṭisaṃyutto takko vitakko micchāsaṅkappo. Ayaṃ vuccati vihiṃsādhātu. Idhekacco pāṇinā vā leḍḍunā vā daṇḍena vā satthena vā rajjuyā vā aññataraññatarena vā satte viheṭhetī’’ti ayaṃ vihiṃsādhātu. Tattha dve kathā sabbasaṅgāhikā ca asambhinnā ca. Tattha kāmadhātuyā gahitāya itarā dve gahitāva honti, tato pana nīharitvā ayaṃ byāpādadhātu ayaṃ vihiṃsādhātūti dassetīti ayaṃ sabbasaṅgāhikakathā nāma. Kāmadhātuṃ kathento pana bhagavā byāpādadhātuṃ byāpādadhātuṭṭhāne, vihiṃsādhātuṃ vihiṃsādhātuṭṭhāne ṭhapetvā avasesaṃ kāmadhātu nāmāti kathesīti ayaṃ asambhinnakathā nāma.
Dục giới, v.v, “Suy nghĩ, suy tầm, tà tư duy liên quan đến dục. Đây được gọi là dục giới. Tất cả các bất thiện pháp gọi là dục giới”, (như đã nêu) đây được gọi là dục giới. “Suy nghĩ, suy tầm, tà tư duy liên hệ đến thù oán. Đây được gọi là sân giới. Sự hiềm khích, sự phẫn nộ của tâm, trạng thái không hoan hỷ của tâm về mười sự việc gây oán thù”, (như đã nêu) đó được gọi là sân giới. “Suy nghĩ, suy tầm, tà tư duy liên quan đến hãm hại. Đây được gọi là hại giới. Một số người ở đời này làm tổn hại các chúng sanh bằng tay, bằng cục đất, bằng khúc gỗ, bằng vũ khí, bằng dây thừng, hoặc bằng bất kỳ vật hay hành động nào khác,” (như đã đề cập) đây được gọi là hại giới. Ở đây, có hai ‘lời nói’ là ‘lời nói bao hàm toàn bộ’ và ‘lời nói không pha trộn’. Trong hai lời nói ấy, với sự nắm bắt ‘dục giới’ cũng chính là nắm bắt hai giới còn lại (sân giới và hại giới), nhưng rồi lại tách ‘giới’ ấy trình bày rằng– “Đây là sân giới, đây là hại giới’— (như đã trình bày) đây được gọi là ‘lời nói bao hàm toàn bộ’. Hơn nữa, đức Thế Tôn khi nói về dục giới, đã đặt ‘sân giới’ vào vị trí của ‘sân giới’ và đặt ‘hại giới’ vào vị trí của ‘hại giới’, sau đó chỉ nói phần còn lại – ‘Đây là dục giới’— (như đã nêu) đây được gọi là ‘lời nói không pha trộn’.
Nekkhammadhātuādīsu ‘‘nekkhammapaṭisaṃyutto takko vitakko sammāsaṅkappo. Ayaṃ vuccati nekkhammadhātu. Sabbepi kusalā dhammā nekkhammadhātū’’ti ayaṃ nekkhammadhātu. ‘‘Abyāpādapaṭisaṃyutto takko…pe… ayaṃ vuccati abyāpādadhātu. Yā sattesu metti…pe… mettācetovimuttī’’ti ayaṃ abyāpādadhātu. ‘‘Avihiṃsāpaṭisaṃyutto takko…pe… ayaṃ vuccati avihiṃsādhātu. Yā sattesu karuṇā…pe… karuṇācetovimuttī’’ti ayaṃ avihiṃsādhātu. Idhāpi vuttanayeneva dve kathā veditabbā.
Xuất ly giới, v.v., “Suy nghĩ, suy tầm, chánh tư duy liên quan đến sự xuất ly. Đây được gọi là xuất ly giới. Tất cả các thiện pháp gọi là xuất ly giới”— (như đã nêu) đây được gọi là ‘xuất ly giới’. “Suy nghĩ …nt…chánh tư duy liên quan đến không thù oán, Đây được gọi là vô sân giới. Là sự thân thiện, …nt…trạng thái thân thiện đối với chúng sanh, từ tâm giải thoát,” — (như đã nêu) đây được gọi là ‘vô sân giới’. “Suy nghĩ, suy tầm, …nt…đây được gọi là vô hại giới. Là lòng bi mẫn, …nt… trạng thái thương yêu đối với chúng sanh, bi tâm giải thoát.” — (như đã nêu) đây được gọi là ‘vô hại giới’. Cả hai lời nói này cũng nên được hiểu theo cách đã nói từ trước đó. (12)
Aparāpi tisso dhātuyoti aññāpi suññataṭṭhena tisso dhātuyo. Tāsu ‘‘tattha katamā kāmadhātu? Heṭṭhato avīcinirayaṃ pariyantaṃ karitvā’’ti evaṃ vitthārito kāmabhavo kāmadhātu nāma. ‘‘Heṭṭhato brahmalokaṃ pariyantaṃ karitvā ākāsānañcāyatanupage deve pariyantaṃ karitvā’’ti evaṃ vitthāritā pana rūpārūpabhavā itarā dve dhātuyo. Dhātuyā āgataṭṭhānamhi hi bhavena paricchinditabbā. Bhavassa āgataṭṭhāne dhātuyā paricchinditabbā. Idha bhavena paricchedo kathito. Rūpadhātuādīsu rūpārūpadhātuyo rūpārūpabhavāyeva. Nirodhadhātuyā nibbānaṃ kathitaṃ.
Ba giới-dhātu khác nữa: Thêm ba giới khác nữa với ý nghĩa trống rỗng. Trong số các giới đó, Dục giới được trình bày chi tiết như vầy– “Ở đây, Dục giới là gì? Lấy ranh giới bên dưới là địa ngục Vô Gián (và lấy giới hạn bên trên là chư thiên Tha Hóa Tự Tại)” — (như đã nêu) đó được gọi là Dục giới. Còn hai giới còn lại là Sắc giới và Vô sắc giới đã được giải thích chi tiết như vầy– “(Sắc giới) lấy ranh giới bên dưới là thế giới Phạm Thiên (và lấy giới hạn bên trên là chư thiên Sắc Cứu Cánh). (Vô sắc giới) lấy ranh giới bên dưới là chư thiên đạt đến Không Vô Biên Xứ (và lấy giới hạn bên trên là chư thiên đạt đến Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ).” Thật vậy, ở vị trí đến của các giới, nên xác định ranh giới bằng các hữu. Ở vị trí đến của các hữu, nên xác định ranh giới bằng các giới. Trong trường hợp này, Ngài nói về việc xác định ranh giới bằng các hữu. Sắc giới, v.v., Sắc giới và Vô sắc giới cũng chính là Sắc giới và Vô sắc giới. Ngài nói về Niết Bàn bằng tịch diệt giới. (13-14)
Hīnādīsu hīnā dhātūti dvādasa akusalacittuppādā. Avasesā tebhūmakadhammā majjhimadhātu. Nava lokuttaradhammā paṇītadhātu.
Hạ liệt, v.v., hạ liệt giới bao gồm mười hai bất thiện tâm sanh khởi. Các pháp còn lại vận hành trong ba cõi là ‘trung đẳng giới’. Chín Pháp Siêu Thế là ‘thù thắng giới’. (15)
Kāmataṇhāti pañcakāmaguṇiko rāgo. Rūpārūpabhavesu pana rāgo jhānanikantisassatadiṭṭhisahagato rāgo bhavavasena patthanā bhavataṇhā. Ucchedadiṭṭhisahagato rāgo vibhavataṇhā. Apica ṭhapetvā pacchimaṃ taṇhādvayaṃ sesataṇhā kāmataṇhā nāma. Yathāha ‘‘tattha katamā bhavataṇhā? Bhavadiṭṭhisahagato rāgo sārāgo cittassa sārāgo. Ayaṃ vuccati bhavataṇhā. Tattha katamā vibhavataṇhā? Ucchedadiṭṭhisahagato rāgo sārāgo cittassa sārāgo, ayaṃ vuccati vibhavataṇhā. Avasesā taṇhā kāmataṇhā’’ti. Puna kāmataṇhādīsu pañcakāmaguṇiko rāgo kāmataṇhā. Rūpārūpabhavesu chandarāgo itarā dve taṇhā. Abhidhamme panetā ‘‘kāmadhātupaṭisaṃyutto …pe… arūpadhātupaṭisaṃyutto’’ti evaṃ vitthāritā. Iminā vārena kiṃ dasseti? Sabbepi tebhūmakā dhammā rajanīyaṭṭhena taṇhāvatthukāti sabbataṇhā kāmataṇhāya pariyādiyitvā tato nīharitvā itarā dve taṇhā dasseti. Rūpataṇhādīsu rūpabhave chandarāgo rūpataṇhā. Arūpabhave chandarāgo arūpataṇhā. Ucchedadiṭṭhisahagato rāgo nirodhataṇhā.
Dục giới: sự luyến ái về năm loại dục. Còn sự luyến ái trong Sắc giới và Vô sắc giới là Ái thiền lạc (sự dính mắc trong thiền), sự luyến ái liên hệ đến thường kiến, tức là sự ước muốn do tác động của Hữu, được gọi là Hữu ái. Sự luyến ái đi chung với đoạn kiến được gọi là Phi Hữu ái. Tuy nhiên, ngoại trừ hai loại tham ái sau (tức là Hữu ái và Phi Hữu ái), các tham ái còn lại được gọi là Dục ái. Như đã nói– “Ở đây, Hữu ái là gì? Sự ái luyến đi chung với Hữu kiến, sự luyến ái mãnh liệt …nt… sự luyến ái mãnh liệt của tâm. Đây gọi là Hữu ái. Ở đây, Phi Hữu ái là gì? Sự luyến ái đi chung với đoạn kiến, sự luyến ái mãnh liệt …nt… sự luyến ái của tâm. Đây gọi là Phi Hữu ái. Tham ái còn lại gọi là Dục ái”. Hơn nữa, Dục ái, v.v., sự luyến ái về năm loại dục là Dục ái. Hai tham ái ngoài ra (Sắc ái và Vô sắc ái) là sự mong muốn và luyến ái trong Sắc giới và Vô sắc giới. Còn trong Abhidhamma được giải thích chi tiết như vầy– “Sự mong muốn và luyến ái có liên quan đến Dục giới …nt… có liên quan đến Vô sắc giới.” Với phần này, Ngài thuyết giảng như thế nào? Sau khi đã trấn áp tất cả các tham ái bởi sự tham ái về dục rằng– ‘Tất cả các pháp vận hành trong Ba cõi có nền tảng là tham ái với ý nghĩa đưa đến sự luyến ái. Sau đó, Ngài thuyết hai tham ái còn lại (Sắc ái và Vô sắc ái) tách khỏi Dục ái. Sắc ái, v.v., sự mong muốn và luyến ái ở cõi Sắc là Sắc ái. Sự mong muốn và luyến ái ở cõi Vô sắc là Vô sắc ái. Sự luyến ái đi chung với đoạn kiến là tịch diệt ái. (16-17-18)
Saṃyojanattike vaṭṭasmiṃ saṃyojayanti bandhantīti saṃyojanāni. Sati rūpādibhede kāye diṭṭhi, vijjamānā vā kāye diṭṭhīti sakkāyadiṭṭhi. Vicinanto etāya kicchati, na sakkoti sanniṭṭhānaṃ kātunti vicikicchā. Sīlañca vatañca parāmasatīti sīlabbataparāmāso. Atthato pana ‘‘rūpaṃ attato samanupassatī’’tiādinā nayena āgatā vīsativatthukā diṭṭhi sakkāyadiṭṭhi nāma. ‘‘Satthari kaṅkhatī’’tiādinā nayena āgatā aṭṭhavatthukā vimati vicikicchā nāma. ‘‘Idhekacco sīlena suddhi vatena suddhi sīlabbatena suddhīti sīlaṃ parāmasati, vataṃ parāmasati, sīlabbataṃ parāmasati. Yā evarūpā diṭṭhi diṭṭhigata’’ntiādinā nayena āgato vipariyesaggāho sīlabbataparāmāso nāma.
Nên biết lý giải về ba sự ràng buộc– sự ràng buộc với ý nghĩa ràng buộc, trói buộc trong luân hồi. Cái thấy trong thân chẳng hạn như có sắc, v.v, hoặc cái thấy trong thân có sự tồn tại được gọi là sự nhận thức sai trái về thân. Con người khi đang suy xét, lựa chọn, (sẽ) nghi ngờ, không thể đi đến kết luận, được gọi là sự hoài nghi. Người bám víu vào giới và phận sự gọi là sự bám víu vào giới và phận sự. Tuy nhiên, về mặt ý nghĩa, tà kiến với hai mươi nền tảng đã đến theo cách thức sau– “nhận thấy sắc là tự ngã” gọi là sự nhận thức sai trái về thân. Sự nghi ngờ với tám nền tảng đã đến theo cách thức sau– “Sự nghi ngờ đối với bậc Đạo Sư, v.v,” gọi là sự hoài nghi. Sự nắm lấy điều trái khoáy đã đến theo cách thức sau– “Một số người ở đời này bám víu vào giới, bám víu vào phận sự, bám víu vào giới và phận sự rằng ‘sự trong sạch về giới, sự trong sạch về phận sự, sự trong sạch về giới và phận sự’. Quan điểm nào có hình thức như vậy là sự đi đến tà kiến, v.v.,” được gọi là sự bám víu vào giới và phận sự. (19)
Tayoāsavāti ettha cirapārivāsiyaṭṭhena vā āsavanaṭṭhena vā āsavā. Tattha ‘‘purimā, bhikkhave, koṭi na paññāyati avijjāya, ito pubbe avijjā nāhosi, atha pacchā samabhavī’’ti, ‘‘purimā, bhikkhave, koṭi na paññāyati bhavataṇhāya bhavadiṭṭhiyā, ito pubbe bhavadiṭṭhi nāhosi, atha pacchā samabhavī’’ti evaṃ tāva cirapārivāsiyaṭṭhena āsavā veditabbā. Cakkhuto rūpe savati āsavati sandati pavattati. Sotato sadde. Ghānato gandhe. Jivhāto rase. Kāyato phoṭṭhabbe. Manato dhamme savati āsavati sandati pavattatīti evaṃ āsavanaṭṭhena āsavāti veditabbā.
Ba lậu hoặc– ở đây, lậu hoặc với ý nghĩa là nơi trú lâu dài, hoặc với ý nghĩa là tuôn tràn. Trong hai ý nghĩa ấy, nên biết lậu hoặc với ý nghĩa là nơi trú lâu dài như vầy– “Này các Tỳ-khưu, điểm mốc đầu tiên của vô minh không được nhận biết: ‘Từ đây trở về trước, vô minh đã không hiện hữu, rồi sau đó mới hiện hữu”, “này các Tỳ-khưu, điểm mốc đầu tiên, điểm mốc đầu tiên của Hữu ái, Hữu kiến đã không hiện hữu: ‘Từ đây trở về trước, Hữu kiến không hiện hữu, rồi sau đó mới hiện hữu”. Nên biết lậu hoặc với ý nghĩa tuôn tràn như vầy rằng: “Từ con mắt chúng tuôn tràn, chảy xuống, tuôn chảy, chảy liên tục ở sắc. Từ lỗ tai –nt– ở thinh. Từ lỗ mũi –nt– ở hương. Từ lưỡi –nt– ở vị. Từ thân –nt– ở xúc. Từ ý chúng tuôn tràn, chảy xuống, tuôn chảy, chảy liên tục ở pháp;
Pāḷiyaṃ pana katthaci dve āsavā āgatā ‘‘diṭṭhadhammikā ca āsavā samparāyikā ca āsavā’’ti, katthaci ‘‘tayome, bhikkhave, āsavā. Kāmāsavo bhavāsavo avijjāsavo’’ti tayo. Abhidhamme teyeva diṭṭhāsavena saddhiṃ cattāro. Nibbedhikapariyāye ‘‘atthi, bhikkhave, āsavā nirayagāminiyā, atthi āsavā tiracchānayonigāminiyā, atthi āsavā pettivisayagāminiyā, atthi āsavā manussalokagāminiyā atthi āsavā devalokagāminiyā’’ti evaṃ pañca. Chakkanipāte āhuneyyasutte ‘‘atthi, bhikkhave, āsavā saṃvarā pahātabbā, atthi āsavā paṭisevanā pahātabbā, atthi āsavā parivajjanā pahātabbā, atthi āsavā adhivāsanā pahātabbā, atthi āsavā vinodanā pahātabbā, atthi āsavā bhāvanā pahātabbā’’ti evaṃ cha. Sabbāsavapariyāye teyeva dassanāpahātabbehi saddhiṃ satta. Imasmiṃ pana saṅgītisutte tayo. Tattha ‘‘yo kāmesu kāmacchando’’ti evaṃ vutto pañcakāmaguṇiko rāgo kāmāsavo nāma. ‘‘Yo bhavesu bhavacchando’’ti evaṃ vutto sassatadiṭṭhisahagato rāgo, bhavavasena vā patthanā bhavāsavo nāma. ‘‘Dukkhe aññāṇa’’ntiādinā nayena āgatā avijjā avijjāsavo nāmāti. Kāmabhavādayo kāmadhātuādivasena vuttāyeva.
Tuy nhiên, trong một số đoạn Pāli, lậu hoặc có đến 2 loại: “lậu hoặc ở hiện tại và lậu hoặc ở tương lai”. Một số đoạn khác có đến 3 loại: “Này các Tỳ-khưu, có ba lậu hoặc này: Dục lậu, Hữu lậu, và Vô minh lậu.” Trong Abhidhamma, chính ba lậu hoặc đó, cộng thêm Kiến lậu, thành 4 lậu hoặc. Kinh Nibbedhikapariyāya có năm như vầy– “Này các Tỳ-khưu, có các lậu hoặc đưa đến địa ngục, có các lậu hoặc đưa đến bàng sanh, có các lậu hoặc đưa đến ngạ quỷ, có các lậu hoặc đưa đến thế giới loài người, có các lậu hoặc đưa đến thế giới chư Thiên.” Trong bài Kinh Āhuneyya, Chương Sáu Pháp có sáu như vầy– “Này các Tỳ-khưu, có các lậu hoặc cần được dứt bỏ do sự thu thúc, có các lậu hoặc cần được dứt bỏ do thọ dụng, có các lậu hoặc cần được dứt bỏ do xa lánh, có các lậu hoặc cần được dứt bỏ do chấp nhận, có các lậu hoặc cần được dứt bỏ do loại trừ, có các lậu hoặc cần được dứt bỏ do tu tập.” Bài Kinh Sabbāsavapariyāya, chính sáu lậu hoặc này cộng thêm lậu hoặc cần phải dứt bỏ do tri kiến, thành bảy. Còn trong bài Kinh Hợp Tụng này, lậu hoặc có ba loại. Trong số ba lậu hoặc, sự luyến ái có liên quan đến năm loại dục được nói như vầy “sự mong muốn về dục trong các dục” gọi là Dục lậu. Sự luyến ái đi chung với thường kiến được nói như vầy “Sự mong muốn về hữu trong các hữu” hoặc sự ước muốn trong các hữu gọi là Hữu lậu. Vô minh đã đề cập theo cách thức sau– “sự không biết về Khổ” gọi là Vô minh. Dục hữu v.v., đã được trình bày do tác động Dục giới, v.v. (20-21)
Kāmesanādīsu ‘‘tattha katamā kāmesanā? Yo kāmesu kāmacchando kāmajjhosānaṃ, ayaṃ vuccati kāmesanā’’ti evaṃ vutto kāmagavesanarāgo kāmesanā nāma. ‘‘Tattha katamā bhavesanā? Yo bhavesu bhavacchando bhavajjhosānaṃ, ayaṃ vuccati bhavesanā’’ti evaṃ vutto bhavagavesanarāgo bhavesanā nāma. ‘‘Tattha katamā brahmacariyesanā? Sassato lokoti vā…pe… neva hoti na nahoti tathāgato parammaraṇāti vā, yā evarūpā diṭṭhi diṭṭhigataṃ vipariyesaggāho, ayaṃ vuccati brahmacariyesanā’’ti evaṃ vuttā diṭṭhigatikasammatassa brahmacariyassa gavesanadiṭṭhi brahmacariyesanā nāma. Na kevalañca bhavarāgadiṭṭhiyova, tadekaṭṭhaṃ kammampi esanāyeva. Vuttañhetaṃ ‘‘tattha katamā kāmesanā? Kāmarāgo tadekaṭṭhaṃ akusalaṃ kāyakammaṃ vacīkammaṃ manokammaṃ, ayaṃ vuccati kāmesanā. Tattha katamā bhavesanā? Bhavarāgo tadekaṭṭhaṃ akusalaṃ kāyakammaṃ vacīkammaṃ manokammaṃ, ayaṃ vuccati bhavesanā. Tattha katamā brahmacariyesanā? Antaggāhikā diṭṭhi tadekaṭṭhaṃ akusalaṃ kāyakammaṃ vacīkammaṃ manokammaṃ, ayaṃ vuccati brahmacariyesanā’’ti.
Sự tầm cầu về dục, v.v, sự luyến ái do tầm cầu về dục được nói như vầy – “Ở đây, sự tầm cầu về dục là gì? (ô nhiễm dục) là sự mong muốn về dục, sự bám chặt vào dục, đây gọi là sự tầm cầu về dục.” Sự luyến ái do tầm cầu về các hữu được nói như vầy– “Ở đây, sự tầm cầu về các hữu là gì? sự mong muốn về hữu ở các hữu, sự bám chặt vào hữu, đây được gọi là sự tầm cầu về các hữu.” Sự thấy trong sự tầm cầu về Phạm hạnh của sự chấp nhận quan điểm đúng đắn được nói như vầy– “Ở đây, sự tầm cầu về Phạm hạnh? Thế giới là thường còn … hay ‘Có phải đức Như Lai không hiện hữu và không phải là không hiện hữu ở nơi khác sau khi chết?’ Quan điểm nào có hình thức như vậy là sự đi đến tà kiến sự nắm lấy điều trái khoáy, đây được gọi là sự tầm cầu về Phạm hạnh.” Và không chỉ riêng Hữu ái và Hữu kiến, ngay cả nghiệp có chung một ý nghĩa ấy cũng được xem là sự tầm cầu. Bởi vì việc này đã được rằng– “Ở đây, sự tầm cầu về dục là gì? Sự luyến ái về dục, thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp là bất thiện có chung một ý nghĩa ấy, đây gọi là sự tầm cầu về dục; Ở đây, sự tầm cầu về các hữu là gì? Sự luyến ái về các hữu, thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp là bất thiện có chung một ý nghĩa, đây được gọi là sự tầm cầu về các hữu; Ở đây, sự tầm cầu về Phạm hạnh? Hữu biên kiến, thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp là bất thiện có chung một ý nghĩa, đây gọi là sự tầm cầu về Phạm hạnh.” (22)
Vidhāsu ‘‘kathaṃvidhaṃ sīlavantaṃ vadanti, kathaṃvidhaṃ paññavantaṃ vadantī’’tiādīsu (saṃ. ni. 1.95) ākārasaṇṭhānaṃ vidhā nāma. ‘‘Ekavidhena ñāṇavatthu duvidhena ñāṇavatthū’’tiādīsu (vibha. 751) koṭṭhāso. ‘‘Seyyohamasmīti vidhā’’tiādīsu (vibha. 920) māno vidhā nāma. Idha so adhippeto. Māno hi seyyādivasena vidahanato vidhāti vuccati. Seyyohamasmīti iminā seyyasadisahīnānaṃ vasena tayo mānā vuttā. Sadisahīnesupi eseva nayo.
Loại (ngã mạn), v.v., sự thiết lập các biểu hiện như trong câu– “Các vị sáng suốt gọi hạng người có biểu hiện như thế nào là vị có giới hạnh? các vị sáng suốt gọi hạng người có biểu hiện như thế nào là vị có trí tuệ, v.v.,?” được gọi là vidhā (saṃ. ni. 1.95); Phần gọi là vidhā, như trong câu– “Trí là nền tảng với một phần, trí là nền tảng với hai phần, v.v.,” (vibha. 751); ngã mạn gọi là ‘vidhā’, như trong câu– “Loại (ngã mạn) (nghĩ rằng): ‘Ta là tốt hơn, v.v.,’” Từ ‘vidhā’ được đề cập trong trường hợp này là ‘ngã mạn’. Thật vậy, ngã mạn được gọi là ‘vidhā’ vì được sắp xếp do tác động (nghĩ rằng) “Ta là tốt hơn, v.v.” “Ta là tốt hơn” điều này Ngài nói đến ba ngã mạn: “Tốt hơn, tương đương, và kém cỏi hơn.” Ngay cả trong loại ngã mạn: ‘ta là ngang bằng’ và loại ngã mạn: ‘ta là thua kém’ cũng có cách thức tương tự.
Ayañhi māno nāma seyyassa tividho, sadisassa tividho, hīnassa tividhoti navavidho hoti. Tattha ‘‘seyyassa seyyohamasmī’’ti māno rājūnañceva pabbajitānañca uppajjati.
Bởi vì, ngã mạn này có chín loại là– ‘Ta là tốt hơn’ có ba, ‘ta là tương đương’ có ba, ‘ta là kém cỏi hơn’ có ba. Trong chín loại ngã mạn ấy, (nghĩ rằng) “Ta là tốt hơn so với người tốt hơn” là ngã mạn sanh khởi ở các vị vua và các vị xuất gia.
Rājā hi raṭṭhena vā dhanavāhanehi vā ‘‘ko mayā sadiso atthī’’ti etaṃ mānaṃ karoti. Pabbajitopi sīladhutaṅgādīhi ‘‘ko mayā sadiso atthī’’ti etaṃ mānaṃ karoti. ‘‘Seyyassa sadisohamasmī’’ti mānopi etesaṃyeva uppajjati. Rājā hi raṭṭhena vā dhanavāhanehi vā aññarājūhi saddhiṃ mayhaṃ kiṃ nānākaraṇanti etaṃ mānaṃ karoti. Pabbajitopi sīladhutaṅgādīhipi aññena bhikkhunā mayhaṃ kiṃ nānākaraṇanti etaṃ mānaṃ karoti. ‘‘Seyyassa hīnohamasmī’’ti mānopi etesaṃyeva uppajjati. Yassa hi rañño raṭṭhaṃ vā dhanavāhanādīni vā nātisampannāni honti, so mayhaṃ rājāti vohāramukhamattameva, kiṃ rājā nāma ahanti etaṃ mānaṃ karoti. Pabbajitopi appalābhasakkāro ahaṃ dhammakathiko bahussuto mahātheroti kathāmattakameva, kiṃ dhammakathiko nāmāhaṃ kiṃ bahussuto kiṃ mahāthero yassa me lābhasakkāro natthīti etaṃ mānaṃ karoti.
Thật vậy, các vị vua làm cho ngã mạn (sanh khởi) như sau: “Có ai là sánh bằng ta? dù là về lãnh thổ, tài sản, quân đội hoặc về các phương tiện?” Đối với người xuất gia làm cho sự ngã mạn (sanh khởi) như thế này: “Có ai là ngang bằng ta” dù là về giới đức và (mười ba) hạnh đầu đà, v.v.?” Ngay cả khi ngã mạn (nghĩ rằng) “Ta là ngang bằng so với người tốt hơn” cũng khởi lên nơi chính các vị ấy. Các vị vua làm cho ngã mạn (sanh khởi) như vầy: “Có gì khác biệt giữa ta với các vị vua khác, dù là về lãnh thổ, tài sản, quân đội hay về các phương tiện?” Còn đối với người xuất gia làm cho ngã mạn (sanh khởi) như thế này: “Có gì khác biệt giữa Ta với các Tỳ-khưu khác, dù là về giới đức hay (mười ba) hạnh đầu đà, v.v.?” Ngay cả ngã mạn (nghĩ rằng) “Ta là thua kém so với người tốt hơn” cũng khởi lên nơi chính các vị ấy tương tự. Bởi vì, vị vua nào có lãnh thổ, tài sản, quân đội hay về các phương tiện, v.v., không quá đầy đủ. (Vị ấy) làm cho ngã mạn này (sanh khởi) như sau– “Việc gọi ta là ‘vua’ chỉ là một sự diễn tả mà thôi, liệu người như tôi được gọi là vua sao?’” Còn người xuất gia có ít lợi lộc, ít sự trọng vọng, làm cho ngã mạn khởi lên như sau: “Người ấy cũng chỉ gọi tôi là vị thuyết giảng Giáo Pháp, vị đa văn, vị Đại Trưởng lão thế thôi, chứ người như tôi không có lợi lộc, không có sự trọng vọng thì làm sao gọi là vị thuyết giảng Giáo Pháp, vị đa văn, vị Đại Trưởng lão?”
‘‘Sadisassa seyyohamasmī’’ti mānādayo amaccādīnaṃ uppajjanti. Amacco vā hi raṭṭhiyo vā bhogayānavāhanādīhi ko mayā sadiso añño rājapuriso atthīti vā mayhaṃ aññehi saddhiṃ kiṃ nānākaraṇanti vā amaccoti nāmameva mayhaṃ, ghāsacchādanamattampi me natthi, kiṃ amacco nāmāhanti vā ete māne karoti. ‘
Ngã mạn, v.v., (nghĩ rằng) “Ta là tốt hơn so với người ngang bằng” sanh khởi đối với các viên quan đại thần hay viên chức hoàng gia làm cho ngã mạn (sanh khởi) như sau: “Các viên quan khác có ai là ngang bằng ta, dù là về tài sản hay về phương tiện, v.v.?” (ngã mạn nghĩ rằng): “Có gì khác biệt giữa tôi với những người khác?” (ngã mạn nghĩ rằng): “Người ấy chỉ gọi tôi là quan đại thần như thế thôi, ngay cả thức ăn và quần áo tôi cũng không có, thì người như tôi làm sao gọi là quan đại thần?”
‘Hīnassa seyyohamasmī’’ti mānādayo dāsādīnaṃ uppajjanti. Dāso hi mātito vā pitito vā ko mayā sadiso añño dāso nāma atthi, aññe jīvituṃ asakkontā kucchihetu dāsā jātā, ahaṃ pana paveṇīāgatattā seyyoti vā paveṇīāgatabhāvena ubhatosuddhikadāsattena asukadāsena nāma saddhiṃ kiṃ mayhaṃ nānākaraṇanti vā kucchivasenāhaṃ dāsabya upagato, mātāpitukoṭiyā pana me dāsaṭṭhānaṃ natthi, kiṃ dāso nāma ahanti vā ete māne karoti. Yathā ca dāso, evaṃ pukkusacaṇḍālādayopi ete māne karontiyeva.
Ngã mạn, v.v., (nghĩ rằng) “Ta là tốt hơn so với người thua kém” sanh khởi đối với những người hầu, v.v. Bởi vì, người hầu làm cho ngã mạn (sanh khởi) như vầy: “Người hầu khác, có ai là ngang bằng với ta,’ dù là nội tổ hay ngoại tổ? Những người khác không thể tự nuôi sống (bản thân) nên mới phải làm người hầu, nhưng tôi đây là tốt hơn do trạng thái truyền thừa từ dòng dõi.’” (ngã mạn nghĩ rằng): “Có gì khác biệt giữa tôi với người hầu kia, dù là bản thể người hầu được truyền thừa từ dòng dõi hoặc với bản thể là người hầu thực sự cả nội tổ lẫn ngoại tổ?’ (ngã mạn nghĩ rằng): “Tôi phải làm người hầu cũng vì miếng cơm manh áo, nhưng xét đến nguồn gốc tổ tiên, tôi không có địa vị là người hầu, người như tôi làm sao gọi là người hầu?” Và người hầu như thế nào, cả những người đổ rác và những người hạ tiện cũng làm cho ngã mạn (sanh khởi) tương tự như vậy.
Ettha ca seyyassa seyyohamasmīti, ca sadisassa sadisohamasmīti ca hīnassa hīnohamasmīti ca ime tayo mānā yāthāvamānā nāma arahattamaggavajjhā. Sesā cha mānā ayāthāvamānā nāma paṭhamamaggavajjhā.
Trong các loại ngã mạn này, (ngã mạn nghĩ rằng) ‘ta là tốt hơn so với người tốt hơn’, và ‘ta là ngang bằng so với người ngang bằng’, và ‘ta là thua kém so với người thua kém’, cả ba loại này được gọi là ‘sự ngã mạn xác đáng’, và được sát trừ bằng A-ra-hán Đạo. Sáu loại ngã mạn còn lại được gọi là ‘ngã mạn không xác đáng’, và được sát trừ bằng Sơ Đạo. (23)
Tayo addhāti tayo kālā. Atīto addhātiādīsu dvepariyāyā suttantapariyāyo ca abhidhammapariyāyo ca. Suttantapariyāyena paṭisandhito pubbe atīto addhā nāma. Cutito pacchā anāgato addhā nāma. Saha cutipaṭisandhīhi tadantaraṃ paccuppanno addhā nāma. Abhidhammapariyāyena tīsu khaṇesu bhaṅgato uddhaṃ atīto addhā nāma. Uppādato pubbe anāgatoaddhā nāma. Khaṇattaye paccuppanno addhā nāma. Atītādibhedo ca nāma ayaṃ dhammānaṃ hoti, na kālassa. Atītādibhede pana dhamme upādāya idha paramatthato avijjamānopi kālo teneva vohārena vuttoti veditabbo.
Tayo addhā: ba thời. Thời quá khứ: có hai phương pháp là theo phương pháp ở Tạng Kinh, và theo phương pháp ở Tạng Abhidhamma. Theo phương pháp ở Tạng Kinh, trước lúc tục sanh gọi là thời quá khứ. Sau khi chết gọi là thời vị lai. Ở khoảng giữa thời gian đó (thời quá khứ và thời vị lai), cùng với sự tử và sự tục sanh được gọi là thời hiện tại. Theo phương pháp ở Tạng Abhidhamma, trong ba sát-na, phía trước từ sát-na hộ-kiếp gọi là thời quá khứ. Trước sát-na sanh gọi là thời vị lai. Trong cả ba sát-na gọi là thời hiện tại. Và có sự khác biệt là thời quá khứ, v.v., này là của các pháp, chứ không phải của thời gian. Nhưng y cứ vào các pháp trong sự khác biệt ở thời quá khứ, v.v., ở đây thời gian dù không tồn tại theo ý nghĩa tuyệt đối (Chân Đế), vẫn được gọi (là thời quá khứ, v.v.) thông qua chính sự diễn tả (vohāra), nên được hiểu theo cách đã nói. (24)
Tayo antāti tayo koṭṭhāsā. ‘‘Kāyabandhanassa anto jīratī’’tiādīsu (cūḷava. 278) hi antoyeva anto. ‘‘Esevanto dukkhassā’’tiādīsu (saṃ. ni. 2.51) parabhāgo anto. ‘‘Antamidaṃ, bhikkhave, jīvikāna’’nti (saṃ. ni. 3.80) ettha lāmakabhāvo anto. ‘‘Sakkāyo kho, āvuso, paṭhamo anto’’tiādīsu (a. ni. 6.61) koṭṭhāso anto. Idha koṭṭhāso adhippeto. Sakkāyoti pañcupādānakkhandhā. Sakkāyasamudayoti tesaṃ nibbattikā purimataṇhā. Sakkāyanirodhoti ubhinnaṃ appavattibhūtaṃ nibbānaṃ. Maggo pana nirodhādhigamassa upāyattā nirodhe gahite gahitovāti veditabbo.
Tayo antā: Ba phạm trù. ‘Bờ, mép’ gọi là ‘anta’ như trong câu– “Mép của dây thắt lưng bị sờn” (cūḷava. 278); ‘phần khác’ gọi là ‘anta’ như trong câu– “Đó là một phần khác của sự chấm dứt của khổ.” (saṃ. ni. 2.51); Ở đây, ‘tính chất thấp hèn’ gọi là ‘anta’ như trong câu– “Này các Tỳ-khưu, việc này là tận cùng trong các việc nuôi mạng (tức là sự khất thực).” (saṃ. ni. 3.80); ‘phạm trù’ gọi là ‘anta’ như trong câu– “Này các Đại đức, thân kiến là một cực đoan.’ (a. ni. 6.61); Trong trường hợp này, ‘anta’ có ý đề cập đến ‘phạm trù’. Thân này: Ngũ thủ uẩn. Sự sanh lên của thân này: tham ái đầu tiên là nguyên nhân tạo ra ngũ thủ uẩn đó. Sự tịch diệt của thân này: Trạng thái không vận hành của cả hai (ngũ thủ uẩn và tham ái đầu tiên) là sự tịch diệt (Niết Bàn). Còn về Đạo nên được biết rằng trong khi nói đến sự diệt tận, cũng chính là đã được đề cập đến Đạo, bởi vì đó là đường lối của việc đạt được sự diệt tận. (25)
Dukkhadukkhatāti dukkhabhūtā dukkhatā. Dukkhavedanāyetaṃ nāmaṃ. Saṅkhāradukkhatāti saṅkhārabhāvena dukkhatā. Adukkhamasukhāvedanāyetaṃ nāmaṃ. Sā hi saṅkhatattā uppādajarābhaṅgapīḷitā, tasmā aññadukkhasabhāvavirahato saṅkhāradukkhatāti vuttā. Vipariṇāmadukkhatāti vipariṇāme dukkhatā. Sukhavedanāyetaṃ nāmaṃ. Sukhassa hi vipariṇāme dukkhaṃ uppajjati, tasmā sukhaṃ vipariṇāmadukkhatāti vuttaṃ. Apica ṭhapetvā dukkhavedanaṃ sukhavedanañca sabbepi tebhūmakā dhammā ‘‘sabbe saṅkhārā dukkhā’’ti vacanato saṅkhāradukkhatāti veditabbā.
Trạng thái khổ do thọ khổ: Trạng thái khổ là thực tính khó kham nhẫn. Đây gọi là ‘thọ khổ’. Trạng thái khổ do các hành: Trạng thái khổ vì tính chất các hành. Đây gọi là ‘không khổ không lạc’. Trạng thái khổ do các hành bị chi phối bởi sự sanh, sự già, và sự hoại diệt vì tính chất bị tạo tác. Vì thế, Ngài mới nói trạng thái khổ do các hành nhờ thoát khỏi bản chất thật của các khổ khác. Trạng thái khổ do sự biến đổi: Trạng thái khổ do sự thay đổi. Đây gọi là ‘thọ lạc’. Thật vậy, do sự an lạc bị biến đổi, nên khổ đau mới sanh khởi. Do đó, sự an lạc được gọi là trạng thái khổ do sự biến đổi. Và hơn nữa, ngoại trừ thọ khổ và thọ lạc, thì các pháp vận hành trong ba cõi, nên được hiểu là ‘trạng thái khổ do các hành’ theo Chánh-văn Pāḷī như sau– “Tất cả các hành là khổ”. (27)
Micchattaniyatoti micchāsabhāvo hutvā niyato. Niyatamicchādiṭṭhiyā saddhiṃ ānantariyakammassetaṃ nāmaṃ. Sammāsabhāve niyato sammattaniyato. Catunnaṃ ariyamaggānametaṃ nāmaṃ. Na niyatoti aniyato. Avasesānaṃ dhammānametaṃ nāmaṃ.
(Nhóm) đã được xác định có tính chất sai trái: Có tính chất sai trái đã được chắc chắn. Đây gọi là ‘nghiệp vô gián’ cùng với ‘tà kiến cố định’. (Nhóm) đã được xác định có tính chất đúng đắn: đã được xác định trong tính chất đúng đắn. Đây là tên gọi của Bốn Thánh Đạo. Không được xác định: do không được xác định. Đây là tên gọi của các pháp còn lại. (28)
Tayo tamāti ‘‘tamandhakāro sammoho avijjogho mahābhayo’’ti vacanato avijjā tamo nāma. Idha pana avijjāsīsena vicikicchā vuttā. Ārabbhāti āgamma. Kaṅkhatīti kaṅkhaṃ uppādeti. Vicikicchatīti vicinanto kicchaṃ āpajjati, sanniṭṭhātuṃ na sakkoti. Nādhimucchatīti tattha adhimucchituṃ na sakkoti. Na sampasīdatīti taṃ ārabbha pasādaṃ āropetuṃ na sakkoti.
Vô minh gọi là sự tăm tối trong câu ‘có ba sự tăm tối’– được trình bày trong Pāḷī rằng: “bóng đen tăm tối là sự mê muội, sự lôi cuốn vào vô minh, có nỗi sợ hãi lớn lao”. Nhưng ở đây, hoài nghi được nói đến dưới đầu đề là vô minh. Ārabbhā đồng nghĩa với āgamma (đi đến hoặc nương vào). Nghi ngờ: làm cho sanh khởi sự nghi ngờ. Hoài nghi: khi đang lựa chọn rơi vào trạng thái lưỡng lự, không thể đưa ra quyết định. Không quả quyết: Không thể quả quyết vào lúc ấy. Không tịnh tín: Không thể đặt niềm tin vào thời điểm đó. (29)
Arakkheyyānīti na rakkhitabbāni. Tīsu dvāresu paccekaṃ rakkhaṇakiccaṃ natthi, sabbāni satiyā eva rakkhitānīti dīpeti. Natthi tathāgatassāti ‘‘Idaṃ nāma me sahasā uppannaṃ kāyaduccaritaṃ, imāhaṃ yathā me paro na jānāti, tathā rakkhāmi, paṭicchādemī’’ti evaṃ rakkhitabbaṃ natthi tathāgatassa kāyaduccaritaṃ. Sesesupi eseva nayo. Kiṃ pana sesakhīṇāsavānaṃ kāyasamācārādayo aparisuddhāti? No aparisuddhā. Na pana tathāgatassa viya parisuddhā. Appassutakhīṇāsavo hi kiñcāpi lokavajjaṃ nāpajjati, paṇṇattiyaṃ pana akovidattā vihārakāraṃ kuṭikāraṃ sahagāraṃ sahaseyyanti evarūpā kāyadvāre āpattiyo āpajjati. Sañcarittaṃ padasodhammaṃ uttarichappañcavācaṃ bhūtārocananti evarūpā vacīdvāre āpattiyo āpajjati. Upanikkhittasādiyanavasena manodvāre rūpiyappaṭiggāhaṇāpattiṃ āpajjati, dhammasenāpatisadisassāpi hi khīṇāsavassa manodvāre saupārambhavasena manoduccaritaṃ uppajjati eva.
Không cần hộ trì: không cần phòng hộ. Ngài giải thích rằng– không có bất kỳ phận sự cần phòng hộ riêng lẻ ở ba môn (thân, khẩu, ý), tất cả đều được phòng hộ hoàn toàn bằng niệm. Đức Như Lai không có…: Đức Như Lai không có uế hạnh về thân cần phải phòng hộ như vầy– “Uế hạnh về thân này đã sanh khởi do sự thiếu cẩn trọng của ta. Người khác không biết điều này của tôi như thế nào, ta (sẽ) phòng hộ như thế ấy, tức là (sẽ) che đậy.” Những lời còn lại cũng có phương thức này tương tự. Các bậc Lậu Tận khác, có thân hành, v.v., không thanh tịnh hay sao? Không phải không thanh tịnh. Chỉ là sự thanh tịnh (của các vị ấy) không ngang bằng của đức Như Lai. Bởi vì, bậc Lậu Tận ít nghe (so với đức Thế Tôn), tuy không vi phạm những tội lỗi đối với thế gian (những tội đáng bị người đời chê trách), nhưng do không rành rẽ về sự quy định, vi phạm ở lộ thân môn như xây dựng tịnh xá, xây dựng am cốc (sai phạm quy định), sống chung nhà, ngủ chung giường (với người chưa tu lên bậc trên, v.v.). Cũng có thể vi phạm ở lộ khẩu môn như làm việc môi giới, đọc pháp theo từng câu, nói quá năm-sáu lời, tuyên bố sự thực chứng, v.v.. Vi phạm lỗi lầm vì nhận lãnh tiền bạc ở ý môn do tác động sự hoan hỷ về tiền bạc mà người ấy cất giữ cho chính mình. Ngay cả một bậc Lậu Tận vĩ đại như Tướng quân Chánh pháp Sāriputta cũng khởi lên uế hạnh về ý, do tác động sự quở trách ở ý môn.
Cātumavatthusmiñhi pañcahi bhikkhusatehi saddhiṃ sāriputtamoggallānānaṃ paṇāmitakāle tesaṃ atthāya cātumeyyakehi sakyehi bhagavati khamāpite thero bhagavatā ‘‘kinti te sāriputta ahosi mayā bhikkhusaṅghe paṇāmite’’ti puṭṭho ahaṃ parisāya abyattabhāvena satthārā paṇāmito. Ito dāni paṭṭhāya paraṃ na ovadissāmīti cittaṃ uppādetvā āha ‘‘evaṃ kho me, bhante, ahosi bhagavatā bhikkhusaṅgho paṇāmito, appossukko dāni bhagavā diṭṭhadhammasukhavihāraṃ anuyutto viharissati, mayampi dāni appossukkā diṭṭhadhammasukhavihāraṃ anuyuttā viharissāmā’’ti.
(Điều này xảy ra) khi các vị dòng Sakya ở tại Cātumā xin Đức Thế Tôn tha thứ vì lợi ích của Trưởng lão Sāriputta và Trưởng lão Mahāmoggallāna vào lúc quở trách hai vị ấy cùng với năm trăm vị Tỳ-khưu khác trong câu chuyện tại Cātumā. Trưởng lão được đức Thế Tôn hỏi rằng: “Này Sāriputta, ngươi nghĩ gì khi Hội chúng Tỳ-khưu bị Ta quở trách?” – Trưởng lão Sāriputta liền khởi lên ý nghĩ: “Ta bị bậc Đạo Sư quở trách vì không khéo léo trong việc hướng dẫn Hội chúng. Từ nay về sau, ta sẽ không giáo huấn người khác nữa.” Do đó, Trưởng lão đã thưa rằng: “Kính bạch đức Thế Tôn, con có suy nghĩ như sau: Khi Hội chúng Tỳ-khưu đã bị đức Thế Tôn quở trách, bây giờ đức Thế Tôn không phải bận tâm nữa, và sẽ sống gắn bó vào sự lạc trú trong hiện tại. Giờ đây, hai chúng con cũng không phải bận tâm, chúng con sẽ sống gắn bó vào sự lạc trú trong hiện tại.”
Athassa tasmiṃ manoduccarite upārambhaṃ āropento satthā āha – ‘‘āgamehi tvaṃ, sāriputta na kho te, sāriputta, punapi evarūpaṃ cittaṃ uppādetabba’’nti. Evaṃ paraṃ na ovadissāmi nānusāsissāmīti vitakkitamattampi therassa manoduccaritaṃ nāma jātaṃ. Bhagavato pana ettakaṃ nāma natthi, anacchariyañcetaṃ. Sabbaññutaṃ pattassa duccaritaṃ na bhaveyya. Bodhisattabhūmiyaṃ ṭhitassa chabbassāni padhānaṃ anuyuñjantassāpi panassa nāhosi. Udaracchaviyā piṭṭhikaṇṭakaṃ allīnāya ‘‘kālaṅkato samaṇo gotamo’’ti devatānaṃ vimatiyā uppajjamānāyapi ‘‘siddhattha kasmā kilamasi? Sakkā bhoge ca bhuñjituṃ puññāni ca kātu’’nti mārena pāpimatā vuccamānassa ‘‘bhoge bhuñjissāmī’’ti vitakkamattampi nuppajjati. Atha naṃ māro bodhisattakāle chabbassāni buddhakāle ekaṃ vassaṃ anubandhitvā kiñci vajjaṃ apassitvā idaṃ vatvā pakkāmi –
‘‘Sattavassāni bhagavantaṃ, anubandhiṃ padāpadaṃ;
Otāraṃ nādhigacchissaṃ, sambuddhassa satīmato’’ti. (su. ni. 448);
Sau đó, bậc Đạo Sư khi đặt sự quở trách ở uế hạnh về ý ấy của Trưởng lão, đã nói rằng: “Này Sāriputta, hãy dừng lại. Này Sāriputta, không nên khởi tâm có hình thức như thế này nữa.” Dù chỉ với suy nghĩ như vầy: “Ta sẽ không giáo huấn và giảng dạy người khác,” cũng được gọi là uế hạnh về ý của Trưởng lão. Tuy nhiên, đối với đức Thế Tôn hoàn toàn không có suy nghĩ như vậy, điều này không kỳ lạ chút nào. Việc đức Thế Tôn, sau khi chứng đạt quả vị Toàn Giác, không thể có uế hạnh ấy. Ngay cả khi còn duy trì ở bản thể của đức Bồ-tát, nỗ lực thực hành 6 năm khổ hạnh, Ngài cũng không có bất kỳ uế hạnh gì. Thậm chí khi chư Thiên khởi lên sự nghi ngờ như vầy– da bụng dính chặt vào xương sống, (như thế) “Sa-môn Gotama đã mệnh chung”. Khi bị Ma Vương ác độc nói rằng: “Này Siddhattha, tại sao Ngài phải chịu cực nhọc như vậy? Ngài có thể vừa hưởng thụ tài sản, vừa tạo phước. Thế nhưng, ngay cả ý nghĩ– “Ta sẽ hưởng thụ tài sản” cũng không khởi lên. Sau đó, Ma Vương đã theo sát đức Thế Tôn trong thời gian vẫn còn là Bồ-tát suốt sáu năm, và thêm một năm nữa trong thời gian đã giác ngộ trở thành vị Phật, (Ma Vương) cũng không thể tìm thấy bất kỳ lỗi lầm nào, nên đã nói lên ý nghĩa này rồi biến mất–
“Ta đã theo sát đức Thế Tôn từng bước chân một suốt bảy năm. Ta đã không tìm được khuyết điểm nào của bậc Chánh đẳng Chánh giác, vị có niệm. (su. ni. 448);
Apica aṭṭhārasannaṃ buddhadhammānaṃ vasenāpi bhagavato duccaritābhāvo veditabbo. Aṭṭhārasa buddhadhammā nāma natthi tathāgatassa kāyaduccaritaṃ, natthi vacīduccaritaṃ, natthi manoduccaritaṃ, atīte buddhassa appaṭihatañāṇaṃ, anāgate, paccuppanne buddhassa appaṭihatañāṇaṃ, sabbaṃ kāyakammaṃ buddhassa bhagavato ñāṇānuparivatti, sabbaṃ vacīkammaṃ, sabbaṃ manokammaṃ buddhassa bhagavato ñāṇānuparivatti, natthi chandassa hāni, natthi vīriyassa hāni, natthi satiyā hāni, natthi davā, natthi ravā, natthi calitaṃ, natthi sahasā, natthi abyāvaṭo mano, natthi akusalacittanti.
Thêm nữa, nên hiểu trạng thái không có uế hạnh của đức Thế Tôn, ngay cả với sức mạnh của mười tám pháp của vị Phật. Mười tám pháp của vị Phật là– (1) Đức Như Lai không có uế hạnh về thân, (2) Đức Như Lai không có uế hạnh về khẩu, (3) Đức Như Lai không có uế hạnh về ý, (4) Trí của đức Phật không bị chướng ngại về thời điểm đã qua, (5) Trí của đức Phật không bị chướng ngại về thời điểm chưa đến, (6) Trí của đức Phật không bị chướng ngại về thời điểm hiện tại, (7) Tất cả thân nghiệp của đức Phật Thế Tôn đều vận hành theo trí, (8) tất cả khẩu nghiệp đều vận hành theo trí, (9) tất cả ý nghiệp đều vận hành theo trí, (10) không có sự suy giảm trong ước nguyện, (11) không thối chuyển về tinh tấn, (12) không có sự suy giảm về niệm, (13) không có sự vui đùa, (14) không có tiếng ồn ào, (15) không có sự xao động, (16) không có sự hấp tấp, (17) không có tâm không nhiệt huyết, (18) không có tâm bất thiện.
Kiñcanāti palibodhā. Rāgo kiñcananti rāgo uppajjamāno satte bandhati palibundhati[1] tasmā kiñcananti vuccati. Itaresupi dvīsu eseva nayo.
Sự vướng bận: sự chướng ngại. Luyến ái là sự vướng bận: sự luyến ái trong khi sanh khởi (sẽ) trói buộc, gây trở ngại chúng sanh (không cho thoát ra khỏi vòng luân hồi). Vì thế, được gọi đó là “sự vướng bận”. Ngay cả hai từ còn lại cũng có phương thức tương tự. (31)
Aggīti anudahanaṭṭhena aggi. Rāgaggīti rāgo uppajjamāno satte anudahati jhāpeti, tasmā aggīti vuccati. Itaresupi eseva[2] nayo. Tattha vatthūni ekā daharabhikkhunī cittalapabbatavihāre uposathāgāraṃ gantvā dvārapālarūpakaṃ olokayamānā ṭhitā. Athassā anto rāgo uppanno. Sā teneva jhāyitvā kālamakāsi. Bhikkhuniyo gacchamānā ‘‘ayaṃ daharā ṭhitā, pakkosatha, na’’nti āhaṃsu. Ekā gantvā kasmā ṭhitāsīti hatthe gaṇhi. Gahitamattā parivattitvā papatā. Idaṃ tāva rāgassa anudahanatāya vatthu. Dosassa pana anudahanatāya manopadosikā devā. Mohassa anudahanatāya khiḍḍāpadosikā devā daṭṭhabbā. Mohavasena hi tāsaṃ satisammoso hoti. Tasmā khiḍḍāvasena āhārakālaṃ ativattitvā kālaṅkaronti.
Lửa: Lửa với ý nghĩa thiêu đốt. Lửa luyến ái: Sự luyến ái trong khi sanh khởi sẽ thiêu đốt chúng sanh, do đó được gọi là ‘lửa’. Hai từ còn lại cũng có phương thức tương tự. Trong trường hợp đó, có câu chuyện như sau– Một Tỳ-khưu-ni trẻ đi đến nhà để hành lễ Uposatha ở tự viện Cittalapabbata, đã đứng tại đó nhìn ngắm hình dáng của người gác cổng. Khi ấy, luyến ái đã khởi lên trong nội tâm của cô. Cô đã bị chính ngọn lửa luyến ái ấy thiêu đốt đến mệnh chung (ngay tại chỗ đang đứng). Khi các vị Tỳ-khưu-ni trở về, mới nói rằng: “Vị Tỳ-khưu-ni kia vẫn đang đứng ngay tại chỗ đó, hãy đi gọi cô ấy đến.” Một vị Tỳ-kheo-ni khác, sau khi đi đến đã nắm lấy cánh tay cô và nói: “Chị đứng đây để làm gì?” Vừa bị chạm vào, thì thân thể của vị Tỳ-khưu-ni trẻ kia liền ngã sụp xuống (đất). Đây là câu chuyện về tính chất thiêu đốt của luyến ái đầu tiên. Còn câu chuyện về tính chất thiêu đốt của lửa sân hận như chúng chư Thiên Manopadosikā (hạng bị hư hỏng bởi tâm ý). Câu chuyện về tính chất của lửa si mê có thể thấy ở chúng chư Thiên Khiḍḍāpadosikā (hạng bị hư hỏng vì đùa giỡn). Tức là những vị chư Thiên đó có sự thất niệm do tác động si mê. Vì vậy, sau khi đã quá giờ ăn do mải mê đùa giỡn, nên đã mệnh chung. (32)
Āhuneyyaggītiādīsu āhunaṃ vuccati sakkāro, āhunaṃ arahantīti āhuneyyā. Mātāpitaro hi puttānaṃ bahūpakāratāya āhunaṃ arahanti. Tesu vippaṭipajjamānā puttā nirayādīsu nibbattanti. Tasmā kiñcāpi mātāpitaro nānudahanti, anudahanassa pana paccayā honti. Iti anudahanaṭṭhena āhuneyyaggīti vuccanti. Svāyamattho mittavindakavatthunā dīpetabbo– Mittavindako hi mātarā ‘‘tāta, ajja uposathiko hutvā vihāre sabbarattiṃ dhammassavanaṃ suṇa, sahassaṃ te dassāmī’’ti vutto dhanalobhena uposathaṃ samādāya vihāraṃ gantvā idaṃ ṭhānaṃ akutobhayanti sallakkhetvā dhammāsanassa heṭṭhā nipanno sabbarattiṃ niddāyitvā gharaṃ agamāsi. Mātā pātova yāguṃ pacitvā upanāmesi. So sahassaṃ gahetvāva pivi. Athassa etadahosi – ‘‘dhanaṃ saṃharissāmī’’ti. So nāvāya samuddaṃ pakkhanditukāmo ahosi. Atha naṃ mātā ‘‘tāta, imasmiṃ kule cattālīsakoṭidhanaṃ atthi, alaṃ gamanenā’’ti nivāresi. So tassā vacanaṃ anādiyitvā gacchati eva. Mātā purato aṭṭhāsi. Atha naṃ kujjhitvā ‘‘ayaṃ mayhaṃ purato tiṭṭhatī’’ti pādena paharitvā patitaṃ antaraṃ katvā agamāsi.
Lửa của người đáng được cung kính, v.v., Có sự tôn kính được gọi là ‘āhuna’, người đáng được cung kính gọi là ‘āhuneyya’. Thật vậy, cha mẹ xứng đáng được cung kính vì đã có nhiều sự trợ giúp đối với con cái. Những đứa con, khi có hành vi sai trái đối với cha mẹ, (sẽ) tái sanh vào các khổ cảnh như địa ngục, v.v. Vì vậy, mặc dù cha mẹ không phải (nguyên nhân trực tiếp) thiêu đốt con cái, nhưng chính là các duyên dẫn đến sự thiêu đốt ấy. Do đó, Ngài gọi là ‘lửa của người đáng được cung kính’, với ý nghĩa thiêu đốt theo cách như vậy. Ý nghĩa này đây nên được biết qua câu chuyện về thanh niên Mittavindaka– Thật vậy, thanh niên Mittavindaka được mẹ bảo rằng– “Này con yêu, hôm nay con hãy thọ trì bát quan trai giới và lắng nghe Giáo Pháp trọn đêm ở tại tu viện, mẹ sẽ cho con một ngàn đồng tiền,” vì tham tiền, cậu đã thọ trì bát quan trai giới rồi đi đến tu viện. Sau khi xem xét: “Ở chỗ này không có gì nguy hiểm”, nên đã lẻn vào nằm ngủ ở dưới pháp tòa và ngủ suốt cả đêm, đến hừng sáng hôm sau mới trở về nhà. Mẹ cậu, từ sáng sớm, đã nấu sẵn cháo và mang vào cho cậu. Cậu đã uống cháo trong khi vẫn nắm chặt một ngàn đồng tiền trong tay. Sau đó, cậu đã khởi lên suy nghĩ– “Ta sẽ tích lũy tài sản”. Cậu có ý định đi buôn bán ở ngoài khơi bằng tàu. Lúc đó, mẹ cậu đã khuyên ngăn: “Này con yêu, trong gia đình ta đã có tài sản đến bốn mươi triệu đồng, con đừng đi nữa.” Nhưng cậu không hề để tâm đến những lời của mẹ, vẫn cương quyết lên đường. Bà liền đứng chắn trước mặt để ngăn lại. Khi ấy, cậu đã nổi giận vì điều đó, liền đá bà ngã xuống (đất) bằng chân, rồi bước qua người bà mà đi.
Mātā uṭṭhahitvā ‘‘mādisāya mātari evarūpaṃ kammaṃ katvā gatassa te gataṭṭhāne sukhaṃ bhavissatīti evaṃsaññī nāma tvaṃ puttā’’ti āha. Tassa nāvaṃ āruyha gacchato sattame divase nāvā aṭṭhāsi. Atha te manussā ‘‘addhā ettha pāpapuriso atthi salākaṃ dethā’’ti āhaṃsu. Salākā diyyamānā tasseva tikkhattuṃ pāpuṇāti. Te tassa uḷumpaṃ datvā taṃ samudde pakkhipiṃsu. So ekaṃ dīpaṃ gantvā vimānapetīhi saddhiṃ sampattiṃ anubhavanto tāhi ‘‘purato purato mā agamāsī’’ti vuccamānopi taddiguṇaṃ taddiguṇaṃ sampattiṃ passanto anupubbena khuracakkadharaṃ ekaṃ addasa. Tassa taṃ cakkaṃ padumapupphaṃ viya upaṭṭhāsi. So taṃ āha – ‘‘ambho, idaṃ tayā piḷandhitaṃ padumaṃ mayhaṃ dehī’’ti. ‘‘Na idaṃ sāmi padumaṃ, khuracakkaṃ eta’’nti. So ‘‘vañcesi maṃ, tvaṃ kiṃ mayā padumaṃ adiṭṭhapubba’’nti vatvā tvaṃ lohitacandanaṃ vilimpitvā piḷandhanaṃ padumapupphaṃ mayhaṃ na dātukāmoti āha. So cintesi ‘‘ayampi mayā katasadisaṃ kammaṃ katvā tassa phalaṃ anubhavitukāmo’’ti. Atha naṃ ‘‘handa re’’ti vatvā tassa matthake cakkaṃ pakkhipi. Tena vuttaṃ –
‘‘Catubbhi aṭṭhajjhagamā, aṭṭhāhipi ca soḷasa; Soḷasāhi ca bāttiṃsa, atricchaṃ cakkamāsado; Icchāhatassa posassa, cakkaṃ bhamati matthake’’ti. (jā. 1.1.104).
Sau khi đứng dậy người mẹ nói rằng– “Này con trai, con có lẽ nghĩ rằng: ‘sau khi đã làm một việc có hình thức như thế đối với người làm mẹ như ta rồi bỏ đi, con sẽ có được hạnh phúc ở nơi con đến.’” Khi Mittavindaka bước xuống thuyền ra khơi, đến ngày thứ bảy thì chiếc thuyền bất ngờ dừng lại (một cách kỳ lạ). Những người trên thuyền liền nói: “Chắc chắn trên thuyền này có một người tội lỗi, chúng ta hãy bốc thăm xem sao.” Khi bốc thăm và cả ba lần chiếc thăm đều rơi vào Mittavindaka. Cuối cùng, họ đã đẩy cậu lên chiếc bè và thả trôi ra biển. Câu trôi dạt đến một hòn đảo, (tại đó) cậu thọ hưởng sự thành tựu cùng với các nữ quỷ-thần Vimānapeta. Dù được các nữ quỷ-thần khuyên: “Đừng tiếp tục đi nữa,” thì cậu lại nhìn thấy tài sản (ở phía trước) tăng lên gấp hai lần theo từng chặng, cho đến khi gặp một người có chiếc bánh xe sắc bén (quay tròn ở trên đầu). Cậu tưởng bánh xe đó giống như một bông sen, nên đã nói với người ấy rằng: “Này bạn, hãy cho bông sen mà bạn làm đồ trang sức đến tôi.” Người kia đáp: “Này bạn, đây không phải là bông sen, mà đây là bánh xe sắc bén.” Cậu ta liền nói: “Bạn đang gạt tôi, bông sen làm sao tôi lại chưa từng thấy?” rồi nói tiếp: “Bạn đã thoa bột trầm hương đỏ lên, nên không muốn cho bông sen làm đồ trang sức đến tôi.” Người kia nghĩ: “Người này chắc chắn đã tạo nghiệp tợ như ta đã tạo, nên mới muốn lãnh chịu quả báo của nghiệp ấy.” Vì vậy, người ấy đã nói: “Thôi được rồi, tôi tặng cho bạn,” rồi ném bánh xe ấy lên đầu của Mittavindaka.” Bởi lý do đó, Ngài mới nói rằng–
Được bốn gã đã đi đến tám, được tám rồi lại muốn mười sáu, và được mười sáu rồi lại muốn được ba mươi hai, trong khi ước muốn quá lố, gã nhận lấy bánh xe. Bánh xe quay tròn ở trên đầu của kẻ bị hành hạ bởi ước muốn. (jā. 1.1.104).
Gahapatīti pana gehasāmiko vuccati. So mātugāmassa sayanavatthālaṅkārādianuppadānena bahūpakāro. Taṃ aticaranto mātugāmo nirayādīsu nibbattati, tasmā sopi purimanayeneva anudahanaṭṭhena gahapataggīti vutto.
Người chủ của gia đình được gọi gia chủ (người chồng). Vị ấy được xem là có nhiều sự trợ giúp đối với người phụ nữ (người vợ) bằng cách cung cấp giường, y phục, đồ trang sức, v.v. Người vợ có mối quan hệ bất chính người đối với chồng thì sẽ tái sanh vào các khổ cảnh như địa ngục, v.v. Vì thế, người gia chủ đó được gọi là ‘lửa của người gia chủ’, với ý nghĩa là thiêu đốt theo phương thức như đã nói trước.
Tattha vatthu – kassapabuddhassa kāle sotāpannassa upāsakassa bhariyā aticārinī ahosi. So taṃ paccakkhato disvā ‘‘kasmā tvaṃ evaṃ karosī’’ti āha. Sā ‘‘sacāhaṃ evarūpaṃ karomi, ayaṃ me sunakho viluppamāno khādatū’’ti vatvā kālaṅkatvā kaṇṇamuṇḍakadahe vemānikapetī hutvā nibbattā. Divā sampattiṃ anubhavati, rattiṃ dukkhaṃ. Tadā bārāṇasīrājā migavaṃ caranto araññaṃ pavisitvā anupubbena kaṇṇamuṇḍakadahaṃ sampatto tāya saddhiṃ sampattiṃ anubhavati. Sā taṃ vañcetvā rattiṃ dukkhaṃ anubhavati. So ñatvā ‘‘kattha nu kho gacchatī’’ti piṭṭhito piṭṭhito gantvā avidūre ṭhito kaṇṇamuṇḍakadahato nikkhamitvā taṃ ‘‘paṭapaṭa’’nti khādamānaṃ ekaṃ sunakhaṃ disvā asinā dvidhā chindi. Dve ahesuṃ. Puna chinne cattāro. Puna chinne aṭṭha. Puna chinne soḷasa ahesuṃ. Sā ‘‘kiṃ karosi sāmī’’ti āha. So ‘‘kiṃ ida’’nti āha. Sā ‘‘evaṃ akatvā kheḷapiṇḍaṃ bhūmiyaṃ niṭṭhubhitvā pādena ghaṃsāhī’’ti āha. So tathā akāsi. Sunakhā antaradhāyiṃsu. Taṃ divasaṃ tassā kammaṃ khīṇaṃ. Rājā vippaṭisārī hutvā gantuṃ āraddho. Sā ‘‘mayhaṃ, sāmi, kammaṃ khīṇaṃ mā agamā’’ti āha. Rājā asutvāva gato.
Trong trường hợp ấy có câu chuyện như sau– Vào thời đức Phật Kassapa, vợ của một vị cư sĩ đã chứng quả Tu-đà-hoàn có mối quan hệ bất chính. Vị ấy sau khi thấy tường tận sự việc, đã nói rằng: “Tại sao nàng lại làm như vậy?” – Người vợ đáp: “Nếu như tôi thật sự làm điều như vậy, thì con chó này hãy cắn tôi.” Sau khi chết cô đã tái sanh làm một nữ quỷ-thần Vimānapeta tại hồ Kaṇṇamuṇḍaka. Vào ban ngày thọ hưởng sự thành tựu, còn vào ban đêm lãnh chịu khổ đau. Lúc ấy, vua xứ Bārāṇasī đang đi săn thú, sau khi vào rừng, theo trình tự đã đi đến hồ Kaṇṇamuṇḍaka, (và) thọ hưởng sự thành tựu cùng với nữ quỷ-thần đó. Tuy nhiên, nàng đã đánh lừa đức vua để ngài phải lãnh chịu khổ đau vào ban đêm. Đức vua đã biết được điều đó, (Ngài nghi ngờ rằng): “Vậy thì nàng ta đi đâu?” và đi theo sát phía sau, Ngài dừng lại (khoảng cách) không quá xa, Ngài trông thấy một con chó từ hồ Kannamundaka bước ra và cắn nàng, phát ra âm thanh lớn “ngoàm ngoạp”, đức vua đã chém đứt nó ra làm hai bằng thanh gươm. Nhưng nó đã biến thành hai con. Khi bị chém đứt nữa thì thành bốn. Khi bị chém đứt tiếp thì thành tám, và khi bị chém đứt lần nữa đã trở thành mười sáu. – Nàng hỏi: “Thưa Chúa thượng, ngài làm gì vậy?” – Đức vua đáp: “Đây là cái gì?” – Nàng nói: “Ngài đừng làm như vậy, hãy nhổ một bãi nước bọt xuống đất và chà lên (bãi nước bọt) bằng chân.” – Đức vua đã làm như thế. Ngay lập tức, những con chó liền biến mất. Ngày hôm đó, nghiệp của nàng cũng đã cạn kiệt. Đức vua cảm thấy bất an mới bắt đầu quay trở về. Nàng nói: “Thưa Chúa thượng, nghiệp của thiếp đã cạn kiệt, xin Ngài đừng rời đi .” Đức vua đã không nghe theo, và vẫn quyết định trở về.
Dakkhiṇeyyaggīti ettha pana dakkhiṇāti cattāro paccayā, bhikkhusaṅgho dakkhiṇeyyo. So gihīnaṃ tīsu saraṇesu pañcasu sīlesu dasasu sīlesu mātāpituupaṭṭhāne dhammikasamaṇabrāhmaṇaupaṭṭhāneti evamādīsu kalyāṇadhammesu niyojanena bahūpakāro, tasmiṃ micchāpaṭipannā gihī bhikkhusaṅghaṃ akkositvā paribhāsitvā nirayādīsu nibbattanti, tasmā sopi purimanayeneva anudahanaṭṭhena dakkhiṇeyyaggīti vutto. Imassa panatthassa vibhāvanatthaṃ vimānavatthusmiṃ revatīvatthu vitthāretabbaṃ.
Hơn nữa, ở đây, ‘dakkhinā’ trong cụm từ ‘lửa của bậc đáng được cúng dường,’ là bốn món vật dụng (y phục, vật thực, chỗ ở, và dược phẩm), Hội chúng Tỳ-khưu được gọi là hạng người xứng đáng được cúng dường. Hội chúng Tỳ-khưu được xem là có nhiều sự trợ giúp đối với người gia chủ nhờ việc khuyến khích thực hành các thiện pháp bắt đầu như vầy (rằng)– quy y Tam bảo, thọ trì Ngũ giới, Thập giới, phụng dưỡng mẹ và cha, và phụng sự các vị Sa-môn, Bà-la-môn đúng pháp. Người gia chủ nào thực hành sai trái đối với Hội chúng Tỳ-khưu; sau khi đã mắng nhiếc, phỉ báng Hội chúng Tỳ-khưu, sẽ tái sinh vào các khổ cảnh như địa ngục, v.v. Vì thế, Hội chúng Tỳ-khưu được gọi là ‘lửa của bậc đáng được cúng dường’, với ý nghĩa thiêu đốt theo phương thức như đã nói ở trên. Và để nói rõ ý nghĩa này, nên giải thích chi tiết câu chuyện về Thiên cung của Revatī trong tập ‘Thiên Cung Sự’. (33)
‘‘Tividhena rūpasaṅgaho’’ti ettha tividhenāti tīhi koṭṭhāsehi. Saṅgahoti jātisañjātikiriyagaṇanavasena catubbidho saṅgaho. Tattha sabbe khattiyā āgacchantūtiādiko (ma. ni. 1.462) jātisaṅgaho. Sabbe kosalakātiādiko sañjātisaṅgaho. Sabbe hatthārohātiādiko kiriyasaṅgaho. Cakkhāyatanaṃ katamaṃ khandhagaṇanaṃ gacchatīti? Cakkhāyatanaṃ rūpakkhandhagaṇanaṃ gacchatīti. Hañci cakkhāyatanaṃ rūpakkhandhena saṅgahitanti ayaṃ gaṇanasaṅgaho, so idha adhippeto. Tasmā tividhena rūpasaṅgahoti tīhi koṭṭhāsehi rūpagaṇanāti attho.
Ở đây, “sự tập hợp sắc pháp theo ba cách”, ‘theo ba cách’ là với ba phần. Sự tập hợp: Có bốn sự tập hợp: Jātisaṅgaha (sự tập hợp về sanh chủng), Saññātisaṅgaha (sự tập hợp theo quốc độ), Kiriyāsaṅgaha (sự tập hợp theo hành vi) và Gaṇanasaṅgaha (sự tập hợp theo cách tính). Trong bốn sự tổng hợp ấy, “tất cả các Sát-đế-lỵ hãy đến, v.v,” (ma. ni. 1.462); là sự tập hợp về sanh chủng. “Toàn bộ dân chúng xứ Kosala hãy đến, v.v,” là sự tập hợp về quốc độ. “Tất cả các tượng phu hãy đến, v.v,” là sự tập hợp về hành vi. Nhãn xứ thuộc uẩn nào? Nhãn xứ thuộc sắc uẩn. Vị Luận-sư Sakavādī đã nói rằng– “Nếu nhãn xứ tập hợp trong sắc uẩn, nên nói rằng– nhãn xứ tập hợp với sắc uẩn.” Đây được gọi là sự tập hợp theo cách tính. Sự tập hợp theo cách tính ấy được đề cập ở đây. Vì thế, “sự tập hợp sắc pháp theo ba cách” có ý nghĩa sự tính (đếm) sắc pháp với ba phần.
Sanidassanādīsu attānaṃ ārabbha pavattena cakkhuviññāṇasaṅkhātena saha nidassanenāti sanidassanaṃ. Cakkhupaṭihananasamatthato saha paṭighenāti sappaṭighaṃ. Taṃ atthato rūpāyatanameva. Cakkhuviññāṇasaṅkhātaṃ nāssa nidassananti anidassanaṃ. Sotādipaṭihananasamatthato saha paṭighenāti sappaṭighaṃ. Taṃ atthato cakkhāyatanādīni nava āyatanāni. Vuttappakāraṃ nāssa nidassananti anidassanaṃ. Nāssa paṭighoti appaṭighaṃ. Taṃ atthato ṭhapetvā dasāyatanāni avasesaṃ sukhumarūpaṃ.
Sắc hữu kiến (sắc có thể thấy được), v.v, (cảnh sắc) cùng với sự rõ ràng bởi cái gọi là nhãn thức vận hành do liên quan đến chính nó được gọi là hữu kiến. Cảnh sắc vận hành cùng với sự tương tác bởi có thể xúc chạm với (thần kinh) nhãn, được gọi là Sắc hữu đối chiếu (có sự tương tác). Về ý nghĩa thì sắc hữu đối chiếu chính là ‘sắc xứ’. Sự rõ ràng bởi cái gọi là nhãn thức của sắc ấy không có được gọi là Sắc vô kiến (sắc không thể thấy được). (Sắc thô còn lại) cùng với sự tương tác vì có thể xúc chạm với (thần kinh) nhĩ gọi là sắc hữu đối chiếu. Về mặt ý nghĩa, thì sắc hữu đối chiếu ấy gồm chín xứ có nhãn xứ, v.v. Sự rõ ràng như đã đề cập trước đó của sắc không có, gọi là sắc vô kiến (sắc tế). Sự tương tác của sắc ấy không có, gọi là sắc vô đối chiếu. Về mặt ý nghĩa, ngoại trừ mười xứ thì sắc vô đối chiếu cũng chính là các sắc tế còn lại. (34)
Tayo saṅkhārāti sahajātadhamme ceva samparāye phaladhamme ca saṅkharonti rāsī karontīti saṅkhārā. Abhisaṅkharotīti abhisaṅkhāro. Puñño abhisaṅkhāro puññābhisaṅkhāro.
Ba hành (pháp tạo tác): Các pháp gọi là các hành bởi sự tạo tác, tức là làm thành nhóm ở các pháp đồng sanh và các pháp có kết quả trong thời vị lại. Thắng hành: sử dụng với ý nghĩa ‘hành vi tạo tác’. Phúc hành: hành vi tạo tác đem lại phước báu.
‘‘Tattha katamo puññābhisaṅkhāro? Kusalā cetanā kāmāvacarā rūpāvacarā dānamayā sīlamayā bhāvanāmayā’’ti evaṃ vuttānaṃ aṭṭhannaṃ kāmāvacarakusalamahācittacetanānaṃ, pañcannaṃ rūpāvacarakusalacetanānañcetaṃ adhivacanaṃ. Ettha ca dānasīlamayā aṭṭheva cetanā honti. Bhāvanāmayā terasāpi. Yathā hi paguṇaṃ dhammaṃ sajjhāyamāno ekaṃ dve anusandhiṃ gatopi na jānāti, pacchā āvajjanto jānāti, evameva kasiṇaparikammaṃ karontassa paguṇajjhānaṃ paccavekkhantassa ñāṇavippayuttāpi bhāvanā hoti. Tena vuttaṃ ‘‘bhāvanāmayā terasāpī’’ti.
Và ‘phúc hành’ là thuật ngữ của tư tâm sở và tâm đại thiện thuộc 8 tâm thiện Dục giới và tư tâm sở thuộc 5 tâm thiện Sắc giới được ngài nói như vầy– “Trong các thắng hành đó, phúc hành là gì? Tư tâm sở thiện thuộc Dục giới, Sắc giới thành tựu do bố thí, (gìn giữ) giới hạnh và tu tập (tham thiền).” Trong số những tư tâm sở (cetanā) đó, chỉ có tám tư tâm sở thành tựu do bố thí và giới hạnh. Cả mười ba tư tâm sở thành tựu do tu tập. Ví như một người tụng đọc Giáo Pháp đã học thuộc lòng, dù chỉ tụng đọc một hoặc hai đoạn nhưng chưa hiểu rõ (ý nghĩa), tuy nhiên sau khi nhớ tưởng lại mới hiểu ra. Tương tự như thế, hành giả thực hành đề mục biến xứ, trong khi quán xét lại thiền mà bản thân đã thuần thục, thì sự tu tập đó là ‘bất tương ưng với trí’. Vì thế, mới nói rằng– “cả mười ba tư tâm sở đều thành tựu do tu tập.”
Tattha dānamayādīsu ‘‘dānaṃ ārabbha dānamadhikicca yā uppajjati cetanā sañcetanā cetayitattaṃ, ayaṃ vuccati dānamayo puññābhisaṅkhāro. Sīlaṃ ārabbha, bhāvanaṃ ārabbha, bhāvanamadhikicca yā uppajjati cetanā sañcetanā cetayitattaṃ, ayaṃ vuccati bhāvanāmayo puññābhisaṅkhāro’’ti ayaṃ saṅkhepadesanā.
Trong số các ‘phúc hành’ thành tựu do bố thí, v.v., sự cố ý, sự cố quyết, trạng thái cố quyết liên quan đến bố thí sanh khởi, có bố thí làm nền tảng, đây được gọi là phúc hành thành tựu do bố thí. Sự cố ý, sự cố quyết, trạng thái cố quyết liên quan đến giới hạnh, liên quan đến tu tập sanh khởi, có sự tu tập làm nền tảng, đây được gọi là phúc hành thành tựu do tu tập. Những điều đã được trình bày này chỉ là lời giảng tóm tắt.
Cīvarādīsu pana catūsu paccayesu rūpādīsu vā chasu ārammaṇesu annādīsu vā dasasu dānavatthūsu taṃ taṃ dentassa tesaṃ uppādanato paṭṭhāya pubbabhāge, pariccāgakāle, pacchā somanassacittena anussaraṇe cāti tīsu kālesu pavattā cetanā dānamayā nāma. Sīlapūraṇatthāya pana pabbajissāmīti vihāraṃ gacchantassa, pabbajantassa manorathaṃ matthakaṃ pāpetvā pabbajito vatamhi sādhu sādhūti āvajjantassa, pātimokkhaṃ saṃvarantassa, cīvarādayo paccaye paccavekkhantassa, āpāthagatesu rūpādīsu cakkhudvārādīni saṃvarantassa, ājīvaṃ sodhentassa ca pavattā cetanā sīlamayā nāma.
Tư tâm sở được vận hành trong ba thời của thí chủ trong khi cúng dường món này món nọ trong bốn món vật dụng như y phục, v.v., hoặc sáu đối tượng như sắc, v.v., hoặc mười món vật thí như gạo, v.v., là– vào thời điểm ban đầu kể từ khi làm phát sinh những vật thí đó, vào thời điểm đang dứt bỏ (vật thí), và vào thời điểm sau đó khi nhớ lại (hành động) với tâm hoan hỷ – như vậy gọi là tư tâm sở thành tựu do bố thí. Còn tư tâm sở vận hành của người đang đi đến tu viện với ý định: ‘tôi sẽ xuất gia để làm tròn đủ giới hạnh’, của người đang xuất gia, của người đã hoàn thành ý nguyện xuất gia rồi hồi tưởng lại– ‘Quả thật ta đã xuất gia, thật tốt đẹp! thật tốt đẹp!’ Của người thu thúc giới bổn Pātimokkha, của người quán xét các duyên có y phục, v.v., của người thu thúc các căn như nhãn căn, v.v., trong các đối tượng như sắc, v.v., và của người làm thanh tịnh sự nuôi mạng, (tất cả) đều được gọi là tư tâm sở thành tựu do giới hạnh.
Paṭisambhidāyaṃ vuttena vipassanāmaggena ‘‘cakkhuṃ aniccato dukkhato anattato bhāventassa …pe… manaṃ, rūpe, Dhamme. Cakkhuviññāṇaṃ …pe… manoviññāṇaṃ. Cakkhusamphassaṃ…pe… manosamphassaṃ. Cakkhusamphassajaṃ vedanaṃ…pe… manosamphassajaṃ vedanaṃ. Rūpasaññaṃ, jarāmaraṇaṃ aniccato dukkhato anattato bhāventassa pavattā cetanā bhāvanāmayā nāmā’’ti ayaṃ vitthārakathā.
Với đạo lộ Minh sát đã được nói trong Phân Tích Đạo rằng– “Đối với mắt, (hành giả xác định) là vô thường, là khổ, là vô ngã của hành giả đang tu tập …nt… đối với ý. trong sắc, trong pháp. Đối với nhãn thức …nt… đối với nhĩ thức. Đối với nhãn xúc …nt… đối với ý xúc. Về thọ sanh ra từ nhãn xúc …nt… về thọ sanh ra từ ý xúc. Về sắc tưởng, về lão tử là vô thường, là khổ, là vô ngã của hành giả đang tu tập, đây được gọi là tác ý thành tựu do tu tập.” Đây là lời giải thích chi tiết.
Apuñño ca so abhisaṅkhāro cāti apuññābhisaṅkhāro. Dvādasaakusalacittasampayuttānaṃ cetanānaṃ etaṃ adhivacanaṃ. Vuttampi cetaṃ ‘‘tattha katamo apuññābhisaṅkhāro? Akusalacetanā kāmāvacarā, ayaṃ vuccati apuññābhisaṅkhāro’’ti. Āneñjaṃ niccalaṃ santaṃ vipākabhūtaṃ arūpameva abhisaṅkharotīti āneñjābhisaṅkhāro. Catunnaṃ arūpāvacarakusalacetanānaṃ etaṃ adhivacanaṃ. Yathāha ‘‘tattha katamo āneñjābhisaṅkhāro? Kusalacetanā arūpāvacarā, ayaṃ vuccati āneñjābhisaṅkhāro’’ti.
Và hành vi tạo tác không đem lại phước báu gọi là phi phúc hành. Đây là một thuật ngữ của tư tâm sở tương ưng với mười hai tâm bất thiện. Và điều này được nói rằng– “Ở đây, phi phúc hành là gì? Là tư tâm sở bất thiện thuộc Dục giới, điều này gọi là phi phúc hành”. Bất động hành vì hành vi tạo tác mà chính tâm Vô sắc ấy thuộc dị thục quả không lay động, không rung động, an tịnh. Đây là một thuật ngữ của tư tâm sở thuộc năm tâm Vô sắc giới. Như đã nói: “Ở đây, phi phúc hành là gì? Tác ý thiện thuộc Vô sắc giới, điều này được gọi là phi phúc hành.” (35)
Puggalattike sattavidho purisapuggalo, tisso sikkhā sikkhatīti sekkho. Khīṇāsavo sikkhitasikkhattā puna na sikkhissatīti asekkho. Puthujjano sikkhāhi paribāhiyattā nevasekkho nāsekkho.
Trong bảy hạng người: có bảy hạng người, học tập ba học giới gọi là người hữu học. Bậc Lậu Tận không cần phải học tập vì đã hoàn tất ba học giới gọi là người Vô Học. Phàm nhân không phải là bậc Hữu Học cũng không phải là bậc Vô Học vì nằm ngoài các học giới. (36)
Therattike jātimahallako gihī jātitthero nāma. ‘‘Cattārome, bhikkhave, therakaraṇā dhammā. Idha, bhikkhave, thero sīlavā hoti, bahussuto hoti, catunnaṃ jhānānaṃ lābhī hoti, āsavānaṃ khayā bahussuto hoti, catunnaṃ jhānānaṃ lābhī hoti, āsavānaṃ khayā anāsavaṃ cetovimuttiṃ paññāvimuttiṃ diṭṭheva dhamme sayaṃ abhiññā sacchikatvā upasampajja viharati. Ime kho, bhikkhave, cattāro therakaraṇā dhammā’’ti (a. ni. 4.22). Evaṃ vuttesu dhammesu ekena vā anekehi vā samannāgato dhammathero nāma. Aññataro theranāmako bhikkhūti evaṃ theranāmako vā, yaṃ vā pana mahallakakāle pabbajitaṃ sāmaṇerādayo disvā thero theroti vadanti, ayaṃ sammutithero nāma.
Trong ba hạng Trưởng lão thì vị gia chủ là bậc trưởng thượng do tuổi tác được gọi là Trưởng lão do sanh. Vị hội đủ với một pháp hoặc nhiều pháp trong số các pháp được thuyết giảng bởi đức Thế Tôn như vầy rằng– “Này các Tỳ-khưu, có bốn pháp tác thành Trưởng lão này. Ở đây, này các Tỳ-khưu, Trưởng lão là vị có giới, là vị nghe nhiều, là vị có sự đạt được bốn thiền, do cạn kiệt các lậu hoặc là vị nghe nhiều, là vị có sự đạt được bốn thiền, do sự cạn kiệt của các lậu hoặc, vào sự không còn lậu hoặc, sự giải thoát của tâm, sự giải thoát của tuệ, ngay ở bản thể này, tự mình bằng thắng trí chứng ngộ, đạt đến, và an trú. Này các Tỳ-khưu, bốn pháp này tác thành vị Trưởng lão.” (a. ni. 4.22); được gọi là Trưởng lão do pháp (chứng đắc). Vị được gọi là Trưởng lão như sau: bất kỳ vị Tỳ-khưu nào được gọi là Trưởng lão, hoặc (mọi người) sau khi nhìn thấy vị Sa-di, v.v., đã xuất gia vào lúc lớn tuổi rồi gọi là Trưởng lão, đây gọi là Trưởng lão theo quy ước. (37)
Puññakiriyavatthūsu dānameva dānamayaṃ. Puññakiriyā ca sā tesaṃ tesaṃ ānisaṃsānaṃ vatthu cāti puññakiriyavatthu. Itaresupi dvīsu eseva nayo. Atthato pana pubbe vuttadānamayacetanādivaseneva saddhiṃ pubbabhāgaaparabhāgacetanāhi imāni tīṇi puññakiriyavatthūni veditabbāni. Ekamekañcettha pubbabhāgato paṭṭhāya kāyena karontassa kāyakammaṃ hoti. Tadatthaṃ vācaṃ nicchārentassa vacīkammaṃ. Kāyaṅgavācaṅgaṃ acopetvā manasā cintentassa manokammaṃ. Annādīni dentassa cāpi annadānādīni demīti vā dānapāramiṃ āvajjetvā vā dānakāle dānamayaṃ puññakiriyavatthu hoti. Vattasīse ṭhatvā dadato sīlamayaṃ. Khayato vayato sammasanaṃ paṭṭhapetvā dadato bhāvanāmayaṃ puññakiriyavatthu hoti.
Cơ sở tạo phước báu– chính sự bố thí ấy gọi là yếu tố bố thí. Việc tạo phước báu đó là cơ sở (làm chỗ thiết lập) của các lợi ích ấy, vì vậy được gọi là cơ sở tạo phước báu. Luôn cả hai cơ sở tạo phước còn lại cũng có phương thức tương tự. Tuy nhiên, về mặt ý nghĩa, nên biết ba cơ sở tạo phước báu này cùng với Tư Tiền (ý định trước khi làm) và Tư Hậu (ý định sau khi làm), do tác động của tác ý được thành tựu do bố thí, v.v., như đã đề cập trước đó. Và ở đây, trong khi tạo mỗi một hành động bằng thân bắt đầu từ phần đầu (Tư Tiền), thì được gọi là thân nghiệp. Khi phát ra lời nói có ý nghĩa như vậy, thì được gọi là khẩu nghiệp. Khi các yếu tố của thân và yếu tố của khẩu không bị lay động, chỉ suy nghĩ bằng ý, cũng được gọi là ý nghiệp. Ngoài ra, đối với thí chủ bố thí các vật thí như gạo, v.v., vào thời điểm bố thí đã nói rằng: “Tôi bố thí vật thực”, v.v., hoặc sau khi đã suy xét đến bố thí ba-la-mật rồi bố thí, đây là cơ sở tạo phước báu được thành tựu do bố thí. Sau khi đã thiết lập trong các tánh hạnh và giới hạnh rồi bố thí, đây là cơ sở tạo phước báu được thành tựu do giới. Sau khi đã sắp đặt sự thấu hiểu về sự chấm dứt và hoại diệt rồi bố thí, đây là cơ sở tạo phước báu được thành tựu do tu tập.
Aparānipi satta puññakiriyavatthūni apacitisahagataṃ puññakiriyavatthu, veyyāvaccasahagataṃ, pattānuppadānaṃ, pattabbhanumodanaṃ, desanāmayaṃ, savanamayaṃ, diṭṭhijugataṃ puññakiriyavatthūti. Tattha mahallakaṃ disvā paccuggamana pattacīvarappaṭiggahaṇa abhivādana maggasampadānādivasena apacitisahagataṃ veditabbaṃ. Vuḍḍhatarānaṃ vattappaṭipattikaraṇavasena, gāmaṃ piṇḍāya paviṭṭhaṃ bhikkhuṃ disvā pattaṃ gahetvā gāme bhikkhaṃ samādapetvā upasaṃharaṇavasena, ‘‘gaccha bhikkhūnaṃ pattaṃ āharā’’ti sutvā vegena gantvā pattāharaṇādivasena ca veyyāvaccasahagataṃ veditabbaṃ. Cattāro paccaye datvā sabbasattānaṃ patti hotūti pavattanavasena pattānuppadānaṃ veditabbaṃ. Parehi dinnāya pattiyā sādhu suṭṭhūti anumodanāvasena pattabbhanumodanaṃ veditabbaṃ. Eko ‘‘evaṃ maṃ ‘dhammakathiko’ti jānissantī’’ti icchāya ṭhatvā lābhagaruko hutvā deseti, taṃ na mahapphalaṃ. Eko attano paguṇadhammaṃ apaccāsīsamāno paresaṃ deseti, idaṃ desanāmayaṃ puññakiriyavatthu nāma. Eko suṇanto ‘‘iti maṃ ‘saddho’ti jānissantī’’ti suṇāti, taṃ na mahapphalaṃ. Eko ‘‘evaṃ me mahapphalaṃ bhavissatī’’ti hitappharaṇena muducittena dhammaṃ suṇāti, idaṃ savanamayaṃ puññakiriyavatthu. Diṭṭhijugataṃ pana sabbesaṃ niyamalakkhaṇaṃ. Yaṃkiñci puññaṃ karontassa hi diṭṭhiyā ujubhāveneva mahapphalaṃ hoti.
Có bảy cơ sở tạo phước báu khác là: (1) cơ sở tạo phước báu gắn liền với sự cung kính, (2) gắn liền với sự giúp đỡ (giúp làm phận sự của người khác), (3) bằng cách hồi hướng phước, (4) bằng cách tùy hỷ phước, (5) thành tựu với việc thuyết giảng Giáo Pháp, (6) thành tựu với việc lắng nghe Giáo Pháp, và (7) cơ sở tạo phước báu là việc đạt đến quan điểm ngay thẳng. Trong số bảy cơ sở tạo phước báu đó, sự cung kính cần được hiểu qua các biểu hiện như khi nhìn thấy một vị Trưởng lão thì đứng dậy đi ra tiếp đón, nhận lấy bình bát và y phục, đảnh lễ, nhường đường, v.v. Gắn liền với sự giúp đỡ nên được hiểu qua các biểu hiện như sau: làm các bổn phận đối với các vị Tỳ-khưu lớn tuổi hơn; khi thấy vị Tỳ-khưu đi vào làng khất thực đã cầm lấy bình bát rồi khuyến khích và nhận đồ ăn khất thực trong làng; và sau khi nghe rằng “hãy mang bình bát của các vị Tỳ-khưu đến” liền nhanh chóng đi lấy bình bát đến. Việc hồi hướng phước báu nên được hiểu rằng– Sau khi đã cúng dường bốn món vật dụng, rồi hồi hướng phần phước báu này ‘hãy có đối với tất cả chúng sanh’. Việc tùy hỷ phước báu nên được hiểu với việc tùy hỷ phước báu mà người khác đã ban cho (bằng cách nói) rằng “Lành thay! Tốt đẹp thay!” Một vị Tỳ-khưu đã thiết lập do ước muốn rằng– “Mọi người sẽ biết rằng: Ta là vị Pháp sư;” vị ấy thuyết giảng vì sự thôi thúc của lòng tham muốn và bị nung nấu bởi lợi lộc và cung kính, việc đó không mang lại quả báo lớn. (Ngược lại) có vị thuyết giảng Giáo Pháp mà bản thân hiểu biết rành rẽ cho người khác, không mong cầu sự đáp đền, đây là cơ sở tạo phước báu được thành tựu với việc giảng Giáo Pháp. Có người khi nghe Pháp với ý muốn rằng: “Mọi người sẽ biết: ‘Ta là người có đức tin với biểu hiện như vậy’”; việc đó không mang lại quả báo lớn. Nhưng lại có người lắng nghe Giáo Pháp với tâm nhu hòa, lan tỏa điều lợi ích mục đích rằng: “Điều này sẽ đem lại cho ta quả báu lớn lao như vậy;” đây là cơ sở tạo phước báu được thành tựu do việc lắng nghe Giáo Pháp. Còn việc đạt đến quan điểm ngay thẳng là trạng thái xác định rõ ràng cho tất cả cơ sở tạo phước báu. Thật vậy, người tạo bất cứ phước báu nào có được kết quả lớn cũng nhờ vào tính chất ngay thẳng do quan điểm đó.
Iti imesaṃ sattannaṃ puññakiriyavatthūnaṃ purimeheva tīhi saṅgaho veditabbo. Ettha hi apacitiveyyāvaccāni sīlamaye. Pattidānapattabbhanumodanāni dānamaye. Desanāsavanāni bhāvanāmaye. Diṭṭhijugataṃ tīsupi saṅgahaṃ gacchati.
Bảy cơ sở tạo phước báu này nên được hiểu là– (có thể) nhiếp hợp được với ba cơ sở được đề cập trước đó là như vậy. Thật vậy, ở đây sự cung kính và sự giúp đỡ (giúp làm phận sự của người khác) được nhiếp hợp vào yếu tố tạo thành giới. Sự hồi hướng phước và sự tùy hỷ phước được nhiếp hợp vào yếu tố tạo thành bố thí. Việc thuyết giảng Giáo Pháp và việc lắng nghe Giáo Pháp được nhiếp hợp vào yếu tố tạo thành việc tu tập. Việc đạt đến quan điểm ngay thẳng được nhiếp hợp vào cả ba yếu tố trên. (38)
Codanāvatthūnīti codanākāraṇāni. Diṭṭhenāti maṃsacakkhunā vā dibbacakkhunā vā vītikkamaṃ disvā codeti. Sutenāti pakatisotena vā dibbasotena vā parassa saddaṃ sutvā codeti. Parisaṅkāya vāti diṭṭhaparisaṅkitena vā sutaparisaṅkitena vā mutaparisaṅkitena vā codeti. Ayamettha saṅkhepo, vitthāro pana samantapāsādikāyaṃ vuttanayeneva veditabbo.
Cơ sở của sự quở trách: nguyên nhân quở trách. Do đã thấy: Sau khi đã nhìn thấy lỗi lầm bằng mắt thường, hoặc bằng thiên nhãn rồi quở trách. Do đã nghe: Sau khi đã lắng nghe âm thanh của người khác bằng tai thường, hoặc bằng thiên nhĩ rồi quở trách. Do sự nghi ngờ: quở trách do sự nghi ngờ vì đã thấy, do sự nghi ngờ vì đã nghe, hoặc do sự nghi ngờ vì đã biết. Ở đây điều này là phần tóm tắt, còn chiết tiết hơn nên được hiểu theo phương thức đã được nói trong bộ Samantapāsādikā. (39)
Kāmūpapattiyoti kāmūpasevanā kāmappaṭilābhā vā. Paccupaṭṭhitakāmāti nibaddhakāmā nibaddhārammaṇā. Seyyathāpi manussāti yathā manussā. Manussā hi nibaddheyeva vatthusmiṃ vasaṃ vattenti. Yattha paṭibaddhacittā honti, satampi sahassampi datvā mātugāmaṃ ānetvā nibaddhabhogaṃ bhuñjanti. Ekacce devā nāma catudevalokavāsino. Tepi nibaddhavatthusmiṃyeva vasaṃ vattenti. Ekacce vinipātikā nāma nerayike ṭhapetvā avasesā macchakacchapādayopi hi nibaddhavatthusmiṃyeva vasaṃ vattenti. Maccho attano macchiyā kacchapo kacchapiyāti. Nimminitvā nimminitvāti nīlapītādivasena yādisaṃ yādisaṃ attano rūpaṃ icchanti, tādisaṃ tādisaṃ nimminitvā āyasmato anuruddhassa purato manāpakāyikā devatā viya. Nimmānaratīti evaṃ sayaṃ nimmite nimmite nimmāne rati etesanti nimmānaratī. Paranimmitakāmāti parehi nimmitakāmā. Tesañhi manaṃ ñatvā pare yathārucitaṃ kāmabhogaṃ nimminanti, te tattha vasaṃ vattenti. Kathaṃ parassa manaṃ jānantīti? Pakatisevanavasena. Yathā hi kusalo sūdo rañño bhuñjantassa yaṃ yaṃ so bahuṃ gaṇhāti, taṃ taṃ tassa ruccatīti jānāti, evaṃ pakatiyā abhirucitārammaṇaṃ ñatvā tādisakaṃyeva nimminanti. Te tattha vasaṃ vattenti, methunaṃ sevanti. Keci pana therā ‘‘hasitamattena olokitamattena āliṅgitamattena ca tesaṃ kāmakiccaṃ ijjhatī’’ti vadanti, taṃ aṭṭhakathāyaṃ ‘‘etaṃ pana natthī’’ti paṭikkhittaṃ. Na hi kāyena aphusantassa phoṭṭhabbaṃ kāmakiccaṃ sādheti. Channampi hi kāmāvacarānaṃ kāmā pākatikā eva. Vuttampi cetaṃ –
‘‘Cha ete kāmāvacarā, sabbakāmasamiddhino;
Sabbesaṃ ekasaṅkhātaṃ, āyu bhavati kittaka’’nti. (vibha. 1023);
Có sự tiếp cận dục: sự theo đuổi dục hoặc sự đạt được dục. Có dục đã được hiện hữu: Có dục đã được ràng buộc, có đối tượng đã được ràng buộc. Như là loài người: như loài người. Bởi vì, loài người vận hành sự tác động trong các đối tượng đã bị ràng buộc. Bất luận nơi nào, có tâm bị trói buộc, đã phải bỏ ra hàng trăm hay hàng ngàn (tiền của) rồi đưa người phụ nữ ấy về tận hưởng sự khoái lạc đã bị ràng buộc. Một số chư Thiên: Là các vị chư Thiên sống ở bốn cõi trời. Ngay cả các chư Thiên cũng vận hành sự tác động trong các đối tượng đã được ràng buộc. Một số hạng ở chốn bị trừng phạt: Các chư Thiên còn lại, ngoại trừ chúng sanh ở địa ngục, luôn cả loài cá và rùa, v.v., cũng vận hành sự tác động trong các đối tượng đã bị ràng buộc. Cá trống vận hành sự tác động với cá mái, rùa đực cũng vận hành sự tác động với rùa cái. Sau khi đã lần lượt biến hóa ra: Đã hóa hiện ra những hình tướng mong muốn cho bản thân, như hình tướng màu xanh, hình tướng màu vàng, v.v., như thế nào; giống như chư Thiên Manāpakāyikā đã hóa hiện ra hình tướng trước mặt Đại đức Anuruddha như thế ấy. Chư Thiên cõi Hóa Lạc Thiên: Chư Thiên cõi Hóa Lạc Thiên với ý nghĩa rằng các vị ấy thích thú với những thứ đã được tự mình hóa hiện ra như thế. Có dục đã được tạo ra bởi những người khác: Có dục đã được hóa hiện bởi những người khác. Bởi vì, chư Thiên khác sau khi biết được tâm ý của các vị đó, liền hóa hiện sự hưởng thụ các dục theo ý thích, họ vận hành sự tác động đến chính sự hưởng thụ các dục ấy. Biết được tâm ý của người khác như thế nào? Biết được do tác động sự gần gũi thông thường. Ví như một người đầu bếp khéo léo, trong khi đức vua đang dùng bữa thì biết được rằng: Những món ăn nào Đức vua dùng nhiều, (thì) những món ăn đó làm Ngài ưa thích. Tương tự như vậy, sau khi biết được những đối tượng ước muốn theo lẽ thường, rồi hóa hiện ra những đối tượng đúng như thế ấy. Họ vận hành sự tác động trong những thứ đó, tức là thực hành việc đôi lứa. Còn một số Trưởng lão nói rằng: “Việc làm liên quan đến dục của họ được thành tựu với các biểu hiện như chỉ với tiếng cười, chỉ với cái nhìn, và chỉ với sự ôm ấp. Lời nói đó của các vị ấy đã bị phản bác trong Chú giải như sau– Những lời nói đó không có (trong kinh điển). Việc làm liên quan đến dục không thành tựu ở các xúc cho người không xúc chạm bằng thân. Bởi vì, các dục của chư Thiên ở sáu cõi trời Dục giới vận hành một cách tự nhiên như vậy. Và điều này, đã được nói như sau–
Chư Thiên ở sáu cõi trời Dục giới ấy, có sự sung mãn bởi tất cả các Dục;
Tuổi thọ của các vị ấy, khi tính chung lại thì sẽ là bao nhiêu? (vibha. 1023); (40)
Sukhūpapattiyoti sukhappaṭilābhā. Uppādetvā uppādetvā sukhaṃ viharantīti te heṭṭhā paṭhamajjhānasukhaṃ nibbattetvā upari vipākajjhānasukhaṃ anubhavantīti attho. Sukhena abhisannāti dutiyajjhānasukhena tintā. Parisannāti samantato tintā. Paripūrāti paripuṇṇā. Paripphuṭāti tasseva vevacanaṃ. Idampi vipākajjhānasukhameva sandhāya vuttaṃ. Ahosukhaṃ ahosukhanti tesaṃ kira bhavalobho mahā uppajjati. Tasmā kadāci karahaci evaṃ udānaṃ udānenti. Santamevāti paṇītameva. Tusitāti tato uttariṃ sukhassa apatthanato santuṭṭhā hutvā. Sukhaṃ paṭivedentīti tatiyajjhānasukhaṃ anubhavanti.
Có sự tiếp cận lạc: Có sự đạt được lạc. (Có những chúng sanh) lần lượt sanh lên rồi trú vào lạc: Sau khi làm cho sự an lạc trong Sơ thiền sanh khởi ở cõi thấp rồi thọ hưởng sự an lạc trong thiền là quả ở cõi cao, là ý nghĩa. Được thấm nhuần bởi lạc: Được thấm ướt bởi sự an lạc trong Nhị thiền. Được tẩm ướt: được thấm ướt khắp xung quanh. Được tràn ngập: được thành tựu. Được thấm đẫm: là từ đồng nghĩa của chính từ ‘được tràn ngập’. Ngay cả điều này cũng được đề cập đến sự an lạc trong thiền là quả. “Ôi sự an lạc! Ôi sự an lạc!” Nghe rằng chư Thiên ấy khởi lên sự tham muốn lớn ở các hữu. Vì vậy thỉnh thoảng đôi lúc, (họ) thốt lên lời cảm hứng như vậy. Ngay trong khi đang tồn tại: vô cùng cao thượng. Được hài lòng: Là người tự biết đủ vì không mong muốn lạc nào hơn thế nữa. Cảm thọ sự an lạc: Cảm thọ sự an lạc trong Tam thiền. (41)
Sekkhā paññāti satta ariyapaññā. Arahato paññā asekkhā. Avasesā paññā nevasekkhānāsekkhā.
Tuệ Hữu Học: Tuệ của bảy bậc Thánh (trử bậc Thánh A-ra-hán). Tuệ Vô Học: Tuệ của bậc A-ra-hán. Các tuệ còn lại là (tuệ) không phải Hữu Học không phải Vô Học. (42)
Cintāmayādīsu ayaṃ vitthāro – ‘‘tattha katamā cintāmayā paññā? Yogavihitesu vā kammāyatanesu yogavihitesu vā sippāyatanesu yogavihitesu vā vijjāṭṭhānesu kammassakataṃ vā saccānulomikaṃ vā rūpaṃ aniccanti vā…pe… viññāṇaṃ aniccanti vā yaṃ evarūpaṃ anulomikaṃ khantiṃ diṭṭhiṃ ruciṃ muttiṃ pekkhaṃ dhammanijjhānakkhantiṃ parato asutvā paṭilabhati, ayaṃ vuccati cintāmayā paññā. Tattha katamā sutamayā paññā? Yogavihitesu vā kammāyatanesu…pe… dhammanijjhānakkhantiṃ parato sutvā paṭilabhati, ayaṃ vuccati sutamayā paññā. (Tattha katamā bhāvanāmayā paññā?) Sabbāpi samāpannassa paññā bhāvanāmayā paññā’’ti (vibha. 768-69).
Tuệ có yếu tố tạo thành là việc suy nghĩ (tuệ tư), v.v., điều này có sự giải thích chi tiết như sau– “Trong các tuệ ấy, tuệ có yếu tố tạo thành là việc suy nghĩ (tuệ tư) là (có ý nghĩa) thế nào? Trong các lãnh vực công việc được sắp xếp bằng tuệ, hoặc trong các lãnh vực thủ công được sắp xếp bằng tuệ, hoặc trong các lãnh vực khoa học được sắp xếp bằng tuệ, một người không lắng nghe từ người khác nhưng lại đạt được (trí) về nghiệp của mình đã tạo, hoặc (trí) thuận theo chân lý, sự chấp nhận, quan điểm, sự ưa thích, sự giải thoát, sự trông mong, kiên nhẫn nghiệm pháp hợp lẽ nào với hình thức như vầy rằng– “sắc là vô thường …nt… thức là vô thường,” đây được gọi là tuệ có yếu tố tạo thành là việc suy nghĩ. Ở đây, tuệ có yếu tố tạo thành là việc nghe (tuệ văn) là (có ý nghĩa) thế nào? Trong các lãnh vực công việc được sắp xếp bằng tuệ, …nt… một người lắng nghe từ người khác mà đạt được (trí), đây được gọi là tuệ có yếu tố tạo thành là việc nghe. Ở đây, tuệ có yếu tố tạo thành là việc tu tập (tuệ tu) là (có ý nghĩa) thế nào? Tất cả tuệ của vị nhập thiền, đây được gọi là tuệ có yếu tố tạo thành là việc tu tập. (43)
Sutāvudhanti sutameva āvudhaṃ. Taṃ atthato tepiṭakaṃ buddhavacanaṃ. Tañhi nissāya bhikkhu paññāvudhaṃ nissāya sūro yodho avikampamāno mahākantāraṃ viya saṃsārakantāraṃ atikkamati avihaññamāno. Teneva vuttaṃ – ‘‘sutāvudho, bhikkhave, ariyasāvako akusalaṃ pajahati, kusalaṃ bhāveti, sāvajjaṃ pajahati, anavajjaṃ bhāveti, suddhamattānaṃ pariharatī’’ti (a. ni. 7.67).
Việc nghe là vũ khí: Chính việc nghe là vũ khí. Về ý nghĩa bao gồm lời dạy của Đức Phật, tức là Tam Tạng (Tipiṭaka). Bởi vì, vị Tỳ-khưu dựa vào điều đó, tức là dựa vào năm loại vũ khí, là vị không sợ hãi, vượt qua bãi sa mạc là luân hồi, giống như một chiến binh dũng cảm không sợ hãi vượt qua bãi sa mạc rộng lớn. Vì lý do đó, Đức Thế Tôn đã nói rằng: “Này các Tỳ-khưu, vị Thánh đệ tử từ bỏ pháp bất thiện, tu tập pháp thiện, từ bỏ pháp bị chê trách, tu tập pháp không bị chê trách, gìn giữ bản thân trong sạch.” (a. ni. 7.67);
Pavivekāvudhanti ‘‘kāyaviveko cittaviveko upadhiviveko’’ti ayaṃ tividhopi vivekova āvudhaṃ. Tassa nānākaraṇaṃ kāyaviveko vivekaṭṭhakāyānaṃ nekkhammābhiratānaṃ. Cittaviveko ca parisuddhacittānaṃ paramavodānappattānaṃ. Upadhiviveko ca nirupadhīnaṃ puggalānaṃ. Imasmiñhi tividhe viveke abhirato, na kutoci bhāyati. Tasmā ayampi avassayaṭṭhena āvudhanti vutto. Lokiyalokuttarapaññāva āvudhaṃ paññāvudhaṃ. Yassa sā atthi, so na kutoci bhāyati, na cassa koci bhāyati. Tasmā sāpi avassayaṭṭheneva āvudhanti vuttā.
Việc ẩn cư là vũ khí: vũ khí là sự viễn ly, có ba hạnh viễn ly này– “viễn ly về thân, viễn ly về tâm, viễn ly về mầm tái sanh”. Ba sự viễn ly đó là việc làm khác biệt, viễn ly về thân đối với các vị có thân đã lui về nơi ẩn dật, đã thích thú trong việc xuất ly. Viễn ly về tâm đối với các vị có tâm hoàn toàn trong sạch, đã đạt đến sự thanh tịnh tuyệt đối; và viễn ly về mầm tái sanh là đối với các cá nhân không còn mầm tái sanh, đã đạt đến việc lìa khỏi các pháp tạo tác. Và viễn ly về mầm tái sanh là đối với các cá nhân không còn mầm tái sanh (đã đạt đến việc lìa khỏi các pháp tạo tác, tức là Niết Bàn). Thật vậy, người được thỏa thích về sự viễn ly này đều không sợ hãi ở bất cứ đâu. Vì vậy, sự viễn ly này cũng được gọi là vũ khí, với ý nghĩa là sự nâng đỡ. Tuệ là vũ khí: Tuệ thuộc Hiệp Thế và Siêu Thế là vũ khí. Bởi vì, người có vũ khí là tuệ thì không sợ hãi bất cứ nơi đâu, và không ai sợ hãi bất cứ ai. Vì vậy, tuệ này cũng được gọi là vũ khí, với ý nghĩa là sự nâng đỡ. (44)
Anaññātaññassāmītindriyanti ito pubbe anaññātaṃ aviditaṃ dhammaṃ jānissāmīti paṭipannassa uppannaṃ indriyaṃ. Sotāpattimaggañāṇassetaṃ adhivacanaṃ. Aññindriyanti aññābhūtaṃ ājānanabhūtaṃ indriyaṃ. Sotāpattiphalato paṭṭhāya chasu ṭhānesu ñāṇassetaṃ adhivacanaṃ. Aññātāvindriyanti aññātāvīsu jānanakiccapariyosānappattesu dhammesu indriyaṃ. Arahattaphalañāṇassetaṃ adhivacanaṃ.
Vị tri quyền: Quyền sanh khởi trong đang thực hành với hy vọng rằng– “ta sẽ biết được pháp chưa từng được biết, chưa từng được rõ trước đây;” đây là tên gọi của trí về Đạo Nhập Lưu (trí tuệ đưa đến việc thấy được Niết Bàn lần đầu tiên của Đạo Nhập Lưu). Dĩ tri quyền: Quyền có khả năng về điều đã được biết, tức là trí tuệ biết được Niết Bàn các lần sau (từ Quả Nhập Lưu cho đến Đạo A-ra-hán); đây là tên của trí ở sáu vị trí bắt đầu từ Quả Nhập Lưu (cho đến Đạo A-ra-hán). Cụ tri quyền: Quyền trong các pháp của vị đã thấu rõ, tức là đã đạt đến tận cùng phận sự của sự hiểu biết; đây là trí về Quả A-ra-hán. (45)
Maṃsacakkhu cakkhupasādo. Dibbacakkhu ālokanissitaṃ ñāṇaṃ. Paññācakkhu lokiyalokuttarapaññā.
Nhục nhãn: Có thần kinh nhãn. Thiên nhãn: trí tuệ nương vào đề mục ánh sáng. Tuệ nhãn: Tuệ thuộc Hiệp Thế và Siêu Thế. (46)
Adhisīlasikkhādīsu adhisīlañca taṃ sikkhitabbato sikkhā cāti adhisīlasikkhā. Itarasmiṃ dvayepi eseva nayo. Tattha sīlaṃ adhisīlaṃ, cittaṃ adhicittaṃ, paññā adhipaññāti ayaṃ pabhedo veditabbo –
Sự học tập về thắng giới, v.v, Thắng giới là sự học tập vì cần phải học tập, do đó được gọi là sự học tập về thắng giới. Đối với hai sự học tập còn lại cũng áp dụng phương thức ấy tương tự. Trong các sự học tập ấy, giới là thắng giới, tâm là thắn tâm, và tuệ là thắng tuệ. Điều này nên được biết có sự khác biệt chừng ấy—
Sīlaṃ nāma pañcasīladasasīlāni, pātimokkhasaṃvaro adhisīlaṃ nāma. Aṭṭha samāpattiyo cittaṃ, vipassanāpādakajjhānaṃ adhicittaṃ. Kammassakatañāṇaṃ paññā, vipassanāpaññā adhipaññā. Anuppannepi hi buddhuppāde pavattatīti pañcasīladasasīlāni sīlameva, pātimokkhasaṃvarasīlaṃ buddhuppādeyeva pavattatīti adhisīlaṃ. Cittapaññāsupi eseva nayo. Apica nibbānaṃ patthayantena samādinnaṃ pañcasīlampi dasasīlampi adhisīlameva. Samāpannā aṭṭha samāpattiyopi adhicittameva. Sabbaṃ vā lokiyaṃ sīlameva, lokuttaraṃ adhisīlaṃ. Cittapaññāsupi eseva nayo.
Năm giới, mười giới gọi là Giới; sự thu thúc trong giới bổn Pātimokkha gọi là Thắng Giới. Tám thiền chứng là Tâm (Định). Thiền định là nền tảng của Minh sát (thiền tuệ) là Thắng Tâm. Trí về nghiệp của mình đã tạo là Tuệ. Minh sát tuệ là Thắng Tuệ. Bởi vì, năm giới và mười giới vận hành trong thời kỳ đức Phật chưa hiện khởi, vì nguyên nhân ấy (năm giới, mười giới) gọi là Giới. Sự thu thúc trong giới bổn Pātimokkha chỉ vận hành trong thời kỳ đức Phật đã hiện khởi, vì vậy sự phòng hộ này được gọi là Thắng Giới. Đối với Tâm và Tuệ cũng áp dụng theo phương thức này. Và hơn nữa, dù là năm giới hay mười giới được thọ trì với ước nguyện đạt đến Niết Bàn, cũng gọi là Thắng Giới. Ngay cả khi đã nhập vào tám thiền chứng, cũng chính là Thắng Tâm. Hoặc nói cách khác, tất cả Giới thuộc về thế gian chỉ là Giới, còn Giới thuộc về Siêu Thế là Thắng Giới. Đối với Tâm và Tuệ cũng áp dụng phương thức này. (47)
Bhāvanāsu khīṇāsavassa pañcadvārikakāyo kāyabhāvanā nāma. Aṭṭha samāpattiyo cittabhāvanā nāma. Arahattaphalapaññā paññābhāvanā nāma. Khīṇāsavassa hi ekanteneva pañcadvārikakāyo subhāvito hoti. Aṭṭha samāpattiyo cassa na aññesaṃ viya dubbalā, tasseva ca paññā bhāvitā nāma hoti paññāvepullapattiyā. Tasmā evaṃ vuttaṃ.
Sự tu tập, v.v, Thân vận hành ở trong năm Môn được gọi là sự tu tập về thân. Tám thiền chứng được gọi là sự tu tập về tâm. Tuệ trong Quả A-ra-hán gọi là sự tu tập về tuệ. Bởi vì, bậc Lậu Tận là vị đã khéo tu tập ở thân vận hành trong năm Môn hoàn toàn. Tám thiền chứng của vị ấy không yếu ớt như của người khác, và tuệ của chính vị đó gọi là đã tu tập, do đạt đến sự phát triển trọn vẹn bởi tuệ. Vì vậy, vị Tướng quân Chánh Pháp Sāriputta mới nói như vậy. (48)
Anuttariyesu vipassanā dassanānuttariyaṃ maggo paṭipadānussariyaṃ. Phalaṃ vimuttānuttariyaṃ. Phalaṃ vā dassanānuttariyaṃ. Maggo paṭipadānuttariyaṃ. Nibbānaṃ vimuttānuttariyaṃ. Nibbānaṃ vā dassanānuttariyaṃ, tato uttariñhi daṭṭhabbaṃ nāma natthi. Maggo paṭipadānuttariyaṃ. Phalaṃ vimuttānuttariyaṃ. Anuttariyanti uttamaṃ jeṭṭhakaṃ.
Sự vô thượng, v.v, Minh sát là sự thấy vô thượng, Đạo là lối thực hành vô thượng. Quả là sự giải thoát vô thượng. Hoặc là, Quả là sự thấy vô thượng. Đạo là lối thực hành vô thượng. Niết Bàn là sự giải thoát vô thượng. Hoặc là, Niết Bàn là sự thấy vô thượng, bởi vì pháp có thể nhìn thấy vượt lên trên cả điều ấy là không có. Đạo là lối thực hành vô thượng. Quả là sự giải thoát vô thượng. Sự vô thượng: là tối thượng, là cao cả. (49)
Samādhīsu paṭhamajjhānasamādhi savitakkasavicāro. Pañcakanayena dutiyajjhānasamādhi avitakkavicāramatto. Seso avitakkaavicāro.
Trong Định, v.v, Định trong Sơ thiền là (định) hữu tầm hữu tứ. Theo cách thức năm tầng thiền, định trong Nhị thiền là (định) vô tầm hữu tứ. Định còn lại (từ định trong Nhị thiền) là (định) vô tầm vô tứ. (50)
Suññatādīsu tividhā kathā āgamanato, saguṇato, ārammaṇatoti. Āgamanato nāma eko bhikkhu anattato abhinivisitvā anattato disvā anattato vuṭṭhāti, tassa vipassanā suññatā nāma hoti. Kasmā? Asuññatattakārakānaṃ kilesānaṃ abhāvā. Vipassanāgamanena maggasamādhi suññato nāma hoti. Maggāgamanena phalasamādhi suññato nāma. Aparo aniccato abhinivisitvā aniccato disvā aniccato vuṭṭhāti. Tassa vipassanā animittā nāma hoti. Kasmā? Nimittakārakakilesābhāvā. Vipassanāgamanena maggasamādhi animitto nāma hoti. Maggāgamanena phalaṃ animittaṃ nāma. Aparo dukkhato abhinivisitvā dukkhato disvā dukkhato vuṭṭhāti, tassa vipassanā appaṇihitā nāma hoti. Kasmā? Paṇidhikārakakilesābhāvā. Vipassanāgamanena maggasamādhi appaṇihito nāma. Maggāgamanena phalaṃ appaṇihitaṃ nāmāti ayaṃ āgamanato kathā. Maggasamādhi pana rāgādīhi suññatattā suññato, rāganimittādīnaṃ abhāvā animitto, rāgapaṇidhiādīnaṃ abhāvā appaṇihitoti ayaṃ saguṇato kathā. Nibbānaṃ rāgādīhi suññatattā rāgādinimittapaṇidhīnañca abhāvā suññatañceva animittañca appaṇihitañca. Tadārammaṇo maggasamādhi suññato animitto appaṇihito. Ayaṃ ārammaṇato kathā.
Lời thuyết giảng về không tánh, v.v có ba phần là theo sự thành tựu, theo đặc tính của chính nó, và theo đối tượng. Một vị Tỳ-khưu sau khi chấp chặt (các pháp) là vô ngã và sau khi thấy là vô ngã, (vị ấy) thoát ra khỏi tánh vô ngã, gọi là (tánh không) theo sự thành tựu. Minh sát của vị ấy gọi là không tánh. Tại sao? Bởi vì không có phiền não (có khả năng) tạo ra sự không trống rỗng. Định tâm của Đạo gọi là ‘không tánh’ do thành tựu bởi Minh sát. Định tâm của Quả gọi là ‘không tánh’ do thành tựu bởi Đạo. Một vị khác, sau khi chấp chặt (các pháp) là vô ngã và sau khi thấy là vô ngã và (vị ấy) thoát ra khỏi tánh vô ngã. Minh sát của vị ấy gọi là vô tướng. Tại sao? Bởi vì không có phiền não (có khả năng) tạo ra hiện tướng. Định tâm của Đạo gọi là vô tướng do thành tựu bởi Minh sát. Định tâm của Quả gọi là ‘vô tướng’ do thành tựu bởi Đạo. Lại một vị khác, sau khi chấp chặt (các pháp) là khổ và sau khi thấy là khổ và (vị ấy) thoát ra khỏi tánh khổ. Minh sát của vị ấy gọi là vô nguyện. Tại sao? Bởi vì không có phiền não (có khả năng) tạo ra sự ước nguyện. Định tâm của Đạo là ‘vô nguyện’ do thành tựu bởi Minh sát. Quả là ‘vô nguyện’ do thành tựu bởi Đạo. Đây là lời thuyết giảng theo sự thành tựu. Hơn nữa, Định tâm của Đạo là không tánh do tính chất rỗng không khỏi luyến ái, v.v. Là ‘vô tướng’ bởi không có hiện tướng của ái luyến, v.v., là ‘vô nguyện’ bởi không có ái luyến là sự ước nguyện, v.v. Đây là lời thuyết giảng theo đặc tính của chính nó. Niết Bàn gọi là không tánh, vô tướng và vô nguyện do trạng thái trống rỗng khỏi luyến ái, v.v., và do không có luyến ái, v.v, là hiện tướng và là sự ước nguyện. Định tâm của Đạo có đối tượng ấy (Niết Bàn) là không tánh, vô tướng, vô nguyện. Đây là lời thuyết giảng theo đối tượng. (51)
Soceyyānīti sucibhāvakarā soceyyappaṭipadā dhammā. Vitthāro panettha ‘‘tattha katamaṃ kāyasoceyyaṃ? Pāṇātipātā veramaṇī’’tiādinā nayena vuttānaṃ tiṇṇaṃ sucaritānaṃ vasena veditabbo.
Sự trong sạch: Các pháp tạo ra trạng thái trong sạch, là đạo lộ thực hành đưa đến sự thanh tịnh. Hơn nữa, ở đây phần chi tiết sẽ được giảng giải do tác động của ba thiện hạnh đã được trình bày theo phương thức sau– “Trong ba sự thanh tịnh, sự trong sạch ở thân là gì? Sự tránh xa việc sát sanh…” (52)
Moneyyānīti munibhāvakarā moneyyappaṭipadā dhammā. Tesaṃ vitthāro ‘‘tattha katamaṃ kāyamoneyyaṃ? Tividhakāyaduccaritassa pahānaṃ kāyamoneyyaṃ, tividhaṃ kāyasucaritaṃ kāyamoneyyaṃ, kāyārammaṇe ñāṇaṃ kāyamoneyyaṃ, kāyapariññā kāyamoneyyaṃ, kāyapariññāsahagato maggo kāyamoneyyaṃ, kāyasmiṃ chandarāgappahānaṃ kāyamoneyyaṃ, kāyasaṅkhāranirodhā catutthajjhānasamāpatti kāyamoneyyaṃ. Tattha katamaṃ vacīmoneyyaṃ? Catubbidhavacīduccaritassa pahānaṃ vacīmoneyyaṃ, catubbidhaṃ vacīsucaritaṃ vacīmoneyyaṃ, vācārammaṇe ñāṇaṃ vacīmoneyyaṃ vācāpariññā vacīmoneyyaṃ pariññāsahagato maggo, vācāya chandarāgappahānaṃ, vacīsaṅkhāranirodhā dutiyajjhānasamāpatti vacīmoneyyaṃ. Tattha katamaṃ manomoneyyaṃ? Tividhamanoduccaritassa pahānaṃ manomoneyyaṃ , tividhaṃ manosucaritaṃ manomoneyyaṃ, manārammaṇe ñāṇaṃ manomoneyyaṃ, manopariññā manomoneyyaṃ. Pariññāsahagato maggo, manasmiṃ chandarāgappahānaṃ , cittasaṅkhāranirodhā saññāvedayitanirodhasamāpatti manomoneyya’’nti (mahāni. 14).
Hiền trí hạnh về ý: Các pháp tạo ra bản thể bậc hiền trí, là đạo lộ thực hành của bậc hiền trí. Sự giảng giải chi tiết về các pháp tạo nên bản thể bậc hiền trí như sau– “Ở đây, hiền trí hạnh về thân là điều nào? Sự dứt bỏ ba loại uế hạnh về thân là hiền trí hạnh về thân, ba loại thiện hạnh về thân là hiền trí hạnh về thân, trí ở đối tượng thân là hiền trí hạnh về thân, sự biết toàn diện về thân là hiền trí hạnh về thân, Đạo đi chung với sự biết toàn diện về thân là hiền trí hạnh về thân, sự dứt bỏ mong muốn và luyến ái ở thân là hiền trí hạnh về thân, sự chứng đạt Tứ thiền có sự diệt của thân hành là hiền trí hạnh về thân; Ở đây, hiền trí hạnh về khẩu là điều nào? Sự dứt bỏ bốn loại uế hạnh về khẩu là hiền trí hạnh về khẩu, bốn loại thiện hạnh về khẩu là hiền trí hạnh về khẩu, trí ở đối tượng khẩu là hiền trí hạnh về khẩu, sự biết toàn diện về khẩu là hiền trí hạnh về khẩu, Đạo đi chung với sự biết toàn diện về khẩu là hiền trí hạnh về khẩu, sự dứt bỏ mong muốn và luyến ái ở khẩu, sự chứng đạt Nhị thiền có sự diệt của khẩu hành là hiền trí hạnh về khẩu; Hiền trí hạnh về ý là điều nào? Sự dứt bỏ ba loại uế hạnh về ý là hiền trí hạnh về ý, ba loại thiện hạnh về ý là hiền trí hạnh về ý, trí ở đối tượng tâm là hiền trí hạnh về ý, sự biết toàn diện về tâm là hiền trí hạnh về ý, Đạo đồng hành với sự biết toàn diện là hiền trí hạnh về ý, sự dứt bỏ mong muốn và luyến ái ở tâm là hiền trí hạnh về ý, sự chứng đạt diệt thọ tưởng có sự diệt của tâm hành là hiền trí hạnh về ý; (mahāni. 14). (53)
Kosallesu āyoti vuḍḍhi. Apāyoti avuḍḍhi. Tassa tassa kāraṇaṃ upāyo. Tesaṃ pajānanā kosallaṃ. Vitthāro pana vibhaṅge vuttoyeva.
Sự phát triển các sự thông thạo gọi là ‘việc tăng trưởng’. Sự không tăng trưởng là ‘việc giảm thiểu’. Nguyên nhân của sự tăng trưởng và sự không tăng trưởng ấy là ‘về cách thức’. Sự biết rõ về sự tăng trưởng, sự không tăng trưởng và nguyên nhân của sự tăng trưởng và không tăng trưởng ấy là sự thông thạo. Hơn nữa, sự giảng giải chi tiết đã được trình bày trong bộ Phân Tích.
Vuttañhetaṃ – ‘‘tattha katamaṃ āyakosallaṃ? Ime dhamme manasikaroto anuppannā ceva akusalā dhammā nuppajjanti, uppannā ca akusalā dhammā nirujjhanti. Ime vā pana me dhamme manasikaroto anuppannā ceva kusalā dhammā uppajjanti, uppannā ca kusalā dhammā bhiyyobhāvāya vepullāya bhāvanāya pāripūriyā saṃvattantīti, yā tattha paññā pajānanā…pe… sammādiṭṭhi. Idaṃ vuccati āyakosallaṃ. Tattha katamaṃ apāyakosallaṃ? Ime dhamme manasikaroto anuppannā ceva kusalā dhammā na uppajjanti, uppannā ca kusalā dhammā nirujjhanti. Ime vā pana me dhamme manasikaroto anuppannā ceva akusalā dhammā uppajjanti, uppannā ca akusalā dhammā bhiyyobhāvāya vepullāya bhāvanāya pāripūriyā saṃvattantīti, yā tattha paññā pajānanā…pe… sammādiṭṭhi. Idaṃ vuccati apāyakosallaṃ. Sabbāpi tatrupāyā paññā upāyakosalla’’nti (vibha. 771). Idaṃ pana accāyikakicce vā bhaye vā uppanne tassa tikicchanatthaṃ ṭhānuppattiyā kāraṇajānanavaseneva veditabbaṃ.
Và điều này đã được nói như sau– “Ở đây, sự thông thạo về việc tăng trưởng (thiện pháp) là điều nào? Trong khi vị ấy tác ý đến các pháp này, các pháp bất thiện chưa sanh khởi (sẽ) không sanh khởi, và các pháp bất thiện đã sanh khởi (sẽ) hoại diệt. Hoặc là, trong khi vị ấy tác ý đến các pháp này, các pháp thiện chưa sanh khởi (sẽ) sanh khởi, các pháp thiện đã sanh khởi vận hành đưa đến sự tăng trưởng thêm hơn nữa, đi đến sự phát triển trọn vẹn, đi đến sự tu tập, và đi đến sự đầy đủ trọn vẹn. Ở đây, là tuệ, là sự nhận biết …nt… (sự không si mê, sự chọn lựa pháp), chánh kiến. Điều này là sự thông thạo về việc tăng trưởng (thiện pháp). Còn ở đây, sự thông thạo về việc giảm thiểu là điều nào? Trong khi vị ấy tác ý đến các pháp này, không những các pháp thiện chưa sanh khởi (sẽ) không sanh khởi, mà các pháp thiện đã sanh khởi (sẽ) hoại diệt. Hoặc là, trong khi vị ấy tác ý đến các pháp này, các pháp bất thiện chưa sanh khởi, (sẽ) vận hành đưa đến sự tăng trưởng thêm hơn nữa, đi đến sự phát triển trọn vẹn, đi đến sự tu tập, và đi đến sự đầy đủ trọn vẹn. Ở đây, là tuệ, là sự nhận biết …nt… (sự không si mê, sự chọn lựa pháp), chánh kiến. Điều này là sự thông thạo về việc giảm thiểu. Tuệ là đường lối trong sự tăng trưởng và sự không tăng trưởng ấy, tất cả đều là sự thông thảo về đường lối (việc nên làm). (vibha. 771); Ngoài ra, sự thông thạo về đường lối này, cần được hiểu rằng: do tác động sự hiểu biết về nguyên nhân đưa đến việc sanh khởi nơi các cơ sở, nhằm mục đích giải quyết các phận sự khẩn cấp hoặc sự sợ hãi khi điều đó khởi lên. (54)
Madāti majjanākāravasena pavattamānā. Tesu ‘‘ahaṃ nirogo saṭṭhi vā sattati vā vassāni atikkantāni, na me harītakīkhaṇḍampi khāditapubbaṃ, ime panaññe asukaṃ nāma ṭhānaṃ rujjati, bhesajjaṃ khādāmāti vicaranti, ko añño mādiso nirogo nāmā’’ti evaṃ mānakaraṇaṃ ārogyamado. ‘‘Mahallakakāle puññaṃ karissāma, daharamha tāvā’’ti yobbane ṭhatvā mānakaraṇaṃ yobbanamado. ‘‘Ciraṃ jīviṃ, ciraṃ jīvāmi, ciraṃ jīvissāmi; sukhaṃ jīviṃ, sukhaṃ jīvāmi, sukhaṃ jīvissāmī’’ti evaṃ mānakaraṇaṃ jīvitamado.
Sự đam mê: Trong khi vận hành do tác động bởi trạng thái mê muội. Trong các sự mê muội ấy, thực hiện sự ngã mạn như vầy rằng– “Tôi là người khỏe mạnh, suốt 60 hoặc 70 năm đã trôi qua rồi, ngay cả một miếng harītakī tôi cũng chưa từng nhai, còn những người khác thì bị đau ở chỗ này chỗ nọ, đi đi lại lại than vãn rằng: ‘Chỗ này đau, chỗ kia nhức, chúng tôi phải ăn nhai thuốc. Ai khác là người khỏe mạnh như tôi?’” Điều này được gọi là sự đam mê sức khỏe. Ở vào thời kỳ của tuổi trẻ thực hiện sự ngã mạn rằng– “Chúng tôi sẽ tạo phước vào lúc tuổi già, bây giờ chúng ta vẫn còn trẻ.” Điều này là sự đam mê tuổi trẻ. Thực hiện sự ngã mạn như vầy– “Tôi đã sống thọ, tôi đang sống thọ, và tôi sẽ còn sống thọ hơn nữa; tôi đã sống an lạc, tôi đang sống an lạc, và tôi sẽ sống an lạc.” Điều này được gọi là sự đam mê mạng sống. (55)
Ādhipateyyesu adhipatito āgataṃ ādhipateyyaṃ. ‘‘Ettakomhi sīlena samādhinā paññāya vimuttiyā, na me etaṃ patirūpa’’nti evaṃ attānaṃ adhipattiṃ jeṭṭhakaṃ katvā pāpassa akaraṇaṃ attādhipateyyaṃ nāma. Lokaṃ adhipatiṃ katvā akaraṇaṃ lokādhipateyyaṃ nāma. Lokuttaradhammaṃ adhipatiṃ katvā akaraṇaṃ dhammādhipateyyaṃ nāma.
Quyền chủ đạo: trạng thái xuất phát từ sự chủ đạo gọi là quyền chủ đạo. Sau khi đã làm cho bản thân trở thành chủ đạo, tức là làm cho trở thành người đứng đầu như vầy rằng: “Tôi chỉ có bấy nhiêu nhờ giới, định, tuệ, và giải thoát, điều đó không phù hợp đối với tôi, không thực hiện điều xấu ác, được gọi là quyền chủ đạo đối với bản thân. Sau khi đã làm cho thế gian trở thành chủ đạo rồi không thực hiện điều xấu ác, được gọi là quyền chủ đạo đối với thế gian. Sau khi đã làm cho pháp Siêu Thế trở thành chủ đạo rồi không thực hiện điều xấu ác, được gọi là quyền chủ đạo đối với pháp. (56)
Kathāvatthūnīti kathākāraṇāni. Atītaṃ vā addhānanti atītaṃ dhammaṃ, atītakkhandheti attho. Apica ‘‘yaṃ, bhikkhave, rūpaṃ atītaṃ niruddhaṃ vipariṇataṃ, ‘ahosī’ti tassa saṅkhā, ‘ahosī’ti tassa paññatti ‘ahosī’ti tassa samaññā, na tassa saṅkhā ‘atthī’ti, na tassa saṅkhā ‘bhavissatī’ti (saṃ. ni. 3.62) evaṃ āgatena niruttipathasuttenapettha attho dīpetabbo.
Đề tài để nói: Lý do để nói những lời nói. Đến thời quá khứ: Pháp ở quá khứ, các uẩn thuộc quá khứ lá ý nghĩa. Mặt khác, nên giải thích ý nghĩa trong lời này dựa trên bài Kinh Niruttipatha (Ngôn Lộ) có nguồn gốc như vầy– “Này các Tỳ-khưu, đối với sắc thuộc quá khứ, đã diệt tận, đã biến hoại, sự ấn định của sắc ấy là “đã có”, sự quy định của sắc ấy là “đã có”, sự chỉ định của sắc ấy là “đã có”, sự không ấn định của sắc ấy là “hiện có”, sự không ấn định của sắc ấy là “sẽ có”. (saṃ. ni. 3.62);
Vijjāti tamavijjhanaṭṭhena vijjā. Viditakaraṇaṭṭhenāpi vijjā. Pubbenivāsānussatiñāṇañhi uppajjamānaṃ pubbenivāsaṃ chādetvā ṭhitaṃ tamaṃ vijjhati, pubbenivāsañca viditaṃ karotīti vijjā. Cutūpapātañāṇaṃ cutipaṭisandhicchādakaṃ tamaṃ vijjhati, tañca viditaṃ karotīti vijjā. Āsavānaṃ khaye ñāṇaṃ catusaccacchādakaṃ tamaṃ vijjhati, catusaccadhammañca viditaṃ karotīti vijjā.
Minh: Minh với ý nghĩa đâm thủng bóng tối, hoặc minh với ý nghĩa làm cho biết rõ. Bởi vì, trí nhớ lại các kiếp sống quá khứ khi đang sanh khởi gọi là ‘minh’ với ý nghĩa phá tan bóng tối đã được thiết lập bao phủ các uẩn từng nương vào các kiếp sống quá khứ, và làm cho các uẩn nương vào các kiếp sống quá khứ được biết rõ. Trí về sự sanh tử của chúng sinh được gọi là ‘minh’ với ý nghĩa phá tan bóng tối bao phủ sự chết và sự tái tục, và làm cho điều đó được biết rõ. Trí biết về sự diệt tận các lậu hoặc được gọi là ‘minh’ với ý nghĩa là phá tan bóng tối bao phủ bốn Chân Lý, và làm cho bốn Chân Lý được biết rõ. (59)
Vihāresu aṭṭha samāpattiyo dibbo vihāro. Catasso appamaññā brahmā vihāro. Phalasamāpatti ariyo vihāro. Pāṭihāriyāni kevaṭṭasutte vitthāritāneva. ‘‘Ime kho, āvuso’’tiādīsu vuttanayeneva yojetabbaṃ. Iti samasaṭṭhiyā tikānaṃ vasena asītisatapañhe kathento thero sāmaggirasaṃ dassesīti.
Các pháp trú– tám sự thể nhập (thiền) gọi là Thiên trú. Bốn vô lượng tâm (Tử, Bi, Hỷ, Xả) gọi là Phạm trú. Sự thể nhập Thánh quả là Thánh trú. Các sự kỳ diệu đã được giải thích chi tiết trong bài Kinh Kevaṭṭa. “Này các Đại đức, quả thật, v.v.” nên được kết hợp theo phương thức đã được trình bày trước đó. Trưởng lão khi trình bày một trăm tám mươi vấn đề do tác động sáu mươi nhóm ba đã chỉ rõ hương vị của sự hợp nhất là như thế.
Giảng giải nhóm ba được kết thúc.
Giải thích nhóm bốn
306. Iti tikavasena sāmaggirasaṃ dassetvā idāni catukkavasena dassetuṃ puna desanaṃ ārabhi. Tattha ‘‘satipaṭṭhānacatukkaṃ’’ pubbe vitthāritameva.
306. Sau khi Trưởng lão đã thuyết về hương vị của sự hợp nhất do tác động nhóm ba pháp là như vậy, bây giờ để thuyết giảng (hương vị của sự hợp nhất) do tác động nhóm bốn mới bắt đầu bài thuyết Pháp tiếp theo. Trong số các nhóm bốn, “nhóm bốn về sự thiết lập niệm” đã được ngài giải thích chi tiết ngay ở phần đầu. (1)
Sammappadhānacatukke chandaṃ janetīti ‘‘yo chando chandikatā kattukamyatā kusalo dhammacchando’’ti evaṃ vuttaṃ kattukamyataṃ janeti. Vāyamatīti vāyāmaṃ karoti. Vīriyaṃ ārabhatīti vīriyaṃ janeti. Cittaṃ paggaṇhātīti cittaṃ upatthambheti. Ayamettha saṅkhepo. Vitthāro pana sammappadhānavibhaṅge āgatoyeva.
Trong nhóm bốn nói về chánh cần– làm sanh khởi sự ước muốn: làm sanh khởi sự mong muốn để làm được nói như vầy: “Sự ước muốn, trạng thái thực hiện sự ước muốn, trạng thái vị có sự mong muốn để làm việc nào đó, sự khéo léo, sự ước muốn về Chánh Pháp”. Gắng sức: tạo sự cố gắng. Khởi sự tinh tấn: Làm sanh khởi sự tinh tấn. Nắm chặt tâm: nâng đỡ tâm. Ở đây điều này là phần tóm tắt. Còn phần giải thích chi tiết đã được đề cập trong bộ Phân tích về Tứ Chánh Cần. (2)
Iddhipādesu chandaṃ nissāya pavatto samādhi chandasamādhi. Padhānabhūtā saṅkhārā padhānasaṅkhārā. Samannāgatanti tehi dhammehi upetaṃ. Iddhiyā pādaṃ, iddhibhūtaṃ vā pādanti iddhipādaṃ. Sesesupi eseva nayo. Ayamettha saṅkhepo, vitthāro pana iddhipādavibhaṅge āgato eva. Visuddhimagge panassa attho dīpito. Jhānakathāpi visuddhimagge vitthāritāva.
Trong các nền tảng của thần thông– Định vận hành do nương vào sự ước muốn gọi là định do ước muốn. Các hành có (yếu tố) do nỗ lực gọi là các tạo tác do nỗ lực. Hội đủ (các yếu tố): đã đạt đến bởi các pháp này. Nền tảng về thần thông, hoặc nền tảng nơi thiết lập của sự thành tựu, (vì lý do đó) gọi là nền tảng của thần thông. Luôn cả những nền tảng của thần thông còn lại cũng áp dụng cách thức này. ở đây điều này là phần tóm tắt, còn phần chi tiết đã đề cập trong bộ Phân Tích về nền tảng thần thông. Ngoài ra, ý nghĩa về ‘bốn nền tảng của thần thông’ cũng đã được trình bày trong bộ Thanh Tịnh Đạo. Ngay cả, lời nói về định cũng được giải thích chi tiết trong Thanh Tịnh Đạo. (3-4)
307. Diṭṭhadhammasukhavihārāyāti imasmiṃyeva attabhāve sukhavihāratthāya. Idha phalasamāpattijhānāni, khīṇāsavassa aparabhāge nibbattitajhānāni ca kathitāni.
307. Đưa đến sự an trú lạc trong hiện tại: Vì lợi ích của sự an trú lạc ngay chính trong bản thể này. Ở đây, (Tướng quân Chánh Pháp Sāriputta) đã nói đến sự thể nhập Thánh quả và Thiền, và Thiền đã khởi sanh sau đó của bậc Lậu Tận. (5-1)
Ālokasaññaṃ manasikarotīti divā vā rattiṃ vā sūriyacandapajjotamaṇiādīnaṃ ālokaṃ ālokoti manasikaroti. Divāsaññaṃ adhiṭṭhātīti evaṃ manasi katvā divātisaññaṃ ṭhapeti. Yathā divā tathā rattinti yathā divā diṭṭho āloko, tatheva taṃ rattiṃ manasikaroti. Yathā rattiṃ tathā divāti yathā rattiṃ āloko diṭṭho, evameva divā manasikaroti. Iti vivaṭena cetasāti evaṃ apihitena cittena. Apariyonaddhenāti samantato anaddhena. Sappabhāsanti saobhāsaṃ. Ñāṇadassanapaṭilābhāyāti ñāṇadassanapaṭilābhatthāya. Iminā kiṃ kathitaṃ? Middhavinodanaāloko kathito parikammaāloko vā. Iminā kiṃ kathitaṃ hoti? Khīṇāsavassa dibbacakkhuñāṇaṃ. Tasmiṃ vā āgatepi anāgatepi pādakajjhānasamāpattimeva sandhāya ‘‘sappabhāsaṃ cittaṃ bhāvetī’’ti vuttaṃ.
Tác ý đến tưởng về ánh sáng: tác ý đến ánh sáng có ánh sáng mặt trời, mặt trăng, và ngọc ma-ni, v.v., cả ban ngày hoặc cả ban đêm rằng “ánh sáng”. Duy trì tưởng về ánh sáng: Sau khi đã tác ý như vậy thì thiết lập tưởng về ban ngày. Ban ngày như thế nào, ban đêm như thế ấy: Nhìn thấy ánh sáng vào ban ngày như thế nào, thì tác ý vào ban đêm cũng tương tự như thế ấy. Với tâm được mở ra: Có tâm được không mở ra như vậy. Không bị bao trùm: không bị ràng buộc xung quanh. Làm cho chói sáng: làm cho có sự chói sáng. Đưa đến việc đạt được sự biết và sự thấy: Vì lợi ích của việc đạt được sự biết và sự thấy. Với lời này Trưởng lão đã nói đến điều gì? Ngài đã nói về ánh sáng là phương tiện để xua tan hôn trầm và thụy miên, hoặc ánh sáng là đề mục sơ khởi. Ngay cả với những lời này, Ngài đã nói về điều gì? Ngài đã nói đến trí về Thiên nhãn của bậc Lậu Tận. Mặt khác, dù trí về Thiên nhãn đó đã được đạt được hay chưa đạt được, thì Ngài vẫn đề cập đến sự thể nhập có thiền (định) làm nền tảng, nên mới nói rằng: “Vị ấy phát triển tâm có sự chói sáng.” (5-2)
Satisampajaññāyāti sattaṭṭhānikassa satisampajaññassa atthāya. Viditā vedanā uppajjantītiādīsu khīṇāsavassa vatthu viditaṃ hoti ārammaṇaṃ viditaṃ vatthārammaṇaṃ viditaṃ. Vatthārammaṇaviditatāya evaṃ vedanā uppajjanti, evaṃ tiṭṭhanti, evaṃ nirujjhanti. Na kevalañca vedanā eva idha vuttā saññādayopi, avuttā cetanādayopi, viditā ca uppajjanti ceva tiṭṭhanti ca nirujjhanti ca. Api ca vedanāya uppādo vidito hoti, upaṭṭhānaṃ viditaṃ hoti. Avijjāsamudayā vedanāsamudayo, taṇhāsamudayā kammasamudayo, phassasamudayā vedanāyasamudayo. Nibbattilakkhaṇaṃ passantopi vedanākkhandhassa samudayaṃ passati. Evaṃ vedanāya uppādo vidito hoti. Kathaṃ vedanāya upaṭṭhānaṃ viditaṃ hoti? Aniccato manasikaroto khayatūpaṭṭhānaṃ viditaṃ hoti. Dukkhato manasikaroto bhayatūpaṭṭhānaṃ viditaṃ hoti. Anattato manasikaroto suññatūpaṭṭhānaṃ viditaṃ hoti. Evaṃ vedanāya upaṭṭhānaṃ viditaṃ hoti, khayato bhayato suññato jānāti. Kathaṃ vedanāya atthaṅgamo vidito hoti? Avijjānirodhā vedanānirodho.…pe… evaṃ vedanāya atthaṅgamo vidito hoti. Imināpi nayenettha attho veditabbo.
Đưa đến niệm và sự nhận biết rõ: Vì lợi ích của niệm và sự nhận biết rõ có niệm làm chỗ thiết lập. Các thọ sanh lên được nhận biết, v.v., Đối với bậc Lậu Tận vật được nhận biết, đối tượng được nhận biết, vật và đối tượng được nhận biết. Do nhận biết vật và đối tượng các thọ sanh khởi như vậy, thiết lập như vậy, và biến hoại như vậy. Và không chỉ riêng các thọ được nói đến ở đây, mà các Tưởng (saññā) v.v., hay các pháp như Tư-cetanā chưa được nói đến, (Trưởng lão) cũng nhận biết trong lúc sanh khởi, tồn tại và diệt. Mặt khác, sự sanh khởi của thọ được nhận biết, sự thiết lập được nhận biết. Do sự sanh khởi của vô minh có sự sanh khởi của thọ; Do sự sanh khởi của ái, có sự sanh khởi của thọ; Do sự sanh khởi của xúc, có sự sanh khởi của thọ; (hành giả) nhận thấy sự sanh khởi của thọ uẩn ngay cả trong khi nhận thấy tướng trạng của sự tái tạo. Sự sanh lên của thọ được biết đến là như vậy. Sự thiết lập của thọ được biết đến là như thế nào? Đối với vị đang tác ý về vô thường, sự thiết lập của đoạn tận được biết đến; đối với vị đang tác ý về khổ não, sự thiết lập của kinh hãi được biết đến; đối với vị đang tác ý về vô ngã, sự thiết lập của không tánh được biết đến. Sự thiết lập của thọ được biết đến là như thế, vị ấy biết rõ sự đoạn tận, sự kinh hãi (và) sự không tánh. Sự biến mất của thọ được biết đến là như thế nào? Do sự diệt tận của vô minh, có sự diệt tận của thọ …như trên… Sự biến mất của thọ được biết đến là như thế. Ở đây, nên hiểu ý nghĩa theo cách này. (5-3)
Itirūpantiādi vuttanayameva. Ayaṃ āvuso samādhibhāvanāti ayaṃ āsavānaṃ khayañāṇassa pādakajjhānasamādhibhāvanā.
Như thế là sắc, v.v có cách thức như đã trình bày. Này các Đại đức, đây là việc tu tập định: Việc tu tập định lấy thiền làm nền tảng này có nơi trí về sự đoạn tận của các lậu hoặc. (5-4)
308. Appamaññāti pamāṇaṃ agahetvā anavasesapharaṇavasena appamaññāva. Anupadavaṇṇanā pana bhāvanāsamādhividhānañca etāsaṃ visuddhimagge vitthāritameva. Arūpakathāpi visuddhimagge vitthāritāva.
308. Vô lượng tâm: việc không nắm lấy giới hạn nhờ sự lan toả không có dư sót (đến tất cả các chúng sanh), chính là vô lượng tâm. Hơn nữa, sự tu tập định và sự sắp xếp định của các vô lượng tâm ấy đã được giải thích chi tiết theo thứ tự trong bộ Thanh Tịnh Đạo. Ngay cả ‘lời nói về Vô sắc’ cũng được giải thích chi tiết trong bộ Thanh Tịnh Đạo. (6-7)
Apassenānīti apassayāni. Saṅkhāyāti ñāṇena ñatvā. Paṭisevatīti ñāṇena ñatvā sevitabbayuttakameva sevati. Tassa ca vitthāro ‘‘paṭisaṅkhā yoniso cīvaraṃ paribhuñjatī’’tiādinā nayena veditabbo. Saṅkhāyekaṃ adhivāsetīti ñāṇena ñatvā adhivāsetabbayuttakameva adhivāseti. Vitthāro panettha ‘‘paṭisaṅkhā yoniso khamo hoti sītassā’’tiādinā nayena veditabbo. Parivajjetīti ñāṇena ñatvā parivajjetuṃ yuttameva parivajjeti. Tassa vitthāro ‘‘paṭisaṅkhā yoniso caṇḍaṃ hatthiṃ parivajjetī’’tiādinā nayena veditabbo. Vinodetīti ñāṇena ñatvā vinodetabbameva vinodeti, nudati nīharati anto pavisituṃ na deti. Tassa vitthāro ‘‘uppannaṃ kāmavitakkaṃ nādhivāsetī’’tiādinā nayena veditabbo.
Pháp nâng đỡ: Là nơi nương tựa. Xem xét: Sau khi hiểu biết bằng trí tuệ. Thọ dụng: Sau khi hiểu biết bằng trí tuệ, chỉ thọ dụng những thứ nên được thọ dụng. Và sự giải thích việc đó nên được hiểu biết theo cách thức sau: “Vị Tỳ-khưu, suy xét đúng đắn rồi sử dụng y phục, v.v.,” Suy xét rồi chịu đựng: Sau khi hiểu biết bằng trí tuệ, chỉ chịu đựng những đối tượng đáng được chịu đựng. Hơn nữa, ở đây sự giải thích cần được hiểu theo cách thức sau: “Vị Tỳ-khưu, suy xét đúng đắn, rồi chịu đựng sự lạnh, v.v.” Lánh xa: sau khi hiểu biết bằng trí tuệ, tránh xa những thứ cần phải tránh xa. Sự giải thích về việc đó nên được hiểu theo cách thức sau: “Vị Tỳ-khưu, suy xét đúng đắn, rồi tránh xa voi dữ, v.v.” Xua đi: Sau khi hiểu biết bằng trí, xua đi những thứ cần được xua đi, tức là làm tiêu tan, kéo ra khỏi không để cho xâm nhập vào bên trong. Sự giải thích về việc đó nên được hiểu theo cách sau: “Vị Tỳ-khưu, suy xét đúng đắn, không chấp nhận (chịu đựng) dục tầm đã được sanh lên.” (8)
Giải thích bốn truyền thống của bậc Thánh
309. Ariyavaṃsāti ariyānaṃ vaṃsā. Yathā hi khattiyavaṃso, brāhmaṇavaṃso, vessavaṃso, suddavaṃso, samaṇavaṃso, kulavaṃso, rājavaṃso, evaṃ ayampi aṭṭhamo ariyavaṃso ariyatanti ariyapaveṇī nāma hoti.
309. Truyền thống của bậc Thánh: Truyền thống của bậc Thánh. Giống như truyền thống của Sát-đế-lỵ, truyền thống của Bà-la-môn, truyền thống của thương nhân, truyền thống của người lao công, truyền thống của Sa-môn, truyền thống của gia đình, hay truyền thống của vua chúa; tương tự như vậy, ngay cả truyền thống của bậc Thánh là thứ tám này cũng là phong tục, là tập quán của bậc Thánh.
So kho panāyaṃ ariyavaṃso imesaṃ vaṃsānaṃ mūlagandhādīnaṃ kāḷānusāritagandhādayo viya aggamakkhāyati. Ke pana te ariyā yesaṃ ete vaṃsāti? Ariyā vuccanti buddhā ca paccekabuddhā ca tathāgatasāvakā ca, etesaṃ ariyānaṃ vaṃsāti ariyavaṃsā. Ito pubbe hi satasahassakappādhikānaṃ catunnaṃ asaṅkhyeyyānaṃ matthake taṇhaṅkaro medhaṅkaro saraṇaṅkaro dīpaṅkaroti cattāro buddhā uppannā, te ariyā, tesaṃ ariyānaṃ vaṃsāti ariyavaṃsā. Tesaṃ buddhānaṃ parinibbānato aparabhāge asaṅkhyeyyaṃ atikkamitvā koṇḍañño nāma buddho uppanno…pe… imasmiṃ kappe kakusandho, koṇāgamano, kassapo, amhākaṃ bhagavā gotamoti cattāro buddhā uppannā. Tesaṃ ariyānaṃ vaṃsāti ariyavaṃsā. Apica atītānāgatapaccuppannānaṃ sabbabuddha– paccekabuddha– buddhasāvakānaṃ ariyānaṃ vaṃsāti ariyavaṃsā. Te kho panete aggaññā aggāti jānitabbā. Rattaññā dīgharattaṃ pavattāti jānitabbā. Vaṃsaññā vaṃsāti jānitabbā.
Hơn nữa, truyền thống của bậc Thánh này đây được xem là tối thượng hơn những truyền thống kia, cũng giống như hương thơm của gỗ trầm đen là quý giá hơn hương thơm từ rễ cây, v.v. Vậy, những truyền thống này thuộc về các bậc Thánh nào? Các bậc Thánh ấy là những hạng người nào?” – Đó là chư Phật, chư Phật Độc Giác, và các vị Thánh đệ tử của Như Lai, những người được gọi là “Thánh nhân”, những truyền thống của các bậc Thánh này được gọi là “truyền thống của bậc Thánh.” Thật vậy, từ đây trở về trước của bốn a-tăng-kỳ và một trăm ngàn đại kiếp có bốn vị Phật đã hiện khởi là đức Phật Taṇhaṅkara, đức Phật Medhaṅkara, đức Phật Saraṇaṅkara, và cuối cùng là đức Phật Dīpaṅkara. Các vị ấy là bậc Thánh, truyền thống của các bậc Thánh ấy được gọi là “truyền thống của bậc Thánh”. Sau khi các vị Phật đã vô dư Niết Bàn trải qua một a-tăng-kỳ đức Phật tên là Koṇḍañña đã hiện khởi …như trên… Trong kiếp này, có bốn vị Phật đã hiện khởi, đó là đức Phật Kakusandha, đức Phật Koṇāgamana, đức Phật Kassapa và đức Phật Gotama của chúng ta. Truyền thống của các bậc Thánh ấy được gọi là “truyền thống của bậc Thánh”. Mặt khác, truyền thống của bậc Thánh là tất cả chư Phật (Toàn giác), chư Phật Độc Giác và các vị Thánh đệ tử của chư Phật trong thời quá khứ, vị lai và cả thời hiện tại được gọi là “truyền thống của bậc Thánh”. Hơn nữa, truyền thống của bậc Thánh này đây nên được biết là tối cao vì được biết là tối sơ; nên được biết là truyền thống tồn tại trong một thời gian dài vì được biết là lâu ngày; nên được biết là truyền thống vì được biết là truyền thống.
Porāṇāti na adhunuppattikā. Asaṃkiṇṇā avikiṇṇā anapanītā. Asaṃkiṇṇapubbā atītabuddhehi na saṃkiṇṇapubbā. ‘‘Kiṃ imehī’’ti na apanītapubbā? Na saṅkīyantīti idānipi na apanīyanti. Na saṅkīyissantīti anāgatabuddhehipi na apanīyissanti, ye loke viññū samaṇabrāhmaṇā, tehi appaṭikuṭṭhā, samaṇehi brāhmaṇehi viññūhi aninditā agarahitā.
Cổ xưa: không phải vừa mới xuất hiện. Không bị lẫn lộn: không bị rối loạn, không bị loại bỏ. Trước chưa từng bị lẫn lộn: Truyền thống xưa kia chưa từng bị lẫn lộn bởi các vị Phật trong quá khứ. Làm sao có thể bị lẫn lộn bởi những vị Phật hiện tại? “Lợi ích gì bởi những điều này” trước chưa từng bị loại bỏ? Hiện tại không bị lẫn lộn: Ngay cả bây giờ cũng không bị loại bỏ. Tương lai không bị lẫn lộn: Ngay cả các vị Phật trong thời vị lai cũng sẽ không loại bỏ, truyền thống của bậc thánh này đây không bị các Sa-môn và Bà-la-môn có sự hiểu biết nào ở thế gian quở trách, tức là không bị chê bai, không bị khiển trách bởi các Sa-môn và Bà-la-môn có sự hiểu biết ấy.
Santuṭṭho hotīti paccayasantosavasena santuṭṭho hoti. Itarītarena cīvarenāti thūlasukhumalūkhapaṇītathirajiṇṇānaṃ yena kenaci. Atha kho yathāladdhādīnaṃ itarītarena yena kenaci santuṭṭho hotīti attho. Cīvarasmiñhi tayo santosā – yathālābhasantoso, yathābalasantoso, yathāsāruppasantosoti. Piṇḍapātādīsupi eseva nayo. Tesaṃ vitthārakathā sāmaññaphale vuttanayeneva veditabbā. Ime tayo santose sandhāya ‘‘santuṭṭho hoti, itarītarena yathāladdhādīsu yena kenaci cīvarena santuṭṭho hotī’’ti vuttaṃ.
Là người tri túc: là người biết đủ do tác động sự hài lòng về các món vật dụng. Với bất luận y nào (dù tốt hay xấu): (là người tri túc) với bất kỳ y nào dù là thô xấu, mịn màng, dơ bẩn, thượng hạng, bền chặt, hay cũ rách. Và thực vậy, là người tri túc đối với bất cứ loại y nào (mà bản thân) đã nhận được, v.v, (là người tri túc) với bất luận y nào dù tốt hay xấu, là ý nghĩa. Thật vậy, về y phục có ba sự hài lòng: sự hài lòng với lợi lộc có được, sự hài lòng theo sức mình, và sự hài lòng theo sự thích hợp. Luôn cả đồ ăn khất thực, v.v., cũng có cách thức tương tự. Sự giải thích chi tiết về các sự hài lòng đó nên được hiểu theo phương cách đã được nói trong bài Kinh Sāmaññaphala. Để đề cập đến ba sự hài lòng này Ngài đã nói rằng– “Là người biết đủ với bất cứ loại y nào đã nhận được, v.v, là người biết đủ với bất luận y nào dù tốt hay xấu.” là như thế.
Ettha ca cīvaraṃ jānitabbaṃ, cīvarakkhettaṃ jānitabbaṃ, paṃsukūlaṃ jānitabbaṃ, cīvarasantoso jānitabbo, cīvarapaṭisaṃyuttāni dhutaṅgāni jānitabbāni. Tattha cīvaraṃ jānitabbanti khomādīni cha cīvarāni dukūlādīni cha anulomacīvarāni jānitabbāni. Imāni dvādasa kappiyacīvarāni. Kusacīraṃ vākacīraṃ phalakacīraṃ kesakambalaṃ vāḷakambalaṃ potthako cammaṃ ulūkapakkhaṃ rukkhadussaṃ latādussaṃ erakadussaṃ kadalidussaṃ veḷudussanti evamādīni pana akappiyacīvarāni. Cīvarakkhettanti ‘‘saṅghato vā gaṇato vā ñātito vā mittato vā attano vā dhanena paṃsukūlaṃ vā’’ti evaṃ uppajjanato cha khettāni, aṭṭhannañca mātikānaṃ vasena aṭṭha khettāni jānitabbāni. Paṃsukūlanti sosānikaṃ, pāpaṇikaṃ, rathiyaṃ saṅkārakūṭakaṃ, sotthiyaṃ, sinānaṃ, titthaṃ, gatapaccāgataṃ, aggidaḍḍhaṃ, gokhāyitaṃ upacikakhāyitaṃ, undūrakhāyitaṃ, antacchinnaṃ, dasācchinnaṃ, dhajāhaṭaṃ, thūpaṃ, samaṇacīvaraṃ, sāmuddiyaṃ, ābhisekiyaṃ, panthikaṃ, vātāhaṭaṃ, iddhimayaṃ, devadattiyanti tevīsati paṃsukūlāni veditabbāni.
Và ở đây, cần phải hiểu biết về y phục, cần phải hiểu biết về nguồn gốc của y phục, cần phải hiểu biết về y may bằng vải bị quăng bỏ, cần phải biết hài lòng trong y phục, và cần phải hiểu biết về các hạnh đầu đà liên quan đến y phục. Trong những lời ấy, cần phải hiểu biết về y phục: nên biết sáu loại y phục như ý phục làm bằng sợi lanh, v.v., và sáu loại y phục đúng theo thứ lớp như loại vải thật mịn, v.v. Mười hai loại y phục này được gọi là y phục được phép. Mặt khác, các loại y phục như vầy: vải được làm bằng cỏ kusa, vải được làm bằng vỏ cây, vải được làm bằng tấm ván gỗ, vải được dệt bằng tóc người, vải được dệt bằng lông thú, được dệt bằng vải bố, vải được làm bằng da thú, bằng lông chim cú, bằng sợi cây gai dầu, bằng dây leo, bằng cỏ eraka, vải được dệt từ sợi chuối, vải được đan từ tre, được gọi là y phục không được phép. Nguồn gốc của y phục: nguồn gốc của y phục có sáu do sự phát sanh như vầy rằng– “Từ Hội chúng Tỳ-khưu, từ hội nhóm, từ thân quyến, từ bạn bè, từ tài sản của chính mình, hoặc bằng vải bị quăng bỏ”, còn tám nguồn gốc của y phục nên được biết theo phương diện của tám mātikā. Vải bị quăng bỏ: Cần phải hiểu biết về hai mươi ba loại y phục được làm từ vải bị quăng bỏ là– (1) vải được vứt bỏ ở bãi tha ma, (2) vải được vứt bỏ ngoài cửa tiệm, (3) vải được vứt bỏ ở các ngõ hẻm, (4) vải được vứt bỏ ở các đống rác, (5) vải lót lúc sinh nở rồi vứt bỏ, (6) vải trải tấm (tại các nghi lễ) rồi vứt bỏ, (7) vải vứt bỏ ở chỗ sông cạn đi qua được, (8) vải quấn tử thi để đưa ra nghĩa địa rồi mang về vứt bỏ, (9) vải bị cháy rồi vứt bỏ, (10) vải bị bò nhai rồi vứt bỏ, (11) vải bị mối ăn rồi vứt bỏ, (12) vải bị chuột cắn rồi vứt bỏ, (13) vải bị rách viền rồi vứt bỏ, (14) vải bị rách mép rồi vứt bỏ, (15) vải dùng làm cờ rồi vứt bỏ, (16) vải lễ bái nơi bảo tháp rồi vứt bỏ, (17) vải của vị Tỳ-khưu vứt bỏ, (18) vải trôi ngoài biển bị sóng đánh dạt vào bờ, (19) vải được vứt bỏ tại lễ đăng quang, (20) vải bỏ lại hoặc rơi rớt trên đường (không có chủ nhân), (21) vải bị gió thổi bay không có chủ nhân, (22) vải thành tựu do thần thông (hoặc vải tự phát sanh đối với vị Thiện lai Tỳ-khưu), (23) vải được chư Thiên cúng dường.
Ettha ca sotthiyanti gabbhamalaharaṇaṃ. Gatapaccāgatanti matakasarīraṃ pārupitvā susānaṃ netvā ānītacīvaraṃ. Dhajāhaṭanti dhajaṃ ussāpetvā tato ānītaṃ. Thūpanti vammike pūjitacīvaraṃ. Sāmuddiyanti samuddavīcīhi thalaṃ pāpitaṃ. Panthikanti panthaṃ gacchantehi corabhayena pāsāṇehi koṭṭetvā pārutacīvaraṃ. Iddhimayanti ehibhikkhucīvaraṃ. Sesaṃ pākaṭameva.
Và ở đây, vải lót lúc sinh nở: vải sử dụng để lau dọn ô uế của thai sản. Vải quấn tử thi để đưa ra nghĩa địa rồi mang về: vải dùng để quấn tử thi đưa ra nghĩa địa rồi mang trở về. Vải được sử dụng làm cờ: Vải đã được cho dựng lên làm lá cờ, rồi được mang trở về từ chỗ đó. Vải lễ bái nơi bảo tháp: bao gồm vải lễ bái ở các gò mối. Vải trôi ngoài biển bị sóng đánh dạt vào bờ: vải bị sóng biển đánh dạt vào bờ. Vải bỏ lại trên đường: vải được những người lữ hành đã đập vào đá rồi mặc vào, vì sợ trộm cắp. Vải thành tựu do thần thông: bao gồm vải tự phát sanh đối với vị Thiện lai Tỳ-khưu. Các loại vải còn lại đã rõ ràng.
Cīvarasantosoti vīsati cīvarasantosā, vitakkasantoso, gamanasantoso, pariyesanasantoso, paṭilābhasantoso, mattappaṭiggahaṇasantoso, loluppavivajjanasantoso, yathālābhasantoso, yathābalasantoso, yathāsāruppasantoso, udakasantoso, dhovanasantoso, karaṇasantoso, parimāṇasantoso, suttasantoso, sibbanasantoso, rajanasantoso, kappasantoso, paribhogasantoso, sannidhiparivajjanasantoso, vissajjanasantosoti.
Sự hài lòng về·y phục: Hai mươi sự hài lòng về y phục– (1) sự hài lòng về suy nghĩ, (2) sự hài lòng với việc đi lại, (3) sự hài lòng về sự tầm cầu, (4) sự hài lòng trong việc đạt được, (5) sự hài lòng trong việc thọ nhận có chừng mực, (6) sự hài lòng trong việc tránh xa ham muốn, (7) sự hài lòng với lợi lộc có được, (8) sự hài lòng theo sức mình, (9) sự hài lòng theo sự thích hợp, (10) sự hài lòng trong nước (giặt), (11) sự hài lòng trong việc giặt, (12) sự hài lòng trong việc làm, (13) sự hài lòng về việc xác định, (14) sự hài lòng với sợi chỉ (may khâu), (15) sự hài lòng về việc may khâu, (16) sự hài lòng về việc nhuộm, (17) sự hài lòng về việc làm ký hiệu, (18) sự hài lòng trong việc sử dụng, (19) sự hài lòng trong việc tránh xa việc tích trữ, (20) sự hài lòng trong việc cho tặng.
Tattha sādakabhikkhunā temāsaṃ nibaddhavāsaṃ vasitvā ekamāsamattaṃ vitakketuṃ vaṭṭati. So hi pavāretvā cīvaramāse cīvaraṃ karoti. Paṃsukūliko aḍḍhamāseneva karoti. Iti māsaḍḍhamāsamattaṃ vitakkanaṃ vitakkasantoso. Vitakkasantosena pana santuṭṭhena bhikkhunā pācīnakkhaṇḍarājivāsikapaṃsukūlikattherasadisena bhavitabbaṃ.
Trong các sự hài lòng ấy, vị Tỳ-khưu hài lòng, sau khi an trú cố định trong suốt ba tháng mùa mưa, suy nghĩ là thích hợp chỉ trong một tháng. Thật vậy, vị Tỳ-khưu ấy, sau khi thỉnh mời sẽ may y phục trong tháng may y phục. Vị Tỳ-khưu thực hành hạnh y phấn tảo thì chỉ nên may trong nửa tháng. Suy nghĩ chỉ trong một tháng hoặc nửa tháng được gọi là sự hài lòng về suy nghĩ là như thế. Hơn nữa, vị Tỳ-khưu tự biết đủ bởi sự hài lòng về suy nghĩ nên trở thành vị giống như Trưởng lão Paṃsukūla an cư mùa mưa ở Pācīnakkhaṇḍarāji.
Thero kira cetiyapabbatavihāre cetiyaṃ vandissāmīti āgato cetiyaṃ vanditvā cintesi ‘‘mayhaṃ cīvaraṃ jiṇṇaṃ bahūnaṃ vasanaṭṭhāne labhissāmī’’ti. So mahāvihāraṃ gantvā saṅghattheraṃ disvā vasanaṭṭhānaṃ pucchitvā tattha vuttho punadivase cīvaraṃ ādāya āgantvā theraṃ vandi. Thero kiṃ āvusoti āha. Gāmadvāraṃ, bhante, gamissāmīti. Ahampāvuso, gamissāmīti. Sādhu, bhanteti gacchanto mahābodhidvārakoṭṭhake ṭhatvā puññavantānaṃ vasanaṭṭhāne manāpaṃ labhissāmīti cintetvā aparisuddho me vitakkoti tatova paṭinivatti. Punadivase ambaṅgaṇasamīpato, punadivase mahācetiyassa uttaradvārato, tatheva paṭinivattitvā catutthadivase therassa santikaṃ agamāsi. Thero imassa bhikkhuno vitakko na parisuddho bhavissatīti cīvaraṃ gahetvā tena saddhiṃyeva pañhaṃ pucchamāno gāmaṃ pāvisi. Tañca rattiṃ eko manusso uccārapalibuddho sāṭakeyeva vaccaṃ katvā taṃ saṅkāraṭṭhāne chaḍḍesi. Paṃsukūlikatthero taṃ nīlamakkhikāhi samparikiṇṇaṃ disvā añjaliṃ paggahesi. Mahāthero ‘‘kiṃ, āvuso, saṅkāraṭṭhānassa añjaliṃ paggaṇhāsī’’ti? ‘‘Nāhaṃ, bhante, saṅkāraṭṭhānassa añjaliṃ paggaṇhāmi, mayhaṃ pitu dasabalassa paggaṇhāmi, puṇṇadāsiyā sarīraṃ pārupitvā chaḍḍitaṃ paṃsukūlaṃ tumbamatte pāṇake vidhunitvā susānato gaṇhantena dukkaraṃ kataṃ, bhante’’ti. Mahāthero ‘‘parisuddho vitakko paṃsukūlikassā’’ti cintesi. Paṃsukūlikattheropi tasmiṃyeva ṭhāne ṭhito vipassanaṃ vaḍḍhetvā tīṇi phalāni patto taṃ sāṭakaṃ gahetvā cīvaraṃ katvā pārupitvā pācīnakkhaṇḍarājiṃ gantvā aggaphalaṃ arahattaṃ pāpuṇi.
Kể rằng, vị Trưởng lão (thực hành hạnh y phấn tảo) sống tại Pācīnakkhaṇḍarāji (với ước muốn): “Ta sẽ đảnh lễ bảo tháp ở tự viện Cetiyapabbata,” đã đi đến tự viện đó. Sau khi đảnh lễ bảo tháp, vị ấy nghĩ: “Y của ta đã cũ rồi; ta sẽ tìm được y phục mới ở nơi có nhiều vị Tỳ-khưu cư ngụ.” Sau khi đến Đại Tự Viện, vị ấy đã đến gặp vị đại trưởng lão Saṅgha, hỏi thăm về nơi trú ngụ và rồi trú tại nơi đó. Hôm sau, vị ấy mang đắp y, đi đến đảnh lễ vị đại Trưởng lão. Vị đại Trưởng lão hỏi: “Đại đức đến gặp tôi có việc gì?” – Vị ấy đáp: “Bạch Ngài, con sẽ đến cổng làng.” – Vị đại Trưởng lão bèn nói: “Này Đại đức, tôi cũng sẽ đi đến cổng làng.” – Vị ấy đáp: “Lành thay! Bạch Ngài, trong lúc đi và đứng ở cổng vòm phía trước cây Mahābodhi, với suy nghĩ: “Ta sẽ có được y phục đáng được hài lòng ở chỗ người có phước đức,” vị ấy chợt nhận ra: “Suy nghĩ của ta là không thanh tịnh,” liền lập tức quay trở về. Ngày hôm sau, vị ấy đến gần khu vực đồi xoài. Ngày kế tiếp, vị ấy trở về từ cổng phía Bắc của ngôi Đại Bảo Tháp, (cũng với ý niệm tương tự y như thế). Đến ngày thứ tư, vị ấy đã đến trú xứ của Trưởng lão. Trưởng lão biết rằng: vị Tỳ-khưu này sẽ khởi lên suy nghĩ không thanh tịnh, nên đã cầm lấy y phục, (và) đi vào làng trong lúc hỏi câu hỏi cùng với chính vị ấy. Cũng vào đêm hôm ấy, một người đàn ông bị bức bách vì việc đại tiện, đã đại tiện vào tấm áo choàng đó rồi vứt bỏ nó vào đống rác. Trưởng lão Paṃsukūla sau khi nhìn thấy tấm áo choàng đó bị ruồi xanh bâu quanh, đã chắp tay lên tỏ sự cung kính. – Vị đại Trưởng lão hỏi: “Này Đại đức, tại sao Đại đức lại chắp tay cung kính đống rác đó?” – “Bạch Ngài, con không phải chắp tay cung kính đống rác. Con chắp tay lên cung kính đấng Thập Lực, vị cha lành của con. Bạch Ngài, việc một Tỳ-khưu thực hành hạnh y phấn tảo đã quấn thi thể của nàng Puṇṇadāsī rồi vứt bỏ, sau đó giũ sạch các loại sinh vật nhỏ chừng một bình nước từ bãi tha ma, điều đó thật khó làm. – Vị đại Trưởng lão đã nghĩ: “Suy nghĩ của vị thực hành hạnh y phấn tảo này là trong sạch.” Vị đại Trưởng lão thực hành hạnh y phấn tảo đã phát triển minh sát tại nơi đứng đó và đã chứng đắc ba tầng Thánh thấp. Sau khi nhặt lấy y phục đó từ đống rác, đã làm thành y phấn tảo và mặc nó. Sau khi quay về Pācīnakkhaṇḍarāji, vị ấy đã đạt được quả vị A-ra-hán cao cả.
Cīvaratthāya gacchantassa pana ‘‘kattha labhissāmī’’ti acintetvā kammaṭṭhānasīseneva gamanaṃ gamanasantoso nāma.
Hơn nữa, trong khi đi vì nhu cầu về y, không nghĩ rằng: “Ta sẽ có được y ở đâu?” mà chỉ đi với ý định lấy đề mục thiền làm đối tượng, được gọi là sự hài lòng với việc đi lại.
Pariyesantassa pana yena vā tena vā saddhiṃ apariyesitvā lajjiṃ pesalaṃ bhikkhuṃ gahetvā pariyesanaṃ pariyesanasantoso nāma.
Còn đối với vị khi đang tìm kiếm (y phục), không nên tìm kiếm tùy tiện với người này hay người kia, mà phải dẫn theo vị Tỳ-khưu có lòng hổ thẹn, có hạnh kiểm tốt, được yêu quý rồi mới đi tìm kiếm, được gọi là sự hài lòng với việc tầm cầu.
Evaṃ pariyesantassa āhariyamānaṃ cīvaraṃ dūrato disvā ‘‘etaṃ manāpaṃ bhavissati, etaṃ amanāpa’’nti evaṃ avitakketvā thūlasukhumādīsu yathāladdheneva santussanaṃ paṭilābhasantoso nāma.
Như vậy, khi nhìn thấy người mang y đến từ đằng xa đối với vị khi đang tìm kiếm (y phục), đã không khởi lên suy nghĩ như vầy: “Đây sẽ là y hợp ý, còn đây sẽ là y không hợp ý,” mà hài lòng với bất kỳ loại y nào có được, dù thô cứng hay mịn màng, v.v., được gọi là sự hài lòng trong việc đạt được.
Evaṃ laddhaṃ gaṇhantassāpi ‘‘ettakaṃ dupaṭṭassa bhavissati, ettakaṃ ekapaṭṭassā’’ti attano pahonakamatteneva santussanaṃ mattappaṭiggahaṇasantoso nāma.
Việc vị Tỳ-khưu, sau khi đã nhận được y như vậy, chỉ hài lòng với số lượng vừa đủ cho bản thân (với suy nghĩ) rằng: “Chừng này vải sẽ là đủ để may y hai lớp, hay chừng này vải sẽ là đủ để may y một lớp,” được gọi là sự hài lòng trong việc thọ nhận có chừng mực.
Cīvaraṃ pariyesantassa pana ‘‘asukassa gharadvāre manāpaṃ labhissāmī’’ti acintetvā dvārapaṭipāṭiyā caraṇaṃ loluppavivajjanasantoso nāma.
Hơn nữa, trong khi tìm kiếm y, vẫn không nghĩ rằng: “Ta sẽ có được y hợp ý ở cổng nhà của người kia”, mà đi theo tuần tự từng cổng nhà, được gọi là sự hài lòng trong việc tránh xa ham muốn.
Lūkhapaṇītesu yena kenaci yāpetuṃ sakkontassa yathāladdheneva yāpanaṃ yathālābhasantoso nāma. Attano thāmaṃ jānitvā yena yāpetuṃ sakkoti, tena yāpanaṃ yathābalasantoso nāma. Manāpaṃ aññassa datvā attano yena kenaci yāpanaṃ yathāsāruppasantoso nāma.
Khi có thể gìn giữ thân thể với bất cứ loại y nào, dù dơ bẩn hay thượng hạng, là gìn giữ thân thể với chính y đã nhận được, được gọi là sự hài lòng với lợi lộc có được. Sau khi biết rõ sức lực của bản thân, (vị ấy) có thể gìn giữ thân thể với y nào, thì gìn giữ thân thể với loại y đó, được gọi là sự hài lòng theo sức mình. Việc một Tỳ-khưu cho tặng y phục hợp ý đến một vị Tỳ-khưu khác, bản thân gìn giữ thân thể với bất kỳ loại y nào, được gọi là sự hài lòng theo sự thích hợp.
‘‘Kattha udakaṃ manāpaṃ, kattha amanāpa’’nti avicāretvā yena kenaci dhovanupagena udakena dhovanaṃ udakasantoso nāma. Paṇḍumattikagerukapūtipaṇṇarasakiliṭṭhāni pana udakāni vajjetuṃ vaṭṭati.
Việc một Tỳ-khưu không lựa chọn rằng: “Nước ở đâu dễ chịu? Ở đâu không dễ chịu,” mà giặt với bất cứ loại nước nào thích hợp cho việc giặt, được gọi là sự hài lòng với nước. Hơn nữa, vị Tỳ-khưu tránh các loại nước đục do đất sét vàng, đất đá vôi và nước có cỏ mục là điều được phép.
Dhovantassa pana muggarādīhi apaharitvā hatthehi madditvā dhovanaṃ dhovanasantoso nāma. Tathā asujjhantaṃ paṇṇāni pakkhipitvā tāpitaudakenāpi dhovituṃ vaṭṭati.
Trong khi đang giặt giũ không dùng chày gỗ, v.v., để đập, mà dùng tay giặt vò, được gọi là sự hài lòng trong việc giặt. Sau khi bỏ lá cây vào giặt y phục không sạch, ngay cả với nước đã đun nóng cũng là điều được phép.
Evaṃ dhovitvā karontassa idaṃ thūlaṃ, idaṃ sukhumanti akopetvā pahonakanīhāreneva karaṇaṃ karaṇasantoso nāma. Timaṇḍalappaṭicchādanamattasseva karaṇaṃ parimāṇasantoso nāma.
Sau khi giặt như thế, đối với vị đang làm, không gây khó chịu “cái này là thô xấu, cái này là mịn màng,” được thực hiện theo đường lối vừa đủ như thế, đó chính là sự hài lòng trong việc làm. Việc làm y phục vừa đủ để che ba phần thân được gọi là sự hài lòng về việc xác định.
Cīvarakaraṇatthāya pana manāpasuttaṃ pariyesissāmīti avicāretvā rathikādīsu vā devaṭṭhāne vā āharitvā pādamūle vā ṭhapitaṃ yaṃkiñcideva suttaṃ gahetvā karaṇaṃ suttasantoso nāma.
Hơn nữa, việc vị Tỳ-khưu không suy nghĩ rằng “Ta sẽ tìm kiếm sợi chỉ ưng ý, để làm y phục,” đem sợi chỉ ở những nơi như ngõ hẻm, hoặc ở nơi của chư Thiên, hoặc lấy bất kỳ sợi chỉ nào được đặt gần bàn chân về để làm, được gọi là sự hài lòng về sợi chỉ.
Kusibandhanakāle pana aṅgulamatte sattavāre na vijjhitabbaṃ, evaṃ karontassa hi yo bhikkhu sahāyo na hoti, tassa vattabhedopi natthi. Tivaṅgulamatte pana sattavāre vijjhitabbaṃ, evaṃ karontassa maggapaṭipannenāpi sahāyena bhavitabbaṃ. Yo na hoti, tassa vattabhedo. Ayaṃ sibbanasantoso nāma.
Hơn nữa, trong lúc may đường biên ngoài cùng trên lá y, nên khâu bảy mũi kim, mỗi mũi cách nhau khoảng một đốt ngón tay. Bởi vì, trong khi một vị Tỳ-khưu làm như vậy, vị Tỳ-khưu nào không có bạn đồng tu cũng không vi phạm quy tắc. Nhưng nếu khâu bảy mũi kim khoảng chừng ba đốt ngón tay, trong khi làm như vậy thì nên có bạn đồng tu cùng đi trên đường. Vị nào không có (bạn đồng tu) thì vi phạm quy tắc đó. Điều này được gọi là sự hài lòng trong việc may vá.
Rajantena pana kāḷakacchakādīni pariyesantena na rajitabbaṃ. Somavakkalādīsu yaṃ labhati, tena rajitabbaṃ. Alabhantena pana manussehi araññe vākaṃ gahetvā chaḍḍitarajanaṃ vā bhikkhūhi pacitvā chaḍḍitakasaṭaṃ vā gahetvā rajitabbaṃ, ayaṃ rajanasantoso nāma.
Hơn nữa, (vị Tỳ-khưu) khi nhuộm, không nên đi tìm những loại cây đặc biệt như cây đa đen, v.v. Có được loại nào trong số các loại vỏ cây màu đen, v.v., thì nên dùng vỏ cây đó để nhuộm. Nếu không có, thì nên lấy nước nhuộm mà người ta đã dùng để ngâm sợi đay trong rừng rồi vứt bỏ, hoặc lấy bã nhuộm mà các Tỳ-khưu khác đã nấu rồi bỏ đi để nhuộm. Điều này được gọi là sự hài lòng trong việc nhuộm.
Nīlakaddamakāḷasāmesu yaṃkiñci gahetvā hatthipiṭṭhe nisinnassa paññāyamānakapakaraṇaṃ kappasantoso nāma.
Sau khi lấy bất kỳ loại màu nào như xanh lá cây, màu bùn, màu đen, hay màu chàm, và làm ký hiệu rõ ràng có kích thước bằng với một người ngồi trên lưng voi có thể nhìn thấy, được gọi là sự hài lòng trong việc làm ký hiệu.
Hirikopīnapaṭicchādanamattavasena paribhuñjanaṃ paribhogasantoso nāma.
Việc sử dụng (y phục) chỉ với mục đích che đậy sự trần truồng, được gọi là sự hài lòng trong việc thọ dụng.
Dussaṃ pana labhitvā suttaṃ vā sūciṃ vā kārakaṃ vā alabhantena ṭhapetuṃ vaṭṭati, labhantena na vaṭṭati. Katampi sace antevāsikādīnaṃ dātukāmo hoti, te ca asannihitā yāva āgamanā ṭhapetuṃ vaṭṭati. Āgatamattesu dātabbaṃ. Dātuṃ asakkontena adhiṭṭhātabbaṃ. Aññasmiṃ cīvare sati paccattharaṇampi adhiṭṭhātuṃ vaṭṭati. Anadhiṭṭhitameva hi sannidhi hoti. Adhiṭṭhitaṃ na hotīti mahāsīvatthero āha. Ayaṃ sannidhiparivajjanasantoso nāma.
Hơn nữa, sau khi có được vải vóc, nhưng chưa có chỉ, kim hay người làm (may y) được giữ lại là điều được phép. Nhưng khi đã có đủ những thứ đó rồi (mà) giữ lại là điều không được phép. Nếu có ý định tặng y đã may hoàn chỉnh đến các đệ tử, v.v., nhưng các đệ tử đó không có mặt, thì nên giữ lại cho đến khi họ đến. Khi các đệ tử đến, thì nên tặng họ. Khi không thể cho được, thì nên được chú nguyện. Nhưng khi có y phục khác, thì nên chú nguyện thành tấm trải nằm là điều được phép. Bởi vì, y phục không được chú nguyện (sẽ) là sự tích trữ (ý phục). Còn y phục được chú nguyện thì không phải là sự tích trữ, Trưởng lão Mahāsiva đã nói như vậy. Đây được gọi là sự hài lòng trong việc tránh xa việc tích trữ.
Vissajjantena pana na mukhaṃ oloketvā dātabbaṃ. Sāraṇīyadhamme ṭhatvā vissajjitabbanti ayaṃ vissajjanasantoso nāma.
Hơn nữa, khi ban phát không nên cho do nhìn thấy mặt, (mà) nên an trú trong pháp hòa kính rồi mới phân phát. Đây là sự hài lòng về trong việc cho tặng.
Cīvarapaṭisaṃyuttāni dhutaṅgāni nāma paṃsukūlikaṅgañceva tecīvarikaṅgañca. Tesaṃ vitthārakathā visuddhimaggato veditabbā. Iti cīvarasantosamahāariyavaṃsaṃ pūrayamāno bhikkhu imāni dve dhutaṅgāni gopeti. Imāni gopento cīvarasantosamahāariyavaṃsena santuṭṭho hoti.
Hạnh mặc y phấn tảo và hạnh chỉ sử dụng ba y được gọi là hạnh đầu đà liên hệ đến y phục. Lời giảng giải chi tiết về hai hạnh đầu đà này nên được hiểu từ bộ Thanh Tịnh Đạo. Vị Tỳ-khưu thực hành tám truyền thống của bậc Thánh là sự hài lòng về y phục giữ gìn hai hạnh đầu đà này như vậy. Trong khi giữ gìn điều này, vị ấy tự biết đủ với tám truyền thống lớn của bậc Thánh là sự hài lòng về y phục.
Vaṇṇavādīti eko santuṭṭho hoti, santosassa vaṇṇaṃ na katheti, eko na santuṭṭho hoti, santosassa vaṇṇaṃ katheti, eko neva santuṭṭho hoti, na santosassa vaṇṇaṃ katheti, eko santuṭṭho ceva hoti, santosassa ca vaṇṇaṃ katheti, taṃ dassetuṃ ‘‘itarītaracīvarasantuṭṭhiyā ca vaṇṇavādī’’ti vuttaṃ.
Nói lời ca ngợi: (1) Một vị Tỳ-khưu là người tự hài lòng, nhưng không nói lời ca ngợi về sự hài lòng; (2) một vị khác không phải là người tự hài lòng, nhưng lại nói lời ca ngợi đến về sự hài lòng; (3) một vị nữa là người không những không tự hài lòng, mà còn nói lời ca ngợi về sự hài lòng; (4) một vị khác nữa là người tự hài lòng và luôn nói lời ca ngợi về sự hài lòng. Để chỉ rõ điều đó, Ngài đã nói rằng– “Có lời ca ngợi về sự tự biết đủ với bất luận y nào dầu tốt hay xấu, v.v.”
Anesananti dūteyyapahinagamanānuyogappabhedaṃ nānappakāraṃ anesanaṃ. Appatirūpanti ayuttaṃ. Aladdhā cāti alabhitvā. Yathā ekacco ‘‘kathaṃ nu kho cīvaraṃ labhissāmī’’ti. Puññavantehi bhikkhūhi saddhiṃ ekato hutvā kohaññaṃ karonto uttasati paritasati, santuṭṭho bhikkhu evaṃ aladdhā cīvaraṃ na paritasati. Laddhā cāti dhammena samena labhitvā. Agadhitoti vigatalobhagiddho. Amucchitoti adhimattataṇhāya mucchaṃ anāpanno. Anajjhāpannoti taṇhāya anotthato apariyonaddho. Ādīnavadassāvīti anesanāpattiyañca gedhitaparibhoge ca ādīnavaṃ passamāno. Nissaraṇapaññoti ‘‘yāvadeva sītassa paṭighātāyā’’ti vuttaṃ nissaraṇameva pajānanto.
Không tầm cầu: Sự tầm cầu không thích hợp, có các công việc khác nhau là việc đưa tin tức, làm sứ giả, hoặc tham gia vào cả hai công việc ấy vốn là công việc của sứ giả. Sai trái (không thích hợp): không phù hợp. Không nhận được: Đã không nhận được. Ví như một vị Tỳ-khưu nghĩ rằng– “Vậy ta sẽ có được y phục như thế nào?” rồi chung tay với các vị Tỳ-khưu có phước báu, trong khi hành động dối trá sẽ hoảng sợ và sẽ băn khoăn, vị Tỳ-khưu là người tự biết đủ như vậy dù không nhận được y cũng sẽ không băn khoăn. Và khi đã nhận được: Khi đã nhận được một cách không ngay thẳng, không đúng pháp. Không bị vướng mắc: người không bị tham ái trói buộc. Không bị mê mẩn: Không bị cuốn vào sự mê đắm do ham muốn mãnh liệt. Không bị phạm lỗi: Không bị tham ái nhận chìm, không bị trói buộc bởi tham ái. Có sự nhìn thấy điều bất lợi: Có sự nhìn thấy điều bất lợi do việc tầm cầu không thích hợp và trong việc hưởng thụ (lợi lộc) bị tham muốn trói buộc. Có tuệ về sự thoát ra: Biết rõ về đường lối (là phương tiện) thoát ra được (đức Thế Tôn) nói rằng– “Chỉ để ngăn ngừa sự lạnh.”
Itarītaracīvarasantuṭṭhiyāti yena kenaci cīvarena santuṭṭhiyā. Nevattānukkaṃsetīti ‘‘ahaṃ paṃsukūliko mayā upasampadamāḷeyeva paṃsukūlikaṅgaṃ gahitaṃ, ko mayā sadiso atthī’’ti attukkaṃsanaṃ na karoti. Na paraṃ vambhetīti ‘‘ime panaññe bhikkhū na paṃsukūlikā’’ti vā ‘‘paṃsukūlikaṅgamattampi etesaṃ natthī’’ti vā evaṃ paraṃ na vambheti. Yo hi tattha dakkhoti yo tasmiṃ cīvarasantose, vaṇṇavādādīsu vā dakkho cheko byatto. Analasoti sātaccakiriyāya ālasiyavirahito. Sampajāno paṭissatoti sampajānapaññāya ceva satiyā ca yutto. Ariyavaṃse ṭhitoti ariyavaṃse patiṭṭhito.
Do sự tự biết đủ với bất luận y nào dầu tốt hay xấu: Sự tự biết đủ với bất kỳ loại y phục nào. Không tâng bốc bản thân: Không thể hiện (sự kiêu ngạo) do tâng bốc bản thân rằng: “Ta là người mặc y phấn tảo, ta thọ trì hạnh đầu đà về hạnh y phấn tảo từ khi còn ở trong giảng đường thọ cụ túc giới, có ai giống như ta chăng?” Và cũng không khi dễ người khác: Không khinh thường người khác: ‘Hơn nữa, các vị Tỳ-khưu khác không phải là người mặc y phấn tảo”; hoặc là, “các vị này dù là yếu tố của vị Tỳ-khưu thực hành hạnh đầu-đà về y phấn tảo là không có.” Vị nào khôn khéo: Vị nào là vị khôn khéo, thông thạo, giàu kinh nghiệm trong sự hài lòng về y phục, hoặc là người nói lời ca ngợi, v.v. Không biếng nhác: Tránh xa sự biếng nhác bởi tính kiến nhẫn. Có sự nhận biết rõ, có niệm vững chắc: Gắn liền với tuệ trong sự nhận biết rõ và với niệm. Đã đứng vào truyền thống của các bậc Thánh: Đang đứng vào truyền thống của các bậc Thánh. (9-1)
Itarītarena piṇḍapātenāti yena kenaci piṇḍapātena. Etthāpi piṇḍapāto jānitabbo. Piṇḍapātakkhettaṃ jānitabbaṃ, piṇḍapātasantoso jānitabbo, piṇḍapātapaṭisaṃyuttaṃ dhutaṅgaṃ jānitabbaṃ. Tattha piṇḍapātoti ‘‘odano, kummāso, sattu, maccho, maṃsaṃ, khīraṃ, dadhi, sappi, navanītaṃ, telaṃ, madhu, phāṇitaṃ, yāgu, khādanīyaṃ, sāyanīyaṃ, lehanīya’’nti soḷasa piṇḍapātā.
Tự biết đủ với bất kỳ phần thí thực nào: Với bất kỳ món thí thực nào. Luôn cả trong câu này, (bậc trí) nên biết về các món thí thực, nên biết về phạm vi trong phần thí thực, nên biết về sự hài lòng về các món ăn, hạnh đầu đà liên quan đến vật thực. Trong bốn điều ấy, đồ ăn khất thực là mười sáu loại vật thực gồm– (1) cơm, (2) sữa đặc có kem trên mặt, (3) bột, (4) cá, (5) thịt, (6) sữa tươi, (7) sữa chua, (8) bơ lỏng, (9) bơ đặc, (10) dầu, (11) mật ong, (12) mật mía, (13) cháo, (14) vật thực cứng, (15) vật thực mềm, (16) món tráng miệng.
Piṇḍapātakkhettanti saṅghabhattaṃ, uddesabhattaṃ, nimantanaṃ, salākabhattaṃ, pakkhikaṃ, uposathikaṃ, pāṭipadikaṃ, āgantukabhattaṃ, gamikabhattaṃ, gilānabhattaṃ, gilānupaṭṭhākabhattaṃ, dhurabhattaṃ, kuṭibhattaṃ, vārabhattaṃ, vihārabhattanti pannarasa piṇḍapātakkhettāni.
Phạm vi trong phần thí thực: bao gồm 15 phạm vi trong phần thí thực (1) Bữa trai phạn dâng đến Hội chúng Tỳ-khưu, (2) bữa ăn được chỉ định, (3) bữa ăn được mời thỉnh, (4) bữa ăn cúng dường phân phối theo thẻ, (5) bữa ăn dâng vào mỗi nửa tháng, (6) bữa ăn dâng vào ngày Uposatha, (7) bữa ăn dâng vào ngày đầu của mỗi nửa tháng, (8) bữa ăn dành cho vị vãng lai, (9) bữa ăn dành cho vị xuất hành, (10) bữa ăn dành cho vị bị bệnh, (11) bữa ăn dành cho vị chăm sóc bệnh, (12) bữa ăn được cúng dường hằng ngày, (13) bữa ăn dâng đến (vị Tỳ-khưu) ở am thất, (14) bữa ăn cúng dường lúc thuận tiện, (15) bữa ăn cúng dường đến vị Tỳ-khưu ở tịnh xá.
Piṇḍapātasantosoti piṇḍapāte vitakkasantoso, gamanasantoso, pariyesanasantoso paṭilābhasantoso, paṭiggahaṇasantoso, mattappaṭiggahaṇasantoso, loluppavivajjanasantoso, yathālābhasantoso, yathābalasantoso, yathāsāruppasantoso, upakārasantoso, parimāṇasantoso, paribhogasantoso, sannidhiparivajjanasantoso, vissajjanasantosoti pannarasa santosā.
Sự hài lòng về các món ăn: Có mười lăm sự hài lòng là– (1) sự hài lòng về việc suy tư trong vật thực, (2) sự hài lòng với việc đi lại, (3) sự hài lòng với việc tầm cầu., (4) sự hài lòng trong việc đạt được, (5) sự hài lòng trong việc thọ nhận, (6) sự hài lòng trong việc thọ nhận có chừng mực, (7) sự hài lòng trong việc tránh xa ham muốn, (8) sự hài lòng với lợi lộc có được, (9) sự hài lòng theo sức mình, (10) sự hài lòng theo sự thích hợp, (11) sự hài lòng về việc trợ giúp, (12) sự hài lòng về việc xác định, (13) sự hài lòng trong việc sử dụng, (14) sự hài lòng trong việc tránh xa việc tích trữ, (15) sự hài lòng trong việc cho tặng.
Tattha sādako bhikkhu mukhaṃ dhovitvā vitakketi. Piṇḍapātikena pana gaṇena saddhiṃ caratā sāyaṃ therūpaṭṭhānakāle ‘‘sve kattha piṇḍāya carissāmāti asukagāme, bhante’’ti, ettakaṃ cintetvā tato paṭṭhāya na vitakketabbaṃ. Ekacārikena vitakkamāḷake ṭhatvā vitakketabbaṃ. Tato paraṃ vitakkento ariyavaṃsā cuto hoti paribāhiro. Ayaṃ vitakkasantoso nāma.
Trong các sự hài lòng ấy, vị Tỳ-khưu hài lòng, sau khi rửa mặt mới suy nghĩ. Hơn nữa, với vị liên quan đến đồ ăn khất thực đi cùng với nhóm vào buổi chiều trong lúc phục vụ vị Trưởng lão, (bị hỏi rằng): “Ngày mai chúng ta sẽ đi khất thực ở đâu? – ‘Bạch Ngài, ở ngôi làng kia,’” chỉ suy nghĩ chừng ấy, từ đó thì không nên suy nghĩ thêm nữa. Vị Tỳ-khưu đi một mình nên đứng suy nghĩ ở khu vực dành cho suy nghĩ. Trong khi suy nghĩ hơn thế ấy thì gọi là thay đổi, là hoàn toàn xa lạ từ truyền thống của bậc Thánh. Điều này được gọi là sự hài lòng về suy nghĩ.
Piṇḍāya pavisantena ‘‘kuhiṃ labhissāmī’’ti acintetvā kammaṭṭhānasīsena gantabbaṃ. Ayaṃ gamanasantoso nāma.
Vị Tỳ-khưu khi đi khất thực, không nên nghĩ rằng– “Ta sẽ có được (vật thực) ở đâu?” Nên đi do có đề mục tham thiền (nghiệp xứ) làm trưởng. Điều này được gọi là sự hài lòng trong việc đi lại.
Pariyesantena yaṃ vā taṃ vā agahetvā lajjiṃ pesalameva gahetvā pariyesitabbaṃ. Ayaṃ pariyesanasantoso nāma.
Khi tìm kiếm (vật thực) không nên lấy vật này hay vật kia, nên dẫn theo vị Tỳ-khưu có lòng hổ thẹn, có hạnh kiểm tốt, được yêu quý rồi mới đi tìm kiếm. Đây gọi là sự hài lòng với việc tầm cầu.
Dūratova āhariyamānaṃ disvā ‘‘etaṃ manāpaṃ, etaṃ amanāpa’’nti cittaṃ na uppādetabbaṃ. Ayaṃ paṭilābhasantoso nāma.
Khi nhìn thấy người mang thức ăn đến từ đằng xa, không nên khởi tâm như vầy: “Món này vừa ý, còn món này không vừa ý.” Đây gọi là sự hài lòng trong việc đạt được.
‘‘Imaṃ manāpaṃ gaṇhissāmi, imaṃ amanāpaṃ na gaṇhissāmī’’ti acintetvā yaṃkiñci yāpanamattaṃ gahetabbameva, ayaṃ paṭiggahaṇasantoso nāma.
Vị Tỳ-khưu không nên nghĩ rằng– “Tôi sẽ nhận món này (vì) vừa ý, còn món này không vừa ý tôi sẽ không nhận,” bất kỳ món nào dù ngon hay dở chỉ nên nhận lượng vừa đủ để duy trì mạng sống. Đây gọi là sự hài lòng trong việc thọ nhận.
Ettha pana deyyadhammo bahu, dāyako appaṃ dātukāmo, appaṃ gahetabbaṃ. Deyyadhammo bahu, dāyakopi bahuṃ dātukāmo, pamāṇeneva gahetabbaṃ. Deyyadhammo na bahu, dāyakopi appaṃ dātukāmo, appaṃ gahetabbaṃ. Deyyadhammo na bahu, dāyako pana bahuṃ dātukāmo, pamāṇena gahetabbaṃ. Paṭiggahaṇasmiñhi mattaṃ ajānanto manussānaṃ pasādaṃ makkheti, saddhādeyyaṃ vinipāteti, sāsanaṃ na karoti, vijātamātuyāpi cittaṃ gahetuṃ na sakkoti. Iti mattaṃ jānitvāva paṭiggahetabbanti ayaṃ mattappaṭiggahaṇasantoso nāma.
Hơn nữa, ở đây, có nhiều phẩm vật cúng dường, thí chủ muốn cho ít, (vị ấy) nên nhận ít. Có nhiều phẩm vật cúng dường, thí chủ muốn cúng dường nhiều, (vị ấy) chỉ nên nhận mức độ vừa phải. Không có nhiều phẩm vật cúng dường, thí chủ muốn cho ít, (vị ấy) chỉ nên nhận ít. Không có nhiều phẩm vật cúng dường, nhưng thí chủ muốn cho nhiều, (vị ấy) cũng chỉ nên nhận với mức độ vừa phải. Bởi vì, vị Tỳ-khưu không biết đủ trong việc thọ nhận (thức ăn, v.v,) sẽ làm hoen ố niềm tịnh tín của mọi người, làm cho lãng phí vật thí do đức tin, không làm theo lời giảng dạy, (vị ấy) không thể nắm giữ được tâm ngày cả (tâm) của chính thân mẫu. Do đó, vị Tỳ-khưu nên biết đủ trước rồi mới thọ nhận, điều này được gọi là sự hài lòng trong việc thọ nhận có chừng mực.
Saddhakulāniyeva agantvā dvārappaṭipāṭiyā gantabbaṃ, ayaṃ loluppavivajjanasantoso nāma. Yathālābhasantosādayo cīvare vuttanayā eva.
Vị Tỳ-khưu không nên chỉ đến những gia đình giàu có, mà nên đi theo tuần tự từng cửa nhà, điều này được gọi là sự hài lòng trong việc tránh xa ham muốn. Sự hài lòng với lợi lộc có được v.v, có phương thức như đã nói về y phục.
Piṇḍapātaṃ paribhuñjitvā samaṇadhammaṃ anupālessāmīti evaṃ upakāraṃ ñatvā paribhuñjanaṃ upakārasantoso nāma.
Việc vị Tỳ-khưu biết được sự trợ giúp như vầy rằng– “Sau khi thọ dụng đồ ăn khất thực, tôi sẽ duy trì Sa-môn Pháp” rồi mới thọ dụng, được gọi là sự hài lòng về việc trợ giúp.
Pattaṃ pūretvā ānītaṃ na paṭiggahetabbaṃ, anupasampanne sati tena gāhāpetabbaṃ, asati harāpetvā paṭiggahaṇamattaṃ gahetabbaṃ. Ayaṃ parimāṇasantoso nāma.
Đồ ăn được mang đến sau khi đã chất đầy bình bất thì (vị Tỳ-khưu) không nên thọ nhận. Khi có vị chưa thọ cụ túc giới (vị Sa-di, học trò) thì nên bảo vị ấy mang đến; nếu không có thì nên bảo mang đến rồi nhận vừa đủ với khả năng của mình, điều này được gọi là sự hài lòng về việc xác định.
‘‘Jighacchāya paṭivinodanaṃ idamettha nissaraṇa’’nti evaṃ paribhuñjanaṃ paribhogasantoso nāma.
(Vị Tỳ-khưu) thọ dụng vật thực (với tác ý) như vầy rằng– “Việc thọ dụng này xua đi cơn đói, sự thoát ra khỏi các Hữu có được nhờ việc này,” điều này gọi là sự hài lòng trong việc thọ dụng.
Nidahitvā na paribhuñjitabbanti ayaṃ sannidhiparivajjanasantoso nāma. Mukhaṃ anoloketvā sāraṇīyadhamme ṭhitena vissajjetabbaṃ ayaṃ vissajjanasantoso nāma.
(Vị Tỳ-khưu) không nên tích trữ để thọ dụng, điều này gọi là sự hài lòng trong việc tránh xa việc tích trữ. Vị Tỳ-khưu không nên nhìn mặt (vì thiên vị mà cho), an trú trong sáu pháp hòa kính rồi nên từ bỏ, điều này được gọi là sự hài lòng trong việc từ bỏ.
Piṇḍapātapaṭisaṃyuttāni pana pañca dhutaṅgāni – piṇḍapātikaṅgaṃ, sapadānacārikaṅgaṃ, ekāsanikaṅgaṃ, pattapiṇḍikaṅgaṃ, khalupacchābhattikaṅganti. Tesaṃ vitthārakathā visuddhimagge vuttā. Iti piṇḍapātasantosamahāariyavaṃsaṃ pūrayamāno bhikkhu imāni pañca dhutaṅgāni gopeti. Imāni gopento piṇḍapātasantosamahāariyavaṃsena santuṭṭho hoti. ‘‘Vaṇṇavādī’’tiādīni vuttanayeneva veditabbāni.
Hơn nữa, năm hạnh đầu đà liên quan đến đồ ăn khất thực là– (1) hạnh đi khất thực, (2) hạnh đi khất thực theo từng nhà, (3) hạnh một chỗ ngồi (khi thọ thực), (4) tánh biết chừng mực vớivật thực (hạnh thọ thực trong bình bát), (5) và hạnh không ăn vật thực dâng sau. Lời giảng giải chi tiết của cả năm hạnh đầu đà này đã được nói trong bộ Thanh Tịnh Đạo.Vị Tỳ-khưu thực hành truyền thống vĩ đại của bậc Thánh về sự hài lòng với vật thực (sẽ) gìn giữ năm hạnh đầu đà này. Trong khi gìn giữ năm hạnh đầu đà này là vị tự biết đủ theo truyền thống vĩ đại của bậc Thánh về sự hài lòng với vật thực. Có lời ca ngợi, v.v, nên hiểu theo phương thức đã được trình bày. (9-2)
Senāsanenāti idha senāsanaṃ jānitabbaṃ, senāsanakkhettaṃ jānitabbaṃ, senāsanasantoso jānitabbo, senāsanapaṭisaṃyuttaṃ dhutaṅgaṃ jānitabbaṃ. Tattha senāsananti mañco, pīṭhaṃ, bhisi, bimbohanaṃ, vihāro, aḍḍhayogo, pāsādo, hammiyaṃ, guhā, leṇaṃ, aṭṭo, māḷo, veḷugumbo, rukkhamūlaṃ, yattha vā pana bhikkhū paṭikkamantīti imāni pannarasa senāsanāni.
Ở đây, chỗ trú ngụ – (vị Tỳ-khưu) nên biết về chỗ trú ngụ, nên biết về phạm vi của chỗ trú ngụ, nên biết về sự hài lòng ở nơi trú ngụ, nên biết về hạnh đầu đà liên qua liên quan đến chỗ trú ngụ. Ở đấy, chỗ trú ngụ có mười lăm chỗ trú ngụ này là– (1) giường, (2) ghế, (3) nệm, (4) gối kê, (5) trú xá, (6) nhà một mái, (7) tòa nhà dài, (8) khu nhà lớn, (9) hang động, (10) nơi ẩn dật, (11) pháo đài, (12) chòi canh, (13) lùm tre, (14) gốc cây, (15) hoặc ở nơi phù hợp đối với vị Tỳ-khưu.
Senāsanakkhettanti ‘‘saṅghato vā gaṇato vā ñātito vā mittato vā attano vā dhanena paṃsukūlaṃ vā’’ti cha khettāni.
Phạm vị của chỗ trú ngụ: có sáu phạm vi– “Từ Hội chúng Tỳ-khưu, từ nhóm, từ thân quyến, từ bạn bè, từ tài sản của bản thân, từ y phấn tảo”.
Senāsanasantosoti senāsane vitakkasantosādayo pannarasa santosā. Te piṇḍapāte vuttanayeneva veditabbā. Senāsanapaṭisaṃyuttāni pana pañca dhutaṅgāni – āraññikaṅgaṃ, rukkhamūlikaṅgaṃ, abbhokāsikaṅgaṃ, sosānikaṅgaṃ, yathāsantatikaṅganti. Tesaṃ vitthārakathā visuddhimagge vuttā. Iti senāsanasantosamahāariyavaṃsaṃ pūrayamāno bhikkhu imāni pañca dhutaṅgāni gopeti. Imāni gopento senāsanasantosamahāariyavaṃsena santuṭṭho hoti.
Sự hài lòng ở chỗ trú ngụ: ở chỗ trú ngụ có mười lăm sự hài lòng– gồm (1) sự hài lòng trong việc suy nghĩ. Các sự hài lòng ấy nên biết theo phương thức đã được trình bày ở phần vật thực. Hơn nữa, năm hạnh đầu đà liên quan đến chỗ trú ngụ là– (1) hạnh sống ở rừng, (2) hạnh ngụ ở gốc cây, (3) hạnh ngụ ở ngoài trời, (4) hạnh ngụ ở mộ địa, và (5) hạnh ngụ chỗ ở theo chỉ định. Lời giảng giải chi tiết của các hạnh đầu đà ấy đã được nói trong bộ Thanh Tịnh Đạo. Vị Tỳ-khưu thực hành truyền thống vĩ đại của bậc Thánh về sự hài lòng ở nơi trú ngụ, được gọi là gìn giữ năm hạnh đầu đà này như vậy. Trong khi gìn giữ năm điều này là vị tự biết đủ theo truyền thống vĩ đại của bậc Thánh về sự hài lòng nơi trú ngụ. (9-3)
Gilānapaccayo pana piṇḍapāteyeva paviṭṭho. Tattha yathālābha– yathābala– yathāsāruppasantoseneva santussitabbaṃ. Nesajjikaṅgaṃ bhāvanārāmaariyavaṃsaṃ bhajati. Vuttampi cetaṃ –
‘‘Pañca senāsane vuttā, pañca āhāranissitā;
Eko vīriyasaṃyutto, dve ca cīvaranissitā’’ti.
Hơn nữa, dược phẩm trị bệnh cũng được gộp vào trong phần vật thực. Trong phần dược phẩm trị bệnh, (vị Tỳ-khưu) nên là vị tự biết đủ bởi sự hài lòng với lợi lộc có được, sự hài lòng theo sức mình, và sự hài lòng theo sự thích hợp. Vị Tỳ-khưu (khi thọ trì) hạnh oai nghi ngồi (không nằm) là thân cận với truyền thống của bậc Thánh về sự vui thích trong việc tu tập. Và điều này được ngài nói rằng—
(Đức Thế Tôn) thuyết về năm pháp liên quan đến chỗ trú ngụ, năm pháp liên hệ đến thức ăn; Một pháp liên hệ đến sự tinh tấn, và hai pháp y cứ vào y phục.
Iti āyasmā dhammasenāpati sāriputtatthero pathaviṃ pattharamāno viya sāgarakucchiṃ pūrayamāno vākāsaṃ vitthārayamāno viya ca paṭhamaṃ cīvarasantosaṃ ariyavaṃsaṃ kathetvā candaṃ uṭṭhāpento viya sūriyaṃ ullaṅghento viya ca dutiyaṃ piṇḍapātasantosaṃ kathetvā sineruṃ ukkhipento viya tatiyaṃ senāsanasantosaṃ ariyavaṃsaṃ kathetvā idāni sahassanayappaṭimaṇḍitaṃ catutthaṃ bhāvanārāmaṃ ariyavaṃsaṃ kathetuṃ puna caparaṃ āvuso bhikkhu pahānārāmo hotīti desanaṃ ārabhi.
Trưởng lão Sāriputta, vị Tướng quân Chánh pháp, đã nói về truyền thống của bậc Thánh về ‘sự hài lòng với y phục’ điều thứ nhất, ví như mở rộng cả quả địa cầu, ví như làm cho lòng đại dương được đầy tràn, và ví như mở rộng bầu trời trở nên bao la vô tận. Ngài đã nói về truyền thống của bậc Thánh là ‘sự hài lòng về vật thực’ điều thứ hai, tương tự làm cho mặt trăng mọc lên và làm cho mặt trời nổi lên. Ngài đã nói về truyền thống của bậc Thánh là ‘sự hài lòng về chỗ trú ngụ’ điều thứ ba, giống như nâng đỉnh núi Suṇeru lên. Giờ đây, để nói về truyền thống của bậc Thánh là ‘sự vui thích trong việc tu tập’ điều thứ tư, vốn được trang hoàng với một nghìn cách thức, mới bắt đầu thuyết giảng rằng: “Còn điều khác nữa, này các Đại đức, vị Tỳ-khưu có sự vui thích trong việc từ bỏ.”
Tattha āramanaṃ ārāmo, abhiratīti attho. Pañcavidhe pahāne ārāmo assāti pahānārāmo. Kāmacchandaṃ pajahanto ramati, nekkhammaṃ bhāvento ramati, byāpādaṃ pajahanto ramati…pe… sabbakilese pajahanto ramati, arahattamaggaṃ bhāvento ramatīti evaṃ pahāne ratoti pahānarato. Vuttanayeneva bhāvanāya ārāmo assāti bhāvanārāmo. Bhāvanāya ratoti bhāvanārato.
Ở đấy, ‘sự vui thích’ được gọi là ‘ārāmo’, có nghĩa là vô cùng vui thích. Vị có sự vui thích trong việc từ bỏ– với ý nghĩa, có sự vui thích trong năm sự dứt bỏ. “Trong khi dứt bỏ ước muốn trong các dục (vị ấy) thích thú; trong khi tu tập sự thoát ly (vị ấy) thích thú, trong khi dứt bỏ sân độc (vị ấy) thích thú, …nt… trong khi dứt bỏ toàn bộ phiền não (vị ấy) thích thú, trong khi tu tập về Đạo A-ra-hán (vị ấy) thích thú,” thích thú việc dứt bỏ– do ưa thích trong việc từ bỏ là như vậy. Vị có sự vui thích trong việc tu tập– với ý nghĩa có sự vui thích trong việc tu tập theo chính cách thức đã được trình bày. Thích thú trong việc tu tập (với ý nghĩa) là vị ưa thích trong việc tu tập.
Imesu pana catūsu ariyavaṃsesu purimehi tīhi terasannaṃ dhutaṅgānaṃ catupaccayasantosassa ca vasena sakalaṃ vinayapiṭakaṃ kathitaṃ hoti. Bhāvanārāmena avasesaṃ piṭakadvayaṃ. Imaṃ pana bhāvanārāmataṃ ariyavaṃsaṃ kathentena bhikkhunā paṭisambhidāmagge nekkhammapāḷiyā kathetabbo. Dīghanikāye dasuttarasuttantapariyāyena kathetabbo. Majjhimanikāye satipaṭṭhānasuttantapariyāyena kathetabbo. Abhidhamme niddesapariyāyena kathetabbo.
Hơn nữa, trong số bốn truyền thống của bậc Thánh này, toàn bộ Tạng Luật được (đức Thế Tôn) nói đến truyền thống của bậc Thánh ở ba câu đầu do tác động mười ba hạnh đầu đà và sự hài lòng với bốn món vật dụng. Hai Tạng còn lại, Ngài nói đến truyền thống bậc Thánh qua sự vui thích trong việc tu tập. Mặt khác, vị Tỳ-khưu nói đến truyền thống của bậc Thánh– tức sự vui thích trong việc tu tập này nên được giảng giải theo Chánh Văn Pāḷī về sự thoát ly trong bộ Phân Tích Đạo. Nên được giảng giải theo phương thức ở bài Kinh Dasuttara trong Trường Bộ Kinh. Nên được giảng giải theo phương thức ở bài Kinh Sự Thiết Lập Niệm trong Trung Bộ Kinh. (Và) nên giảng giải theo phương thức Niddesa trong Tạng Vi Diệu Pháp.
Tattha paṭisambhidāmagge nekkhammapāḷiyāti so nekkhammaṃ bhāvento ramati, kāmacchandaṃ pajahanto ramati. Abyāpādaṃ byāpādaṃ. Ālokasaññaṃ, thinamiddhaṃ. Avikkhepaṃ uddhaccaṃ. Dhammavavatthānaṃ, vicikicchaṃ. Ñāṇaṃ, avijjaṃ. Pāmojjaṃ, aratiṃ. Paṭhamaṃ jhānaṃ, pañca nīvaraṇe. Dutiyaṃ jhānaṃ, vitakkavicāre. Tatiyaṃ jhānaṃ, pītiṃ. Catutthaṃ jhānaṃ, sukhadukkhe. Ākāsānañcāyatanasamāpattiṃ bhāvento ramati, rūpasaññaṃ paṭighasaññaṃ nānattasaññaṃ pajahanto ramati. Viññāṇañcāyatanasamāpattiṃ…pe… nevasaññānāsaññāyatanasamāpattiṃ bhāvento ramati, ākiñcaññāyatanasaññaṃ pajahanto ramati.
Ở đấy, theo Chánh Văn Pāḷī về sự thoát ly trong bộ Phân Tích Đạo– trong khi tu tập sự xuất ly vị ấy thích thú, trong khi dứt bỏ ước muốn trong các dục vị ấy thích thú; (trong khi tu tập) sự không sân độc –nt– (trong khi dứt bỏ) sân độc –nt–; sự nghĩ tưởng về ánh sáng –nt– hôn trầm và thụy miên; sự không tản mạn –nt– phóng dật; sự xác định pháp –nt– hoài nghi; trí –nt– vô minh; sự hân hoan –nt– sự không hứng thú; (trong khi tu tập) Sơ thiền, (trong khi dứt bỏ) năm pháp ngăn che; (trong khi tu tập) Nhị thiền, (trong khi dứt bỏ) tầm tứ; (trong khi tu tập) Tam thiền, (trong khi dứt bỏ) hỷ; (trong khi tu tập) Tứ thiền, (trong khi dứt bỏ) lạc và khổ. Trong khi tu tập sự chứng đạt không vô biên xứ vị ấy thích thú, trong khi dứt bỏ sự nghĩ tưởng về các sắc, sự nghĩ tưởng về bất bình, sự nghĩ tưởng về khác biệt vị ấy thích thú. Trong khi tu tập sự chứng đạt thức vô biên xứ …nt… Trong khi tu tập sự chứng đạt phi tưởng phi phi tưởng xứ vị ấy thích thú, trong khi dứt bỏ vô sở hữu xứ vị ấy thích thú.
Aniccānupassanaṃ bhāvento ramati, niccasaññaṃ pajahanto ramati. Dukkhānupassanaṃ, sukhasaññaṃ. Anattānupassanaṃ, attasaññaṃ. Nibbidānupassanaṃ, nandiṃ. Virāgānupassanaṃ, rāgaṃ. Nirodhānupassanaṃ, samudayaṃ. Paṭinissaggānupassanaṃ, ādānaṃ. Khayānupassanaṃ, ghanasaññaṃ. Vayānupassanaṃ, āyūhanaṃ. Vipariṇāmānupassanaṃ, dhuvasaññaṃ. Animittānupassanaṃ, nimittaṃ. Apaṇihitānupassanaṃ, paṇidhiṃ. Suññatānupassanaṃ abhinivesaṃ. Adhipaññādhammavipassanaṃ, sārādānābhinivesaṃ. Yathābhūtañāṇadassanaṃ, sammohābhinivesaṃ. Ādīnavānupassanaṃ, ālayābhinivesaṃ. Paṭisaṅkhānupassanaṃ, appaṭisaṅkhaṃ. Vivaṭṭānupassanaṃ, saṃyogābhinivesaṃ. Sotāpattimaggaṃ, diṭṭhekaṭṭhe kilese. Sakadāgāmimaggaṃ, oḷārike kilese. Anāgāmimaggaṃ, aṇusahagate kilese. Arahattamaggaṃ bhāvento ramati, sabbakilese pajahanto ramatīti evaṃ paṭisambhidāmagge nekkhammapāḷiyā kathetabbo.
Trong khi tu tập sự quán xét vô thường vị ấy thích thú, trong khi dứt bỏ sự thương còn vị ấy thích thú. Trong khi tu tập sự quán xét khổ não … trong khi dứt bỏ sự nghĩ tưởng về lạc. Trong khi tu tập sự quán xét vô ngã … trong khi dứt bỏ sự nghĩ tưởng về ngã. Trong khi tu tập sự quán xét về nhàm chán … trong khi dứt bỏ sự vui thích. Trong khi tu tập sự quán xét về ly tham ái, trong khi dứt bỏ luyến ái…. Sự quán xét về diệt tận, nhân sanh khởi… Sự quán xét về từ bỏ, sự nắm giữ … Sự quán xét về đoạn tận, sự nghĩ tưởng về sự tiếp nối… Sự quán xét về chuyển biến, sự nghĩ tưởng về vững chắc … Sự quán xét về vô tướng, hiện tướng … Sự quán xét về vô nguyện, sự nguyện ước … Sự quán xét về không tánh, sự cố chấp … Sự minh sát các pháp bằng thắng tuệ, sự cố chấp trong việc chấp giữ mãnh lực (của lòng ham muốn là thường còn) … Sự biết và thấy đúng theo thực thể, sự cố chấp vào sự lầm lẫn … Sự quán xét về tai hại, sự cố chấp vào sự nương tựa … Sự quán xét về phân biệt rõ, sự không phân biệt rõ … Sự quán xét về ly khai, sự cố chấp vào sự ràng buộc … Đạo Nhập Lưu, các phiền não thuần về tà kiến … Đạo Nhất Lai, các phiền não thô thiển … Đạo Bất Lai, các phiền não có tính chất vi tế … Trong khi tu tập Đạo A-ra-hán vị ấy thích thú, trong khi dứt bỏ toàn bộ phiền não vị ấy thích thú. Nên thuyết giảng theo Chánh Văn Pāḷī về sự thoát ly trong bộ Phân Tích Đạo là (có ý nghĩa) như thế.
Dīghanikāyedasuttarasuttantapariyāyenāti ekaṃ dhammaṃ bhāvento ramati, ekaṃ dhammaṃ pajahanto ramati…pe… dasa dhamme bhāvento ramati, dasa dhamme pajahanto ramati. Katamaṃ ekaṃ dhammaṃ bhāvento ramati? Kāyagatāsatiṃ sātasahagataṃ. Imaṃ ekaṃ dhammaṃ bhāvento ramati. Katamaṃ ekaṃ dhammaṃ pajahanto ramati? Asmimānaṃ. Imaṃ ekaṃ dhammaṃ pajahanto ramati. Katame dve dhamme…pe… katame dasa dhamme bhāvento ramati? Dasa kasiṇāyatanāni. Ime dasa dhamme bhāvento ramati. Katame dasa dhamme pajahanto ramati? Dasa micchatte. Ime dasa dhamme pajahanto ramati. Evaṃ kho, bhikkhave, bhikkhu bhāvanārāmo hotīti evaṃ dīghanikāye dasuttarasuttantapariyāyena kathetabbo.
(Nên được giảng giải) theo phương thức ở bài Kinh Dasuttara trong Trường Bộ Kinh– Trong khi tu tập một pháp vị ấy thích thú, trong khi dứt bỏ một pháp vị ấy thích thú … trong khi tu tập mười pháp vị ấy thích thú, trong khi dứt bỏ mười pháp vị ấy thích thú … Vị ấy thích thú trong khi tu tập một pháp là pháp nào? Niệm hướng đến thân có sự sảng khoái đi cùng. Trong khi tu tập một pháp này vị ấy thích thú. Vị ấy thích thú trong khi dứt bỏ một pháp là pháp nào? Ngã mạn về bản thân. Trong khi dứt bỏ một pháp này vị ấy thích thú. Vị ấy thích thú trong khi tu tập hai pháp là các pháp nào? … mười pháp là các pháp nào? Mười lãnh vực của đề mục thiền. Trong khi tu tập mười pháp này vị ấy thích thú. Vị ấy thích thú trong khi dứt bỏ mười pháp là các pháp nào? Mười pháp tà vạy. Vi ấy thích thú trong khi dứt bỏ mười pháp là các pháp nào? Như vậy, này các Tỳ-khưu, vị Tỳ-khưu có sự vui thích trong việc tu tập. Nên được giảng giải theo phương thức ở bài Kinh Dasuttara trong Trường Bộ Kinh là (có ý nghĩa) như vậy.
Majjhimanikāye satipaṭṭhānasuttantapariyāyenāti ekāyano, bhikkhave, maggo sattānaṃ visuddhiyā, sokaparidevānaṃ samatikkamāya, dukkhadomanassānaṃ atthaṅgamāya, ñāyassa adhigamāya, nibbānassa sacchikiriyāya yadidaṃ cattāro satipaṭṭhānā. Katame cattāro? Idha, bhikkhave, bhikkhu kāye kāyānupassī viharati… vedanāsu vedanānupassī… citte cittānupassī… dhammesu dhammānupassī… ‘atthi dhammā’ti vā panassa sati paccupaṭṭhitā hoti yāvadeva ñāṇamattāya paṭissatimattāya anissito ca viharati na ca kiñci loke upādiyati. Evampi, bhikkhave, bhikkhu bhāvanārāmo hoti bhāvanārato, pahānārāmo hoti pahānarato. Puna caparaṃ, bhikkhave, bhikkhu gacchanto vā gacchāmīti pajānāti…pe… puna caparaṃ, bhikkhave, bhikkhu seyyathāpi passeyya sarīraṃ sivathikāya chaḍḍitaṃ…pe… pūtīni cuṇṇakajātāni. So imameva kāyaṃ upasaṃharati, ayampi kho kāyo evaṃdhammo evaṃbhāvī evaṃanatītoti. Iti ajjhattaṃ vā kāye kāyānupassī viharati…pe… evampi kho, bhikkhave, bhikkhu bhāvanārāmo hotīti evaṃ majjhimanikāye satipaṭṭhānasuttantapariyāyena kathetabbo.
Nên được giảng giải theo phương thức ở bài Kinh Sự Thiết Lập Niệm trong Trung Bộ Kinh– Này các Tỳ-khưu, đây là con đường độc đạo đưa đến sự thanh tịnh cho các chúng sinh, đưa đến sự vượt qua hẳn sầu và bi, đưa đến sự biến mất của khổ và ưu, đưa đến việc đạt được phương pháp, tức là bốn sự thiết lập niệm. Bốn (sự thiết lập niệm) là những gì? Này các tỳ khưu, ở đây vị tỳ khưu– sống có sự quan sát thân ở thân … sống có sự quan sát thọ ở các thọ … sống có sự quan sát tâm trên tâm … sống có sự quan sát pháp trên các pháp… Hoặc hơn nữa, niệm “có pháp” được hình thành cho vị này chỉ để đưa đến việc đạt được trí, đưa đến việc đạt được niệm. Vị ấy sống không nương tựa và không chấp thủ vào bất cứ điều gì ở thế gian. Này các Tỳ-khưu, là như vậy, vị Tỳ-khưu có sự vui thích trong việc tu tập, thích thú trong việc tu tập, có sự vui thích trong việc từ bỏ, thích thú việc dứt bỏ. Này các Tỳ-khưu, còn có điều khác nữa, vị Tỳ-khưu trong khi đi biết rõ: “Tôi đi;” … Này các Tỳ-khưu, còn có điều khác nữa, cũng giống như vị Tỳ-khưu nhìn thấy thân xác bị quăng bỏ ở bãi tha ma … là các khúc xương hôi thối, bị rã thành bột. Vị ấy so sánh chính thân này (với tử thi ấy): “Thân này cũng có tính chất như vậy, có bản chất như vậy, không vượt qua điều ấy.” Như thế, vị ấy sống có sự quan sát thân ở thân thuộc nội phần … Như vậy, này các Tỳ-khưu, vị Tỳ-khưu có sự vui thích trong việc tu tập. Nên được giảng giải theo phương thức ở bài Kinh Sự Thiết Lập Niệm trong Trung Bộ Kinh là như thế ấy.
Abhidhamme niddesapariyāyenāti sabbepi saṅkhate aniccato dukkhato rogato gaṇḍato…pe… saṃkilesikadhammato passanto ramati. Ayaṃ, bhikkhave, bhikkhu bhāvanārāmo hotīti evaṃ niddesapariyāyena kathetabbo.
Nên giảng giải theo phương thức Niddesa trong Tạng Vi Diệu Pháp– Trong khi nhìn thấy tất cả các Pháp Hữu Vi là vô thường, là khổ não, là cơn bệnh, là mụt ghẻ …nt… là có bản chất ô nhiễm (vị ấy) thích thú. Này các Tỳ-khưu, vị Tỳ-khưu này có sự vui thích trong việc tu tập. Nên giảng giải theo phương thức Niddesa trong Tạng Vi Diệu Pháp là như vậy.
Nevaattānukkaṃsetīti ajja me saṭṭhi vā sattati vā vassāni aniccaṃ dukkhaṃ anattāti vipassanāya kammaṃ karontassa, ko mayā sadiso atthīti evaṃ attukkaṃsanaṃ na karoti. Na paraṃ vambhetīti aniccaṃ dukkhanti vipassanāmattakampi natthi, kiṃ ime vissaṭṭhakammaṭṭhānā carantīti evaṃ paraṃ vambhanaṃ na karoti. Sesaṃ vuttanayameva.
Không tâng bốc: Vị Tỳ-khưu không tự tâng bốc bản thân rằng– “Trong khi đang thực hành công việc Minh sát về vô thường, khổ, vô ngã suốt 60 hoặc 70 năm, hôm nay có ai như tôi không?” Không khi dể vị khác: Vị Tỳ-khưu không khởi lên ý chê bai người khác như vầy rằng: “Dầu chỉ một chút Minh sát về ‘vô thường, khổ não’ cũng không có (đối với những vị Tỳ-khưu này). Tại sao những vị Tỳ-khưu này lại từ bỏ Nghiệp Xứ (đề mục thiền định) mà đi đây đi đó như vậy?” Những từ còn lại có cách thức tương tự như đã giải thích ở trước. (9-4)
310. Padhānānīti uttamavīriyāni. Saṃvarapadhānanti cakkhādīni saṃvarantassa uppannavīriyaṃ. Pahānapadhānanti kāmavitakkādayo pajahantassa uppannavīriyaṃ. Bhāvanāpadhānanti bojjhaṅge bhāventassa uppannavīriyaṃ. Anurakkhaṇāpadhānanti samādhinimittaṃ anurakkhantassa uppannavīriyaṃ.
310. Sự nỗ lực: Sự tinh tấn thù thắng. Sự nỗ lực thu thúc: Sự tinh tấn sanh khởi trong khi đang thu thúc ở các giác quan như mắt, v.v. Sự nỗ lực dứt bỏ: Sự tinh tấn sanh khởi trong khi đang dứt bỏ sự suy tầm về dục, v.v. Sự nỗ lực tu tập: Sự tinh tấn sanh khởi trong khi đang tu tập các giác chi. Sự nỗ lực bảo tồn: Sự tinh tấn sanh khởi trong khi đang bảo tồn hiện tướng của định. (10-1)
Vivekanissitantiādīsu viveko virāgo nirodhoti tīṇipi nibbānassa nāmāni. Nibbānañhi upadhivivekattā viveko. Taṃ āgamma rāgādayo virajjantīti virāgo. Nirujjhantīti nirodho. Tasmā ‘‘vivekanissita’’ntiādīsu ārammaṇavasena adhigantabbavasena vā nibbānanissitanti attho. Vossaggapariṇāminti ettha dve vossaggā pariccāgavossaggo ca pakkhandanavossaggo ca. Tattha vipassanā tadaṅgavasena kilese ca khandhe ca pariccajatīti pariccāgavossaggo. Maggo ārammaṇavasena nibbānaṃ pakkhandatīti pakkhandanavossaggo. Tasmā vossaggapariṇāminti yathā bhāviyamāno satisambojjhaṅgo vossaggatthāya pariṇamati, vipassanābhāvañca maggabhāvañca pāpuṇāti, evaṃ bhāvetīti ayamettha attho. Sesapadesupi eseva nayo.
Nương tựa vào sự tách ly, v.v., cả ba từ là– sự tách ly, sự không còn luyến ái, sự tịch diệt đều là tên gọi của Niết Bàn. Thật vậy, Niết Bàn được gọi là ‘sự tách ly’ bởi trạng thái viễn ly về mầm tái sanh. Gọi là ‘sự không còn luyến ái’ bởi vì khi đạt đến Niết Bàn thì các phiền não như luyến ái, v.v., sẽ biến mất. Gọi là ‘sự diệt tận’ với ý nghĩa tiêu diệt. Do đó, ‘nương tựa vào sự tách ly’ có ý nghĩa là nương tựa vào Niết Bàn theo tác động về đối tượng hoặc do tác động có thể chứng đắc. Ở đây, có sự thiên hẳn về buông bỏ: có hai sự buông bỏ là– sự buông bỏ do xả ly và sự buông bỏ do tiến vào. Trong hai sự buông bỏ ấy, Minh sát gọi là sự buông bỏ do xả ly, tức là sự buông bỏ phiền não và các uẩn theo tác động sự từ bỏ do thay thế. Đạo gọi là sự buông bỏ do tiến vào bởi ý nghĩa tiến vào Niết Bàn theo tác động về đối tượng. Do vậy, có sự thiên hẳn về buông bỏ– (có ý nghĩa như vầy rằng): (Vị Tỳ-khưu) phát triển niệm giác chi trong khi tu tập với mục đích hướng đến sự buông bỏ, (vị ấy) đạt đến sự tu tập Minh sát và sự tu tập Đạo như thế nào; tương tự như thế, ở đây ‘việc tu tập về buông bỏ’ là ý nghĩa. Luôn cả những câu còn lại cũng có cách thức tương tự như vậy. (10-3)
Bhadrakanti bhaddakaṃ samādhinimittaṃ vuccati aṭṭhikasaññādivasena adhigato samādhiyeva. Anurakkhatīti samādhiparibandhakadhamme[3] rāgadosamohe sodhento rakkhati. Ettha ca aṭṭhikasaññādikā pañceva saññā vuttā. Imasmiṃ pana ṭhāne dasapi asubhāni vitthāretvā kathetabbāni. Tesaṃ vitthāro visuddhimagge vuttoyeva.
Bhadraka nghĩa là tốt đẹp, hiện tướng của định được gọi là ‘tốt đẹp’, chính định ấy đã được (vị ấy) chứng đắc do tác động tưởng về bộ xương, v.v. Bảo tồn: (Vị ấy) gìn giữ định khi thanh lọc luyến ái, sân hận, si mê trong những pháp đối nghịch. Và ở đây, Ngài nói đến năm loại tưởng có tưởng về bộ xương, v.v. Hơn nữa, trong trường hợp này, nên nói mười tưởng bất tịnh một cách chi tiết. Sự giải thích mười tưởng bất tịnh ấy đã được nói chi tiết trong bộ Thanh Tịnh Đạo.
Dhamme ñāṇanti ekapaṭivedhavasena catusaccadhamme ñāṇaṃ catusaccabbhantare nirodhasacce dhamme ñāṇañca. Yathāha – ‘‘tattha katamaṃ dhamme ñāṇaṃ? Catūsu maggesu catūsu phalesu ñāṇa’’nti (vibha. 796). Anvaye ñāṇanti cattāri saccāni paccakkhato disvā yathā idāni, evaṃ atītepi anāgatepi imeva pañcakkhandhā dukkhasaccaṃ, ayameva taṇhā samudayasaccaṃ, ayameva nirodho nirodhasaccaṃ, ayameva maggo maggasaccanti evaṃ tassa ñāṇassa anugatiyaṃ ñāṇaṃ. Tenāha – ‘‘so iminā dhammena ñātena diṭṭhena pattena viditena pariyogāḷhena atītānāgatena nayaṃ netī’’ti. Pariye ñāṇanti paresaṃ cittaparicchede ñāṇaṃ. Yathāha – ‘‘tattha katamaṃ pariye ñāṇaṃ? Idha bhikkhu parasattānaṃ parapuggalānaṃ cetasā ceto paricca jānātī’’ti (vibha. 796) vitthāretabbaṃ. Ṭhapetvā pana imāni tīṇi ñāṇāni avasesaṃ sammutiñāṇaṃ nāma. Yathāha – ‘‘tattha katamaṃ sammutiñāṇaṃ? Ṭhapetvā dhamme ñāṇaṃ ṭhapetvā anvaye ñāṇaṃ ṭhapetvā paricchede ñāṇaṃ avasesaṃ sammutiñāṇa’’nti (vibha. 796).
Trí về pháp: Trí trong bốn Pháp về chân lý và trí trong Pháp thuộc chân lý về sự diệt tận bên trong bốn chân lý do mãnh lực từ sự thấu triệt đồng nhất. Giống như vị Tướng quân Chánh pháp đã nói rằng– “Ở đây, trí về pháp có ý nghĩa thế nào? Trí về bốn Đạo và trí về bốn Quả.” (vibha. 796); Trí thuận dòng Thánh: Trí thuận theo trí ấy như vầy rằng– Vị Tỳ-khưu nhìn thấy rõ ràng bốn chân lý trong hiện tại như thế nào? Ngay cả trong quá khứ và trong tương lai cũng như thế đó, chính năm uẩn này đây cũng gọi là chân lý về Khổ. Chính tham ái này là chân lý về nhân sanh Khổ. Chính sự diệt tận này là chân lý về sự diệt tận Khổ. Chính đạo lộ này là chân lý về Đạo. Do đó, Ngài mới nói rằng: “Vị ấy (đức Thế Tôn) đem lại phương pháp (là trí về quán xét lại) vận hành trong quá khứ và vị lai với pháp này do biết rõ, do thấy, do chứng đắc, do hiểu rõ, do thâm nhập.” Trí biết được tâm của người khác: Trí trong việc nhận biết tâm của người khác. Giống như vị Tướng quân Chánh pháp nói rằng– “Ở đây, trí biết được tâm của người khác là (có ý nghĩa) thế nào? – Nên được giải thích chỉ tiết như sau: “Sau khi xem xét, vị Tỳ-khưu trong Pháp và Luật này nhận biết tâm của các chúng sanh khác của các cá nhân khác bằng tâm.” (vibha. 796); Hơn nữa, trí còn lại ngoại trừ ba loại trí đã được trình bày, được gọi là trí thông thường. Giống như vị Tướng quân Chánh pháp đã nói– “Ở đấy, trí thông thường là như thế nào? Trí còn lại, ngoại trừ trí về pháp, ngoại trừ trí thuận dòng Thánh, ngoại trừ trí biết được tâm của người khác thì được gọi là trí thông thường.” (vibha. 796); (11)
Dukkhe ñāṇādīhi arahattaṃ pāpetvā ekassa bhikkhuno niggamanaṃ catusaccakammaṭṭhānaṃ kathitaṃ. Tattha dve saccāni vaṭṭaṃ, dve vivaṭṭaṃ, vaṭṭe abhiniveso hoti, no vivaṭṭe. Dvīsu saccesu ācariyasantike pariyattiṃ uggahetvā kammaṃ karoti, dvīsu saccesu ‘‘nirodhasaccaṃ nāma iṭṭhaṃ kantaṃ manāpaṃ, maggasaccaṃ nāma iṭṭhaṃ kantaṃ manāpa’’nti savanavasena kammaṃ karoti. Dvīsu saccesu uggahaparipucchāsavanadhāraṇasammasanapaṭivedho vaṭṭati, dvīsu savanapaṭivedho vaṭṭati. Tīṇi kiccavasena paṭivijjhati, ekaṃ ārammaṇavasena. Dve saccāni duddasattā gambhīrāni, dve gambhīrattā duddasāni.
Sau khi giúp (các vị Tỳ-khưu) đạt đến quả vị A-ra-hán bởi trí về Khổ, v.v, (Đức Thế Tôn) giảng dạy về đề mục tham thiền (nghiệp xứ) trong bốn chân lý cho một vị Tỳ-khưu. Trong bốn chân lý ấy, hai chân lý đầu (Khổ đế và Tập đế) thuộc về luân hồi, hai chân lý sau (Diệt đế và Đạo đế) thuộc về xuất luân hồi, sự chấp chặt chỉ tồn tại trong vòng luân hồi, nhưng không có trong xuất luân hồi. Vị Tỳ-khưu học tập Pháp Học tại trú xứ của thầy được gọi là đang thực hành công việc theo hai chân lý (Khổ và Tập). Vị Tỳ-khưu thực hành với hai chân lý (Diệt và Đạo) do tác động việc lắng nghe rằng: “Thông thường, chân lý về nhân sanh Khổ là điều đáng muốn, đáng mến, đáng yêu; chân lý về Đạo cũng là điều đáng muốn, đáng mến, đáng yêu.” Sự thấu triệt thông qua việc học, hỏi, nghe, ghi nhớ, và hiểu biết toàn diện là thích hợp với hai chân lý (Khổ và Tập). Sự thấu triệt thông qua việc nghe về hai chân đế (Diệt và Đạo) cũng là thích hợp. Vị ấy thấu triệt ba chân lý do tác động về phận sự. Và thấu triệt một chân lý theo tác động về đối tượng. Hai chân lý là thâm sâu do trạng thái khó nhận thấy. Hai chân lý là khó nhận thấy do trạng thái thâm sâu. (12)
Giải thích về bốn yếu tố để đạt được Nhập Lưu Đạo
311. Sotāpattiyaṅgānīti sotāpattiyā aṅgāni, sotāpattimaggassa paṭilābhakāraṇānīti attho. Sappurisasaṃsevoti buddhādīnaṃ sappurisānaṃ upasaṅkamitvā sevanaṃ. Saddhammassavananti sappāyassa tepiṭakadhammassa savanaṃ. Yonisomanasikāroti aniccādivasena manasikāro. Dhammānudhammappaṭipattīti lokuttaradhammassa anudhammabhūtāya pubbabhāgapaṭipattiyā paṭipajjanaṃ.
311. Yếu tố để đạt được Nhập Lưu: Yếu tố để đạt được Nhập Lưu, có nghĩa là: nguyên nhân để đạt được Nhập Lưu Đạo. Thân cận bậc chân nhân: Việc đi đến thân cận bậc chân nhân, có đức Phật, v.v. Lắng nghe chánh pháp: Việc lắng nghe Chánh Pháp là Tam Tạng ở điều kiện thích hợp. Tác ý đúng đường lối: Tác ý theo mãnh lực vô thường tướng, v.v. Thực hành đúng pháp và thuận pháp: Thực hành lối thực hành có phần đầu là pháp tùy thuận theo Pháp Siêu Thế. (13)
Aveccappasādenāti acalappasādena. ‘‘Itipi so bhagavā’’tiādīni visuddhimagge vitthāritāni. Phaladhātuāhāracatukkāni uttānatthāneva. Apicettha lūkhapaṇītavatthuvasena oḷārikasukhumatā veditabbā.
Niệm tịnh tín bất động: Với niềm tịnh tín không dao động. “Đức Thế Tôn ấy là…” được giảng giải chi tiết trong bộ Thanh Tịnh Đạo. Nhóm bốn về Quả, giới-dhātu, và vật thực-āhāra có ý nghĩa dễ hiểu. Và hơn nữa, ở đây tính chất thô và tế nên hiểu bởi tác động của nền tảng thô xấu và vi tế. (14-17)
Viññāṇaṭṭhitiyoti viññāṇaṃ etāsu tiṭṭhatīti viññāṇaṭṭhitiyo. Ārammaṇaṭṭhitivasenetaṃ vuttaṃ. Rūpūpāyanti rūpaṃ upagataṃ hutvā. Pañcavokārabhavasmiñhi abhisaṅkhāraviññāṇaṃ rūpakkhandhaṃ nissāya tiṭṭhati. Taṃ sandhāyetaṃ vuttaṃ. Rūpārammaṇanti rūpakkhandhagocaraṃ rūpapatiṭṭhitaṃ hutvā. Nandūpasecananti lobhasahagataṃ sampayuttanandiyāva upasittaṃ hutvā. Itaraṃ upanissayakoṭiyā. Vuddhiṃ virūḷhiṃ vepullaṃ āpajjatīti saṭṭhipi sattatipi vassāni evaṃ pavattamānaṃ vuddhiṃ virūḷhiṃ vepullaṃ āpajjati. Vedanūpāyādīsupi eseva nayo. Imehi pana tīhi padehi catuvokārabhave abhisaṅkhāraviññāṇaṃ vuttaṃ. Tassa yāvatāyukaṃ pavattanavasena vuddhiṃ virūḷhiṃ vepullaṃ āpajjanā veditabbā. Catukkavasena pana desanāya āgatattā viññāṇūpāyanti na vuttaṃ. Evaṃ vuccamāne ca ‘‘katamaṃ nu kho ettha kammaviññāṇaṃ, katamaṃ vipākaviññāṇa’’nti sammoho bhaveyya, tasmāpi na vuttaṃ. Agatigamanāni vitthāritāneva.
Nơi tồn tại của thức: Nơi thiết lập của thức với ý nghĩa làm chỗ thiết lập của thức. Lời này đã được nói do tác động làm nơi thiết lập của đối tượng. Có sự vướng bận với sắc: Là thực tính đi đến gần sắc. Thật vậy, Thức Hành nương vào sắc uẩn tồn tại trong cõi năm uẩn, Lời này Ngài nói đề cập đến Thức ấy. Có sắc là đối tượng: có sắc uẩn là đối tượng, có chỗ nâng đỡ là sắc. Có sự rải rắc niềm vui: Sau khi đã được rải rắc niềm vui do tương ưng với tâm đi chung với tham. Ngoài ra (bất thiện đi chung với sân) phần cuối thuộc cận y duyên. Đạt đến sự phát triển, sự tăng trưởng, sự lớn mạnh: Đạt đến sự phát triển, sự tăng trưởng, sự lớn mạnh vận hành như vầy– 60 năm, hay 70 năm. Có sự vướng bận với thọ, v.v., cũng có cách thức tương tự. Hơn nữa, ở cõi bốn uẩn Ngài nói đến Thức Hành với ba câu này. Nên biết việc đạt đến sự phát triển, sự tăng trưởng, sự lớn mạnh cho đến khi hết tuổi thọ của thức ấy. Ngài đã không nói rằng– “Có sự vướng bận với sắc” do đã đề cập với bài giảng theo nhóm bốn. Và trong khi nói như vầy– ‘Trong trường hợp này, Nghiệp Thức là gì? Quả Thức là gì?” Sẽ (làm cho vấn đề) trở nên rối rắm hơn. Do đó, Ngài đã không nói đến điều đó. Việc đi đến sai trái: (Trưởng lão) đã giải thích chi tiết. (18-19)
Cīvarahetūti tattha manāpaṃ cīvaraṃ labhissāmīti cīvarakāraṇā uppajjati. Iti bhavābhavahetūti ettha itīti nidassanatthe nipāto. Yathā cīvarādihetu, evaṃ bhavābhavahetūpīti attho. Bhavābhavoti cettha paṇītapaṇītatarāni telamadhuphāṇitādīni adhippetāni. Imesaṃ pana catunnaṃ taṇhuppādānaṃ pahānatthāya paṭipāṭiyāva cattāro ariyavaṃsā desitāti veditabbā. Paṭipadācatukkaṃ heṭṭhā vuttameva. Akkhamādīsu padhānakaraṇakāle sītādīni na khamatīti akkhamā. Khamatīti khamā. Indriyadamanaṃ damā. ‘‘Uppannaṃ kāmavitakkaṃ nādhivāsetī’’tiādinā nayena vitakkasamanaṃ samā.
Do nhân y phục: Sanh khởi do nguyên nhân y phục rằng– Ta sẽ đạt được y phục ưa thích ở nơi đó. ‘Iti’ trong câu ‘Iti bhavābhavahetū (do nhân thuốc men chữa bệnh tốt hoặc tốt hơn)’ đây chỉ là phân từ với ý nghĩa làm sáng tỏ. Do nhân y phục như thế nào, giải thích rằng– do nhân thuốc men chữa bệnh tốt hoặc tốt hơn cũng tương tự như thế ấy. Và ở đây, tốt hoặc tốt hơn: Ngài muốn đề cập đến dầu, mật ong và đường mía, v.v, tốt hoặc tốt hơn. Ngoài ra, nên biết rằng bốn truyền thống của bậc Thánh đã được thuyết giảng theo tuần tự nhằm mục đích dứt trừ bốn sự sanh khởi tham ái này. Nhóm bốn lối thực hành: Đã được đề cập ở phần trước. (Lối thực hành) thiếu kham nhẫn, v.v, (vị Tỳ-khưu) gọi là thiếu kham nhẫn với ý nghĩa không thể chịu đựng sự lạnh, v.v, trong lúc thực hành sự tinh tấn. (Lối thực hành) kham nhẫn với ý nghĩa nhẫn nại. Việc điều phục các giác quan gọi là (Lối thực hành) có sự điều phục. Sự an tịnh về suy tầm theo cách thức như sau– “(Ở đây, vị Tỳ-khưu) không chấp nhận (chịu đựng) dục tầm đã được sanh khởi,” gọi là lối thực hành làm cho an tĩnh. (20-22)
Dhammapadānīti dhammakoṭṭhāsāni. Anabhijjhā dhammapadaṃ nāma alobho vā alobhasīsena adhigatajjhānavipassanāmaggaphalanibbānāni vā. Abyāpādo dhammapadaṃ nāma akopo vā mettāsīsena adhigatajjhānādīni vā. Sammāsati dhammapadaṃ nāma suppaṭṭhitasati vā satisīsena adhigatajjhānādīni vā. Sammāsamādhi dhammapadaṃ nāma samāpatti vā aṭṭhasamāpattivasena adhigatajjhānavipassanāmaggaphalanibbānāni vā. Dasāsubhavasena vā adhigatajjhānādīni anabhijjhā dhammapadaṃ. Catubrahmavihāravasena adhigatāni abyāpādo dhammapadaṃ. Dasānussatiāhārepaṭikūlasaññāvasena adhigatāni sammāsati dhammapadaṃ. Dasakasiṇaānāpānavasena adhigatāni sammāsamādhi dhammapadanti.
Cơ sở của Giáo Pháp: Các phạm trù của Giáo Pháp. Sự không tham đắm gọi là cơ sở của Giáo Pháp; hoặc là, vô tham bởi có sự không tham muốn làm chủ đạo, hoặc sự chứng đắc Thiền định, Minh sát, Đạo, Quả và Niết Bàn, cũng được gọi là cơ sở của Giáo Pháp. Sự không thù oán là cơ sở của Giáo Pháp; hoặc là, sự không phẫn nộ bởi có tâm từ làm nền tảng, hoặc sự chứng đắc Thiền, v.v., gọi là cơ sở của Giáo Pháp. Chánh niệm là cơ sở của Giáo Pháp; hoặc là, sự thiết lập niệm vững chắc bởi có niệm làm nền tảng, hoặc sự chứng đắc, v.v., là cơ sở của Giáo Pháp. Chánh định là cơ sở của Giáo Pháp; hoặc là, sự chứng đạt do tác động tám thiền chứng, hoặc sự chứng đắc Thiền định, Minh sát, Đạo, Quả và Niết Bàn là cơ sở của Giáo Pháp. Sự chứng đắc Thiền, v.v., do tác động mười đề mục bất tịnh, hoặc sự không tham đắm gọi là cơ sở của Giáo Pháp. Sự chứng đắc do tác động Bốn Phạm Trú, hoặc sự không thù oán gọi là cơ sở của Giáo Pháp. Sự chứng đắc do tác động mười tùy niệm, và tưởng nhờm gớm về vật thực, hoặc chánh định gọi là cơ sở của Giáo Pháp. Sự chứng đắc do tác động mười đề mục kasiṇa và đề mục niệm hơi thở, hoặc chánh định gọi là cơ sở của Giáo Pháp. (23)
Dhammasamādānesu paṭhamaṃ acelakapaṭipadā. Dutiyaṃ tibbakilesassa arahattaṃ gahetuṃ asakkontassa assumukhassāpi rudato parisuddhabrahmacariyacaraṇaṃ. Tatiyaṃ kāmesu pātabyatā. Catutthaṃ cattāro paccaye alabhamānassāpi jhānavipassanāvasena sukhasamaṅgino sāsanabrahmacariyaṃ.
Trong sự thọ trì Giáo Pháp– (sự thọ trì) thứ nhất là lối thực hành của người sống lõa thể. Thứ hai là sự thực hành Phạm Hạnh hoàn toàn thanh tịnh của hạng người có phiền não dày đặc không thể nắm lấy quả vị A-ra-hán, khóc lóc với gương mặt đẫm lệ. Thứ ba là sự sa ngã trong các dục. Thứ tư là sự thực hành Phạm Hạnh trong lời giảng dạy của hạng người dù không được bốn món vật dụng, nhưng cũng tràn đầy sự an lạc do tác động Thiền định và Minh sát. (24)
Dhammakkhandhāti ettha guṇaṭṭho khandhaṭṭho. Sīlakkhandhoti sīlaguṇo. Ettha ca phalasīlaṃ adhippetaṃ. Sesapadesupi eseva nayo. Iti catūsupi ṭhānesu phalameva vuttaṃ.
Ở đây, Pháp uẩn: người an trú trong đức hạnh, tức là an trú trong các tập hợp (khối, nhóm). Giới uẩn: đức hạnh của giới. Và ở đây, giới của Quả– là điều mà Ngài muốn đề cập. Câu còn lại cũng có cách thức này. Chính Quả ấy Ngài đã đề cập cả trong bốn trường hợp như vậy. (25)
Balānīti upatthambhanaṭṭhena akampiyaṭṭhena ca balāni. Tesaṃ paṭipakkhehi kosajjādīhi akampaniyatā veditabbā. Sabbānipi samathavipassanāmaggavasena lokiyalokuttarāneva kathitāni.
Các lực: Được gọi là ‘các lực’ với ý nghĩa hỗ trợ và với ý nghĩa không dao động. Nên hiểu rằng các lực đó không bị dao động bởi pháp đối nghịch như sự lười biếng, v.v. Tất cả các lực thuộc Hiệp Thế và Siêu Thế, đã được nói do tác động Chỉ tịnh, Minh sát và Đạo. (26)
Adhiṭṭhānānīti ettha adhīti upasaggamattaṃ. Atthato pana tena vā tiṭṭhanti, tattha vā tiṭṭhanti, ṭhānameva vā taṃtaṃguṇādhikānaṃ purisānaṃ adhiṭṭhānaṃ, paññāva adhiṭṭhānaṃ paññādhiṭṭhānaṃ. Ettha ca paṭhamena aggaphalapaññā. Dutiyena vacīsaccaṃ. Tatiyena āmisapariccāgo. Catutthena kilesūpasamo kathitoti veditabbo. Paṭhamena ca kammassakatapaññaṃ vipassanāpaññaṃ vā ādiṃ katvā phalapaññā kathitā. Dutiyena vacīsaccaṃ ādiṃ katvā paramatthasaccaṃ nibbānaṃ. Tatiyena āmisapariccāgaṃ ādiṃ katvā aggamaggena kilesapariccāgo. Catutthena samāpattivikkhambhite kilese ādiṃ katvā aggamaggena kilesavūpasamo. Catutthena samāpattivikkhambhite kilese ādiṃ katvā aggamaggena kilesavūpasamo. Paññādhiṭṭhānena vā ekena arahattaphalapaññā kathitā. Sesehi paramatthasaccaṃ. Saccādhiṭṭhānena vā ekena paramatthasaccaṃ kathitaṃ. Sesehi arahattapaññāti mūsikābhayatthero āha.
‘Adhi’ trong cụm từ ‘Adhiṭṭhānāni (vị thế tối thắng)’ này chỉ là một tiền tố. Tuy nhiên, về mặt ý nghĩa, thì có nghĩa là nguyên nhân thiết lập, là nơi thiết lập của các pháp hoặc là nền tảng, hoặc ở chỗ này chỗ kia gọi là vị thế tối thắng của người tạo lập về các đức hạnh, sự quyết định bằng tuệ được gọi là vị thế tối thắng của tuệ. Và trong trường hợp này, Trưởng lão Mūsikābhaya đã nói rằng– bậc sáng trí nên biết rằng: Tuệ trong quả vị A-la-hán cao tột được nói với vị thế tối thắng thứ nhất. Lời nói chân thật được nói với vị thế tối thắng thứ hai. Sự buông bỏ tài vật được nói với vị thế tối thắng thứ ba. Sự an tịnh phiền não được nói với vị thế tối thắng thứ tư. Mặt khác, Tuệ trong Quả bắt đầu từ Tuệ về sở hữu chủ của nghiệp hoặc Tuệ về Minh sát được nói với vị thế tối thắng thứ nhất. Niết Bàn là chân lý về ý nghĩa tuyệt đối bắt đầu từ lời nói chân thật được nói với vị thế tối thắng thứ hai. Sự buông bỏ phiền não bằng Đạo tối thắng (tức là A-ra-hán Đạo) bắt đầu từ việc bố thí vật chất được nói với vị thế tối thắng thứ ba. Sự an tịnh phiền não bằng Đạo tối thắng (tức là A-ra-hán Đạo) bắt đầu từ việc chế ngự phiền não bằng các thiền chứng được nói với vị thế tối thắng thứ tư. Ngoài ra, tuệ trong A-la-hán Quả được nói với vị thế tối thắng của tuệ thứ nhất. Chân lý về ý nghĩa tuyệt đối được nói với vị thế tối thắng của tuệ còn lại. Thêm nữa, chân lý về ý nghĩa tuyệt đối được nói với vị thế tối thắng của sự chân thật, thứ nhất. Tuệ trong A-ra-hán Quả được nói với vị thế tối thắng còn lại. (27)
Giải thích bốn cách trả lời câu hỏi
312. Pañhabyākaraṇāni mahāpadesakathāya vitthāritāneva. Kaṇhanti kāḷakaṃ dasaakusalakammapathakammaṃ. Kaṇhavipākanti apāye nibbattanato kāḷakavipākaṃ. Sukkanti paṇḍaraṃ kusalakammapathakammaṃ. Sukkavipākanti sagge nibbattanato paṇḍaravipākaṃ. Kaṇhasukkanti missakakammaṃ. Kaṇhasukkavipākanti sukhadukkhavipākaṃ. Missakakammañhi katvā akusalena tiracchānayoniyaṃ maṅgalahatthiṭṭhānādīsu uppanno kusalena pavatte sukhaṃ vedayati. Kusalena rājakulepi nibbatto akusalena pavatte dukkhaṃ vedayati. Akaṇhaasukkanti kammakkhayakaraṃ catumaggañāṇaṃ adhippetaṃ. Tañhi yadi kaṇhaṃ bhaveyya, kaṇhavipākaṃ dadeyya. Yadi sukkaṃ bhaveyya, sukkavipākaṃ dadeyya. Ubhayavipākassa pana adānato akaṇhāsukkavipākattā akaṇhaṃ asukkanti ayamettha attho.
312. Các cách trả lời câu hỏi: Đã được giải thích trong bài thuyết Mahāpadesa. (28); Đen: Mười đường lối tạo nghiệp bất thiện là pháp đen. Có quả đen: Kết quả của bất thiện nghiệp vì làm cho các chúng sinh tái sanh vào các khổ cảnh. Trắng: Mười đường lối tạo nghiệp thiện là pháp trắng. Có quả trắng: Kết quả của thiện nghiệp vì làm cho các chúng sanh sanh vào cõi trời. Đen trắng: Nghiệp hỗn hợp. Có quả đen và trắng: Kết quả là lạc và khổ. Thât vậy, hạng người tạo nghiệp hỗn hợp có thể tái sanh làm một con voi trắng, v.v., ở chủng loại súc sanh do bất thiện nghiệp, thọ hưởng sự an lạc ở kiếp hiện tại do thiện nghiệp. Hạng người sanh ra trong dòng dõi hoàng tộc do thiện nghiệp, nhưng thọ lãnh khổ đau trong kiếp hiện tại do bất thiện nghiệp. Không đen không trắng: Ngài muốn đề cập đến trí về bốn Đạo làm cạn kiệt nghiệp. Bởi vì, nếu nghiệp đó là nghiệp đen (bất thiện) thì sẽ mang lại kết quả đen. Nếu nghiệp đó là nghiệp trắng (thiện) thì sẽ cho kết quả trắng. Hơn nữa, nghiệp được gọi là không đen không trắng vì không mang lại cả hai, bởi có kết quả không đen không trắng, ở đây điều này là ý nghĩa. (29)
Sacchikaraṇīyāti paccakkhakaraṇena ceva paṭilābhena ca sacchikātabbā. Cakkhunāti dibbacakkhunā. Kāyenāti sahajātanāmakāyena. Paññāyāti arahattaphalañāṇena.
Cần được chứng ngộ: Cần được tác chứng bởi làm cho sáng tỏ, và bởi đạt được. Bởi mắt: Thiên nhãn. Bởi thân: Đồng sanh với danh thần. Bởi tuệ: Trí trong A-ra-hán Quả. (30)
Oghāti vaṭṭasmiṃ satte ohananti osīdāpentīti oghā. Tattha pañcakāmaguṇiko rāgo kāmogho. Rūpārūpabhavesu chandarāgo bhavogho. Tathā jhānanikanti sassatadiṭṭhisahagato ca rāgo. Dvāsaṭṭhi diṭṭhiyo diṭṭhogho. Vaṭṭasmiṃ yojentīti yogā. Te oghā viya veditabbā.
Dòng lũ: Các dòng lũ bởi ý nghĩa nhấn chìm xuống, tức là làm cho các chúng sanh nhận chìm trong luân hồi. Trong số các dòng lũ ấy, sự luyến ái có liên quan đến năm loại dục gọi là dòng lũ của dục. Mong muốn và luyến ái trong Sắc hữu và Vô sắc hữu gọi là dòng lũ của hữu. Sự bám chấp vào trí và sự luyến ái đi chung với thường kiến cũng tương tự, sáu mươi hai loại tà kiến gọi là dòng lũ của tà kiến. (31); Sự gắn bó: với ý nghĩa trói buộc chúng sanh trong luân hồi. Các sự gắn bó ấy nên được hiểu tương tự sự gắn bó. (32)
Visaṃyojentīti visaññogā. Tattha asubhajjhānaṃ kāmayogavisaṃyogo. Taṃ pādakaṃ katvā adhigato anāgāmimaggo ekanteneva kāmayogavisaññogo nāma. Arahattamaggo bhavayogavisaññogo nāma. Sotāpattimaggo diṭṭhiyogavisaññogo nāma. Arahattamaggo avijjāyogavisaññogo nāma.
Sự không còn bị ràng buộc: với ý nghĩa không ràng buộc chúng sanh. Trong các sự không bị ràng buộc, thiền định về đề mục bất tịnh được gọi là không còn bị ràng buộc với sự gắn bó của dục. A-na-hàm Đạo được chứng đắc nhờ thiền định về đề mục bất tịnh ấy trở thành nền tảng gọi là không còn bị ràng buộc với sự gắn bó của dục, một cách hoàn toàn. A-ra-hán Đạo gọi là không còn bị ràng buộc với sự gắn bó của hữu. Nhập Lưu Đạo gọi là không còn bị ràng buộc với sự gắn bó của tà kiến. A-ra-hán Đạo gọi là không còn bị ràng buộc với sự gắn bó của vô minh. (33)
Ganthanavasena ganthā. Vaṭṭasmiṃ nāmakāyañceva rūpakāyañca ganthati bandhati palibundhatīti kāyagantho. Idaṃsaccābhinivesoti idameva saccaṃ, moghamaññanti evaṃ pavatto diṭṭhābhiniveso.
Sự trói buộc: do khả năng trói buộc (chúng sanh). Sự trói buộc thân với ý nghĩa trói buộc, cột trói, buộc chặt Danh thân và Sắc thân trong vòng luân hồi. Chắp chặt chỉ điều này là chân lý: Kiến tạo nên sự cố chấp vận hành như vầy rằng– ‘Chỉ điều này là sự thật, điều khác là rỗng không.’ (34)
Upādānānīti ādānaggahaṇāni. Kāmoti rāgo, soyeva gahaṇaṭṭhena upādānanti kāmupādānaṃ. Diṭṭhīti micchādiṭṭhi, sāpi gahaṇaṭṭhena upādānanti diṭṭhupādānaṃ. Iminā suddhīti evaṃ sīlavatānaṃ gahaṇaṃ sīlabbatupādānaṃ. Attāti etena vadati ceva upādiyati cāti attavādupādānaṃ.
Sự chấp thủ: Sự nắm chặt, giữ chặt. Luyến ái là dục, chính dục ấy gọi là sự chấp thủ bởi có ý nghĩa nắm lấy, (vì lý do ấy) mới gọi là sự chấp thủ về dục. Tà kiến gọi là kiến, chính kiến ấy gọi là sự chấp thủ bởi có ý nghĩa nắm lấy, (vì lý do ấy) mới gọi là sự chấp thủ về tà kiến. Sự nắm lấy giới và phận sự như vầy rằng– sự thanh tịnh có được bởi giới và phận sự này gọi là sự chấp thủ về giới và phận sự. Sự chấp thủ về ngã luận thuyết bởi ý nghĩa rằng là nguyên nhân của việc gọi là ‘tôi’ và là nhân của sự chấp thủ. (35)
Yoniyoti koṭṭhāsā. Aṇḍe jātāti aṇḍajā. Jalābumhi jātāti jalābujā. Saṃsede jātāti saṃsedajā, sayanasmiṃ pūtimacchādīsu ca nibbattānametaṃ adhivacanaṃ. Vegena āgantvā upapatitā viyāti opapātikā. Tattha devamanussesu saṃsedajaopapātikānaṃ ayaṃ viseso. Saṃsedajā mandā daharā hutvā nibbattanti. Opapātikā soḷasavassuddesikā hutvā. Manussesu hi bhummadevesu ca imā catassopi yoniyo labbhanti. Tathā tiracchānesu supaṇṇanāgādīsu. Vuttañhetaṃ – ‘‘tattha, bhikkhave, aṇḍajā supaṇṇā aṇḍajeva nāge haranti, na jalābuje na saṃsedaje na opapātike’’ti (saṃ. ni. 3.393). Cātumahārājikato paṭṭhāya uparidevā opapātikāyeva. Tathā nerayikā. Petesu catassopi labbhanti. Gabbhāvakkantiyo sampasādanīye kathitā eva.
Sinh sản: các phạm trù. Hạng noãn sanh: (các chúng sanh) được sanh ra trong trứng. Hạng thai sanh: (các chúng sanh) được sanh ra trong tử cung. Hạng thấp sanh: (các chúng sanh) được sanh ra từ nơi ẩm ướt, đây là thuật ngữ chỉ cho các loài được sanh ra từ nơi ẩm thấp và những chỗ dơ bẩn như trong xác cá thối, v.v. Hạng hóa sanh: Được sanh ra ngay lập tức ví như bay đến bằng tốc lực (sanh ra ngay tức khắc). Ở đấy, điều này có sự khác biệt giữa hạng thấp sanh và hạng hóa sanh ở chư thiên và loài người. Hạng thấp sanh sanh ra là loài nhỏ bé và yếu ớt. Hạng hóa sanh được sanh ra với hình tướng như thanh niên/thiếu nữ ở tuổi mười sáu. Thật vậy, ở loài người và chư thiên địa cầu này có được cả bốn hạng sanh sản. Loài linh điểu, các loài rồng, v.v, thuộc loài bàng sanh cũng vậy. Bởi vì việc này đã được nói rằng– “Này các Tỳ-khưu, trong số các loài linh điểu và loài rồng thì các loài linh điểu từ trứng sanh chỉ mang đi các loài rồng từ trứng sanh, không mang đi các loài rồng từ thai sanh, từ nơi ẩm ướt sanh và hóa sanh.” (saṃ. ni. 3.393); Chư thiên từ cõi Tứ Đại Thiên Vương trở lên đều thuộc loại hóa sanh. Chúng sanh ở địa ngục cũng tương tự. Loài ngạ quỷ có được cả bốn hạng sanh sản. Các trường hợp nhập thai: đã được giải thích trong bài Kinh Sampasādanīya. (36-37)
Attabhāvapaṭilābhesu paṭhamo khiḍḍāpadosikavasena veditabbo. Dutiyo orabbhikādīhi ghātiyamānaurabbhādivasena. Tatiyo manopadosikāvasena. Catuttho cātumahārājike upādāya uparisesadevatāvasena. Te hi devā neva attasañcetanāya maranti, na parasañcetanāya.
Sự đạt được bản ngã: Hạng loại thứ nhất nên được biết do tác động khiḍḍāpadosikā (hạng bị hư hỏng vì đùa giỡn). Hạng loại thứ hai nên được biết do tác động chúng sanh ở bên trong, v.v. Hạng loại thứ ba nên được hiểu do tác động manopadosikā (hạng bị hư hỏng bởi tâm ý). Hạng loại thứ tư nên được biết do tác động của chư thiên còn lại ở cõi cao hơn bắt đầu từ cõi Tứ Đại Thiên Vương. Thật vậy, các chư Thiên ấy không chết do ý định của bản thân, và cũng không chết bởi ý định của người khác. (38)
Giảng giải sự thanh tịnh ở việc cúng dường
313. Dakkhiṇāvisuddhiyoti dānasaṅkhātā dakkhiṇā visujjhanti mahapphalā honti etāhīti dakkhiṇāvisuddhiyo.
313. Sự thanh tịnh ở việc cúng dường: Việc cúng dường được xem là bố thí sẽ trở nên thanh tịnh, có quả báo lớn, (do đó) các ý định này được gọi là sự thanh tịnh ở việc cúng dường.
Dāyakato visujjhati, no paṭiggāhakatoti yattha dāyako sīlavā hoti, dhammenuppannaṃ deyyadhammaṃ deti, paṭiggāhako dussīlo. Ayaṃ dakkhiṇā vessantaramahārājassa dakkhiṇāsadisā. Paṭiggāhakatovisujjhati, no dāyakatoti yattha paṭiggāhako sīlavā hoti, dāyako dussīlo, adhammenuppannaṃ deti, ayaṃ dakkhiṇā coraghātakassa dakkhiṇāsadisā. Neva dāyakato visujjhati, no paṭiggāhakatoti yattha ubhopi dussīlā deyyadhammopi adhammena nibbatto. Vipariyāyena catutthā veditabbā.
Thanh tịnh từ người thí chủ, không từ người thọ nhận: Sự cúng dường nào mà người thí chủ là người có giới hạnh bố thí vật phẩm cúng dường được phát sinh đúng theo pháp, nhưng người thọ nhận là người có giới tồi. Sự cúng dường này giống như sự cúng dường của Đại vương Vessantara. Thanh tịnh từ người thọ nhận, không từ người thí chủ: Sự cúng dường nào mà người nhận là người có giới, nhưng người thí chủ là người có giới tồi bố thí vật phẩm cúng dường được phát sinh không đúng theo pháp. Sự cúng dường này giống như sự cúng dường của người sát hại tên cướp. Không được thanh tịnh từ người thí chủ, và người thọ nhận cũng không: Sự cúng dường nào mà cả hai phía đều là những người có giới tồi, cho đến vật phẩm cúng dường phát sinh cũng không đúng theo pháp. Nhóm thứ tư (được thanh tịnh từ người thí chủ, và luôn cả người thọ nhận) nên được hiểu theo phương thức ngược lại. (39)
Saṅgahavatthūnīti saṅgahakāraṇāni. Tāni heṭṭhā vibhattāneva. Anariyavohārāti anariyānaṃ lāmakānaṃ vohārā. Ariyavohārāti ariyānaṃ sappurisānaṃ vohārā. Diṭṭhavāditāti diṭṭhaṃ mayāti evaṃ vāditā. Ettha ca taṃtaṃsamuṭṭhāpakacetanāvasena attho veditabbo.
Các việc làm thu phục: Các nhân của việc làm thu phục. Các việc ấy đã được phân tích ở phần trước. (40); Lối nói không cao thượng: Lối nói của hạng người không phải bậc Thánh nhân, là của hạng người thấp hèn. (41); Lối nói cao thượng: Lối nói của bậc Thánh nhân, là bậc chân nhân. (42); Người nói ‘đã thấy’: Nói như vầy ‘tôi đã thấy’. Và trong trường hợp này, nên hiểu ý nghĩa do tác động của ý định (Tư tâm sở) làm nhân khiến các lời nói này kia sanh khởi. (43-46)
Giải thích về nhóm bốn hạng người khắc khổ đối với bản thân
314. Attantapādīsu paṭhamo acelako. Dutiyo orabbhikādīsu aññataro. Tatiyo yaññayājako. Catuttho sāsane sammāpaṭipanno.
314. Hạng người khắc khổ đối với bản thân, v.v., (có một hạng người có sự khắc khổ đối với bản thân, thường xuyên thực hành sự khắc khổ toàn diện đối với bản thân) hạng thứ nhất– người sống lõa thể. Hạng thứ hai– một người đồ tể, v.v, nào đó. Hạng thứ ba– người dâng hiến cuộc lễ hiến tế (tế thần). Hạng thứ tư– người thực hành đúng đắn trong Giáo Pháp. (47)
Attahitāya paṭipannādīsu paṭhamo yo sayaṃ sīlādisampanno, paraṃ sīlādīsu na samādapeti āyasmā vakkalitthero viya. Dutiyo yo attanā na sīlādisampanno, paraṃ sīlādīsu samādapeti āyasmā upanando viya. Tatiyo yo nevattanā sīlādisampanno, paraṃ sīlādīsu na samādapeti devadatto viya. Catuttho yo attanā ca sīlādisampanno parañca sīlādīsu samādapeti āyasmā mahākassapo viya.
Thực hành vì lợi ích của bản thân, v.v., hạng thứ nhất– là hạng người tự mình thành tựu về giới, v.v, nhưng không khuyến khích người khác thọ trì giới, v.v, giống như ngài Trưởng lão Vakkali. Hạng thứ hai– hạng người tự mình không thành tựu về giới, v.v, nhưng lại khuyến khích người khác thọ trì giới, v.v, giống như Đại đức Upananda. Hạng thứ ba– Hạng người tự mình không những không thành tựu về giới, v.v, mà cũng không khuyến khích người khác thọ trì giới, v.v, giống như Devadatta. Hạng thứ tư– hạng người tự mình không những thành tựu về giới, v.v, mà còn khuyến khích người khác thọ trì giới, v.v, giống như ngài Trưởng lão Mahākassapa. (48)
Tamādīsu tamoti andhakārabhūto. Tamaparāyaṇoti tamameva paraṃ ayanaṃ gati assāti tamaparāyaṇo. Evaṃ sabbapadesu attho veditabbo. Ettha ca paṭhamo nīce caṇḍālādikule dujjīvite hīnattabhāve nibbattitvā tīṇi duccaritāni paripūreti. Dutiyo tathāvidho hutvā tīṇi sucaritāni paripūreti. Tatiyo uḷāre khattiyakule bahuannapāne sampannattabhāve nibbattitvā tīṇi duccaritāni paripūreti. Catuttho tādisova hutvā tīṇi sucaritāni paripūreti.
Bóng tối, v.v., bóng tối: có trạng thái tối tăm. Có bóng tối là đích đến: Chính bóng tối ấy là lối đi, là cảnh giới tái sanh ở phía trước; (do đó) hạng người ấy được gọi là có bóng tối là đích đến. Cách thức này áp dụng cho các đoạn kế tiếp. Và ở đây, hạng thứ nhất là hạng người đã tái sanh vào gia đình người nô lệ thuộc giai cấp của người hạ đẳng, v.v., có đời sống khốn khổ, có bản ngã thấp hèn, v.v., và làm đầy đủ ba uế hạnh. Hạng thứ hai cũng là hạng người như thế, nhưng làm đầy đủ ba thiện hạnh. Hạng thứ ba là hạng người đã tái sanh vào gia đình Sát-đế-lỵ, v.v, thuộc dòng dõi cao quý, có nhiều cơm và nước, nhưng làm đầy đủ ba uế hạnh. Hạng thứ tư cũng là hạng người tương tự như thế, nhưng làm đầy đủ ba thiện hạnh. (49)
Samaṇamacaloti samaṇaacalo. Ma-kāro padasandhimattaṃ. So sotāpanno veditabbo. Sotāpanno hi catūhi vātehi indakhīlo viya parappavādehi akampiyo. Acalasaddhāya samannāgatoti samaṇamacalo. Vuttampi cetaṃ – ‘‘katamo ca puggalo samaṇamacalo? Idhekacco puggalo tiṇṇaṃ saṃyojanānaṃ parikkhayā’’ti (pu. pa. 190) vitthāro. Rāgadosānaṃ pana tanubhūtattā sakadāgāmī samaṇapadumo nāma. Tenāha – ‘‘katamo pana puggalo samaṇapadumo? Idhekacco puggalo sakideva imaṃ lokaṃ āgantvā dukkhassantaṃ karoti, ayaṃ vuccati puggalo samaṇapadumo’’ti (pu. pa. 190). Rāgadosānaṃ abhāvā khippameva pupphissatīti anāgāmī samaṇapuṇḍarīko nāma. Tenāha – ‘‘katamo ca puggalo samaṇapuṇḍarīko? Idhekacco puggalo pañcannaṃ orambhāgiyānaṃ…pe… ayaṃ vuccati puggalo samaṇapuṇḍarīko’’ti (pu. pa. 190). Arahā pana sabbesampi ganthakārakilesānaṃ abhāvā samaṇesu samaṇasukhumālo nāma. Tenāha – ‘‘katamo ca puggalo samaṇesu samaṇasukhumālo? Idhekacco āsavānaṃ khayā…pe… upasampajja viharati. Ayaṃ vuccati puggalo samaṇesu samaṇasukhumālo’’ti.
Sa-môn không dao động: Sa-môn không dao động. Từ ‘ma’ chỉ là từ liên kết. Vị ấy nên biết (rằng) là vị Nhập Lưu. Thật vậy, vị Nhập Lưu là vị Sa-môn không lay động (với ý nghĩa) là người không lay động bởi những lời nói xấu của người khác tựa như cột trụ đá (không lay động) bởi bốn ngọn gió. Sa-môn không dao động– là người được hội đủ đức tin không dao động. Và điều này cũng đã được Tướng quân Chánh pháp nói chi tiết rằng – “Hạng người nào được gọi là Sa-môn không dao động? Một số người ở đời này (được gọi là Sa-môn không dao động) do sự diệt tận ba sự ràng buộc.” (pu. pa. 190); Còn vị Nhất Lai gọi là Sa-môn sen hồng (với ý nghĩa) có luyến ái và sân hận có trạng thái đã được suy giảm. Vì thế, Ngài đã nói rằng– “Hạng người nào được gọi là Sa-môn sen hồng? Một số người ở đời này (được gọi là Sa-môn sen hồng) chỉ phải trở lại đời này một lần nữa làm chấm dứt khổ đau! Hạng người này được gọi là Sa-môn sen hồng” (pu. pa. 190); Bậc Bất Lai được gọi là “Sa-môn sen trắng” (với ý nghĩa) sẽ nở hoa (giác ngộ) ngay lập tức do không có luyến ái và sân hận. Do đó, Ngài mới nói rằng: “Và hạng người nào được gọi là Sa-môn sen trắng? Một số người ở đời này đoạn trừ năm sự ràng buộc thuộc hạ phần …nt… hạng người này được gọi là Sa-môn sen trắng.” (pu. pa. 190); Hơn nữa, bậc A-ra-hán gọi là Sa-môn tinh tế trong số các Sa-môn bởi không còn bất kỳ phiền não nào gây ra sự thô cứng. Do đó, Ngài mới nói rằng: “Trong số các Sa-môn, hạng người nào được gọi là Sa-môn tinh tế? Một số người ở đời này do sự cạn kiệt của các lậu hoặc …nt… đạt đến, và an trú. Hạng người này được gọi là Sa-môn tinh tế trong số các Sa-môn.” (pu. pa. 190); (50)
‘‘Ime kho , āvuso’’tiādi vuttanayeneva yojetabbaṃ. Iti samapaññāsāya catukkānaṃ vasena dvepañhasatāni kathento thero sāmaggirasaṃ dassesīti.
“Này các Đại đức, quả thật…” nên được liên kết với nhau theo phương thức đã được trình bày. Như vậy, Trưởng lão trong khi giải quyết hai trăm vấn đề do tác động của nhóm bốn với đủ năm mươi (nhóm bốn), (điều này) cũng được gọi là thuyết giảng hương vị của sự hợp nhất.
Giải thích nhóm bốn được kết thúc
Giải thích nhóm năm
315. Iti catukkavasena sāmaggirasaṃ dassetvā idāni pañcakavasena dassetuṃ puna desanaṃ ārabhi. Tattha pañcasu khandhesu rūpakkhandho lokiyo. Sesā lokiyalokuttarā. Upādānakkhandhā lokiyāva. Vitthārato pana khandhakathā visuddhimagge vuttā. Kāmaguṇā heṭṭhā vitthāritāva.
315. Sau khi đã trình bày hương vị của sự hợp nhất do tác động nhóm bốn, bây giờ để thuyết giảng (hương vị của sự hợp nhất) do tác động nhóm năm mới bắt đầu bài thuyết Pháp tiếp theo. Trong số nhóm năm ấy, sắc uẩn là Hiệp Thế. Các uẩn còn lại vừa là Hiệp Thế và cả Siêu Thế. Thủ uẩn: chỉ là Hiệp Thế. Hơn nữa, bài giảng giải về uẩn Ngài đã nói chi tiết trong bộ Thanh Tịnh Đạo. Năm loại dục: cũng đã được trình bày chi tiết ở phần trước. (1-3)
Sukatadukkaṭādīhi gantabbāti gatiyo. Nirayoti nirassādo. Sahokāsena khandhā kathitā. Tato paresu tīsu nibbattā khandhāva vuttā. Catutthe okāsopi.
Năm cảnh giới: (với ý nghĩa) dẫn dắt chúng sanh đi đến năm cảnh giới do nghiệp thiện đã tạo và nghiệp ác đã tạo, v.v. Địa ngục: Hết sự thỏa thích. Các uẩn đã được đề cập cùng chung với nơi chốn của chúng. Các uẩn sanh ra ở ba nơi khác cũng đã được nói đến. Thậm chí nơi chốn cũng đã được đề cập trong uẩn thứ tư. (4)
Āvāse macchariyaṃ āvāsamacchariyaṃ. Tena samannāgato bhikkhu āgantukaṃ disvā ‘‘ettha cetiyassa vā saṅghassa vā parikkhāro ṭhapito’’tiādīni vatvā saṅghikampi āvāsaṃ nivāreti. So kālaṅkatvā peto vā ajagaro vā hutvā nibbattati. Kule macchariyaṃ kulamacchariyaṃ. Tena samannāgato bhikkhu tehi kāraṇehi attano upaṭṭhākakule aññesaṃ pavesanampi nivāreti. Lābhe macchariyaṃ lābhamacchariyaṃ. Tena samannāgato bhikkhu saṅghikampi lābhaṃ maccharāyanto yathā aññe na labhanti, evaṃ karoti. Vaṇṇe macchariyaṃ vaṇṇamacchariyaṃ. Vaṇṇoti cettha sarīravaṇṇopi guṇavaṇṇopi veditabbo. Pariyattidhamme macchariyaṃ dhammamacchariyaṃ. Tena samannāgato bhikkhu ‘‘imaṃ dhammaṃ pariyāpuṇitvā eso maṃ abhibhavissatī’’ti aññassa na deti. Yo pana dhammānuggahena vā puggalānuggahena vā na deti, na taṃ macchariyaṃ.
Bỏn xẻn về chỗ ở: Tính keo kiệt về chỗ ở. Vị Tỳ-khưu có tâm bỏn xẻn về chỗ ở đó, khi thấy vị Tỳ-khưu khách đến, đã nói rằng: “Chỗ này để cất giữ vật dụng cần thiết của Bảo tháp hoặc của Tăng chúng,” rồi ngăn cản cả chỗ ở đối với Tăng chúng. Sau khi mệnh chung vị ấy đã tái sanh làm loài ngạ quỷ hoặc loài trăn. Bỏn xẻn về gia đình: Tính keo kiệt về gia đình. Vị Tỳ-khưu có tâm bỏn xẻn về gia đình ấy sẽ ngăn cản các vị Tỳ-khưu khác đến thăm gia đình hộ độ của mình, bởi lý do ấy. Bỏn xẻn về lợi lộc: Tính keo kiệt về lợi lộc. Vị Tỳ-khưu có tâm bỏn xẻn về lợi lộc ấy, sự bỏn xẻn về lợi lộc cả đối với Tăng chúng, các vị Tỳ-khưu khác không nhận được thế nào, thì thực hiện như thế ấy. Bỏn xẻn về sự ca ngợi: Tính keo kiệt về sự ca ngợi. Và sự ca ngợi ở đây nên hiểu sự ca ngợi về cơ thể và cả sự ca ngợi về đức hạnh (đem lại của cải). Bỏn xẻn về Pháp (Giáo Lý): Bỏn xẻn về Pháp học. Vị Tỳ-khưu có tâm keo kiệt về Pháp ấy, sẽ không ban bố (Pháp học) cho các Tỳ-khưu khác, vì nghĩ rằng: “Vị này sau khi đã học tập Pháp này sẽ vượt qua ta.” Tuy nhiên, vị nào không ban bố (Pháp học) vì lòng bi mẫn với Pháp hoặc vì lòng từ bi với cá nhân, vị ấy không gọi là bỏn xẻn về Pháp. (5)
Cittaṃ nivārenti pariyonandhantīti nīvaraṇāni. Kāmacchando nīvaraṇapatto arahattamaggavajjho. Kāmarāgānusayo kāmarāgasaṃyojanapatto anāgāmimaggavajjho. Thinaṃ cittagelaññaṃ. Middhaṃ khandhattayagelaññaṃ. Ubhayampi arahattamaggavajjhaṃ. Tathā uddhaccaṃ. Kukkuccaṃ anāgāmimaggavajjhaṃ. Vicikicchā paṭhamamaggavajjhā.
Pháp ngăn che: (với ý nghĩa) ngăn chặn, bao bọc tâm. Sự mong muốn về dục là đạt đến sự che lấp bị giết bởi A-ra-hán Đạo. Ái dục ngủ ngầm là đạt đến sự ràng buộc của ái dục bị giết bởi Bất Lại Đạo. Hôn trầm là sự bệnh hoạn của tâm thức. Thụy miên là sự bệnh hoạn của ba uẩn. Hôn trầm và thụy miên, cả hai (pháp này) bị giết bởi A-ra-hán Đạo. Phóng dật cũng tương tự. Sự hối hận bị giết bởi Bất Lai Đạo. Hoài nghi bị giết hại bởi Sơ Đạo. (6)
Saṃyojanānīti bandhanāni. Tehi pana baddhesu puggalesu rūpārūpabhave nibbattā sotāpannasakadāgāmino antobaddhā bahisayitā nāma. Tesañhi kāmabhave bandhanaṃ. Kāmabhave anāgāmino bahibaddhā antosayitā nāma. Tesañhi rūpārūpabhave bandhanaṃ. Kāmabhave sotāpannasakadāgāmino antobaddhā antosayitā nāma. Rūpārūpabhave anāgāmino bahibaddhā bahisayitā nāma. Khīṇāsavo sabbattha abandhano.
Các kiết sử: các sự ràng buộc. Hơn nữa, trong số các hạng người bị các kiết sử trói buộc, vị Nhập Lưu và vị Nhất Lai tái sanh vào cõi Sắc và Vô sắc, được gọi là “đã tiềm ẩn ở bên ngoài tự sự trói buộc ở bên trong”. Quả thật, các vị đó vẫn còn bị sự ràng buộc trong cõi Dục. Vị Bất Lai được gọi là “đã tiềm ẩn ở bên trong từ sự trói buộc ở bên ngoài” trong cõi Dục. Thật vậy, các vị ấy vẫn còn bị các sự trói buộc trong cõi Sắc và Vô sắc. Vị Nhập Lưu và vị Nhất Lai gọi là “đã tiềm ẩn ở bên trong từ sự trói buộc ở bên trong” trong cõi Dục. Vị Bất Lai gọi là “đã tiềm ẩn ở bên ngoài từ sự trói buộc ở bên ngoài” trong cõi Sắc và cõi Vô sắc. Bậc Lậu Tận không có bất kỳ sự trói buộc nào trong các cõi. (7-8)
Sikkhitabbaṃ padaṃ sikkhāpadaṃ, sikkhākoṭṭhāsoti attho. Sikkhāya vā padaṃ sikkhāpadaṃ, adhicittaadhipaññāsikkhāya adhigamupāyoti attho. Ayamettha saṅkhepo. Vitthārato pana sikkhāpadakathā vibhaṅgappakaraṇe sikkhāpadavibhaṅge āgatā eva.
Các điều học: những điều khoản cần phải học, phạm trù của các điều học là ý nghĩa. Hoặc là, những điều khoản thuộc về việc học tập gọi là điều học, giải thích rằng– đường lối đưa đến đắc chứng sự học tập về thắng tâm, và sự học tập về thắng tuệ. Ở đây điều này là phần tóm tắt. Còn bài giảng chi tiết về các điều học đã được trình bày trong phần “phân tích về các điều học” thuộc bộ Phân Tích. (9)
Giải thích năm sự kiện không thể xảy ra
316. ‘‘Abhabbo, āvuso, khīṇāsavo bhikkhu sañcicca pāṇa’’ntiādi desanāsīsameva, sotāpannādayopi pana abhabbā. Puthujjanakhīṇāsavānaṃ nindāpasaṃsatthampi evaṃ vuttaṃ. Puthujjano nāma gārayho, mātughātādīnipi karoti. Khīṇāsavo pana pāsaṃso, kunthakipillikaghātādīnipi na karotīti.
316. “Này các Đại đức, vị Tỳ-khưu đã cạn kiệt lậu hoặc không thể cố ý đoạt lấy mạng sống của các sinh vật, v.v,” là chủ đề chính của Pháp thoại, ngay cả vị Nhập Lưu cũng vẫn là người không thể. Sự khiển trách và ca ngợi đối với hạng phàm nhân và bậc Lậu Tận đã được (Đức Thế Tôn) nói như vậy (với Trưởng lão Cunda Samaṇuddesa). Hạng phàm nhân là người thấp kém, (có thể) thực hiện việc giết mẹ, v.v. Còn bậc Lậu Tận là bậc cao quý, không thực hiện việc giết hại dù chỉ một con kiến đen hay kiến lửa, v.v. (10)
Byasanesu viyassatīti byasanaṃ, hitasukhaṃ khipati viddhaṃsetīti attho. Ñātīnaṃ byasanaṃ ñātibyasanaṃ, corarogabhayādīhi ñātivināsoti attho. Bhogānaṃ byasanaṃ bhogabyasanaṃ, rājacorādivasena bhogavināsoti attho. Rogo eva byasanaṃ rogabyasanaṃ. Rogo hi ārogyaṃ byasati vināsetīti byasanaṃ, sīlassa byasanaṃ sīlabyasanaṃ. Dussīlyassetaṃ nāmaṃ. Sammādiṭṭhiṃ vināsayamānā uppannā diṭṭhi eva byasanaṃ diṭṭhibyasanaṃ. Ettha ca ñātibyasanādīni tīṇi neva akusalāni na tilakkhaṇāhatāni. Sīladiṭṭhibyasanadvayaṃ akusalaṃ tilakkhaṇāhataṃ. Teneva ‘‘nāvuso, sattā ñātibyasanahetu vā’’tiādimāha.
Trong các sự tổn hại, v.v, sự tổn hại: là sự tiêu hoại; tức là việc liệng bỏ, hủy hoại lợi ích và an lạc là ý nghĩa. Sự tổn hại về thân quyến là sự suy vong về thân quyến. Giải thích rằng– sự hư hoại về thân quyến do sự sợ hãi về giặc cướp và sự sợ hãi về bệnh tật, v.v. Sự tổn hại về của cải là sự suy sụp về của cải; giải thích rằng– sự hư hoại về của cải do quyền lực của nhà vua và giặc cướp, v.v. Sự tổn hại vì tật bệnh là sự suy vong do bệnh tật. Thật vậy, bệnh tật gây hại là làm cho sự vô bệnh bị phá tan bởi nguyên nhân ấy mới gọi là sự tổn hại; Sự tổn hại về giới là sự suy sụp về giới; Đây là tên gọi của kẻ có giới tồi. Sự tổn hại về chánh kiến– sự hư hoại là quan điểm sanh khởi làm cho chánh kiến bị sụp đổ. Và ở đây, ba sự tổn hại có sự tổn hại về thân quyến, v.v. không là bất thiện, và đã không bị ba tướng trạng chạm vào. Cả hai sự tổn hại có sự tổn hại về giới và sự tổn hại về chánh kiến là bất thiện, và đã bị ba tướng trạng chạm vào. Chính vì nguyên nhân đó, Ngài đã nói rằng– “Này các Đại đức, các chúng sanh không vì nguyên nhân tổn hại về thân quyến, v.v.” (11)
Ñātisampadāti ñātīnaṃ sampadā pāripūrī bahubhāvo. Bhogasampadāyapi eseva nayo. Ārogyassa sampadā ārogyasampadā. Pāripūrī dīgharattaṃ arogatā. Sīladiṭṭhisampadāsupi eseva nayo. Idhāpi ñātisampadādayo no kusalā, na tilakkhaṇāhatā. Sīladiṭṭhisampadā kusalā, tilakkhaṇāhatā. Teneva ‘‘nāvuso, sattā ñātisampadāhetu vā’’tiādimāha. Sīlavipattisīlasampattikathā mahāparinibbāne vitthāritāva.
Sự thành tựu về thân quyến: sự thành tựu, sự hoàn thành, trạng thái có nhiều thân quyến. Luôn cả sự thành tựu về của cải: cũng có cách thức này. sự thành tựu về vô bệnh: sự thành tựu của người không có bệnh tật. Sự hoàn thành là trạng thái vô bệnh trong suốt thời gian dài. Thậm chí sự thành tựu về giới và sự thành tựu về chánh kiến: cũng có cách thức này. Cả ở đây, sự thành tựu về thân quyến, v.v, không là thiện, (và) đã không bị ba tướng trạng chạm vào. Sự thành tựu về giới và sự thành tựu về chánh kiến là thiện, đã bị ba tướng trạng chạm vào. Chính vì nguyên nhân đó, Trưởng lão đã nói rằng– “Này các Đại đức, các chúng sanh không phải vì nguyên nhân thành tựu về thân quyến, v.v.” (12); Lời nói sự hư hỏng về giới và sự thành tựu về giới được giải thích chi tiết trong bài Kinh Mahāparinibbāna. (13-14)
Codakenāti vatthusaṃsandassanā, āpattisaṃsandassanā, saṃvāsappaṭikkhepo, sāmīcippaṭikkhepoti catūhi codanāvatthūhi codayamānena. Kālena vakkhāmi no akālenāti ettha cuditakassa kālo kathito, na codakassa. Paraṃ codentena hi parisamajjhe vā uposathapavāraṇagge vā āsanasālābhojanasālādīsu vā na codetabbaṃ. Divāṭṭhāne nisinnakāle ‘‘karotāyasmā okāsaṃ, ahaṃ āyasmantaṃ vattukāmo’’ti evaṃ okāsaṃ kāretvā codetabbaṃ. Puggalaṃ pana upaparikkhitvā yo lolapuggalo abhūtaṃ vatvā bhikkhūnaṃ ayasaṃ āropeti, so okāsakammaṃ vināpi codetabbo. Bhūtenāti tacchena sabhāvena. Saṇhenāti maṭṭhena mudukena. Atthasañhitenāti atthakāmatāya hitakāmatāya upetena.
Người cáo tội: Người cáo tội với bốn cơ sở của sự buộc tội là– (1) việc đối chiếu sự việc, (2) việc đối chiếu lỗi lầm, (3) sự từ chối sống chung, và (4) sự từ chối (thực hiện) phận sự thích hợp. Tôi sẽ nói đúng thời, không phải không đúng thời: Trong trường hợp này, đối với người bị cáo tội cần phải xác định thời gian, còn đối với người cáo tội thì không cần. Thật vậy, vị Tỳ-khưu khi cáo tội vị Tỳ-khưu khác, không nên cáo tội giữa Hội chúng, ở nơi hành lễ Uposatha, ở nơi hành lễ Pavāraṇā, khi ngồi ở trai đường, hoặc ở phòng tiếp khách, v.v. Vào lúc (người bị cáo tội) ngồi ở chỗ nghỉ ngơi vào ban ngày, “Thưa Đại đức, xin Ngài hãy tạo cơ hội, tôi muốn nói với ngài.” (Người cáo tội) sau khi đã tạo được cơ hội mới nên (tiến hành) cáo tội. Tuy nhiên, sau khi (người cáo tội) xét hỏi người ấy, người nào là hạng người tham lam, đã nói lời không thật, hoặc đưa ra lời ám chỉ làm mất danh dự của các Tỳ-khưu, vị ấy vẫn có thể cáo tội mà không cần thỉnh ý (để buộc tội). Nói với sự thật: với sự đúng đắn, với sự đúng theo bản thể. Nói lời mềm mỏng: với sự hòa nhã, với sự nhẹ nhàng. Nói lời nói liên hệ đến lợi ích: Với việc đạt đến vì ước muốn lợi ích và ước muốn sự giúp đỡ. (15)
Giải thích năm yếu tố đưa đến sự nỗ lực
317. Padhāniyaṅgānīti padhānaṃ vuccati padahanaṃ, padhānamassa atthīti padhāniyo, padhāniyassa bhikkhuno aṅgāni padhāniyaṅgāni. Saddhoti saddhāya samannāgato. Saddhā panesā āgamanasaddhā, adhigamanasaddhā, okappanasaddhā, pasādasaddhāti catubbidhā. Tattha sabbaññubodhisattānaṃ saddhā abhinīhārato āgatattā āgamanasaddhā nāma. Ariyasāvakānaṃ paṭivedhena adhigatattā adhigamanasaddhā nāma. Buddho dhammo saṅghoti vutte acalabhāvena okappanaṃ okappanasaddhā nāma. Pasāduppatti pasādasaddhā nāma. Idha okappanasaddhā adhippetā. Bodhinti catutthamaggañāṇaṃ. Taṃ suppaṭividdhaṃ tathāgatenāti saddahati. Desanāsīsameva cetaṃ, iminā pana aṅgena tīsupi ratanesu saddhā adhippetā. Yassa hi buddhādīsu pasādo balavā, tassa padhānavīriyaṃ ijjhati.
317. Năm yếu tố đưa đến sự nỗ lực: Sự cố gắng được gọi là sự nỗ lực, sự nỗ lực của người ấy tồn tại, (hạng người ấy) gọi là có sự nỗ lực, các yếu tố của vị Tỳ-khưu có sự nỗ lực gọi là những yếu tố đưa đến sự nỗ lực. Có đức tin: đã thành tựu với đức tin. Hơn nữa, đức tin có bốn loại là– (1) đức tin do tu tập, (2) đức tin do chứng đắc, (3) đức tin bất động và (4) đức tin do sự tịnh tín. Trong số bốn đức tin ấy, đức tin của các đức Bồ-tát Toàn Giác, do đã khởi lên từ lúc phát nguyện được gọi là đức tin do tu tập. Trạng thái chứng đắc do sự thấu triệt của chư Thánh Thinh văn đệ tử được gọi là đức tin do chứng đắc. Niềm tin vững chắc với trạng thái không dao động trong khi có người nói rằng– “Đức Phật, đức Pháp, đức Tăng” được gọi là đức tin bất động. Sự sanh khởi lòng tịnh tín gọi là đức tin do sự tịnh tín. Ở đây, ngài muốn đề cập đến đức tin bất động. Sự giác ngộ: Trí về Tứ Đạo. Có đức tin rằng: “Trí về Tứ Đạo ấy đức Như Lai đã khéo thấu triệt”. Và điều này, chính là chủ đề chính của Pháp thoại. Hơn nữa, Ngài có ý muốn đề cập đến đức tin vào Tam Bảo với yếu tố này. Thật vậy, niềm tịnh tín có sức mạnh vào đức Phật v.v, sự nỗ lực tinh tấn của người ấy được thành tựu.
Appābādhoti arogo. Appātaṅkoti niddukkho. Samavepākiniyāti samavipācanīyā. Gahaṇiyāti kammajatejodhātuyā. Nātisītāya nāccuṇhāyāti atisītagahaṇiko sītabhīrū hoti, accuṇhagahaṇiko uṇhabhīrū hoti, tesaṃ padhānaṃ na ijjhati. Majjhimagahaṇikassa ijjhati. Tenāha – ‘‘majjhimāya padhānakkhamāyā’’ti. Yathābhūtaṃ attānaṃ āvikattāti yathābhūtaṃ attano aguṇaṃ pakāsetā. Udayatthagāminiyāti udayañca atthaṅgamañca gantuṃ paricchindituṃ samatthāya, etena paññāsalakkhaṇapariggāhakaṃ udayabbayañāṇaṃ vuttaṃ. Ariyāyāti parisuddhāya. Nibbedhikāyāti anibbiddhapubbe lobhakkhandhādayo nibbijjhituṃ samatthāya. Sammā dukkhakkhayagāminiyāti tadaṅgavasena kilesānaṃ pahīnattā yaṃ yaṃ dukkhaṃ khīyati, tassa tassa dukkhassa khayagāminiyā. Iti sabbehi imehi padehi vipassanāpaññāva kathitā. Duppaññassa hi padhānaṃ na ijjhati.
Ít bệnh tật: không có bệnh. Ít mỏi mệt: không có đau khổ. Việc tiêu hóa được điều hòa: Làm cho việc tiêu hóa thức ăn được điều hòa. Sức nóng: Với nguyên tố lửa sanh lên từ nghiệp. Không quá lạnh, không quá nóng: Có sức nóng quá lạnh là sợ hãi sự lạnh, có sức nóng quá nóng là sợ hãi sự nóng. Sự nỗ lực của người ấy không thành tựu. Ngược lại, thành tựu đối với người có sức nóng trung bình. Vì vậy, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Vừa phải cho việc chịu đựng sự nỗ lực”. Thể hiện bản thân đúng theo thực thể: Tuyên bố lỗi làm không phải đức hạnh của bản thân đúng theo thực thể. Hướng đến sự sanh và sự diệt: Có thể đạt được là xác định sự sanh và sự biến hoại, Ngài nói đến trí về sự sanh diệt được xác định với năm mươi tướng trạng. Cao thượng: Đưa đến sự hoàn toàn trong sạch. Liên quan đến sự thấu suốt: Có khả năng đưa đến sự thấu suốt các uẩn có sự tham lam v.v, chưa từng thấu suốt trước đây. Đưa đến sự cạn kiệt hoàn toàn của khổ: Khổ nào sẽ cạn kiệt do trạng thái đã dứt bỏ mọi phiền não nhờ sức mạnh của sự từ bỏ do thay thế, đưa đến sự cạn kiệt của khổ đó. Minh sát tuệ đã được Ngài nói với tất cả các câu này như vậy. Thật vậy, sự nỗ lực không thành tựu đối với người có tuệ tồi. (16)
Giải thích năm cõi Tịnh Cư
318. Suddhāvāsāti suddhā idha āvasiṃsu āvasanti āvasissanti vāti suddhāvāsā. Suddhāti kilesamalarahitā anāgāmikhīṇāsavā. Avihātiādīsu yaṃ vattabbaṃ, taṃ mahāpadāne vuttameva.
318. Cõi Tịnh Cư: Phạm Thiên cõi Tịnh Cư đã an ngụ, đang an ngụ, hoặc sẽ cư ngụ trong cõi này, vì thế cõi này gọi là cõi Tịnh Cư. Vị thanh tịnh: Bậc Bất Lai và bậc Lậu Tận không nhiễm bụi bặm phiền não. Lời nào cần được nói về các cõi “cõi Vô Phiền, v.v., lời đó đã được trình bày trong bài Kinh Mahāpadāna. (17)
Anāgāmīsu āyuno majjhaṃ anatikkamitvā antarāva kilesaparinibbānaṃ arahattaṃ patto antarāparinibbāyī nāma. Majjhaṃ upahacca atikkamitvā patto upahaccaparinibbāyī nāma. Asaṅkhārena appayogena akilamanto sukhena patto asaṅkhāraparinibbāyī nāma. Sasaṅkhārena sappayogena kilamanto dukkhena patto sasaṅkhāraparinibbāyī nāma. Ime cattāro pañcasupi suddhāvāsesu labbhanti. Uddhaṃsoto akaniṭṭhagāmīti ettha pana catukkaṃ veditabbaṃ. Yo hi avihāto paṭṭhāya cattāro devaloke sodhetvā akaniṭṭhaṃ gantvā parinibbāyati, ayaṃ uddhaṃsoto akaniṭṭhagāmī nāma. Yo avihāto dutiyaṃ vā tatiyaṃ vā catutthaṃ vā devalokaṃ gantvā parinibbāyati, ayaṃ uddhaṃsoto na akaniṭṭhagāmī nāma. Yo kāmabhavato akaniṭṭhesu nibbattitvā parinibbāyati, ayaṃ na uddhaṃsoto akaniṭṭhagāmī nāma. Yo heṭṭhā catūsu devalokesu tattha tattheva nibbattitvā parinibbāyati, ayaṃ na uddhaṃsoto na akaniṭṭhagāmī nāmāti.
Trong số các bậc Thánh Bất Lai: Bậc Bất Lai sau khi không vượt qua khỏi tuổi trung niên đã đạt đến quả vị A-ra-hán, là sự diệt tận phiền não vào giai đoạn ấy được gọi là hạng viên tịch Niết Bàn vào giai đoạn đầu của đời kế tiếp. (Bậc Bất Lai) sau khi đã vượt qua khỏi tuổi trung niên mới đạt đến (quả vị A-ra-hán) gọi là hạng viên tịch Niết Bàn vào giai đoạn cuối của đời kế tiếp. (Bậc Bất Lai) không khó nhọc do không liên hệ đến sự cố gắng bởi không tạo tác, đã đạt được thật dễ dàng gọi là hạng Vô Hành viên tịch Niết Bàn. (Bậc Bất Lai) khó nhọc do liên hệ đến sự cố gắng có tạo tác đã đạt được khó khăn gọi là hạng Hữu Hành viên tịch Niết Bàn. Cả bốn bậc Bất Lai này có trong cả năm cõi Tịnh Cư. Hơn nữa, ở đây nên biết nhóm bốn về hạng Thượng Lưu cõi Sắc Cứu Cánh (như sau)– Thật vậy, bậc Bất Lai nào sau khi thanh lọc bốn cõi Trời bắt đầu từ cõi Vô Phiền đã đi đến cõi Sắc Cứu Cánh rồi mới viên tịch Niết Bàn, bậc Bất Lai này gọi là hạng Thượng Lưu đi đến cõi Sắc Cứu Cánh. Bậc Bất Lai nào (sau khi mệnh chung) từ cõi Vô Phiền đã đi đến cõi Trời thứ hai, thứ ba hoặc thứ tư rồi viên tịch Niết Bàn, bậc Bất Lai này gọi là hạng Thượng Lưu không đi đến cõi Sắc Cứu Cánh. Bậc Bất Lai nào (sau khi mệnh chung) từ cõi Dục đã hóa sanh vào cõi Sắc Cứu Cánh rồi viên tịch Niết Bàn, bậc Bất Lai này gọi là không phải hạng Thượng Lưu đi đến cõi Sắc Cứu Cánh. Bậc Bất Lai nào (sau khi mệnh chung) trong số bốn cõi Trời thấp (tức là cõi Vô Phiền đến cõi Thiện Hiện) đã tái sanh ở chính tại cõi Trời ấy rồi viên tịch Niết Bàn, bậc Bất Lai này gọi là không phải hạng Thượng Lưu không đi đến cõi Sắc Cứu Cánh. (18)
Giải thích năm sự cứng cỏi của tâm
319. Cetokhilāti cittassa thaddhabhāvā. Satthari kaṅkhatīti satthu sarīre vā guṇe vā kaṅkhati. Sarīre kaṅkhamāno ‘‘dvattiṃsamahāpurisavaralakkhaṇapaṭimaṇḍitaṃ nāma sarīraṃ atthi nu kho natthī’’ti kaṅkhati. Guṇe kaṅkhamāno ‘‘atītānāgatapaccuppannajānanasamatthaṃ sabbaññutañāṇaṃ atthi nu kho natthī’’ti kaṅkhati. Ātappāyāti vīriyakaraṇatthāya. Anuyogāyāti punappunaṃ yogāya. Sātaccāyāti satatakiriyāya. Padhānāyāti padahanatthāya. Ayaṃ paṭhamo cetokhiloti ayaṃ satthari vicikicchāsaṅkhāto paṭhamo cittassa thaddhabhāvo. Dhammeti pariyattidhamme ca paṭivedhadhamme ca. Pariyattidhamme kaṅkhamāno ‘‘tepiṭakaṃ buddhavacanaṃ caturāsītidhammakkhandhasahassānīti vadanti, atthi nu kho etaṃ natthī’’ti kaṅkhati. Paṭivedhadhamme kaṅkhamāno ‘‘vipassanānissando maggo nāma, magganissando phalaṃ nāma, sabbasaṅkhārapaṭinissaggo nibbānaṃ nāmāti vadanti, taṃ atthi nu kho natthī’’ti kaṅkhati. Saṅghe kaṅkhatīti ‘‘ujuppaṭipannotiādīnaṃ padānaṃ vasena evarūpaṃ paṭipadaṃ paṭipanno cattāro maggaṭṭhā cattāro phalaṭṭhāti aṭṭhannaṃ puggalānaṃ samūhabhūto saṅgho nāma atthi nu kho natthī’’ti kaṅkhati. Sikkhāya kaṅkhamāno ‘‘adhisīlasikkhā nāma, adhicittaadhipaññāsikkhā nāmāti vadanti, sā atthi nu kho natthī’’ti kaṅkhati. Ayaṃ pañcamoti ayaṃ sabrahmacārīsu kopasaṅkhāto pañcamo cittassa thaddhabhāvo kacavarabhāvo khāṇukabhāvo.
319. Sự cứng cỏi của tâm: trạng thái cứng rắn của tâm. Nghi ngờ ở bậc Đạo Sư: Nghi ngờ về thân thể (tướng bậc Đại Nhân) hoặc đức hạnh của bậc Đạo Sư. Trong khi nghi ngờ về thân thể (vị ấy) nghi ngờ rằng– “Thân thể được điểm tô bằng ba mươi hai tướng trạng cao quý của bậc Đại Nhân là có hay không”. Trong khi nghi ngờ về đức hạnh (vị ấy) nghi ngờ rằng– “Trí Toàn Giác có thế biết được quá khứ, vị lai và hiện tại có hay không?” Về sự nhiệt tâm: Đề thực hành sự tinh tấn. Về sự chuyên cần: Với sự cố gắng thường xuyên. Về sự kiên trì: Với sự thực hành liên tục. Về sự nỗ lực: đưa đến sự thiết lập. Sự cứng cỏi của tâm loại thứ nhất: Đây là thực tính cứng cỏi của tâm loại thứ nhất, được xem là hoài nghi ở bậc Đạo Sư. Giáo Pháp: Trong Pháp Học và Pháp Thành. Khi nghi ngờ trong Pháp Học (vị ấy) nghi ngờ rằng– “Các bậc sáng trí nói rằng Phật ngôn là Tam Tạng có tám mươi bốn ngàn Pháp Uẩn, Phật ngôn ấy có hay không?” Khi nghi ngờ trong Pháp Thành (vị ấy) nghi ngờ rằng– “Các bậc sáng trí nói rằng kết quả của Minh sát là Đạo, kết quả của Đạo là Quả, sự buông bỏ tất cả các Hành là Niết Bàn, Niết Bàn ấy có hay không?” Nghi ngờ Tăng Chúng: (vị ấy) nghi ngờ rằng– “Sự tập hợp của các hạng người, vị thực hành lối thực hành có hình thức như vậy do tác động của các câu, v.v, là bậc trực hạnh, có tám là vị thiết lập trong bốn Đạo, vị thiết lập trong bốn Quả gọi là Tăng Chúng, Tăng Chúng ấy có hay không?” Trong khi nghi ngờ việc học tập vị ấy nghi ngờ rằng: “Bậc sáng trí nói rằng– gọi là học tập về thắng giới, gọi là học tập về thắng tâm, và gọi là học tập về thắng tuệ, sự học tập ấy có hay không?” Đây là sự cứng cỏi của tâm loại thứ năm: Đây là trạng thái cứng cỏi, trạng thái (tựa như) đống rác, trạng thái (tựa như) gốc cây của tâm loại thứ năm được xem là sự bực tức đối với các vị đồng Phạm hạnh. (19)
Giải thích năm sự trói buộc của tâm
320. Cetasovinibandhāti cittaṃ bandhitvā muṭṭhiyaṃ katvā viya gaṇhantīti cetasovinibandhā. Kāmeti vatthukāmepi kilesakāmepi. Kāyeti attano kāye. Rūpeti bahiddhārūpe. Yāvadatthanti yattakaṃ icchati, tattakaṃ. Udarāvadehakanti udarapūraṃ. Tañhi udaraṃ avadehanato ‘‘udarāvadehaka’’nti vuccati. Seyyasukhanti mañcapīṭhasukhaṃ. Passasukhanti yathā samparivattakaṃ sayantassa dakkhiṇapassavāmapassānaṃ sukhaṃ hoti, evaṃ uppannaṃ sukhaṃ. Middhasukhanti niddāsukhaṃ. Anuyuttoti yuttappayutto viharati. Paṇidhāyāti patthayitvā. Brahmacariyenāti methunaviratibrahmacariyena. Devo vā bhavissāmīti mahesakkhadevo vā bhavissāmi. Devaññataro vāti appesakkhadevesu vā aññataro.
320. Sự trói buộc của tâm: Các phiền não trói buộc tâm giống như nắm chặt trong lòng bàn tay, vì nguyên nhân đó mới gọi là sự trói buộc của tâm. Ở các dục: Trong vật dục và cả phiền não dục. Ở thân: Trong thân thể của chính mình. Ở sắc: Sắc ở bên ngoài. Theo như ý thích: Ước muốn chừng nào, thì có chừng ấy. Cho đầy bao tử: Đầy bao tử. Thật vậy, bao tử ấy được gọi là ‘cho đầy bao tử’ vì nó nuôi dưỡng cơ thể. Với sự an lạc của việc nằm: Có sự an lạc từ giường và ghế. Với sự an lạc của việc nằm nghiêng: Đối với người đang nằm trở mình, nằm nghiêng bên phải hay nằm nghiêng bên trái đều cảm thấy dễ chịu như thế nào; sự an lạc đã sanh khởi cũng như thế ấy. Với sự an lạc của việc ngủ: Sự an lạc khởi lên từ việc ngủ. Gắn bó: Sống gắn bó với những điều phù hợp. Với sự mong ước: Đã ước ao. Với Phạm hạnh: Với việc thực hành Phạm hạnh bằng sự xa lánh việc đôi lứa. Ta sẽ trở thành Thiên nhân (có đại oai lực): Ta sẽ thành vị Thiên nhân có đại oai lực. Hay một vị Thiên nhân nào đó: hoặc (sẽ trở thành) một trong số các Thiên nhân có ít thần lực nào đó. (20)
Indriyesu paṭhamapañcake lokiyāneva kathitāni. Dutiyapañcake paṭhamadutiyacatutthāni lokiyāni, tatiyapañcamāni lokiyalokuttarāni. Tatiyapañcake samathavipassanāmaggavasena lokiyalokuttarāni.
Trong các quyền: Ngài đã nói các quyền thuộc Hiệp Thế trong nhóm năm thứ nhất. Quyền thứ nhất, thứ hai và thứ tư thuộc Hiệp Thế trong nhóm năm thứ hai; Quyền thứ ba và thứ năm thuộc Hiệp Thế và cả Siêu Thế.Các quyền thuộc Hiệp Thế và Siêu Thế do tác động Chỉ tinh, Minh sát và Đạo trong nhóm năm thứ ba. (21-23)
Giải thích năm yếu tố của việc thoát ra
321. Nissaraṇiyāti nissaṭā visaññuttā. Dhātuyoti attasuññasabhāvā. Kāme manasikarototi kāme manasikarontassa, asubhajjhānato vuṭṭhāya agadaṃ gahetvā visaṃ vīmaṃsanto viya vīmaṃsanatthaṃ kāmābhimukhaṃ cittaṃ pesentassāti attho. Na pakkhandatīti na pavisati. Na pasīdatīti pasādaṃ nāpajjati. Nasantiṭṭhatīti na patiṭṭhati. Na vimuccatīti nādhimuccati. Yathā pana kukkuṭapattaṃ vā nhārudaddulaṃ vā aggimhi pakkhittaṃ patilīyati patikuṭati pativattati na sampasāriyati; evaṃ patilīyati na pasāriyati. Nekkhammaṃ kho panāti idha nekkhammaṃ nāma dasasu asubhesu paṭhamajjhānaṃ, tadassa manasikaroto cittaṃ pakkhandati. Tassa taṃ cittanti tassa taṃ asubhajjhānacittaṃ. Sugatanti gocare gatattā suṭṭhu gataṃ. Subhāvitanti ahānabhāgiyattā suṭṭhu bhāvitaṃ. Suvuṭṭhitanti kāmato suṭṭhu vuṭṭhitaṃ. Suvimuttanti kāmehi suṭṭhu vimuttaṃ. Kāmapaccayā āsavā nāma kāmahetukā cattāro āsavā. Vighātāti dukkhā. Pariḷāhāti kāmarāgapariḷāhā. Na so taṃ vedanaṃ vedetīti so taṃ kāmavedanaṃ vighātapariḷāhavedanañca na vedayati. Idamakkhātaṃ kāmānaṃ nissaraṇanti idaṃ asubhajjhānaṃ kāmehi nissaṭattā kāmānaṃ nissaraṇanti akkhātaṃ. Yo pana taṃ jhānaṃ pādakaṃ katvā saṅkhāre sammasanto tatiyaṃ maggaṃ patvā anāgāmiphalena nibbānaṃ disvā puna kāmā nāma natthīti jānāti, tassa cittaṃ accantanissaraṇameva. Sesapadesupi eseva nayo.
321. Việc thoát ra: Là sự thoát khỏi, sự tách rời ra. Yếu tố: Có bản chất trống rỗng từ tự ngã. Trong khi tác ý đến các dục: Khi đang tác ý đến các dục, giải thích rằng– xuất khỏi thiền có đề mục bất tịnh đã đưa tâm hướng đến các dục nhằm mục đích thẩm sát giống như người bắt rắn để thử nghiệm nọc độc. Không tiến vào: Không đi vào. Không tịnh tín: Không đạt đến niềm tịnh tín. Không trú vào: Không thể thiết lập. Không thiên về: Không thoát khỏi. Như chiếc lông gà hay sợi gân khi bị ném vào lửa (sẽ) cong lại, co rút, xoắn lại, không thể duỗi thẳng; tâm này cũng tương tự như thế, (sẽ) thâu hẹp lại, không trải ra. Trái lại, đối với vị này, (trong khi tác ý) đến việc xuất ly: Ở đây, Sơ thiền trong mười đề mục bất tịnh gọi là việc xuất ly. Khi hạng người ấy tác ý đến Sơ thiền ấy, thì tâm ấy sẽ tiến vào. Tâm ấy của vị ấy: Là tâm thiền có đề mục bất tịnh, tâm ấy của hạng người ấy. Đã khéo đi đến: Đã đi đến một cách tốt đẹp do đi trong các hành xứ. Đã khéo được tu tập: Việc tu tập được thực hiện tốt đẹp do không thuộc phạm trù thấp kém. Đã khéo vươn lên: Được vươn lên tốt đẹp từ các dục. Đã khéo được giải thoát: Đã được giải thoát tốt đẹp từ các dục. Bốn lậu hoặc có dục làm nhân gọi là lậu hoặc do duyên các dục. Là phá hoại: là đau khổ. Là nóng bức: Nóng đốt do dục ái. Vị ấy không cảm giác cái cảm thọ: Người ấy không cảm giác cái cảm thọ khởi lên từ sự thỏa thích và cảm thọ khởi lên từ sự phá hoại và sự nóng bức ấy. Điều này được gọi là sự thoát ra khỏi các dục: Thiền có đề mục bất tịnh này được Ngài nói là yếu tố thoát ra khỏi các dục do trạng thái thoát ra khỏi các dục. Người nào lấy tầng thiền đó làm nền tảng trong khi quán sát các Hành, đã đạt đến Đạo thứ ba, sau khi nhìn thấy Niết Bàn bằng Bất Lai Quả, và nhận biết rằng “Các dục là không còn nữa”, tâm của người ấy chắc chắn đã hoàn toàn thoát ra khỏi dục. Các từ còn lại cũng có cách thức này tương tự. (24-1)
Ayaṃ pana viseso. Dutiyavāre mettājhānāni byāpādassa nissaraṇaṃ nāma. Tatiyavāre karuṇājhānāni vihiṃsāya nissaraṇaṃ nāma. Catutthavāre arūpajjhānāni rūpānaṃ nissaraṇaṃ nāma. Accantanissaraṇe cettha arahattaphalaṃ yojetabbaṃ.
Hơn nữa, đây là điểm khác biệt, trong phần thứ hai thiền đề mục tâm từ gọi là sự thoát ra khỏi thù oán. Trong đoạn thứ ba thiền đề mục tâm bi gọi là sự thoát ra khỏi việc hãm hại. Trong đoạn thứ tư thiền đề mục Vô sắc gọi là sự thoát ra khỏi các sắc. Và ở đây, A-ra-hán Quả trong bài Kinh Hợp Tụng này (bậc sáng trí) nên được kết hợp trong sự thoát ra khỏi tuyệt đối. (24-2-3)
Pañcamavāre sakkāyaṃ manasikarototi suddhasaṅkhāre pariggaṇhitvā arahattaṃ pattassa sukkhavipassakassa phalasamāpattito vuṭṭhāya vīmaṃsanatthaṃ pañcupādānakkhandhābhimukhaṃ cittaṃ pesentassa. Idamakkhātaṃ sakkāyanissaraṇanti idaṃ arahattamaggena ca phalena ca nibbānaṃ disvā ṭhitassa bhikkhuno puna sakkāyo natthīti uppannaṃ arahattaphalasamāpatticittaṃ sakkāyassa nissaraṇanti akkhātaṃ.
Trong đoạn thứ năm, trong khi tác ý đến thân này– Khi vị Tỳ-khưu xác định các hành thuần túy rồi chứng đạt quả vị A-ra-hán là bậc Thuần Quán, sau khi xuất khỏi sự thể nhập thánh Quả đã đưa tâm hướng đến năm thủ uẩn nhằm mục đích thẩm sát. Điều này được gọi là sự thoát ra khỏi thân này: Ở đây, tâm tương ưng với sự chứng đạt Quả A-ra-hán đã sanh lên rằng– “Thân này không còn nữa,” của vị Tỳ-khưu đã nhìn thấy Niết Bàn bởi A-ra-hán Đạo và A-ra-hán Quả rồi an trú (trong trạng thái ấy), Ta nói rằng– “Điều này được gọi là sự thoát ra khỏi thân này.” (24-5)
Giải thích năm giải thoát xứ
322. Vimuttāyatanānīti vimuccanakāraṇāni. Atthapaṭisaṃvedinoti pāḷiatthaṃ jānantassa. Dhammapaṭisaṃvedinoti pāḷiṃ jānantassa. Pāmojjanti taruṇapīti. Pītīti tuṭṭhākārabhūtā balavapīti. Kāyoti nāmakāyo paṭipassambhati. Sukhaṃ vedayatīti sukhaṃ paṭilabhati. Cittaṃ samādhiyatīti arahattaphalasamādhinā samādhiyati. Ayañhi taṃ dhammaṃ suṇanto āgatāgataṭṭhāne jhānavipassanāmaggaphalāni jānāti, tassa evaṃ jānato pīti uppajjati. So tassā pītiyā antarā osakkituṃ na dento upacārakammaṭṭhāniko hutvā vipassanaṃ vaḍḍhetvā arahattaṃ pāpuṇāti. Taṃ sandhāya vuttaṃ – ‘‘cittaṃ samādhiyatī’’ti. Sesesupi eseva nayo. Ayaṃ pana viseso, samādhinimittanti aṭṭhatiṃsāya ārammaṇesu aññataro samādhiyeva samādhinimittaṃ. Suggahitaṃ hotītiādīsu ācariyasantike kammaṭṭhānaṃ uggaṇhantena suṭṭhu gahitaṃ hoti. Suṭṭhu manasikatanti suṭṭhu upadhāritaṃ. Suppaṭividdhaṃ paññāyāti paññāya suṭṭhu paccakkhaṃ kataṃ. Tasmiṃ dhammeti tasmiṃ kammaṭṭhānapāḷidhamme.
322. Giải thoát xứ: Nguyên nhân của sự giải thoát. Đối với vị có sự cảm nhận ý nghĩa: Biết được ý nghĩa của Pāḷi. Đối với vị có sự cảm nhận pháp: Biết được Chánh văn Pāḷi. Hân hoan: sự vui vẻ nhẹ nhàng. Hỷ: sự vui vẻ có năng lực là nguyên nhân của biểu hiện vui mừng. Thân: danh thân được khinh an. Cảm thọ sự an lạc: đạt được sự an lạc. Tâm được định tĩnh: Tâm được định tĩnh bởi sự chứng đạt Quả A-ra-hán. Thật vậy, vị Tỳ-khưu này khi lắng nghe pháp đó nhận biết được Thiền định, Minh sát, Đạo và Quả ở các cơ sở đã được nói đến, trong khi biết như vậy, hỷ phát sinh. Vị ấy không để cho hỷ đó thoái giảm ở giữa chừng, sau khi thực hành đề mục thiền đưa đến cận định (vị ấy) đã phát triển Minh sát rồi đạt đến quả vị A-la-hán. Đức Thế Tôn đề cập đến A-ra-hán Quả ấy mới nói rằng– “Tâm được định tĩnh”. Các từ còn lại cũng có cách thức này tương tự. Hơn nữa, đây là điểm khác biệt, hiện tướng của định: Bất luận đối tượng nào trong số ba mươi tám đối tượng thiền định đều được gọi là hiện tướng của định. Là khéo được nắm giữ: Khi học tập đề mục thiền định trong sự hiện diện của vị thầy (vị ấy) gọi là nắm giữ một cách tốt đẹp. Khéo được tác ý: đã tiếp nhận một cách tốt đẹp. Khéo được thấu triệt bằng tuệ: Đã làm sáng tỏ một cách tốt đẹp bằng tuệ. Ở Giáo Pháp ấy: Pháp trong Chánh văn Pāḷi nói về đề mục thiền định ấy. (25)
Vimuttiparipācanīyāti vimutti vuccati arahattaṃ, taṃ paripācentīti vimuttiparipācanīyā. Aniccasaññāti aniccānupassanāñāṇe uppannasaññā. Anicce dukkhasaññāti dukkhānupassanāñāṇe uppannasaññā. Dukkhe anattasaññāti anattānupassanāñāṇe uppannasaññā. Pahānasaññāti pahānānupassanāñāṇe uppannasaññā. Virāgasaññāti virāgānupassanāñāṇe uppannasaññā.
Đưa đến sự chín muồi về giải thoát: sự giải thoát được gọi là A-ra-hán, các đức hạnh nào làm cho chín muồi bản thể A-ra-hán ấy (do nguyên nhân ấy) đức hạnh ấy gọi là đưa đến sự chín muồi về giải thoát. Tưởng về vô thường: Tưởng sanh khởi trong trí quán xét về vô thường. Tưởng về khổ não ở vô thường: Tưởng sanh khởi trong trí quán xét về khổ não. Tưởng về vô ngã ở khổ não: Tưởng sanh khởi trong trí quán xét về vô ngã. Tưởng về dứt bỏ: Tưởng sanh khởi trong trí quán xét về sự dứt bỏ. Tưởng về xa lìa luyến ái: Tưởng sanh khởi trong trí quán xét về xa lìa luyến ái. (26)
‘‘Ime kho āvuso’’tiādi vuttanayeneva yojetabbaṃ. Iti chabbīsatiyā pañcakānaṃ vasena tiṃsasatapañhe kathento thero sāmaggirasaṃ dassesīti.
Này các Đại đức, quả thật, v.v., nên được kết hợp với chính cách thức đã được đề cập. Trưởng lão trong khi nói đến một trăm ba mươi vấn đề do tác động hai mươi sáu nhóm năm, đã trình bày về hương vị của sự hợp nhất là như thế.
Giải thích nhóm năm được kết thúc
Giải thích nhóm sáu
323. Iti pañcakavasena sāmaggirasaṃ dassetvā idāni chakkavasena dassetuṃ puna desanaṃ ārabhi. Tattha ajjhattikānīti ajjhattajjhattikāni. Bāhirānīti tato ajjhattajjhattato bahibhūtāni. Vitthārato pana āyatanakathā visuddhimagge kathitāva. Viññāṇakāyāti viññāṇasamūhā. Cakkhuviññāṇanti cakkhupasādanissitaṃ kusalākusalavipākaviññāṇaṃ. Esa nayo sabbattha. Cakkhusamphassoti cakkhunissito samphasso. Sotasamphassādīsupi eseva nayo. Manosamphassoti ime dasa samphasse ṭhapetvā seso sabbo manosamphasso nāma. Vedanāchakkampi eteneva nayena veditabbaṃ. Rūpasaññāti rūpaṃ ārammaṇaṃ katvā uppannā saññā. Etenupāyena sesāpi veditabbā. Cetanāchakkepi eseva nayo. Tathā taṇhāchakke.
323. Sau khi trưởng lão (Tướng quân Chánh pháp Sārīputta) thuyết giảng hương vị của sự hợp nhất do tác động nhóm năm, bây giờ để thuyết giảng (hương vị của sự hợp nhất) do tác động nhóm sáu mới bắt đầu bài thuyết Pháp tiếp theo. Ở đấy, các nội xứ: các xứ ở bên trong. Ngoại xứ: các ngoại xứ từ các nội xứ ấy. Hơn nữa, bài giảng về xứ Tôi (Ngài Buddhaghosa) đã giải thích chi tiết trong Bộ Thanh Tịnh Đạo. Các nhóm thức: khối tập hợp thức. Nhãn thức: Thức thuộc quả thiện và quả bất thiện được nương vào thần kinh nhãn. Tất cả các thức cũng đều áp dụng cách thức này. Nhãn xúc: Xúc được nương vào nhãn. Nhĩ xúc, v.v., cũng áp dụng cách thức này. Ý xúc: Tất cả các xúc còn lại ngoại trừ mười xúc này gọi là ý xúc. Luôn cả nhóm sáu thọ cũng nên được hiểu theo cách thức này. Sắc tưởng: Sau khi lấy sắc làm đối tượng tưởng đã sinh khởi. Các tưởng còn lại cũng nên được hiểu theo đường lối này. Luôn cả nhóm sáu của ‘tư-cetanā’ cũng áp dụng cách thức này tương tự. Trong nhóm sáu của ‘ái’ cũng như thế.
Agāravoti gāravavirahito. Appatissoti appatissayo anīcavutti. Ettha pana yo bhikkhu satthari dharamāne tīsu kālesu upaṭṭhānaṃ na yāti. Satthari anupāhane caṅkamante saupāhano caṅkamati, nīce caṅkamante ucce caṅkamati, heṭṭhā vasante upari vasati, satthudassanaṭṭhāne ubho aṃse pārupati, chattaṃ dhāreti, upāhanaṃ dhāreti, nahāyati, uccāraṃ vā passāvaṃ vā karoti. Parinibbute pana cetiyaṃ vandituṃ na gacchati, cetiyassa paññāyanaṭṭhāne satthudassanaṭṭhāne vuttaṃ sabbaṃ karoti, ayaṃ satthari agāravo nāma. Yo pana dhammassavane saṃghuṭṭhe sakkaccaṃ na gacchati, sakkaccaṃ dhammaṃ na suṇāti, samullapanto nisīdati, sakkaccaṃ na gaṇhāti, na vāceti, ayaṃ dhamme agāravo nāma. Yo pana therena bhikkhunā anajjhiṭṭho dhammaṃ deseti, nisīdati, pañhaṃ katheti, vuḍḍhe bhikkhū ghaṭṭento gacchati, tiṭṭhati, nisīdati, dussapallatthikaṃ vā hatthapallatthikaṃ vā karoti, saṅghamajjhe ubho aṃse pārupati, chattupāhanaṃ dhāreti, ayaṃ saṅghe agāravo nāma. Ekabhikkhusmimpi hi agārave kate saṅghe agāravo katova hoti. Tisso sikkhā pana apūrayamānova sikkhāya agāravo nāma. Appamādalakkhaṇaṃ ananubrūhayamāno appamāde agāravo nāma. Duvidhampi paṭisanthāraṃ akaronto paṭisanthāre agāravo nāma. Cha gāravā vuttappaṭipakkhavasena veditabbā.
Không tôn kính: là không có sự tôn kính. Không có sự tôn trọng: là không thể hiện sự tôn trọng, không biểu lộ sự khiêm cung. Hơn nữa, vị Tỳ-khưu nào trong Giáo pháp này, trong khi bậc Đạo Sư vẫn còn tại thế không đi đến hầu cậu Ngài trong ba thời. Khi bậc Đạo Sư đang đi kinh hành mà không mang dép, nhưng (vị ấy) lại mang dép đi kinh hành; khi (bậc Đạo Sư) đi kinh hành ở đường kinh hành thấp, nhưng (vị ấy) lại đi kinh hành ở đường kinh hành cao; khi (bậc Đạo Sư) cư ngụ ở chỗ trú thấp, nhưng (vị ấy) lại cư ngụ ở chỗ trú cao; Ở chỗ nhìn thấy bậc Đạo Sư choàng kín cả hai vai, mang dù, mang dép, tắm rửa, đi đại tiện hoặc tiểu tiện; hoặc là, khi (bậc Đạo Sư) đã viên tịch Niết Bàn không đi đến để đảnh lễ Bảo tháp, thực hiện tất cả các việc đã nói ở nơi xuất hiện của Bảo Tháp hoặc ở nơi nhìn thấy bậc Đạo Sư; — vị Tỳ-khưu ấy gọi là không có sự tôn trọng bậc Đạo Sư. Còn vị nào, khi công bố việc thính pháp, không đi đến một cách trân trọng, không lắng nghe Pháp nghiêm trang, ngồi tâm sự; không học tập, không chỉ dạy với thái độ cung kính — vị ấy được gọi là không có sự tôn trọng Giáo Pháp. Còn vị nào chưa được các Tỳ khưu Trưởng lão yêu cầu mà (đã tự ý) thuyết giảng Giáo Pháp, ngồi giảng giải câu hỏi; đi, đứng, ngồi chen lấn các vị Tỳ-khưu lớn tuổi, hoặc buộc đầu gối bằng vải hoặc siết chặt đầu gối bằng đôi tay ở giữa Hội Chúng, hoặc choàng kín cả hai vai, mang dù, mang dép; — vị này được gọi là không có sự tôn trọng Hội Chúng. Thật vậy, khi vị Tỳ-khưu thể hiện sự thiếu tôn trọng dầu chỉ với một vị Tỳ-khưu, thì cũng được xem là thể hiện sự không tôn trọng Hội Chúng. Còn vị Tỳ-khưu không hoàn thành ba sự học tập được gọi là không có sự tôn trọng việc học tập. (Vị nào) không làm tăng trưởng các tướng trạng của sự không xao lãng, (vị ấy) được gọi là không có sự tôn trọng sự không xao lãng. Vị nào trong khi không thực hiện việc chào hỏi, thậm chí cả hai gọi là không có sự tôn trọng việc hiếu khách. Sáu sự tôn kính nên được hiểu theo phương diện đối nghịch đã được trình bày. (9-10)
Somanassūpavicārāti somanassasampayuttā vicārā. Somanassaṭṭhāniyanti somanassakāraṇabhūtaṃ. Upavicaratīti vitakkena vitakketvā vicārena paricchindati. Esa nayo sabbattha. Domanassūpavicārāpi evameva veditabbā. Tathā upekkhūpavicārā. Sāraṇīyadhammā heṭṭhā vitthāritā. Diṭṭhisāmaññagatoti iminā pana padena kosambakasutte paṭhamamaggo kathito. Idha cattāropi maggā.
Các suy tư liên quan đến hỷ tâm: Các suy tư tương ưng với hỷ tâm. Là nguồn tạo ra hỷ tâm: là nguyên nhân của hỷ tâm. (Hành giả) suy tư (về các sắc ấy): Đã suy tầm với suy tầm rồi mới xác định bằng suy tư. Cách thức này áp dụng cho các đoạn kế tiếp. Các suy tư liên quan đến ưu tâm cũng nên biết tương tự y như thế. Các suy tư liên quan đến xả tâm cũng tương tự. Các pháp cần được ghi nhớ: đã được Ngài giảng giải chi tiết ở phần trước. Được đầy đủ chánh kiến: Phần Sơ Đạo đã được Ngài nói trong bài Kinh Kosambaka với những lời này. (11-14)
Giải thích nhóm sáu gốc rễ của sự tranh cãi
325. Vivādamūlānīti vivādassa mūlāni. Kodhanoti kujjhanalakkhaṇena kodhena samannāgato. Upanāhīti veraappaṭinissaggalakkhaṇena upanāhena samannāgato. Ahitāya dukkhāya devamanussānanti dvinnaṃ bhikkhūnaṃ vivādo kathaṃ devamanussānaṃ ahitāya dukkhāya saṃvattati. Kosambakakkhandhake viya dvīsu bhikkhūsu vivādaṃ āpannesu tasmiṃ vihāre tesaṃ antevāsikā vivadanti. Tesaṃ ovādaṃ gaṇhanto bhikkhunisaṅgho vivadati. Tato tesaṃ upaṭṭhākā vivadanti. Atha manussānaṃ ārakkhadevatā dve koṭṭhāsā honti. Tattha dhammavādīnaṃ ārakkhadevatā dhammavādiniyo honti adhammavādīnaṃ adhammavādiniyo. Tato ārakkhadevatānaṃ mittā bhummā devatā bhijjanti. Evaṃ paramparā yāva brahmalokā ṭhapetvā ariyasāvake sabbe devamanussā dve koṭṭhāsā honti. Dhammavādīhi pana adhammavādinova bahutarā honti. Tato ‘‘yaṃ bahukehi gahitaṃ, taṃ taccha’’nti dhammaṃ vissajjetvā bahutarāva adhammaṃ gaṇhanti. Te adhammaṃ purakkhatvā vadantā apāyesu nibbattanti. Evaṃ dvinnaṃ bhikkhūnaṃ vivādo devamanussānaṃ ahitāya dukkhāya hoti.
325. Các gốc rễ của sự tranh cãi: các gốc rễ của sự tranh cãi. Giận dữ: Được thành tựu bởi sự giận sự có trạng thái bực tức. Có sự thù hằn: Được thành tựu bởi sự thù hằn có trạng thái sân hận và không cởi mở. Đem lại sự không lợi ích, đem lại sự khổ đau cho chư Thiên và loài người: Sự tranh cãi của cả hai vị Tỳ-khưu đưa đến sự không lợi ích và đem lại sự khổ đau cho chư Thiên và loài người như thế nào? Giống như trong Chương Kosambaka— Khi hai vị Tỳ-khưu nảy sinh mâu thuẫn, các đệ tử của hai vị ấy trong Tịnh xá cũng tranh cãi. Hội chúng Tỳ-khưu-ni nhận lời giáo huấn từ hai vị ấy cũng cãi vã. Khi đó, các gia chủ hộ trì cho các vị ấy cũng tranh cãi. Kể đến, các vị Thiên hộ trì loài người cũng chia thành hai phe đối lập. Trong số chư Thiên đó, các vị Thiên hộ trì những người nói đúng pháp thì trở thành những vị nói đúng pháp; còn những người nói sai pháp cũng trở thành những vị nói sai pháp. Từ đó, chư Thiên địa cầu vốn là bạn của các vị Thiên hộ trì cũng bị chia rẽ. Như thế, ngoại trừ vị Thánh đệ tử, tất cả chư Thiên và loài người cũng chia thành hai phe, (sự chia rẽ ấy) cứ tiếp tục cho đến cõi Phạm thiên. Hơn nữa, những người nói sai pháp có số lượng nhiều hơn những người nói đúng pháp. Khi ấy, họ từ bỏ Chánh Pháp để nắm giữ Phi Pháp được số đông (nắm giữ), (chỉ vì nghĩ) rằng: “điều nào được nắm giữ bởi số đông, thì điều đó là đúng đắn”. Họ chú trọng đến Phi Pháp trong khi nói, nên đã sanh vào các khổ cảnh. Như vậy, sự tranh cãi của hai vị Tỳ-khưu là đem lại sự không lợi ích, đem lại sự khổ đau cho chư Thiên và loài người.
Ajjhattaṃ vāti tumhākaṃ abbhantaraparisāya. Bahiddhā vāti paresaṃ parisāya.
Bên trong: Ở bên trong tập thể của vị ấy. Bên ngoài: Ở trong tập thể của những người khác.
Makkhīti paresaṃ guṇamakkhanalakkhaṇena makkhena samannāgato. Paḷāsīti yugaggāhalakkhaṇena paḷāsena samannāgato. Issukīti parasakkārādīni issāyanalakkhaṇāya issāya samannāgato. Maccharīti āvāsamacchariyādīhi samannāgato. Saṭhoti kerāṭiko. Māyāvīti katapāpapaṭicchādako. Pāpicchoti asantasambhāvanicchako dussīlo. Micchādiṭṭhīti natthikavādī ahetukavādī akiriyavādī. Sandiṭṭhiparāmāsīti sayaṃ diṭṭhimeva parāmasati. Ādhānaggāhīti daḷhaggāhī. Duppaṭinissaggīti na sakkā hoti gahitaṃ vissajjāpetuṃ.
Người quỷ quyệt: được thành tựu bởi sự gièm pha có trạng thái che đậy đức hạnh của những người khác. Ganh đua: được thành tựu bởi sự cạnh tranh có trạng thái ganh đua. Đố kỵ: được thành tựu bởi sự ganh tỵ có trạng thái ghen tị. Bỏn xẻn: được thành tựu do sự bỏn xẻn chỗ ở, v.v. Mưu mô: người đầy mưu mô. Xảo trá: người giấu giếm những tội lỗi đã làm. Ác dục: người tham muốn những thứ không có, tức là kẻ có giới tồi. Tà kiến: người theo thuyết hư vô, thuyết vô nhân, và thuyết vô hành. Trở nên chấp thủ một cách lộ liễu: tự mình bám víu vào tà kiến. Ương ngạnh: Người nắm giữ chắc chắn. Khó sửa đổi: không thể buông bỏ những điều mà bản thân đã nắm giữ. (15)
Pathavīdhātūti patiṭṭhādhātu. Āpodhātūti ābandhanadhātu. Tejodhātūti paripācanadhātu. Vāyodhātūti vitthambhanadhātu. Ākāsadhātūti asamphuṭṭhadhātu. Viññāṇadhātūti vijānanadhātu.
Địa giới: nguyên tố thiết lập. Thủy giới: nguyên tố trói buộc. Hỏa giới: Nguyên tố làm cho vật thực được tiêu hóa. Phong giới: Nguyên tố làm cho chuyển động. Hư không giới: Nguyên tố không xúc chạm. Thức giới: Nguyên tố là sự biết rõ. (16)
Giải thích sáu yếu tố của việc thoát ra
326. Nissaraṇiyā dhātuyoti nissaṭadhātuyova. Pariyādāya tiṭṭhatīti pariyādiyitvā hāpetvā tiṭṭhati. ‘Mā hevantissa vacanīyo’ti yasmā abhūtaṃ byākaraṇaṃ byākaroti, tasmā mā evaṃ bhaṇīti vattabbo. Yadidaṃ mettācetovimuttīti yā ayaṃ mettācetovimutti, idaṃ nissaraṇaṃ byāpādassa, byāpādato nissaṭāti attho. Yo pana mettāya tikacatukkajjhānato vuṭṭhito saṅkhāre sammasitvā tatiyamaggaṃ patvā ‘‘puna byāpādo natthī’’ti tatiyaphalena nibbānaṃ passati, tassa cittaṃ accantaṃ nissaraṇaṃ byāpādassa. Etenupāyena sabbattha attho veditabbo.
326. Yếu tố thoát ra: yếu tố đã được thoát ra khỏi. Chiếm cứ tâm và tồn tại: Chiếm cứ tâm làm cho suy giảm rồi an trú. Chẳng phải như vậy! Đại đức chớ nói như thế: Vì vị Tỳ-khưu nói lời nói không thật, do đó, nên vị ấy bị nói rằng: “Ngài đừng nói như vậy.” Tức là sự giải thoát của tâm thông qua từ: Sự giải thoát của tâm này, đây là sự thoát ra khỏi thù oán. Giải thích là– Đã thoát ra khỏi sự thù hận. Hơn nữa, vị nào khi đã xuất khỏi Tam thiền hoặc Tứ thiền thông qua tâm từ, rồi quán sát đúng đắn các Hành và đã đạt đến Tam Đạo, nhận thấy Niết Bàn bằng Tam Quả (Quả Bất Lai) rằng: “Sự thù hận không còn nữa”, tâm của vị đó được gọi là sự thoát ra khỏi thù oán tuyệt đối. (Bậc sáng trí) nên hiểu ý nghĩa trong các câu bằng phương thức này. (17-1-4)
Animittācetovimuttīti arahattaphalasamāpatti. Sā hi rāganimittādīnañceva rūpanimittādīnañca niccanimittādīnañca abhāvā ‘‘animittā’’ti vuttā. Nimittānusārīti vuttappabhedaṃ nimittaṃ anusaratīti nimittānusārī.
Sự giải thoát của tâm thông qua vô tướng: Sự thể nhập của Quả A-ra-hán. Thật vậy, sự thể nhập của Quả A-ra-hán đó được gọi là “vô tướng” vì không có hiện tướng của luyến ái, v.v., vì không có hiện tướng của sắc, v.v., và vì không có hiện tướng của thường tồn, v.v. (Thức) đeo đuổi hiện tướng: (vị Tỳ-khưu) đeo đuổi hiện hướng theo phạm trù đang được nói đến. (17-5)
Asmīti asmimāno. Ayamahamasmīti pañcasu khandhesu ayaṃ nāma ahaṃ asmīti ettāvatā arahattaṃ byākataṃ hoti. Vicikicchākathaṃkathāsallanti vicikicchābhūtaṃ kathaṃkathāsallaṃ. ‘Mā hevantissa vacanīyo’ti sace te paṭhamamaggavajjhā vicikicchā uppajjati, arahattabyākaraṇaṃ micchā hoti, tasmā mā abhūtaṃ bhaṇīti vāretabbo. Asmimānasamugghātoti arahattamaggo. Arahattamaggaphalavasena hi nibbāne diṭṭhe puna asmimāno natthīti arahattamaggo asmimānasamugghātoti vutto.
Tôi là: ngã mạn về bản thân ‘tôi là’. Cái này là tôi: Bậc A-ra-hán tuyên bố rằng– chỉ với chừng này ‘tôi tên là, cái này là trong số năm uẩn’. Mũi tên hoài nghi và lưỡng lự: Mũi tên là sự lưỡng lự đã trở thành hoài nghi. Chẳng phải như vậy! Đại đức chớ nói như thế: Nếu sự hoài nghi đáng được diệt trừ bằng Sơ Đạo sanh khởi nơi ngài, lời tuyên bố về A-ra-hán của ngài là sai. Do đó, vị ấy có thể bị ngăn cản, “Ngài chớ nói những lời không thật.” Sự diệt tận gốc của ngã mạn ‘tôi là’: Đạo A-ra-hán. Thật vậy, trong khi nhìn thấy Niết Bàn do tác động A-ra-hán Đạo và Quả, ngã mạn về bản thân ‘tôi là’ không có nữa, do đó Đạo A-ra-hán Ngài mới nói rằng: “Sự diệt tận gốc của ngã mạn ‘tôi là’”. (17-6)
Giải thích về sáu vô thượng
327. Anuttariyānīti anuttarāni jeṭṭhakāni. Dassanesu anuttariyaṃ dassanānuttariyaṃ. Sesapadesupi eseva nayo. Tattha hatthiratanādīnaṃ dassanaṃ na dassanānuttariyaṃ, niviṭṭhasaddhassa pana niviṭṭhapemavasena dasabalassa vā bhikkhusaṅghassa vā kasiṇāsubhanimittādīnaṃ vā aññatarassa dassanaṃ dassanānuttariyaṃ nāma.
327. Các vô thượng: đứng đầu, cao nhất. Vô thượng trong các việc thấy: vô thượng trong các việc thấy. Luôn cả các từ còn lại cũng có cách thức tương tự. Trong số các việc thấy đó, việc thấy con voi báu, v.v., không được xem là vô thượng về việc thấy, còn đối với vị có niềm tin vững chắc, việc thấy đức Thập Lực hoặc Hội chúng Tỳ-khưu do tác động của sự yêu thương đã được thiết lập, hoặc việc thấy bất kỳ hiện tướng kasiṇa hoặc hiện tướng bất tịnh, v.v., nào đó thì được gọi là vô thượng trong các việc thấy.
Khattiyādīnaṃ guṇakathāsavanaṃ na savanānuttariyaṃ, niviṭṭhasaddhassa pana niviṭṭhapemavasena tiṇṇaṃ vā ratanānaṃ guṇakathāsavanaṃ tepiṭakabuddhavacanasavanaṃ vā savanānuttariyaṃ nāma. Maṇiratanādilābho na lābhānuttariyaṃ, sattavidhaariyadhanalābho pana lābhānuttariyaṃ nāma. Hatthisippādisikkhanaṃ na sikkhānuttariyaṃ, sikkhattayapūraṇaṃ pana sikkhānuttariyaṃ nāma. Khattiyādīnaṃ pāricariyā na pāricariyānuttariyaṃ, tiṇṇaṃ pana ratanānaṃ pāricariyā pāricariyānuttariyaṃ nāma. Khattiyādīnaṃ guṇānussaraṇaṃ nānussatānuttariyaṃ, tiṇṇaṃ pana ratanānaṃ guṇānussaraṇaṃ anussatānuttariyaṃ nāma.
Việc lắng nghe lời nói về đức hạnh của các vị Sát-đế-lỵ, v.v., không được xem là vô thượng trong các việc nghe; còn đối với người có đức tin vững chắc, việc nghe nói về ân đức của Tam Bảo do tác động của sự quý mến đã được thiết lập, hoặc việc nghe Phật ngôn tức là Tam Tạng, thì được gọi là vô thượng trong các việc nghe. Việc đạt được ngọc ma-ni không được xem là vô thượng trong các vật đạt được, còn đối với việc đạt được bảy tài sản thuộc bậc Thánh được gọi là vô thượng trong các vật đạt được. Việc học tập về nghề huấn luyện voi, v.v., không được xem là vô thượng trong các việc học tập; còn việc thực hành trọn vẹn cả ba việc học tập được gọi là vô thượng trong các việc học tập. Việc phục vụ các Sát-đế-lỵ, v.v, không được xem là vô thượng trong các việc phục vụ; còn việc phục vụ Tam Bảo được gọi là vô thượng trong các việc phục vụ. Việc nhớ lại đức hạnh của các vị Sát-đế-lỵ không được xem là vô thượng trong các việc tùy niệm; Việc nhớ lại ân đức của Tam Bảo được gọi là vô thượng trong các việc tùy niệm. (18)
Anussatiyova anussatiṭṭhānāni nāma. Buddhānussatīti buddhassa guṇānussaraṇaṃ. Evaṃ anussarato hi pīti uppajjati. So taṃ pītiṃ khayato vayato paṭṭhapetvā arahattaṃ pāpuṇāti. Upacārakammaṭṭhānaṃ nāmetaṃ gihīnampi labbhati, esa nayo sabbattha. Vitthārakathā panettha visuddhimagge vuttanayeneva veditabbā.
Chính các tùy niệm được gọi là các đối tượng để tùy niệm. Việc nhớ lại các ân đức của đức Phật được gọi là tùy niệm Phật. Thật vậy, trong khi nhớ lại như vậy, hỷ lạc sanh khởi. Vị ấy sau khi thiết lập hỷ ấy về sự cạn kiệt, về sự biến hoại, đạt được bản thể A-ra-hán. Đề mục thiền đưa đến cận định này, ngay cả các cư sĩ cũng có thể đạt được. Đối với tất cả các đề mục thiền định cũng tương tự. Tất cả các đề mục thiền định cũng có cách thức này tương tự. Còn bài giảng chi tiết (bậc sáng trí) nên được biết theo cách thức mà Tôi đã trình bày trong bộ Thanh Tịnh Đạo. (19)
Giải thích về sáu sự an trú thường xuyên
328. Satatavihārāti khīṇāsavassa niccavihārā. Cakkhunā rūpaṃ disvāti cakkhudvārārammaṇe āpāthagate taṃ rūpaṃ cakkhuviññāṇena disvā javanakkhaṇe iṭṭhe arajjanto neva sumano hoti, aniṭṭhe adussanto na dummano. Asamapekkhane mohaṃ anuppādento upekkhako viharati majjhatto, satiyā yuttattā sato, sampajaññena yuttattā sampajāno. Sesapadesupi eseva nayo. Iti chasupi dvāresu upekkhako viharatīti iminā chaḷaṅgupekkhā kathitā. Sampajānoti vacanato pana cattāri ñāṇasampayuttacittāni labbhanti. Satatavihārāti vacanato aṭṭhapi mahācittāni labbhanti arajjanto adussantoti vacanato dasapi cittāni labbhanti. Somanassaṃ kathaṃ labbhatīti ce āsevanato labbhati.
328. Sự an trú thường xuyên: Sự an trú thường xuyên của vị đã cạn kiệt lậu hoặc. Sau khi nhìn thấy cảnh sắc bằng mắt: Trong khi đối tượng của nhãn môn đi vào phạm vi (nhãn thức), vị Tỳ-khưu sau khi nhìn thấy cảnh sắc đó bằng nhãn thức, khi không thỏa mãn ở đối tượng được thỏa mãn trong sát-na đổng lực, được gọi là vị không có ý ưa thích; khi không bất mãn ở đối tượng không được thỏa mãn được gọi là vị không có ý ghét bỏ. Khi không làm cho sự si mê sanh khởi do không xem xét, có sự quân bình, được gọi là vị sống (có pháp) hành xả. Có niệm: vì trạng thái gắn bó với niệm. Có sự nhận biết rõ: vì trạng thái gắn bó với sự nhận biết rõ. Luôn cả các câu còn lại cũng có cách thức này. Như thế, vị Tỳ-khưu sống (có pháp) hành xả cả trong sáu môn, Ngài nói đến sáu yếu tố hành xả với câu này. Hơn nữa, với cách nói rằng– ‘có sự nhận biết rõ’ (bậc sáng trí) đạt được với bốn tâm tương ưng trí. Với cách nói rằng– sự an trú thường xuyên: (bậc sáng trí) đạt được với tám tâm đại tố. Với lời nói sau– ‘không hoan hỷ, không bất mãn’ (bậc sáng trí) đạt được với cả mười tâm (tố). Nếu có câu hỏi xen vào: “Làm thế nào để có được sự hoan hỷ?” – Trả lời rằng: ‘Có được nhờ sự tập luyện.’ (20)
Giải thích về sáu sanh chủng
329. Abhijātiyoti jātiyo. Kaṇhābhijātiko samānoti kaṇhe nīcakule jāto hutvā. Kaṇhaṃ dhammaṃ abhijāyatīti kāḷakaṃ dasadussīlyadhammaṃ pasavati karoti. So taṃ abhijāyitvā niraye nibbattati. Sukkaṃ dhammanti ahaṃ pubbepi puññānaṃ akatattā nīcakule nibbatto. Idāni puññaṃ karomīti puññasaṅkhātaṃ paṇḍaraṃ dhammaṃ abhijāyati. So tena sagge nibbattati. Akaṇhaṃ asukkaṃ nibbānanti nibbānañhi sace kaṇhaṃ bhaveyya, kaṇhavipākaṃ dadeyya. Sace sukkaṃ, sukkavipākaṃ dadeyya. Dvinnampi appadānato pana ‘‘akaṇhaṃ asukka’’nti vuttaṃ. Nibbānañca nāma imasmiṃ atthe arahattaṃ adhippetaṃ. Tañhi kilesanibbānante jātattā nibbānaṃ nāma. Taṃ esa abhijāyati pasavati karoti. Sukkābhijātiko samānoti sukke uccakule jāto hutvā. Sesaṃ vuttanayeneva veditabbaṃ.
329. Các sanh loại gọi là sanh chủng. Người có sanh chủng đen: Người sanh ra ở nơi đen tối, tức là trong gia đình thấp kém. Tạo ra pháp đen: (người nào) làm nảy sanh, tạo ra bản chất mười ác giới, là pháp đen; người ấy sau khi làm sanh khởi mười ác giới ấy sẽ tái sanh vào địa ngục. Pháp trắng: Ta sanh ra trong gia đình thấp kém do đã không tạo phước thiện trong quá khứ. Giờ đây, ta sẽ tạo phước thiện, cho nên vị ấy tạo ra pháp trắng được xem là phước thiện. Do nhờ pháp ấy mà người ấy được tái sanh vào cõi trời. Niết Bàn không đen không trắng: Thật vậy, nếu Niết bàn có thể trở thành pháp đen, (thì) sẽ cho kết quả đen. Nếu Niết Bàn có thể trở thành pháp trắng, (thì) sẽ cho kết quả trắng. Nhưng vì Niết Bàn không mang lại cả hai kết quả ấy, nên được gọi là “không đen không trắng”. Và Niết Bàn trong ý nghĩa này, Trưởng lão muốn đề cập đến Quả A-ra-hán. Thật vậy, Quả A-ra-hán được gọi là Niết Bàn vì trạng thái sanh khởi ở cuối quá trình diệt tận phiền não. Người này gọi là làm cho Quả A-ra-hán ấy sanh ra, gây nên, tạo ra điều đó. Có sanh chủng trắng: Người sanh ra ở chỗ trắng, tức là trong gia đình cao quý. Những từ còn lại cũng nên được hiểu theo chính cách thức ấy. (21)
Giải thích sáu tưởng dự phần vào việc thấu suốt
Nibbedhabhāgiyāti nibbedho vuccati nibbānaṃ, taṃ bhajanti upagacchantīti nibbedhabhāgiyā. Aniccasaññādayo pañcake vuttā. Nirodhānupassanāñāṇe saññā nirodhasaññā nāma.
Dự phần vào việc thấu suốt: Niết Bàn được gọi là sự thấu suốt; những người gần gũi, đạt đến Niết Bàn ấy, (do nguyên nhân ấy) gọi là dự phần vào việc thấu suốt. Tưởng về vô thường, v.v., được gọi là nhóm năm. Tưởng trong trí về quán xét diệt tận gọi là tưởng về diệt tận. (22)
‘‘Ime kho, āvuso’’tiādi vuttanayeneva yojetabbaṃ. Iti dvāvīsatiyā chakkānaṃ vasena bāttiṃsasatapañhe kathento thero sāmaggirasaṃ dassesīti.
“Này các Đại đức, quả thật, v.v.,” (bậc sáng trí) nên kết hợp với chính phương thức đã được trình bày. Trưởng lão khi trình bày một trăm ba mươi hai vấn đề do tác động hai mươi hai nhóm sáu đã chỉ rõ hương vị của sự hợp nhất là như thế.
Giải thích nhóm sáu được kết thúc
Giải thích nhóm bảy
330. Iti chakkavasena sāmaggirasaṃ dassetvā idāni sattakavasena dassetuṃ puna desanaṃ ārabhi.
330. Sau khi Trưởng lão đã thuyết về hương vị của sự hợp nhất do tác động nhóm sáu là như vậy, bây giờ để thuyết giảng (hương vị của sự hợp nhất) do tác động nhóm bảy mới bắt đầu bài thuyết Pháp tiếp theo.
Tattha sampattipaṭilābhaṭṭhena saddhāva dhanaṃ saddhādhanaṃ. Esa nayo sabbattha. Paññādhanaṃ panettha sabbaseṭṭhaṃ. Paññāya hi ṭhatvā tīṇi sucaritāni pañcasīlāni dasasīlāni pūretvā saggūpagā honti, sāvakapāramīñāṇaṃ, paccekabodhiñāṇaṃ, sabbaññutaññāṇañca paṭivijjhanti. Imāsaṃ sampattīnaṃ paṭilābhakāraṇato paññā ‘‘dhana’’nti vuttā. Sattapi cetāni lokiyalokuttaramissakāneva kathitāni. Bojjhaṅgakathā kathitāva.
Ở đấy, tài sản là đức tin được gọi là tài sản về đức tin với ý nghĩa đạt được sự thành tựu. Cách thức này áp dụng cho các đoạn kế tiếp. Hơn nữa, ở đây tài sản về tuệ là cao quý hơn tất cả (các loại tài sản). Bởi vì, sau khi an trú vào tuệ (vị ấy) đã làm tròn đủ ba thiện hạnh, năm giới, mười giới rồi đi đến cõi Trời, thấu triệt trí toàn hảo của bậc Thinh Văn, trí tuệ của đức Phật độc giác, và trí tuệ của bậc Toàn Giác. Tuệ được gọi là “tài sản” vì làm nhân đạt được các sự thành tựu này. Cả bảy loại tài sản thuộc bậc Thánh này, Ngài nói rằng hòa hợp giữa Hiệp Thế và Siêu Thế. Bài giảng về thất giác chi Ngài cũng đã trình bày. (1-2)
Samādhiparikkhārāti samādhiparivārā. Sammādiṭṭhādīni vuttatthāneva. Imepi satta parikkhārā lokiyalokuttarāva kathitā.
Các pháp thiết yếu của định: các pháp phụ thuộc của định. Chánh kiến, v.v., có ý nghĩa đã được giải thích. Với câu này, bảy pháp thiết yếu được Ngài nói hoàn toàn là Hiệp Thế và Siêu Thế. (3)
Asataṃ dhammā asantā vā dhammā lāmakā dhammāti asaddhammā. Vipariyāyena saddhammā veditabbā. Sesamettha uttānatthameva. Saddhammesu pana saddhādayo sabbepi vipassakasseva kathitā. Tesupi paññā lokiyalokuttarā. Ayaṃ viseso.
Phi diệu pháp: các pháp của những kẻ không tốt, là pháp không an tịnh, hoặc là các pháp thấp hèn. Bậc sáng trí nên hiểu về diệu pháp với tính chất ngược lại. Trong các câu này, những từ còn lại đều có ý nghĩa đơn giản. Hơn nữa, trong các diệu pháp, tất cả các diệu pháp có đức tin, v.v, được Ngài nói cho hành giả tu tập về Minh sát. Tuệ trong các diệu pháp ấy vừa là Hiệp Thế và vừa là Siêu Thế. Đây là phần tóm tắt. (4-5)
Sappurisānaṃ dhammāti sappurisadhammā. Tattha suttageyyādikaṃ dhammaṃ jānātīti dhammaññū. Tassa tasseva bhāsitassa atthaṃ jānātīti atthaññū. ‘‘Ettakomhi sīlena samādhinā paññāyā’’ti evaṃ attānaṃ jānātīti attaññū. Paṭiggahaṇaparibhogesu mattaṃ jānātīti mattaññū. Ayaṃ kālo uddesassa, ayaṃ kālo paripucchāya, ayaṃ kālo yogassa adhigamāyāti evaṃ kālaṃ jānātīti kālaññū. Ettha ca pañca vassāni uddesassa kālo. Dasa paripucchāya. Idaṃ atisambādhaṃ. Dasa vassāni pana uddesassa kālo. Vīsati paripucchāya. Tato paraṃ yoge kammaṃ kātabbaṃ. Aṭṭhavidhaṃ parisaṃ jānātīti parisaññū. Sevitabbāsevitabbaṃ puggalaṃ jānātīti puggalaññū.
Các pháp của bậc chân nhân, (do đó) gọi là các pháp của bậc chân nhân. Trong số các pháp của bậc chân nhân ấy, (người nào) biết về pháp có Sutta và Geyya, v.v, (người ấy) gọi là người biết về Giáo Pháp (biết về nhân). (Người nào) biết về ý nghĩa của chính điều đã nói ấy, (người ấy) gọi là người biết về ý nghĩa (biết về quả). (Người nào) biết về bản thân như vầy rằng– “Tôi có chừng này về Giới, Định và Tuệ”, (người ấy) gọi là người biết về bản thân. (Người nào) biết chừng trong việc thọ nhận và thọ dụng, (người ấy) gọi là người biết chừng mực. (Người nào) biết rõ thời gian như vầy– “Đây là thời gian để thuyết giảng, đây là thời gian của việc vấn hỏi, đây là thời gian thực hành sự cố gắng, đây là thời gian đưa đến sự chứng đắc (thiện pháp)”, (người ấy) gọi là người biết về thời điểm. Và ở đây, thời gian năm năm cho thuyết giảng, mười năm cho việc vấn hỏi, đây được xem là quá hạn hẹp. Hơn nữa, thời gian mười năm để thuyết giảng và hai mươi năm cho việc vấn hỏi. Hơn thế nữa, (vị Tỳ-khưu) nên làm phận sự trong việc thực hành sự cố gắng. (Người nào) biết về tám nhóm tập thể, người ấy gọi là người biết về tập thể. (Người nào) biết về hạng người nên thân cận và không nên thân cận, (người ấy) gọi là người biết về hạng người. (6)
331. Niddasavatthūnīti niddasādivatthūni. Niddaso bhikkhu, nibbīso, nittiṃso, niccattālīso, nippaññāso bhikkhūti evaṃ vacanakāraṇāni. Ayaṃ kira pañho titthiyasamaye uppanno. Titthiyā hi dasavassakāle mataṃ nigaṇṭhaṃ niddasoti vadanti. So kira puna dasavasso na hoti. Na kevalañca dasavassova. Navavassopi…pe… ekavassopi na hoti. Eteneva nayena vīsativassādikālepi mataṃ nibbīso, nittiṃso, niccattālīso, nippaññāsoti vadanti. Āyasmā ānando gāme vicaranto taṃ kathaṃ sutvā vihāraṃ gantvā bhagavato ārocesi. Bhagavā āha –
331. Nguyên nhân của việc được gọi là vị có thâm niên không đến 10 năm: câu chuyện có thâm niên không đến mười năm (như sau) – Nguyên nhân của lời nói như vầy: Vị Tỳ-khưu có thâm niên không đến 10 năm, không đến 20 năm, không đến 30 năm, không đến 40 năm, không đến 50 năm;” Được biết vấn đề này đã được xuất hiện trong học thuyết của các du sĩ ngoại đạo. Bởi vì, các du sĩ ngoại đạo gọi Nigaṇṭha đã mệnh chung vào lúc mười năm rằng “người có thâm niên không đủ mười năm”. Được biết Nigaṇṭha ấy (khi sanh trở lại) có tuổi thọ không đến 10 năm (thâm niên), và không chỉ có 10 năm (thâm niên). Dầu chín năm …nt…dầu một năm cũng không phải. Với phương thức này đây, các du sĩ ngoại đạo đã nói về Nigaṇṭha mệnh chung sau 20 năm, v.v., rằng– “có thâm niên không đến 20 năm, không đến 30 năm, không đến 40 năm, không đến 50 năm”. Đại đức Ānanda khi đang đi khất thực trong làng, sau khi nghe được câu chuyện ấy, đã trở về tịnh xá, rồi bạch lại với đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn đã nói–
‘‘Na idaṃ, ānanda, titthiyānaṃ adhivacanaṃ mama sāsane khīṇāsavassetaṃ adhivacanaṃ. Khīṇāsavo hi dasavassakāle parinibbuto puna dasavasso na hoti. Na kevalañca dasavassova, navavassopi…pe… ekavassopi. Na kevalañca ekavassova, dasamāsikopi…pe… ekamāsikopi. Ekadivasikopi. Ekamuhuttopi na hoti eva. Kasmā? Puna paṭisandhiyā abhāvā. Nibbīsādīsupi eseva nayo. Iti bhagavā mama sāsane khīṇāsavassetaṃ adhivacana’’nti –
“Này Ānanda, đây không phải là tên gọi dành cho các du sĩ ngoại đạo, mà đây là tên gọi dành cho các bậc Lậu Tận trong Giáo Pháp của Ta. Thật vậy, bậc Lậu Tận đã viên tịch Niết Bàn trong thời gian có thâm niên mười năm, mới không có thâm niên mười năm nữa. Không chỉ có thâm niên 10 năm, mà còn 9 năm …nt… thậm chí 1 năm cũng không có. Và không chỉ có thâm niên 1 năm, 11 tháng …nt… hay 1 tháng, thậm chí 1 ngày. Hay có thâm niên dù chỉ trong chốc lát cũng không có. Tại sao? Bởi vì không còn mầm tái sanh. Dầu thâm niên không đến 20 năm cũng áp dụng phương thức này. Do đó, đức Thế Tôn mới thuyết rằng– “đây là tên gọi dành cho các bậc Lậu Tận trong Giáo Pháp của Ta.” —
Vatvā yehi kāraṇehi so niddaso hoti, tāni dassetuṃ satta niddasavatthūni deseti. Theropi tameva desanaṃ uddharitvā satta niddasavatthūni idhāvuso, bhikkhu, sikkhāsamādānetiādimāha. Tattha idhāti imasmiṃ sāsane. Sikkhāsamādāne tibbacchando hotīti sikkhattayapūraṇe bahalacchando hoti. Āyatiñca sikkhāsamādāne avigatapemoti anāgate punadivasādīsupi sikkhāpūraṇe avigatapemena samannāgato hoti. Dhammanisantiyāti dhammanisāmanāya. Vipassanāyetaṃ adhivacanaṃ. Icchāvinayeti taṇhāvinayane. Paṭisallāneti ekībhāve. Vīriyārambheti kāyikacetasikassa vīriyassa pūraṇe. Satinepakketi satiyañceva nepakkabhāve ca. Diṭṭhipaṭivedheti maggadassane. Sesaṃ sabbattha vuttanayeneva veditabbaṃ.
Để giải thích lý do tại sao bậc Lậu Tận đó là người có thâm niên không đến 10 năm, nên mới thuyết giảng bảy nguyên nhân của việc được gọi là vị có thâm niên không đến 10 năm. Vị Trưởng lão sau khi nêu lên bài thuyết Pháp đó mới trình bày bảy nguyên nhân của việc được gọi là vị có thâm niên không đến 10 năm, đã nói rằng: “Ở đây, này các Đại đức, vị Tỳ-khưu có sự mong muốn sắc bén về việc thọ trì sự học tập, v.v.” Trong số những lời ấy, ‘ở đây’ có nghĩa là trong Giáo Pháp này. Có sự mong muốn sắc bén về việc thọ trì sự học tập: Có sự mong muốn mãnh liệt trong việc thực hành trọn vẹn cả ba sự học tập. Và không xa lìa sự yêu thích ở việc thọ trì sự học tập trong tương lai: Được thành tựu bởi xa lìa sự yêu thích trong việc thực hành trọn vẹn sự học tập vào ngày mai, cả trong tương lai. Về việc quan sát cẩn thận các pháp: Với việc quan sát kỹ lưỡng các pháp. Đây là tên gọi dành cho Minh sát. Loại bỏ các ước muốn: Trong việc chế ngự tham ái. Về việc độc cư thiền định: trạng thái độc cư. Về việc ra sức tinh tấn: Trong việc thực hành sự tinh tấn vận hành ở lộ thân và lộ tâm. Về việc thuần thục niệm: trong niệm và trong bản thể vị có tuệ là pháp hộ trì bản thân. Về việc thấu triệt bằng chánh kiến: Trong việc nhìn thấy Đạo. Các từ còn lại ở các câu (bậc sáng trí) nên được hiểu theo cách thức đã được trình bày.
Saññāsu asubhānupassanāñāṇe saññā asubhasaññā. Ādīnavānupassanāñāṇe saññā ādīnavasaññā nāma. Sesā heṭṭhā vuttā eva. Balasattakaviññāṇaṭṭhitisattakapuggalasattakāni vuttanayāneva. Appahīnaṭṭhena anusayantīti anusayā. Thāmagato kāmarāgo kāmarāgānusayo. Esa nayo sabbattha. Saṃyojanasattakaṃ uttānatthameva.
Trong các tưởng— Tưởng trong trí quán xét về bất tịnh gọi là tưởng về bất tịnh. Tưởng trong trí quán xét về các điều bất lợi gọi là tưởng về các điều bất lợi. Tưởng còn lại đã được trình bày ở các phần trước. Bảy lực, bảy nơi tồn tại của thức, và bảy hạng người cũng có cách thức như đã trình bày. Ngủ ngầm với ý nghĩa chưa được dứt bỏ được gọi là tiềm ẩn. Sự luyến ái về dục bị rơi vào cố tất gọi là dục ái tiềm ẩn. Các luyến ái (còn lại) cũng áp dụng cách thức này. Nhóm bảy sự ràng buộc đều có ý nghĩa dễ hiểu. (8-13)
Giải thích bảy pháp dàn xếp tranh tụng
Adhikaraṇasamathesu adhikaraṇāni samenti vūpasamentīti adhikaraṇasamathā. Uppannuppannānanti uppannānaṃ uppannānaṃ. Adhikaraṇānanti vivādādhikaraṇaṃ anuvādādhikaraṇaṃ āpattādhikaraṇaṃ kiccādhikaraṇanti imesaṃ catunnaṃ. Samathāya vūpasamāyāti samathatthañceva vūpasamanatthañca. Sammukhāvinayo dātabbo…pe… tiṇavatthārakoti ime satta samathā dātabbā.
Các sự dàn xếp tranh tụng— các sự tranh tụng được giải quyết, được làm cho êm dịu, (do đó) được gọi là các pháp dàn xếp tranh tụng. Mỗi khi được sanh khởi: đã sanh khởi, đã xuất hiện. Các sự tranh tụng: Bốn sự tranh tụng này là– (1) Sự tranh tụng liên quan đến tranh cãi, (2) sự tranh tụng liên quan đến khiển trách, (3) sự tranh tụng liên quan đến tội, và (4) sự tranh tụng liên quan đến nhiệm vụ. Nhằm dàn xếp, nhằm dập tắt: nhằm dàn xếp và nhằm dập tắt. Nên áp dụng cách hành xử Luật với sự hiện diện …nt… cách dùng cỏ che lấp: (vị nắm vững về Luật) nên ban cho bảy cách dàn xếp này.
Tatrāyaṃ vinicchayanayo. Adhikaraṇesu tāva dhammoti vā adhammoti vā aṭṭhārasahi vatthūhi vivadantānaṃ bhikkhūnaṃ yo vivādo, idaṃ vivādādhikaraṇaṃ nāma. Sīlavipattiyā vā ācāradiṭṭhiājīvavipattiyā vā anuvadantānaṃ anuvādo upavadanā ceva codanā ca, idaṃ anuvādādhikaraṇaṃ nāma. Mātikāya āgatā pañca, vibhaṅge dveti sattapi āpattikkhandhā, idaṃ āpattādhikaraṇaṃ nāma. Saṅghassa apalokanādīnaṃ catunnaṃ kammānaṃ karaṇaṃ, idaṃ kiccādhikaraṇaṃ nāma.
Đây là phương thức để giải quyết (bảy cách dàn xếp) — Trước hết, trong số các cuộc tranh tụng, sự tranh luận nào của các vị Tỳ-khưu đang tranh luận với mười tám sự việc (chẳng hạn như) ‘đây là Pháp,’ hoặc ‘đây không phải là Pháp,’ đây được gọi là sự tranh tụng liên quan đến tranh cãi. Sự cáo tội, sự khiển trách và sự rầy la của các vị Tỳ-khưu cáo buộc với sự hư hỏng về giới, hoặc sự hư hỏng về hạnh kiểm, hoặc sự hư hỏng về quan điểm, hoặc sự hư hỏng về nuôi mạng, đây gọi là sự tranh tụng liên quan đến khiển trách. Bảy nhóm tội là đã đến trong 5 nhóm Mẫu đề (và) 2 nhóm trong Phân tích được gọi là sự tranh tụng liên quan đến tội. Việc thực hiện bốn hành sự của Hội chúng như hành sự với lời công bố v.v, đây gọi là sự tranh tụng liên quan đến nhiệm vụ.
Tattha vivādādhikaraṇaṃ dvīhi samathehi sammati sammukhāvinayena ca yebhuyyasikāya ca. Sammukhāvinayeneva sammamānaṃ yasmiṃ vihāre uppannaṃ tasmiṃyeva vā aññattha vūpasametuṃ gacchantānaṃ antarāmagge vā yattha gantvā saṅghassa niyyātitaṃ tattha saṅghena vā saṅghe vūpasametuṃ asakkonte tattheva ubbāhikāya sammatapuggalehi vā vinicchitaṃ sammati. Evaṃ sammamāne ca panetasmiṃ yā saṅghasammukhatā dhammasammukhatā vinayasammukhatā puggalasammukhatā, ayaṃ sammukhāvinayo nāma.
Trong bốn sự tranh tụng đó, sự tranh tụng liên quan đến tranh cãi được làm lắng dịu với hai cách dàn xếp: (1) bằng hành xử Luật với sự hiện diện và (2) thuận theo số đông. Sự tranh tụng được lắng dịu chính bằng sự hành xử Luật với sự hiện diện đã được phát sanh ở Tịnh xá nào (thì) bàn giao lại cho (Hội chúng) ở Tịnh xá ấy; hoặc đi chỗ nào thì bàn giao lại cho Hội chúng ở nơi đó, hoặc ở giữa đường đối với Hội chúng đi để giải quyết (sự tranh tụng) ở nơi khác, với Hội chúng hoặc với nhóm ở nơi ấy không thể giải quyết, được chấp thuận theo sự ủy nhiệm hoặc tất cả mọi người phân xử êm dịu ở tại nơi đó. Sự hiện diện của Hội chúng, sự hiện diện của Pháp, sự hiện diện của Luật, sự hiện diện của nhân sự trong sự tranh tụng được giải quyết bằng biểu hiện như vậy, đây gọi là hành xử Luật với sự hiện diện.
Tattha ca kārakasaṅghassa saṅghasāmaggivasena sammukhībhāvo saṅghasammukhatā. Sametabbassa vatthuno bhūtatā dhammasammukhatā. Yathā taṃ sametabbaṃ, tatheva sammanaṃ vinayasammukhatā. Yo ca vivadati, yena ca vivadati, tesaṃ ubhinnaṃ atthapaccatthikānaṃ sammukhībhāvo puggalasammukhatā. Ubbāhikāya vūpasame panettha saṅghasammukhatā parihāyati. Evaṃ tāva sammukhāvinayeneva sammati.
Ở đấy, Tăng chúng thực hành có sự hiện diện nhờ vào sức mạnh hợp nhất của Hội chúng, điều này gọi là sự hiện diện của Hội chúng. Tính chất sự việc nên được giải quyết gọi là sự hiện diện của Pháp. Sự tranh tụng cần được giải quyết gọi là sự hiện diện của Luật. Vị nào tranh cãi, và vị tranh cãi với ý nghĩa nào đó, có sự hiện diện ý nghĩa của ý nghĩa và đối nghịch cả hai điều ấy, được gọi là sự hiện diện của nhân sự. Nhưng với lối giải quyết tranh tụng theo lối đại biểu, (yếu tố) sự hiện diện của Hội chúng trong trường hợp này bị suy giảm (bị thay đổi). Sự tranh tụng được lắng dịu do sự hành xử Luật với sự hiện diện như vậy trước.
Sace panevampi na sammati, atha naṃ ubbāhikāya sammatā bhikkhū ‘‘na mayaṃ sakkoma vūpasametu’’nti saṅghasseva niyyātenti, tato saṅgho pañcaṅgasamannāgataṃ bhikkhuṃ salākaggāhāpakaṃ sammannati. Tena guḷhakavivaṭakasakaṇṇajappakesu tīsu salākaggāhesu aññataravasena salākaṃ gāhāpetvā sannipatitaparisāya dhammavādīnaṃ yebhuyyatāya yathā te dhammavādino vadanti, evaṃ vūpasantaṃ adhikaraṇaṃ sammukhāvinayena ca yebhuyyasikāya ca vūpasantaṃ hoti.
Nếu như thế sự tranh tụng không lắng dịu, khi ấy vị Tỳ-khưu được chỉ định làm vị đại biểu nên bàn giao sự tranh tụng ấy đến chính Hội chúng: “Chúng tôi không thể giải quyết.” Từ đó, Hội chúng chỉ định vị Tỳ-khưu, vị hội đủ với năm yếu tố trở thành người phân phát thẻ. Vị Tỳ-khưu sau khi được chỉ định phân phát thẻ do tác động của bất kỳ việc phân phát nào trong số ba cách phân phát thẻ chẳng hạn như (cách phân phát thẻ) theo lối kín đáo, (cách phân phát thẻ) theo lối công khai, và (cách phân phát thẻ) với sự nói nhỏ vào tai. Do vị nói đúng Pháp trong Hội chúng đến tụ họp nhiều hơn, người nói đúng Pháp sẽ nói theo cách nào thì sự tranh tụng được giải quyết theo cách đó, trở thành sự giải quyết nhờ vào cách hành xử Luật với sự hiện diện và bằng cách thuận theo số đông.
Tattha sammukhāvinayo vuttanayo eva. Yaṃ pana yebhuyyasikākammassa karaṇaṃ, ayaṃ yebhuyyasikā nāma. Evaṃ vivādādhikaraṇaṃ dvīhi samathehi sammati. Anuvādādhikaraṇaṃ catūhi samathehi sammati – sammukhāvinayena ca sativinayena ca amūḷhavinayena ca tassapāpiyasikāya ca. Sammukhāvinayeneva sammamānaṃ yo ca anuvadati, yañca anuvadati, tesaṃ vacanaṃ sutvā sace kāci āpatti natthi, ubho khamāpetvā, sace atthi, ayaṃ nāmettha āpattīti evaṃ vinicchitaṃ vūpasammati. Tattha sammukhāvinayalakkhaṇaṃ vuttanayameva. Yadā pana khīṇāsavassa bhikkhuno amūlikāya sīlavipattiyā anuddhaṃsitassa sativinayaṃ yācamānassa saṅgho ñatticatutthena kammena sativinayaṃ deti, tadā sammukhāvinayena ca sativinayena ca vūpasantaṃ hoti. Dinne pana sativinaye puna tasmiṃ puggale kassaci anuvādo na rūhati.
Trong trường hợp ấy, sự hành xử Luật với sự hiện diện như đã được trình bày. Hơn nữa, sự thực hiện hành sự thuận theo số đông nào đó, thì điều này được gọi là thuận theo số đông. Sự tranh tụng liên quan đến tranh cãi được lắng dịu với hai sự dàn xếp như vậy. Sự tranh tụng liên quan đến khiển trách được lắng dịu với bốn sự dàn xếp— (1) Nhờ vào cách hành xử Luật với sự hiện diện, (2) cách hành xử Luật với sự ghi nhớ, (3) cách hành xử Luật khi không điên cuồng, và (4) theo tội của vị ấy. Sự tranh tụng được lắng dịu nhờ vào cách hành xử với sự hiện diện (như sau)— vị tinh thông Luật Tạng sau khi lắng nghe lời nói của vị cáo tội và vị bị cáo tội ấy rồi phân xử như vầy: “Nếu một số lỗi lầm, – cho cả hai bên sám hối, – nếu có, trong vấn đề này thì phạm tội này thì (sự tranh tụng) được giải quyết”. Trong sự dàn xếp tranh luận đó, trạng thái hành xử Luật với sự hiện diện có phương thức như đã trình bày. Hơn nữa, vào lúc nào Hội chúng cho hành xử Luật bằng sự ghi nhớ nhờ vào hành sự có lời đề nghị đến lần thứ tư đối với vị Tỳ-khưu là bậc đã cạn kiệt lậu tận, vị bị cáo tội do sự hư hỏng về giới không có nguyên cớ, vị cầu xin hành xử Luật bằng sự ghi nhớ; vào lúc ấy, sự tranh tụng được giải quyết nhờ vào cách hành xử Luật với sự hiện diện và cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ. Mặt khác, khi Hội chúng ban cho cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ, thì sự cáo tội của bất cứ ai cũng (sẽ) không có giá trị đối với vị ấy nữa.
Yadā ummattako bhikkhu ummādavasena assāmaṇake ajjhācāre ‘‘saratāyasmā evarūpiṃ āpatti’’nti bhikkhūhi codiyamāno ‘‘ummattakena me, āvuso, etaṃ kataṃ, nāhaṃ taṃ sarāmī’’ti bhaṇantopi bhikkhūhi codiyamānova puna acodanatthāya amūḷhavinayaṃ yācati, saṅgho cassa ñatticatutthena kammena amūḷhavinayaṃ deti, tadā sammukhāvinayena ca amūḷhavinayena ca vūpasantaṃ hoti. Dinne pana amūḷhavinaye puna tasmiṃ puggale kassaci tappaccayā anuvādo na ruhati.
Vào lúc nào, vị Tỳ khưu bị điên khi thực hành tăng thượng hạnh đó không xứng pháp Sa-môn do tác động của sự điên loạn, trong khi bị các vị Tỳ khưu cáo tội rằng: “Vị Đại đức có nhớ là đã phạm tội như thế này không?” – dù nói rằng: “Này Đại đức, tôi bị điên đã làm việc đó, tôi không nhớ được điều ấy.” (mặc dầu vậy) các vị vẫn cáo tội (vị ấy) thỉnh cầu bằng hành xử Luật khi không điên nhằm mục đích không bị cáo tội nữa, dẫu cho Hội chúng ban cho hành xử Luật khi không điên cuồng đến vị ấy bằng hành sự với lời thông báo đến lần thứ tư, vào lúc đo sự tranh tụng được giải quyết bằng nhờ vào cách hành xử Luật với sự hiện diện và cách hành xử Luật khi không điên cuồng. Tuy nhiên, khi ban cho cách hành xử Luật khi không điên cuồng ấy, nhưng bởi vì sự điên cuồng làm nhân thì sự khiển trách (sẽ) không có giá trị đối với vị ấy nữa.
Yadā pana pārājikena vā pārājikasāmantena vā codiyamānassa aññenaññaṃ paṭicarato pāpussannatāya pāpiyassa puggalassa ‘‘sacāyaṃ acchinnamūlo bhavissati, sammā vattitvā osāraṇaṃ labhissati. Sace chinnamūlo ayamevassa nāsanā bhavissatī’’ti maññamāno saṅgho ñatticatutthena kammena tassapāpiyasikaṃ karoti, tadā sammukhāvinayena ca tassapāpiyasikāya ca vūpasantaṃ hotīti. Evaṃ anuvādādhikaraṇaṃ catūhi samathehi sammati. Āpattādhikaraṇaṃ tīhi samathehi sammati sammukhāvinayena ca paṭiññātakaraṇena ca tiṇavatthārakena ca. Tassa sammukhāvinayeneva vūpasamo natthi. Yadā pana ekassa vā bhikkhuno santike saṅghagaṇamajjhesu vā bhikkhu lahukaṃ āpattiṃ deseti, tadā āpattādhikaraṇaṃ sammukhāvinayena ca paṭiññātakaraṇena ca vūpasammati.
Hơn nữa, vào thời gian nào khi một người bị cáo buộc về tội pārājika hoặc tương tự với tội pārājika, tránh né vấn đề bằng một vấn đề khác, là người ác do có quá nhiều điều ác, Hội chúng trong khi nghĩ rằng: “Nếu như vị này không trở thành người đứt gốc (không còn là Tỳ khưu), hành vi chân chánh, cũng sẽ được gọi vào Hội chúng; nếu như bị đứt gốc, thì việc trục xuất này đây sẽ có đối với chính vị ấy” (như vậy) thực hiện hành xử theo tội của vị ấy bằng hành sự với lời thông báo đến lần thứ tư, vào thời gian đó sự tranh tụng được giải quyết bằng cách hành xử Luật với sự hiện diện và cách hành xử theo tội của vị ấy. Sự tranh tụng liên quan đến khiển trách được lắng dịu bởi bốn cách dàn xếp như vậy. Sự tranh tụng liên quan đến tội được lắng dịu bởi ba cách dàn xếp: (1) bằng cách hành xử Luật với sự hiện diện, (2) bằng việc phán xử theo tội đã được thừa nhận, và (3) bằng cách dùng cỏ che lấp. Sự tranh tụng liên quan đến tội đó không được giải quyết bằng cách hành xử Luật với sự hiện diện mà thôi. Hơn nữa, vào lúc nào vị Tỳ khưu khai báo tội nhẹ trong sự hiện diện của một vị Tỳ khưu hoặc ở giữa Hội chúng; vào lúc đó, sự tranh tụng liên quan đến tội được giải quyết bằng cách hành xử Luật với sự hiện diện và bằng việc phán xử theo tội đã được thừa nhận.
Tattha sammukhāvinaye tāva yo ca deseti, yassa ca deseti, tesaṃ sammukhībhāvo puggalasammukhatā. Sesaṃ vuttanayameva.
Trong hai cách dàn xếp đó, cách hành xử Luật với sự hiện diện trước sự hiện diện của vị sám hối và vị chứng minh gọi là sự hiện diện của nhân sự. Những từ còn lại có cách thức như đã trình bày.
Puggalassa ca gaṇassa ca desanākāle saṅghasammukhatā parihāyati. Yā panettha ahaṃ, bhante, itthannāmaṃ āpattiṃ āpannoti ca āma, passāmīti ca paṭiññā, tāya paṭiññāya ‘‘āyatiṃ saṃvareyyāsī’’ti karaṇaṃ, taṃ paṭiññātakaraṇaṃ nāma. Saṅghādisese hi parivāsādiyācanā paṭiññā. Parivāsādīnaṃ dānaṃ paṭiññātakaraṇaṃ nāma.
Sự hiện diện của Hội chúng bị thay đổi vào lúc sám hối của cá nhân hoặc của nhóm. Tuy nhiên, trong trường hợp này việc thực hiện như sau: “Ngài hãy thu thúc trong tương lai” theo sự thừa nhận rằng: “Thưa ngài, tôi đã phạm tội tên như vầy” và “thưa ngài, có, tôi nhận thấy”, đó gọi là việc phán xử theo tội đã được thừa nhận. Bởi vì, việc xin hình phạt biệt trú v.v, trong tội saṃghādisesa. Việc ban hình phạt biệt trú v.v, theo sự thừa nhận gọi là việc phán xử theo tội đã được thừa nhận.
Dve pakkhajātā pana bhaṇḍanakārakā bhikkhū bahuṃ assāmaṇakaṃ ajjhācaritvā puna lajjidhamme uppanne ‘sace mayaṃ imāhi āpattīhi aññamaññaṃ kāressāma, siyāpi taṃ adhikaraṇaṃ kakkhaḷattāya saṃvatteyyā’ti aññamaññaṃ āpattiyā kārāpane dosaṃ disvā yadā tiṇavatthārakakammaṃ karonti, tadā āpattādhikaraṇaṃ sammukhāvinayena ca tiṇavatthārakena ca sammati.
Ngoài ra, vị Tỳ khưu gây nên sự cãi lộn tạo thành hai phe có nhiều cư xử vượt quá tăng thượng hạnh không xứng pháp Sa-môn, khi sự hổ thẹn sanh khởi trở lại, đã thấy lỗi lầm của việc xử lý lẫn nhau bằng các tội (rằng): “Nếu chúng ta xử lý lẫn nhau bằng các tội này, thỉnh thoảng sự tranh tụng ấy cũng có thể đưa đến sự quá khích” rồi thực hiện hành sự bằng cách dùng cỏ che lấp vào lúc nào, vào lúc ấy sự tranh tụng liên quan đến tội được lắng dịu bằng cách hành xử Luật với sự hiện diện và bằng cách dùng cỏ che lấp.
Tattha hi yattakā hatthapāsūpagatā ‘‘na metaṃ khamatī’’ti evaṃ diṭṭhāvikammaṃ akatvā niddampi okkantā honti, sabbesaṃ ṭhapetvā thullavajjañca gihipaṭisaṃyuttañca sabbāpattiyo vuṭṭhahanti, evaṃ āpattādhikaraṇaṃ tīhi samathehi sammati. Kiccādhikaraṇaṃ ekena samathena sammati sammukhāvinayeneva. Imāni cattāri adhikaraṇāni yathānurūpaṃ imehi sattahi samathehi sammanti. Tena vuttaṃ – uppannuppannānaṃ adhikaraṇānaṃ samathāya vūpasamāya sammukhāvinayo dātabbo …pe… tiṇavatthārakoti. Ayamettha vinicchayanayo. Vitthāro pana samathakkhandhake āgatoyeva. Vinicchayopissa samantapāsādikāyaṃ vutto.
Bởi vì trong vấn đề hành xử bằng cách dùng cỏ che lấp ấy vị Tỳ khưu đã chạm đến chiều dài một tầm tay, không thực hiện quan điểm khác về hành sự “hành sự đó không làm tôi hài lòng” không khơi lại: “hành sự đã làm không tốt, hành sự cần phải làm lại”, là người che giấu, tất cả vi phạm của các Tỳ khưu ngoại trừ tội nghiêm trọng-thullavajja và vi phạm liên quan đến người cư sĩ được loại bỏ, sự tranh tụng liên quan đến tội được lắng dịu bởi 3 cách dàn xếp như đã được giải thích. Sự tranh tụng liên quan đến nhiệm vụ được lắng dịu chỉ với một cách dàn xếp: chỉ bằng cách hành xử Luật với sự hiện diện. Bốn sự tranh tụng này được lắng dịu với bảy cách dàn xếp một cách phù hợp. Vì thế, Ngài mới nói rằng: “Nhằm đưa đến sự giải quyết những tranh tụng đã sanh khởi hoặc chưa sanh khởi, nên áp dụng cách hành xử Luật với sự hiện diện, …nt… cách dùng cỏ che lấp.” Ở đây điều này là cách thức phân xử. Còn chi tiết đã được đề cập trong chương dàn xếp (cūḷava. 185). Thậm chí việc phân xử sự tranh tụng ấy cũng đã được đề cập trong Samantapāsādikāya. (14)
‘‘Ime kho, āvuso’’tiādi vuttanayeneva yojetabbaṃ. Iti cuddasannaṃ sattakānaṃ vasena aṭṭhanavuti pañhe kathento thero sāmaggirasaṃ dassesīti.
“Này các Đại đức, quả thật bảy pháp, v.v,” nên được kết hợp theo phương thức đã được trình bày. Như vậy, Trưởng lão khi trình bày chím mươi tám vấn đề do tác động mười bốn nhóm bảy đã chỉ rõ hương vị của sự hợp nhất là như thế.
Giải thích nhóm bảy được kết thúc
Giải thích nhóm tám
333. Iti sattakavasena sāmaggirasaṃ dassetvā idāni aṭṭhakavasena dassetuṃ puna desanaṃ ārabhi. Tattha micchattāti ayāthāvā micchāsabhāvā. Sammattāti yāthāvā sammāsabhāvā.
333. Sau khi Trưởng lão đã thuyết về hương vị của sự hợp nhất do tác động nhóm bảy là như vậy, bây giờ để thuyết giảng (hương vị của sự hợp nhất) do tác động nhóm tám mới bắt đầu bài thuyết Pháp tiếp theo. Ở đấy, các pháp tà vạy: không chắc chắn, có thực tính sai trái. các pháp chân chánh: chắc chắn, có thực tính đúng đắn. (1-2)
334. Kusītavatthūnīti kusītassa alasassa vatthūni patiṭṭhā kosajjakāraṇānīti attho. Kammaṃ kattabbaṃ hotīti cīvaravicāraṇādikammaṃ kātabbaṃ hoti. Na vīriyaṃ ārabhatīti duvidhampi vīriyaṃ nārabhati. Appattassāti jhānavipassanāmaggaphaladhammassa appattassa pattiyā. Anadhigatassāti tasseva anadhigatassa adhigamatthāya. Asacchikatassāti tasseva apaccakkhakatassa sacchikaraṇatthāya. Idaṃ paṭhamanti idaṃ handāhaṃ nipajjāmīti evaṃ osīdanaṃ paṭhamaṃ kusītavatthu. Iminā nayena sabbattha attho veditabbo. ‘‘Māsācitaṃ maññe’’ti ettha pana māsācitaṃ nāma tintamāso. Yathā tintamāso garuko hoti, evaṃ garukoti adhippāyo. Gilānā vuṭṭhito hotīti gilāno hutvā pacchā vuṭṭhito hoti.
334. Các trường hợp biếng nhác: Các trường hợp (sự việc) là chỗ thiết lập của người lười biếng, tức là kẻ biếng nhác, nguyên nhân của sự biếng nhác là ý nghĩa. Có công việc cần phải làm: Có công việc cần phải làm như việc đo y phục, v.v. Không ra sức tinh tấn: không ra sức tinh tấn, thậm chí cả hai (thân và tâm). Pháp chưa đạt đến: Nhằm mục đích đạt đến pháp chưa đạt đến là Thiền định, Minh sát, Đạo và Quả. Pháp chưa chứng đắc: nhằm mục đích chứng đắc các pháp đó (Thiền định, Minh sát, Đạo và Quả) mà bản thân vẫn chưa chứng đắc. Pháp chưa chứng ngộ: nhằm mục đích chứng ngộ các pháp đó (Thiền định, Minh sát, Đạo và Quả) mà bản thân vẫn chưa chứng ngộ. Đây là trường hợp biếng nhác thứ nhất: việc ngồi xuống (với ý nghĩ) như vầy: “Vậy ta hãy nằm xuống,” được xem là trường hợp biếng nhác thứ nhất. (Bậc sáng trí) nên hiểu ý nghĩa của tất cả các câu theo cách thức này. Hơn nữa, hạt đậu ẩm ướt gọi là hạt đậu bị ngấm nước trong câu “tưởng chừng như hạt đậu bị ngấm nước” này. Giải thích rằng– hạt đậu bị ngấm nước trở nên nặng nề như thế nào, (thân của vị Tỳ-khưu) cũng trở nên nặng nề như thế ấy. Được qua khỏi bệnh: Vị đã lâm bệnh được qua khỏi sau đó. (4)
335. Ārambhavatthūnīti vīriyakāraṇāni. Tesampi imināva nayena attho veditabbo.
335. Các trường hợp ra sức: nguyên nhân của sự tinh tấn. Nên hiểu ý nghĩa (của sự tinh tấn) cũng theo cách thức này tương tự. (5)
336. Dānavatthūnīti dānakāraṇāni. Āsajja dānaṃ detīti patvā dānaṃ deti. Āgataṃ disvāva muhuttaṃyeva nisīdāpetvā sakkāraṃ katvā dānaṃ deti, dassāmi dassāmīti na kilameti. Iti ettha āsādanaṃ dānakāraṇaṃ nāma hoti. Bhayā dānaṃ detītiādīsupi bhayādīni dānakāraṇānīti veditabbāni. Tattha bhayaṃ nāma ayaṃ adāyako akārakoti garahābhayaṃ vā apāyabhayaṃ vā. Adāsi meti mayhaṃ pubbe esa idaṃ nāma adāsīti deti. Dassati meti anāgate idaṃ nāma dassatīti deti. Sāhu dānanti dānaṃ nāma sādhu sundaraṃ, buddhādīhi paṇḍitehi pasatthanti deti. Cittālaṅkāracittaparikkhāratthaṃ dānaṃ detīti samathavipassanācittassa alaṅkāratthañceva parivāratthañca deti. Dānañhi cittaṃ mudukaṃ karoti. Yena laddhaṃ hoti, sopi laddhaṃ meti muducitto hoti, yena dinnaṃ, sopi dinnaṃ mayāti muducitto hoti, iti ubhinnampi cittaṃ mudukaṃ karoti, teneva ‘‘adantadamanaṃ dāna’’nti vuccati. Yathāha –
‘‘Adantadamanaṃ dānaṃ, adānaṃ dantadūsakaṃ;
Dānena piyavācāya, unnamanti namanti cā’’ti.
336. Các nguyên nhân của việc bố thí: các lý do của việc bố thí. Người khiển trách rồi bố thí: Bố thí người đi đến. Là người sau khi thấy (vị Tỳ-khưu khách) đến, chính vào thời điểm ấy đã mời vị ấy ngồi xuống nghỉ ngơi, thể hiện sự tôn kính rồi bố thí, không khó khăn vì nghĩ rằng: “Tôi sẽ bố thí, tôi sẽ bố thí,” như thế, sự hoan hỷ ấy được gọi là nguyên nhân của việc bố thí. Người bố thí vì sợ, v.v, ngay cả trong cụm từ ‘bố thí vì sợ hãi,’ cũng nên hiểu rằng đó là nguyên nhân của việc bố thí. Trong số các nguyên nhân đó, sự sợ hãi từ lời quở trách hoặc sự sợ hãi từ các khổ cảnh rằng: “Người này là người không bố thí, là người không thực hiện (sự tôn kính),” đó được gọi là sự sợ hãi. Họ đã cho tôi: Bố thí (để đền đáp) vì nghĩ rằng– “Trước đây, người ấy đã từng cho tôi vật này.” Họ sẽ cho tôi: Bố thí (để tạo thiện cảm) vì nghĩ rằng– “Trong tương lai, họ sẽ cho vật này (đến tôi)”. Việc bố thí là tốt đẹp: Bố thí vì nghĩ rằng– “Việc bố thí là một hành động tốt đẹp, mang lại lợi ích và được các bậc hiền trí như chư Phật, v.v, ca ngợi. Người bố thí với mục đích bổ túc cho tâm và hỗ trợ cho tâm: Người bố thí nhằm mục đích bổ túc và nhằm mục đích hỗ trợ cho tâm trong Chỉ tịnh và Minh sát. Thật vậy, bố thí làm cho tâm trở nên mềm mại. Người nào nhận được vật phẩm, người ấy sẽ có tâm mềm mại (nghĩ rằng): “Tôi đã nhận được.” Người nào đã bố thí, người ấy cũng có tâm mềm mại (nghĩ rằng): “Tôi đã bố thí.” Như thế, việc bố thí làm cho tâm của cả hai trở nên mềm mại. Chính vì lý do đó, Đức Thế Tôn đã nói: “Bố thí là sự rèn luyện tâm chưa từng được rèn luyện”. Như Đức Thế Tôn đã nói —
Việc bố thí là sự rèn luyện tâm chưa từng được rèn luyện, việc không bố thí là nguyên nhân làm hư hỏng tậm đã được rèn luyện; nhờ vào việc bố thí và với lời nói trìu mến, chúng sanh được thịnh vượng và dễ uốn nắn.
Imesu pana aṭṭhasu dānesu cittālaṅkāradānameva uttamaṃ.
Hơn nữa, trong tám cách bố thí này, chỉ có việc bố thí (nhằm mục đích) bổ túc cho tâm là tối thượng. (6)
337. Dānūpapattiyoti dānapaccayā upapattiyo. Dahatīti ṭhapeti. Adhiṭṭhātīti tasseva vevacanaṃ. Bhāvetīti vaḍḍheti. Hīne vimuttanti hīnesu pañcakāmaguṇesu vimuttaṃ. Uttari abhāvitanti tato uttari maggaphalatthāya abhāvitaṃ. Tatrūpapattiyā saṃvattatīti yaṃ patthetvā kusalaṃ kataṃ, tattha tattha nibbattanatthāya saṃvattati.
337. Các sự tái sanh do duyên bố thí: Kết quả khởi lên do duyên bố thí. Tạo lập: thiết lập. Quyết định: là từ đồng nghĩa của từ ‘tạo lập’ đó. Tu tập: Phát triển. Thiên về cảnh giới thấp thỏi: Hướng đến năm loại dục thấp kém. Không được phát triển cao hơn: Khi đó, (tâm) không được rèn luyện nhằm mục đích đạt được Đạo và Quả cao thượng. Vận hành đưa đến sự tái sanh vào nơi ấy: Sau khi mong muốn (sanh ra) ở nơi nào, thì thiện nghiệp đã được thực hiện; (sẽ) vận hành đưa đến sự tái sanh ở tại nơi đó.
Vītarāgassāti maggena vā samucchinnarāgassa samāpattiyā vā vikkhambhitarāgassa. Dānamatteneva hi brahmaloke nibbattituṃ na sakkā. Dānaṃ pana samādhivipassanācittassa alaṅkāro parivāro hoti. Tato dānena muducitto brahmavihāre bhāvetvā brahmaloke nibbattati. Tena vuttaṃ ‘‘vītarāgassa no sarāgassā’’ti.
Đối với người đã xa lìa luyến ái: Đối với người có luyến ái đã được trừ tuyệt bởi Đạo hoặc đối với người có luyến ái đã được chế ngự bởi các thiền chứng. Thật vậy, chúng sanh không thể sanh vào cõi Phạm Thiên chỉ bằng việc bố thí. Tuy nhiên, việc bố thí là pháp bổ túc và pháp hỗ trợ của tâm trong Chỉ tịnh và Minh sát. Hơn nữa, người có tâm mềm mại do việc bố thí, sau khi đã tu tập (bốn) Phạm Trú, được tái sinh vào cõi Phạm Thiên. Vì thế, Ngài nói rằng– “Đối với người đã xa lìa luyến ái, không phải đối với người còn luyến ái.”
Khattiyānaṃ parisā khattiyaparisā, samūhoti attho. Esa nayo sabbattha.
Hội chúng Sát-đế-lỵ: Tập thể của các vị Sát-đế-lỵ, có nghĩa là ‘nhóm đông’. Cách thức này áp dụng cho các đoạn kế tiếp.
Lokassa dhammā lokadhammā. Etehi mutto nāma natthi, buddhānampi hontiyeva. Vuttampi cetaṃ – ‘‘aṭṭhime, bhikkhave, lokadhammā lokaṃ anuparivattanti, loko ca aṭṭha lokadhamme anuparivattatī’’ti (a. ni. 8.5). Lābho alābhoti lābhe āgate alābho āgato evāti veditabbo. Yasādīsupi eseva nayo.
Pháp thế gian: Các pháp của thế gian. Thông thường, người thoát ra khỏi các pháp thế gian này là không có, ngay cả chư Phật cũng bị ảnh hưởng. Và điều này cũng đã được đức Thế Tôn nói đến rằng– “Tám pháp thế gian này, này các Tỳ-khưu, tùy chuyển theo thế giới, và thế giới cũng tùy chuyển theo tám pháp thế gian này. (a. ni. 8.5); Lợi lộc và không lợi lộc: Khi lợi lộc đến (bậc sáng trí) nên hiểu rằng sự mất mát lợi lộc cũng đến tương tự. Danh vọng và không danh vọng, v.v., cũng có cách thức này tương tự. (9)
338. Abhibhāyatanavimokkhakathā heṭṭhā kathitā eva.
338. Việc thuyết giảng về (tám) lãnh vực chế ngự và (tám) giải thoát đã được trình bày trong các phần trước. (10-11)
‘‘Ime kho, āvuso’’tiādi vuttanayeneva yojetabbaṃ. Iti ekādasannaṃ aṭṭhakānaṃ vasena aṭṭhāsīti pañhe kathento thero sāmaggirasaṃ dassesīti.
“Này các Đại đức, quả thật…” nên được kết hợp theo phương thức đã được trình bày. Như vậy, Trưởng lão khi trình bày tám mươi tám vấn đề do tác động mười một nhóm tám đã chỉ rõ hương vị của sự hợp nhất là như thế.
Giảng giải nhóm tám được kết thúc
Giải thích nhóm chín
340. Iti aṭṭhakavasena sāmaggirasaṃ dassetvā idāni navakavasena dassetuṃ puna desanaṃ ārabhi. Tattha āghātavatthūnīti āghātakāraṇāni. Āghātaṃ bandhatīti kopaṃ bandhati karoti uppādeti.
340. Sau khi Trưởng lão đã thuyết về hương vị của sự hợp nhất do tác động nhóm tám là như vậy, bây giờ để thuyết giảng (hương vị của sự hợp nhất) do tác động nhóm chín mới bắt đầu bài thuyết Pháp tiếp theo. Ở đấy, các nền tảng của oán hận: các nguyên nhân của sự kết oán. Ôm giữ sự oán hận: Trói buộc, làm cho sự tức giận sanh khởi. (1)
Taṃ kutettha labbhāti taṃ anatthacaraṇaṃ mā ahosīti etasmiṃ puggale kuto labbhā, kena kāraṇena sakkā laddhuṃ? Paro nāma parassa attano cittaruciyā anatthaṃ karotīti evaṃ cintetvā āghātaṃ paṭivinodeti. Atha vā sacāhaṃ paṭikopaṃ kareyyaṃ, taṃ kopakaraṇaṃ ettha puggale kuto labbhā, kena kāraṇena laddhabbanti attho. Kuto lābhātipi pāṭho, sacāhaṃ ettha kopaṃ kareyyaṃ, tasmiṃ me kopakaraṇe kuto lābhā, lābhā nāma ke siyunti attho. Imasmiñca atthe tanti nipātamattameva hoti.
Việc ấy có thể đạt được gì ở đây: ‘Thực hành điều bất lợi đó chớ xảy ra,” việc ấy có thể đạt được cho người này từ đâu? (tức là việc ấy) có thể đạt được với lý do gì? Sau khi đã suy nghĩ như vầy: “Có ai làm điều bất lợi theo như ý thích của bản thân cho ai,” rồi xua đi sự thù hận. Hoặc hơn nữa, giải thích rằng— nếu như tôi có thể làm cho sự sân hận để đáp trả, việc ấy tôi có thể đạt được ở đâu nơi người này, hoặc có thể đạt được với lý do gì?” Chánh văn Pāḷi rằng: “Tôi có thể được lợi lộc từ đâu” được giải thích như sau– Nếu như tôi có thể làm cho sự sân hận ở người này, trong khi làm cho sự sân hận ấy, tôi sẽ có được lợi lộc từ đâu? (tức là) có thể có lợi lộc gì? Và từ ‘taṃ’ trong bài Kinh này chỉ là một phân từ. (2)
341. Sattāvāsāti sattānaṃ āvāsā, vasanaṭṭhānānīti attho. Tattha suddhāvāsāpi sattāvāsova, asabbakālikattā pana na gahitā. Suddhāvāsā hi buddhānaṃ khandhāvārasadisā. Asaṅkhyeyyakappe buddhesu anibbattantesu taṃ ṭhānaṃ suññaṃ hotīti asabbakālikattā na gahitā. Sesamettha yaṃ vattabbaṃ, taṃ heṭṭhā vuttameva.
341. Các trú xứ của chúng sanh: Nơi cư ngụ của các chúng sanh, những nơi trú ngụ là ý nghĩa. Trong các trú xứ của chúng sanh ấy, ngay cả (năm) cõi Tịnh Cư cũng là trú xứ của chúng sanh, tuy nhiên Ngài không được liệt kê (ở này) do trạng thái không vận hành trong tất cả mọi thời. Bởi vì, các cõi Tịnh Cư giống như nơi cư ngụ của chư Phật. Vì trong suốt một số a-tăng-kỳ kiếp khi không đức Phật không hiện khởi, ở nơi ấy trở nên trống rỗng. Do đó, Ngài mới không liệt kê (trong các trú xứ của chúng sanh) do trạng thái không vận hành trong tất cả mọi thời. Các từ còn lại trong bài Kinh này, tôi đã trình bày ở phần trước. (3)
342. Akkhaṇesu dhammo ca desiyatīti catusaccadhammo desiyati. Opasamikoti kilesūpasamakaro. Parinibbānikoti kilesaparinibbānena parinibbānāvaho. Sambodhagāmīti catumaggañāṇapaṭivedhagāmī. Aññataranti asaññabhavaṃ vā arūpabhavaṃ vā.
342. Không đúng thời, không đúng dịp— Và Giáo Pháp là được chỉ bảo: Bốn pháp chân lý được đức Thế Tôn chỉ bảo. Đưa đến an tịnh: làm cho các phiền não được an tịnh. Đưa đến Niết Bàn: Đưa đến sự diệt tắt hoàn toàn bởi sự đoạn diệt hoàn toàn phiền não. Có sự đi đến giác ngộ hoàn toàn: Có sự đi đến thấu triệt bằng trí về bốn Đạo. một (tập thể) … nào đó: Cõi Vô tưởng hoặc cõi Vô sắc. (4)
343. Anupubbavihārāti anupaṭipāṭiyā samāpajjitabbavihārā.
343. Các sự an trú theo tuần tự: Các pháp trú nên được đạt được theo tuần tự. (5)
344. Anupubbanirodhāti anupaṭipāṭiyā nirodhā.
344. Các sự diệt tận theo tuần tự: Các sự diệt tận theo tuần tự. (6)
‘‘Ime, kho āvuso’’tiādi vuttanayeneva yojetabbaṃ. Iti channaṃ navakānaṃ vasena catupaṇṇāsa pañhe kathento thero sāmaggirasaṃ dassesīti.
“Này các đại đức, quả thật, v.v.” nên được kết hợp theo phương thức đã được trình bày. Như vậy, Trưởng lão khi trình bày năm mươi bốn vấn đề do tác động sáu nhóm chín đã chỉ rõ hương vị của sự hợp nhất là như thế.
Giải thích về nhóm chín được kết thúc
Giải thích nhóm mười
345. Iti navakavasena sāmaggirasaṃ dassetvā idāni dasakavasena dassetuṃ puna desanaṃ ārabhi. Tattha nāthakaraṇāti ‘‘sanāthā, bhikkhave, viharatha mā anāthā, dasa ime, bhikkhave, dhammā nāthakaraṇā’’ti (a. ni. 10.18) evaṃ akkhātā attano patiṭṭhākarā dhammā.
345. Sau khi Trưởng lão đã thuyết về hương vị của sự hợp nhất do tác động nhóm chín là như vậy, bây giờ để thuyết giảng (hương vị của sự hợp nhất) do tác động nhóm mười mới bắt đầu bài thuyết Pháp tiếp theo. Ở đấy, các pháp tạo thành sự bảo hộ: không chắc chắn, có thực tính sai trái. Các pháp chân chánh: các pháp tạo thành sự bảo hộ cho bản thân, đã được đức Thế Tôn thuyết giảng như vầy: “Này các Tỳ-khưu, hãy sống có sự bảo hộ, chớ sống không có sự bảo hộ, này các Tỳ-khưu mười pháp này là pháp tạo thành sự bảo hộ.” (a. ni. 10.18);
Kalyāṇamittotiādīsu sīlādiguṇasampannā kalyāṇā assa mittāti kalyāṇamitto. Te cassa ṭhānanisajjādīsu saha ayanato sahāyāti kalyāṇasahāyo. Cittena ceva kāyena ca kalyāṇamittesu eva sampavaṅko onatoti kalyāṇasampavaṅko.
Có bạn hữu tốt lành, v.v., có bạn hữu tốt lành— vì những người bạn của người ấy thành tựu về đức hạnh có giới, v.v, là người tốt. Có bạn đồng hành tốt lành— có những người đó là bạn đồng hành bởi vì đi cùng nhau trong các oai nghi như đi, đứng, v.v. Có bạn thâm giao tốt lành— việc hòa nhập với chính những người bạn hữu tốt lành đó hướng đến cả thân và tâm. (1-3)
Suvacohotīti sukhena vattabbo hoti sukhena anusāsitabbo. Khamoti gāḷhena pharusena kakkhaḷena vuccamāno khamati, na kuppati. Padakkhiṇaggāhī anusāsaninti yathā ekacco ovadiyamāno vāmato gaṇhāti, paṭippharati vā asuṇanto vā gacchati, evaṃ akatvā ‘‘ovadatha, bhante, anusāsatha, tumhesu anovadantesu ko añño ovadissatī’’ti padakkhiṇaṃ gaṇhāti.
Là người dễ dậy: Là người có thể nói chuyện dễ dàng, có thể chỉ dạy dễ dàng. Nhẫn nại: Trong lúc bị nói một cách nặng nề, một cách thô lỗ, một cách thô bạo cũng nhẫn nại được, không phẫn nộ. Chấp nhận lời giáo huấn với sự tôn trọng: Như một số người trong khi được chỉ dạy (vị ấy) nắm bắt với sự không tôn trọng, hoặc phản kháng hoặc bỏ đi không nghe, đã không làm như vậy. Thay vào đó, (vị ấy) nắm bắt với sự tôn trọng (như vầy): “Thưa Ngài, xin hãy chỉ dạy và hãy giáo huấn. Trong khi Ngài không chỉ dạy thì còn ai khác sẽ chỉ bảo.” (1-4)
Uccāvacānīti uccāni ca avacāni ca. Kiṃ karaṇīyānīti kiṃ karomīti evaṃ vatvā kattabbakammāni. Tattha uccakammāni nāma cīvarassa karaṇaṃ rajanaṃ cetiye sudhākammaṃ uposathāgāra-cetiyaghara-bodhiyagharesu kattabbanti evamādi. Avacakammaṃ nāma pādadhovanamakkhanādikhuddakakammaṃ. Tatrupāyāyāti tatrupagamanīyā. Alaṃ kātunti kātuṃ samattho hoti. Alaṃ saṃvidhātunti vicāretuṃ samattho.
Các công việc lớn nhỏ: cả (việc) lớn lẫn việc nhỏ. (Công việc lớn nhỏ) nào cần phải làm: Các công việc cần phải làm đã được nói như vầy rằng– ‘tôi sẽ làm gì?’. Trong số những việc đó, việc làm được bắt đầu như việc may y phục, nhuộm y phục, lau dọn Bảo tháp, việc làm cần phải làm ở nhà hành lễ Uposatha, trong khuôn viên Bảo tháp, và ở khuôn viên cội Bồ Đề được gọi là việc lớn. Hành động nhỏ như rửa chân, và thoa dầu được gọi là việc làm nhỏ. Về phương pháp phù hợp: Nên đi đến nơi đó. Có khả năng làm việc: Là người có khả năng để làm việc. Có khả năng sắp xếp: có khả năng để suy xét (là vị có sự mong muốn thuyết giảng cho người khác). (1-5)
Dhamme assa kāmo sinehoti dhammakāmo, tepiṭakaṃ buddhavacanaṃ piyāyatīti attho. Piyasamudāhāroti parasmiṃ kathente sakkaccaṃ suṇāti, sayañca paresaṃ desetukāmo hotīti attho. ‘‘Abhidhamme abhivinaye’’ti ettha dhammo abhidhammo, vinayo abhivinayoti catukkaṃ veditabbaṃ. Tattha dhammoti suttantapiṭakaṃ. Abhidhammoti satta pakaraṇāni. Vinayoti ubhatovibhaṅgā. Abhivinayoti khandhakaparivārā. Atha vā suttantapiṭakampi abhidhammapiṭakampi dhammo eva. Maggaphalāni abhidhammo. Sakalaṃ vinayapiṭakaṃ vinayo. Kilesavūpasamakāraṇaṃ abhivinayo. Iti sabbasmimpi ettha dhamme abhidhamme vinaye abhivinaye ca. Uḷārapāmojjoti bahulapāmojjo hotīti attho.
Có sự yêu mến Pháp: có sự yêu thích, có sự yêu mến trong Pháp của người ấy, giải thích rằng– yêu thích Phật ngôn Tam Tạng. Có sự yêu thích việc nghe và giảng Pháp: Trong khi người khác đang nói thì lắng nghe một cách trân trọng và là tự mình mong muốn thuyết giảng Giáo Pháp đến những người khác. “Thắng Pháp và Thắng Luật”: Ở đây, nên biết nhóm bốn như sau– Pháp, Thắng Pháp, Luật và Thắng Luật. Ở đấy, Pháp: Tạng Kinh. Thắng Pháp: 7 bộ Vi Diệu Tạng. Luật: Phân Tích Luật Lưỡng Phái (Tỳ-khưu và Tỳ-khưu ni). Thắng Luật: Hợp Phần, Tập Yếu. Hoặc hơn nữa, Tạng Kinh và Tạng Thắng Pháp chính là Pháp. Đạo và Quả là Thắng Pháp. Toàn bộ Tạng Luật là Luật. Việc làm vắng lặng các phiền não là Thắng Luật. Bậc sáng trí nên biết giải thích về Pháp, Thắng Pháp, Luật và Thắng Luật này, thậm chí tất cả với cách thức như vậy. Có sự hân hoan tột độ về Thắng Pháp: Là người có rất nhiều sự hân hoan. (1-6)
Kusalesudhammesūti kāraṇatthe bhummaṃ, catubhūmakakusaladhammakāraṇā, tesaṃ adhigamatthāya anikkhittadhuro hotīti attho.
Đối với các thiện pháp: Định sở cách được sử dụng trong ý nghĩa sử dụng cách, bởi lý do thiện pháp được vận hành trong bốn lãnh vực. Giải thích— Là người không buông bỏ nhiệm vụ đưa đến các thiện pháp thiện được vận hành trong bốn lãnh vực ấy. (1-8)
346. Kasiṇadasake sakalaṭṭhena kasiṇāni. Tadārammaṇānaṃ dhammānaṃ khettaṭṭhena vā adhiṭṭhānaṭṭhena vā āyatanāni. Uddhanti upari gaganatalābhimukhaṃ. Adhoti heṭṭhā bhūmitalābhimukhaṃ. Tiriyanti khettamaṇḍalamiva samantā paricchinditvā. Ekacco hi uddhameva kasiṇaṃ vaḍḍheti, ekacco adho, ekacco samantato. Tena tena vā kāraṇena evaṃ pasāreti ālokamiva rūpadassanakāmo. Tena vuttaṃ ‘‘pathavīkasiṇameko sañjānāti uddhaṃ adho tiriya’’nti. Advayanti idaṃ pana ekassa aññabhāvānupagamanatthaṃ vuttaṃ. Yathā hi udakaṃ paviṭṭhassa sabbadisāsu udakameva hoti, na aññaṃ, evameva pathavīkasiṇaṃ pathavīkasiṇameva hoti , natthi tassa añño kasiṇasambhedoti. Esa nayo sabbattha. Appamāṇanti idaṃ tassa tassa pharaṇaappamāṇavasena vuttaṃ. Tañhi cetasā pharanto sakalameva pharati, na ‘‘ayamassa ādi, idaṃ majjha’’nti pamāṇaṃ gaṇhātīti. Viññāṇakasiṇanti cettha kasiṇugghāṭimākāse pavattaviññāṇaṃ. Tattha kasiṇavasena kasiṇugghāṭimākāse kasiṇugghāṭimākāsavasena tattha pavattaviññāṇe uddhaṃ adho tiriyatā veditabbā. Ayamettha saṅkhepo. Kammaṭṭhānabhāvanānayena panetāni pathavīkasiṇādīni vitthārato visuddhimagge vuttāneva.
346. Nhóm mười đề mục kasiṇa– bậc trí nên biết lý giải như sau: đề mục Kasiṇa với ý nghĩa toàn bộ. Các xứ: với ý nghĩa là ranh giới, với ý nghĩa là sự quyết định của các Pháp có đề mục đó làm đối tượng. Ở bên trên: Hướng về khoảng không của bầu trời ở bên trên. Ở bên dưới: Hướng xuống bề mặt quả đất ở bên dưới. Bề ngang: đã xác định xung quanh như cánh đồng tròn. Thật vậy, một số người chỉ phát triển đề mục kasiṇa ở trên, một số người phát triển đề mục ở dưới, một số người phát triển xung quanh. Do đó, một số vị có ý muốn thấy sắc tựa như ánh sáng được lan tỏa như thế hoặc với lý do ấy. Vì thế, Ngài mới nói rằng: “Một người (hành giả) tưởng tri đề mục đất ở bên trên, ở bên dưới và bề ngang (xung quanh).” Không có hai (chỉ một): Hơn nữa, điều này được nói vì mục đích không đi đến trạng thái khác của một hành giả, giống như một người nhảy xuống sông thì bốn bề chỉ toàn là nước, không có gì khác thế nào; đề mục đất cũng tương tự y như thế, là chỉ có đề mục đất, sự lẫn lộn với đề mục khác của hành giả ấy là không có. Tất cả đề mục kasiṇa đều có cách thức này. Không giới hạn (vô lượng): Điều này được nói do tác động lan tỏa không giới hạn của đề mục ấy. Bởi vì, trong khi chuyên chú với tâm, (hành giả) chuyên chú toàn bộ (đề mục ấy), (tức là) không nắm giữ giới hạn– “đây là phần đầu, đây là phần giữa của đề mục ấy.” Và ở đây, đề mục thức: Thức vận hành trong tuyệt tịnh hư không (hư không phủ nhận 9 đề mục). Ở đây, thức đã vận hành trong tuyêt tịnh hư không, trong tuyệt tịnh hư không do tác động của đề mục kasiṇa ấy, (bậc sáng trí) nên biết rằng– đề mục kasiṇa ấy ở bên trên, ở bên dưới và ở bề ngang (xung quanh) trong thức vận hành do tác động tuyệt tịnh hư không. Ở đây điều này là phần tóm tắt. Còn các đề mục kasiṇa như đề mục kasiṇa đất v.v, theo phương pháp tu tập đề mục hành thiền (Nghiệp Xứ) đã được giảng giải chi tiết trong bộ Thanh Tịnh Đạo. (2)
Giải thích về mười đường lối tạo nghiệp bất thiện
347. Kammapathesu kammāneva sugatiduggatīnaṃ pathabhūtattā kammapathā nāma. Tesu pāṇātipāto adinnādānaṃ musāvādādayo ca cattāro brahmajāle vitthāritā eva. Kāmesumicchācāroti ettha pana kāmesūti methunasamācāresu methunavatthūsu vā. Micchācāroti ekantanindito lāmakācāro. Lakkhaṇato pana asaddhammādhippāyena kāyadvārappavattā agamanīyaṭṭhāna-vītikkama-cetanā kāmesumicchācāro.
347. Trong mười đường lối tạo nghiệp bất thiện— chính các nghiệp ấy được gọi là đường lối tạo nghiệp vì là con đường dẫn đến (tái sanh) vào các chốn an vui và đọa xứ. Trong các nghiệp ấy, cả bốn đường lối tạo nghiệp có việc sát hại sinh mạng, việc lấy vật không được cho, việc nói dối, v.v., đã được nói chi tiết trong bài Kinh Brahmajāla. Còn việc tà hạnh trong các dục này– trong các dục: các hành vi sai trái trong các dục, hoặc các cơ sở liên quan đến các dục. Tà hạnh: Những hành vi thấp hèn bị các bậc sáng trí khiển trách hoàn toàn. Còn về trạng thái, ý định vi phạm đến các đối tượng (người nam/nữ) không nên lui tới được diễn biến ở lộ thân với ý muốn phi pháp gọi là hành vi bất chính trong các dục.
Tattha agamanīyaṭṭhānaṃ nāma purisānaṃ tāva māturakkhitā, piturakkhitā, mātāpiturakkhitā, bhāturakkhitā, bhaginirakkhitā, ñātirakkhitā, gottarakkhitā, dhammarakkhitā, sārakkhā, saparidaṇḍāti māturakkhitādayo dasa. Dhanakkītā, chandavāsinī, bhogavāsinī, paṭavāsinī, odapattakinī, obhatacumbaṭā, dāsī ca bhariyā ca, kammakārī ca bhariyā ca, dhajāhaṭā, muhuttikāti etā dhanakkītādayo dasāti vīsati. Itthīsu pana dvinnaṃ sārakkhasaparidaṇḍānaṃ dasannañca dhanakkītādīnanti dvādasannaṃ itthīnaṃ aññe purisā. Idaṃ agamanīyaṭṭhānaṃ nāma. So panesa micchācāro sīlādiguṇarahite agamanīyaṭṭhāne appasāvajjo. Sīlādiguṇasampanne mahāsāvajjo. Tassa cattāro sambhārā agamanīyavatthu, tasmiṃ sevanacittaṃ, sevanappayogo, maggenamaggappaṭipattiadhivāsananti. Eko payogo sāhatthiko eva.
Ở đây, 10 hạng người nữ bất khả xâm phạm là: 1- người nữ được mẹ bảo hộ, 2- người nữ được cha bảo hộ, 3- người nữ được mẹ cha bảo hộ, 4- người nữ có anh hoặc em trai bảo hộ, 5- người nữ có chị hoặc em gái bảo hộ, 6- người nữ được thân quyến bảo hộ, 7- người nữ được dòng họ bảo hộ, 8- người nữ được luân lý bảo hộ, 9- người nữ có sự gìn giữ, 10- người nữ bị quy định hình phạt. Và 10 đối tượng người nữ được mua bằng tài sản là: 1- vợ được mua bằng của cải, 2- vợ sống chung do tự nguyện, 3- vợ sống chung vì tài vật, 4- vợ sống chung vì y phục, 5- vợ được cưới theo nghi thức, 6- vợ do nâng đỡ gánh nặng, 7- vợ hạng nữ tỳ, 8- vợ hạng nhân công, 9- vợ hạng tù binh, 10- vợ trong giây lát. Người nam tuyệt đối không được giao hợp đối với tất cả 20 hạng người nữ [nêu trên]. Thêm nữa, trong số 12 hạng phụ nữ này gồm 2 hạng người nữ là người nữ có sự gìn giữ và người nữ bị quy định hình phạt, và thêm 10 hạng người nữ gồm vợ được mua bằng của cải, v.v, nếu người phụ nữ nào tự ý có quan hệ bất chính với người đàn ông khác (không phải là chồng của mình), thì người phụ nữ ấy phạm điều giới tà dâm. Những hạng người bất khả xâm phạm, tà hạnh có tội nhẹ với hạng người không có giới hạnh, có tội nặng vì hạng người có đầy đủ giới hạnh. Người phạm điều-giới tà-dâm khi hợp đủ 4 chi pháp là: 1- Đối tượng người nữ tuyệt đối không được quan hệ tình dục, 2- Tâm nghĩ sẽ quan hệ với đối tượng trên, 3- Sự cố gắng trong việc hành dâm, 4- việc làm cho con đường này đi vào con đường kia rồi dừng lại. Sự cố gắng chỉ có một là tự mình gắng sức làm.
Abhijjhāyatīti abhijjhā, parabhaṇḍābhimukhī hutvā tanninnatāya pavattatīti attho. Sā ‘‘aho vata idaṃ mamassā’’ti evaṃ parabhaṇḍābhijjhāyanalakkhaṇā adinnādānaṃ viya appasāvajjā mahāsāvajjā ca. Tassā dve sambhārā parabhaṇḍaṃ, attano pariṇāmanañca. Parabhaṇḍavatthuke hi lobhe uppannepi na tāva kammapathabhedo hoti, yāva ‘‘aho vatīdaṃ mamassā’’ti attano na pariṇāmeti.
Tác ý gọi là tham đắm vì chăm chú, tức diễn ra nhằm mục đích hướng tâm vào tài vật của người khác và muốn nó thuộc về mình gọi là tham đắm. Tham lam có trạng thái là nhìn chăm chú vào tài vật của người khác và muốn nó thuộc về mình— ‘Ồ những tài vật sẽ thuộc về mình’. Tham lam đó có tội nặng và tội nhẹ cũng giống như trộm cắp. Tham lam có hai chi là: 1- Tài vật của người khác, 2- Muốn nó thuộc về mình. Khi tham lam sanh khởi, tài vật của người khác làm nhân, nghiệp đạo không bị đứt quãng, tới khi nói rằng lấy [tài vật] vì chính mình— ‘Ồ những tài vật sẽ thuộc về mình’.
Hitasukhaṃ byāpādayatīti byāpādo. So paraṃ vināsāya manopadosalakkhaṇo pharusāvācā viya appasāvajjo mahāsāvajjo ca. Tassa dve sambhārā parasatto ca, tassa vināsacintā ca. Parasattavatthuke hi kodhe uppannepi na tāva kammapathabhedo hoti, yāva ‘‘aho vatāyaṃ ucchijjheyya vinasseyyā’’ti tassa vināsaṃ na cinteti.
Ác pháp gọi là sân hận bởi vì pháp này sẽ hủy hoại sự lợi và ích an lạc. Sân hận này có trạng thái [lakkhaṇa] là hủy hoại người khác. Tội nặng và tội nhẹ của sân hận giống như ác ngữ. Sân hận có hai chi là: 1- Chúng sanh khác. 2- Tâm suy nghĩ hủy diệt chúng sanh ấy. Khi sân hận sanh khởi, có chúng sanh khác làm nhân, nghiệp đạo không bị đứt quãng, suy nghĩ hủy hoại [chúng sanh đó] ‘Ồ chúng sanh này đáng bị huỷ hoại, đáng bị tiêu diệt’.
Yathābhuccagahaṇābhāvena micchā passatīti micchādiṭṭhi. Sā ‘‘natthi dinna’’ntiādinā nayena viparītadassanalakkhaṇā. Samphappalāpo viya appasāvajjā mahāsāvajjā ca. Apica aniyatā appasāvajjā, niyatā mahāsāvajjā. Tassā dve sambhārā vatthuno ca gahitākāraviparītatā, yathā ca taṃ gaṇhāti, tathābhāvena tassūpaṭṭhānanti.
Tà kiến nghĩa là sự thấy sai, bởi vì thấy không đúng theo sự thật. Tà kiến có trạng thái là thấy sai như cho rằng ‘bố thí không có quả báu’. Tội nặng và tội nhẹ của tà kiến cũng giống như ỷ ngữ. Lại nữa, tà kiến nhẹ [bất định] có tội ít, tà kiến nặng [nhất định] có tội nhiều. Tà kiến đó có hai chi là: 1- Việc sái quấy từ trạng thái [ākāra] chấp thủ, và 2- Hiện bày với thực tính đó là chấp chặt vào sự sai lệch ấy.
Imesaṃ pana dasannaṃ akusalakammapathānaṃ dhammato koṭṭhāsato ārammaṇato vedanāto mūlatoti pañcahākārehi vinicchayo veditabbo.
Lại nữa, nên biết phân tích 10 đường lối tạo nghiệp bất thiện này theo năm pháp: 1- theo pháp, 2- theo phân loại, 3- theo đối tượng, 4- theo thọ, 5- theo căn.
Tattha dhammatoti etesu hi paṭipāṭiyā satta, cetanādhammāva honti, abhijjhādayo tayo cetanāsampayuttā.
Ở đây, theo pháp— nên biết rằng sự thật trong tất cả 10 bất nghiệp đạo ấy thì 7 nghiệp đạo đầu [3 thân nghiệp và 4 khẩu nghiệp] là tác ý thuộc về thân, 3 nghiệp đạo còn lại có tham lam vân vân, là tác ý thuộc về tâm.
Koṭṭhāsatoti paṭipāṭiyā satta, micchādiṭṭhi cāti ime aṭṭha kammapathā eva honti, no mūlāni. Abhijjhābyāpādā kammapathā ceva mūlāni ca. Abhijjhā hi mūlaṃ patvā lobho akusalamūlaṃ hoti. Byāpādo doso akusalamūlaṃ.
Theo phân loại— bảy đường lối tạo nghiệp đầu và tà kiến thì tám đường lối tạo nghiệp này chỉ là bất thiện nhưng không thuộc về căn bất thiện, còn tham đắm và sân hận thì cả hai đường lối tạo nghiệp này vừa là nghiệp bất thiện và là căn bất thiện, vì làm căn bất thiện cho nên tham đắm là căn bất thiện tham và sân hận là căn bất thiện sân.
Ārammaṇatoti pāṇātipāto jīvitindriyārammaṇato saṅkhārārammaṇo hoti. Adinnādānaṃ sattārammaṇaṃ vā saṅkhārārammaṇaṃ vā. Micchācāro phoṭṭhabbavasena saṅkhārārammaṇo. Sattārammaṇotipi eke. Musāvādo sattārammaṇo vā saṅkhārārammaṇo vā. Tathā pisuṇā vācā. Pharusā vācā sattārammaṇāva. Samphappalāpo diṭṭhasutamutaviññātavasena sattārammaṇo vā saṅkhārārammaṇo vā, tathā abhijjhā. Byāpādo sattārammaṇova. Micchādiṭṭhi tebhūmakadhammavasena saṅkhārārammaṇā.
Theo đối tượng— sự sát sanh có các hành làm đối tượng, tức mạng quyền làm đối tượng; trộm cắp có chúng sanh làm đối tượng và hành làm đối tượng; tà dâm có hành làm đối tượng do mãnh lực của xúc [Cảnh xúc, phoṭṭhabbārammaṇa gồm đất, lửa, gió]. Một số thầy giáo thọ cho rằng: cũng có chúng sanh làm đối tượng. Nói dối có chúng sanh làm đối tượng và hành làm đối tượng. Nói đâm thọc cũng giống như nói thô ác chỉ có chúng sanh làm đối tượng. Ỷ ngữ [chuyện phiếm,vô ích] có chúng sanh làm đối tượng và hành làm đối tượng do mãnh lực của cảnh sắc đã thấy, cảnh thanh đã nghe, cảnh khí đã ngửi, cảnh vị đã nếm, cảnh xúc đã chạm, và cảnh pháp đã biết; tham lam cũng tương tự; sân hận chỉ lấy duy nhất chúng sanh làm đối tượng; còn tà kiến lấy hành làm đối tượng do mãnh lực của các pháp diễn tiến trong ba cõi.
Vedanātoti pāṇātipāto dukkhavedano hoti. Kiñcāpi hi rājāno coraṃ disvā hasamānāpi ‘‘gacchatha naṃ ghātethā’’ti vadanti, sanniṭṭhāpakacetanā pana dukkhasampayuttāva hoti. Adinnādānaṃ tivedanaṃ. Micchācāro sukhamajjhattavasena dvivedano. Sanniṭṭhāpakacitte pana majjhattavedano na hoti. Musāvādo tivedano. Tathā pisuṇavācā. Pharusavācā dukkhavedanā. Samphappalāpo tivedano. Abhijjhā sukhamajjhattavasena dvivedanā tathā micchādiṭṭhi. Byāpādo dukkhavedano.
Theo các thọ— sát sanh có 1 thọ là thọ khổ. Bởi vì những vị vua sau khi thấy tên trộm đã cười và nói rằng: ‘đi mang hắn đi giết’, mặc dù vậy tâm quyết định của vua lúc ấy cũng là tác ý tương ưng thọ khổ. Trộm cắp có đủ 3 thọ. Tà dâm có hai thọ do mãnh lực của thọ lạc và thọ xả, nhưng không phải xả thọ trong tâm làm sự quyết định. Nói dối có 3 thọ. Nói đâm thọc cũng vậy. Nói thô ác chỉ có một là thọ khổ. Ỷ ngữ có 3 thọ. Tham lam có 2 thọ do mãnh lực của thọ lạc và thọ xả. Tà kiến cũng vậy. [Nhưng] sân hận chỉ có 1 thọ là thọ khổ.
Mūlatoti pāṇātipāto dosamohavasena dvimūlako hoti. Adinnādānaṃ dosamohavasena vā lobhamohavasena vā. Micchācāro lobhamohavasena. Musāvādo dosamohavasena vā lobhamohavasena vā, tathā pisuṇā vācā samphappalāpo ca. Pharusā vācā dosamohavasena. Abhijjhā mohavasena ekamūlā, tathā byāpādo. Micchādiṭṭhi lobhamohavasena dvimūlāti.
Theo căn— việc sát hại sinh mạng có hai căn bất thiện do mãnh lực của sân và si. Trộm cắp có hai căn bất thiện do mãnh lực của sân và si hoặc do mãnh lực của tham và si. Tà dâm có hai căn bất thiện do mãnh lực của tham và si. Nói dối có hai căn bất thiện do mãnh lực của sân và si hoặc do mãnh lực của tham và si. Nói đâm thọc và ỷ ngữ cũng giống như nói dối. Nói thô ác có hai căn bất thiện do mãnh lực của sân và si. Sân hận cũng vậy. Tà kiến có hai căn do mãnh lực của tham và si.
Giải thích mười đường lối tạo nghiệp thiện
Pāṇātipātā veramaṇiādīni samādāna-sampatta-samucchedavirativasena veditabbāni.
Tránh xa việc sát hại sinh mạng, v.v., (bậc sáng trí) nên biết do tác động của sự kiêng tránh do thọ trì, sự kiêng tránh do đối đầu, sự kiêng tránh do đoạn trừ.
Dhammato pana etesupi paṭipāṭiyā satta cetanāpi vattanti viratiyopi. Ante tayo cetanāsampayuttāva.
Theo pháp nghĩa là bảy đường lối tạo nghiệp thiện đầu [theo thứ tự] vừa là tác ý và cả sự kiêng tránh; còn ba đường lối tạo thiện nghiệp sau cùng [3 ý nghiệp] là pháp tương ưng với tác ý.
Koṭṭhāsatoti paṭipāṭiyā satta kammapathā eva, no mūlāni. Ante tayo kammapathā ceva mūlāni ca. Anabhijjhā hi mūlaṃ patvā alobho kusalamūlaṃ hoti. Abyāpādo adoso kusalamūlaṃ. Sammādiṭṭhi amoho kusalamūlaṃ.
Theo phân loại— bảy đường lối tạo nghiệp thiện đầu [theo thứ tự] là đường lối tạo thiện nghiệp nhưng không phải căn [căn thiện]. Ba đường lối tạo thiện nghiệp sau vừa là đường lối tạo thiện nghiệp mà cũng là căn [căn thiện]. Bởi vì không tham lam là đường lối tạo nghiệp thiện mới gọi là vô tham thiện căn, [nhưng] không sân hận được gọi là vô sân thiện căn, còn chánh kiến gọi là vô si thiện căn.
Ārammaṇatoti pāṇātipātādīnaṃ ārammaṇāneva etesaṃ ārammaṇāni. Vītikkamitabbatoyeva hi veramaṇī nāma hoti. Yathā pana nibbānārammaṇo ariyamaggo kilese pajahati, evaṃ jīvitindriyādiārammaṇāpete kammapathā pāṇātipātādīni dussīlyāni pajahantīti veditabbā.
Theo đối tượng— các đối tượng như sát sanh vân vân là đối tượng của sự kiêng tránh [cố ý tránh xa sự sát sanh, vân vân] vì rằng sự kiêng tránh sẽ xảy ra do sự đối đầu với một vật cần phải vượt qua giống như thánh đạo cần phải có Nibbāna làm đối tượng mới đoạn trừ phiền não thế nào; các thiện nghiệp đạo như sát sanh cũng như thế ấy, tức là phải có mạng quyền vân vân làm đối tượng mới từ bỏ được ác giới như sát sanh vân vân.
Vedanātoti sabbe sukhavedanā honti majjhattavedanā vā. Kusalaṃ patvā hi dukkhavedanā nāma natthi.
Theo thọ— tất cả đường lối tạo nghiệp thiện này vừa là lạc thọ và cũng là xả thọ bởi vì thiện không có khổ thọ [đường lối tạo nghiệp thiện sẽ không cho quả khổ].
Mūlatoti paṭipāṭiyā satta ñāṇasampayuttacittena viramantassa alobhaadosaamohavasena timūlāni honti, ñāṇavippayuttacittena viramantassa dvimūlāni. Anabhijjhā ñāṇasampayuttacittena viramantassa dvimūlā, ñāṇavippayuttacittena ekamūlā. Alobho pana attanāva attano mūlaṃ na hoti. Abyāpādepi eseva nayo. Sammādiṭṭhi alobhādosavasena dvimūlā evāti.
Theo căn— bảy đường lối tạo nghiệp thiện đầu sẽ có đủ ba căn do mãnh lực vô tham, vô sân, vô si đối với hạng người tránh xa [ác giới] bằng tâm thiện tương ưng trí; chỉ có hai căn đối với hạng người tránh xa [ác giới] bằng tâm thiện bất tương ưng trí. Không tham lam có hai căn với hạng người tránh xa [ác giới] bằng tâm thiện tương ưng trí; chỉ có một căn đối với hạng người tránh xa [ác giới] bằng tâm thiện bất tương ưng trí. Nhưng vô tham chính nó không thể là căn của mình được, ngay cả ‘không sân hận’ cũng tương tự. Chánh kiến có hai căn do mãnh lực của vô tham và vô sân.
Giải thích mười chỗ cư trú của các bậc Thánh
348. Ariyavāsāti ariyā eva vasiṃsu vasanti vasissanti etesūti ariyavāsā. Pañcaṅgavippahīnoti pañcahi aṅgehi vippayuttova hutvā khīṇāsavo avasi vasati vasissatīti tasmā ayaṃ pañcaṅgavippahīnatā, ariyassa vāsattā ariyavāsoti vutto. Esa nayo sabbattha.
348. Chỗ cư trú của bậc Thánh: Các bậc Thánh ấy đã sống, đang sống, và sẽ sống trong những pháp đó, vì vậy những pháp đó được gọi là chỗ cư trú của bậc Thánh. (Vị Tỳ-khưu) được tách rời năm yếu tố: Vị không phối hợp với năm yếu tố, bậc Lậu Tận đã sống, đang sống, và sẽ sống [trong trạng thái này]. Do nguyên nhân này đây, trạng thái vị từ bỏ năm yếu tố này, được gọi là chỗ cư trú của bậc Thánh bởi trạng thái an trú của các bậc Thánh. Cách thức này áp dụng cho các đoạn kế tiếp. (5-1)
Evaṃ kho, āvuso, bhikkhu chaḷaṅgasamannāgato hotīti chaḷaṅgupekkhāya samannāgato hoti. Chaḷaṅgupekkhā nāma keti? Ñāṇādayo. ‘‘Ñāṇa’’nti vutte kiriyato cattāri ñāṇasampayuttacittāni labbhanti. ‘‘Satatavihāro’’ti vutte aṭṭha mahācittāni. ‘‘Rajjanadussanaṃ natthī’’ti vutte dasa cittāni labbhanti. Somanassaṃ āsevanavasena labbhati.
Này các đại đức, vị Tỳ-khưu được hội đủ sáu yếu tố như vậy: Được hội đủ bởi sáu yếu tố hành xả. Pháp gì được gọi là sáu yếu tố hành xả? Pháp có trí, v.v, (được gọi là sáu yếu tố hành xả). Trong khi nói rằng “trí” đạt được bởi tâm tố ở bốn tâm tương ưng trí. Trong khi nói rằng “sự an trú thường xuyên” đạt được với tám tâm đại thiện. Trong khi nói rằng “sự nhơ nhuốc và sự hư hỏng” đạt được với mười thứ tâm. Hỷ tâm đạt được do tác động của trùng dụng duyên. (5-2)
Satārakkhena cetasāti khīṇāsavassa hi tīsu dvāresu sabbakālaṃ sati ārakkhakiccaṃ sādheti. Tenevassa ‘‘carato ca tiṭṭhato ca suttassa ca jāgarassa ca satataṃ samitaṃ ñāṇadassanaṃ paccupaṭṭhitaṃ hotī’’ti vuccati.
Tâm có sự bảo hộ bởi niệm: Thật vậy, niệm làm phận sự bảo hộ được hoàn thành ở mọi thời trong ba môn (thân, khẩu, ý) của bậc Lậu Tận. Do chính nguyên nhân ấy, Ngài nói rằng– “Đối với ta, trong khi đi, trong khi đứng, trong khi ngủ, trong khi thức, tri kiến của ta luôn luôn được tập trung.” (5-3)
Puthusamaṇabrāhmaṇānanti bahūnaṃ samaṇabrāhmaṇānaṃ. Ettha ca samaṇāti pabbajjupagatā. Brāhmaṇāti bhovādino. Puthupaccekasaccānīti bahūni pāṭekkasaccāni, idameva dassanaṃ saccaṃ, idameva dassanaṃ saccanti evaṃ pāṭiyekkaṃ gahitāni bahūni saccānīti attho. Nunnānīti nihatāni. Paṇunnānīti suṭṭhu nihatāni. Cattānīti vissaṭṭhāni. Vantānīti vamitāni. Muttānīti chinnabandhanāni katāni. Pahīnānīti pajahitāni. Paṭinissaṭṭhānīti yathā na puna cittaṃ āruhanti, evaṃ paṭinissajjitāni. Sabbāneva tāni gahitaggahaṇassa vissaṭṭhabhāvavevacanāni.
Của nhiều Sa-môn và Bà-la-môn: Của nhiều Sa-môn và Bà-la-môn. Và ở đây, Sa-môn: đã đi đến đời sống xuất gia. Bà-la-môn: người nào xưng hô với từ ‘Ông’. Có nhiều chân lý độc đoán: Có nhiều chân lý độc đoán, giải thích rằng— nhiều chân lý được nắm giữ độc đoán như vầy rằng ‘chỉ sự thấy này là chân lý, chỉ sự thấy này là chân lý’. Đã được dẹp đi: bị loại ra khỏi. Đã được xua bỏ hẳn: bị loại ra khỏi một cách tốt đẹp. Đã được từ bỏ: đã được buông bỏ. Đã được tẩy trừ: đã được nôn ra. Đã được giải thoát: Thực hiện việc cắt đứt mọi sự ràng buộc. Đã được dứt bỏ: đã được từ bỏ. Đã được xả bỏ: (phiền não) không khởi lên trong tâm nữa thế nào, (những quan điểm ấy) được xả bỏ tương tự như thế. Toàn bộ những lời ấy đều là những từ đồng nghĩa về trạng thái buông bỏ khỏi sự chấp thủ (quan điểm) đã được nắm giữ. (5-5)
Samavayasaṭṭhesanoti ettha avayāti anūnā. Saṭṭhāti vissaṭṭhā. Sammā avayā saṭṭhā esanā assāti samavayasaṭṭhesano. Sammā vissaṭṭhasabbaesanoti attho.
Có sự tầm cầu đã hoàn toàn vứt bỏ— Ở đây, đầy đủ: không thiếu sót. Vứt bỏ: đã từ bỏ. (Bậc sáng trí nên biết rằng) sự tầm cầu đã được vứt bỏ đúng đắn; vì lý do đó, hạng người ấy được gọi là có sự tầm cầu đã được hoàn toàn vứt bỏ. Giải thích rằng– có tất cả sự tầm cầu đều đã được từ bỏ một cách chân chánh. (5-6)
Rāgā cittaṃ vimuttantiādīhi maggassa kiccanipphatti kathitā.
Có tâm khéo được giải thoát khỏi luyến ái: Nói đến sự thành tựu phận sự của Đạo. (5-9)
Rāgome pahīnotiādīhi paccavekkhaṇāya phalaṃ kathitaṃ.
Sự luyến ái của ta là đã được dứt bỏ, v.v, Ngài nói đến Quả của trí về quán xét lại. (5-10)
Giải thích mười pháp của bậc Vô Học
Asekkhā sammādiṭṭhītiādayo sabbepi phalasampayuttadhammā eva. Ettha ca sammādiṭṭhi, sammāñāṇanti dvīsu ṭhānesu paññāva kathitā. Sammāvimuttīti iminā padena vuttāvasesā phalasamāpattidhammā saṅgahitāti veditabbā.
Tất cả các pháp được bắt đầu rằng “chánh kiến của bậc Vô Học, v.v.,” có pháp tương ưng với Quả. Và các pháp này, chỉ có Tuệ được Ngài Tướng quân Chánh pháp nói liên quan hai sự kiện này là chánh kiến, (và) chánh trí. Các pháp là sự thể nhập Quả còn lại đã được (đức Thế Tôn) thuyết giảng (bậc sáng trí) nên hiểu – (Trưởng lão) đã nhiếp hợp lại với câu này: chánh giải thoát.
‘‘Ime kho, āvuso’’tiādi vuttanayeneva yojetabbaṃ. Iti channaṃ dasakānaṃ vasena samasaṭṭhi pañhe kathento thero sāmaggirasaṃ dassesīti.
“Này các đại đức, quả thật, v.v.” nên được kết hợp theo phương thức đã được trình bày. Như vậy, Trưởng lão khi trình bày sáu mươi vấn đề do tác động sáu nhóm mười đã chỉ rõ hương vị của sự hợp nhất là như thế.
Giải thích nhóm mười được kết thúc
349. Idha pana ṭhatvā pañhā samodhānetabbā. Imasmiñhi sutte ekakavasena dve pañhā kathitā. Dukavasena sattati. Tikavasena asītisataṃ. Catukkavasena dvesatāni. Pañcakavasena tiṃsasataṃ. Chakkavasena bāttiṃsasataṃ. Sattakavasena aṭṭhanavuti. Aṭṭhakavasena aṭṭhāsīti. Navakavasena catupaṇṇāsa. Dasakavasena samasaṭṭhīti evaṃ sahassaṃ cuddasa pañhā kathitā.
349. Hơn nữa, vị Tỳ-khưu đã an trú trong Giáo Pháp này, cần được tổng hợp lại các vấn đề (như sau) — Thật vậy, trong bài Kinh này, Ngài nói— hai (2) vấn đề do tác động nhóm một; bảy mươi (70) vấn đề do tác động của nhóm hai; một trăm tám mươi (180) vấn đề do tác động nhóm ba; hai trăm (200) vấn đề do tác động nhóm bốn; một trăm ba mươi (130) vấn đề do tác động các nhóm năm; một trăm ba mươi hai (132) vấn đề do tác động các nhóm sáu; chín mươi tám (98) vấn đề do tác động các nhóm bảy; tám mươi tám (88) vấn đề do tác động các nhóm tám; năm mươi bốn (54) vấn đề do tác động các nhóm chín; sáu mươi (60) vấn đề do tác động các nhóm mười; Như vậy, có tổng cộng một nghìn không trăm mười bốn (1,014) vấn đề đã được đề cập.
Imañhi suttantaṃ ṭhapetvā tepiṭake buddhavacane añño suttanto evaṃ bahupañhapaṭimaṇḍito natthi. Bhagavā imaṃ suttantaṃ ādito paṭṭhāya sakalaṃ sutvā cintesi– ‘‘dhammasenāpati sāriputto buddhabalaṃ dīpetvā appaṭivattiyaṃ sīhanādaṃ nadati. Sāvakabhāsitoti vutte okappanā na hoti, jinabhāsitoti vutte hoti, tasmā jinabhāsitaṃ katvā devamanussānaṃ okappanaṃ imasmiṃ suttante uppādessāmī’’ti. Tato vuṭṭhāya sādhukāraṃ adāsi. Tena vuttaṃ ‘‘atha kho bhagavā vuṭṭhahitvā āyasmantaṃ sāriputtaṃ āmantesi, sādhu, sādhu, sāriputta, sādhu kho tvaṃ sāriputta, bhikkhūnaṃ saṅgītipariyāyaṃ abhāsī’’ti.
Thật vậy, ngoại trừ bài Kinh này, không có bài kinh nào khác trong Phật ngôn Tam Tạng được điểm tô với nhiều vấn đề như vậy. Đức Thế Tôn sau khi lắng nghe toàn bộ bài Kinh này từ đầu, Ngài đã nghĩ rằng— “Tướng quân Chánh pháp Sāriputta sau khi tuyên bố về sức mạnh của đức Phật, đã rống lên tiếng rống sư tử khi đang chuyển vận (pháp ấy). Trong khi nói rằng ‘bài Kinh này là được giảng bởi các vị Thinh Văn’ thì sự tín nhiệm (sẽ) không có, nhưng khi nói rằng ‘bài Kinh này là được giảng giải bởi đấng Chiến Thắng’ thì sự tín nhiệm sẽ có; Vì lý do đó, Ta đã biến bài Kinh này trở thành bài Kinh được thuyết giảng bởi đấng Chiến Thắng, làm cho sự tín nhiệm sẽ khởi lên đối với chư Thiên và nhân loại trong bài Kinh này.” Sau khi đứng dậy từ chỗ đó (Ngài) đã ban lời tán thán. Do đó, Ngài mới nói rằng— “Khi ấy, đức Thế Tôn đã đứng dậy và bảo Đại đức Sāriputta rằng: “Tốt lắm, tốt lắm, này Sāriputta! Quả thật tốt lắm, này Sāriputta, ông đã thuyết bài giảng Hợp Tụng cho các Tỳ-khưu.”
Tattha saṅgītipariyāyanti sāmaggiyā kāraṇaṃ. Idaṃ vuttaṃ hoti – ‘‘sādhu, kho tvaṃ, sāriputta, mama sabbaññutaññāṇena saṃsanditvā bhikkhūnaṃ sāmaggirasaṃ abhāsī’’ti. Samanuñño satthā ahosīti anumodanena samanuñño ahosi. Ettakena ayaṃ suttanto jinabhāsito nāma jāto. Desanāpariyosāne imaṃ suttantaṃ manasikarontā te bhikkhū arahattaṃ pāpuṇiṃsūti.
Ở đấy, bài giảng Hợp Tụng: Lý do đưa đến sự hòa hợp. Điều này đã được nói— “Quả thật tốt lắm, này Sāriputta, sau khi đối chiếu với Trí Toàn Giác của Ta, ông đã thuyết bài giảng Hợp Tụng cho các Tỳ-khưu.” Khi bậc Đạo Sư đã chấp thuận: (bậc Đạo Sư) đã chấp thuận với lời tùy hỷ. Bài Kinh này mới trở thành bài Kinh được thuyết giảng bởi đấng Chiến Thắng chỉ với chừng ấy. Đến khi chấm dứt bài thuyết giảng, các vị Tỳ-khưu ấy trong khi tác ý đến bài Kinh này đã chứng đắc bản thể A-ra-hán.
Giải thích Kinh Hợp Tụng được kết thúc – Kinh thứ mười (10).
Trong Chú Giải Trường Bộ Kinh là Sumaṅgalavilāsī.