Giải Thích Kinh Đại Hội

(Mahāsamayasuttavaṇṇanā (20))

Xem Trường Bộ Kinh – Kinh Đại Hội

  1. Evaṃ me sutanti mahāsamayasuttaṃ. Tatrāyamapubbapadavaṇṇanā — sakkesūti ambaṭṭhasutte vuttena uppattinayena “sakyā vata, bho kumārā”ti udānaṃ paṭicca sakkāti laddhanāmānaṃ rājakumārānaṃ nivāso ekopi janapado ruḷhīsaddena “sakkā”ti vuccati, tasmiṃ sakkesu janapade. Mahāvaneti sayaṃjāte aropite himavantena saddhiṃ ekābaddhe mahati vane. Sabbeheva arahantehīti imaṃ suttaṃ kathitadivaseyeva pattārahattehi.
    Kinh Đại Hội được bắt đầu như sau ‘Tôi đã nghe như vầy…’ Dưới đây là sự giải thích chi tiết các đoạn chưa được rõ ràng trong bài Kinh Đại Hội đó – tại xứ sở của dòng họ Sakya: vùng đất chính là nơi của các vương tử thuộc dòng dõi Sakya bởi vì dựa vào lời cảm hứng rằng: “Các hoàng tử quả thật là những Sakya” theo cách thức sanh khởi được nói trong bài Kinh Ambaṭṭha cũng gọi là các Sakya ở xứ sở của dòng họ Sakya ấy. Ở khu rừng lớn (Đại Lâm): là một khu rừng lớn, mọc tự nhiên, không phải rừng trồng, sát bên núi Hy Mã Lạp. Tất cả đều là các bậc A-ra-hán: Đã chứng đạt quả vị A-ra-hán đã được nói trong chính bài Kinh.

Tatrāyaṃ anupubbikathā – sākiyakoliyā kira kapilavatthunagarassa ca koliyanagarassa ca antare rohiṇiṃ nāma nadiṃ ekeneva āvaraṇena bandhāpetvā sassāni karonti, atha jeṭṭhamūlamāse sassesu milāyantesu ubhayanagaravāsikānampi kammakarā sannipatiṃsu. Tattha koliyanagaravāsino āhaṃsu – ‘‘Idaṃ udakaṃ ubhato hariyamānaṃ na tumhākaṃ na amhākaṃ pahossati, amhākaṃ pana sassaṃ ekena udakeneva nipphajjissati, idaṃ udakaṃ amhākaṃ dethā’’ti. Kapilavatthunagaravāsino āhaṃsu – ‘‘tumhesu koṭṭhe pūretvā ṭhitesu mayaṃ rattasuvaṇṇanīlamaṇikāḷakahāpaṇe ca gahetvā pacchipasibbakādihatthā na sakkhissāma tumhākaṃ gharadvāre vicarituṃ, amhākampi sassaṃ ekeneva udakena nipphajjissati, idaṃ udakaṃ amhākaṃ dethā’’ti. ‘‘Na mayaṃ dassāmā’’ti. ‘‘Mayampi na dassāmā’’ti. Evaṃ kalahaṃ vaḍḍhetvā eko uṭṭhāya ekassa pahāraṃ adāsi, sopi aññassāti evaṃ aññamaññaṃ paharitvā rājakulānaṃ jātiṃ ghaṭṭetvā kalahaṃ vaḍḍhayiṃsu.

Kể từ đây là trình tự lời nói – Nghe rằng: dân chúng Sakka và dân chúng Koliyā đã cùng nhau ngăn dòng sông tên là Rohiṇī ở giữa thành phố Kapilavatthu và thành phố Koliya chỉ với một con đập và sau đó gieo hạt, rồi vào đầu tháng bảy, khi cây mạ bắt đầu héo, những người làm công của hai thành phố đã tụ hội lại với nhau. Trong cuộc tụ hội đó, người dân thành phố Koliya nói rằng: – “Nếu lượng nước này khi bị cả hai dòng nước cuốn đi, các ông sẽ không đủ và chúng tôi cũng sẽ không đủ. Nhưng cây lúa của chúng tôi sẽ mọc lên chỉ với một lần, xin các ông hãy cho nước đến chúng tôi.” Dân chúng thành phố Kapilavatthu nói rằng: “Khi các ông đã đổ đầy lúa vào kho, chúng tôi cũng sẽ không mang vàng, ngọc ma-ni trắng và đồng tiền bạc, tay cầm giỏ tre và cái cày, v.v, đi gần cổng nhà của các ông được, cây mạ của chúng tôi cũng sẽ mọc lên chỉ với nước một lần tương tự. Vì vậy, xin các bạn hãy cho nước này đến chúng tôi. “Chúng tôi không thể cho.” “Đến chúng tôi cũng không thể cho.” Khi cuộc tranh cãi kéo dài như vậy, một người đã đứng dậy đánh vào một người, cả người ấy cũng đánh vào người khác, cả hai bên đã đánh nhau như vậy và cuộc tranh cãi đã kéo dài, cho đến khi làm ảnh hưởng đến dòng dõi của hoàng tộc.

Koliyakammakarā vadanti – ‘‘tumhe kapilavatthuvāsike gahetvā gajjatha, ye soṇasiṅgālādayo viya attano bhaginīhi saddhiṃ saṃvasiṃsu. Etesaṃ hatthino ca assā ca phalakāvudhāni ca amhākaṃ kiṃ karissantī’’ti? Sākiyakammakarāpi vadanti – ‘‘tumhe dāni kuṭṭhino dārake gahetvā gajjatha, ye anāthā niggatikā tiracchānā viya kolarukkhe vasiṃsu, etesaṃ hatthino ca assā ca phalakāvudhāni ca amhākaṃ kiṃ karissantī’’ti? Te gantvā tasmiṃ kamme niyutta-amaccānaṃ kathesuṃ, amaccā rājakulānaṃ kathesuṃ, tato sākiyā – ‘‘bhaginīhi saddhiṃ saṃvāsikānaṃ thāmañca balañca dassessāmā’’ti yuddhasajjā nikkhamiṃsu. Koliyāpi – ‘‘kolarukkhavāsīnaṃ thāmañca balañca dassessāmā’’ti yuddhasajjā nikkhamiṃsu.

Những người công nhân phía Koliya nói rằng – “Các ngươi hãy mang những người dân Kapilavatthu, những kẻ giao hợp với chị em gái của mình, giống như chó và cáo, v.v. cho đến cả voi, ngựa, khiên và vũ khí của họ sẽ làm gì được chúng ta?” Những người công nhân phía Sakya nói rằng – “Các ngươi hãy đưa những đứa trẻ bị bệnh phong, những kẻ vô gia cư không nơi nương tựa, sống dưới gốc cây táo như loài thú, đi ngay đi, dù có voi, ngựa, khiên và vũ khí của họ sẽ làm gì được chúng ta?” Sau khi trở về, họ đã báo lại với các viên quan đại thần liên quan đến việc đó, các viên quan đại thần tâu lên các vị dòng dõi hoàng tộc, khi đó, các vị Sakya nói rằng – “Chúng ta sẽ thể hiện sức mạnh và quyền lực của những kẻ giao hợp cùng với chị em gái” và tập hợp (quân lực) để chuẩn bị cho cuộc chiến. Còn những người Koliya nói rằng – “Họ sẽ thể hiện sức mạnh và quyền lực của những kẻ sống dưới gốc cây táo” và tập hợp (quân lực) để chuẩn bị cho cuộc chiến.”

Bhagavāpi rattiyā paccūsasamayeva mahākaruṇā-samāpattito vuṭṭhāya lokaṃ volokento ime evaṃ yuddhasajje nikkhamante addasa. Disvā – ‘‘mayi gate ayaṃ kalaho vūpasamissati nu kho udāhu no’’ti upadhārento – ‘‘ahamettha gantvā kalahavūpasamanatthaṃ tīṇi jātakāni kathessāmi, tato kalaho vūpasamissati. Atha sāmaggidīpanatthāya dve jātakāni kathetvā attadaṇḍasuttaṃ desessāmi. Desanaṃ sutvā ubhayanagaravāsinopi aḍḍhatiyāni aḍḍhatiyāni kumārasatāni dassanti, ahaṃ te pabbajissāmi, tadā mahāsamāgamo bhavissatī’’ti sanniṭṭhānamakāsi. Tasmā imesu yuddhasajjesu nikkhamantesu kassaci anārocetvā sayameva pattacīvaramādāya gantvā dvinnaṃ senānaṃ antare ākāse pallaṅkaṃ ābhujitvā chabbaṇṇarasmiyo vissajjetvā nisīdi.

Về phía đức Thế Tôn, vào lúc trời gần sáng, ngài đã xuất khỏi sự thể nhập đại bi định, trong khi quan sát thế giới ngài đã nhìn thấy những người này đang chuẩn bị xuất  binh ra trận. Sau khi nhìn thấy, ngài cũng đã quán xét rằng: “Khi ta đi thì cuộc tranh cãi này sẽ được giải quyết hay không?” Ngài đã đưa ra quyết định rằng – “Sau khi đi đến đó, ta sẽ thuyết ba câu chuyện Bổn Sanh để ngăn chặn cuộc tranh cãi. Sau đó, cuộc tranh cãi sẽ lắng dịu xuống. Kế tiếp đó, để làm sáng tỏ sự hợp nhất, ta sẽ thuyết giảng thêm hai câu chuyện Bổn Sanh rồi thuyết giảng bài Kinh Uế Hạnh của Bản Thân. Sau khi nghe Pháp thoại dân chúng của hai thành phố sẽ cho hai trăm năm mươi hoàng tử ở mỗi bên và ta sẽ cho những đứa trẻ đó xuất gia, khi đó sẽ có một cuộc đại hội.” Vì thế, khi họ đang chuẩn bị quân lính xuất trận, không thông báo cho bất cứ ai chính ngài đắp y và mang bát, đi đến ngồi xuống, xếp chân thế kiết già, tỏa hào quang sáu màu ở không trung giữa hai đội quân.”

Kapilavatthuvāsino bhagavantaṃ disvāva – ‘‘amhākaṃ ñātiseṭṭho satthā āgato, diṭṭho nu kho tena amhākaṃ kalahakāraṇabhāvo’’ti cintetvā – ‘‘na kho pana sakkā bhagavati āgate amhehi parassa sarīre satthaṃ pātetuṃ, koliyanagaravāsino amhe hanantu vā pacantu vā’’ti āvudhāni chaḍḍetvā bhagavantaṃ vanditvā nisīdiṃsu. Koliyanagaravāsinopi tatheva cintetvā āvudhāni chaḍḍetvā bhagavantaṃ vanditvā nisīdiṃsu.

Khi dân chúng thành phố Kapilavatthu vừa nhìn thấy đức Thế Tôn, họ đã nghĩ rằng – “Bậc Đạo Sư là thân quyến cao quý của chúng ta đã đến, ngài đã nhìn thấy nguyên nhân sự xung đột của chúng ta không? Rồi nghĩ rằng – “Và hơn nữa, trong khi đức Thế Tôn đã đến, chúng ta hoàn toàn không thể dùng vũ khí chạm đến thân thể của người khác,” khi đó họ đã quăng bỏ vũ khí, ngồi xuống và đảnh lễ đức Thế Tôn. Dân chúng thành phố Koliya cũng suy nghĩ như thế nên đã bỏ quăng bỏ vũ khí, ngồi xuống và đã đảnh lễ đức Thế Tôn.

Bhagavā jānantova – ‘‘kasmā āgatattha mahārājā’’ti pucchi. Bhagavā, na titthakīḷāya na pabbatakīḷāya na nadīkīḷāya na giridassanatthaṃ, imasmiṃ pana ṭhāne saṅgāmaṃ paccupaṭṭhapetvā āgatamhāti. Kiṃ nissāya vo kalaho mahārājāti? Udakaṃ, bhanteti. Udakaṃ kiṃ agghati mahārājāti? Appagghaṃ, bhanteti. Pathavī nāma kiṃ agghati mahārājāti? Anagghā, bhanteti. Khattiyā kiṃ agghanti mahārājāti? Khattiyā nāma anagghā bhanteti. Appamūlakaṃ udakaṃ nissāya kimatthaṃ anagghe khattiye nāsetha, mahārājāti? ‘‘Kalahe assādo nāma natthi, kalahavasena mahārājā aṭṭhāne veraṃ katvā ekāya rukkhadevatāya kāḷasīhena saddhiṃ baddhāghāto sakalampi imaṃ kappaṃ anuppatto-yevā’’ti vatvā phandanajātakaṃ kathesi.

Mặc dù đã biết rõ nhưng đức Phật vẫn hỏi rằng: “Thưa Đại Vương! Các ngài đến đây để làm gì?” – Bạch đức Thế Tôn! Chúng tôi đến đây không phải để chơi ở bến nước, không phải để vui chơi ở trên núi, không phải để vui chơi trên sông, không phải để ngắm nhìn núi, mà đến để chiến đấu. – Này Đại Vương! Vì lý do gì các ngài lại tranh cãi với nhau? – Vì nước, thưa đức Phật. – Nước có giá trị bao nhiêu, thưa Đại Vương? – Nước có giá trị ít, bạch ngài. – Thưa Đại Vương, gọi là đất thì có giá trị bao nhiêu? – Đất không thể định giá được, bạch ngài. – Gọi là Sát-đế-lỵ thì có giá trị bao nhiêu, thưa các ngài?” – Gọi là Sát-đế-lỵ thì không thể định giá được, bạch ngài.” Đức Thế Tôn mới nói rằng: Thưa Đại Vương! Các vị vì lý do nước có ít giá trị ít rồi làm cho (dòng dõi) Sát-đế-lỵ không thể định giá bị hủy hoại để làm gì? Rồi ngài tiếp tục nói rằng: “Chắc chắn, không có sự thỏa mãn trong cuộc tranh cãi, này các Đại Vương! do tác động của sự tranh cãi, một vị thần cây đã tạo sự thù nghịch tại nơi không thích hợp và với một con sư tử đen đã kết oan trái đến trọn một kiếp,” rồi ngài thuyết về Bổn Sanh Cây Phandana.

Tato ‘‘parapattiyena nāma mahārājā na bhavitabbaṃ. Parapattiyā hutvā hi ekassa sasakassa kathāya tiyojanasahassavitthate himavante catuppadagaṇā mahāsamuddaṃ pakkhandino ahesuṃ. Tasmā parapattiyena na bhavitabba’’nti vatvā pathavīundriyajātakaṃ kathesi. Tato – ‘‘kadāci, mahārājā, dubbalopi mahabbalassa randhaṃ vivaraṃ passati, kadāci mahabbalo dubbalassa. Laṭukikāpi hi sakuṇikā hatthināgaṃ ghātesī’’ti vatvā laṭukikajātakaṃ kathesi. Evaṃ kalahavūpasamatthāya tīṇi jātakāni kathetvā sāmaggiparidīpanatthāya dve jātakāni kathesi. Kathaṃ? Samaggānañhi mahārājā koci otāraṃ nāma passituṃ na sakkotīti vatvā rukkhadhammajātakaṃ kathesi. Tato ‘‘samaggānaṃ mahārājā koci vivaraṃ passituṃ nāsakkhi. Yadā pana aññamaññaṃ vivādamakaṃsu, atha te nesādaputto jīvitā voropetvā ādāya gato. Vivāde assādo nāma natthī’’ti vatvā vaṭṭakajātakaṃ kathesi. Evaṃ imāni pañca jātakāni kathetvā avasāne attadaṇḍasuttaṃ kathesi.

Tiếp theo đó, sau khi nói rằng: “Này các Đại Vương! Không nên sống dựa dẫm vào (lời nói) kẻ khác. Bởi vì bầy thú bốn chân trong rừng Hy Mã Lạp rộng ba ngàn do-tuần đã sống dựa vào (lời nói) của một con thỏ rừng mà chúng đã nhảy vào biển lớn. Vì vậy, không nên sống dựa dẫm vào kẻ khác,” ngài đã thuyết Bổn Sanh Quả Đất Sụp Đổ. Sau đó, sau khi nói rằng: “Này các Đại Vương! Đôi khi ngay cả kẻ yếu cũng có thể thấy khuyết điểm của kẻ mạnh, và đôi khi kẻ mạnh cũng có thể thấy sơ hở của kẻ yếu. Thật đúng như vậy, ngay cả con chim cút cũng có thể giết voi. Sau đó, Ngài kể chuyện Jataka về chim cút,” (ngài) đã thuyết Bổn Sanh Chim Cút. Khi đã kể ba câu chuyện Bổn Sanh để ngăn chặn cuộc tranh cãi như vậy, nhằm mục đích làm sáng tỏ sự hợp nhất nên mới thuyết thêm hai Bổn Sanh nữa. Thuyết như thế nào? Thật vậy, này các Đại Vương, không ai có thể nhìn thấy khuyết điểm của những người đã được hợp nhất, rồi thuyết Bổn Sanh Quy Luật Cây Cối. Từ đó, (ngài) nói rằng: “Này các Đại Vương! Không ai có thể thấy khuyết điểm của những người đã được hợp nhất. Nhưng khi đã xảy ra tranh cãi lẫn nhau thì gã thợ săn sẽ tước đoạt mạng sống của họ và mang đi. Chắc chắn là không có sự thỏa mãn trong cuộc tranh cãi,” rồi ngài thuyết Bổn Sanh Chim Cút. Sau khi thuyết xong năm câu chuyện này, cuối cùng ngài thuyết giảng bài Kinh Uế Hạnh của Bản Thân.

Rājāno pasannā – ‘‘sace satthā nāgamissa, mayaṃ sahatthā aññamaññaṃyeva vadhitvā lohitanadiṃ pavattayissāma, amhākaṃ puttabhātaro gehadvāre na passeyyāma, sāsanapaṭisāsanampi no āharaṇako na bhavissati. Satthāraṃ nissāya no jīvitaṃ laddhaṃ. Sace pana satthā agāraṃ ajjhāvasissa, dvisahassadīpaparivāresu catūsu mahādīpesu rajjamassa hatthagataṃ abhavissa, atirekasahassaṃ kho panassa puttā abhavissaṃsu, tato khattiyaparivārova avicarissa. Taṃ kho panesa sampattiṃ pahāya nikkhamitvā sambodhiṃ patto, idānipi khattiyaparivāroyeva vicaratū’’ti ubhayanagaravāsino aḍḍhatiyāni aḍḍhatiyāni kumārasatāni adaṃsu. Bhagavā te pabbājetvā mahāvanaṃ agamāsi. Tesaṃ garugāravavasena na attano ruciyā pabbajitānaṃ anabhirati uppajji. Purāṇadutiyikāyopi nesaṃ ‘‘ayyaputtā ukkaṇṭhantu, gharāvāso na saṇṭhātīsaṇṭhātī’’tiādīni vatvā sāsanaṃ pesenti. Te atirekataraṃ ukkaṇṭhiṃsu.

Các vị vua tỏ ra thành tín và nói rằng: “Nếu như bậc Đạo Sư sẽ không đến, chúng ta đã sát hại lẫn nhau bằng chính đôi tay của mình khiến cho dòng sông trở nên đầy máu. Chúng ta sẽ không thể nhìn thấy con cái và anh em của mình ở tại cửa nhà, chúng ta sẽ không có dù chỉ là vị sứ giả truyền thông điệp và trả lời thông điệp, chúng ta đã có được mạng sống do nương nhờ bậc Đạo Sư. Hơn nữa, nếu như bậc Đạo Sư sẽ sống đời sống tại gia thì quyền lực tối cao trong bốn đại châu lục (và) có hai ngàn tiểu châu lục xung quanh có lẽ đã được đặt vào bàn tay, hơn nữa con cái của chúng ta hơn một ngàn người sẽ được tồn tại, từ đó ngài sẽ có các vị Sát-đế-lỵ làm tùy tùng và đi du hành. Nhưng sau khi dứt bỏ tài sản đó ngài đã xuất gia đạt đến quả vị Toàn Giác, cho đến hiện tại cũng xin ngài hãy vẫn tiếp tục du hành với các vị Sát-đế-lỵ làm tùy tùng.” Các vị Sát-đế-lỵ của hai thành phố mỗi bên đã dâng lên hai trăm năm mười vị hoàng tử. Đức Thế Tôn sau khi xuất gia cho các vị ấy thì ngài ngài cũng đã đi vào khu rừng lớn. Do bản thể (xuất gia) mà các vị ấy được cung kính và kính trọng, sự không hài lòng đã sanh khởi đến những vị không được xuất gia theo ý muốn của mình. Ngay cả những người vợ cũ của các vị ấy cũng nói rằng: “Xin các hoàng tử hãy hoàn tục, cuộc sống tại gia sẽ không tồn tại” và gửi một bức thư. Họ càng cảm thấy bất mãn hơn nữa.

Bhagavā āvajjanto tesaṃ anabhiratabhāvaṃ ñatvā ‘‘ime bhikkhū mādisena buddhena saddhiṃ ekato vasantā ukkaṇṭhanti, handa nesaṃ kuṇāladahassa vaṇṇaṃ kathetvā tattha netvā anabhiratiṃ vinodessāmī’’ti kuṇāladahassa vaṇṇaṃ kathesi. Te taṃ daṭṭhukāmā ahesuṃ. Daṭṭhukāmattha, bhikkhave, kuṇāladahanti? Āma bhagavāti. Yadi evaṃ, etha, gacchāmāti. Iddhimantānaṃ bhagavā gamanaṭṭhānaṃ mayaṃ kathaṃ gamissāmāti? Tumhe gantukāmā hotha, ahaṃ mamānubhāvena gahetvā gamissāmīti. Sādhu, bhanteti. Atha bhagavā pañca bhikkhusatāni gahetvā ākāse uppatitvā kuṇāladahe patiṭṭhāya te bhikkhū āha – ‘‘Bhikkhave, imasmiṃ kuṇāladahe yesaṃ macchānaṃ nāmaṃ na jānātha, tesaṃ nāmaṃ pucchathā’’ti.

Trong lúc suy xét, đức Thế Tôn biết được trạng thái không hài lòng của những vị ấy nghĩ rằng: “các vị tỳ khưu này, mặc dù sống cùng với đức Phật như ta vẫn bất mãn. Thế nên ta sẽ nói lời ca ngợi hồ Kuṇāla đến những vị ấy rồi đưa (họ) đến nơi đó, nghĩ rằng: “Ta sẽ làm cho tan biến nên mới nói lời ca ngợi hồ Kuṇāla.” Các vị tỳ khưu đã trở thành người mong muốn được nhìn thấy hồ nước ấy. – Đức Thế Tôn hỏi rằng: “Này các tỳ khưu! Các ông muốn thấy hồ nước ấy phải không? – Các tỳ kheo đáp rằng: Đúng vậy, bạch đức Thế Tôn. – Nếu vậy, hãy đến chúng ta cùng. – Bạch đức Thế Tôn! Chúng con sẽ đi đến nơi chỉ dành cho những người có thần thông như thế nào? – Các ngươi là người muốn đi đến hồ đó, ta sẽ đưa các ngươi đi bằng chính oai lực của chính ta. Lành thay! Bạch ngài. Sau đó, đức Thế Tôn đã đưa năm trăm vị tỳ khưu bay lên trên không trung và đáp xuống gần hồ Kuṇāla và đã nói cùng các vị tỳ khưu rằng – “Này các tỳ khưu! Ở tại hồ nước Kuṇāla này, ai không biết tên của các loài cá, hãy hỏi ta.”

Te pucchiṃsu, bhagavā pucchitapucchitaṃ kathesi. Na kevalaṃ macchānaṃyeva, tasmiṃ vanasaṇḍe rukkhānampi pabbatapāde dvipadacatuppadasakuṇānampi nāmāni pucchāpetvā kathesi. Atha dvīhi sakuṇehi mukhatuṇḍakena ḍaṃsitvā gahitadaṇḍake nisinno kuṇālasakuṇarājā purato pacchato ubhosu passesu sakuṇasaṅghaparivuto āgacchati. Bhikkhū taṃ disvā – ‘‘esa, bhante, imesaṃ sakuṇānaṃ rājā bhavissati, parivārā ete etassā’’ti maññāmāti. Evameva, bhikkhave, ayampi mama vaṃso mama paveṇīti. Idāni tāva mayaṃ, bhante, ete sakuṇe passāma. Yaṃ pana bhagavā ‘‘ayampi mama vaṃso mama paveṇī’’ti āha, taṃ sotukāmamhāti. Sotukāmattha bhikkhaveti? Āma, bhagavāti. Tena hi suṇāthāti tīhi gāthāsatehi maṇḍetvā kuṇālajātakaṃ kathento anabhiratiṃ vinodesi. Desanāpariyosāne sabbepi sotāpattiphale patiṭṭhahiṃsu, maggeneva ca nesaṃ iddhipi āgatā. Bhagavā – ‘‘Hotu tāva ettakaṃ etesaṃ bhikkhūna’’nti ākāse uppatitvā mahāvanameva agamāsi. Tepi bhikkhū gamanakāle dasabalassa ānubhāvena gantvā āgamanakāle attano ānubhāvena bhagavantaṃ parivāretvā mahāvane otariṃsu.

Các vị tỳ kheo đã hỏi (đức Thế Tôn), đức Thế Tôn đã trả lời các câu hỏi được các vị tỳ khưu hỏi đi hỏi lại. Không chỉ tên các loài cá, mà còn hỏi tên của các loài cây trong khu rừng ấy với các loài thú bốn chân và các loài chim chóc xung quanh ngọn núi, ngài đều trả lời. Lúc đó, con chim chúa Kuṇāla đang đậu trên một khúc gỗ mà hai con chim khác dùng mỏ cắn giữ, có các con chim khác vây quanh ở phía trước và phía sau, cả hai hướng đang đến. Khi các vị tỳ khưu nhìn thấy con chim đó, chúng con nghĩ rằng: “Thưa ngài, đó có lẽ là con chim chúa của bầy chim này, (còn) bầy chim này là tùy tùng của con chim chúa đó.” – Này các tỳ khưu! Điều đó là như vậy, thậm chí đây cũng là dòng giống của ta, và cũng là truyền thống của ta. Kính bạch ngài! Chúng con sẽ ngắm nhìn những con chim này thêm chút nữa và chúng con muốn được nghe về điều mà đức Thế Tôn đã nói rằng: “Đây cũng là dòng giống của ta, và cũng là truyền thống của chúng ta.” – Này các tỳ khưu! Các ông muốn nghe điều đó? “Thưa vâng, bạch đức Thế Tôn.” Đức Thế Tôn nói rằng: Nếu vậy, hãy lắng nghe, rồi ngài thuyết Bổn Sanh Con Chim Chúa Kuṇāla, được tô điểm bằng ba trăm câu kệ ngôn, đã làm xua đi sự không hài lòng. Khi Pháp thoại kết thúc thì tất cả đều vững trú vào Thánh quả Nhập Lưu, và luôn cả thần thông cũng đã đến cùng với chính Đạo đó. Đức Thế Tôn nghĩ rằng: “Đối với các tỳ khưu này chỉ cần chừng này trước,” rồi ngài bay lên không trung và trở về khu rừng lớn. Còn các vị tỳ khưu ấy khi đi thì đi bằng oai lực của đấng Thập Lực, nhưng thời gian trở về vây quanh đức Thế Tôn hạ xuống khu rừng lớn thì bằng oai lực của chính mình.

Bhagavā paññattāsane nisīditvā te bhikkhū āmantetvā – ‘‘etha, bhikkhave, nisīdatha, uparimaggattayavajjhānaṃ vo kilesānaṃ pahānāya kammaṭṭhānaṃ kathessāmī’’ti kammaṭṭhānaṃ kathesi. Bhikkhū cintesuṃ – “Bhagavā amhākaṃ anabhiratabhāvaṃ ñatvā kuṇāladahaṃ netvā anabhiratiṃ vinodesi, tattha sotāpattiphalappattānaṃ no idāni idha tiṇṇaṃ maggānaṃ kammaṭṭhānaṃ adāsi, na kho panamhehi ‘sotāpannā maya’nti vītināmetuṃ vaṭṭati, uttamapurisasadisehi no bhavituṃ vaṭṭatī’’ti te dasabalassa pāde vanditvā uṭṭhāya nisīdanaṃ papphoṭetvā visuṃ visuṃ pabbhārarukkhamūlesu nisīdiṃsu.

Đức Thế Tôn sau khi ngồi xuống trên chỗ ngồi đã được chuẩn bị sẵn, ngài đã cho gọi các tỳ khưu và nói rằng: “Ở đây, này các tỳ khưu, hãy ngồi xuống, ta sẽ nói về đề mục hành thiền để các ngươi dứt bỏ phiền não cần phải dứt trừ bằng ba Đạo cao,” rồi ngài đã nói về đề mục hành thiền. Các vị tỳ khưu nghĩ rằng – “Sau khi biết được bản thể không hài lòng của chúng ta đức Thế Tôn đã dẫn chúng ta đến hồ Kuṇāla để xua đi sự không hài lòng. Bây giờ, ngài đã ban đề mục hành thiền đối với ba Đạo cao ở đây cho chúng ta (những người) đã chứng đắc Thánh Quả Nhập Lưu ở nơi đó, hơn nữa, chúng ta không nên lãng phí thời gian vì nghĩ rằng: “Chúng ta là Thánh Nhập Lưu”, chúng ta nên trở thành những người cao quý nhất. Sau đó, các vị ấy đã đảnh lễ dưới chân đấng Thập Lực rồi đứng dậy, giũ sạch chỗ ngồi và tách biệt ra ngồi dưới gốc cây và sườn núi.

Bhagavā cintesi – ‘‘ime bhikkhū pakatiyāpi avissaṭṭhakammaṭṭhānā, laddhupāyassa pana bhikkhuno kilamanakāraṇaṃ nāma natthi. Gacchantā gacchantā ca vipassanaṃ vaḍḍhetvā arahattaṃ patvā – ‘‘attanā attanā paṭiladdhaguṇaṃ ārocessāmā’ti mama santikaṃ āgamissanti. Etesu āgatesu dasasahassacakkavāḷe devatā ekacakkavāḷe sannipatissanti, mahāsamayo bhavissati, vivitte okāse mayā nisīdituṃ vaṭṭatī’’ti. Tato vivitte okāse buddhāsanaṃ paññapetvā nisīdi. Sabbapaṭhamaṃ kammaṭṭhānaṃ gahetvā gatathero saha paṭisambhidāhi arahattaṃ pāpuṇi. Tato aparo tato aparoti pañcasatāpi paduminiyaṃ padumāni viya vikasiṃsu. Sabbapaṭhamaṃ arahattappattabhikkhu – ‘‘bhagavato ārocessāmī’’ti pallaṅkaṃ vinibbhujitvā nisīdanaṃ papphoṭetvā uṭṭhāya dasabalābhimukho ahosi. Evaṃ aparopi aparopīti pañcasatāpi bhattasālaṃ pavisantā viya paṭipāṭiyāva āgamaṃsu.

Đức Thế Tôn đã suy nghĩ rằng – “Những vị tỳ khưu này thường không bỏ dở công việc của mình, hơn nữa đối với vị tỳ khưu đã có được phương pháp sẽ không có lý do gì để mệt mỏi. Và trong khi đang đi đã phát triển Minh Sát rồi chứng đắc quả vị A-ra-hán – (các vị ấy) sẽ đi đến gần trú xứ của ta với suy nghĩ rằng: “Chúng ta sẽ nói về những ân đức đặc biệt mà mỗi cá nhân đã đạt được.” Trong khi các vị ấy đi đến thì các vị Thiên nhân trong mười ngàn thế giới cũng sẽ tụ họp lại trong một vũ trụ, sẽ có một cuộc đại hội lớn, ta nên ngồi ở nơi thanh vắng. Khi đó, đã lệnh cho trải Phật tọa ở nơi thanh vắng rồi ngồi xuống. Vị trưởng lão đã nhận lấy đề mục thiền định trước hết tất cả đã đạt được quả vị A-ra-hán cùng với các Tuệ Phân Tích. Lần lượt từng vị một, cho đến khi tất cả năm trăm vị tỳ khưu đều nở rộ như những hoa sen trong hồ sen. Vị tỳ khưu đã chứng đạt quả vị A-ra-hán trước tất cả nghĩ rằng – “Ta sẽ nói với đức Thế Tôn,” nên đã đổi (tư thế) kiết già, giũ sạch chỗ ngồi, đứng dậy hướng mắt về phía đấng Thập Lực. Một vị khác (kế tiếp) cũng như vậy, rồi một vị khác cũng như thế cho đến tất cả năm trăm vị tỳ khưu lần lượt đi đến tương tự như đang bước vào nhà ăn.

Paṭhamaṃ āgato vanditvā nisīdanaṃ paññapetvā ekamantaṃ nisīditvā paṭiladdhaguṇaṃ ārocetukāmo – ‘‘atthi nu kho añño koci, natthī’’ti nivattitvā āgamanamaggaṃ olokento aparampi addasa aparampi addasa. Iti sabbepi te āgantvā ekamantaṃ nisīditvā ayaṃ imassa harāyamāno na kathesi, ayaṃ imassa harāyamāno na kathesīti. Khīṇāsavānaṃ kira dve ākārā honti – ‘‘aho vata mayā paṭiladdhaguṇaṃ sadevako loko khippameva paṭivijjheyyā’’ti cittaṃ uppajjati. Paṭiladdhabhāvaṃ pana nidhiladdhapuriso viya na aññassa ārocetukāmo hoti.

Vị đi đến trước tất cả đã đảnh lễ và đã trải chỗ ngồi rồi ngồi xuống ở một nơi thích hợp, là vị mong muốn nói về những ân đức hạnh đặc biệt mà đã đạt được – nghĩ rằng “Liệu có vị nào khác hay không?” trong khi xem xét con đường đi đến đã thấy một vị khác, rồi lại thấy thêm người khác nữa. Bằng cách như thế, tất cả các vị ấy đều đã đến và đã ngồi xuống ở một nơi thích hợp, ai cũng nghĩ rằng: vị này đang hổ thẹn nên không nói cùng vị này, và vị này cũng đang hổ thẹn nên không cùng vị này. Nghe rằng đối với các vị đã cạn kiệt các lậu hoặc có hai biểu hiện là – đã khởi lên suy nghĩ rằng “(1) Thế gian cùng với thế giới chư Thiên có thể thấu triệt ân đức đặc biệt mà ta đã đạt được ngay tức khắc; (2) không muốn nói ân đức đặc biệt mà bản thân đã đạt được cho người khác, giống như người có được kho báu.”

Evaṃ osīdamatte pana tasmiṃ ariyamaṇḍale pācīnayugandharaparikkhepato abbhā, mahikā, dhūmo, rajo, rāhūti imehi upakkilesehi vippamuttaṃ buddhuppādapaṭimaṇḍitassa lokassa rāmaṇeyyakadassanatthaṃ pācīnadisāya ukkhittarajatamaya-mahāādāsamaṇḍalaṃ viya, nemivaṭṭiyaṃ gahetvā parivattiyamānarajatacakkasassirikaṃ puṇṇacandamaṇḍalaṃ ullaṅghitvā anilapathaṃ paṭipajjittha. Iti evarūpe khaṇe laye muhutte bhagavā sakkesu viharati kapilavatthusmiṃ mahāvane mahatā bhikkhusaṅghena saddhiṃ pañcamattehi bhikkhusatehi sabbeheva arahantehi.

Hơn nữa, chỉ khi vòng tròn của vị A-ra-hán chìm xuống, thì vòng tròn của mặt trăng tròn đầy, thoát khỏi những yếu tố gây mờ đục như sương mù, giọt sương, khói, bụi và thần Rāhu từ ranh giới hướng đông của ngọn núi Yugandhara liên kết với sự rực rỡ của bánh xe bạc, đã nắm lấy vành bánh xe đang xoay tròn, giống như vòng tròn của chiếc gương lớn làm bằng bạc được nâng lên ở hướng đông nhằm mục đích để thưởng ngoạn là nơi làm thúch ý của thế gian gắn liền với sự xuất hiện của đức Phật, trôi lơ lửng và di chuyển theo chiều gió. Đức Thế Tôn trú ngụ ở khu rừng lớn gần thành Kapilavatthu tại xứ sở của dòng họ Sakya cùng với đại chúng tỳ khưu ước lượng khoảng năm trăm vị, tất cả đều là các bậc A-la-hán vào lúc đó là khoảng thời gian rất ngắn có hình thức như vậy là như vậy.

Tattha bhagavāpi mahāsammatassa vaṃse uppanno, tepi pañcasatā bhikkhū mahāsammatassa kule uppannā. Bhagavāpi khattiyagabbhe jāto, tepi khattiyagabbhe jātā. Bhagavāpi rājapabbajito, tepi rājapabbajitā. Bhagavāpi setacchattaṃ pahāya hatthagataṃ cakkavattirajjaṃ nissajjetvā pabbajito, tepi setacchattaṃ pahāya hatthagatāni rajjāni nissajjetvā pabbajitā. Iti bhagavā parisuddhe okāse parisuddhe rattibhāge sayaṃ parisuddho parisuddhaparivāro vītarāgo vītarāgaparivāro vītadoso vītadosaparivāro vītamoho vītamohaparivāro nittaṇho nittaṇhaparivāro nikkileso nikkilesaparivāro santo santaparivāro danto dantaparivāro mutto muttaparivāro ativiya virocatīti. Vaṇṇabhūmi nāmesā, yattakaṃ sakkoti, tattakaṃ vattabbaṃ. Iti ime bhikkhū sandhāya vuttaṃ – ‘‘pañcamattehi bhikkhusatehi sabbeheva arahantehī’’ti.

Ở nơi tụ hội ấy, đức Thế Tôn cũng được sanh ra trong dòng dõi của đức vua Mahāsammata. Năm trăm vị tỳ khưu ấy cũng đều được sanh ra trong gia tộc của đức vua Mahāsammata. Ngay cả, đức Thế Tôn cũng sinh ra từ bụng của vị Sát-đế-lỵ. Luôn cả những vị ấy cũng sinh ra từ bụng của vị Sát-đế-lỵ. Đức Thế Tôn là vị xuất gia từ dòng dõi vua chúa, những vị ấy cũng là vị xuất gia từ dòng dõi vua chúa. Đức Thế Tôn đã dứt bỏ chiếc lọng trắng, đã từ bỏ vương vị Chuyển Luân Vương đã đến trong tay và xuất gia. Những vị ấy cũng từ bỏ chiếc lọng trắng, đã từ bỏ vương quyền đã đến trong tay và xuất gia. Như đã nói, đức Thế Tôn tự mình thanh tịnh và có hội chúng thanh tịnh, ở địa điểm thanh tịnh, trong đêm thanh tịnh, đã xa lìa sự luyến ái, có hội chúng đã xa lìa sự luyến ái, đã xa lìa sự sân hận, có hội chúng đã xa lìa sự sân hận, đã xa lìa sự si mê, có hội chúng đã xa lìa sự si mê, vị không có tham ái, có hội chúng không có tham ái, vị không có ô nhiễm, có hội chúng không có ô nhiễm, vị thanh tịnh, có hội chúng thanh tịnh, vị đã thuần thục, có hội chúng đã thuần thục, vị đã thoát khỏi, có hội chúng đã thoát khỏi, vô cùng chói sáng bởi cách như vậy. Đây gọi là lãnh địa tán thán, khả năng nói được bao nhiêu, thì có thể nói bấy nhiêu. Như đã nói, đại đức Ānanda ám chỉ đến các vị tỳ khưu này mới nói rằng – “Năm trăm vị tỳ khưu, tất cả đều là các bậc A-ra-hán.”

Yebhuyyenāti bahutarā sannipatitā, mandā na sannipatitā asaññā arūpāvacaradevatā samāpannadevatā ca. Tatrāyaṃ sannipātakkamo mahāvanassa kira sāmantā[1] devatā caliṃsu – ‘‘āyāma, bho buddhadassanaṃ nāma bahūpakāraṃ, dhammassavanaṃ bahūpakāraṃ, bhikkhusaṅghadassanaṃ bahūpakāraṃ, āyāma āyāmā’’ti mahāsaddaṃ kurumānā āgantvā bhagavantañca taṃmuhuttaṃ arahattappattakhīṇāsave ca vanditvā ekamantaṃ aṭṭhaṃsu. Eteneva upāyena tāsaṃ tāsaṃ saddaṃ sutvā saddantaraaḍḍhagāvuta-gāvuta-aḍḍhayojana-yojanādivasena tiyojanasahassavitthate himavante, tikkhattuṃ tesaṭṭhiyā nagarasahassesu, navanavutiyā doṇamukhasatasahassesu, channavutiyā paṭṭanakoṭisatasahassesu, chapaṇṇāsāya ratanākaresūti sakalajambudīpe, pubbavidehe, aparagoyāne, uttarakurumhi, dvīsu parittadīpasahassesūti sakalacakkavāḷe, tato dutiyatatiyacakkavāḷeti evaṃ dasasahassacakkavāḷesu devatā sannipatitāti veditabbā. Dasasahassacakkavāḷañhi idha dasalokadhātuyoti adhippetā. Tena vuttaṃ – ‘‘dasahi ca lokadhātūhi devatā yebhuyyena sannipatitā hontī’’ti.

Hầu hết: đa số đều tụ hội, ngoại trừ một số ít vị các Thiên nhân Vô tưởng thuộc cõi Vô sắc và các vị Thiên nhân nhập thiền diệt thì không vào tụ hội. Nghe rằng là tuần tự việc bước vào tụ hội trong bài Kinh Đại Hội. Nghe rằng các vị Thiên nhân xung quanh khu rừng lớn đã bắt đầu di chuyển và tạo ra tiếng động lớn rằng – “Hãy đến, thưa các ngài, việc chiêm ngưỡng đức Phật được gọi là có nhiều sự giúp đỡ, việc lắng nghe Giáo Pháp có nhiều sự giúp đỡ, việc chiêm ngưỡng hội chúng tỳ khưu có nhiều sự giúp đỡ, hãy đến! hãy đến!” chúng ta cùng đến đảnh lễ đức Thế Tôn và các vị đã cạn kiệt lậu hoặc đã chứng đắc quả vị A-ra-hán giây phút ấy rồi đứng ở một bên. Với chính phương pháp này, nên biết rằng tất cả các Thiên nhân trong hàng trăm ngàn vũ trụ đã tập hội, bởi vì lắng nghe âm thanh của các Thiên nhân đó (lần lượt) theo thứ tự. Các vị Thiên nhân cư ngụ trong toàn bộ vũ trụ trên toàn cõi Jambudīpa, Pubbavideha, Aparagoyāna Uttarakuru, trên hai ngàn châu nhỏ, là các vị Thiên nhân cư ngụ trong rừng Hy Mã Lạp rộng khoảng ba nghìn do-tuần do lắng nghe âm thanh của các vị Thiên nhân cư ngụ ở nơi cách nửa gāvuta, một gāvuta, nửa do-tuần, một do-tuần lần lượt theo thứ tự, tiếp đến các vị Thiên nhân sống trong một trăm tám mươi chín ngàn thành phố, các vị Thiên nhân cư ngụ ở chín triệu chín trăm ngàn nơi tại Doṇamukha, các vị Thiên nhân cư ngụ ở chín mươi sáu triệu koṭi nơi tại Paṭana và cư ngụ ở chín mươi sáu nơi ở biển, tất cả đều đến tụ hội. Sau đó, các vị Thiên nhân ở vũ trụ thứ hai, thứ ba, v.v, đến tụ hội như vậy. Bởi vì mười ngàn vũ trụ ngài muốn đề cập là mười phương thế giới ở đây. Vì lý do đó, ngài mới nói rằng: “Hầu hết các vị Thiên nhân đến từ mười phương thế giới đã tụ hội lại…

Evaṃ sannipatitāhi devatāhi sakalacakkavāḷagabbhaṃ yāva brahmalokā sūcighare nirantaraṃ pakkhittasūcīhi viya paripuṇṇaṃ hoti. Tatra brahmalokassa evaṃ uccattanaṃ veditabbaṃ. Lohapāsāde kira sattakūṭāgārasamo pāsāṇo brahmaloke ṭhatvā adho khitto catūhi māsehi pathaviṃ pāpuṇāti. Evaṃ mahante okāse yathā heṭṭhā ṭhatvā khittāni pupphāni vā dhūmo vā upari gantuṃ, upari vā ṭhatvā khittasāsapā heṭṭhā otarituṃ antaraṃ na labhanti, evaṃ nirantaraṃ devatā ahesuṃ. Yathā kho pana cakkavattirañño nisinnaṭṭhānaṃ asambādhaṃ hoti, āgatāgatā mahesakkhā khattiyā okāsaṃ labhantiyeva, parato parato[2] pana atisambādhaṃ hoti, evameva bhagavato nisinnaṭṭhānaṃ asambādhaṃ, āgatāgatā mahesakkhā devatā ca mahābrahmāno ca okāsaṃ labhantiyeva. Apisudaṃ bhagavato āsannāsannaṭṭhāne mahāparinibbāne vuttanayeneva vālaggakoṭinitudanamatte padese dasapi vīsampi sabbaparato tiṃsampi devatā sukhume sukhume attabhāve māpetvā aṭṭhaṃsu. Saṭṭhi saṭṭhi devatā aṭṭhaṃsu.

Toàn bộ nội phòng của vũ trụ cho đến thế giới Phạm Thiên chật ních bởi các vị Thiên nhân ở nơi tụ hội như vậy, giống như hộp đựng kim được đựng đầy với các kim đến mức không còn chỗ trống. Trong toàn bộ nội phòng của vũ trụ đó, nên biết rằng chỗ cao hơn là nội phòng vũ trụ của thế giới Phạm Thiên. Được biết rằng, một người đứng ở thế giới Phạm cầm lấy một viên đá lớn bằng một tòa nhà bảy tầng ở lâu đài bằng đồng ném xuống dưới phải mất bốn tháng mới chạm tới mặt đất. Trong không gian to lớn như vậy, không còn khoảng trống nào cho các vị Thiên nhân, giống như những bông hoa mà người đứng bên dưới ném đi, hoặc giống như khói không có lỗ trống để bay lên trên, hay giống như những hạt cải mà người đứng ở trên rải đi không có lỗ trống để rơi xuống dưới. Cũng tương tự y như thế, chỗ ngồi của Đức Phật không chật chội, các vị Thiên nhân và các Đại Phạm Thiên có uy lực lớn lần lượt đi đến (các vị ấy) đều có chỗ ngồi, giống như chỗ ngồi của vị Chuyển Luân Vương là nơi không chật chội, các vị Sát-đế-lỵ trưởng thượng lần lượt đi đến (các vị ấy) cũng đều có chỗ ngồi. Mọi người cũng nói rằng trong một quốc độ diện tích nhỏ như đầu sợi tóc theo cách thức đã được nói trong Kinh Đại Bát Niết Bàn ở gần chỗ đức Thế Tôn cũng vẫn có mười vị Thiên nhân hoặc hai mươi Thiên nhân hóa hiện thành hình dáng vi tế đứng đó, ở phía trước có nhóm chư Thiên mỗi nhóm sáu mươi vị đang đứng.

Suddhāvāsakāyikānanti suddhāvāsavāsīnaṃ. Suddhāvāsā nāma suddhānaṃ anāgāmikhīṇāsavānaṃ āvāsā pañca brahmalokā. Etadahosīti kasmā ahosi? Te kira brahmāno samāpattiṃ samāpajjitvā yathāparicchedena vuṭṭhitā brahmabhavanaṃ olokentā pacchābhatte bhattagehaṃ viya suññataṃ addasaṃsu. Tato ‘‘kuhiṃ brahmāno gatā’’ti āvajjantā mahāsamāgamaṃ ñatvā – ‘‘ayaṃ samāgamo mahā, mayaṃ ohīnā, ohīnakānaṃ okāso dullabho hoti, tasmā gacchantā atucchahatthā hutvā ekekaṃ gāthaṃ abhisaṅkharitvā gacchāma. Tāya mahāsamāgame ca attano āgatabhāvaṃ jānāpessāma, dasabalassa ca vaṇṇaṃ bhāsissāmā’’ti. Iti tesaṃ samāpattito vuṭṭhāya āvajjitattā etadahosi.

Thuộc các tập thể Tịnh Cư Thiên: các vị sống ở cõi Tịnh Cư. Năm cõi Phạm Thiên là nơi cư trú của vị Thánh Bất Lai và bậc Lậu Tận thanh tịnh nên được gọi là Tịnh Cư Thiên. Có suy nghĩ rằng: là tại sao lại có suy nghĩ như vậy? Nghe rằng vào lúc đó, các Phạm Thiên ấy sau khi thể nhập thiền diệt đã xuất khỏi thiền diệt theo thời gian quy định, khi nhìn vào chỗ ở của các Phạm Thiên đã thấy trống không, giống như nhà ăn sau bữa ăn. Sau đó, khi suy xét rằng: “Các Phạm Thiên đã đi đâu?” đã biết rằng (các vị) đã đi đến cuộc tụ hội lớn. – Nghĩ rằng “Đây là cuộc tụ hội lớn, phía chúng ta chậm trễ thì đối với những người chậm trễ sẽ khó có cơ hội. Vì vậy, khi đi chúng ta chớ có đi với tay không, mỗi vị đã chuẩn bị một bài kệ rồi mới đi. Chúng ta sẽ cho đức Thế Tôn biết rằng mình đã đến cuộc tụ hội lớn bằng bài kệ đó, và sẽ nói lời ca ngợi (về đức hạnh) của đấng Thập Lực.” Đã có suy nghĩ như vậy do (bản thể của những vị Phạm Thiên ấy) sau khi xuất khỏi thiền diệt đã khởi lên suy nghĩ bằng cách thức như thế.

  1. Bhagavato purato pāturahesunti pāḷiyaṃ bhagavato santike abhimukhaṭṭhāneyeva otiṇṇā viya katvā vuttā, na kho panettha evaṃ attho veditabbo. Te pana brahmaloke ṭhitāyeva gāthā abhisaṅkharitvā eko puratthimacakkavāḷamukhavaṭṭiyaṃ otari, eko dakkhiṇacakkavāḷamukhavaṭṭiyaṃ, eko pacchimacakkavāḷamukhavaṭṭiyaṃ, eko uttaracakkavāḷamukhavaṭṭiyaṃ otari. Tato puratthimacakkavāḷamukhavaṭṭiyaṃ otiṇṇabrahmā nīlakasiṇaṃ samāpajjitvā nīlarasmiyo vissajjitvā dasasahassacakkavāḷadevatānaṃ maṇicammaṃ paṭimuñcanto viya attano āgatabhāvaṃ jānāpetvā buddhavīthi nāma kenaci ottharituṃ na sakkā, tasmā pahaṭabuddhavīthiyāva āgantvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ aṭṭhāsi. Ekamantaṃ ṭhito attanā abhisaṅkhataṃ gāthaṃ abhāsi.
    Đã hiện ra trước mặt đức Thế Tôn: đã làm cho các vị Phạm Thiên ấy như thể hạ xuống ở ngay trước mặt trong sự hiện diện của đức Thế Tôn đã được đề cập ở Chánh Văn, hơn nữa ở đây không nên hiểu ý nghĩa như vậy. Lại nữa, những vị ấy đã chuẩn bị các câu kệ khi vẫn còn ở thế giới Phạm Thiên, (xong xuôi) một vị hạ xuống ở ranh giới vũ trụ hướng Đông, một vị hạ xuống ở ranh giới vũ trụ hướng Nam, một vị hạ xuống ở ranh giới vũ trụ hướng tây, một vị hạ xuống ở ranh giới vũ trụ hướng Bắc. Sau đó, vị Phạm thiên hạ xuống ở ranh giới vũ trụ từ hướng Đông đã nhập vào đề mục kasiṇa xanh và tỏa ra hào quang xanh, giống như đang đeo viên ngọc ma-ni để các vị Thiên nhân trong mười nghìn vũ trụ biết rằng mình đã đến. Lộ trình của đức Phật không ai có thể vượt qua được, vì lý do ấy mới đến bằng lộ trình của đức Phật chỗ tiếp xúc rồi đã đảnh lễ đức Thế Tôn và đứng ở một bên, sau khi đứng ở một bài đã nói lên kệ ngôn mà mình đã chuẩn bị.”

Dakkhiṇacakkavāḷamukhavaṭṭiyaṃ otiṇṇabrahmāpi pītakasiṇaṃ samāpajjitvā pītarasmiyo suvaṇṇapabhaṃ muñcitvā dasasahassacakkavāḷadevatānaṃ suvaṇṇapaṭaṃ pārupento viya attano āgatabhāvaṃ jānāpetvā tatheva aṭṭhāsi. Pacchimacakkavāḷamukhavaṭṭiyaṃ otiṇṇabrahmāpi lohitakasiṇaṃ samāpajjitvā lohitarasmiyo muñcitvā dasasahassacakkavāḷadevatānaṃ rattavarakambalena parikkhipanto viya attano āgatabhāvaṃ jānāpetvā tatheva aṭṭhāsi. Uttaracakkavāḷamukhavaṭṭiyaṃ otiṇṇabrahmāpi odātakasiṇaṃ samāpajjitvā odātarasmiyo muñcitvā dasasahassacakkavāḷadevatānaṃ sumanapaṭaṃ pārupanto viya attano āgatabhāvaṃ jānāpetvā tatheva aṭṭhāsi.

Vị Phạm Thiên hạ xuống ranh giới vũ trụ hướng Nam cũng nhập vào đề mục kasiṇa vàng và tỏa ra hào quang vàng, giống như đang trùm lên một tấm vải vàng, thông báo cho các Thiên nhân trong mười ngàn vũ trụ biết rằng mình đã đến, và đứng ở tại nơi đó. Vị Phạm Thiên hạ xuống ở ranh giới vũ trụ phía tây đã nhập vào đề mục kasiṇa đỏ và tỏa ra hào quang đỏ, giống như trùm lên tấm vải lông thú màu đỏ quý giá, thông báo cho các Thiên nhân trong mười ngàn vũ trụ biết rằng mình đã đến, và đã đứng ở tại đó. Vị Phạm thiên hạ xuống tại ranh giới vũ trụ từ phía bắc đã nhập vào đề mục Kasina trắng và tỏa ra hào quang trắng, giống như trùm lên một tấm áo hoa nhài, thông báo cho các vị Thiên nhân trong mười nghìn vũ trụ biết rằng mình đã đến, và đứng ở tại nơi đó tương tự.

Pāḷiyaṃ pana ‘‘bhagavato purato pāturahesuṃ. Atha kho tā devatā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ aṭṭhaṃsū’’ti evaṃ ekakkhaṇaṃ viya purato pātubhāvo ca abhivādetvā ekamantaṃ ṭhitabhāvo ca vutto, so iminā anukkamena ahosi, ekato katvā pana dassito. Gāthābhāsanaṃ pana pāḷiyaṃ visuṃ visuṃyeva vuttaṃ.

Nhưng trong Pāḷī ngài đã nói rằng: “Các Phạm Thiên đã hiện ra trước mặt đức Thế Tôn. Khi đó, các Thiên nhân đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi đứng ở một bên,” như vậy ngài đã đề cập việc hiện ra ở trước mặt và việc đảnh lễ rồi đứng ở một bên, giống như mọi việc xảy ra cùng một lúc, việc hiện ra và đứng đã diễn ra theo thứ tự này, nhưng trong khi trình bày ngài đã làm xảy ra cùng một lúc. Còn việc nói lên lời kệ trong Pāḷī, ngài đã nói  tách riêng thành từng phần.

Tattha mahāsamayoti mahāsamūho. Pavanaṃ vuccati vanasaṇḍo. Ubhayenapi bhagavā imasmiṃ vanasaṇḍe ajja mahāsamūho mahāsannipātoti āha. Tato yesaṃ so sannipāto, te dassetuṃ devakāyāsamāgatāti āha. Tattha devakāyāti devaghaṭā. Āgatamha imaṃ dhammasamayanti evaṃ samāgate devakāye disvā mayampi imaṃ dhammasamūhaṃ āgatā. Kiṃ kāraṇā? Dakkhitāye aparājitasaṅghaṃ, kenaci aparājitaṃ ajjeva tayo māre madditvā vijitasaṅgāmaṃ imaṃ aparājitasaṅghaṃ dassanatthāya āgatamhāti attho. So pana brahmā imaṃ gāthaṃ bhāsitvā bhagavantaṃ abhivādetvā puratthimacakkavāḷamukhavaṭṭiyaṃyeva aṭṭhāsi.

Ở đây, Đại Hội: cuộc tụ hội lớn. Khu rừng lớn: được gọi là khu rừng rậm rạp. Đức Phật đã nói rằng: Có một Đại Hội là có một cuộc hội họp lớn vào ngày hôm nay ở tại khu rừng này, luôn cả với hai bài kệ. Sau đó, để chỉ ra những người đến hội họp đó đức Thế Tôn đã nói rằng ‘các tập thể chư Thiên đã tập trung lại’. Trong câu đó, tập thể chư Thiên: tập thể chư Thiên. Chúng con đã đi đến Pháp hội này: khi đã nhìn thấy tập thể chư Thiên đến hội họp như vậy, cả chúng ta cũng đã đến Pháp hội này. Vì lý do gì? Để chiêm ngưỡng Hội Chúng bất bại, có nghĩa là chúng con đến để chiêm ngưỡng Hội Chúng bất bại này, vì không ai có thể xâm chiếm được, đã đánh bại ba bọn Ác Ma vào ngay ngày hôm nay. Hơn nữa, vị Phạm Thiên ấy sau khi nói lên bài kệ này, đã đảnh lễ đức đức Thế Tôn rồi đã đứng ở ranh giới vũ trụ hướng đông.

Atha dutiyo vuttanayeneva āgantvā abhāsi. Tattha tatra bhikkhavoti tasmiṃ sannipātaṭṭhāne bhikkhū. Samādahaṃsūti samādhinā yojesuṃ. Cittamattano ujukaṃ akaṃsūti attano cittaṃ sabbe vaṅkakuṭilajimhabhāve haritvā ujukaṃ akariṃsu. Sārathīva nettāni gahetvāti yathā samappavattesu sindhavesu odhastapatodo[3] sārathi sabbayottāni gahetvā acodento avārento tiṭṭhati, evaṃ chaḷaṅgupekkhāsamannāgatā guttadvārā sabbepete pañcasatā bhikkhū indriyāni rakkhanti paṇḍitā, ete daṭṭhuṃ idhāgatamha bhagavāti. Sopi gantvā yathāṭhāneyeva aṭṭhāsi.

Tiếp theo là vị thứ hai đã đến và đã nói lên (lời kệ) theo chính phương cách đã nói. Ở đó, tại đó, các vị tỳ khưu…: các vị tỳ khưu ở tại đại hội ấy. Đã gắn liền với định: đã gắn liền với định. Đã làm ngay thẳng tâm của mình: đã đem hết mọi sự gian dối và sự không thành thật ra khỏi, đã làm ngay thẳng tâm của mình. Tựa như các xa phu nắm giữ các dây cương: Khi đàn ngựa Sindhava bước đi một cách êm ả, xa phu đã đặt cây gậy xuống và nắm giữ các dây cương không thúc không kéo, vẫn giữ vững. Tất cả năm trăm vị tỳ khưu này đều thành tựu xả thọ có sáu yếu tố phòng hộ môn, và các bậc sáng suốt hộ trì các giác quan như thế ấy, Phạm Thiên nói rằng: kính bạch đức Thế Tôn chúng con đến đây để chiêm ngưỡng Hội Chúng tỳ khưu này. Vị ấy cũng đã đi và đã đứng theo đúng vị trí của mình.

Atha tatiyo vuttanayeneva āgantvā abhāsi. Tattha chetvā khīlanti rāgadosamohakhīlaṃ chinditvā. Palighanti rāgadosamohapalighameva. Indakhīlantipi rāgadosamohaindakhīlameva. Ūhacca manejāti ete taṇhāejāya abhāvena anejā bhikkhū indakhīlaṃ ūhacca samūhanitvā. Te carantīti catūsu disāsu appaṭihatacārikaṃ caranti. Suddhāti nirupakkilesā. Vimalāti nimmalā. Idaṃ tasseva vevacanaṃ. Cakkhumatāti pañcahi cakkhūhi cakkhumantena. Sudantāti cakkhutopi dantā, sotatopi ghānatopi jivhātopi kāyatopi manatopi dantā. Susunāgāti taruṇanāgā. Te evarūpena anuttarena yogācariyena[4] damite taruṇanāge dassanāya āgatamha bhagavāti. Sopi gantvā yathāṭhāneyeva aṭṭhāsi.

Tiếp theo là vị thứ ba đã đến và đã nói theo chính phương cách đã được nói. Ở đây, Sau khi đã chặt đứt cây cọc: sau khi đã cắt đứt cây cọc là ái luyến, sân hận và si mê. Đã bẻ gãy thanh cài: đã bẻ gãy thanh cài chính là ái luyến, sân hận và si mê. Đã nhổ lên cột trụ đá: đã nhổ lên cột trụ đá chính là ái luyến, sân hận và si mê. Đã nhổ lên không có dục vọng: các vị tỳ khưu đã thoát khỏi dục vọng, bởi sự không hiện hữu của các dục vọng là tham ái, đã nhổ bỏ, đã dời đi cột trụ đá. Các vị ấy du hành: các vị đi du hành không gây trở ngại đến bất kỳ ai ở bốn phương. Thanh tịnh: thoát khỏi tùy phiền não. Không bị lấm nhơ: không bị nhơ bẩn. Không bị lấm nhơ này cũng là từ ngữ sử dụng thay thế từ ‘thanh tịnh’. Bởi bậc Hữu Nhãn: bởi bậc Hữu Nhãn, có năm loại mắt. Đã khéo được thuần phục: có mắt đã được thuần thục, lộ nhĩ, lộ tỷ, lộ thân, và lộ ý cũng đã được thuần phục. Những con voi trẻ: những con voi trẻ. Phạm Thiên giải thích rằng “Bạch đức Thế Tôn, con đến đây để chiêm ngưỡng những con voi trẻ này (chúng) đã khéo được huấn luyện với sự nỗ lực là phương tiện liên kết tuyệt vời với hình thức như vậy. Cả vị Phạm Thiên ấy đã đi và đã đứng ở vị trí thích hợp của mình.

Atha catuttho vuttanayeneva āgantvā abhāsi. Tattha gatāseti nibbematikasaraṇagamanena gatā. Sopi gantvā yathāṭhāneyeva aṭṭhāsi.

Tiếp theo là vị thứ tư cũng đã đến và đã nói theo phương cách đã được nói. Ở đó, đã đi đến: là đã đi với sự đi đến nương nhờ (mà) không có sự nghi ngờ. Cả vị Phạm thiên ấy đã đi và đã đứng ở vị trí thích hợp của mình.

Giảng giải về sự tụ hội của chư Thiên

  1. Atha bhagavā olokento pathavītalato yāva cakkavāḷamukhavaṭṭiparicchedā yāva akaniṭṭhabrahmalokā devatāsannipātaṃ disvā cintesi – ‘‘mahā ayaṃ devatāsamāgamo, bhikkhū pana evaṃ mahā devatāya samāgamoti na jānanti, handa, nesaṃ ācikkhāmī’’ti, evaṃ cintetvā ‘‘atha kho bhagavā bhikkhū āmantesī’’ti sabbaṃ vitthāretabbaṃ. Tattha etaparamāti etaṃ paramaṃ pamāṇaṃ etesanti etaparamā. Idāni buddhānaṃ pana abhāvā ‘‘yepi te, bhikkhave, etarahī’’ti tatiyo vāro na vutto. Ācikkhissāmi, bhikkhaveti kasmā āha? Devatānaṃ cittakallatājananatthaṃ. Devatā kira cintesuṃ – ‘‘bhagavā evaṃ mahante samāgame mahesakkhānaṃyeva devatānaṃ nāmagottāni kathessati, appesakkhānaṃ kiṃ kathessatī’’ti? Atha bhagavā ‘‘imā devatā kiṃ cintentī’’ti āvajjanto mukhena hatthaṃ pavesetvā hadayamaṃsaṃ maddanto viya sabhaṇḍaṃ coraṃ gaṇhanto viya ca taṃ tāsaṃ cittācāraṃ ñatvā – ‘‘dasasahassacakkavāḷato āgatāgatānaṃ appesakkhamahesakkhānaṃ sabbāsampi devatānaṃ nāmagottaṃ kathessāmī’’ti cintesi.
    Sau đó, đức Thế Tôn trong khi quan sát từ mặt đất cho đến ranh giới vũ trụ, từ ranh giới vũ trụ đến thế giới Phạm Thiên Sắc Cứu Cánh, đã nhìn thấy cuộc họp của các Thiên nhân, nên mới suy nghĩ rằng: “Tập thể chư Thiên này to lớn, còn các tỳ khưu không biết rằng: ‘Tập thể chư Thiên này to lớn như vậy. Thôi được, ta sẽ nói cho các vị biết,” Sau khi suy nghĩ như vậy “Đức Thế Tôn Phật đã gọi các tỳ khưu” cần được giải rộng toàn bộ. Ở đó, etaparamā: có chừng này là xuất sắc, do chừng này là số lượng xuất sắc của các đức Phật ấy. Nhưng hiện tại, không có các vị Phật ấy nên không nói lần thứ ba rằng: “Này các tỳ khưu, những vị nào đã là…cũng giống như ta có hiện nay” Tại sao lại nói rằng: “Này các tỳ khưu, ta sẽ nói…” – Để biết được sự sẵn sàng của tâm các Thiên nhân. Được biết các Thiên nhân nghĩ rằng: “Đức Thế Tôn sẽ chỉ nói ra tên và dòng dõi của các Thiên nhân có uy lực lớn, sẽ nói đến các vị có ít uy lực để làm gì trong cuộc hội họp lớn như vậy?” Lúc đó, đức Thế Tôn suy xét rằng: “Các Thiên nhân này đang suy nghĩ điều gì?” Biết được suy nghĩ đó của các Thiên nhân ấy như thể đưa tay vào miệng và chạm vào trái tim, như thể nắm bắt được tên trộm cùng với tang vật. (Do đó) Ngài đã suy nghĩ rằng: “Ta sẽ nói ra tên và dòng dõi của tất cả các Thiên nhân, cả vị có ít oai lực và cả vị có nhiều oai lực từ mười ngàn vũ trụ.”

Buddhā nāma mahantā ete sattavisesā, yaṃ sadevakassa lokassa diṭṭhaṃ sutaṃ mutaṃ viññātaṃ pattaṃ pariyesitaṃ anuvicaritaṃ manasā, na kiñci katthaci nīlādivasena vibhattarūpārammaṇesu rūpārammaṇaṃ vā bherīsaddādivasena vibhattasaddārammaṇādīsu visuṃ visuṃ saddādiārammaṇaṃ vā atthi, yaṃ etesaṃ ñāṇamukhe āpāthaṃ nāgacchati. Yathāha –

‘‘Yaṃ bhikkhave sadevakassa lokassa…pe… sadevamanussāya diṭṭhaṃ sutaṃ mutaṃ viññātaṃ pattaṃ pariyesitaṃ anuvicaritaṃ manasā, tamahaṃ jānāmi, tamahaṃ passāmi, tamahaṃ abbhaññāsi’’nti[5].

Thông thường các vị Phật là những bậc vĩ đại, các vị Phật ấy là những chúng sanh đặc biệt, biết rõ những điều mà loài Người và các Thiên nhân được thấy, được nghe, được cảm giác, được nhận thức, đã đạt được, đã tầm cầu, được ý tư sát, bất kể là gì? ở bất cứ đâu? là cảnh sắc trong cảnh sắc được phân loại về phương diện màu sắc có sắc màu xanh, v.v, hoặc cảnh có âm thanh, v.v, được phân loại thành từng phần riêng biệt trong cảnh thanh, v.v, về phương diện âm thanh có trống, v.v, tồn tại, (tất cả) đều đến nhập vào dòng chảy ở phạm vi trí của chư Phật ấy. Như đã nói –

Này các tỳ khưu, điều gì trong toàn thế giới với Thiên giới, …nt… chư Thiên và loài Người được thấy, được nghe, được cảm giác, được nhận thức, được đạt đến, được tầm cầu, được ý tư sát, ta biết điều đó, ta thấy điều đó, ta biết rõ điều đó.

Evaṃ sabbattha appaṭihatañāṇo bhagavā sabbāpi tā devatā bhabbābhabbavasena dve koṭṭhāse akāsi. ‘‘Kammāvaraṇena vā samannāgatā’’tiādinā nayena vuttā sattā abhabbā nāma. Te ekavihāre vasantepi buddhā na olokenti. Viparītā pana bhabbā nāma, te dūre vasantepi gantvā saṅgaṇhanti. Tasmā tasmimpi devatāsannipāte ye abhabbā, te pahāya bhabbe pariggahesi. Pariggahetvā – ‘‘ettakā ettha rāgacaritā, ettakā dosacaritā, ettakā mohacaritā’’ti caritavasena cha koṭṭhāse akāsi.

Đức Phật có trí không có bất cứ điều gì có thể ngăn cản được ở mọi nơi như vậy, đã làm cho các vị Thiên nhân ấy tất cả hai nhóm do tác động (chúng sanh) có khả năng và (chúng sanh) không có khả năng. Gọi là chúng sanh không có khả năng được nói theo phương cách như sau: “Hoặc chúng sanh nào được thành tựu do sự ngăn cản của nghiệp,” chúng sanh ấy dù sống cùng một trú xá với chư Phật cũng không thấy. Còn chúng sanh có khả năng đối nghịch với chúng sanh không có khả năng, dù sống ở xa thì (chư Phật) cũng đi đến tiếp độ. Vì thế, ngay cả trong sự hội họp của các Thiên nhân, đức Thế Tôn đã loại bỏ nhóm chúng sanh không có khả năng và chỉ tập hợp những chúng sanh có khả năng. Sau khi tập hợp xong, Ngài đã sắp xếp thành sáu nhóm (tương xứng) về phương diện tánh nết (của mỗi nhóm) rằng: “Ở đây, nhóm tánh ái chừng này, nhóm tánh sân chừng này, nhóm tánh si chừng này…”

Atha nesaṃ sappāyaṃ dhammadesanaṃ upadhārayanto – ‘‘rāgacaritānaṃ devatānaṃ sammāparibbājaniyasuttaṃ kathessāmi, dosacaritānaṃ kalahavivādasuttaṃ, mohacaritānaṃ mahābyūhasuttaṃ, vitakkacaritānaṃ cūḷabyūhasuttaṃ, saddhācaritānaṃ tuvaṭṭakapaṭipadaṃ, buddhicaritānaṃ purābhedasuttaṃ kathessāmī’’ti desanaṃ vavatthapetvā puna taṃ parisaṃ manasākāsi – “attajjhāsayena nu kho jāneyya, parajjhāsayena atthuppattikena pucchāvasenā’’ti. Tato ‘‘pucchāvasena jāneyyā’’ti ñatvā ‘‘atthi nu kho koci devatānaṃ ajjhāsayaṃ gahetvā caritavasena pañhaṃ pucchituṃ samattho’’ti ‘‘tesu pañcasatesu bhikkhūsu ekopi na sakkotī’’ti addasa. Tato asītimahāsāvake dve aggasāvake ca samannāharitvā ‘‘tepi na sakkontī’’ti disvā cintesi ‘‘sace paccekabuddho bhaveyya, sakkuṇeyya nu kho’’ti ‘‘sopi na sakkuṇeyyā’’ti ñatvā ‘‘sakkasuyāmādīsu koci sakkuṇeyyā’’ti samannāhari. Sace hi tesu koci sakkuṇeyya, taṃ pucchāpetvā attanā vissajjeyya, na pana tesupi koci sakkoti.

Sau đó, Ngài đã suy nghĩ về bài giảng Pháp phù hợp với tánh nết của nhóm ấy. Ngài xác định thời Pháp rằng: ta sẽ thuyết giảng bài Kinh Sammāparibbājaniya đến Chư Thiên tánh ái, (ta sẽ thuyết giảng) bài Kinh Kalahavivāda đến nhóm tánh sân, (ta sẽ thuyết giảng) bài Kinh Mahābyūha đến nhóm tánh si, (ta sẽ thuyết giảng) bài Kinh Cūḷabyūha đến nhóm tánh tầm, (ta sẽ thuyết giảng) Con Đường Mau Chóng đến nhóm tánh tín, (ta sẽ thuyết giảng) Kinh Purābheda đến nhóm tánh giác,” Ngài cũng để tâm đến hội chúng đó rằng – “Hội chúng nên biết thông qua tánh nết của mình, thông qua tánh nết của người khác, thông qua sự việc xảy ra, hoặc thông qua việc đặt câu hỏi?” Khi đó, khi biết được rằng: “Hội chúng nên biết thông qua việc đặt câu hỏi.” – Ngài khởi lên suy tư rằng: “Có ai hay không đã nắm lấy tánh nết của các Thiên nhân và có thể đặt câu hỏi về phương diện tánh nết?” – Ngài thấy rằng “Trong số năm trăm vị tỳ khưu ấy, dù chỉ một vị cũng không thể.” Sau đó, Ngài đã tập hợp tám mươi vị đại đệ tử và 2 vị thượng thủ Thinh văn cũng thấy rằng “ngay cả họ cũng không thể”. Ngài suy nghĩ rằng “nếu như có thể có vị Phật Độc Giác, liệu vị Phật Độc Giác có thể không? Ngài nhận thấy rằng: “ngay cả vị Phật Độc Giác cũng không thể.” Ngài đã tập hợp rằng: “Vị thiên chủ Sakka và vị Suyāma thì ai có thể” nếu như trong số những vị ấy bất cứ vị nào có thể hỏi ngài rồi tự trả lời, nhưng trong số các vị ấy cũng không ai có thể.

Athassa etadahosi – ‘‘mādiso buddhoyeva sakkuṇeyya, atthi pana katthaci añño buddho’’ti anantāsu lokadhātūsu anantañāṇaṃ pattharitvā olokento aññaṃ buddhaṃ na addasa. Anacchariyañcetaṃ, yaṃ idāni attanā samaṃ na passeyya, so jātadivasepi brahmajālavaṇṇanāyaṃ vuttanayena attanā samaṃ apassanto – ‘‘aggohamasmi lokassā’’ti appaṭivattiyaṃ sīhanādaṃ nadi. Evaṃ aññaṃ attanā samaṃ apassitvā cintesi – ‘‘sace ahaṃ pucchitvā ahameva vissajjeyyaṃ, evampetā devatā na sakkhissanti paṭivijjhituṃ. Aññasmiṃ pana buddheyeva pucchante mayi ca vissajjante accherakaṃ bhavissati, sakkhissanti ca devatā paṭivijjhituṃ, tasmā nimmitabuddhaṃ māpessāmī’’ti abhiññāpādakajjhānaṃ samāpajjitvā vuṭṭhāya – ‘‘pattacīvaragahaṇaṃ ālokitavilokitaṃ samiñjitapasāritañca mama sadisaṃyeva hotū’’ti kāmāvacaracittehi parikammaṃ katvā pācīnayugandharaparikkhepato ullaṅghamānaṃ candamaṇḍalaṃ bhinditvā nikkhamantaṃ viya rūpāvacaracittena adhiṭṭhāsi.

Lúc đó, điều này đã khởi đến đức Thế Tôn – “Chỉ có đức Phật như ta mới có thể, và liệu có đức Phật khác ở nơi nào chăng?” Ngài đã lan tỏa trí tuệ vô biên khắp thế giới không giới hạn và trong khi quan sát vẫn không nhìn thấy Đức Phật nào khác. Điều này không có gì kỳ diệu, ngay cả vào ngày đản sanh, khi không thấy ai sánh bằng ngài như đã được đề cập trong Chú giải Kinh Phạm Võng, Ngài đã rống lên tiếng rống sư tử mà không ai có thể đảo ngược được: “Ta là bậc tối cao của thế gian.” Sau khi không thấy người nào khác sánh bằng ngài như vậy, ngài đã nghĩ rằng – “Nếu như ta tự đặt câu hỏi và tự trả lời, dẫu là như vậy thì các Thiên nhân này cũng không thể thấu triệt được. Nhưng nếu có một Đức Phật khác đặt câu hỏi và ngài trả lời, thì điều đó sẽ là một điều kỳ diệu, và các Thiên nhân sẽ có thể thấu triệt được. Vì vậy, ta sẽ hóa hiện ra một Đức Phật.” Sau đó, Ngài đã nhập thiền có thần thông làm nền tảng và khi xuất khỏi thiền, ngài đã chuẩn bị với tâm Dục giới rằng: “Hãy cho việc cầm bình bát và y phục, việc nhìn trước và nhìn sau, việc co tay lại và duỗi thẳng tay ra sẽ hoàn toàn giống như ngài,” rồi ngài chú nguyện bằng tâm Sắc giới như thể phá vỡ vầng trăng tròn đang trôi lơ lửng trên cao xung quanh đỉnh núi Yugandhara ở phía Đông cho nó thoát khỏi ra ngoài.

Devasaṅgho taṃ disvā – ‘‘aññopi nu kho, bho, cando uggato’’ti āha. Atha candaṃ ohāya āsannatare jāte ‘‘na cando, sūriyo uggato’’ti, puna āsannatare jāte ‘‘na sūriyo, devavimānaṃ eka’’nti, puna āsannatare jāte ‘‘na devavimānaṃ, devaputto eko’’ti, puna āsannatare jāte ‘‘na devaputto, mahābrahmā eko’’ti, puna āsannatare jāte ‘‘na mahābrahmā, aparopi bho buddho āgato’’ti āha. Tattha puthujjanadevatā cintayiṃsu – ‘‘ekabuddhassa tāva ayaṃ devatāsannipāto, dvinnaṃ kīva mahanto bhavissatī’’ti. Ariyadevatā cintayiṃsu – ‘‘ekissā lokadhātuyā dve buddhā nāma natthi, addhā bhagavatā attanā sadiso añño eko buddho nimmito’’ti.

Khi tập thể chư Thiên đã nhìn thấy điều đó cũng nói rằng – “Thưa ngài, phải chăng có một mặt trăng khác đang mọc?” – Khi Đức Phật được hóa hiện đã rời bỏ mặt trăng để tiến lại gần, (họ) cũng nói rằng: “Không phải là mặt trăng, mà là mặt trời đang mọc,” – Nhưng khi càng tiến lại gần, (họ) cũng nói rằng: “Không phải mặt trời, đó là cung điện của các Thiên nhân.” – Khi tiến gần hơn nữa, họ nói rằng: “Không phải là cung điện của các Thiên nhân, mà là vị Thiên nhân.” – Khi tiến gần hơn nữa, họ lại nói rằng: “Không phải là vị Thiên nhân, mà là Đại Phạm Thiên.” – Khi tiến gần hơn nữa, họ lại nói rằng: “Không phải là Đại Phạm Thiên, mà là một đức Phật khác đang đến.” Ở đó, các Thiên nhân phàm nhân nghĩ rằng – “Chỉ một Đức Phật mà cuộc tụ hội chư Thiên đã lớn như thế này, nếu có hai vị Phật thì sẽ to lớn như thế nào nữa.” Còn các Thiên nhân Thánh nhân nghĩ rằng: “Trong cùng một thế giới không có hai vị Phật. Chắc chắn đức Phật đã hóa hiện ra thêm một vị Phật khác nữa giống như Ngài.”

Atha tassa devasaṅghassa passantasseva nimmitabuddho āgantvā dasabalaṃ avanditvāva sammukhaṭṭhāne samasamaṃ katvā māpite āsane nisīdi. Bhagavatopi dvattiṃsa mahāpurisalakkhaṇāni, nimmitassāpi dvattiṃsāva, bhagavatopi sarīrā chabbaṇṇarasmiyo nikkhamanti, nimmitassāpi, bhagavato sarīrarasmiyo nimmitassa sarīre paṭihaññanti, nimmitassa sarīrarasmiyo bhagavato kāye paṭihaññanti. Tā dvinnampi buddhānaṃ sarīrato uggamma akaniṭṭhabhavanaṃ āhacca tato paṭinivattitvā devatānaṃ matthakapariyante otaritvā cakkavāḷamukhavaṭṭiyaṃ patiṭṭhahiṃsu. Sakalacakkavāḷagabbhaṃ suvaṇṇamaya-vaṅka-gopānasīvinaddhamiva cetiyagharaṃ virocittha. Dasasahassacakkavāḷadevatā ekacakkavāḷe rāsibhūtā dvinnaṃ buddhānaṃ rasmigabbhantaraṃ pavisitvā aṭṭhaṃsu. Nimmitabuddho nisīdantoyeva dasabalassa bodhipallaṅke kilesappahānaṃ abhitthavanto –

Khi tập thể chư Thiên đang nhìn thấy đức Phật được hóa hiện, thì đức Phật được hóa hiện cũng đã đến, không đảnh lễ đấng Thập Lực, đã làm cho đồng đẳng ở trước mặt Ngài, và ngồi xuống trên chỗ ngồi đã được tạo ra. Ba mươi hai tướng của bậc Đại Nhân của chính đức Thế Tôn thì đức Phật được hóa hiện cũng có ba hai tướng, hào quang sáu màu tỏa ra từ kim thân của chính đức Thế Tôn thì đức Phật được hóa hiện cũng có tương tự, hào quang từ kim thân của đức Thế Tôn chạm vào kim thân của đức Phật được hóa hiện, hào quang từ kim thân của đức Phật được hóa hiện cũng chạm vào hào quang của đức Thế Tôn. Hào quang ấy phát ra từ kim thân của cả hai vị Phật lan tỏa đến cõi Phạm Thiên Sắc Cứu Cánh, rồi quay trở lại rơi xuống trên đỉnh đầu của mỗi vị Thiên rồi vững trú tại ranh giới vũ trụ. Toàn bộ nội phòng vũ trụ chói sáng tựa như ngôi bảo điện có cây đà cong để đỡ sườn của mái nhà đi với bạc quấn xung quanh. Các Thiên nhân trong mười ngàn vũ trụ tập trung lại thành nhóm trong một vũ trụ, đã bước vào đứng giữa căn phòng ánh hào quang của cả hai vị Phật. Khi đức Phật được hóa hiện đang an tọa đã tán thán việc dứt trừ phiền não ở trên bồ đoàn dưới cội cây Bồ Đề của đấng Thập Lực –

‘‘Pucchāmi muniṃ pahūtapaññaṃ,

Tiṇṇaṃ pāraṅgataṃ parinibbutaṃ ṭhitattaṃ;

Nikkhamma gharā panujja kāme,

Kathaṃ bhikkhu sammā so loke paribbajeyyā’’ti.[6]

Gāthaṃ abhāsi. Satthā devatānaṃ tāva cittakallatājananatthaṃ āgatāgatānaṃ nāmagottāni kathessāmīti cintetvā ācikkhissāmi, bhikkhavetiādimāha.

Đã nói lên kệ ngôn rằng:

Con hỏi bậc hiền trí, bậc có tuệ bao la, bậc đã vượt qua, đã đi đến bờ kia, đã hữu dư Niết Bàn, có bản thân ổn định rằng: ‘Sau khi rời nhà ra đi, sau khi đã xua đuổi các dục, vị tỳ khưu ấy có thể du hành chân chánh ở thế gian như thế nào?

Bậc Đạo Sư đã nghĩ rằng: Ta sẽ nói về tên và dòng dõi của những vị đã đến nhằm mục đích khiến các Thiên nhân khởi lên tâm sẵn sàng trước nên đã nói rằng: “Này các tỳ khưu ta sẽ nói…

  1. Tattha silokamanukassāmīti akkharapadaniyamitaṃ vacanasaṅghātaṃ pavattayissāmi. Yattha bhummā tadassitāti yesu yesu ṭhānesu bhummā devatā taṃ taṃ nissitā. Ye sitā girigabbharantiādīhi tesaṃ bhikkhūnaṃ vaṇṇaṃ kathesi, ye bhikkhū girikucchiṃ nissitāti attho. Pahitattāti pesitacittā. Samāhitāti avikkhittā.
    Ở đó, ta sẽ thuật lại bài kệ: những lời nói được sáng tác thành thể thơ, tức là ta sẽ làm những nhóm từ theo nguyên tắc với các mẫu tự, thuật ngữ được tiếp diễn. Các vị Thiên thuộc trái đất ở nơi nào thì nương náu nơi đó: Các vị Thiên thuộc trái đất nương náu ở những nơi nào thì nương náu ở những nơi đó. Đức Thế Tôn đã nói lời ca ngợi đến các vị tỳ khưu ấy với câu bắt đầu rằng: “Các vị đã nương náu ở hang núi,” có nghĩa là các vị tỳ khưu nào sống ở hang núi. Có bản tánh cương quyết: có bản tánh cương quyết. Được định tĩnh: không xao lãng.

Puthūti bahujanā. Sīhāva sallīnāti sīhā viya nilīnā ekattaṃ upagatā. Lomahaṃsābhisambhunoti lomahaṃsaṃ abhibhavitvā ṭhitā, nibbhayāti vuttaṃ hoti. Odātamanasā suddhāti odātacittā hutvā suddhā. Vippasannāmanāvilāti vippasannaanāvilā.

Nhiều: nhiều người. Ví như các con sư tử, đã ẩn cư: đã đạt đến trạng thái tâm chuyên nhất ví như các con sư tử đã ẩn cư. là các bậc đã chế ngự sự sởn lông: đã chế ngự sự sởn lông, đã vững trú, giải thích rằng không có sự sợ hãi. Có tâm ý thanh bạch, sạch sẽ: là vị có tâm trắng sáng, trong sạch. Thanh tịnh, không bị ô nhiễm: thanh tịnh, không bị nhiễm ô.

Bhiyyopañcasate ñatvāti sammāsambuddhena saddhiṃ atirekapañcasate bhikkhū jānitvā. Vane kāpilavatthaveti kapilavatthusamīpamhi jāte vanasaṇḍe. Tato āmantayī satthāti tadā āmantayi. Sāvakesāsane rateti attano dhammadesanāya savanante jātattā sāvake sikkhattayasāsane ratattā sāsane rate. Idaṃ sabbaṃ – ‘‘silokamanukassāmī’’ti vacanato aññena vuttaṃ viya katvā vadati.

Sau khi biết được có hơn năm trăm vị tỳ khưu: sau khi nhận biết được có hơn năm trăm vị tỳ khưu tính luôn cả bậc Chánh đẳng Chánh giác. Ở khu rừng kế cận Kapilavatthu: Ở khu rừng mọc tự nhiên gần thành Kapilavatthu. Kế đó, bậc Đạo Sư đã bảo các vị đệ tử: đã bảo (các vị đệ tử) trong lần đó. Các vị đệ tử ưa thích Giáo Pháp: được gọi là đệ tử vì được sanh ra trong khi lắng nghe Pháp thoại của ngài, được gọi là ưa thích Giáo Pháp vì hoan hỷ trong Giáo Pháp, tức là ba học giới. Đức Phật đã làm cho tất cả những lời này như được nói bởi người khác và nói rằng: “Ta sẽ thuật lại bài kệ…

Devakāyā abhikkantā, te vijānātha bhikkhavoti te dibbacakkhunā vijānāthāti nesaṃ bhikkhūnaṃ dibbacakkhuñāṇābhinīhāratthāya kathesi. Te ca ātappamakaruṃ, sutvā buddhassa sāsananti te ca bhikkhū taṃ buddhasāsanaṃ sutvā tāvadeva tadatthāya vīriyaṃ kariṃsu.

Các tập thể chư Thiên đã ngự đến, này các tỳ khưu, hãy nhận biết họ: đức Thế Tôn thuyết giảng vì lợi ích nguyện vọng Thiên nhãn trí của các vị tỳ khưu ấy rằng: các ông hãy nhận biết tập thể chư Thiên ấy bằng Thiên nhãn. Và các vị ấy đã thể hiện sự tinh cần sau khi lắng nghe lời dạy của đức Phật: và các vị tỳ khưu ấy sau khi lắng nghe lời dạy của đức Phật ngay lúc ấy đã thể hiện sự tinh tấn vì sự lợi ích ấy (lợi ích Thiên nhãn).

Evaṃ katamattātappānaṃyeva tesaṃ pāturahu ñāṇaṃ. Kīdisaṃ? Amanussānaṃ dassanaṃ dibbacakkhuñāṇaṃ uppajji. Na taṃ tehi tasmiṃ khaṇe parikammaṃ katvā uppāditaṃ. Ariyamaggeneva hi taṃ nipphannaṃ. Amanussadassanatthaṃ panassa abhinīhāramattameva kataṃ. Satthāpi – ‘‘atthi tumhākaṃ ñāṇaṃ, taṃ nīharitvā tena hi te vijānāthā’’ti idameva sandhāya ‘‘te vijānātha, bhikkhavo’’ti āha.

Trí đã hiện khởi đến các vị ấy ngay khi vừa thể hiện sự tinh cần như vậy. Điều đó là như thế nào? Là trí về Thiên nhãn đã hiện khởi để nhìn thấy các phi nhân. Trí về Thiên nhãn đó không phải các vị ấy đã thực hiện tâm chuẩn bị đã được sanh khởi ở sát-na ấy, Bởi vì trí về Thiên nhãn đó thành tựu hoàn toàn nhờ vào Thánh Đạo. Hơn nữa, chỉ là nguyện vọng của trí về Thiên nhãn để nhìn thấy các phi nhân nên đã thực hiện. Luôn cả bậc Đạo Sư cũng đề cập đến chính điều này rằng – “các ông có trí, nếu thế các ông hãy hướng trí để nhận biết họ” rồi mới nói rằng: “Này các tỳ khưu, hãy nhận biết tập thể chư Thiên

Appeke satamaddakkhunti tesu bhikkhūsu ekacce bhikkhū amanussānaṃ sataṃ addasaṃsu. Sahassaṃ atha sattarinti eke sahassaṃ. Eke sattati sahassāni.

Một số vị tỳ khưu cũng đã nhìn thấy một trăm: Trong số những vị tỳ khưu ấy, một số vị tỳ khưu đã nhìn thấy một trăm phi nhân. Một ngàn và bảy chục ngàn: một số đã nhìn thấy một ngàn phi nhân, một số đã nhìn thấy bảy chục ngàn phi nhân.

Sataṃ eke sahassānanti eke satasahassaṃ addasaṃsu. Appekenantamaddakkhunti vipulaṃ addasaṃsu, satavasena sahassavasena ca aparicchinnepi addasaṃsūti attho. Kasmā? Yasmā disā sabbā phuṭā ahuṃ, bharitā sampuṇṇāva ahesuṃ.

Một số đã nhìn thấy một trăm ngàn phi nhân: một số đã nhìn thấy một trăm ngàn phi nhân. Một số vị cũng đã nhìn thấy vô số: đã nhìn thấy một cách rộng lớn, có nghĩa là đã nhìn thấy các phi nhân dù với số lượng hàng trăm và hàng ngàn cũng không thể xác định được. Vì sao? Bởi vì tất cả các phương đã tràn ngập các phi nhân, tức là đã hoàn toàn đầy tràn.

Tañca sabbaṃ abhiññāyāti yaṃ tesu ekenekena diṭṭhaṃ, tañca sabbaṃ jānitvā. Vavatthitvāna[7] cakkhumāti hatthatale lekhaṃ viya paccakkhato vavatthapetvā pañcahi cakkhūhi cakkhumā satthā. Tato āmantayīti pubbe vuttagāthameva nāmagottakittanatthāya āha. Tumhe ete vijānātha, passatha, oloketha, ye vohaṃ kittayissāmīti ayamettha sambandho. Girāhīti vacanehi. Anupubbasoti anupaṭipāṭiyā.

Và sau khi biết thấu đáo mọi việc ấy: Trong số các vị tỳ khưu những gì mà mỗi vị đã nhìn thấy, cũng đều đã biết mọi việc ấy. Bậc Hữu Nhãn đã phân tích: Bậc Đạo Sư vị có mắt với cả năm loại mắt đã phân tích một cách rõ ràng giống như người xem xét chỉ tay vậy. Rồi Ngài nói lên lời kệ đã được đề cập trước đây, rằng sau đó Ngài gọi để muốn nói tên và họ. Mới nói lên lời kệ đã được nói trước đó, ‘kế đó, bậc Đạo Sư đã bảo các vị đệ tử’ để tuyên bố tên và dòng họ. Trong câu này, có sự liên quan như vầy rằng: Các ông hãy nhận biết, hãy nhìn, hãy quan sát các phi nhân mà ta sẽ tuyên bố về họ cho các ngươi. Bằng các lời nói: với các lời nói. Theo thứ tự: theo tuần tự.

  1. Sattasahassā te yakkhā, bhummā kāpilavatthavāti sattasahassā tāvettha kapilavatthuṃ nissāya nibbattā bhummā yakkhāyevāti vadati. Iddhimantoti dibbaiddhiyuttā. Jutimantoti ānubhāvasampannā. Vaṇṇavantoti sarīravaṇṇasampannā. Yasassinoti parivārasampannā. Modamānā abhikkāmunti tuṭṭhacittā āgatā. Bhikkhūnaṃ samitiṃ vananti imaṃ mahāvanaṃ bhikkhūnaṃ santikaṃ bhikkhūnaṃ dassanatthāya āgatā. Atha vā samitinti samūhaṃ, bhikkhusamūhaṃ dassanāya āgatātipi attho.
    Bảy ngàn Dạ-xoa ấy, thuộc trái đất, trú ở Kapilavatthu: Đức Thế Tôn nói rằng: Các Dạ-xoa này thuộc trái đất cư trú ở thành Kapilavatthu, đã được sanh ra ở thành Kapilavatthu trước kia. Có thần thông: Gắn liền với thần thông thuộc về cõi trời. Có sự chói sáng: Thành tựu nhờ oai lực. Có sắc tướng: Thành tựu với vẻ đẹp của thân hình. Có danh vọng: Thành tựu bởi tùy tùng. Vui mừng, đã ngự đến cuộc họp: có tâm hoan hỷ, đã ngự đến. (Ngự đến cuộc họp) của các vị tỳ khưu tại khu rừng: Đến để ngắm nhìn khu rừng lớn này là trú xứ của các vị tỳ khưu, và cũng đến để chiêm ngưỡng các vị tỳ khưu. Nói cách khác, cuộc hội họp gọi là sự tập họp lại, có nghĩa là đến để chiêm ngưỡng các vị tỳ khưu.

Chasahassā hemavatā, yakkhā nānattavaṇṇinoti chasahassā hemavatapabbate nibbattayakkhā, te ca sabbepi nīlādivaṇṇavasena nānattavaṇṇā.

Sáu ngàn Dạ-xoa từ núi Hy Mã Lạp, có màu da khác nhau: Sáu ngàn Dạ-xoa sanh quán từ núi Hy Mã Lạp, tất cả những Dạ-xoa ấy có màu da khác nhau do tác động màu xanh v.v.

Sātāgirā tisahassāti sātāgiripabbate nibbattayakkhā tisahassā.

Ba ngàn Dạ-xoa từ núi Sātāgiri: Ba ngàn Dạ-xoa sanh quán từ núi Sātāgiri.

Iccete soḷasasahassāti ete sabbepi soḷasasahassā honti.

Như thế, mười sáu ngàn Dạ-xoa này: Tất cả Dạ-xoa này tổng cộng là mười sáu ngàn.

Vessāmittā pañcasatāti vessāmittapabbate nibbattā pañcasatā.

Năm trăm Dạ-xoa từ núi Vessāmitta: Năm trăm Dạ-xoa sanh quán từ núi Vessāmitta.

Kumbhīro rājagahikoti rājagahanagare nibbatto kumbhīro nāma yakkho. Vepullassa nivesananti tassa vepullapabbato nivesanaṃ nivāsanaṭṭhānanti attho. Bhiyyo naṃ satasahassaṃ, yakkhānaṃ payirupāsatīti taṃ atirekaṃ yakkhānaṃ satasahassaṃ[8] payirupāsati. Kumbhīro rājagahiko, sopāgā samitiṃ vananti sopi kumbhīro saparivāro imaṃ vanaṃ bhikkhusamitiṃ dassanatthāya āgato.

Kumbhīra sanh quán thành Rājagaha: Dạ-xoa gọi là Kumbhīra có sanh quán thành Rājagaha. Trú xứ ở núi Vepulla: Núi Vepulla là trú xứ, là nơi ở của Dạ-xoa ấy. Có hơn một trăm ngàn Dạ-xoa hầu cận vị ấy: hơn một trăm ngàn Dạ-xoa hầu cận là Kumbhīra ấy. Kumbhīra sanh quán thành Rājagaha, vị ấy cũng đi đến khu rừng có cuộc hội họp: Luôn cả Dạ-xoa Kumbhīra ấy cùng với tùy tùng cũng đi đến khu rừng này để ngắm nhìn cuộc hội họp của các vị tỳ khưu.

  1. Purimañca disaṃ rājā, dhataraṭṭho pasāsatīti pācīnadisaṃ anusāsati. Gandhabbānaṃ adhipatīti catūsupi disāsu gandhabbānaṃ jeṭṭhako. Sabbe te tassa vase vattanti. Mahārājā yasassisoti mahāparivāro eso mahārājā.
    Và vua Dhataraṭṭha cai quản phương Đông: Vị cai quản phương Đông. Vị ấy là chúa tể của các Gandhabba: Là vị thủ lĩnh của các Gandhabba. Tất cả Gandhabba ấy đều nằm dưới quyền cai quản của vua Dhataraṭṭha ấy. Là bậc đại vương có danh vọng: Bậc đại vương ấy có nhiều tùy tùng.

Puttāpitassa bahavo, indanāmā mahabbalāti tassa dhataraṭṭhassa bahavo mahabbalā puttā, te sabbe sakkassa devarañño nāmadhārakā.

Vị ấy cũng có nhiều con trai tên là Inda, (các vị) có sức mạnh vĩ đại: là các con trai của vua Dhataraṭṭha ấy có nhiều, và có sức mạnh vĩ đại. Tất cả các vị ấy đều mang tên của vua Sakka, là vua của các vị Thiên nhân.

Virūḷho taṃ pasāsatīti taṃ disaṃ virūḷho anusāsati.

Và vua Virūḷha cai quản phương Nam ấy: Phương Nam ấy vua Vỉrūḷha chỉ bảo.

Puttāpi tassāti tassāpi tādisāyeva puttā. Pāḷiyaṃ pana ‘‘mahabbalā’’ti likhanti. Aṭṭhakathāyaṃ sabbavāresu[9] ‘‘mahābalā’’ti pāṭho.

Con trai của vị ấy: các con trai của vị ấy cũng tương tự (vua Dhataraṭṭha). Hơn nữa trong Chánh văn Pāḷī ngài viết rằng: “mahabbalā – có sự mạnh vĩ đại”. Ở tất cả các đoạn trong Chú giải thì Pāṭha là ‘mahābalā – có sức mạnh vĩ đại’

‘‘Purimaṃ disaṃ dhataraṭṭho, dakkhiṇena virūḷhako;

Pacchimena virūpakkho, kuvero uttaraṃ disaṃ.

Cattāro te mahārājā, samantā caturo disā;

Daddallamānā[10] aṭṭhaṃsu, vane kāpilavatthave’’ti.

Imā pana gāthā sabbasaṅgāhikavasena vuttā.

Hơn nữa, lời kệ đức Thế Tôn thuyết về phương diện tổng hợp tất cả như vầy rằng:

Vị Dhataraṭṭha (cai quản) ở hướng Đông, vị Virūḷhaka về hướng Nam,

vị Virūpakkha về hướng Tây, vị Kuvera (cai quản) ở hướng Bắc.

Bốn vị đại vương ấy ở bốn hướng xung quanh,

chói sáng rực rỡ, đã đứng, nơi khu rừng kế cận Kapilavatthu.

Ayañcettha attho – dasasahassacakkavāḷe dhataraṭṭhā nāma mahārājāno atthi. Te sabbepi koṭisatasahassa- koṭisatasahassa- gandhabbaparivārā āgantvā puratthimāya disāya kapilavatthumahāvanato paṭṭhāya cakkavāḷagabbhaṃ pūretvā ṭhitā. Evaṃ dakkhiṇadisādīsu virūḷhakādayo. Tenevāha – ‘‘samantā caturo disā, daddallamānā aṭṭhaṃsū’’ti. Idañhi vuttaṃ hoti – ‘‘samantā cakkavāḷehi āgantvā caturo disā pabbatamatthakesu aggikkhandhā viya suṭṭhu jalamānā ṭhitā’’ti. Te pana yasmā kapilavatthuvanameva sandhāya āgatā, tasmā cakkavāḷaṃ pūretvā cakkavāḷena samasamā ṭhitāpi – ‘‘vane kāpilavatthave’’ti vuttā.

Ở đây, điều này có ý nghĩa như sau – Trong mười ngàn vũ trụ có (bốn) vị đại vương tên là Dhataraṭṭha. Toàn bộ ấy ai cũng có trăm ngàn koṭi (và) trăm ngàn koṭi các Gandhabba tùy tùng đứng đầy nội phòng vũ trụ bắt đầu từ khu rừng lớn gần thành Kapitlavatthu ở hướng Đông. Vua Virūḷhaka v.v, ở phương Nam và phương khác cũng tương tự. Vì lý do đó, đức Thế Tôn mới nói rằng: “Ở bốn hướng xung quanh, chói sáng rực rỡ, đã đứng…” Bởi vì điều này đã được nói là – “Đã đến từ vũ trụ ở bốn hương xung quanh chói sáng rực rỡ, đã đứng, tương tự như khối lửa ở trên ngọn núi. Hơn nữa, những vị ấy chỉ đề cập đến thành Kapilavatthu rồi mới đi đến do nguyên nhân nào, thì do nguyên nhân ấy đức Thế Tôn đã nói rằng: là người làm cho vũ trụ đầy (có số lượng) tương đương với vũ trụ, rồi đã đứng – “ở gần khu rừng Kapilavatthu.”

  1. Tesaṃ māyāvino dāsā, āguṃ vañcanikā saṭhāti tesaṃ mahārājānaṃ katapāpapaṭicchādanalakkhaṇāya māyāya yuttā kuṭilācārā dāsā atthi, ye sammukhaparammukhavañcanāhi lokaṃ vañcanato ‘‘vañcanikā’’ti ca, kerāṭiyasāṭheyyena samannāgatattā ‘‘saṭhā’’ti ca vuccanti, tepi āgatāti attho. Māyā kuṭeṇḍu viṭeṇḍu, viṭucca viṭuṭo sahāti te dāsā sabbepi māyākārakāva. Nāmena panettha eko kuṭeṇḍu nāma, eko viṭeṇḍu nāma. Pāḷiyaṃ pana ‘‘veṭeṇḍū’’ti likhanti. Eko viṭucca nāma, eko viṭuṭo nāma. Sahāti sopi viṭuṭo tehi saheva āgato.
    Các tôi tớ (của bốn vị đại vương) xảo quyệt, tráo trở, lừa dối của các vị ấy đã đi đến: Các đại vương đó có những tôi tớ với phẩm hạnh không chân thật, gắn liền với sự xảo quyệt bằng sự che giấu những điều xấu xa đã tạo là tướng trạng. Họ được gọi là “những kẻ tráo trở” vì gắn liền với sự lừa dối thế gian cả trước mặt lẫn sau lưng, và cũng được gọi là “kẻ lường gạt” vì gắn liền với sự dối trá và khoe khoang của mình, cả những kẻ ấy cũng đến. Những kẻ xảo quyệt Kuṭeṇḍu, Veṭeṇḍu, Viṭucca, cùng với Viṭuḍa: Tất cả các tôi tớ này đều thực hiện những hành vi xảo quyệt. Hơn nữa, trong nhóm này, một kẻ với tên là Kuṭeṇḍu, một kẻ tên là Veṭeṇḍu. Thêm nữa, trong kinh điển Pāḷi, có viết rằng “Veṭeṇḍū”. Một tên là Viṭucca, một tên là Viṭuṭa. Cùng với: kể cả Viṭuṭa ấy cũng đến cùng với nhóm người ấy tương tự.

Candanokāmaseṭṭho ca, kinnighaṇḍu nighaṇḍu cāti aparo kinnighaṇḍu nāma. Pāḷiyaṃ pana ‘‘kinnughaṇḍū’’ti likhanti. Nighaṇḍu cāti añño nighaṇḍu nāma, ettakā dāsā. Ito pare pana –

‘‘Panādo opamañño ca, devasuto ca mātali;

Cittaseno ca gandhabbo, naḷo rājā janesabho;

Āguṃ pañcasikho ceva, timbarū sūriyavacchasā’’ti. –

Ime devarājāno. Tattha devasutoti devasārathi. Cittasenoti citto ca seno ca cittaseno ca. Gandhabboti ayaṃ cittaseno gandhabbakāyiko devaputto, na kevalaṃ cesa, sabbe pete panādādayo gandhabbā eva. Naḷorājāti naḷakāradevaputto nāmeko. Janesabhoti janavasabho devaputto. Āguṃ pañcasikho cevāti pañcasikho ceva devaputto āgato. Timbarūti timbarū nāma gandhabbadevarājā. Sūriyavacchasāti tasseva dhītā.

Candana, Kāmaseṭṭha, Kinnighaṇḍu, và Nighaṇḍu: một người khác tên là Kinnighaṇḍu. Nhưng trong Pāḷī viết là “‘kinnughaṇḍū”. và Nighaṇḍu: một người khác tên là Nighaṇḍu, (Nighaṇḍu có hai người) nhóm tôi tớ có mười người chừng này.

Còn nhóm khác ngoài nhóm này, gồm các thiên vương này:

Panāda, Opamañña, Devasūta, và Mātali,

vị Càn-thát-bà Cittasena, vua Naḷa, (Thiên tử) Janesabha.

Pañcasikha, và Timbaru nữa, (cùng con gái) Suriyavaccasā đã đi đến

Trong số đó, Devasūta là Devasārathī. Cittasena: có thể tách ra thành ba vị thiên vương là Citta, Sena và Cittasena. Gandhabba: cũng bao gồm Cittasena thuộc nhóm Gandhabba này. Không chỉ riêng Cittasena này cho đến Panāda toàn bộ đều thuộc nhóm Gandhabba. Vua Naḷa: Một vi thiên tử tên là Naḷakāra. Janesabha: vị thiên tử tên là Janavasabha. Và Pañcasikha cũng đi đến: chính là thiên tử Pañcasikha cũng đã đến. Timbarū: Thiên vương Gandhabba tên là Timbarū. Suriyavaccasā: chính là con gái của thiên vương Timbarū.

Ete caññe ca rājāno, gandhabbā saha rājubhīti ete ca nāmavasena vuttagandhabbarājāno aññe ca etehi rājūhi saddhiṃ bahū gandhabbā. Modamānā abhikkāmuṃ, bhikkhūnaṃ samitiṃ vananti haṭṭhatuṭṭhacittā bhikkhusaṅghasamitiṃ imaṃ vanaṃ āgatāti attho.

Các vị này và các vị vua khác, các Càn-thát-bà cùng với các vị vua: Các vị Thiên này, các vua Gandhabba được nói đến với phương diện tên gọi, và nhiều Gandhabba khác cùng với những vị vua đó. Vui mừng, đã ngự đến cuộc họp của các vị tỳ khưu tại khu rừng: có nghĩa là có tâm vui mừng, hoan hỷ đã đến khu rừng này là nơi hội họp của các vị tỳ khưu.

  1. Athāguṃ nāgasā nāgā, vesālā sahatacchakāti nāgasadahavāsikā ca vesālīvāsikā ca nāgā saha tacchakanāgaparisāya āgatāti attho. Kambalassatarāti kambalo ca assataro ca. Ete kira sinerupāde vasanti, supaṇṇehipi anuddharaṇīyā mahesakkhanāgā pāyāgā saha ñātibhīti payāgatitthavāsino ca saha ñātisaṅghena āgatā.
    Rồi các Rồng ngụ ở hồ Nābhasa, ngụ ở Vesālī, cùng với tập thể Rồng ở Tacchaka đã đi đến: Các Rồng ngụ ở hồ Nābhasa và các Rồng ngụ ở thành Vesālī cũng đến cùng với tập thể Rồng Tacchaka. Rồng Kambala: Rồng Kambala và Rồng Assatara. Nghe rằng các Rồng này ngụ ở chân núi Suneru là loài Rồng có uy lực lớn luôn cả loài Supaṇṇa cũng không thể bắt được. Các Rồng ở Pāyāga cùng với các thân quyến đã đi đến: các Rồng ngụ ở bến nước Pāyāga cũng đã đi đến cùng với các thân quyến.

Yāmunā dhataraṭṭhā cāti yamunavāsino ca dhataraṭṭhakule uppannā nāgā ca. Erāvaṇo mahānāgoti erāvaṇo ca devaputto, jātiyā nāgo na hoti. Nāgavohārena panesa vohariyati. Sopāgāti sopi āgato.

Các Rồng trú ở sông Yāmunā (và các Rồng thuộc gia tộc Dhataraṭṭha): Các Rồng trú ở sông Yamunā và các Rồng được sanh ra trong gia tộc Dhataraṭṭha. (Thiên tử) Erāvaṇa là loài Nāga vĩ đại: và Thiên tử Erāvaṇa, không phải là Nāga theo sảnh chủng, nhưng vị Thiên tử ấy bị gọi là Nāga. Cũng đã đi đến: Cả Thiên tử Erāvaṇa cũng đã đi đến.

Ye nāgarāje sahasā harantīti ye ime vuttappakāre nāge lobhābhibhūtā sāhasaṃ[11] katvā haranti gaṇhanti. Dibbā dijā pakkhī visuddhacakkhūti dibbānubhāvato dibbā mātukucchito ca aṇḍakosato cāti dve vāre jātāti dijā pakkhayuttatāya pakkhī yojanasatantarepi yojanasahassantarepi nāge dassanasamatthacakkhutāya visuddhacakkhū. Vehāyasāte vanamajjhappattāti te ākāseneva imaṃ mahāvanaṃ sampattā. Citrā supaṇṇā iti tesa nāmanti tesaṃ ‘‘citrasupaṇṇā’’ti nāmaṃ.

Những loài nào mang đi các Vua Rồng bằng vũ lực: những loài nào Garuḍa bị tham ái chi phối rồi mang đi, là bắt các Rồng có cách thức đã đề cập một cách nhanh chóng. Thuộc cõi Trời, loài lưỡng sanh, có cánh, có cặp mắt tinh tường: Thuộc cõi trời bởi vì có uy lực thuộc cõi trời, loài lưỡng sanh bởi sanh ra hai lần là sanh ra từ bụng mẹ và rồi sanh ra từ vỏ trứng, có cánh bởi gắn liền với đôi cánh, có cặp mắt tinh tường bởi vì gắn liền với đôi mắt có khả năng nhìn thấy tập thể Rồng ở giữa hàng trăm do-tuần, hàng ngàn do-tuần. Từ không trung, chúng ngự đến giữa cánh rừng: Các Garuḍa ấy đến khu rừng lớn bằng chính đường không trung. Citrā, Supaṇṇā là các tên gọi của chúng: “Citra và Supaṇṇā” là tên gọi của Garuḍa.

Abhayaṃtadā nāgarājānamāsi, supaṇṇato khemamakāsi buddhoti tasmā sabbepi te aññamaññaṃ saṇhāhi vācāhi upavhayantā mittā viya bandhavā viya ca samullapantā sammodamānā āliṅgantā hatthe gaṇhantā aṃsakūṭe hatthaṃ ṭhapentā haṭṭhatuṭṭhacittā. Nāgā supaṇṇā saraṇamakaṃsu buddhanti buddhaṃyeva saraṇaṃ gatā.

Khi ấy, các Vua Rồng đã không có sự sợ hãi, đức Phật đã tạo sự an toàn (cho các Vua Rồng) với loài Supaṇṇā: (nguyên nhân nào?) do nguyên nhân ấy tất cả các loài Rồng và Garuḍa ấy (cả hai loài) thăm hỏi nhau bằng những lời nói dịu dàng như bạn bè, như người thân, ôm nhau, nắm tay nhau, đặt tay lên vai nhau, có tâm vui mừng, hoan hỷ. Các Nāga (Rồng) và Supaṇṇa đã đi đến nương nhờ đức Phật: Chúng đã đi đến nương nhờ nơi đức Phật.

  1. Jitā vajirahatthenāti indena devaraññā jitā. Samuddaṃ asurāsitāti mahāsamuddavāsino[12] sujātāya asurakaññāya kāraṇā sabbepi bhātaro vāsavassete, iddhimanto yasassino.
    Bị đánh bại bởi vị cầm tia sét ở tay : bị đánh bại bởi Thiên vương Inda. Các Asura nương náu ở biển: Các Asura cư trú ở biển lớn, (bị Thiên vương Inda, là vua các vị Thiên vị cầm tia sét ở tay đánh bại trước kia) vì lý do nàng Sujāta con gái của Asūra tất cả các vị này là anh em của Vāsava, có thần thông, có danh vọng.

Tesu kālakañcā mahābhismāti kālakañcā ca mahante bhiṃsane attabhāve māpetvā āgamiṃsu. Asurā dānaveghasāti dānaveghasā nāma aññe dhanuggahaasurā. Vepacitti sucitti ca, pahārādo namucī sahāti vepacittiasuro, sucittiasuro cāti ete ca asurā devaputto etehi saheva āgato. Ime asurā mahāsamuddavāsino, ayaṃ paranimmitadevalokavāsī, kasmā etehi sahāgatoti? Acchandikattā. Tepi hi acchandikā abhabbā, ayampi tādisoyeva. Tasmā dhātuso saṃsandamāno āgato.

Các kālakañcā vô cùng khủng khiếp: Và các kālakañcā đã hóa hiện ra thân hình to lớn, khủng khiếp cũng đến. Các Asura có tên Dānaveghasa: các Asura cầm cung tên khác có tên Dānaveghasa. Vepacitti, và Sucittī, Pahārāda, cùng với Namuci: Và các Asura này là Asura tên là Vepacitti, và Asura tên là Sucittī, cùng với Namuci bao gồm Ma-vương tên là Namuci là vị Thiên tử cũng đến cùng với các Asura ấy. Các Asura này trú ở biển, còn Namuci này trú Thiên giới cõi Paranimmita, vì sao lại đến cùng với các Asura đó? Bởi vì chúng không hợp ý, là nhóm không có khả năng. Còn Namuci này cũng vậy. Có bản chất hợp nhau vì thế đã đến cùng.

Satañca baliputtānanti balino mahāasurassa puttānaṃ sataṃ. Sabbe verocanāmakāti sabbe attano mātulassa rāhusseva nāmadharā. Sannayhitvā balisenanti attano balisenaṃ sannayhitvā sabbe katasannāhāva hutvā. Rāhubhaddamupāgamunti rāhuasurindaṃ upasaṅkamiṃsu. Samayodāni bhaddanteti bhaddaṃ tava hotu, samayo te bhikkhūnaṃ samitiṃ vanaṃ upasaṅkamitvā bhikkhusaṅghaṃ dassanāyāti attho.

Và một trăm người con của Bali: một trăm người con trai của Bali người Asura to lớn. Tất cả đều có tên là Veroca: Mang tên của Rāhu, là cậu của bọn họ. Sau khi trang bị đội quân hùng mạnh: sau khi trang bị đội quân hùng mạnh của mình, tất cả đều đã trở thành những người tổ chức chiến trường hoàn chỉnh. Đã đi gặp Rāhu hiền thiện: đã đi đến gặp Asura tên là Rāhu. Thưa các ngài, bây giờ là thời gian của các ngài: sự thịnh vượng hãy có đến ngài, giờ là thời điểm hội họp. Giải thích rằng: ngài hãy bước vào khu rừng là nơi hội họp của các tỳ khưu để chiêm ngưỡng Hội Chúng tỳ khưu.

  1. Āpo ca devā pathavī, tejo vāyo tadāgamunti āpokasiṇādīsu parikammaṃ katvā nibbattā āpotiādināmakā devā āgamuṃ. Varuṇā vāraṇā devā, somo ca yasasā sahāti varuṇadevatā , vāraṇadevatā, somadevatāti evaṃ nāmakā ca devā yasasā nāma devena sahāgatāti attho. Mettākaruṇākāyikāti mettājhāne ca karuṇājhāne ca parikammaṃ katvā nibbattadevā. Āguṃ devā yasassinoti etepi mahāyasā devā āgatā.
    Các vị thần Nước, Đất, Lửa, và Gió, khi ấy đã đi đến: Các vị thần có tên bắt đầu là nước bởi vì thực hiện đề mục thiền định trong biến xứ nước, v.v, đã được sanh ra, cũng đã đến trong lần đó. Các vị thần Varuṇa, Vāruṇa, Soma, cùng với Yasa: Các vị thần có tên như vầy là thần Varuṇa, Vāruṇa, Soma, cũng đến cùng với thần Yasa. Các tập thể Từ và Bi: các vị thần đã thực hiện đề mục thiền định trong thiền phối hợp với Từ và trong thiền phối hợp với Bi đã được sanh ra. Là chư Thiên có danh vọng đã đi đến: Luôn cả những vị Thiên này là những vị có danh vọng lớn cũng đã đến.

Dasete dasadhā kāyā, sabbe nānattavaṇṇinoti te dasadhā ṭhitā dasa devakāyā sabbe nīlādivasena nānattavaṇṇā āgatāti attho.

Mười tập thể này, mười loại, có màu da khác nhau: Mười tập thể này, đã được thiết lập thành mười loại, tất cả có màu da khác nhau do tác động của màu xanh, v.v, cũng đã đến.

Veṇḍūca devāti veṇḍudevatā ca. Sahali cāti sahalidevatā ca. Asamā ca duve yamāti asamadevatā ca dve ca yamakā devā. Candassupanisā devā, candamāguṃ purakkhatvāti candanissitakā devā candaṃ purato katvā āgatā. Tathā sūriyanissitakā devā sūriyaṃ purakkhatvā[13]. Nakkhattāni purakkhatvāti nakkhattanissitāpi devā nakkhattāni purato katvā āgatā. Āguṃ mandavalāhakāti vātavalāhakā, abbhavalāhakā, uṇhavalāhakā ete sabbepi valāhakāyikā ‘‘mandavalāhakā’’ nāma vuccanti. Tepi āgatāti attho. Vasūnaṃ vāsavo seṭṭho, sakkopāgā purindadoti vasūnaṃ devatānaṃ seṭṭho vāsavo yo sakkoti ca, purindadoti ca vuccati, sopi āgato.

 Các vị thần Veṇhu: các vị thần Veṇhu. Các vị thần Sahali: Các vị thần Sahali. Asama và hai vị Yama: các vị thần Asama và hai vị Yama. Chư Thiên nương tựa Mặt Trăng đã đi đến, có Mặt Trăng đi trước: Các vị Thiên nương tựa Mặt Trăng, đã đặt Mặt Trăng ở trước cũng đã đến. Cho đến các vị Thiên nương tựa Mặt Trời, có Mặt Trời đi trước cũng đã đến tương tự. Có các vì sao đi trước: Các vị Thiên nương tựa các vì sao, đã đặt các vì sao ở trước cũng đã đến. Các Thần Mây chậm chạp đã đến: Các thần thuộc mây gió, các thần thuộc mây sấm, các thần thuộc mây nóng, các thần mây tất cả đều gọi là “các Thần Mây chậm chập,” ngay cả các Thần Mây chậm chập ấy cũng đã đi đến. Vāsava, Sakka, Purindada, vị đứng đầu các Vasu, cũng đã đi đến: Vāsava, vị nào gọi là Sakka và Purindada vị đứng đầu các vị thần Vāsu, luôn cả vua Vāsava ấy cũng đã đi đến.

Dasete dasadhā kāyāti etepi dasa devakāyā dasadhāva āgatā. Sabbe nānattavaṇṇinoti nīlādivasena nānattavaṇṇā.

Mười tập thể này, mười loại: Mười tập thể chư Thiên này đã đi đến với mười loại. Tất cả có màu da khác nhau: có màu da khác nhau do tác động màu xanh, v.v.

Athāguṃ sahabhū devāti atha sahabhū nāma devā āgatā. Jalamaggisikhārivāti aggisikhā viya jalantā. Jalamaggi ca sikhārivāti imāni tesaṃ nāmānītipi vuttaṃ. Ariṭṭhakā ca rojā cāti ariṭṭhakadevā ca rojadevā ca. Umāpupphanibhāsinoti umāpupphadevā[14] nāma ete devā. Umāpupphasadisā hi tesaṃ sarīrābhā, tasmā ‘‘umāpupphanibhāsino’’ti vuccanti.

Rồi chư Thiên Sahabhū đã đi đến: Sau đó chư Thiên Sahabhū cũng đã đi đến. Tựa như ngọn lửa đang cháy rực: chói sáng tựa như ngọn lửa. Ngài nói rằng chói sáng tựa như ngọn lửa là tên gọi của các vị Thiên ấy như vậy cũng có. Chư Thiên Ariṭṭhaka, Roja: Chư Thiên Ariṭṭhaka và chư Thiên Roja. Chói sáng như hoa lục bình: Chư Thiên ấy tên là chư Thiên hoa lục bình. Bởi vì ánh sáng của các vị Thiên đó giống như hoa lục bình, vì thế nên được gọi là ‘chói sáng như hoa lục bình’.

Varuṇā sahadhammā cāti ete ca dve janā. Accutā ca anejakāti accutadevatā ca anejakadevatā ca. Suleyyarucirāāgunti suleyyā ca rucirā ca āgatā. Āguṃ vāsavanesinoti vāsavanesīdevā nāma āgatā. Dasete dasadhā kāyāti etepi dasadevakāyā dasadhāva āgatā.

Chư Thiên Varuṇa và Sahadhamma: và cả hai vị Thiên này. Accuta và Anejaka: Chư Thiên Accuta và chư Thiên Anejaka. Chư Thiên Sūleyya và Rucira đã đi đến: Chư Thiên Sūleyya và Rucira đã đi đến. Chư Thiên Vāsavanesī đã đi đến: chư Thiên tên là Vāsavanesī đã đi đến. Mười tập thể này, mười loại: Cả mười tập thể chư Thiên này cũng đã đến, theo mười loại.

Samānā mahāsamānāti samānā ca mahāsamānā ca. Mānusā mānusuttamāti mānusā ca mānusuttamā ca. Khiḍḍāpadosikā āguṃ, āguṃ manopadosikāti khiḍḍāpadosikā manopadosikā ca devā āgatā.

Chư Thiên Samāna, Mahāsamāna: Chư Thiên tên là Samāna và chư Thiên tên là Mahāsamāna. Chư Thiên Mānusā, Mānusuttama: Chư Thiên tên là Mānusā và chư Thiên tên là Mānusuttama. chư Thiên Khiḍḍāpadūsika đã đi đến, các vị Manopadūsika đã đi đến: Chư Thiên Khiḍḍāpadosika và chư Thiên Manopadosika cũng đã đi đến.

Athāguṃ harayo devāti haridevā nāma āgatā. Ye ca lohitavāsinoti lohitavāsino ca āgatā. Pāragā mahāpāragāti ete ca duvidhā āgatā. Dasete dasadhā kāyāti etepi dasadevakāyā dasadhāva āgatā.

Rồi chư Thiên Hari đã đi đến: Chư Thiên tên là Hari cũng đã đi đến. Và nhóm nào tên là Lohitavāsī: Và chư Thiên Lohitavāsī cũng đã đi đến. Chư Thiên Pāragā và Mahāpāragā: Cả hai nhóm là nhóm chư Thiên Pāragā và Mahāpāragā cũng đã đến. Mười tập thể này, mười loại: Cả mười tập thể chư Thiên này cũng đã đến, theo mười loại.

Sukkākarambhā aruṇā, āguṃ veghanasā sahāti ete sukkādayo tayo, tehi saha veghanasā ca āgatā. Odātagayhā pāmokkhāti odātagayhā nāma pāmokkhadevā āgatā. Āguṃ devā vicakkhaṇāti vicakkhaṇā nāma devā āgatā.

Chư Thiên Sukka, Karamha, Aruṇa đã đi đến cùng với Vekhanasa: Cả ba nhóm chư Thiên có chư Thiên Sukka, v.v, đã đi đến cùng với nhóm chư Thiên Vekhanasa. Chư Thiên lãnh đạo Odātagayha: chư Thiên lãnh đạo tên là Odātagayha cũng đã đi đến. Chư Thiên Vicakkhaṇā đã đi đến: Chư Thiên tên là Vicakkhaṇā cũng đã đi đến.

Sadāmattā hāragajāti sadāmattā ca hāragajā ca. Missakā ca yasassinoti yasasampannā missakadevā ca. Thanayaṃ āga pajjunnoti pajjunno ca devarājā thanayanto āgato. Yo disā abhivassatīti yo yaṃ yaṃ disaṃ yāti, tattha tattha devo vassati. Dasete dasadhā kāyāti etepi dasadevakāyā dasadhā āgatā.

Chư Thiên Sadāmatta, Hāragaja: Chư Thiên Sadāmatta và chư Thiên Hāragaja. Và Missaka có danh vọng: Và chư Thiên Missaka đã thành tựu với danh vọng. Thiên vương Pajjanna, gầm thét, đã đến: Và Thiên vương tên là Pajjunna, gầm thét, cũng đã đến. Vị làm mưa các phương: Vị đi đến phương nào thì mưa rơi xuống ở phương ấy. Mười tập thể này, mười loại: Cả mười tập thể chư Thiên này cũng đã đến, theo mười loại.

Khemiyā tusitā yāmāti khemiyā devā tusitapuravāsino ca yāmādevalokavāsino ca. Kathakā ca yasassinoti yasasampannā kathakadevā ca. Pāḷiyaṃ pana ‘‘kaṭṭhakā cā’’ti likhanti. Lambītakā lāmaseṭṭhāti lambitakadevā ca lāmaseṭṭhadevā ca. Jotināmā ca āsavāti pabbatamatthake katanaḷaggikkhandho viya jotamānā jotidevā nāma atthi, te ca āsā ca devā āgatāti attho. Pāḷiyaṃ pana ‘‘jātināmā’’ti[15] likhanti. Āsā devatā chandavasena āsavāti vuttā. Nimmānaratino āguṃ, athāguṃ paranimmitā. Dasete dasadhā kāyāti etepi dasa devakāyā dasadhāva āgatā.

Chư Thiên Khemiya, Đâu Suất, Dạ Ma: Chư Thiên Khemiya, cư ngụ ở cung trời Đâu Suất, và chư Thiên cư ngụ ở cung trời Dạ Ma. Và Kaṭṭhaka có danh vọng: Chư Thiên tên là Kaṭṭhaka và cũng là vị thành tựu về danh vọng. Hơn nữa, Pāḷī viết rằng “và Kaṭṭhaka”. Chư Thiên Lambītaka, Lāmaseṭṭha: chư Thiên Lambītaka và chư Thiên Lāmaseṭṭha. Chư Thiên tên Joti, và Āsava: Có chư Thiên tên là chư Thiên Joti, chói sáng tựa như ngọn đèn được làm bằng sậy ở trên đỉnh núi và chư Thiên Āsava cũng đã đến. Còn trong Pāḷī viết rằng “jātināma”, ngài gọi chư Thiên Āsa là Āsava do tác động của sự ước muốn. chư Thiên cõi Hóa Lạc đã đi đến, rồi cõi Tha Hóa Tự Tại đã đi đến, mười tập thể này, mười loại: Cả mười tập thể chư Thiên này cũng đã đến, theo mười loại.

Saṭṭhete devanikāyāti ete ca āpo ca devātiādikā cha dasakā saṭṭhi devanikāyā sabbe nīlādivasena nānattavaṇṇino. Nāmanvayena āgacchunti nāmabhāgena nāmakoṭṭhāsena āgatā. Ye caññe sadisā sahāti ye ca aññepi tehi sadisā vaṇṇatopi nāmatopi etādisāyeva sesacakkavāḷesu devā, tepi āgatāyevāti ekapadeneva kalāpaṃ viya puṭakaṃ[16] viya ca katvā sabbā devatā niddisati.

Sáu mươi hội chúng chư Thiên này: Mười tập thể chư thiên (và) 6 lần bắt đầu từ thần Nước v.v, trở đi là sáu mươi hội chúng chư Thiên. Tất cả có màu da khác nhau do tác động màu xanh, v.v. Đã đi đến theo thứ tự tên gọi: đã đến theo phần của tên gọi, nghĩa là theo (thứ tự) từng phần của tên gọi. Họ và các vị khác là tương đương với nhau (có cùng mục đích): họ và cả các vị Thiên trong vũ trụ khác còn lại là tương đương với nhau (có cùng mục đích) với các vị Thiên này, nghĩa là tương tự cả về màu da lẫn tên gọi, các vị Thiên ấy cũng đã đến. Coi như đức Thế Tôn đã trình bày tất cả các vị Thiên như gộp chúng vào thành từng nhóm chỉ bằng một câu duy nhất.

Evaṃ dasasu lokadhātusahassesu devakāye niddisitvā idāni yadatthaṃ te āgatā, taṃ dassento pavuṭṭhajātinti gāthamāha. Tassattho – pavuṭṭhā vigatā jāti assāti ariyasaṅgho pavuṭṭhajāti nāma, taṃ pavuṭṭhajātiṃ rāgadosamohakhīlānaṃ abhāvā akhīlaṃ cattāro oghe taritvā ṭhitattā oghatiṇṇaṃ catunnaṃ āsavānaṃ abhāvena anāsavaṃ ariyasaṅghaṃ dakkhema passissāma. Tesaññeva oghānaṃ tiṇṇattā oghataraṃ āguṃ akaraṇato nāgaṃ. Asitātiganti[17] kāḷakabhāvātītaṃ candaṃva siriyā virocamānaṃ dasabalañca dakkhema passissāmāti etadatthaṃ sabbepi te nāmanvayena āgacchuṃ, ye caññe sadisā sahāti.

Sau khi trình bày các tập thể chư Thiên trong mười ngàn vũ trụ như vậy, giờ đây, chư Thiên đã đến vì mục đích nào, trong khi thuyết về mục đích đó, mới nói lên lời kệ rằng: “Đã thoát khỏi sự sanh.” Nên hiểu ý nghĩa của kệ ngôn ấy (rằng) – Vị Thánh Tăng gọi là vị đã thoát khỏi sự sanh, bởi vì sự sanh của ngài đã cạn kiệt, đã thoát khỏi sự sanh, vị có sự sống đã cạn kiệt chúng ta sẽ nhìn, sẽ thấy vị Thánh Tăng gọi là không còn cọc nhọn bởi cọc nhọn là ái luyến, sân và si không có. Đã vượt qua dòng lũ: bởi vì đã vượt qua cả bốn dòng nước lũ, đã vững trú. Không còn lậu hoặc: bởi không còn cả bốn lậu hoặc, gọi là người đã vượt qua dòng nước lũ vì đã vượt qua chính những dòng nước lũ ấy. Bậc Long Tượng vì không làm điều ác. Đã ra khỏi mây đen: và chúng ta sẽ ngắm nhìn, sẽ thấy đấng Thập Lực chói sáng với sự vinh quang tương tự như mặt trăng thoát sự u ấm (thoát khỏi mây đen). Họ và các vị Thiên khác tương đương nhau với những vị Thiên ấy, thậm chí tất cả đã đi đến theo thứ tự tên gọi vì lợi ích ấy.

  1. Idāni brahmāno dassento subrahmā paramatto cātiādimāha. Tattha subrahmāti eko brahmā[18]. Paramattopi brahmāva. Puttā iddhimato sahāti ete iddhimato buddhassa bhagavato puttā ariyabrahmāno saheva āgatā. Sanaṅkumāro tisso cāti sanaṅkumāro ca tissamahābrahmā ca. Sopāgāti sopi āgato.

‘‘Sahassaṃ brahmalokānaṃ, mahābrahmābhitiṭṭhati;

Upapanno jutimanto, bhismākāyo yasassi so’’ti. –

  1. Bây giờ, trong khi thuyết về các Phạm Thiên mới nói lời như sau: “Subrahma và Paramatta”. Ở đó, Subrahma là một vị Phạm Thiên. Và Phạm Thiên tên là Paramatta. Cùng với các con trai của vị có thần lực: những vị Ariyabrahma là con trai của đức Thế Tôn có thần lực đã đi đến cùng nhau. Sanaṃkumāra, và Tissa: Sanaṃkumāra và Phạm Thiên Tissa. Đã đi đến: Luôn cả Phạm Thiên Tissa ấy cũng đã đi đến.

Vị Đại Phạm Thiên vượt trội một ngàn vị của các thế giới Phạm Thiên.

Vị ấy sanh lên, có sự chói sáng, có thân hình khổng lồ, có danh vọng.

Ettha sahassaṃ brahmalokānanti ekaṅguliyā ekasahassacakkavāḷe dasahi aṅgulīhi dasasahassicakkavāḷe ālokapharaṇasamatthānaṃ mahābrahmānaṃ sahassaṃ āgataṃ. Mahābrahmābhitiṭṭhatīti yattha ekeko mahābrahmā aññe brahme abhibhavitvā tiṭṭhati. Upapannoti brahmaloke nibbatto. Jutimantoti ānubhāvasampanno. Bhismākāyoti mahākāyo, dvīhi tīhi māgadhikehi[19] gāmakkhettehi samappamāṇaattabhāvo. Yasassisoti attabhāvasirīsaṅkhātena yasena samannāgato.

Ở đây, một ngàn vị của các thế giới Phạm Thiên: Đại Phạm Thiên (vượt trội) một ngàn vị đã đi đến, có thể làm biến mãn ánh sáng trong một ngàn thế giới chỉ với đầu một ngón tay, trong mười ngàn thế giới với mười đầu ngón tay. Vượt trội một ngàn vị của các thế giới Phạm Thiên: Mỗi vị Đại Phạm Thiên vượt trội các vị Phạm Thiên khác rồi vững trú ở nơi đó. Sanh lên: Sanh vào thế giới Phạm Thiên. Có sự chói sáng: Thành tựu về uy lực. Có thân hình khổng lồ: có thân hình khổng lồ kích thước thân thể bằng diện tích của hai ba ngôi làng ở Magadha. Có danh vọng: được đầy đủ về danh vọng được xem là sự vinh quang của bản thân.

Dasettha issarā āguṃ, paccekavasavattinoti etasmiñca brahmasahasse ye pāṭiyekkaṃ pāṭiyekkaṃ vasaṃ vattenti, evarūpā dasa issarā mahābrahmāno āgatā. Tesañca majjhato āga, hārito parivāritoti tesaṃ brahmānaṃ majjhe hārito nāma mahābrahmā satasahassabrahmaparivāro āgato.

Trong số này, mười vị chúa tể đã đi đến, các vị có quyền lực riêng biệt: Mười vị Đại Phạm Thiên là chúa tể có hình thức như vậy, các vị có quyền lực riêng biệt cũng đã đi đến. Và Phạm Thiên tên Hārita, được tùy tùng vây quanh, cũng đã đi đến ở giữa những vị Phạm Thiên ấy: Phạm Thiên Hārita có một trăm ngàn vị Phạm Thiên tùy tùng cũng đã đi đến ở giữa những Phạm Thiên ấy.

  1. Te ca sabbe abhikkante, sainde deve sabrahmaketi te sabbepi sakkaṃ devarājānaṃ jeṭṭhakaṃ katvā āgate devakāye, hāritamahābrahmānaṃ jeṭṭhakaṃ katvā āgate brahmakāye ca. Mārasenā abhikkāmīti mārasenā abhigatā. Passa kaṇhassa mandiyanti kāḷakassa mārasa bālabhāvaṃ passatha.
    Và khi tất cả các vị ấy đã ngự đến, chư Thiên, có Thiên vương Inda, có Phạm Thiên: Chư Thiên, tất cả các vị ấy khiến cho Chúa Trời Sakka là vị lãnh đạo cũng đến và các Phạm Thiên cũng khiến Phạm Thiên Hārita là lãnh đạo cũng đến. Các đội quân của Ma Vương đã tiến đến: Đội quân của Ma Vương cũng tiến đến. Hãy nhìn xem sự ngu xuẩn của (Ma Vương) Đen Tối: Các ngươi hãy nhìn xem sự ngu xuẩn của Ma Vương Đen Tối.

Etha gaṇhatha bandhathāti evaṃ attano parisaṃ āṇāpesi. Rāgena baddhamatthu voti sabbaṃ vo idaṃ devamaṇḍalaṃ rāgena baddhaṃ hotu. Samantā parivāretha, mā vo muñcittha koci nanti tumhākaṃ ekopi etesu ekampi mā muñci. ‘‘Mā vo muñcethā’’tipi pāṭho, esevattho.

Ma Vương ra lệnh cho hội chúng của mình như vầy rằng: Các ngươi hãy đến, hãy bắt giữ, hãy trói lại. Sự trói buộc bởi luyến ái hãy có đến bọn chúng: Devamaṇḍala của các tất cả các người này hãy bị trói buộc bởi tham ái. Các ngươi hãy bao vây xung quanh. Các ngươi chớ để bất cứ kẻ nào thoát ra: Các người dầu chỉ một cũng không để bất cứ một ai thoát ra trong nhóm này. Chánh văn rằng: “Các ngươi chớ để thoát ra”, ý nghĩa cũng tương tự vậy.

Iti tattha mahāseno, kaṇho senaṃ apesayīti evaṃ tattha mahāsamaye mahāseno māro mārasenaṃ apesayi. Pāṇinā talamāhaccāti hatthena pathavītalaṃ paharitvā. Saraṃ katvāna bheravanti māravibhiṃsakadassanatthaṃ bhayānakaṃ sarañca katvā.

Tại đấy, Ma Vương đã ra lệnh đội quân hắc ám như thế: Ma Vương là vị Đại tướng quân đã ra lệnh đội quân ma vương đông đảo ở tại cuộc họp như vậy. Đã vỗ bàn tay vào mặt đất: Đã vỗ vào mặt đất bằng tay. Đã tạo ra âm thanh khiếp đảm: và đã tạo ra âm thanh đáng sợ để thể hiện âm thanh khiếp đảm của Ma Vương.

Yathā pāvussako megho, thanayanto savijjukoti savijjuko pāvussakamegho viya mahāgajjitaṃ gajjanto. Tadā so paccudāvattīti tasmiṃ samaye so māro taṃ vibhiṃsanakaṃ dassetvā paṭinivatto. Saṅkuddho asayaṃ vaseti suṭṭhu kuddho kupito kañci vase vattetuṃ asakkonto asayaṃvase asayaṃvasī attano vasena akāmako hutvā nivatto. Bhagavā kira ‘‘ayaṃ māro imaṃ mahāsamāgamaṃ disvā ‘abhisamayantarāyaṃ karissāmī’ti antarantare[20] mārasenaṃ pesetvā māraṃ vibhiṃsakaṃ dassetī’’ti aññāsi. Pakati cesā bhagavato, yattha abhisamayo na bhavissati, tattha māraṃ vibhiṃsakaṃ dassentaṃ na nivāreti. Yattha pana abhisamayo hoti, tattha yathā parisā neva mārassa rūpaṃ passati, na saddaṃ suṇāti, evaṃ adhiṭṭhātīti. Imasmiñca samāgame mahābhisamayo bhavissati, tasmā yathā devatā neva tassa rūpaṃ passanti, na saddaṃ suṇanti, evaṃ adhiṭṭhāsi. Tena vuttaṃ –‘‘Tadā so paccudāvatti, saṅkuddho asayaṃvase’’ti.

Giống như đám mây làm đổ mưa đang gào thét, có tia chớp: Giống như đám mây làm đổ mưa, đi kèm với sấm chớp vang rền dữ đội. Khi ấy, Ma Vương đã rút lui: Vào lúc bấy giờ, khi phô bày những điều đáng sợ ấy xong thì Ma Vương đã rút lui. Giận dữ không nằm dưới sự kiểm soát của mình của bản thân: Khi không thể làm cho bất cứ ai nằm dưới quyền kiểm soát lại càng bực tức, giận dữ, đối với những người không nằm dưới sự kiểm soát của mình, khi bản thân cạn kiệt sức mạnh, đã rút lui. Nghe rằng đức Thế Tôn biết rằng – “Ma Vương này sau khi nhìn thấy hội chúng to lớn, nghĩ rằng ‘(ta) sẽ gây trở ngại đến sự lãnh hội’ nên đã phái đội quân của Ma Vương đến để phô bày những điều kinh hãi từng lúc một. Theo nguyên tắc của đức Thế Tôn, ở nơi nào không có sự lãnh hội, thì ở nơi đó ngài sẽ không ngăn cản Ma Vương thể hiện những điều kinh hãi của Ma Vương. Nhưng ở chỗ nào có sự lãnh hội, thì ở nơi đó ngài sẽ phát nguyện như vầy để hội chúng không nhìn thấy những hình ảnh, không nghe những âm thanh của Ma Vương. Vì trong thời gian này sẽ có sự lãnh hội vĩ đại, nên Ngài đã phát nguyên như vầy để chư Thiên không nhìn thấy những hình ảnh, và không nghe những âm thanh của Ma Vương ấy. Do đó, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Khi ấy Ma Vương đã rút lui, giận dữ, không nằm dưới sự kiểm soát của bản thân.”

  1. Tañca sabbaṃ abhiññāya, vavatthitvāna cakkhumāti taṃ sabbaṃ bhagavā jānitvā vavatthapetvā ca.
    Và sau khi biết thấu đáo mọi việc ấy, bậc Hữu Nhãn đã phân tích: Đức Thế Tôn sau khi biết và đã phân tích mọi việc ấy.

Mārasenā abhikkantā, te vijānātha bhikkhavoti bhikkhave mārasenā abhikkantā, te tumhe attano anurūpaṃ vijānātha, phalasamāpattiṃ samāpajjathāti vadati. Ātappamakarunti phalasamāpattiṃ pavisanatthāya vīriyaṃ ārabhiṃsu. Vītarāgehi pakkāmunti māro ca mārasenā ca vītarāgehi ariyehi dūratova apakkamuṃ. Nesaṃ lomāpi iñjayunti tesaṃ vītarāgānaṃ lomānipi na cālayiṃsu. Atha māro bhikkhusaṅghaṃ ārabbha imaṃ gāthaṃ abhāsi –

‘‘Sabbe vijitasaṅgāmā, bhayātītā yasassino;

Modanti saha bhūtehi, sāvakā te janesutā’’ti.

Các đội quân của Ma Vương đã tiến đến, này các tỳ khưu, hãy nhận biết chúng: Đức Thế Tôn đã nói rằng: này các tỳ khưu, đội quân của Ma Vương đã tiến đến, các ông hãy nhận biết chúng tương xứng đối với bản thân, các ngươi hãy thể nhập sự thể nhập thiền quả. Đã thể hiện sự tinh cần: Các vị tỳ khưu ấy ra sức tinh tấn vì mục đích thể nhập thiền quả. Đã rời xa các vị không còn luyến ái: Ma Vương và đội quân của gã đã rời đi rất xa từ các bậc Thánh không còn ái luyến. Ngay cả sợi lông của các vị này cũng đã không lay động: Ngay cả sợi lông của vị không còn luyến ái ấy cũng đã không lay động. Khi ấy Ma Vương đã nhắc đến Hội Chúng tỳ khưu rồi nói lên bài kệ này –

Tất cả các vị Thinh Văn đệ tử của Ngài đã chiến thắng trận đấu, đã vượt qua nỗi sợ hãi, có danh vọng. Được nổi tiếng ở loài người, vui mừng cùng với các sinh linh.”

Tattha modanti saha bhūtehīti dasabalassa sāsane bhūtehi sañjātehi ariyehi saddhiṃ modanti pamodanti. Janesutāti jane vissutā pākaṭā abhiññātā.

Trong câu ấy, vui mừng cùng với các sinh linh: vui mừng, hân hoan cùng với Hội Chúng Thánh nhân đã được sanh ra (sinh linh) tức là đã sanh ra cùng với lời dạy của đấng Thập Lực. Được nổi tiếng ở loài người: Xuất hiện đặc biệt, nổi tiếng, trứ danh ở loài người.

Idaṃ pana mahāsamayasuttaṃ nāma devatānaṃ piyaṃ manāpaṃ, tasmā maṅgalaṃ vadantena abhinavaṭṭhānesu idameva suttaṃ vattabbaṃ. Devatā kira –‘‘imaṃ suttaṃ suṇissāmā’’ti ohitasotā vicaranti. Desanāpariyosāne panassa koṭisatasahassadevatā arahattaṃ pattā, sotāpannādīnaṃ gaṇanā natthi.

Hơn nữa, Kinh Đại Hội này là bài Kinh được yêu thích, yêu mến của chư Thiên, vì thế ở những chỗ mới khi chúc phúc thì chỉ cần nên đọc bài Kinh này mà thôi. Nghe rằng chư Thiên nghĩ rằng – “Chúng ta sẽ lắng nghe bài Kinh này,” cũng lóng tai để lắng nghe. Hơn nữa, khi pháp thoại kết thúc thì chư Thiên số lượng một trăm ngàn koṭi đã chứng đắc quả vị A-ra-hán, còn những vị đạt được quả vị Nhập Lưu thì không thể đếm được.

Devatānañcassa piyamanāpabhāve idaṃ vatthu – koṭipabbatavihāre kira nāgaleṇadvāre nāgarukkhe ekā devadhītā vasati. Eko daharo antoleṇe imaṃ suttaṃ sajjhāyati. Devadhītā sutvā suttapariyosāne mahāsaddena sādhukāramadāsi. Ko esoti. Ahaṃ, bhante, devadhītāti. Kasmā sādhukāramadāsīti? Bhante, dasabalena mahāvane nisīditvā kathitadivase imaṃ suttaṃ sutvā ajja assosiṃ, bhagavatā kathitato ekakkharampi ahāpetvā suggahito ayaṃ dhammo tumhehīti. Dasabalassa kathayato sutaṃ tayāti? Āma, bhanteti. Mahā kira devatāsannipāto ahosi, tvaṃ kattha ṭhitā suṇīti?

Và câu chuyện này nên có do tính chất đáng được yêu mến, đáng được yêu quý của chư Thiên – Câu chuyện kể rằng: Tại tu viện Koṭipabbata có một Thiên nữ ngụ tại cây lim, gần cửa hang cây lim. Một vị tỳ kheo trẻ tụng đọc bài Kinh này ở trong hang. Thiên nữ sau khi lắng nghe vào cuối bài Kinh đã ban lời ngợi khen với âm giọng lớn. – (Vị tỳ kheo trẻ hỏi) Đó là ai? – Tôi là Thiên nữ, thưa ngài. – Tại sao lại ban lời ngợi khen? – Thưa ngài, tôi đã nghe bài Kinh này vào ngày mà đấng Thập Lực ngồi thuyết giảng tại khu rừng lớn, hôm nay được nghe lại, bài Pháp này ngài đã khéo nắm giữ vì không làm cho các văn tự dù chỉ một từ từ những lời dạy của đức Thế Tôn bị biến mất, Thiên nữ giải thích. (Vị tỳ khưu trẻ hỏi tiếp) khi đấng Thập Lực đang thuyết giảng cô đã nghe chăng? Thưa vâng, bạch ngài. – Nghe rằng chư Thiên đã đến tụ hội rất nhiều, vậy cô đã đứng ở đâu để lắng nghe?

Ahaṃ, bhante, mahāvanavāsiyā devatā, mahesakkhāsu pana devatāsu āgacchantīsu jambudīpe okāsaṃ nālatthaṃ, atha imaṃ tambapaṇṇidīpaṃ āgantvā jambukolapaṭṭane ṭhatvā sotuṃ āraddhamhi, tatrāpi mahesakkhāsu devatāsu āgacchantīsu anukkamena paṭikkamamānā rohaṇajanapade mahāgāmassa piṭṭhibhāgato samudde galappamāṇaṃ udakaṃ pavisitvā tattha ṭhitā assosinti. Tuyhaṃ ṭhitaṭṭhānato dūre satthāraṃ passasi devateti? Kiṃ kathetha, bhante, satthā mahāvane dhammaṃ desento nirantaraṃ mamaññeva oloketīti maññamānā otappamānā ūmīsu nilayāmīti[21].

Bạch ngài, tôi là vị Thiên ngụ ở khu rừng lớn, khi các vị Thiên có uy lực lớn đang đến không có chỗ trống ở trong Jambudīpa, lúc đó tôi đã đi đến hòn đảo Tambapaṇṇi này, đã đứng ở bờ sông Jambukola bắt đầu lắng nghe, khi các vị Thiên có uy lực lớn đang đi đến nơi đó (họ) cũng lần lượt lui về phía sau, ngâm (mình) trong nước biển đến cổ phía sau một ngôi làng lớn thuộc khu vực Rohaṇa, nàng đã giải thích chi tiết. Từ chỗ cô đứng xa như thế, này Thiên nữ, cô nhìn thấy đấng Thập chăng? – Thưa ngài! Ngài nói gì? Tôi nghĩ rằng bậc Đạo Sư đang thuyết giảng Giáo Pháp ở khu rừng lớn, thường xuyên quan sát tôi, khiến tôi cảm thấy sợ hãi và xấu hổ.

Taṃ divasaṃ kira koṭisatasahassadevatā arahattaṃ pattā, tumhepi tadā arahattaṃ pattāti? Natthi, bhante. Anāgāmiphalaṃ pattattha maññeti? Natthi, bhante. Sakadāgāmiphalaṃ pattattha maññeti? Natthi, bhante. Tayo magge pattā devatā kira gaṇanapathaṃ atītā, sotāpannā jātattha maññeti? Devatā taṃ divasaṃ sotāpattiphalaṃ pattattā harāyamānā –‘‘apucchitabbaṃ pucchati ayyo’’ti āha. Tato naṃ so bhikkhu āha – ‘‘sakkā pana devate, tava attabhāvaṃ amhākaṃ dassetu’’nti? Na sakkā bhante sakalakāyaṃ dassetuṃ, aṅgulipabbamattaṃ dassessāmi ayyassāti kuñcikachiddena aṅguliṃ antoleṇābhimukhaṃ akāsi, candasahassasūriyasahassauggamanakālo viya ahosi. Devadhītā ‘‘appamattā, bhante, hothā’’ti daharabhikkhuṃ vanditvā agamāsi. Evaṃ imaṃ suttaṃ devatānaṃ piyaṃ manāpaṃ, mamāyanti naṃ devatāti.

Nghe rằng vào ngày hôm ấy có trăm ngàn koṭi chư Thiên đã đạt được quả vị A-ra-hán; vậy còn cô khi ấy đạt được quả vị A-ra-hán không? – Không, thưa ngài. – Có lẽ thành tựu Bất Lai Quả? – Không, thưa ngài. – Có lẽ thành tựu Nhất Lai Quả? – Không, thưa ngài. Nghe rằng chư Thiên đạt được ba Đạo cao không thể đếm được, còn cô có lẽ là bậc Thánh Nhập Lưu? Vào ngày hôm đó, Thiên nữ thành tựu Nhập Lưu Quả, cảm thấy xấu hổ nên đã nói rằng: “Thưa ngài, ngài hỏi những điều không nên hỏi.” Sau đó, vị tỳ khưu ấy đã nói với Thiên nữ rằng: “Này Thiên nữ, cô có thể thị hiện bản thân cho ta thấy được không? (Tôi) không thể thị hiện toàn bộ thân thể được, thưa ngài! Tôi chỉ có thể thị hiện để cho ngài thấy một phần ngón tay của tôi. Nói xong, cô đã đưa ngón tay gài vào phía trước vào bên trong hang thông qua lỗ khóa. Ngón tay ấy cũng trở nên như thời điểm hàng ngàn mặt trời và mặt trăng đang mọc lên. Thiên nữ nói rằng: “Thưa ngài! Ngài đừng nên xao lãng,” rồi đảnh lễ vị tỳ kheo trẻ và rời đi. Bài Kinh này  được yêu thích, yêu mến của chư Thiên như vậy, chư Thiên đã cho rằng bài Kinh ấy là của mình.

Giải thích Kinh Đại Hội được kết thúc – Kinh thứ bảy (20)

Trong Chú Giải Trường Bộ Kinh là Sumaṅgalavilāsī.

[1] Samantā (Syā)

[2] Purato purato (Syā)

[3] Osajjitapaṭodo (Syā)

[4] Yogavīriyena (Syā)

[5] a. ni. 4.24

[6] su. ni. 361

[7] Avekkhitvā (Ṭīkā)

[8] Atirekayakkhasatasahassaṁ (Syā)

[9] Sabbaṭṭhānesu (Ka)

[10] Daddaḷhamānā (Ka)

[11] Sāhasikaṁ (Syā)

[12] Mahāsamuddavāsino jitā (Ka)

[13] Sūriyamāgū purakkhitā (Syā)

[14] Ummāpupphadevā (Syā, Ka)

[15] Jotināmāti (Syā)

[16] Muddhikaṁ (Syā)

[17] Asitātitanti (Syā)

[18] Eko seṭṭhabrahmā (Syā)

[19] Māgadhakehi (Ka)

[20] Antarantarena (Syā)

[21] Maññamānā ottappāmi hirīyāmīti (Syā)