Giải Thích Kinh Đại Duyên

(Mahānidānasuttavaṇṇanā )

Xem Trường Bộ Kinh – Kinh Đại Duyên

Lời Mở Đầu Bài Kinh

  1. Evaṃ me sutaṃ … pe … kurūsūti mahānidānasuttaṃ. Tatrāyaṃ anuttānapadavaṇṇanā. Kurūsu viharatīti kurū nāma jānapadino rājakumārā, tesaṃ nivāso ekopi janapado ruḷhīsaddena “kurū”ti[1] vuccati. Tasmiṃ kurūsu janapade. Aṭṭhakathācariyā panāhu — mandhātukāle tīsu dīpesu manussā “jambudīpo nāma buddha- paccekabuddha- mahāsāvaka- cakkavattippabhutīnaṃ uttamamanussānaṃ uppattibhūmi uttamadīpo atiramaṇīyo”ti sutvā raññā mandhātucakkavattinā cakkaratanaṃ purakkhatvā[2] cattāro dīpe anusaṃyāyantena saddhiṃ āgamaṃsu. tato rājā pariṇāyakaratanaṃ pucchi — “atthi nu kho manussalokato ramaṇīyataraṃ ṭhānan”ti. kasmā deva evaṃ bhaṇasi? Kiṃ na passasi candimasūriyānaṃ ānubhāvaṃ, nanu etesaṃ ṭhānaṃ ito ramaṇīyataranti? Rājā cakkaratanaṃ purakkhatvā tattha agamāsi. Cattāro mahārājāno — “Mandhātumahārājā āgato”ti sutvāva “mahiddhiko mahānubhāvo rājā, na sakkā yuddhena paṭibāhitun”ti sakaṃ rajjaṃ niyyātesuṃ. So taṃ gahetvā puna pucchi — “atthi nu kho ito ramaṇīyataraṃ ṭhānan”ti?
  2. Bài Kinh Đại Duyên bắt đầu như sau ‘Tôi đã nghe như vầy: Một thời, đức Thế Tôn trú ở xứ sở của những người Kuru.’ Ở đây, bài Kinh này được giải thích theo tuần tự như sau – ở xứ sở của những người Kuru: Kuru là tên gọi của các vương tử có lãnh thổ riêng, (bởi vì) nơi cư trú của các vương tử ấy là chung một xứ sở nên ngài gọi là ‘xứ sở của những người Kuru’ với từ ngữ được thêm vào ở xứ sở Kurūsu ấy. Hơn nữa, các Chú Giải Sư đã nói – Vào triểu đại vua Mandhātu, loài người ở ba châu đã được nghe rằng: “Jambudīpa là nơi sinh của người đàn ông tối thượng tính từ đức Phật Toàn Giác, Phật-độc-giác, Đại Thánh Thinh-văn, và vị Chuyển Luân Vương, là châu lục tối thượng, rất đáng thưởng ngoạn” mới đưa nhau đến cùng với vị Chuyển Luân Vương Mandhātu vị đã buông bánh xe báu ý định đi đến bốn châu lục. Sau đó, đức vua hỏi vị tướng quân báu rằng – “Phải chăng còn có chỗ nào tốt đẹp hơn thế giới loài người?” – Tướng quân báu nói rằng: “Tâu bệ hạ sao ngài lại hỏi như thế? Ngài không nhìn thấy uy lực của mặt trăng và mặt trời, hoặc vị trí của mặt trăng và mặt trời ấy tốt đẹp hơn không phải sao thưa bệ hạ. Đức vua buông bánh xe báu ở tại nơi đó. Cả bốn vị Đại Thiên Vương đã nghe rằng: “Đại vương Mandhātu đã đến” nghĩ rằng: “Đức vua có đại thần lực, có đại oai lực, ta không thể cản trở sự chiến đấu,” nên đã trao lại vương quyền của mình. Đức vua Mandhātu đã tiếp nhận vương quyền ấy rồi lại tiếp tục hỏi rằng: “Phải chăng còn có chỗ tốt đẹp hơn?”

Athassa tāvatiṃsabhavanaṃ kathayiṃsu “Tāvatiṃsabhavanaṃ, deva, ito ramaṇīyataraṃ. Tattha sakkassa devarañño ime cattāro mahārājāno paricārakā dovārikabhūmiyaṃ tiṭṭhanti, sakko devarājā mahiddhiko mahānubhāvo, tassimāni upabhogaṭṭhānāni — yojanasahassubbedho vejayanto pāsādo, pañcayojanasatubbedhā sudhammā devasabhā, diyaḍḍhayojanasatiko vejayantaratho tathā erāvaṇo hatthī, dibbarukkhasahassappaṭimaṇḍitaṃ nandanavanaṃ, cittalatāvanaṃ, phārusakavanaṃ, missakavanaṃ, yojanasatubbedho pāricchattako koviḷāro, tassa heṭṭhā saṭṭhiyojanāyāmā paññāsayojanavitthatā pañcadasayojanubbedhā jayakusumapupphavaṇṇā paṇḍukambalasilā, yassā mudutāya sakkassa nisīdato upaḍḍhakāyo anupavisatī”ti.

Khi ấy, các Đại Thiên Vương ấy nói đến cung Trời Đạo Lợi cùng ngài rằng: “Tâu bệ hạ, cung Trời Đạo Lợi là chỗ tốt đẹp hơn, Tứ Đại Thiên Vương này là người hầu cận vua trời Sakka ở tại cung trời ấy, đứng ở khu vực người giữ cửa, vua trời Sakka có đại thần lực, có đại oai lực, vua trời Sakka có chỗ để tận hưởng là tòa lâu đài Vejayanta cao một ngàn do-tuần, Sudhamma là chỗ hội hợp của chư Thiên cao năm trăm do-tuần, cỗ xe Vejayanta cao một trăm năm mươi do-tuần, voi erāvaṇa cũng tương tự; khu vườn Nandana, khu vườn Cittalatā, khu vườn Phārusaka, khu vườn Missaka được trang hoàng với một ngàn cây vông, cây gáo đỏ thuộc thiên giới cao một trăm do-tuần, bên dưới các cây ấy có bảo tọa Paṇḍukambala dài sáu mươi do-tuần, rộng năm mươi do-tuần, cao mười lăm do-tuần có màu sắc tựa như màu hoa jayakusuma bởi sự mềm mại của bảo tọa Paṇḍukambala khi vua trời Sakka ngồi xuống thì một nửa thân sụp xuống.

Taṃ sutvā rājā tattha gantukāmo cakkaratanaṃ abbhukkiri. Taṃ ākāse patiṭṭhāsi[3] saddhiṃ caturaṅginiyā senāya. Atha dvinnaṃ devalokānaṃ vemajjhato cakkaratanaṃ otaritvā pathaviyaṃ patiṭṭhāsi saddhiṃ pariṇāyakaratanapamukhāya caturaṅginiyā senāya. Rājā ekakova tāvatiṃsabhavanaṃ agamāsi. Sakko — “mandhātā āgato”ti sutvāva tassa paccuggamanaṃ katvā — “svāgataṃ, te mahārāja, sakaṃ te mahārāja, anusāsa mahārājā”ti vatvā saddhiṃ nāṭakehi rajjaṃ dve bhāge katvā ekaṃ bhāgamadāsi. Rañño tāvatiṃsabhavane patiṭṭhitamattasseva manussabhāvo vigacchi, devabhāvo pāturahosi. Tassa kira sakkena saddhiṃ paṇḍukambalasilāyaṃ nisinnassa akkhinimisamattena nānattaṃ paññāyati. Taṃ asallakkhentā devā sakkassa ca tassa ca nānatte muyhanti. So tattha dibbasampattiṃ anubhavamāno yāva chattiṃsa sakkā uppajjitvā cutā, tāva rajjaṃ kāretvā atittova kāmehi tato cavitvā attano uyyāne patiṭṭhito[4] vātātapena phuṭṭhagatto kālamakāsi.

Đức vua sau khi nghe điều đó có mong muốn đi đến nơi đó mới phóng bánh xe báu lên, bánh xe báu ấy đã đứng vững trên hư không cùng với bốn loại binh chủng. Khi đó, bánh xe báu cũng đã bay xuống giữa hai cõi trời rồi dừng lại trên mặt đất cùng với bốn loại binh chủng có tướng quân báu dẫn đầu, chỉ có một mình đức vua bước vào cung trời Đao Lợi. Sau khi vua trời Sakka nghe rằng – “Đức vua Mandhātu đã đến”, ngài đã thực hiện việc đi ra tiếp đón đức vua Mandhātu (và) nói rằng: “Thưa đại vương, đã đến tốt đẹp, thưa đại vương tài sản là của ngài, thưa đại vương xin ngài hãy cai quản” rồi chia vương quốc cùng với các nữ vũ công thành hai phần, đã dâng một phần, khi đức vua Mandhātu vừa ngự trên trên cung trời Đao Lợi thì ngay tức khắc bản thể nhân loại biến mất, bản thể chư thiên hiện hữu. Được biết khi đức vua an tọa tại bảo tọa Paṇḍukambala cùng với vua trời Sakka thì chúng chư Thiên không thể xác định vua ấy rằng: Sự khác biệt hiện khởi chỉ với cái nhắm mắt sẽ không thể nhận ra sự khác biệt của vua trời Sakka và đức vua Mandhātu. Đức vua Mandhātu thọ hưởng sự thành tựu ở cung trời Đao Lợi ấy, trị vì vương quốc đến nỗi vua trời Sakka sanh ra rồi chết đi trãi qua ba mươi sáu vị (như thế), những (ngài) cũng không cảm thấy no đủ bởi dục, khi mệnh chung từ cung trời Đao Lợi đã rơi xuống khu vườn của chính mình, cơ thể bị gió và nắng tiếp xúc nên đã mệnh chung.

Cakkaratane pana puna pathaviyaṃ patiṭṭhite pariṇāyakaratanaṃ suvaṇṇapaṭṭe mandhātu upāhanaṃ likhāpetvā idaṃ mandhātu rajjanti rajjamanusāsi. tepi tīhi dīpehi āgatamanussā puna gantuṃ asakkontā pariṇāyakaratanaṃ upasaṅkamitvā — “deva, mayaṃ rañño ānubhāvena āgatā, idāni gantuṃ na sakkoma, vasanaṭṭhānaṃ no dehī”ti yāciṃsu. So tesaṃ ekamekaṃ janapadamadāsi. Tattha pubbavidehato āgatamanussehi āvasitapadeso tāyeva purimasaññāya — “videharaṭṭhan”ti nāmaṃ labhi, aparagoyānato āgatamanussehi āvasitapadeso “aparantajanapado”ti nāmaṃ labhi, uttarakuruto āgatamanussehi āvasitapadeso “kururaṭṭhan”ti nāmaṃ labhi, bahuke pana gāmanigamādayo upādāya bahuvacanena vohariyati. tena vuttaṃ — “kurūsu viharatī”ti.

Hơn nữa, khi bánh xe báu đứng lại trên mặt đất, tướng quân báu đã khắc đôi hài của đức vua Mandhātu lên tấm vàng rồi tuyên bố về tài sản của đức vua rằng: đây là tài sản của đức vua Mandhātu, ngay khi những người đến từ ba châu lục ấy cũng không thể trở về, đã đến gặp tướng quân báu khẩn cầu rằng: “Thưa ngài, chúng tôi đến do nhờ uy lực của đức vua, bây giờ (chúng tôi) không thể quay trở lại, xin ngài hãy ban chỗ trú ngụ cho chúng tôi”. Tướng quân báu đã ban mỗi xứ sở lần lượt cho từng người. Ở đó, địa phận mà nhóm người đến từ Đông Thắng Thân Châu định cư được gọi là “Videharaṭṭha”, theo chính ý nghĩa ban đầu ấy địa phận mà nhóm người đến từ Tây Ngưu Xa Châu được gọi là “Aparantajanapada”, địa phận mà nhóm người đến từ Bắc Cưu Lưu Châu được gọi là “Kururaṭṭha”, hơn nữa ngài nói theo (Chủ cách) số nhiều với ý định lấy nhiều làng mạc và thị trấn v.v, cho nên ngài mới nói rằng: “Ở xứ sở của những người Kuru…

Kammāsadhammaṃ nāma kurūnaṃ nigamoti kammāsadhammanti ettha keci dha-kārassa da-kārena atthaṃ vaṇṇayanti. Kammāso ettha damitoti kammāsadammo, kammāsoti kammāsapādo porisādo vuccati. Tassa kira pāde khāṇukena viddhaṭṭhāne vaṇo ruhanto cittadārusadiso hutvā ruhi. Tasmā kammāsapādoti paññāyittha. So ca tasmiṃ okāse damito porisādabhāvato paṭisedhito. Kena? mahāsattena. katarasmiṃ jātaketi? mahāsutasomajātaketi eke. ime pana therā jayaddisajātaketi vadanti. Tadā hi mahāsattena kammāsapādo damito. Yathāha —

“Putto yadā homi jayaddisassa. Pañcālaraṭṭhadhipatissa atrajo.

Cajitvāna[5] pāṇaṃ pitaraṃ pamocayiṃ. Kammāsapādampi cahaṃ pasādayin”ti.

Từ Kammāsadhamma trong câu ‘có một thị trấn của những người Kuru tên là Kammāsaddamma’ này một số vị giải thích ý nghĩa bằng cách thay chữ cái ‘dha’ thành chữ cái ‘da’. Ở đây, Kammāso được gọi là Kammāsadamma bởi vì bị thuần phục, Kammāso ngài gọi là Kammāsadamma là kẻ ăn thịt người. Tương truyền rằng: Một vết loét nổi lên ở bàn chân của Kammāsapāda ấy. Ở chỗ bị cộc đâm đã mọc lên như cây xích hoa xà. Vì vậy, Kammasa đã được xuất hiện với tên gọi là Kammāsapāda. Và cũng vào dịp đó, Kammāsapāda bị thuần phục nên đã từ bỏ làm kẻ ăn thịt người. Bởi ai? Bởi bậc Đại Nhân. Đã nói trong Bổn Sanh nào? Một số thầy nói rằng: Trong Bổn Sanh Mahāsutasoma. Còn các trưởng lão này nói rằng: Trong Bổn Sanh Jayaddisa. Thật vậy, khi ấy Kammāsapāda đã bị bậc Đại Nhân thuần phục. Như đức Bồ-tát đã nói –

Ta là con trai của đức vua Jayaddisa, con trai của vị chúa tể trong thành Pañcālara. Ta đã từ bỏ mạng sống cho Kammāsadamma  cho phụ vương và ta đã khiến cho cả Kammāsapāda được tịnh tín.

Keci pana dha-kāreneva atthaṃ vaṇṇayanti. kurūraṭṭhavāsīnaṃ kira kuruvattadhammo, tasmiṃ kammāso jāto, tasmā taṃ ṭhānaṃ kammāso ettha dhammo jātoti kammāsadhammanti vuccati. Tattha niviṭṭhanigamassāpi etadeva nāmaṃ. bhummavacanena kasmā na vuttanti. Avasanokāsato. Bhagavato kira tasmiṃ nigame vasanokāso koci vihāro nāma nāhosi. Nigamato pana apakkamma aññatarasmiṃ udakasampanne ramaṇīye bhūmibhāge mahāvanasaṇḍo ahosi tattha bhagavā vihāsi, taṃ nigamaṃ gocaragāmaṃ katvā. Tasmā evamettha attho veditabbo — “kurūsu viharati kammāsadhammaṃ nāma kurūnaṃ nigamo, taṃ gocaragāmaṃ katvā”ti.

Hơn nữa, một số vị thầy giải thích chỉ bằng chữ cái ‘dha’. Tương truyền rằng: Kammāsadamma của người dân xứ sở Kuru đã xuất hiện vết nhơ, vì thế, ở nơi đó là nơi có Pháp vẩn nhơ đã xuất hiện nên được gọi là Kammāsadhamma. Kammāsadhamma này là tên thị trấn của những người Kuru sinh sống ở nơi ấy. Tại sao ngài không nói theo Vị Trí Cách? Bởi vì (thị trấn này) không có chỗ cư ngụ. Được biết rằng: chỗ cư trú ở thị trấn đó của đức Thế Tôn không có trú xá nào cả. Tuy nhiên, rời khỏi thị trấn có một khu rừng lớn trong vùng đất khả ái có đầy đủ nước, đức Thế Tôn trú ở tại đó, đã biến nơi ấy trở thành làng mạc. Vì vậy, ở đây ý nghĩa của bài kệ này nên hiểu như vầy: “đức Thế Tôn trú ở xứ sở của những người Kuru; có một thị trấn của những người Kuru tên là Kammāsadhamma, đã biến nơi đó trở thành làng mạc.

Āyasmāti piyavacanametaṃ, gāravavacanametaṃ. Ānandoti tassa therassa nāmaṃ. Ekamantanti bhāvanapuṃsakaniddeso — “visamaṃ candimasūriyā parivattantī”tiādīsu[6] viya. Tasmā yathā nisinno ekamantaṃ nisinno hoti, tathā nisīdīti evamettha attho daṭṭhabbo. Bhummatthe vā etaṃ upayogavacanaṃ nisīdīti upāvisi. paṇḍitā hi garuṭṭhāniyaṃ upasaṅkamitvā āsanakusalatāya ekamantaṃ nisīdanti. Ayañca tesaṃ aññataro, tasmā ekamantaṃ nisīdi.

Đại đức: đây là lời nói với sự yêu thương, là lời nói với sự tôn trọng. Ānando: là tên của vị trưởng lão đó. Ở một bên: giải thích ý nghĩa danh từ trung tính: giống như trong câu được bắt đầu rằng: “mặt trăng và mặt trời di chuyển không nhất quán.” Do đó, nên hiểu ý nghĩa trong câu này như vầy: “Đại đức Ānanda ngồi xuống, theo tính chất ngài Ānanda đã ngồi, là đã ngồi xuống ở một bên thích hợp. Hoặc câu này là Đối Cách dùng trong ý nghĩa của Vị Trí Cách. Nisīdi: đã ngồi xuống. Thật vậy, các bậc sáng trí đến gặp khi đến gần một người ở địa vị đáng kính, (sẽ) ngồi xuống ở một bên thích hợp, bởi bản thể vị thiện xảo trong cách ngồi. Và đại đức Ānanda này là một bậc sáng trí trong số các bậc sáng trí, vì thế đã ngồi xuống ở một bên thích hợp.

Kathaṃ nisinno kho pana ekamantaṃ nisinno hotīti? Cha nisajjadose vajjetvā. seyyathidaṃ — atidūraṃ, accāsannaṃ, uparivātaṃ, unnatappadesaṃ, atisammukhaṃ, atipacchāti. Atidūre nisinno hi sace kathetukāmo hoti, uccāsaddena kathetabbaṃ hoti. Accāsanne nisinno saṅghaṭṭanaṃ karoti. Uparivāte nisinno sarīragandhena bādhati. Unnatappadese nisinno agāravaṃ pakāseti. Atisammukhā nisinno sace daṭṭhukāmo hoti, cakkhunā cakkhuṃ āhacca daṭṭhabbaṃ hoti. atipacchā nisinno sace daṭṭhukāmo hoti, gīvaṃ parivattetvā daṭṭhabbaṃ hoti. Tasmā ayampi tikkhattuṃ bhagavantaṃ padakkhiṇaṃ katvā sakkaccaṃ vanditvā ete cha nisajjadose vajjetvā dakkhiṇajāṇumaṇḍalassa abhimukhaṭṭhāne chabbaṇṇānaṃ buddharasmīnaṃ anto pavisitvā pasannalākhārasaṃ vigāhanto viya suvaṇṇapaṭaṃ pārupanto viya rattuppalamālāvitānamajjhaṃ pavisanto viya ca dhammabhaṇḍāgāriko āyasmā ānando nisīdi. Tena vuttaṃ — “ekamantaṃ nisīdī”ti.

Vậy ngồi như thế nào là ngồi ở một bên thích hợp? Ngồi tránh xa sáu tư thế ngồi là (1) ngồi quá xa, (2) ngồi quá gần, (3) ngồi ngược chiều gió, (4) ngồi ở vị trí quá cao, (5) ngồi đối diện trực tiếp, và (6) ngồi quá phía sau. Bởi vì nếu khi ngồi quá xa khi muốn hỏi, phải nói lớn tiếng. Ngồi quá gần, (có thể) va chạm với người khác. Ngồi ngược chiều gió, sẽ làm phiền nhiễu người khác với mùi cơ thể. Ngồi ở vị trí quá cao, thể hiện sự thiếu tôn trọng. Ngồi đối diện trực tiếp, nếu muốn nhìn người đó phải nhìn thẳng vào mắt người đối diện. Ngồi quá phía sau, nếu muốn nhìn phải quay cổ (ra sau) để nhìn. Vì thế, ngay cả đại đức Ānanda đã hướng vai phải nhiễu quanh đức Thế Tôn ba lần, đã đảnh lễ với sự tôn kính, tránh xa sáu tư ngồi này đã đi vào bên trong hào quang sáu màu của đức Phật ở vị trí riêng biệt phía trước của đầu gối bên phải, ngài đại đức Ānanda là vị thủ kho Giáo Pháp đã ngồi, tựa như bước vào nhựa cánh kiến đỏ trong sáng, giống như trùm tấm vải bằng vàng và tựa như bước vào giữa những tán hoa sen hồng. Vì thế ngài mới nói rằng: “đã ngồi xuống ở một bên”.

Kāya pana velāya, kena kāraṇena ayamāyasmā bhagavantaṃ upasaṅkamantoti? sāyanhavelāyaṃ paccayākārapañhapucchanakāraṇena. Taṃ divasaṃ kirāyamāyasmā kulasaṅgahatthāya gharadvāre gharadvāre sahassabhaṇḍikaṃ nikkhipanto viya kammāsadhammagāmaṃ piṇḍāya caritvā piṇḍapātapaṭikkanto satthu vattaṃ dassetvā satthari gandhakuṭiṃ paviṭṭhe satthāraṃ vanditvā attano divāṭṭhānaṃ gantvā antevāsikesu vattaṃ dassetvā paṭikkantesu divāṭṭhānaṃ paṭisammajjitvā cammakkhaṇḍaṃ paññapetvā udakatumbato udakaṃ gahetvā udakena hatthapāde sītale katvā pallaṅkaṃ ābhujitvā nisinno sotāpattiphalasamāpattiṃ samāpajji. Atha paricchinnakālavasena samāpattito uṭṭhāya paccayākāre ñāṇaṃ otāresi. So — “avijjāpaccayā saṅkhārā”tiādito paṭṭhāya antaṃ, antato paṭṭhāya ādiṃ, ubhayantato paṭṭhāya majjhaṃ, majjhato paṭṭhāya ubho ante pāpento tikkhattuṃ dvādasapadaṃ paccayākāraṃ sammasi. Tassevaṃ sammasantassa paccayākāro vibhūto hutvā uttānakuttānako viya upaṭṭhāsi.

Lại nữa, đại đức Ānanda đến yết kiến đức Thế Tôn vào lúc nào? với lý do gì? Vào buổi chiều, với lý do là để hỏi câu hỏi về vấn đề Lý Duyên Khởi. Vào ngày hôm ấy, đại đức Ānanda đã đi khất thực ở làng Kammāsadhamma tựa như gói quà có giá trị một ngàn (đồng tiền vàng) đặt ở (trước) cửa nhà để tiếp độ cho các gia đình, trên đường đi khất thực trở về để thực hiện bổn phận đối với bậc Đạo Sư, khi bậc Đạo Sư vào Hương Thất đã đảnh lễ đến bậc Đạo Sư rồi trở về chỗ nghỉ ban ngày của mình, khi các vị đệ tử thực hành phận sự rồi trở về, (đại đức Ānanda) đã quét dọn chỗ nghỉ ban ngày trải tấm thảm da, múc nước từ giếng nước, lấy nước rửa tay và chân cho mát, ngồi xuống (tấm thảm da) xếp chân thế kiết già thể nhập thiền chứng tầng Thánh Quả Nhập Lưu, khi xuất khỏi thiền chứng theo đúng thời gian quy định đã thâm nhập vào trí trong Lý Duyên Khởi. Vị ấy (quán xét) lần thứ nhất khởi sự từ đầu như vầy – “Do vô minh là duyên, thì hành sanh khởi” đi xuống cho đến cuối, kế đó (quán xét) từ cuối trở lại đầu, và tiếp đến (quán xét) từ cả hai đầu đến giữa, và từ giữa đến cả hai đầu, (ngài) quán xét mười hai yếu tố Lý Duyên Khởi ba lần, trong khi quán xét như vậy thì Lý Duyên Khởi trở nên càng sáng tỏ, hiển lộ dường như là quá rõ ràng!

Tato cintesi — “Ayaṃ paccayākāro sabbabuddhehi — ‘gambhīro ceva gambhīrāvabhāso cā’ti kathito, mayhaṃ kho pana padesañāṇe ṭhitassa sāvakassa sato uttāno vibhūto pākaṭo hutvā upaṭṭhāti, mayhaṃyeva nu kho esa uttānako hutvā upaṭṭhāti, udāhu aññesampī”ti? athassa etadahosi — “Handāhaṃ imaṃ pañhaṃ gahetvā bhagavantaṃ pucchāmi, addhā me bhagavā imaṃ atthuppattiṃ katvā sālindaṃ sineruṃ ukkhipanto viya ekaṃ suttantakathaṃ kathetvā dassessati. Buddhānañhi vinayapaññattiṃ, bhummantaraṃ, paccayākāraṃ, samayantaranti imāni cattāri ṭhānāni patvā gajjitaṃ mahantaṃ hoti, ñāṇaṃ anupavisati, buddhañāṇassa mahantabhāvo paññāyati, desanā gambhīrā hoti tilakkhaṇabbhāhatā suññatapaṭisaṃyuttā”ti.

Khi đó, đại đức Ānanda nghĩ rằng – “Lý Duyên Khởi này chư Phật thuyết rằng – ‘thâm sâu và có biểu hiện thâm sâu!’ Hơn nữa, khi ta là vị Thánh Thinh văn đã được thiết lập trong sự hiểu biết có giới hạn, dường như có vẻ rõ ràng, dễ hiểu, và sáng tỏ, sự đơn giản ấy chỉ hiển lộ nơi một mình ta phải chăng, hay cũng hiển lộ nơi người khác? Sau đó, trưởng lão có suy nghĩ rằng: “Vậy thì ta sẽ đem vấn đề này đến hỏi đức Thế Tôn, đức Thế Tôn sẽ làm cho vấn đề này được sáng tỏ nguyên nhân phát sanh (bằng cách) thuyết một bài Kinh, chắc chắn (ngài) sẽ thuyết Pháp cho ta như thể nâng ngọn núi Sineru lên cùng với vùng phụ cận của nó. Thật vậy, trí của chư Phật đã đạt đến bốn cơ sở là (1) việc chế định Tạng Luật, (2) bhummantara (sự phân loại các cõi sai biệt), (3) Lý Duyên Khởi, và  (4) samayantara (các quan điểm khác nhau của các tôn giáo hoặc tín ngưỡng khác), là (trí) vang vọng vĩ đại, chìm sâu vào trí, được hiển lộ bản thể vĩ đại của Phật trí, thuyết giảng bản thể thâm sâu để nhổ bỏ Tam Tướng liên quan đến Tánh Không.”

So kiñcāpi pakatiyāva ekadivase satavārampi sahassavārampi bhagavantaṃ upasaṅkamanto na ahetuakāraṇena upasaṅkamati, taṃ divasaṃ pana imaṃ pañhaṃ gahetvā — “Imaṃ buddhagandhahatthiṃ āpajja ñāṇakoñcanādaṃ sossāmi, buddhasīhaṃ āpajja ñāṇasīhanādaṃ sossāmi, buddhasindhavaṃ āpajja ñāṇapadavikkamaṃ passissāmī”ti cintetvā divāṭṭhānā uṭṭhāya cammakkhaṇḍaṃ papphoṭetvā ādāya sāyanhasamaye bhagavantaṃ upasaṅkami. Tena vuttaṃ — “sāyanhavelāyaṃ paccayākārapañhapucchanakāraṇena upasaṅkamanto”ti.

Mặc dù đại đức Ānanda thường lệ trong một ngày ngài đến gặp đức Thế Tôn một trăm lần, thậm chí một ngàn lần, đại đức không bao giờ đến gặp mà không có bất kỳ một nguyên nhân, (và) lý do gì. Tuy nhiên, vào ngày hôm đó đại đức đã đem theo vấn đề này rồi nghĩ rằng: “Ta sẽ ngồi gần đức Phật như voi Gandha, (và) lắng nghe tiếng rống vang rền bằng trí, ta sẽ ngồi gần đức Phật như sư tử, (và) lắng nghe tiếng gầm sử tử bằng trí, sẽ ngồi gần đức Phật như con ngựa Sindhu, (và) sẽ nhìn thấy việc bước đi trên con đường của trí,” rồi đứng dậy từ chỗ nghỉ ban ngày, gấp lại tấm thảm da và mang nó đi, đến gặp đức Thế Tôn vào buổi chiều. Vì thế, ngài đã nói rằng – “Đại đức Ānanda đến gặp đức Thế Tôn vì lý do là việc hỏi câu hỏi liên quan đến Lý Duyên Khởi vào buổi chiều.”

Yāva gambhīroti ettha yāvasaddo pamāṇātikkame, atikkamma pamāṇaṃ gambhīro, atigambhīroti attho. Gambhīrāvabhāsoti gambhīrova hutvā avabhāsati, dissatīti attho. Ekañhi uttānameva gambhīrāvabhāsaṃ hoti pūtipaṇṇādivasena kāḷavaṇṇapurāṇaudakaṃ viya. tañhi jāṇuppamāṇampi sataporisaṃ viya dissati. Ekaṃ gambhīraṃ uttānāvabhāsaṃ hoti maṇigaṅgāya vippasannaudakaṃ viya, tañhi sataporisampi jāṇuppamāṇaṃ viya khāyati. Ekaṃ uttānaṃ uttānāvabhāsaṃ hoti cāṭiādīsu udakaṃ viya. Ekaṃ gambhīraṃ gambhīrāvabhāsaṃ hoti sinerupādakamahāsamudde udakaṃ viya. Evaṃ udakameva cattāri nāmāni labhati. Paṭiccasamuppāde panetaṃ natthi. Ayañhi gambhīro ceva gambhīrāvabhāso cāti ekameva nāmaṃ labhati. Evarūpo samānopi atha ca pana me uttānakuttānako viya khāyati, yadidaṃ acchariyaṃ, bhante, abbhutaṃ bhanteti. evaṃ attano vimhayaṃ pakāsento pañhaṃ pucchitvā tuṇhībhūto nisīdi.

Từ ‘đến dường nào’ trong câu ‘thâm sâu đến dường nào’ điều này vận biến trong ý nghĩa rằng nằm ngoài sự đo lường, có nghĩa là vượt quá sự đo lường, vô cùng thâm sâu. Có biểu hiện thâm sâu: Có nghĩa là đã được hiển lộ, nhìn thấy được chính vẻ thâm sâu. Bởi vì một câu thật sự đơn giản là có vẻ thâm sâu, giống như nước bẩn có màu đen do tác động mùi hôi của lá mục nát, thật vậy nước này có thể chỉ là sâu đến đầu gối, tuy nhiên có vẻ sâu lút một trăm đầu người. Một dòng nước khác sâu nhưng có vẻ cạn, tựa như dòng nước trong ở sốn của sông Maṇigaṅgā, thật vậy dòng nước sâu lút một trăm đầu người nhưng hiển lộ giống như chỉ đến đầu gối. Một dòng nước khác cạn và có vẻ cạn, như thể nước trong bình v.v. Một dòng nước khác sâu và có vẻ sâu như nước trong đại dương ở chân núi Tu di. Chính dòng nước đó có được tên gọi theo bốn cách như vậy. Nhưng ở đây không có trong Lý Duyên Khởi bởi vì Lý Duyên Khởi này chỉ có một cách gọi duy nhất là ‘thâm sâu và có biểu hiện thâm sâu’. Lý Duyên Khởi mặc dù tồn tại có hình thức như vậy nhưng đối với con nó dường như là quá rõ ràng! Đại đức Ānanda khi tuyên bố sự ngạc nhiên của bản thân như vậy rằng: “Bạch ngài, thật là kỳ diệu! Bạch ngài, thật là phi thường” đã hỏi câu hỏi rồi mới ngồi (và) giữ im lặng.

Bhagavā tassa vacanaṃ sutvā — “Ānando bhavaggaggahaṇāya hatthaṃ pasārento viya, sineruṃ chinditvā miñjaṃ nīharituṃ vāyamamāno viya, vinā nāvāya mahāsamuddaṃ taritukāmo viya, pathaviṃ parivattetvā pathavojaṃ gahetuṃ vāyamamāno viya buddhavisayapañhaṃ attano uttānaṃ vadati. Handassa gambhīrabhāvaṃ ācikkhissāmī”ti cintetvā mā hevantiādimāha.

Tattha mā hevanti ha-kāro nipātamattaṃ. evaṃ mā bhaṇīti attho. Mā hevanti ca idaṃ vacanaṃ bhagavā āyasmantaṃ ānandaṃ ussādentopi[7] bhaṇati apasādentopi.

Sau khi nghe lời nói của đại đức Ānanda ấy, đức Thế Tôn nghĩ rằng: “Ānanda nói lên vấn đề thuộc về lãnh vực của chư Phật là rõ ràng đối với chính vị ấy như thể duỗi cánh tay để nắm lấy cảnh giới tột cùng của hiện hữu, như thể cố gắng để phá tan ngọn núi Suneru rồi đem phần ruột ra ngoài, như mong muốn vượt qua đại dương mà không có thuyền, và như thể cố gắng lật ngược quả địa cầu để lấy đi tinh chất của quả địa cầu. Vậy thì ta sẽ nói ra tính chất thâm sâu (của Lý Duyên Khởi cho Ānanda)” nên ngài đã nói rằng: “Này Ānanda, chớ nói như vậy!”

Ở đấy, chữ cái ‘ha’ trong từ ‘ma hevaṃ (chớ nên nói như vậy)’ ấy chỉ là phân từ, có nghĩa là ‘Này Ānanda, chớ nói như vậy!” Và đức Thế Tôn khiến cho đại đức Ānanda vừa từ bỏ mà còn mất đi sự hài lòng nên nói lời này “chớ nói như vậy”.

Giảng Giảng Việc Tử Bỏ

Tattha ussādento — Ānanda, tvaṃ mahāpañño visadañāṇo, tena te gambhīropi paṭiccasamuppādo uttānako viya khāyati. aññesaṃ panesa uttānakoti na sallakkhetabbo, gambhīroyeva ca gambhīrāvabhāso ca. Tattha catasso upamā vadanti. Chamāse subhojanarasapuṭṭhassa kira katayogassa mahāmallassa samajjasamaye katamallapāsāṇaparicayassa yuddhabhūmiṃ gacchantassa antarā mallapāsāṇaṃ dassesuṃ, so — Kiṃ etanti āha. Mallapāsāṇoti. Āharatha nanti. Ukkhipituṃ na sakkomāti vutte sayaṃ gantvā kuhiṃ imassa bhāriyaṭṭhānanti vatvā dvīhi hatthehi dve pāsāṇe ukkhipitvā kīḷāguḷe viya khipitvā agamāsi. Tattha mallassa mallapāsāṇo lahukopi na aññesaṃ lahukoti vattabbo. Chamāse subhojanarasapuṭṭho mallo viya hi kappasatasahassaṃ abhinīhārasampanno āyasmā ānando, yathā mallassa mahābalatāya mallapāsāṇo lahuko, evaṃ therassa mahāpaññatāya paṭiccasamuppādo uttāno, so aññesaṃ uttānoti na vattabbo.

Trong câu đó, dức Thế Tôn khiến cho đại đức Ānanda từ bỏ mới nói rằng: “Này Ānanda, ngươi có tuệ vĩ đại, có sự khôn khéo, vì thế Lý Duyên Khởi thâm sâu và có biểu hiện thâm sâu, ngươi không nên hiểu rằng: ‘Lý Duyên Khởi dẫu thâm sâu cũng hiển lộ rõ ràng đối với ngươi, và có biểu hiện thâm sâu đối với cả người khác’”. Trong vấn đề này (các thầy) đã nêu ra bốn ví dụ – Kể rằng một nhà đô vật cường tráng cao to được nuôi dưỡng với thức ăn bổ dưỡng hảo hạng suốt sáu tháng và đã luyện tập với một tảng đá của nhà đô vật để biểu diễn vào dịp lễ hội, đang đi đến đấu trường trong buổi hội hè thì người ta chỉ vị ấy một tảng đá của nhà đô vật ở giữa con đường, vị ấy đã nói rằng: “Cái gì đó?” – “Một tảng đá của nhà đô vật.” – “Hãy mang nó lại đây.” – Mọi người nói rằng “Chúng tôi không thể nhấc nó lên.” Khi đó, vị ấy đã tự mình đi (đến tảng đá) nói rằng: “Sức nặng của tảng đá ở chỗ nào?” Vị ấy nhấc hai tảng đá như thế với hai tay, rồi ném chúng đi như trái banh, và tiếp tục lên đường. Trong câu chuyện đó nên nói rằng: Tảng đá của nhà đấu vật là nhẹ đối với nhà đấu vật, nhưng không nhẹ (nặng) đối những người khác. Thật vậy, ngài Ānanda thành tựu sự phát nguyện ban đầu suốt một trăm ngàn kiếp giống như nhà đô vật đã được nuôidưỡng với thức ăn bổ dưỡng hảo hạng suốt sáu tháng, tảng đá của nhà đô vật là nhẹ bởi vì nhà đô vật có sức mạnh lớn lao như thế nào, Lý Duyên Khởi là rõ ràng (là đơn giản) bởi vì trưởng lão là vị có trí tuệ vĩ đại như thế đó, nhưng không nên nói rằng: Lý Duyên Khởi là rõ ràng (là đơn giản) đối với những người khác.

Mahāsamudde ca timināma maccho dviyojanasatiko timiṅgalo tiyojanasatiko, timipiṅgalo catuyojanasatiko timirapiṅgalo pañcayojanasatiko, ānando timinando ajjhāroho mahātimīti ime cattāro yojanasahassikā. Tattha timirapiṅgaleneva dīpenti. Tassa kira dakkhiṇakaṇṇaṃ cālentassa pañcayojanasate padese udakaṃ calati. tathā vāmakaṇṇaṃ. Tathā naṅguṭṭhaṃ, tathā sīsaṃ. Dve pana kaṇṇe cāletvā naṅguṭṭhena udakaṃ paharitvā sīsaṃ aparāparaṃ katvā kīḷituṃ āraddhassa sattaṭṭhayojanasate padese bhājane pakkhipitvā uddhane āropitaṃ viya udakaṃ pakkuthati, tiyojanasatamatte padese udakaṃ piṭṭhiṃ chādetuṃ na sakkoti. So evaṃ vadeyya — “ayaṃ mahāsamuddo gambhīro gambhīroti vadanti kutassa gambhīratā, mayaṃ[8] piṭṭhipaṭicchādanamattampi udakaṃ na labhāmā”ti. Tattha kāyupapannassa timirapiṅgalassa mahāsamuddo uttānoti, aññesaṃ khuddakamacchānaṃ uttānoti na vattabbo, evameva ñāṇupapannassa therassa paṭiccasamuppādo uttānoti, aññesampi uttānoti na vattabbo.

Và trong đại dương có loài cá tên là Timi to lớn hai trăm do-tuần, loài cá tên là Timiṅgala to lớn ba trăm do-tuần, loài cá tên là Timipiṅgala to lớn bốn trăm do-tuần, loài cá tên là Timirapiṅgala to lớn năm trăm do-tuần, trong bốn loài cá này là loài cá Ānanda, loài cá Timinanda, loài cá Ajjhāroho, loài cá Mahātim to lớn một ngàn do-tuần. Ở đó, chỉ mô tả đến loài cá tên là Timirapiṅgala. Tương truyền, khi loài cá Timirapiṅgala vẫy cái vây bên phải thì nước bị khuấy động đến năm trăm do-tuần; vẫy cái vây bên trái, đuôi, và đầu cũng tương tự. Nhưng nếu loài cá Timirapiṅgala ấy vẫy cả hai bên vay, lấy đuôi đập nước, lắc đầu qua lại bơi lượn quanh quẩn trong nước từ bảy trăm đến tám trăm do-tuần sôi sục trông hệt như nước đựng trong ấm đặt lên trên lò lửa, nước ở khu vực sâu khoảng ba trăm do-tuần không thể ngập được lưng của nó. Con cá này có thể nói: “Người ta luôn luôn nói rằng đại dương này thì rất sâu, rất sâu, vậy mà từ ngàn xưa cho đến nay chúng tôi không có được nước dù chỉ để ngập lưng.” Do đại dương ấy rất sâu, trong câu đó nên nói rằng: Đối với loài cá Timirapiṅgala toàn thân chìm trong nước thì đại dương là cạn, nhưng đối với những con cá nhỏ thì đại dương không cạn. Cũng tương tự y như vậy – đối với trưởng lão, vị đã đạt đến trí thì Lý Duyên Khởi là cạn (là rõ ràng, là đơn giản), nhưng đối với những người khác là không cạn.

Supaṇṇarājā ca diyaḍḍhayojanasatiko, tassa dakkhiṇapakkho paññāsayojaniko hoti tathā vāmapakkho, piñchavaṭṭi saṭṭhiyojanikā, gīvā tiṃsayojanikā, mukhaṃ navayojanaṃ, pādā dvādasayojanikā. tasmiṃ supaṇṇavātaṃ dassetuṃ āraddhe sattaṭṭhayojanasataṃ ṭhānaṃ nappahoti. So evaṃ vadeyya — “Ayaṃ ākāso ananto anantoti vadanti, kutassa anantatā, mayaṃ pakkhavātappasāraṇokāsampi na labhāmā”ti. Tattha kāyupapannassa supaṇṇarañño ākāso parittoti, aññesaṃ khuddakapakkhīnaṃ parittoti na vattabbo, evameva ñāṇupapannassa therassa paṭiccasamuppādo uttānoti, aññesampi uttānoti na vattabbo.

Và điểu vương Supaṇṇa to lớn khoảng hai trăm năm mươi do-tuần, cánh phải rộng khoảng năm mươi do-tuần, cành trái cũng tương tự, đuôi dài sáu mươi do-tuần, cổ cao ba mươi do-tuần, mỏ dài chín do-tuần, và chân cao mười hai do-tuần. Khi điểu vương bắt đầu khuấy động gió ngay cả một vùng bảy-tám trăm do-tuần thì không đủ. Nó có thể nói như vầy: “Người ta luôn nói rằng không gian là vô biên, không gian là vô biên, vậy mà từ ngàn xưa cho đến nay chúng ta không thể tìm được dầu chỉ một khoảng không gian (có thể) để vỗ cánh do không gian ấy là vô biên”. Trong câu đó nên nói rằng: Không gian là nhỏ nhoi đối với điểu vương có thân to lớn, còn đối với những loài chim nhỏ khác thì không nhỏ, cũng tương tự y như thế – đối với trưởng lão, vị đã đạt đến trí thì Lý Duyên Khởi là cạn (là rõ ràng, là đơn giản), nhưng đối với những người khác là không cạn.

Rāhu asurindo pana pādantato yāva kesantā yojanānaṃ cattāri sahassāni aṭṭha ca satāni hoti. Tassa dvinnaṃ bāhānaṃ antaraṃ dvādasayojanasatikaṃ. Bahalattena[9] chayojanasatikaṃ. Hatthapādatalāni tiyojanasatikāni, tathā mukhaṃ. Ekekaṃ aṅgulipabbaṃ paññāsayojanaṃ, tathā bhamukantaraṃ. Nalāṭaṃ tiyojanasatikaṃ. Sīsaṃ navayojanasatikaṃ. Tassa mahāsamuddaṃ otiṇṇassa gambhīraṃ udakaṃ jāṇuppamāṇaṃ hoti. So evaṃ vadeyya — “ayaṃ mahāsamuddo gambhīro gambhīroti vadanti, kutassa gambhīratā, mayaṃ jāṇuppaṭicchādanamattampi udakaṃ na labhāmā”ti. Tattha kāyupapannassa rāhuno mahāsamuddo uttānoti, aññesaṃ uttānoti na vattabbo, evameva ñāṇupapannassa therassa paṭiccasamuppādo uttānoti, aññesampi uttānoti na vattabbo. Etamatthaṃ sandhāya bhagavā — “Mā hevaṃ, ānanda, avaca; mā hevaṃ, ānanda avacā”ti āha.

Thêm nữa, Rāhu chúa loài Asura từ ngọn tóc đến gót chân cao bốn ngàn tám trăm do-tuần. Giữa hai cánh tay của Rāhu chúa loài Asura dài một ngàn hai trăm do-tuần, với bề dày sáu trăm do-tuần. Lòng bàn tay và bàn chân dày ba trăm do tuần do-tuần. Miệng cũng tương tự. Mỗi đốt ngón tay dài năm mươi do-tuần, khoảng cách giữa những lông mày cũng tương tự như thế. Trán rộng ba trăm, đầu rộng chín trăm do-tuần. Khi Rāhu chúa loài Asura bước xuống dưới đại dương nước sâu nhất chỉ cao đến đầu gối. Vị ấy này có thể nói như vầy: “Người ta luôn nói rằng đại dương này rất sâu, rất sâu. Vậy mà từ ngàn xưa cho đến này chúng tôi thậm chí còn không có nước chỉ để bao phủ đầu gối.” Đại dương ấy đối với Rāhu chúa loài Asura có thân hình to lớn là cạn, nhưng đối với những người khác là không cạn, cũng tương tự y như vậy đối với trưởng lão, vị đã đạt đến trí thì Lý Duyên Khởi là cạn (là rõ ràng, là đơn giản), nhưng đối với những người khác là không cạn. Đức Thế Tôn nói rằng: “Này Ānanda, chớ nói như vậy! Này Ānanda, chớ nói như vậy!” để đề cập đến ý nghĩa này.

Therassa hi catūhi kāraṇehi gambhīropi paṭiccasamuppādo uttānoti upaṭṭhāti. katamehi catūhi? Pubbūpanissayasampattiyā, titthavāsena, sotāpannatāya, bahussutabhāvenāti.

Thật vậy, Lý Duyên Khởi mặc dù thâm sâu có vẻ rõ ràng cùng trưởng lão với bốn lý do. Bốn lý do ra sao? (1) Do thành tựu cận đại y duyên từ kiếp quá khứ; (2) Do việc sống trong trú xứ của thầy; (3) với bản thể bậc Nhập Lưu; và (4) với sự nghe nhiều học rộng.

Lời Nói Về Sự Thành Tựu Nhờ Cận Đại Y Duyên Trong Kiếp Quá Khứ

Ito kira satasahassime kappe padumuttaro nāma satthā loke uppajji. Tassa haṃsavatī nāma nagaraṃ ahosi, ānando nāma rājā pitā, sumedhā nāma devī mātā, bodhisatto uttarakumāro nāma ahosi. So puttassa jātadivase mahābhinikkhamanaṃ nikkhamma pabbajitvā padhānamanuyuñjanto anukkamena sabbaññutaṃ patvā — “anekajātisaṃsāran”ti udānaṃ udānetvā sattāhaṃ bodhipallaṅke vītināmetvā pathaviyaṃ ṭhapessāmīti pādaṃ abhinīhari. Atha pathaviṃ bhinditvā mahantaṃ padumaṃ uṭṭhāsi. Tassa dhurapattāni navutihatthāni, kesaraṃ tiṃsahatthaṃ, kaṇṇikā dvādasahatthā, navaghaṭappamāṇo reṇu ahosi.

Được biết rằng: cách đây một trăm ngàn kiếp bậc Đạo Sư hồng danh Padumuttara hiện khởi ở thế gian. Thành phố của ngài tên là Haṃsavatī đã có, vua cha tên là Ānanda, mẫu thân là hoàng hậu Sumedha, Bồ-tát có hồng danh là Uttarakumāra. Bồ-tát ấy, vào ngày hạ sanh của hoàng tử, rời khỏi thực hiện cuộc ra đi vĩ đại, gắn liền với sự tin tấn đã chứng đắc Toàn Giác theo tuần tự, đã thốt lên lời cảm hứng “ta đã trải qua sự luân hồi trong nhiều kiếp sống không ngừng nghỉ…” một tuần trôi qua ở tại bảo tọa Bồ-đề (ngài) đã suy tư rằng: Ta giẫm lên mặt đất rồi bước chân. Vào lúc đó hoa sen lớn đã xé rách mặt đất nhô lên, cánh hoa sen ấy dài chín mươi hắc tay, nhị sen dài ba mươi hắc tay, vòi hoa sen dài mười hai hắc tay, phần hoa khoảng chừng chín chậu nước.

Satthā pana ubbedhato aṭṭhapaṇṇāsahatthubbedho ahosi. tassa ubhinnaṃ bāhānamantaraṃ aṭṭhārasahatthaṃ, nalāṭaṃ pañcahatthaṃ, hatthapādā ekādasahatthā. tassa ekādasahatthena pādena dvādasahatthāya kaṇṇikāya akkantamattāya navaghaṭappamāṇo reṇu uṭṭhāya aṭṭhapaṇṇāsahatthaṃ padesaṃ uggantvā okiṇṇamanosilācuṇṇaṃ viya paccokiṇṇo. Tadupādāya bhagavā padumuttarotveva paññāyittha. Tassa devilo ca sujāto ca dve aggasāvakā ahesuṃ. Amitā ca asamā ca dve aggasāvikā. Sumano nāma upaṭṭhāko. Padumuttaro bhagavā pitusaṅgahaṃ kurumāno bhikkhusatasahassaparivāro haṃsavatiyā rājadhāniyā vasati.

Hơn nữa, bậc Đạo Sư có chiều cao năm mươi tám cánh tay, giữa hai cánh tay của ngài dài mười tám hắc tay, trán rộng năm hắc tay, bàn tay và bàn chân cả hai dài mười một hắc tay. Khi bậc Đạo Sư giẫm lên vòi hoa sen dài mười hai hắc tay bằng bàn chân dài mười một hắc tay, phấn hoa khoảng chín chậu nước phụt lên cao khoảng năm mươi tám hắc tay vung vãi như thể bột thạch tín được rải rắc. Dựa vào nguyên nhân đó đức Thế Tôn được biết đến với hồng danh Padumuttara. Devila và Sujata đã là hai vị Thinh Văn hàng đầu. Asama và Sunetta đã là hai vị Thinh Văn hàng đầu. Vị thị giả tên là Sumana. Đức Thế Tôn Padumuttara có một trăm ngàn vị tỳ khưu là tùy tùng, tiếp độ phụ vương đang cư ngụ ở kinh đô Haṃsavatī.

Kaniṭṭhabhātā panassa sumanakumāro nāma. Tassa rājā haṃsavatito vīsatiyojanasate ṭhāne bhogagāmaṃ adāsi. So kadāci āgantvā pitarañca satthārañca passati. Athekadivasaṃ paccanto kupito. Sumano rañño pesesi — “Paccanto kupito”ti. Rājā “mayā tvaṃ tattha kasmā ṭhapito”ti paṭipesesi. So nikkhamma core vūpasametvā — “upasanto, deva, janapado”ti rañño pesesi. Rājā tuṭṭho — “Sīghaṃ mama putto āgacchatū”ti āha. Tassa sahassamattā amaccā honti. So tehi saddhiṃ antarāmagge mantesi — “Mayhaṃ pitā tuṭṭho, sace me varaṃ deti, kiṃ gaṇhāmī”ti. Atha naṃ ekacce “hatthiṃ gaṇhatha, assaṃ gaṇhatha, rathaṃ gaṇhatha, janapadaṃ gaṇhatha, sattaratanāni gaṇhathā”ti āhaṃsu. Apare — “tumhe pathavissarassa puttā, tumhākaṃ dhanaṃ na dullabhaṃ, laddhampi cetaṃ sabbaṃ pahāya gamanīyaṃ, puññameva ekaṃ ādāya gamanīyaṃ; Tasmā te deve varaṃ dadamāne temāsaṃ padumuttaraṃ bhagavantaṃ upaṭṭhātuṃ varaṃ gaṇhathā”ti. So — “tumhe mayhaṃ kalyāṇamittā, na mametaṃ cittaṃ atthi, tumhehi pana uppāditaṃ, evaṃ karissāmī”ti gantvā pitaraṃ vanditvā pitarāpi āliṅgetvā tassa matthake cumbitvā — “varaṃ te putta, demī”ti vutte “sādhu mahārāja, icchāmahaṃ mahārāja bhagavantaṃ temāsaṃ catūhi paccayehi upaṭṭhahanto jīvitaṃ avañjhaṃ[10] kātuṃ, imameva varaṃ dehī”ti āha. “Na sakkā tāta, aññaṃ varehī”ti vutte “deva, khattiyānaṃ nāma dve kathā natthi, etameva dehi, na me aññenattho”ti. Tāta buddhānaṃ nāma cittaṃ dujjānaṃ, sace bhagavā na icchissati, mayā dinnepi kiṃ bhavissatīti? So — “sādhu, deva, ahaṃ bhagavato cittaṃ jānissāmī”ti vihāraṃ gato.

Còn em trai của đức Thế Tôn Padumuttara có tên là hoàng tử Sumana. Vua đã ban cho cậu một ngôi làng phồn thịnh cách kinh đô Haṃsavatī cho hoàng tử ở vị trí cách kinh đô Haṃsavatī hai ngàn do-tuần. Vị ấy đôi lúc đến yến kiết phụ vương và bậc Đạo Sư. Một ngày nọ, có cuộc nổi dậy ở biên thùy, hoàng tử Sumana đã gửi tin báo cho nhà vua biết rằng: “Cuộc nổi dậy ở biên thùy”. Đức vua đã gởi tin: “Tại sao trẫm cử con đến đó?” Sau khi dẹp yên những tên cướp, hoàng tử Sumana đã báo tin cho phụ vương biết rằng: “Thưa phụ vương, đất nước đã yên bình.” Đức vua cảm thấy hài lòng đã nói rằng: “Hoàng tử của trẫm hãy nhanh chóng trở về.” Hoàng tử ấy có khoảng một ngàn vị quan cận thần đi theo. Trên đường trở về, ngài bàn bạc với các cận thần: “Phụ vương ta vui mừng, nếu phụ vương ban cho ta một điều ước, ta nên chọn điều gì?” Khi ấy, một số quan cận thần nói rằng: “Hãy chọn voi, ngựa, đất đai, hoặc bảy loại châu báu.” Một số khác lại nói rằng: “Ngài là con của một vị vua cai quản cả đất nước, tài sản của ngài cũng không khó kiếm. Dù ngài có được tài sản rồi cũng phải dứt bỏ toàn bỏ tài sản ấy, ngài chỉ nên giữ lấy phước báu thôi; Vì vậy, khi vua ban điều ước, xin ngài hãy chọn việc được hầu cận Đức Phật Padumuttara trong suốt ba tháng.” Hoàng tử đã nói rằng: “Các khanh là bạn tốt của ta, ta không nghĩ tới điều này, nhưng các khanh khiến ta khởi suy nghĩ, nên ta sẽ làm như vậy.” Sau đó, ngài đến hành lễ vua cha, sau khi vua cha ôm đã hôn lên trán rồi hỏi rằng: “Này hoàng nhi, trẫm ban cho hoàng nhi một điều ước” – Hoàng tử nói: “Thưa phụ vương, hoàng nhi mong được hầu cận đức Phật với bốn món vật dụng suốt ba tháng, để cuộc sống của hoàng nhi không trở nên vô nghĩa, xin phụ vương ban cho hoàng nhi điều ước này.” – Đức vua trả lời: “Này hoàng nhi, (điều đó) không thể được, hãy chọn điều ước khác,” – Hoàng tử Sumana đáp: “Thưa phụ vương, không có chuyện hai lời trong gia đình hoàng tộc. Xin phụ vương hãy ban cho hoàng nhi điều ước này, hoàng nhi không cần gì khác.” – “Này hoàng nhi, tâm ý của chư Phật là khó hiểu. Nếu đức Thế Tôn không muốn, cho dù ta có ban điều ước này, cũng sẽ không có ích gì.” – Hoàng tử Sumana đáp: “Lành thay, tâu phụ vương, hoàng nhi sẽ tự mình biết được ý muốn của đức Thế Tôn,” nói rồi hoàng tử đi đến tịnh xá.

Tena ca samayena bhattakiccaṃ niṭṭhapetvā bhagavā gandhakuṭiṃ paviṭṭho hoti. So maṇḍalamāḷe sannisinnānaṃ bhikkhūnaṃ santikaṃ agamāsi. Te taṃ āhaṃsu — “rājaputta, kasmā āgatosī”ti? Bhagavantaṃ dassanāya, dassetha me bhagavantanti. Na mayaṃ, rājaputta, icchiticchitakkhaṇe satthāraṃ daṭṭhuṃ labhāmāti. Ko pana, bhante, labhatīti? Sumanatthero nāma rājaputtāti. “So kuhiṃ, bhante, thero”ti. Therassa nisinnaṭṭhānaṃ pucchitvā gantvā vanditvā — “Icchāmahaṃ, bhante, bhagavantaṃ passituṃ, dassetha me”ti āha. Thero — “ehi rājaputtā”ti taṃ gahetvā taṃ gandhakuṭipariveṇe ṭhapetvā gandhakuṭiṃ abhiruhi. Atha naṃ bhagavā — “Sumana, kasmā āgatosī”ti āha. Rājaputto, bhante, bhagavantaṃ dassanāya āgatoti. Tena hi bhikkhu āsanaṃ paññāpehīti. Thero āsanaṃ paññāpesi, nisīdi bhagavā paññatte āsane. Rājaputto bhagavantaṃ vanditvā paṭisanthāraṃ akāsi. Kadā āgatosi rājaputtāti? Bhante, tumhesu gandhakuṭiṃ paviṭṭhesu. Bhikkhū pana — “na mayaṃ icchiticchitakkhaṇe bhagavantaṃ daṭṭhuṃ labhāmā”ti maṃ therassa santikaṃ pāhesuṃ. Thero pana ekavacaneneva dassesi. Thero, bhante, tumhākaṃ sāsane vallabho maññeti. Āma rājakumāra, vallabho esa bhikkhu mayhaṃ sāsaneti. Bhante, buddhānaṃ sāsane kiṃ katvā vallabho hotīti? Dānaṃ datvā sīlaṃ samādiyitvā uposathakammaṃ katvā kumārāti[11]. Bhagavā, ahaṃ thero viya buddhasāsane vallabho hotukāmo, temāsaṃ me vassāvāsaṃ adhivāsethāti. Bhagavā — “Atthi nu kho tattha gatena attho”ti oloketvā atthīti disvā “suññāgāre, kho rājakumāra tathāgatā abhiramantī”ti āha. Kumāro “aññātaṃ bhagavā, aññātaṃ sugatā”ti vatvā “ahaṃ, bhante, purimataraṃ gantvā vihāraṃ kāremi, mayā pesite bhikkhusatasahassena saddhiṃ āgacchathā”ti paṭiññaṃ gahetvā pitusantikaṃ gantvā “dinnā me, deva, bhagavatā paṭiññā, mayā pahite bhagavantaṃ peseyyāthā”ti pitaraṃ vanditvā nikkhamitvā yojane yojane vihāraṃ kāretvā vīsayojanasataṃ addhānaṃ gantvā attano nagare vihāraṭṭhānaṃ vicinanto sobhanaṃ[12] nāma kuṭumbikassa uyyānaṃ disvā satasahassena kiṇitvā satasahassaṃ vissajjetvā vihāraṃ kāresi. Tattha bhagavato gandhakuṭiṃ sesabhikkhūnañca rattiṭṭhānadivāṭṭhānatthāya kuṭileṇamaṇḍape kārāpetvā pākāraparikkhepe katvā dvārakoṭṭhakañca niṭṭhapetvā pitusantikaṃ pesesi — “niṭṭhitaṃ mayhaṃ kiccaṃ, satthāraṃ pahiṇathā”ti.

Vào lúc ấy, sau khi hoàn tất phận sự thọ thực, đức Thế Tôn đã trở về tịnh thất của Ngài, và hoàng tử Sumana đi đến trú xá của các vị tỳ khưu đang ngồi ở gian nhà mái tròn. Các vị tỳ khưu hỏi hoàng tử Sumana: “Thưa hoàng tử, ngài đến đây vì mục đích gì?” – Hoàng tử đáp: “Tôi muốn gặp đức Thế Tôn, chúng tôi xin các đại đức cho tôi được diện kiến Ngài.” – Các vị tỳ khưu nói: “Thưa hoàng tử, chúng tôi không thể gặp bậc Đạo Sư vào bất cứ gian nào (mà) chúng tôi muốn.” – “Vậy ai có thể gặp được Ngài?” – “Đó là trưởng lão Sumana, thưa hoàng tử.” – “Thưa các ngài đại đức, vị ấy ở đâu?” – Thưa các ngài đại đức, trưởng lão cư ngụ ở đâu? Sau khi hỏi đến chỗ ngồi, đã đến đảnh lễ và nói: – “Thưa ngài, tôi mong muốn được gặp đức Thế Tôn, xin ngài cho tôi được diện kiến.” – Trưởng lão – “hãy đến này hoàng tử” rồi đưa hoàng tử Sumana đến khu vực Hương Thất, một mình ngài bước vào Hương Thất. Đức Thế Tôn hỏi: “Trưởng lão Sumana, ông đến đây vì điều gì?” – Bạch ngài, hoàng tử Sumana đến để gặp ngài. – “Này tỳ khưu, vậy thì, hãy trải chỗ ngồi.” Trưởng lão đã trải chỗ ngồi, đức Thế Tôn đã ngồi trên chỗ ngồi đã được trải sẵn. Sau khi hoàng tử đảnh lễ đức Thế Tôn đã thực hiện việc chào hỏi. – (Đức Phật) “Hoàng tử đến đây từ khi nào?” – (Hoàng tử): “Thưa đức Thế Tôn, khi ngài vào tịnh thất, các tỳ khưu đã nói với con rằng: chúng tôi cũng không thể gặp vào bất cứ gian nào (mà) chúng tôi muốn và đã gửi con đến gặp trưởng lão Sumana.” – Nhưng tôn giả chỉ cần nói một lời là có thể gặp ngài. Thưa đức Thế Tôn, trưởng lão có lẽ là vị rất được yêu quý trong Giáo Pháp của ngài. – Này hoàng tử, đúng thế, vị tỳ khưu ấy là vị rất được yêu quý trong Giáo Pháp của ta.” – “Thưa đức Thế Tôn, các vị tỳ khưu đã làm điều gì để trở thành người được yêu quý trong Giáo Pháp của chư Phật?” – Hạng người (thực hành) bố thí, thọ trì giới hạnh, và gìn giữ bát quan trai giới sẽ trở thành vị được yêu quý trong Giáo Pháp của chư Phật. – Kính bạch đức Thế Tôn, tôi muốn được trở thành vị được yêu mến trong Giáo Pháp của chư Phật giống như trưởng lão, xin ngài nhận lời thỉnh cầu của con ở lại đây suốt ba tháng vào mùa mưa. Sau khi đức Thế Tôn nhìn thấy rằng: “Việc đi đến nơi đó có lợi ích hay không có lợi ích” nên mới nói: “Này hoàng tử, đấng Như Lai thỏa thích ở nơi thanh vắng.” Hoàng tử đã nói rằng: “Kính bạch đức Thế Tôn con đã biết, kính bạch Thiện Thệ con đã biết” rồi đáp rằng: “Bạch ngài, con trở về trước rồi xây dựng tịnh xá, sau đó con sẽ gửi tin tức đến, xin ngày hãy đến cùng với một trăm ngàn vị tỳ khưu”, khi (đức Phật) đã chấp nhận, hoàng tử mới đi đến yết kiến phụ vương (và) tâu rằng: “Thưa phụ vương, đức Thế Tôn đã hứa với hoàng nhi, khi con gửi tin tức đến, xin phụ vương cho phép đức Thế Tôn đi. Sau đó, hoàng tử đã hành lễ phụ vương và lên đường xây dựng các tịnh xá ở mỗi do-tuần trên hành trình dài hai ngàn do-tuần. Hoàng tử tìm một nơi thích hợp để xây dựng tịnh xá trong thành phố của mình, sau khi nhìn thấy khu vườn của Kuṭumbika tên là Sobhana đã mua khu vườn ấy với giá một trăm ngàn đồng và đã bỏ thêm một trăm ngàn nữa để xây dựng tịnh xá. Ở tịnh xá ấy, hoàng tử xây dựng Hương Thất cho đức Thế Tôn và các tịnh thất làm nơi trú ẩn và gian nhà lớn làm chỗ nghĩ ngơi ban đêm và ban ngày cho các vị tỳ khưu còn lại, sau khi xây dựng bức tường bao quanh và tạo cổng vòm hoàn tất công việc hoàng tử đã gửi tin về cho phụ vương: “Hoàng nhi đã hoàn thành công việc, xin phụ vương hãy gửi lời thỉnh cầu bậc Đạo Sư.”

Rājā bhagavantaṃ bhojetvā — “Bhagavā, sumanassa kiccaṃ niṭṭhitaṃ, tumhākaṃ gamanaṃ paccāsīsatī”ti āha. Bhagavā satasahassabhikkhuparivāro yojane yojane vihāresu vasamāno agamāsi. Kumāro “satthā āgato”ti sutvā yojanaṃ paccuggantvā mālādīhi pūjayamāno vihāraṃ pavesetvā —

“Satasahassena me kītaṃ, satasahassena māpitaṃ.

Sobhanaṃ nāma uyyānaṃ, paṭiggaṇha mahāmunī”ti.

Sau khi đức vua thết đãi đức Thế Tôn đã nói rằng: “Thưa đức Thế Tôn, công việc của hoàng tử Sumana đã hoàn tất, hoàng tử đang mong chờ ngài đến.” – Đức Thế Tôn có một trăm ngàn vị tỳ khưu tùy tùng cư trú trong các tịnh xá được xây dựng ở mỗi do-tuần, đã lên đường. Sau khi hoàng tử nghe rằng: “Bậc Đạo Sư đang đến”thì hoàng tử đã đi hết quãng đường một do-tuần để tiếp đón ngài, lễ bái bằng các vật thơm và tràng hoa v.v, cung thỉnh đức Thế Tôn mời ngài bước vào tịnh xá, nói rằng: –

“Con đã mua (khu vườn) với một trăm ngàn đồng, và con đã xây dựng thêm với một trăm ngàn đồng. Kính thưa bậc Đại Hiền Triết xin ngài hãy nhận lấy khu vườn tên là Sobhana. ”

Vihāraṃ niyyātesi. So vassūpanāyikadivase dānaṃ datvā attano puttadāre ca amacce ca pakkosāpetvā āha — “Ayaṃ satthā amhākaṃ santikaṃ dūrato āgato, buddhā ca nāma dhammagaruno na āmisagarukā. Tasmā ahaṃ temāsaṃ dve sāṭake nivāsetvā dasa sīlāni samādiyitvā idheva vasissāmi, tumhe khīṇāsavasatasahassassa imināva nīhārena temāsaṃ dānaṃ dadeyyāthā”ti.

Hoàng tử đã dâng lên tịnh xá. Hoàng tử vào ngày an cư mùa mưa đã dâng cúng, gọi các con và vợ của ngài, cùng với các cận thần rồi nói rằng: “Bậc Đạo Sư này đã từ xa đi đến chỗ của chúng ta, và thông thường các bậc giác ngộ luôn xem trọng Pháp chớ không quan tâm đến tài vật. Vì vậy, ta sẽ mặc hai chiếc y và thọ trì giới hạnh rồi cư trú lại ở nơi đây suốt ba tháng này. Các ái khanh hãy cúng dường vật thí đến một trăm ngàn bậc Lậu Tận theo cách thức này trong ba tháng.

So sumanattherassa vasanaṭṭhānasabhāgeyeva ṭhāne vasanto yaṃ thero bhagavato vattaṃ karoti, taṃ sabbaṃ disvā “imasmiṃ ṭhāne ekantavallabho esa thero, etasseva me ṭhānantaraṃ patthetuṃ vaṭṭatī”ti cintetvā upakaṭṭhāya pavāraṇāya gāmaṃ pavisitvā sattāhaṃ mahādānaṃ datvā sattame divase bhikkhusatasahassassa pādamūle ticīvaraṃ ṭhapetvā bhagavantaṃ vanditvā — “Bhante, yadetaṃ mayā magge yojanantarikaṃ yojanantarikaṃ vihāraṃ kārāpanato paṭṭhāya puññaṃ kataṃ, taṃ neva sakkasampattiṃ, na mārasampattiṃ, na brahmasampattiṃ patthayantena, buddhassa pana upaṭṭhākabhāvaṃ patthayantena kataṃ. Tasmā ahampi, bhagavā, anāgate sumanatthero viya buddhassa upaṭṭhāko bhaveyyan”ti pañcapatiṭṭhitena nipatitvā vandi.

Vị ấy trú ngụ ở gần nơi của trưởng lão Sumana, bổn phận mà trưởng lão thực hiện đối với đức Thế Tôn, sau khi nhìn thấy toàn bộ điều đó đã nghĩ rằng: “Trưởng lão là vị được rất được yêu quý ở nơi này, ta cũng nên ước muốn ở vị trí như vậy.” Khi gần đến ngày lễ Pavāraṇā, hoàng tử đã đi vào làng đã bố thí cuộc bố thí lớn suốt bảy ngày, vào ngày thứ bảy đã đặt bộ Tam Y gần bàn chân của một trăm ngàn vị tỳ khưu, đảnh lễ đức Thế Tôn và thưa rằng: “Kính bạch đức Thế Tôn, phước báu nào mà con đã tạo bắt đầu từ việc xây dựng tịnh xá ở giữa mỗi do-tuần trên con đường phước báu ấy, con không mong cầu sự thành tựu Sakka, hay sự thành tựu Ma-vương, hay sự thành tựu Phạm Thiên, mà chỉ mong cầu trở thành thị giả của đức Phật trong thời vị lai nên đã thực hiện.” Do đó, hoàng tử mới nói rằng: “Bạch đức Thế Tôn ngay cả con cũng muốn trở thành vị thị giả của đức Phật trong thời vị lai như trưởng lão Sumana, rồi đảnh lễ với năm điểm tiếp đất.”

Bhagavā — “Mahantaṃ kulaputtassa cittaṃ, samijjhissati nu kho no”ti olokento — “anāgate ito satasahassime kappe gotamo nāma buddho uppajjissati, tasseva upaṭṭhāko bhavissatī”ti ñatvā —

“Icchitaṃ patthitaṃ tuyhaṃ, sabbameva samijjhatu.

Sabbe pūrentu saṅkappā, cando pannaraso yathā”ti. Āha.

Đức Thế Tôn trong khi quan sát – “Tâm vĩ đại của thiện nam tử sẽ thành tựu hay không?” – Đã biết được rằng – “Vào thời vị lai một trăm ngàn đại kiếp kể từ đây đức Phật hồng danh Gotama sẽ hiện khởi, Sumana này sẽ trở thành thị giả của đức Phật ấy,” nên đã ban lời phúc chúc –

Cầu mong sự ước muốn đã phát nguyện, tất cả những điều ước muốn hãy thành tựu. Cầu mong tất cả các sự tư duy được thành tựu, như mặt trăng tròn ngày rằm.

Kumāro taṃ sutvā — “buddhā nāma advejjhakathā hontī”ti dutiyadivaseyeva tassa bhagavato pattacīvaraṃ gahetvā piṭṭhito piṭṭhito gacchanto viya ahosi. So tasmiṃ buddhuppāde vassasatasahassaṃ dānaṃ datvā sagge nibbattitvā kassapabuddhakālepi piṇḍāya carato therassa pattaggahaṇatthaṃ uttarisāṭakaṃ datvā pūjamakāsi. Puna sagge nibbattitvā tato cuto bārāṇasirājā hutvā aṭṭhannaṃ paccekabuddhānaṃ paṇṇasālāyo kāretvā maṇiādhārake upaṭṭhapetvā catūhi paccayehi dasavassasahassāni upaṭṭhānaṃ akāsi. Etāni pākaṭaṭṭhānāni.

Sau khi hoàng tử nghe điều đó đã nghĩ rằng – “Chư Phật không nói hai lời” vào ngay ngày hôm sau, đã cầm lấy bình bát và y phục của đức Thế Tôn như thể đang bước đi theo sau lưng. Hoàng tử đã cúng dường vật thí vào thời kỳ có Phật ra đời suốt một trăm ngàn năm và đã hóa sanh vào cõi trời. Thậm chí vào thời kỳ đức Phật Kassapa, ngài cũng  đã cúng dường thượng y thượng hạng để cầm lấy bình bát của vị trưởng lão khi đang đi khất thực, rồi thực hiện lễ bái. Sau khi tái sinh lên cõi trời lần nữa, mệnh chung từ cõi trời ấy ngài đã trở thành vua Bārāṇasī, đã xây dựng một ngôi nhà lá dâng cúng đến tám vị Phật-độc-giác, đặt ghè nước sạch tựa như ngọc ma-ni, đã chăm sóc và phụng sự bằng bốn món vật dụng suốt mười ngàn năm. Những lý do này đã hiển lộ rõ ràng.

Kappasatasahassaṃ pana dānaṃ dadamānova amhākaṃ bodhisattena saddhiṃ tusitapure nibbattitvā tato cuto amitodanasakkassa gehe paṭisandhiṃ gahetvā anupubbena katābhinikkhamano sammāsambodhiṃ patvā paṭhamagamanena kapilavatthuṃ āgantvā tato nikkhamante bhagavati bhagavato parivāratthaṃ rājakumāresu pabbajitesu bhaddiyādīhi saddhiṃ nikkhamitvā bhagavato santike pabbajitvā nacirasseva āyasmato puṇṇassa mantāṇiputtassa santike dhammakathaṃ sutvā sotāpattiphale patiṭṭhahi.[13] Evamesa āyasmā pubbūpanissayasampanno tassimāya pubbūpanissayasampattiyā gambhīropi paṭiccasamuppādo uttānako viya upaṭṭhāsi.

Hơn nữa, hoàng tử Sumana ấy thực hiện bố thí suốt một trăm ngàn kiếp, (vị ấy) đã hóa sanh vào cung trời Tusita (Đâu Suất) cùng với đức Bồ-tát của chung ta. Khi mệnh chung từ cung trời ấy đã tái sinh trở lại vào hoàng cung của vua Sakka tên là Amitodana. Khi đức Thế Tôn rời khỏi (hoàng cung) để xuất gia theo tuần tự ngài đã chứng đắc quả vị Chánh-đẳng Chánh-giác và lần đầu tiên trở về kinh thành Kapilavatthu, ngài cùng với các hoàng tử có Bhaddiya đã rời khỏi cung và xuất gia ở trú xứ của đức Thế Tôn. Chẳng bao lâu sau thì được nghe Pháp thoại từ tỳ khưu Puṇṇa Mantāṇiputta, rồi vững trú vào Thánh Quả Nhập Lưu. Vị trưởng lão này là vị đạt đến sự thành tựu cận đại y duyên từ kiếp quá khứ là như vậy, Lý Duyên Khởi mặc dù thâm sâu nhưng dường như là quá rõ ràng bởi sự thành tựu cận đại y duyên từ kiếp quá khứ của vị trưởng lão ấy.

Giảng Giải Việc Sống Ở Trú Xứ Của Thầy

Titthavāsoti punappunaṃ garūnaṃ santike uggahaṇasavanaparipucchanadhāraṇāni vuccanti. So therassa ativiya parisuddho, tenāpissāyaṃ gambhīropi paṭiccasamuppādo uttānako viya upaṭṭhāsi.

Nói đến việc học, việc nghe, việc hỏi và việc ghi nhớ thường xuyên trong trú xứ của các vị thầy được gọi là ‘việc sống trong trú xứ của thầy’. Việc sống trong trú xứ ấy của trưởng lão vô cùng trong sạch, vì thế Lý Duyên Khởi này nhưng đối với trưởng lão dường như là quá rõ ràng.

Sotāpannānañca nāma paccayākāro uttānakova hutvā upaṭṭhāti, ayañca āyasmā sotāpanno. Bahussutānañca catuhatthe ovarake padīpe jalamāne mañcapīṭhaṃ viya nāmarūpaparicchedo pākaṭo hoti, ayañca āyasmā bahussutānaṃ aggo hoti, bāhusaccānubhāvenapissa gambhīropi paccayākāro uttānako viya upaṭṭhāsi.

Và Lý Duyên Khởi là rõ ràng (là đơn giản) của vị đã vững trú trong quả vị Nhập Lưu, và trưởng lão này cũng đã là vị Thánh Nhập Lưu. Việc phân biệt danh sắc hiển lộ cùng bậc đa văn giống như chiếc giường và ghế hiện ra khi ngọn đèn được chiếu sáng trong phòng ngủ rộng chừng bốn hắc tay, và trưởng lão này là vị đứng đầu trong các bậc đa văn, Lý Duyên Khởi mặc dù thâm sâu cũng được thiết lập nơi trưởng lão ấy dường như là rõ ràng với oai lực của bản thể vị đa văn.

Giảng Giải Sự Thâm Sâu của Lý Duyên Khởi

Tattha atthagambhīratāya, dhammagambhīratāya, desanāgambhīratāya, paṭivedhagambhīratāyāti catūhi ākārehi paṭiccasamuppādo gambhīro nāma.

Ở đó, Lý Duyên Khởi gọi là thâm sâu bởi bốn biểu hiện: (1) với sự thâm sắc về ý nghĩa; (2) vơi sự thâm sâu về pháp; (3) với sự thâm sâu về lời dạy; (4) với sự thâm sâu về sự thấu triệt.

Tattha jarāmaraṇassa jātipaccayasambhūtasamudāgataṭṭho gambhīro … pe … saṅkhārānaṃ avijjāpaccayasambhūtasamudāgataṭṭho gambhīroti ayaṃ atthagambhīratā.

Trong bốn sự thâm sâu đó Lý Duyên Khởi thâm sâu có ý nghĩa rằng: có và sanh khởi do Sanh làm duyên của Già và Chết là thâm sâu …nt… có ý nghĩa rằng: có và sanh khởi do Vô Minh làm duyên của các Hành, đây là sự thâm sau về ý nghĩa.

Avijjāya saṅkhārānaṃ paccayaṭṭho gambhīro … pe … jātiyā jarāmaraṇassa paccayaṭṭho gambhīroti ayaṃ dhammagambhīratā.

Lý Duyên Khởi thâm sâu có ý nghĩa Vô Minh làm duyên của các Hành là thâm sâu …nt… có nghĩa Sanh làm duyên của Già và Chết, đây là sự thâm sau về Pháp.

Katthaci sutte paṭiccasamuppādo anulomato desiyati, katthaci paṭilomato, katthaci anulomapaṭilomato, katthaci majjhato paṭṭhāya anulomato vā paṭilomato vā anulomapaṭilomato vā, katthaci tisandhi catusaṅkhepo, katthaci dvisandhi tisaṅkhepo, katthaci ekasandhi dvisaṅkhepoti ayaṃ desanāgambhīratā.

Trong một số bài Kinh ngài thuyết Lý Duyên Khởi theo chiều thuận, trong một số bài Kinh ngài thuyết theo chiều nghịch, trong một số bài Kinh ngài thuyết theo chiều thuận và chiều nghịch, trong một số bài Kinh (thuyết) theo chiều thuận và chiều nghịch bắt đầu ở giữa, trong một số bài Kinh (thuyết) theo chiều thuận hoặc chiều nghịch bắt đầu từ cuối. Trong một số bài Kinh có ba sự liên kết, bốn yếu lược; Trong một số bài Kinh có hai sự liên kết, và ba yếu lược; Trong một số bài Kinh có một liên kết, và hai yếu lược, đây là với sự thâm sâu về lời dạy.

Avijjāya pana aññāṇādassanasaccāpaṭivedhaṭṭho gambhīro, saṅkhārānaṃ abhisaṅkharaṇāyūhanasarāgavirāgaṭṭho, viññāṇassa suññata- abyāpāra- asaṅkantipaṭisandhipātubhāvaṭṭho, nāmarūpassa ekuppādavinibbhogāvinibbhoganamanaruppanaṭṭho, saḷāyatanassa adhipatilokadvārakkhettavisayibhāvaṭṭho, phassassa phusanasaṅghaṭṭanasaṅgatisannipātaṭṭho, vedanāya ārammaṇarasānubhavanasukhadukkhamajjhattabhāvanijjīvavedayitaṭṭho, taṇhāya abhinandita-ajjhosānasaritā[14] latātaṇhānadī taṇhāsamuddaduppūraṇaṭṭho, upādānassa ādānaggahaṇābhinivesaparāmāsaduratikkamaṭṭho, bhavassa āyūhanābhisaṅkharaṇayonigatiṭhitinivāsesu khipanaṭṭho, jātiyā jātisañjātiokkantinibbattipātubhāvaṭṭho, jarāmaraṇassa khayavayabhedavipariṇāmaṭṭho gambhīroti. Evaṃ yo[15] avijjādīnaṃ sabhāvo, yena paṭivedhena avijjādayo sarasalakkhaṇato paṭividdhā honti; So gambhīroti ayaṃ paṭivedhagambhīratāti veditabbā. Sā sabbāpi therassa uttānakā[16] viya upaṭṭhāsi.Tena bhagavā āyasmantaṃ ānandaṃ ussādento — “mā hevan”tiādimāha. Ayañcettha adhippāyo — ānanda, tvaṃ mahāpañño visadañāṇo, tena te gambhīropi paṭiccasamuppādo uttānako viya khāyati, tasmā — “mayhameva nu kho esa uttānako[17] hutvā upaṭṭhāti, udāhu aññesampī”ti mā evaṃ avacāti.

Hơn nữa, Lý Duyên Khởi thâm sâu có ý nghĩa không biết, không thấy, không thấu triệt các Chân Lý của Vô Minh là thâm sâu; có ý nghĩ sự tạo tác, sự tập hợp các Hành có hữu ái và ly ái; có ý nghĩa trống rỗng, không nỗ lực, không di chuyển và hiển lộ sự tái tục của thức; có nghĩa đồng sanh, có thể được tách rời, không thể được tách rời, sự hướng đến và sự tan rã của danh sắc; có ý nghĩa làm trưởng, làm môn, làm ranh giới của thế gian và bản thể Pháp có đối tượng của sáu xứ; có ý nghĩa sự tiếp xúc, sự chạm vào, sự kết hợp và sự gặp gỡ của xúc; có ý nghĩa được cảm nghiệm cảnh và vị, và được cảm nghiệm những thứ không có sự sống là tính chất an lạc, khổ đau, và trung bình của thọ; có ý nghĩa tìm kiếm sự thỏa thích, sự quyến luyến, dòng nước, dòng sông tham ái, đại dương tham ái, khó đầy (khó thỏa mãn) của tham ái; có ý nghĩa là bám lấy, níu lấy, sự dính chặt, sự thiên chấp, sự bám chấp và khó vượt qua của thủ; có ý nghĩa là sự tích lũy, sự tạo tác; và ném vào (bốn) nguồn gốc sanh ra, (năm) cảnh giới tái sanh, (bảy) nơi tồn tại của thức, và (chín) hữu tình cư; có ý nghĩa sự sanh ra, sự sanh khởi, sự nhập thai, sự phát sanh của sanh; và ý nghĩa của sự điêu tàn, sự biến hoại, sự tan rã, và sự biến chuyển của già và chết. Như vậy, thực tính của Vô Minh nào, Pháp có Vô Minh v.v, được thấu triệt bằng trạng thái có phận sự do sự thấu triệt nào; Thực tính và sự thấu triệt đó là thâm sâu; vì thế nên biết rằng đây là bản thế Lý Duyên Khởi có sự thâm sâu do sự thấu triệt. Toàn bộ Lý Duyên Khởi ấy hiện khởi nơi trưởng lão dường như là rõ ràng (là đơn giản). Vì thế, đức Thế Tôn khi đại đức Ānanda gỡ bỏ suy nghĩ mới nới rằng: “Chớ nói như vậy…” Và ở đây trong câu này có giải thích rằng: “Này Ānanda, con là người có trí tuệ vĩ đại, có trí tuệ sắc bén, vì thế Lý Duyên Khởi dù là thâm sâu và có biểu hiện thâm sâu nhưng đối với con dường như là rõ ràng (là đơn giản), do đó, con chớ nói như vậy rằng: ‘Phải chăng Lý Duyên Khởi này hiển lộ là rõ ràng chỉ riêng một mình ta, hay luôn cả người cả?”

Giảng Giải Việc Giảm Sự Hài Lòng

Yaṃ pana vuttaṃ — “apasādento”ti, tattha ayaṃ adhippāyo — ānanda, “atha ca pana me uttānakuttānako viya khāyatī”ti mā hevaṃ avaca. Yadi hi te esa uttānakuttānako viya khāyati, kasmā tvaṃ attano dhammatāya sotāpanno nāhosi, mayā dinnanayeva ṭhatvā sotāpattimaggaṃ paṭivijjhasi. Ānanda, idaṃ nibbānameva gambhīraṃ, paccayākāro pana tava uttānako jāto, atha kasmā oḷārikaṃ kāmarāgasaṃyojanaṃ paṭighasaṃyojanaṃ, oḷārikaṃ kāmarāgānusayaṃ paṭighānusayanti ime cattāro kilese samugghāṭetvā sakadāgāmiphalaṃ na sacchikarosi? Teyeva aṇusahagate cattāro kilese samugghāṭetvā anāgāmiphalaṃ na sacchikarosi? Rūparāgādīni pañca saṃyojanāni, bhavarāgānusayaṃ, mānānusayaṃ, avijjānusayanti ime aṭṭha kilese samugghāṭetvā arahattaṃ na sacchikarosi?

Hơn nữa, trong câu ngài nói rằng: “giảm sự hài lòng”, điều này được giải thích rằng – “Này Ānanda, chớ nên nói như vậy, ‘Lý Duyên Khởi này thâm sâu và có biểu hiện thâm sâu! nhưng đối với con nó dường như là quá rõ ràng’”. Thật vậy, giả sử Lý Duyên Khởi này dường như là quá rõ ràng đối với ngươi, vậy tại sao ngươi vẫn không trở thành bậc Thánh Nhập Lưu theo bản thể tự nhiên của chính mình, ngươi đã vững trú trong cách thức mà ta ban cho mới chứng đắc Nhập Lưu Thánh Đạo. Này Ānanda, chỉ có Nibbāna này là thâm sâu, hơn nữa, tuy nhiên Lý Duyên Khởi là rõ ràng đối với ngươi, thế thì tại sao ngươi đã bứng tận gốc bốn loại phiền não này là Dục ái triền, (và) Phẫn nộ triền dạng thô; Dục ái tùy miên (và) Phẫn nộ tùy miên dạng thô, (nhưng) cũng không thể tác chứng Thánh Quả Nhất Lai? Ngươi đã bứng tận gốc bốn loại phiền não có liên quan đến nhân ấy, cũng không thể tác chứng Thánh Đạo Bất Lai? Ngươi đã bứng tận gốc tám loại phiền não này là năm kiết sử có Sắc ái v.v, Hữu ái tùy miên, Ngã mạn tùy miên, Vô minh tùy miên, (nhưng) cũng không thể tác chứng A-ra-hán?

Kasmā ca satasahassakappādhikaṃ ekaṃ asaṅkhyeyyaṃ pūritapāramino sāriputtamoggallānā viya sāvakapāramiñāṇaṃ nappaṭivijjhasi? satasahassakappādhikāni dve asaṅkhyeyyāni pūritapāramino paccekabuddhā viya ca paccekabodhiñāṇaṃ nappaṭivijjhasi? yadi vā te sabbathāva esa uttānako hutvā upaṭṭhāti, atha kasmā satasahassakappādhikāni cattāri aṭṭha soḷasa vā asaṅkhyeyyāni pūritapāramino buddhā viya sabbaññutaññāṇaṃ na sacchikarosi? Kiṃ anatthikosi etehi visesādhigamehi, passa yāvañca te aparaddhaṃ, tvaṃ nāma sāvako padesañāṇe ṭhito atigambhīraṃ paccayākāraṃ — “uttānako me upaṭṭhātī”ti vadasi, tassa te idaṃ vacanaṃ buddhānaṃ kathāya paccanīkaṃ hoti, na tādisena nāma bhikkhunā buddhānaṃ kathāya paccanīkaṃ kathetabbanti yuttametaṃ.

Và tại sao ngươi không thể thấu triệt ba-la-mật trí của vị Thánh Thinh văn giống như Sāriputta và Moggallāna, vị đã thực hành ba-la-mật suốt một a-tăng-kỳ với một trăm ngàn kiếp? Và ngươi không thấu triệt trí giác ngộ của vị Phật-độc-giác, vị đã thực hành ba-la-mật suốt hai a-tăng-kỳ với trăm ngàn kiếp? Hoặc giả sử Lý Duyên Khởi dường như là rõ ràng ở mọi khía cạnh đối với ngươi, vậy thì tại sao ngươi cũng không thể tác chứng Trí-Toàn-giác giống như chư Phật, vị đã thực hành ba-la-mật suốt bốn a-tăng-kỳ, tám a-tăng-kỳ, mười sáu a-tăng-kỳ với trăm ngàn kiếp? Ngươi là người không có được lợi ích gì với việc chứng đắc những ân đức đặc biệt này, ngươi hãy luôn xem xét sự sái quấy của người, vị Thinh văn như ngươi được thiết lập trong sự hiểu biết căn bản mà lại nói đến Lý Duyên Khởi vô cùng thâm sâu này rằng: “(Lý Duyên Khởi) dường như là quá rõ ràng đối với con”, lời nói này của người đều là những lời nói trái ngược với lời nói của chư Phật, lời nói mà một vị tỳ khưu như ngươi có thể nói trái ngược với lời nói của chư Phật, điều này thật sự không thích hợp.

Nanu mayhaṃ, ānanda, idaṃ paccayākāraṃ paṭivijjhituṃ vāyamantasseva satasahassakappādhikāni cattāri asaṅkhyeyyāni atikkantāni? paccayākāraṃ paṭivijjhanatthāya ca pana me adinnaṃ dānaṃ nāma natthi, apūritapāramī nāma natthi. paccayākāraṃ paṭivijjhassāmīti pana me nirussāhaṃ viya mārabalaṃ vidhamantassa ayaṃ mahāpathavī dvaṅgulamattampi na kampi tathā paṭhamayāme pubbenivāsaṃ, majjhimayāme dibbacakkhuṃ sampādentassa. pacchimayāme pana me balavapaccūsasamaye — “avijjā saṅkhārānaṃ navahi ākārehi paccayo hotī”ti diṭṭhamatteva dasasahassilokadhātu ayadaṇḍakena ākoṭitakaṃsatālaṃ viya viravasataṃ viravasahassaṃ muñcamānā vātāhate paduminipaṇṇe udakabindu viya kampittha. Evaṃ gambhīro cāyaṃ, ānanda, paṭiccasamuppādo, gambhīrāvabhāso ca. Etassa ānanda, dhammassa ananubodhā … pe … nātivattatīti.

 Phải chằng này Ānanda khi ta ra sức để thấu triệt Lý Duyên Khởi này phải trải qua bốn a-tăng-lỳ với một trăm ngàn kiếp? Và hơn nữa, vật thí mà ta không bố thí nhằm mục địch thấu triệt Lý Duyên Khởi là không có, ba-la-mật mà ta không thực hành (nhằm mục địch thấu triệt Lý Duyên Khởi) là không có. Hơn nữa, khi ta tiêu diệt Ác-ma và đạo binh của Ác-ma như thể nín thở với suy nghĩ rằng: vào ngày hôm nay ta sẽ chứng đắc Lý Duyên Khởi đại địa cầu không rúng động dầu chỉ hai lóng tay, khi ta chứng đắc Túc Mạng Minh vào canh đầu, chứng đắc Thiên Nhãn Minh vào canh giữa cũng tương tự, nhưng vào canh cuối lúc trời gần sáng khi ta vừa nhìn thấy rằng: “Vô minh là duyên của các Hành với chín biểu hiện ấy” thì mười ngàn thế giới phát ra hàng ngàn âm thanh rền vang giống như cái chuông đồng bị đánh bởi một thanh sắt, rung chuyển tựa như giọt sương trên lá sen bị gió thổi. Này Ānanda, Lý Duyên Khởi này là thâm sâu và có biểu hiện thâm sâu như vậy. Này Ānanda, do không hiểu biết, không thấu triệt Pháp này …nt.. không vượt ra khỏi đọa xứ, cõi khổ, nơi trừng phạt, luân hồi.”

Etassa dhammassāti etassa paccayadhammassa. Ananubodhāti ñātapariññāvasena ananubujjhanā. Appaṭivedhāti tīraṇappahānapariññāvasena appaṭivijjhanā. Tantākulakajātāti tantaṃ viya ākulakajātā. Yathā nāma dunnikkhittaṃ mūsikacchinnaṃ pesakārānaṃ tantaṃ tahiṃ tahiṃ ākulaṃ hoti, idaṃ aggaṃ idaṃ mūlanti aggena vā aggaṃ mūlena vā mūlaṃ samānetuṃ dukkaraṃ hoti; Evameva sattā imasmiṃ paccayākāre khalitā ākulā byākulā honti, na sakkonti taṃpaccayākāraṃ ujuṃ kātuṃ. Tattha tantaṃ paccattapurisakāre ṭhatvā sakkāpi bhaveyya ujuṃ kātuṃ, ṭhapetvā pana dve bodhisatte aññe sattā attano dhammatāya paccayākāraṃ ujuṃ kātuṃ samatthā nāma natthi. Yathā pana ākulaṃ tantaṃ kañjiyaṃ datvā kocchena pahataṃ tattha tattha guḷakajātaṃ hoti gaṇṭhibaddhaṃ, evamime sattā paccayesu pakkhalitvā paccaye ujuṃ kātuṃ asakkontā dvāsaṭṭhidiṭṭhigatavasena ākulakajātā honti, gaṇṭhibaddhā. Ye hi keci diṭṭhigatanissitā, sabbe paccayākāraṃ ujuṃ kātuṃ asakkontāyeva.

Pháp này: của Lý Duyên Khởi đó. Do không hiểu biết: Không hiểu biết do mãnh lực biết toàn diện về điều đã được biết. Do không thấu triệt: Không thấu triệt do mãnh biết toàn diện về sự xét đoán và biết toàn diện về sự dứt bỏ. Bị rối ren như là cuộn chỉ: trở thành người bị rối ren như cuộn chỉ. Giải thích rằng tất cả chúng sanh lệch lạc trong Lý Duyên Khởi này trở thành người bị rối ren, không thể làm cho Lý Duyên Khởi ngay thẳng như cuộn chỉ không được khéo bảo quản và bị chuột gặm trở nên rối tung khắp mọi chỗ, thật khó để làm đoạn đầu đều với đoạn đầu và đoạn ngọn đều với đoạn ngọn, bởi vì không biết đây là đoạn đầu, còn đây là đoạn ngọn. Vì thế, có thể giúp cho một người làm ngay thẳng cuộn len rối do dựa vào khả năng riêng của người đó. Những chúng sanh khác ngoại trừ hai hạng Bồ-tát [Bồ-tát sẽ trở thành bậc Độc-giác và bậc Toàn-giác] không khả năng tự mình làm cho Lý Duyên Khởi ngay thẳng, những chúng sanh này sai lệch trong các duyên không thể làm cho Lý Duyên Khởi ngay thẳng, bị rối ren (và) bị ràng buộc lại thành nút thắt do tác động sáu mươi hai loại tà kiến; giống như cuộn chỉ rối ren lẫn với nước vo gạo người ta đập bằng cây mây, nhuộm với quả mặc nưa rồi kết lại thành nút thắc ở chỗ đó. Thật vậy, bất cứ nhóm chúng sanh nào y cứ vào các tà kiến thì không thể làm cho Lý Duyên Khởi ngay thẳng được.

Kulāgaṇṭhikajātāti[18] kulāgaṇṭhikaṃ[19] vuccati pesakārakañjiyasuttaṃ. Kulā nāma[20] sakuṇikā, tassā kulāvakotipi eke. yathā hi tadubhayampi ākulaṃ aggena vā aggaṃ mūlena vā mūlaṃ samānetuṃ dukkaranti purimanayeneva yojetabbaṃ.

Thành ra bị rối bời như mớ chỉ: Chỉ lẫn nước vo gạo của thợ dệt, được gọi là tạo thành nút thắt như một cuộn chỉ. Một số vị nói rằng: Tổ của con chim mái ấy gọi là tổ (sợi giây). Cả hai thứ này bị rối ren có thể được giải thích theo cách trước, và khó làm cho đoạn đầu đều với đoạn đầu, hoặc đoạn góc đều với đoạn góc.

Muñjapabbajabhūtāti muñjatiṇaṃ viya pabbajatiṇaṃ viya ca bhūtā. Yathā tāni tiṇāni koṭṭetvā katarajju jiṇṇakāle katthaci patitaṃ gahetvā tesaṃ tiṇānaṃ idaṃ aggaṃ, idaṃ mūlanti aggena vā aggaṃ mūlena vā mūlaṃ samānetuṃ dukkaranti. Tampi paccattapurisakāre ṭhatvā sakkā bhaveyya ujuṃ kātuṃ, ṭhapetvā pana dve bodhisatte aññe sattā attano dhammatāya paccayākāraṃ ujuṃ kātuṃ samatthā nāma natthi. Evamayaṃ pajā paccayākāre ujuṃ kātuṃ asakkontī diṭṭhigatavasena gaṇṭhikajātā hutvā apāyaṃ duggatiṃ vinipātaṃ saṃsāraṃ nātivattati.

Có trạng thái như là cỏ lau và cỏ sậy: Giống như là cỏ lau và giống như cỏ sậy nhóm chúng sanh này không thể làm cho Lý Duyên Khởi ngay thẳng được, là người có nút thắt do tác động của tà kiến không thoát khỏi khổ cảnh, khổ thú, đọa xứ, luân hồi giống như cầm lấy sợi dây được họ đập bằng sợi cỏ rồi tạo thành sợi dây, khi đến lúc sợi dây cũ và rơi xuống nơi nào đó, thật khó làm cho phần ngọn đều với phần ngọn, và phần gốc đều với phần gốc, bởi vì không hiểu biết đây là phần ngọn, đây là phần gốc của những sợi dây đó. Do đó, người đặt sợi dây đó vào chỗ làm việc của người đặc biết có thể làm cho thẳng được, cũng vậy những chúng sanh khác ngoại trừ hai loại Bồ-tát, thì không thể làm cho Lý Duyên Khởi ngay thẳng theo bản thể tự nhiên của chính nó.

Tattha apāyoti nirayatiracchānayonipettivisayāsurakāyā. Sabbepi hi te vaḍḍhisaṅkhātassa ayassa abhāvato — “apāyo”ti vuccanti. Tathā dukkhassa gatibhāvato duggati. Sukhasamussayato vinipatitattā vinipāto. Itaro pana —

Ở đó, khổ cảnh: địa ngục, bàn sanh, ngạ quỷ và a-tu-la. Thật vậy, toàn bộ đều được gọi là khổ cảnh, bởi vì không có sự tăng trưởng, được gọi là quá trình phát triển. Gọi là ‘khổ thú’ bởi là con đường đưa đến khổ đau. Gọi là đọa xứ bởi rơi khỏi từ sự thiết lập của sự hạnh phúc. Ngoài ra một số vị nói rằng –

“Khandhānañca paṭipāṭi, dhātuāyatanāna ca.

Abbocchinnaṃ vattamānā, saṃsāroti pavuccatī”ti.

Taṃ sabbampi nātivattati nātikkamati. Atha kho cutito paṭisandhiṃ, paṭisandhito cutinti evaṃ punappunaṃ cutipaṭisandhiyo gaṇhantā tīsu bhavesu catūsu yonīsu pañcasu gatīsu sattasu viññāṇaṭṭhitīsu navasu sattāvāsesu mahāsamudde vātukkhittanāvā viya yantesu yuttagoṇo viya ca paribbhamatiyeva. Iti sabbaṃ petaṃ bhagavā āyasmantaṃ ānandaṃ apasādento āhāti veditabbaṃ.

Tuần tự của các Uẩn, Giới và Xứ

Luôn diễn tiến không gián đoạn, ngài gọi là luân hồi.

Nhóm chúng sanh không thoát khỏi, không vượt qua thậm chí toàn bộ. Sau đó, nhóm chúng sanh đã tử và tục sanh liên tục như vậy là từ tử đến tục sanh (và) từ tục sanh đến tử luân chuyển trong cả ba cõi, trong cả bốn cách sanh, trong cả năm sanh thú, trong cả bảy thức trú, và trong chín hữu tình cư, giống như một con thuyền bị gió thổi trên đại dương, giống như con bò bị buộc ách vào cỗ xe. Nên biết toàn bộ điều này rằng: Đức Thế Tôn trong khi làm cho đại đức Ānanda buông bỏ suy nghĩ nên đã nói như thế.

Giảng Giải Lý Duyên Khởi

  1. Idāni yasmā idaṃ suttaṃ — “gambhīro cāyaṃ, ānanda, paṭiccasamuppādo”ti ca “tantākulakajātā”ti ca dvīhiyeva padehi ābaddhaṃ, tasmā — “gambhīro cāyaṃ, ānanda, paṭiccasamuppādo”ti iminā tāva anusandhinā paccayākārassa gambhīrabhāvadassanatthaṃ desanaṃ ārabhanto ‘atthi idappaccayā jarāmaraṇanti’ādimāha. Tatrāyamattho — imassa jarāmaraṇassa paccayo idappaccayo, tasmā idappaccayā atthi jarāmaraṇaṃ, atthi nu kho jarāmaraṇassa paccayo, yamhā paccayā jarāmaraṇaṃ bhaveyyāti evaṃ puṭṭhena satā, ānanda, paṇḍitena puggalena yathā — “taṃ jīvaṃ taṃ sarīran”ti vutte ṭhapanīyattā pañhassa tuṇhī bhavitabbaṃ hoti, “abyākatametaṃ tathāgatenā”ti vā vattabbaṃ hoti, evaṃ appaṭipajjitvā, yathā — “cakkhu sassataṃ asassatan”ti vutte asassatanti ekaṃseneva vattabbaṃ hoti, evaṃ ekaṃseneva atthītissa vacanīyaṃ. Puna kiṃ paccayā jarāmaraṇaṃ, ko nāma so paccayo, yato jarāmaraṇaṃ hotīti vutte jātipaccayā jarāmaraṇanti iccassa vacanīyaṃ, evaṃ vattabbaṃ bhaveyyāti attho. Esa nayo sabbapadesu.
  2. Bây giờ, bằng bài Kinh này, đức Thế Tôn bắt đầu với cả hai câu này rằng – “Này Ānanda, Lý Duyên Khởi này là thâm sâu” và tất cả chúng sanh “thành ra bị rối ren như là cuộn chỉ của người thọ dệt”, vì thế – trong khi bắt đầu thuyết giảng để thấy sự thâm sâu của Lý Duyên Khởi bằng sự liên kết này trước “Này Ānanda, Lý Duyên Khởi này là thâm sâu” nên mới nói rằng: “già chết (sanh khởi) có cái này là duyên”. Duyên của già và chết này gọi là Idappaccaya (có cái này là duyên), vì thế già và chết có cái này là duyên, này Ānanda, có hạng người là bậc sáng trí đã hỏi như vầy: “Có phải chăng duyên của già và chết, già và chết có thể có thứ nào là duyên? Không nên giữ im lặng từ vấn đề do khi có người nói rằng: “Đây là mạng sống, đây là thân thể” nên xác định hoặc nên nói rằng “Điều này không được tuyên bố bởi đức Như Lai.” Nên nói cùng vị ấy rằng: chỉ có một phần mà thôi giống như khi có người nói rằng: “Con mắt là thường hay vô thường,” nên chỉ nói theo một phần rằng: “Vô thường” khi có người nói thêm rằng: “Già và chết có gì là Duyên, già và chết có mặt bởi duyên gì?” Giải thích rằng: “Nên nói như vầy”. Cách thức này áp dụng cho các đoạn kế tiếp.

Nāmarūpapaccayā phassoti idaṃ pana yasmā saḷāyatanapaccayāti vutte cakkhusamphassādīnaṃ channaṃ vipākasamphassānaṃyeva gahaṇaṃ hoti, idha ca “saḷāyatanapaccayā”ti iminā padena gahitampi agahitampi paccayuppannavisesaṃ phassassa ca saḷāyatanato atirittaṃ aññampi visesapaccayaṃ dassetukāmo, tasmā vuttanti veditabbaṃ. Iminā pana vārena bhagavatā kiṃ kathitanti? Paccayānaṃ nidānaṃ kathitaṃ. Idañhi suttaṃ paccaye nijjaṭe niggumbe katvā kathitattā mahānidānanti vuccati.

Hơn nữa, trong câu này ‘do danh sắc là duyên, xúc (sanh khởi)’ bởi khi nói rằng: có sáu xứ làm duyên là thuyết đến xúc chạm làm sáu quả dị thục có nhãn xúc v.v, nhưng trong trường hợp này đức Thế Tôn có ý muốn thuyết giảng sự đặc biệt của duyên sanh lên tiếp nhận, hay không tiếp nhận với câu này rằng “có sáu xứ là duyên”, và duyên đặc biệt thậm chí thứ khác của xúc nhiều hơn sáu xứ, vì thế nên biết rằng: “do danh sắc là duyên, xúc (sanh khởi)”. Hơn nữa, ở đoạn này đức Thế Tôn đã thuyết gì? Ngài đã thuyết nhân của các duyên. Thật vậy, bài Kinh này được gọi là ‘Đại Duyên’ nên mới nói lại bởi vì đã thực hiện duyên cho không có duyên, khỏi sự dính líu, khỏi bụi rậm.

  1. Idāni tesaṃ tesaṃ paccayānaṃ tathaṃ avitathaṃ anaññathaṃ paccayabhāvaṃ dassetuṃ jātipaccayā jarāmaraṇanti iti kho panetaṃ vuttantiādimāha. Tattha pariyāyenāti kāraṇena. Sabbenasabbaṃ sabbathāsabbanti nipātadvayametaṃ. Tassattho — “Sabbākārena sabbā sabbena sabhāvena sabbā jāti nāma yadi na bhaveyyā”ti. Bhavādīsupi imināva nayena attho veditabbo. Kassacīti aniyamavacanametaṃ, devādīsu yassa kassaci. Kimhicīti idampi aniyamavacanameva, kāmabhavādīsu navasu bhavesu yattha katthaci. Seyyathidanti aniyamitanikkhitta- atthavibhajanatthe nipāto, tassattho — “Yaṃ vuttaṃ ‘kassaci kimhicī’ti, tassa te atthaṃ vibhajissāmī”ti. Atha naṃ vibhajanto — “devānaṃ vā devattāyā”tiādimāha. Tattha devānaṃ vā devattāyāti yā ayaṃ devānaṃ devabhāvāya khandhajāti, yāya khandhajātiyā devā “devā”ti vuccanti. Sace hi jāti[21] sabbena sabbaṃ nābhavissāti iminā nayena sabbapadesu attho veditabbo. Ettha ca devāti upapattidevā. Gandhabbāti mūlakhandhādīsu adhivatthadevatāva. Yakkhāti amanussā. Bhūtāti ye keci nibbattasattā. Pakkhinoti ye keci aṭṭhipakkhā vā cammapakkhā vā lomapakkhā vā. Sarīsapāti[22] ye keci bhūmiyaṃ sarantā gacchanti. Tesaṃ tesanti tesaṃ tesaṃ devagandhabbādīnaṃ. Tadatthāyāti devagandhabbādibhāvāya. Jātinirodhāti jātivigamā, jātiabhāvāti attho.
  2. Bây giờ, khi thuyết giảng tính chất các duyên làm duyên thật sự, không sai khác nên mới nói lời bắt đầu như sau: “Già và chết (sanh khởi) có sanh là duyên, điều ấy đã được nói như thế’. Trong câu đó, pariyāyena: với lý do. Tất cả trong mọi trường hợp: cả hai câu này là phân từ, giải thích câu này như sau: Giả sử gọi là tất cả sanh không hiện hữu, toàn bộ theo tổng thể, tất cả trong mọi trường hợp. Luôn cả trong các cõi v.v, nên biết theo cách thức này. Đối với bất cứ ai: đây là lời nói không chắc chắn, bất cứ ai ở thế giới chư Thiên v.v. Ở bất cứ nơi đâu: đây cũng là lời không chắc chắn tương tự, ở bất cứ chỗ nào trong cả chín cõi có Dục giới v.v. Như là: là phân từ, trong ý nghĩa rằng: xác định trong ý nghĩa chắc chắn và giải thích ý nghĩa vắn tắt ra, câu đó có ý nghĩa rằng: “Ta sẽ giải thích ý nghĩa của câu mà ta đã nói đối với bất cứ ai, ở bất cứ nơi đâu. Khi đức Thế Tôn giải thích ý nghĩa đó nên mới nói lời bắt đầu như sau: “Đối với chư Thiên ở bản thể Thiên nhân.” Các Thiên nhân nói rằng “Chư Thiên” theo sự sanh của uẩn ở bản thể Thiên nhân đối với chư Thiên, nên biết ý nghĩa ở các câu theo cách này rằng: Thật vậy ‘giả sử sanh sẽ không hiện hữu, toàn bộ theo tổng thể…’ Và ở đây, cũng trong câu này “Chư Thiên” là chư Thiên do tái sanh. Càn-thát-bà: là chư Thiên cư ngụ theo gốc cây và các cây cối v.v. Da-xoa: chứng Phi nhân. Bhūta: bất kỳ một loại chúng sanh nào được sanh ra. Loài có cánh: bất kỳ loài chim nào có xương là cánh, hay có da là cánh, hoặc có lông là cánh. Loài bó sát: bất cứ loài vật nào bò trên mặt đất. Từng loại chúng sanh ấy: Trong số chư Thiên và Càn-thát-bà v.v, của từng loại chúng sanh ấy. Do bản thể ấy: Do bản thể chư Thiên và Càn-thát-bà v.v. Do sự diệt tận của sanh: Do thoát khỏi sanh, có nghĩa là do không có sanh.

Hetūtiādīni sabbānipi kāraṇavevacanāni eva. Kāraṇañhi yasmā attano phalatthāya hinoti pavattati, tasmā “hetū”ti vuccati. Yasmā taṃ phalaṃ nideti — “Handa, naṃ gaṇhathā”ti[23] appeti viya tasmā nidānaṃ. Yasmā phalaṃ tato samudeti uppajjati, tañca paṭicca eti pavattati, tasmā samudayoti ca paccayoti ca vuccati. Esa nayo sabbattha. Api ca yadidaṃ jātīti ettha yadidanti nipāto. tassa sabbapadesu liṅgānurūpato attho veditabbo. idha pana — “Yā esā jātī”ti ayamassa attho. Jarāmaraṇassa hi jāti upanissayakoṭiyā paccayo hoti.

Toàn bộ câu đó bắt đầu rằng: nhân v.v, như vầy là đồng nghĩa của nhân ấy. Thật vậy, do nhân được mong muốn, được vận hành vì muốn đạt được kết quả của chính nó, vì thế được gọi là “nhân”. Do trao kết quả đó tựa như trao bằng lời nói rằng: “Được rồi, hãy nhận lấy kết quả này đây” do đó ngài mới nói đến căn nguyên. Do kết quả được thiết lập là được sanh khởi từ nhân đó và y cứ vào nhân đó, đạt đến là được vận hành, vì thế ngài nói rằng: ‘nhân sanh khởiduyên’. Cách thức này áp dụng cho các đoạn kế. Và thêm nữa, yadidaṃ trong câu yadidaṃ jāti này là một phân từ. Nên biết ý nghĩa của phân từ đó thích hợp-anurūpa đối với tánh-liṅga trong toàn bộ câu. Hơn nữa, ở đây có giải thích câu này như vầy “yā esā jāti”. Thật vậy, sự sanh của duyên của Già và Chết là duyên cuối cùng của cận y duyên.

  1. Bhavapade — “kimhicī”ti iminā okāsapariggaho kato. Tattha heṭṭhā avīcipariyantaṃ katvā upari paranimmitavasavattideve antokaritvā Kāmabhavo veditabbo. Ayaṃ nayo upapattibhave. Idha pana kammabhave yujjati. So hi jātiyā upanissayakoṭiyāva paccayo hoti. Upādānapadādīsupi — “kimhicī”ti iminā okāsapariggahova katoti veditabbo.
  2. Ngài đã thực hiện xác định hư không của Hữu với câu này “ở bất cứ đâu” trong câu đó nên biết rằng: Dục giới ở bên trong đã được thực hiện tính từ tận cùng địa ngục Vô Gián phía dưới cho đến cõi trời Tha Hóa Tự Tại ở phía trên. Ở trong Sanh-hữu cũng có cách thức này. Nhưng trong câu này cần phải là Nghiệp-hữu bởi vì Nghiệp-hữu ấy là duyên cuối cùng của cận y duyên của sanh, luôn cả trong câu của thủ v.v, nên biết rằng: Ngài thực hiện việc xác định hư không với câu này rằng: “Ở bất cứ nơi đâu.”
  3. Upādānapaccayā bhavoti ettha kāmupādānaṃ tiṇṇampi kammabhavānaṃ tiṇṇañca upapattibhavānaṃ paccayo, tathā sesānipīti upādānapaccayā catuvīsatibhavā veditabbā. Nippariyāyenettha dvādasa kammabhavā labbhanti. tesaṃ upādānāni sahajātakoṭiyāpi upanissayakoṭiyāpi paccayo.
  4. Do thủ là duyên, hữu (sanh khởi): ở đây Dục thủ là duyên của 3 Nghiệp-hữu và 3 Sanh-hữu, luôn cả những câu còn lại cũng như thế. Nên biết 24 hữu có thủ là duyên. 12 Nghiệp-hữu có được ở đây một cách trực tiếp. Thủ của Nghiệp-hữu đó là duyên cuối cùng của đồng sanh duyên, hoặc cuối cùng của cận y duyên.
  5. Rūpataṇhāti rūpārammaṇe taṇhā. Esa nayo saddataṇhādīsu. Sā panesā taṇhā upādānassa sahajātakoṭiyāpi upanissayakoṭiyāpi paccayo hoti.
  6. Sắc ái: tham ái trong cảnh sắc. Trong thanh ái v.v, cũng có cách thức này, tham ái này đây là duyên cuối cùng của đồng sanh duyên, hoặc cuối cùng của cận y duyên của thủ.
  7. Esa paccayo taṇhāya, yadidaṃ vedanāti ettha vipākavedanā taṇhāya upanissayakoṭiyā paccayo hoti, aññā aññathāpīti.
  8. Cái ấy là duyên đưa đến ái, tức là thọ: quả-thọ là duyên cuối cùng của cận y duyên của tham ái, thọ khác cũng là duyên luôn cả theo cách khác.
  9. Ettāvatā pana bhagavā vaṭṭamūlabhūtaṃ purimataṇhaṃ dassetvā idāni desanaṃ, piṭṭhiyaṃ paharitvā kesesu vā gahetvā viravantaṃ viravantaṃ maggato okkamento viya navahi padehi samudācārataṇhaṃ dassento — “Iti kho panetaṃ, ānanda, vedanaṃ paṭicca taṇhā”tiādimāha. Tattha taṇhāti dve taṇhā esanataṇhā ca, esitataṇhā ca. Yāya taṇhāya ajapathasaṅkupathādīni paṭipajjitvā bhoge esati gavesati, ayaṃ esanataṇhā nāma. Yā tesu esitesu gavesitesu paṭiladdhesu taṇhā, ayaṃ esitataṇhā nāma. Tadubhayampi samudācārataṇhāya eva adhivacanaṃ. Tasmā duvidhāpesā vedanaṃ paṭicca taṇhā nāma. Pariyesanā nāma rūpādiārammaṇapariyesanā, sā hi taṇhāya sati hoti. Lābhoti rūpādiārammaṇapaṭilābho, so hi pariyesanāya sati hoti. Vinicchayo pana ñāṇataṇhādiṭṭhivitakkavasena catubbidho. Tattha — “sukhavinicchayaṃ jaññā, sukhavinicchayaṃ ñatvā ajjhattaṃ sukhamanuyuñjeyyā”ti[24] ayaṃ ñāṇavinicchayo. “Vinicchayoti dve vinicchayā — taṇhāvinicchayo ca diṭṭhivinicchayo cā”ti[25], evaṃ āgatāni aṭṭhasatataṇhāvicaritāni taṇhāvinicchayo. Dvāsaṭṭhi diṭṭhiyo diṭṭhivinicchayo. “Chando kho, devānaminda, vitakkanidāno”ti[26] imasmiṃ pana sutte idha vinicchayoti vutto vitakkoyeva āgato. Lābhaṃ labhitvā hi iṭṭhāniṭṭhaṃ sundarāsundarañca vitakkeneva vinicchināti[27] — “ettakaṃ me rūpārammaṇatthāya bhavissati, ettakaṃ saddādiār​​ammaṇatthāya, ettakaṃ mayhaṃ bhavissati, ettakaṃ parassa, ettakaṃ paribhuñjissāmi, ettakaṃ nidahissāmī”ti. tena vuttaṃ — “lābhaṃ paṭicca vinicchayo”ti.
  10. Chỉ chừng ấy đức Thế Tôn đã thuyết giảng đến tham ái trước có luân hồi là gốc, bây giờ khi thuyết đến tham ái là sự xao lãng với cả chín câu giống như đã đánh vào lưng hoặc nắm lấy tóc một người lôi đi trong khi người đó đang khóc lóc xin tha mạng rời khỏi con đường nên đã nói rằng: “Điều ấy là như thế, này Ānanda, tùy thuộc vào thọ, ái (sanh khởi)”. Ở đây, tham ái: có hai loại tham ái là ái tầm cầu (esanataṅhā) và ái sở hữu (esitataṅhā). Người bước đi trên con đường của dê và con đường của ngựa v.v, tầm cầu tất cả tài sản với tham ái nào, tham ái này gọi là ái tầm cầu. Còn tham ái nào ngay cả khi người đã đạt được do tầm cầu, tham ái này gọi là ái sở hữu. Luôn cả hai lời ấy cũng là tên gọi của tham ái, chính là sự xao lãng. Vì thế, cả hai loại tham ái này gọi là tùy thuộc vào thọ, ái sanh khởi. Sự tầm cầu: Sự tìm kiếm đối tượng có sắc v.v, bởi vì sự tìm kiếm đó là việc nhớ đến tham ái. Lợi đắc: việc đạt được đối có sắc v.v, bởi việc đạt được đó là việc ghi nhớ do việc tìm kiếm. Còn sự phán quyết: có bốn loại là trí, tham ái, tà kiến và suy tầm. Trong bốn sự phán xét ấy – “Nên biết phán quyết về lạc. Sau khi biết phán quyết về lạc, nên nỗ lực tầm cầu sự an lạc bên trong,” đây là sự phán quyết do trí. Một trăm lẻ tám ái du (taṇhāvicarita) đã đến như vậy – “Sự phán quyết: có hai sự phán quyết – sự phán quyết do tham ái và sự phán quyết do tà kiến,” đây gọi là sự phán quyết do tham ái. Sáu mươi hai loại tà kiến gòi là sự phán quyết do tà kiến. Suy tầm được ngài gọi là sự phán quyết ở đây đã đến trong bài Kinh Sakkapañhā này rằng: “Này Thiên chủ, mong muốn có suy tầm là căn nguyên…” Thật vậy, mọi người đã được lợi đắc rồi quyết định rằng: hài lòng và không hài lòng, tốt đẹp và không tốt đẹp bởi suy tầm duy nhất, người suy tư rằng: “Ta sẽ có lợi đắc chừng này nhằm mục đích (cần) đối tượng sắc, ta sẽ có lợi đắc chừng này vì đối tượng có đối tượng âm thanh v.v, sẽ có nơi tôi chừng này, sẽ có cùng người khác chừng này, tôi sẽ sử dụng chừng này, tôi sẽ cất giữ chừng này.” Vì thế, đức Thế Tôn mới nói rằng: “tùy thuộc vào việc đạt được, sự phán quyết (sanh khởi).”

Chandarāgoti evaṃ akusalavitakkena vitakkitavatthusmiṃ dubbalarāgo ca balavarāgo ca uppajjati, idañhi idha taṇhā. Chandoti dubbalarāgassādhivacanaṃ. Ajjhosānanti ahaṃ mamanti balavasanniṭṭhānaṃ. Pariggahoti taṇhādiṭṭhavasena pariggahaṇakaraṇaṃ. Macchariyanti parehi sādhāraṇabhāvassa asahanatā. Tenevassa porāṇā evaṃ vacanatthaṃ vadanti — “idaṃ acchariyaṃ mayhameva hotu, mā aññesaṃ acchariyaṃ hotūti pavattattā macchariyanti vuccatī”ti. Ārakkhoti dvārapidahanamañjūsagopanādivasena suṭṭhu rakkhaṇaṃ. Adhikarotīti adhikaraṇaṃ, kāraṇassetaṃ nāmaṃ. Ārakkhādhikaraṇanti bhāvanapuṃsakaṃ, ārakkhahetūti attho. Daṇḍādānādīsu paranisedhanatthaṃ daṇḍassa ādānaṃ daṇḍādānaṃ. Ekato dhārādino satthassa ādānaṃ satthādānaṃ. Kalahoti kāyakalahopi vācākalahopi. Purimo purimo virodho viggaho. Pacchimo pacchimo vivādo. Tuvaṃtuvanti agāravavacanaṃ tuvaṃtuvaṃ.

Mong muốn và luyến ái: luyến ái yếu ớt và luyến ái mãnh liệt sanh khởi nơi vật-vatthu được suy tầm bằng suy tầm bất thiện, bởi vì đây là tham ái trong trường hợp này. Mong muốn: là tên gọi của ái luyến yếu ớt. Việc bám chặt: đưa ra quan điểm mạnh mẽ rằng: tôi của tôi như như vậy. Sự chiếm hữu: thực hiện việc bám chấp do tác động tham ái và tà kiến. Bỏn xẻn: do không thể chịu đựng được tính chất chung với người khác, bởi chính nguyên nhân đó, các vị trưởng thượng Porāṇa đã nói ý nghĩa lời nói như vậy rằng: “Ngài gọi là bỏn xẻn với sự chú tâm kỳ diệu này hãy chỉ của riêng ta, hãy chớ thuộc về người khác.” Sự bảo vệ: Bảo vệ một cách tốt đẹp do tác động của việc đóng lại các cửa và đặt vào trong họp v.v. Lý do: bởi ý nghĩa là làm cho vượt trội, câu này là tên gọi của nguyên nhân. Tùy thuộc vào lý do bảo vệ: danh từ trừu tượng mong ước trung tính, giải thích rằng nguyên nhân của việc bảo vệ. Nắm lấy gậy gộc v.v, việc nắm lấy gậy gộc để ngăn chặn người khác gọi là nắm lấy gậy gộc, việc nắm lấy con dao sắc bén ở một bên v.v, gọi là nắm lấy vũ khí. Cãi cọ: tranh luận bằng thân, hay tranh luận bằng lời nói. Sự giận dữ có trước đó gọi là sự cãi vã, đến sau đó gọi là tranh cãi. Tuvaṃ tuvaṃ: là lời nói không tôn trọng, là ‘mày, mày’.

  1. Idāni paṭilomanayenāpi taṃsamudācārataṇhaṃ dassetuṃ puna — “ārakkhādhikaraṇan”ti ārabhanto desanaṃ nivattesi. Tattha kāmataṇhāti pañcakāmaguṇikarāgavasena uppannā rūpāditaṇhā. Bhavataṇhāti sassatadiṭṭhisahagato rāgo. Vibhavataṇhāti ucchedadiṭṭhisahagato rāgo. Ime dve dhammāti vaṭṭamūlataṇhā ca samudācārataṇhā cāti ime dve dhammā. Dvayenāti taṇhālakkhaṇavasena ekabhāvaṃ gatāpi vaṭṭamūlasamudācāravasena dvīhi koṭṭhāsehi vedanāya ekasamosaraṇā bhavanti, vedanāpaccayena ekapaccayāti attho. Tividhañhi samosaraṇaṃ osaraṇasamosaraṇaṃ, sahajātasamosaraṇaṃ, paccayasamosaraṇañca. Tattha — “atha kho sabbāni tāni kāmasamosaraṇāni bhavantī”ti idaṃ osaraṇasamosaraṇaṃ nāma. “Chandamūlakā, āvuso, ete dhammā phassasamudayā vedanāsamosaraṇā”ti[28] idaṃ sahajātasamosaraṇaṃ nāma. “Dvayena vedanāya ekasamosaraṇā”ti[29] idaṃ pana paccayasamosaraṇanti veditabbaṃ.
  2. Bây giờ, đức Thế Tôn khi thuyết giảng đến tham ái trong hành vi đó, luôn cả cách thức theo chiều nghịch mới bắt đầu “tùy thuộc vào lý do bảo vệ” trở lại thuyết giảng. Trong những câu đó, Dục-ái: tham ái trong sắc v.v, sanh khởi do tác động của ái luyến với năm loại dục. Hữu-ái: ái luyến câu hữu với thường kiến. Vô hữu ái: ái luyến câu hữu với đoạn kiến. Cả hai Pháp: hai Pháp này là tham ái có luân hồi là gốc và tham ái trong hành vi. Theo hai cách: cả hai Pháp này dầu đạt đến cùng một bản thể do tác động trạng thái của tham ái, cũng trở thành sự hội tự thành một ở thọ, ở phần thứ 2 do tác động tham ái có luần hồi là gốc và tham ái trong hành vi, giải thích rằng những Pháp này có duyên hội tụ lại bởi có thọ là duyên. Thật vậy, sự hội tụ có ba loại là sự hội tụ do hội họp, sự hội tụ do câu sanh, và sự hội tụ do duyên. Ở đó – “Khi ấy, sự tập hợp tất cả dân làng dĩ nhiên có” đây gọi là sự hội tụ do hội họp. Lời nói này “Này hiền giả, tất cả Pháp này lấy mong muốn làm căn bản, có xúc làm tập khởi, có thọ làm chỗ hội tụ” gọi là sự hội tự do câu sanh. Cũng nên biết câu này rằng: Sự tụ hội thành một ở thọ theo hai cách” gọi là sự hội tụ do duyên.
  3. Cakkhusamphassoti ādayo sabbe vipākaphassāyeva. tesu ṭhapetvā cattāro lokuttaravipākaphasse avasesā dvattiṃsa phassā honti. Yadidaṃ phassoti ettha pana phasso bahudhā vedanāya paccayo hoti.
  4. Tất cả các xúc có nhãn xúc v.v, là xúc chỉ thuộc về kết quả trong các xúc đó, ngoài trừ xúc thuộc về quả của bốn Pháp Siêu Thế, còn lại là 32 xúc. Hơn nữa, ở đây ‘xúc này đây’ phần lớn xúc là duyên của thọ.
  5. Yehi, ānanda, ākārehītiādīsu ākārā vuccanti vedanādīnaṃ aññamaññaṃ asadisasabhāvā. Teyeva sādhukaṃ dassiyamānā taṃ taṃ līnamatthaṃ gamentīti liṅgāni. Tassa tassa sañjānanahetuto nimittāni. Tathā tathā uddisitabbato uddesā. Tasmā ayamettha attho — “ānanda, yehi ākārehi … pe … yehi uddesehi nāmakāyassa nāmasamūhassa paññatti hoti, yā esā ca vedanāya vedayitākāre vedayitaliṅge vedayitanimitte vedanāti uddese sati, saññāya sañjānanākāre sañjānanaliṅge sañjānananimitte saññāti uddese sati, saṅkhārānaṃ cetanākāre cetanāliṅge cetanānimitte cetanāti uddese sati, viññāṇassa vijānanākāre vijānanaliṅge vijānananimitte viññāṇanti uddese sati — ‘ayaṃ nāmakāyo’ti nāmakāyassa paññatti hoti. tesu nāmakāyappaññattihetūsu vedanādīsu ākārādīsu asati api nu kho rūpakāye adhivacanasamphasso paññāyetha? Yvāyaṃ cattāro khandhe vatthuṃ katvā manodvāre adhivacanasamphassavevacano manosamphasso uppajjati, api nu kho so rūpakāye paññāyetha, pañca pasāde vatthuṃ katvā katvā uppajjeyyā”ti. Atha āyasmā ānando ambarukkhe asati jamburukkhato ambapakkassa uppattiṃ viya rūpakāyato tassa uppattiṃ asampaṭicchanto no hetaṃ bhanteti āha.
  6. Ngài nói tất cả các biểu hiện trong câu sau “này Ānanda, với những biểu hiện nào?” là thực tính không đồng đẳng tương đồng của thọ v.v, ngài thuyết đến nhưng biểu hiện ấy khéo léo gọi là dấu hiệu, do đạt đến sự suy hoại gọi là hiện tướng, nguyên nhân là biết những vấn đề đó gọi là biểu thị. Do đó, ở đây điều này có ý nghĩa – “Này Ānanda, sự định đặt thuộc danh thân về sự tập họp của danh có được với những biểu hiện nào, với những dấu hiệu nào, với những hiện tướng nào, với những biểu thị nào, khi có biểu thị của thọ rằng: thọ trong biểu hiện đã được cảm nhận, trong dấu hiệu đã được cảm nhận, trong hiện tướng đã được cảm nhận; Khi có biểu thị của tưởng rằng: tưởng trong biểu hiện bằng tưởng tri, trong biểu thị bằng tưởng tri, trong hiện tướng bằng tưởng tri; Khi có biểu thị của các hành rằng tư-cetanā của các hành trong biểu hiệu của tư-cetanā, trong biểu thị của tư-cetanā, trong hiện tướng của tư-cetanā; Khi có biểu thị của thức rằng: thức trong biểu hiện bằng thức tri, trong biểu thị bằng thức tri, trong hiện tướng bằng thức tri – “Có sự định đặt thuộc danh thân: ‘đây là danh thân’ khi những biểu hiện v.v, không hiện hữu, trong thọ v.v, là nguyên nhân để định đặt danh thân, phải chăng xúc theo sự định danh có thể được nhận biết trong sắc thân? Ý xúc nào là đồng nghĩa của xúc theo sự định danh trong ý môn, đã làm năm uẩn trở thành đối tượng-vatthu rồi mới sanh khởi, phải chăng ý xúc ấy có thể được nhận biết trong sắc thân, đã thực hiện cả năm thần kinh trở thành đối tượng-vatthu rồi có thể sanh khởi? Khi ấy, đại đức Ānanda khi không chấp nhận việc sanh khởi của xúc ấy từ sắc thân, giống như khi không có cây xoài cũng không thể chấp nhận sự sanh ra của quả xoài chín từ cây hồng táo. Do đó, nên mới nói rằng: ‘Thưa ngài, chắc chắn không thể có việc đó’.

Dutiyapañhe ruppanākāraruppanaliṅgaruppananimittavasena rūpanti uddesavasena ca ākārādīnaṃ attho veditabbo. Paṭighasamphassoti[30] sappaṭighaṃ rūpakkhandhaṃ vatthuṃ katvā uppajjanakasamphasso. Idhāpi thero jamburukkhe asati ambarukkhato jambupakkassa uppattiṃ viya nāmakāyato tassa uppattiṃ asampaṭicchanto “no hetaṃ bhante”ti āha.

Trong vấn đề thứ 2 nên biết ý nghĩa của biểu hiện v.v, do tác động biểu hiện của sự tan rã, biểu thị của sự tan rã, hiện tướng của sự tan rã và do tác động của biểu thị là ‘sắc’. Xúc theo sự xúc chạm: xúc đang sanh lên bởi đã làm cho sắc uẩn diễn tiến với sự xúc chạm trở thành đối tượng-vatthu rồi sanh lên. Luôn cả trong câu này trưởng lão khi không tiếp nhận sự sanh khởi của xúc đó từ danh thân, giống như khi không có cây hồng táo cũng không chấp nhận sự sanh lên của quả hồng táo chín từ cây xoài, nên mới nói rằng: ‘Thưa ngài, chắc chắn không thể có việc đó’.

Tatiyapañho ubhayavaseneva vutto. Tatra thero ākāse ambajambupakkānaṃ uppattiṃ viya nāmarūpābhāve dvinnampi phassānaṃ uppattiṃ asampaṭicchanto “no hetaṃ bhante”ti āha.

Trong vấn đề thứ 3 ngài nói giống như cả 2 vấn đề trước. Trong vấn đề thứ 3 ấy, trưởng lão khi không chấp nhận sự sanh khởi của xúc thậm chí cả hai trong bản thể không có của danh sắc, giống như không chấp nhận việc sanh lên của quả xoài chín và quả hồng táo chín trong hư không, nên mới nói rằng: ‘Thưa ngài, chắc chắn không thể có việc đó’.

Evaṃ dvinnaṃ phassānaṃ visuṃ visuṃ paccayaṃ dassetvā idāni dvinnampi tesaṃ avisesato nāmarūpapaccayataṃ dassetuṃ — “Yehi ānanda ākārehī”ti catutthaṃ pañhaṃ ārabhi. Yadidaṃ nāmarūpanti yaṃ idaṃ nāmarūpaṃ, yaṃ idaṃ chasupi dvāresu nāmarūpaṃ, eseva hetu eseva paccayoti attho. cakkhudvārādīsu hi cakkhādīni ceva rūpārammaṇādīni ca rūpaṃ, sampayuttakā khandhā nāmanti evaṃ pañcavidhopi so phasso nāmarūpapaccayāva phasso. Manodvārepi hadayavatthuñceva yañca rūpaṃ ārammaṇaṃ hoti, idaṃ rūpaṃ. Sampayuttadhammā ceva yañca arūpaṃ ārammaṇaṃ hoti, idaṃ arūpaṃ nāma. Evaṃ manosamphassopi nāmarūpapaccayā phassoti veditabbo. Nāmarūpaṃ panassa bahudhā paccayo hoti.

Sau khi đức Thế Tôn thuyết giảng mỗi loại duyên đối với hai xúc như vậy, bây giờ khi thuyết giảng tính chất này là duyên của danh sắc một cách không khác biệt mới bắt đầu vấn đề thứ 4 rằng: “Này Ānanda, với những biểu hiện nào?Đây là danh sắc: danh sắc này đây, giải thích rằng: danh sắc trong cả sáu môn này đây, đây chính là duyên. Thật vậy, nhãn v.v, và đối tượng sắc v.v,  trong nhãn môn v.v, là sắc, Pháp tương ưng là danh. Luôn cả năm loại xúc như vậy do danh sắc là duyên, mới có xúc (xúc sanh khởi). Ngay cả trong ý môn, ý vật và sắc làm đối tượng, đây là sắc. Pháp tương ưng và những thứ vô sắc làm đối tượng, đây là danh. Như vậy, ý xúc cũng nên biết rằng: do có danh sắc là duyên, xúc sanh khởi. Hơn nữa, danh sắc phần lớn là duyên của xúc đó.

  1. Na okkamissathāti pavisitvā pavattamānaṃ viya paṭisandhivasena na vattissatha. Samuccissathāti paṭisandhiviññāṇe asati api nu kho suddhaṃ avasesaṃ nāmarūpaṃ antomātukucchismiṃ kalalādibhāvena samuccitaṃ missakabhūtaṃ hutvā vattissatha. Okkamitvā vokkamissathāti paṭisandhivasena okkamitvā cutivasena vokkamissatha, nirujjhissathāti attho. So panassa nirodho na tasseva cittassa nirodhena, na tato dutiyatatiyānaṃ nirodhena hoti. Paṭisandhicittena hi saddhiṃ samuṭṭhitāni samatiṃsa kammajarūpāni nibbattanti. Tesu pana ṭhitesuyeva soḷasa bhavaṅgacittāni uppajjitvā nirujjhanti. etasmiṃ antare gahitapaṭisandhikassa dārakassa vā mātuyā vā panassa antarāyo natthi. Ayañhi anokāso nāma. Sace pana paṭisandhicittena saddhiṃ samuṭṭhitarūpāni sattarasamassa bhavaṅgassa paccayaṃ dātuṃ sakkonti, pavatti pavattati, paveṇī ghaṭiyati. Sace pana na sakkonti, pavatti nappavattati, paveṇī na ghaṭiyati, vokkamati[31] nāma hoti. Taṃ sandhāya “okkamitvā vokkamissathā”ti vuttaṃ.
  2. Sẽ không nhập vào (ở bụng mẹ): thức sẽ không vận hành do mãnh lực của sự tục sanh, như đã nhập vào, đang vận hành. Sẽ hình thành: Khi thức tục sanh không hiện hữu, phải chăng phần còn lại của danh sắc trong sạch là danh sắc đã tạo ra, đã hòa trộn sẽ vận hành theo tính chất kalala (chất thụ thai đầu tiên) ở trong bụng của người mẹ? (Thức) nhập thai (ở bụng của người mẹ) rồi thoát ra: Thức sẽ nhập thai do mãnh lực tục sanh rồi thoát ra, tức là sự diệt tận do mãnh lực tử. Sự diệt tận của thức đó không hiện hữu do sự diệt tận của chính tâm ấy, từ đó thức không hiện hữu do sự diệt tận của tâm thứ 2 và thứ 3. Thật vậy, sắc sanh lên từ nghiệp đây đủ 30 sắc được hình thành cùng với tâm tục sanh sẽ sanh khởi, khi các sắc sanh lên từ nghiệp ấy được hình thành, 16 tâm hộ kiếp sanh rồi diệt. Không có nguy hiểm đối với đứa bé tục sanh trong giai đoạn ấy hoặc đối với mẹ của đứa bé ấy. Bởi do sự nguy hiểm này gọi là không có cơ hội. Còn giả sử sắc xuất hiện cùng với tâm tục sanh có khả năng để làm duyên đối với tâm hộ kiếp thứ 17, sự vận hành tiếp tục được vận hành, truyền thống được tiếp diễn. Còn giả sử không thể sự vận hành không được vận hành, truyền thống không được tiếp diễn, gọi là thoát ra. Ngài đề cập đến việc thoát ra ấy mới nói rằng: “(Thức) nhập thai (ở bụng của người mẹ) rồi thoát ra”.

Itthattāyāti itthabhāvāya, evaṃ paripuṇṇapañcakkhandhabhāvāyāti attho. Daharasseva satoti mandassa bālasseva santassa. Vocchijjissathāti upacchijjissatha. Vuḍḍhiṃ virūḷhiṃ vepullanti viññāṇe upacchinne suddhaṃ nāmarūpameva uṭṭhahitvā paṭhamavayavasena vuḍḍhiṃ, majjhimavayavasena virūḷhiṃ, pacchimavayavasena vepullaṃ api nu kho āpajjissathāti. dasavassavīsativassavassasatavassasahassasampāpanena vā api nu kho vuḍḍhiṃ virūḷhiṃ vepullaṃ āpajjissathāti attho.

Đưa đến mạng sống này: đưa đến bản thể này, giải thích rằng khi bản thể năm uẩn đã tròn đủ như vậy. Của một thiếu nam hay thiếu nữ: vẫn còn rất trẻ. Bị cắt đứt: cắt đứt sự liên tiếp. Sẽ đạt đến sự tăng trưởng, sự phát triển, sự lớn mạnh: Phải chăng khi thức bị cắt đứt sự tiếp nối từ danh sắc thanh tịnh sẽ vững trú đạt đến sự tăng trưởng vào gian đoạn đầu của tuổi thọ, sự phát triển vào gian đoạn giữa của tuổi thọ, sự lớn mạnh vào giai đoạn cuối của tuổi thọ . Giải thích rằng: phải chăng danh sắc sẽ đạt đến sự tăng trưởng, sự phát triển, sự lớn mạnh có tuổi thọ đến mười năm, hai mươi năm, …nt… một ngàn năm?

Tasmātihānandāti yasmā mātukucchiyaṃ paṭisandhiggahaṇepi kucchivāsepi kucchito nikkhamanepi, pavattiyaṃ dasavassādikālepi viññāṇamevassa paccayo, tasmā eseva hetu esa paccayo nāmarūpassa, yadidaṃ viññāṇaṃ. Yathā hi rājā attano parisaṃ niggaṇhanto evaṃ vadeyya — “Tvaṃ uparājā, tvaṃ senāpatīti kena kato nanu mayā kato, sace hi mayi akaronte tvaṃ attano dhammatāya uparājā vā senāpati vā bhaveyyāsi, jāneyyāma vo balan”ti; Evameva viññāṇaṃ nāmarūpassa paccayo hoti[32]. Atthato evaṃ nāmarūpaṃ vadati viya “tvaṃ nāmaṃ, tvaṃ rūpaṃ, tvaṃ nāmarūpaṃ nāmāti kena kataṃ, nanu mayā kataṃ, sace hi mayi purecārike hutvā mātukucchismiṃ paṭisandhiṃ agaṇhante tvaṃ nāmaṃ vā rūpaṃ vā nāmarūpaṃ vā bhaveyyāsi, jāneyyāma vo balan”ti. Taṃ panetaṃ viññāṇaṃ nāmarūpassa bahudhā paccayo hoti.

Vì thế, ở đây, này Ānanda, chính cái ấy là nhân: Do chính thức ấy là nhân của danh sắc ấy, khi tục sanh ở trong bụng mẹ, hay vào lúc ở trong bụng, hay vào lúc lọt lòng, vào thời gian được mười tuổi trong sự diễn tiến, vì thế, đây chính là nhân, là duyên của danh sắc, tức là thức. Giống như đức vua khi hăm dọa những tùy tùng của ngài có thể nói rằng: “Khanh là phó vương, khanh là tướng quân, ai phong tước cho khanh, trẫm phong tước cho khanh không phải sao? Nếu như khi trẫm không phong tước cho khanh, theo bản thể tự nhiên tự khanh có thể trở thành phó vương hoặc có thể trở thành tướng quân được hay sao? Trẫm có thể biết năng lực của khanh.” Tương tự y như thế, thức là duyên của danh sắc, như người nói đến danh sắc như vầy theo ý nghĩa rằng: “ngươi là danh, ngươi là sắc, ngươi là danh sắc, ai đã tạo ra danh sắc ấy, ta đã tạo ra không phải sao? Giả sử khi ta đi trước không nắm lấy sự tái tục ở bụng của người mẹ, ngươi có thể là danh, có thể là sắc hoặc có thể là danh sắc, chúng tôi có thể biết sức mạnh của ngươi.” Do đó, thức này đây phần lớn là duyên của danh sắc.

  1. Dukkhasamudayasambhavoti dukkharāsisambhavo. Yadidaṃ nāmarūpanti yaṃ idaṃ nāmarūpaṃ, eseva hetu esa paccayo. Yathā hi rājapurisā rājānaṃ niggaṇhanto evaṃ vadeyyuṃ — “tvaṃ rājāti kena kato, nanu mayā kato, sace hi mayi uparājaṭṭhāne, mayi senāpatiṭṭhāne atiṭṭhante tvaṃ ekakova rājā bhaveyyāsi, passeyyāma te rājabhāvan”ti; Evameva nāmarūpampi atthato evaṃ viññāṇaṃ vadati viya “tvaṃ paṭisandhiviññāṇanti kena kataṃ, nanu amhehi kataṃ, sace hi tvaṃ tayo khandhe hadayavatthuñca anissāya paṭisandhiviññāṇaṃ nāma bhaveyyāsi, passeyyāma te paṭisandhiviññāṇabhāvan”ti. Tañca panetaṃ nāmarūpaṃ viññāṇassa bahudhā paccayo hoti.
  2. Nguồn sanh khởi của nhân sanh Khổ: sự sanh khởi của khối khổ. Chính là danh sắc: danh sắc này đây, chính là nhân, là duyên. Thật vậy, giống như những người của đức vua có thể tâu đức vua như vậy trong khi bị hăm dọa – “Ngài là đức vua, ai đã thực hiện (phong vương) cho ngài, đã được thực hiện bởi chúng thần không phải sao? Giả sử chúng thần không giữ vị trí phó vương, vị trí tướng quân, ngài có thể trở thành một vị vua đơn độc, chúng thần có thể nhìn thấy bản thể đức vua của ngài;” Tương tự như thế luôn cả trong danh sắc cũng như nói đến thức như vậy theo ý nghĩa rằng “ngươi là thức tục sanh, ai đã tạo ra thức tục sanh, ta đã tạo ra không phải sao? Thật vậy, giả sử ngươi không y cứ vào ba uẩn và ý vật thì có thể gọi là thức tục sanh, ta có thể nhìn thấy bản thể thức tục sanh.” Và điều này, chính danh sắc này đây phần lớn là duyên của thức.

Ettāvatā khoti viññāṇe nāmarūpassa paccaye honte, nāmarūpe viññāṇassa paccaye honte, dvīsu aññamaññapaccayavasena pavattesu ettakena jāyetha vā … pe … upapajjetha vā, jātiādayo paññāyeyyuṃ aparāparaṃ vā cutipaṭisandhiyoti.

Cho đến chừng ấy: Khi thức là duyên của danh sắc, khi danh sắc là duyên của thức, khi cả hai vận hành do mãnh lực hỗ tương duyên, chỉ đến chừng này thì thức và danh sắc lại được sanh ra, hoặc bị già, hoặc bị chết, hoặc diệt vong, hoặc tái sanh, hoặc tử-tục sanh khác có thể xuất hiện.

Adhivacanapathoti “sirivaḍḍhako dhanavaḍḍhako”tiādikassa atthaṃ adisvā vacanamattameva adhikicca pavattassa vohārassa patho. Niruttipathoti saratīti sato, sampajānātīti sampajānotiādikassa kāraṇāpadesavasena pavattassa vohārassa patho. Paññattipathoti — “paṇḍito byatto medhāvī nipuṇo kataparappavādo”tiādikassa nānappakārato ñāpanavasena pavattassa vohārassa patho. Iti tīhi padehi adhivacanādīnaṃ vatthubhūtā khandhāva kathitā. Paññāvacaranti paññāya avacaritabbaṃ jānitabbaṃ. Vaṭṭaṃ vattatīti saṃsāravaṭṭaṃ vattati. Itthattanti itthaṃbhāvo, khandhapañcakassetaṃ nāmaṃ. Paññāpanāyāti nāmapaññattatthāya. “vedanā saññā”tiādinā nāmapaññattatthāya, khandhapañcakampi ettāvatā paññāyatīti attho. Yadidaṃ nāmarūpaṃ saha viññāṇenāti yaṃ idaṃ nāmarūpaṃ saha viññāṇena aññamaññapaccayatāya pavattati, ettāvatāti vuttaṃ hoti. Idañhettha niyyātitavacanaṃ[33].

Có đường lối của sự định danh: Con đường của sự diễn tả mà không thấy ý nghĩa của lời bắt đầu rằng: “Sự thạnh lợi, sự tấn tài” được thành lập chỉ để gọi tên. Có đường lối của ngôn từ: là con đường của sự diển tả mà vận hành nhờ khả năng dẫn chứng lý do của lời nói bắt đầu rằng: “vị có niệm do ghi nhớ, vị có sự nhận biết rõ do biết mình.” Có đường lối của sự diễn đạt: con đường của sự diễn tả mà vận hạnh nhờ khả năng làm cho hiểu biết bằng nhiều cách khác nhau của lời nói bắt đầu rằng: “Bậc sáng trí, vị tịnh thông, vị có trí, vị thiện xảo, vị thông thạo.” Luôn cả các uẩn là vật của sự định danh v.v, ngài cũng nói bằng ba câu với cách này. Có lãnh vực của tuệ: Có sự phỏng đoán, tức là có thể biết bằng tuệ. Có sự luân chuyển xoay vần: vòng quay luân hồi được vận hành. Bản thể này: Bản thể này, lời này là tên gọi của năm uẩn. Đưa đến sự nhận biết: Đưa đến sự nhận biết tên. Giải thích rằng: luôn cả năm uẩn cũng được nhận biết chỉ đến chừng ấy để mô tả danh với câu sau: “Thọ, tưởng v.v.” Tức là danh sắc vận hành cùng với thức: Đây là danh sắc vận hành cùng với thức theo tính chất hỗ tương duyên, ngài giải thích chỉ có bấy nhiêu. Đây là lời nói bị đem ra khỏi trong câu này.

Giảng Giải Việc Mô Tả về Bản Ngã

  1. Iti bhagavā — “Gambhīro cāyaṃ, ānanda, paṭiccasamuppādo, gambhīrāvabhāso cā”ti padassa anusandhiṃ dassetvā idāni “tantākulakajātā”ti padassa anusandhiṃ dassento “kittāvatā cā”ti-ādikaṃ desanaṃ ārabhi. Tattha rūpiṃ vā hi, ānanda, parittaṃ attānantiādīsu yo avaḍḍhitaṃ kasiṇanimittaṃ attāti gaṇhāti, so rūpiṃ parittaṃ paññapeti. Yo pana nānākasiṇalābhī hoti, so taṃ kadāci nīlo, kadāci pītakoti paññapeti. Yo vaḍḍhitaṃ kasiṇanimittaṃ attāti gaṇhāti, so rūpiṃ anantaṃ paññapeti. Yo vā pana avaḍḍhitaṃ kasiṇanimittaṃ ugghāṭetvā nimittaphuṭṭhokāsaṃ vā tattha pavatte cattāro khandhe vā tesu viññāṇamattameva vā attāti gaṇhāti, so arūpiṃ parittaṃ paññapeti. Yo vaḍḍhitaṃ nimittaṃ ugghāṭetvā nimittaphuṭṭhokāsaṃ vā tattha pavatte cattāro khandhe vā tesu viññāṇamattameva vā attāti gaṇhāti, so arūpiṃ anantaṃ paññapeti.
  2. Bằng cách này sau khi đức Thế Tôn thuyết giảng mối liên kết của câu: “Này Ānanda, Lý Duyên Khởi này là thâm sâu và có biểu hiện thâm sâu” bây giờ trong khi thuyết giảng mối liên kết của câu sau: “rối ren như là cuộn chỉ của thợ dệt” bắt đầu thuyết giảng như sau: “và đến chừng nào?” v.v. Ở đó, này Ānanda, người mô tả bản ngã là có sắc và có giới hạn thì mô tả: nghĩa là người nào nắm lấy các đề mục thiền Chỉ tịnh không được phát triển về bản ngã, người ấy mô tả (bản ngã) là có sắc và có giới hạn. Lại nữa, người nào có được các đề mục thiền Chỉ tịnh khác biệt, người ấy mô tả biến xứ là thỉnh thoảng xanh, thỉnh thoảng vàng. Người nào nắm lấy đề mục thiền Chỉ tịnh đã được phát triển về bản ngã, vị ấy mô tả (bản ngã) là có sắc và không giới hạn. Hoặc người nào sau khi tháo gỡ đề mục thiền Chỉ tịnh đã không được phát triển nắm lấy hư không nơi hiện tướng đã tiếp xúc hoặc bốn uẩn được vận hành trong hiện tượng ấy, hoặc chỉ có thức trong bốn uẩn ấy là bản ngã, người ấy mô tả (bản ngã) là không có sắc và có giới hạn. Người nào sau khi tháo gỡ đề mục thiền Chỉ tịnh nắm lấy hư không nơi hiện tướng đã tiếp xúc hoặc uẩn được vận hành ở hiện tướng ấy hoặc chỉ có thức trong bốn uẩn ấy là bản ngã, người ấy mô tả (bản ngã) là không có sắc và không giới hạn.
  3. Tatrānandāti ettha tatrāti tesu catūsu diṭṭhigatikesu. Etarahi vāti idāneva, na ito paraṃ, ucchedavasenetaṃ vuttaṃ. Tatthabhāviṃ vāti tattha vā paraloke bhāviṃ. sassatavasenetaṃ vuttaṃ. Atathaṃ vā pana santanti atathasabhāvaṃ samānaṃ. Tathattāyāti tathabhāvāya. Upakappessāmīti sampādessāmi. Iminā vivādaṃ dasseti. ucchedavādī hi “sassatavādino attānaṃ atathaṃ anucchedasabhāvampi samānaṃ tathatthāya ucchedasabhāvāya upakappessāmi, sassatavādañca jānāpetvā ucchedavādameva naṃ gāhessāmī”ti cinteti. Sassatavādīpi “ucchedavādino attānaṃ atathaṃ asassatasabhāvampi samānaṃ tathatthāya sassatabhāvāya upakappessāmi, ucchedavādañca jānāpetvā sassatavādameva naṃ gāhessāmī”ti cinteti.
  4. Từ ‘tatra’ trong từ ‘tatrānanda’ này là trong bốn loại tà kiến ấy. Ở hiện tại: vào lúc này không phải vào lúc khác, ngài đã nói lời này do mãnh lực đoạn kiến. Ở nơi kia: bản thể nằm ở thế giới khác, ngài đã nói điều này do mãnh lực thường kiến. Hoặc hơn nữa thực tính không thật tồn tại: hoặc thực tính không thật, tồn tại. Đưa đến thực tính chắc chắn: đưa đến bản thể chắc chắn. Sẽ thành tựu: ta sẽ làm cho thành tựu. (Đức Thế Tôn) bày tỏ sự phản đối ở câu này. Bởi vì người có học thuyết về đoạn kiến nghĩ rằng “Tôi sẽ làm cho bản ngã không thật, luôn cả thực tính không có sự đoạn tận của người theo học thuyết thường kiến trở thành như thế, đưa đến thực tính sự đoạn tận, và sau khi biết được học thuyết thường tồn, ta sẽ khiến vị ấy chỉ nắm lấy học thuyết đoạn kiến.” Luôn cả người có học thuyết thường tồn cũng nghĩ rằng: “Tôi sẽ làm cho bản ngã không thật, kể cả sự thật không thường tồn trở thành như thế đưa đến thực tính thật, tức là đưa đến bản thể thường tồn, và sau khi biết người có học thuyết về đoạn tận, ta sẽ khiến vị ấy chỉ nắm lấy học thuyết thường tồn.

Evaṃ santaṃ khoti evaṃ samānaṃ rūpiṃ parittaṃ attānaṃ paññapentanti attho. Rūpinti rūpakasiṇalābhiṃ. Parittattānudiṭṭhi anusetīti paritto attāti ayaṃ diṭṭhi anuseti, sā pana na valli viya ca latā viya ca anuseti. Appahīnaṭṭhena anusetīti veditabbo. Iccālaṃ vacanāyāti taṃ puggalaṃ evarūpā diṭṭhi anusetīti vattuṃ yuttaṃ. Esa nayo sabbattha.

Trong khi là như vậy: nghĩa là cho quy định bản ngã có sắc và có giới hạn tồn tại như vậy. Có sắc: có được sắc là biến xứ. Có giới hạn tiềm ẩn: quan điểm này là bản ngã có giới hạn, hơn nữa tiềm ẩn (nơi căn tánh) giống như dây leo và cây leo. Nên biết rằng: tiềm ẩn với ý nghĩa không từ bỏ. Là vừa đủ cho lời nói: Thật thích hợp để nói rằng: quan điểm có hình thức như vậy tiềm ẩn trong hạng người ấy. Cách thức này áp dụng cho các đoạn kế tiếp.

Arūpinti ettha pana arūpakasiṇalābhiṃ, arūpakkhandhagocaraṃ vāti evamattho daṭṭhabbo. Ettāvatā lābhino cattāro, tesaṃ antevāsikā cattāro, takkikā cattāro, tesaṃ antevāsikā cattāroti attato soḷasa diṭṭhigatikā dassitā honti.

Không có sắc: Hơn nữa, ở đây là có được biến xứ vô sắc, nên biết ý nghĩa như vầy, hoặc có vô sắc uẩn làm hành xứ. Chỉ chừng ấy là điều ngài thuyết giảng mười sáu hạng người theo tà kiến, bốn nhóm người có được sự lợi đắc, bốn nhóm học trò của người có được sự lợi đắc, bốn nhóm người có tà kiến, bốn nhóm học trò của nhóm người có tà kiến.

Giảng Giải Việc Mô Tả Không Phải Bản Ngã

  1. Evaṃ ye attānaṃ paññapenti, te dassetvā idāni ye na paññapenti, te dassetuṃ — “kittāvatā ca ānandā”tiādimāha. Ke pana na paññapenti? Sabbe tāva ariyapuggalā na paññapenti. Ye ca bahussutā tipiṭakadharā dvipiṭakadharā ekapiṭakadharā, antamaso ekanikāyampi sādhukaṃ vinicchinitvā uggahitadhammakathikopi āraddhavipassakopi puggalo, te na paññapentiyeva. Etesañhi paṭibhāgakasiṇe paṭibhāgakasiṇamicceva ñāṇaṃ hoti. Arūpakkhandhesu ca arūpakkhandhā icceva.
  2. Người nào mô tả về bản ngã như vậy, (đức Thế Tôn) đã thuyết giảng cho những người ấy, bây giờ không mô tả về bản ngã, để thuyết giảng cho họ nên đã nói rằng – “Và này Ānanda…đến chừng nào?” Hơn nữa, nhóm người nào không mô tả? Thật sự thì chỉ có các Thánh nhân ấy không mô tả. Và người nào là bậc đa văn, bậc thông thuộc Tam Tạng, bậc thông thuộc Nhị Tạng, bậc thông thuộc Nhất Tạng, sau khi suy xét ở tận cùng dẫu một Nikāya tốt đẹp, hạng người thuyết Pháp theo điều đã học, hay người đã bắt đầu Minh sát, thì người ấy không mô tả. Vì thế, những người ấy có tưởng rằng: Biến xứ có phần so sánh trong biến xứ có phần so sánh như vậy. Giải thích rằng: Vô sắc uẩn trong chính vô sắc uẩn ấy.

Giảng Giải Việc Nhận Thấy Bản Ngã

  1. Evaṃ ye na paññapenti, te dassetvā idāni ye te paññapenti, te yasmā diṭṭhivasena samanupassitvā paññapenti, sā ca nesaṃ samanupassanā vīsativatthukāya sakkāyadiṭṭhiyā appahīnattā hoti, tasmā taṃ vīsativatthukaṃ sakkāyadiṭṭhiṃ dassetuṃ puna kittāvatā ca ānandātiādimāha.
  2. Như vậy những người nào không mô tả, sau khi thuyết cho những người ấy, bây giờ sau khi quán sát do tác động của tà kiến mới mô tả, và sự quán sát này đây là có được do trạng thái không từ bỏ thân kiến với hai mươi luận điểm, để thuyết giảng đến thân kiến với hai mươi luận điểm ấy nên đã nói lại lần nữa: “Và này Ānanda… đến chừng này?

Tattha vedanaṃ vā hīti iminā vedanākkhandhavatthukā sakkāyadiṭṭhi kathitā. Appaṭisaṃvedano me attāti iminā rūpakkhandhavatthukā. Attā me vediyati, vedanādhammo hi me attāti iminā saññāsaṅkhāraviññāṇakkhandhavatthukā . Idañhi khandhattayaṃ vedanāsampayuttattā vediyati. Etassa ca vedanādhammo avippayuttasabhāvo.

Ở đó, ngài nói về thân kiến có thọ uẩn là nền tảng với câu này: (này Ānanda) người nhận thấy thọ. Ngài nói đến thân kiến có sắc uẩn là nền tảng với câu này: Bản ngã của tôi không có cảm thọ; ngài nói đến thân kiến có tưởng uẩn – hành uẩn – thức uẩn là nền tẳng với câu này: “Bản ngã của tôi (làm công việc) cảm thọ, chính chủ thể của thọ là bản ngã của tôi.’ Thật vậy, cả ba uẩn này (làm công việc) cảm thọ do trạng thái tương ưng với thọ. Và bản ngã có thọ là chủ thể bất tương ưng pháp thực tính đối với cả ba uẩn đó.

  1. Idāni tattha dosaṃ dassento — “tatrānandā”tiādimāha. Tattha tatrāti tesu tīsu diṭṭhigatikesu. Yasmiṃ, ānanda, samayetiādi yo yo yaṃ yaṃ vedanaṃ attāti samanupassati, tassa tassa attano kadāci bhāvaṃ, kadāci abhāvanti evamādidosadassanatthaṃ vuttaṃ.
  2. Bây giờ, đức Thế Tôn khi thuyết lỗi lầm về những quan điểm ấy nên đã nói rằng – “Ở đây, này Ānanda…” Ở đây, ‘tatra’ là trong ba loại tà kiến ấy. Ngài đã nói “này Ānanda, vào lúc nào…” điều này để chỉ ra lỗi lầm v.v, như vậy, thỉnh thoảng có, thỉnh thoảng không có bản ngã của người nhận thấy rằng: “thọ là bản ngã.”
  3. Aniccādīsu hutvā abhāvato aniccā. tehi tehi kāraṇehi saṅgamma samāgamma katāti saṅkhatā. Taṃ taṃ paccayaṃ paṭicca sammā kāraṇeneva uppannāti paṭiccasamuppannā. Khayotiādi sabbaṃ bhaṅgassa vevacanaṃ. Yañhi bhijjati, taṃ khiyatipi vayatipi virajjhatipi nirujjhatipi, tasmā khayadhammātiādi vuttaṃ.
  4. Vô thường v.v, thọ là vô thường bởi có rồi không. Có duyên tạo tác bởi vì được tạo tác bởi các nhân đó. Được sanh khởi theo điều kiện: do y cứ vào những duyên ấy rồi sanh lên với nhân thích hợp. Các câu bắt đầu ‘sự tan rã’ là đồng nghĩa của sự vỡ tan. Thật vậy, vật nào bị vỡ tan, (thì) vật đó bị tan rã, bị hoại diệt, bị tàn tạ, hoặc bị hoại diệt, vì thế ngài mới nói rằng: “có sự tan rã”.

Byagā meti viagāti byagā[34], vigato niruddho me attāti attho. Kiṃ pana ekasseva tīsupi kālesu — “eso me attā”ti hotīti, kiṃ pana na bhavissati? Diṭṭhigatikassa hi thusarāsimhi nikkhittakhāṇukasseva niccalatā nāma natthi, vanamakkaṭo viya aññaṃ gaṇhāti, aññaṃ muñcati. Aniccasukhadukkhavokiṇṇanti[35] visesena taṃ taṃ vedanaṃ attāti samanupassanto aniccañceva sukhañca dukkhañca attānaṃ samanupassati avisesena vedanaṃ attāti samanupassanto vokiṇṇaṃ uppādavayadhammaṃ attānaṃ samanupassati. Vedanā hi tividhā ceva uppādavayadhammā ca, tañcesa attāti samanupassati. iccassa anicco ceva attā āpajjati, ekakkhaṇe ca bahūnaṃ vedanānaṃ uppādo. Taṃ kho panesa[36] aniccaṃ attānaṃ anujānāti, na ekakkhaṇe bahūnaṃ vedanānaṃ uppatti atthi. Imamatthaṃ sandhāya — “tasmātihānanda, etenapetaṃ nakkhamati ‘vedanā me attā’ti samanupassitun”ti vuttaṃ.

Bản ngã của tôi đã diệt mất: giải thích rằng bản ngã của tôi đã đi đến sự diệt mất, là thoát khỏi sự diệt tận. Phật ngôn rằng: ‘Cái này là bản ngã của tôi’ trong cả ba thời, hoặc sẽ không có đối với người có tà kiến, bởi vì thông thường dây leo thường tồn là không có đối với gốc cây được vị ấy cất giữ trong đống trấu, giống như con khỉ rừng cầm lấy những thứ khác, buông bỏ những thứ khác. Nhận thấy bản ngã là vô thường, có lạc và khổ lẫn lộn: người nhận thấy các thọ đó một cách đặt biệt là bản ngã, được nhận thấy bản ngã là vô thường, là lạc và là khổ; khi nhận thấy thọ một cách không đặt biệt là bản ngã, được nhận thấy bản ngã lẫn lộn có tính chất sanh lên và có tính chất hoại diệt. Thật vậy, ba thọ và có tính chất sanh lên, có tính chất hoại diệt; và vị ấy nhận thấy thọ ấy là bản ngã. Bản ngã của tôi là vô thường, và sự sanh khởi của nhiều thọ trong cùng một sát-na. Nhưng vị ấy biết theo bản ngã ấy là vô thường, không có nhiều thọ sanh khởi trong cùng một sát-na. Đức Thế đề cập đến ý nghìa này nên mới nói rằng – “Vì thế, ở đây, này Ānanda, cũng vì điều này mà việc nhận thấy rằng: ‘Thọ là bản ngã của tôi’ là điều không hợp lý.”

  1. Yattha panāvusoti yattha suddharūpakkhandhe sabbaso vedayitaṃ natthi. Api nu kho tatthāti api nu kho tasmiṃ vedanāvirahite tālavaṇṭe vā vātapāne vā asmīti evaṃ ahaṃkāro uppajjeyyāti attho. Tasmātihānandāti yasmā suddharūpakkhandho uṭṭhāya ahamasmīti na vadati, tasmā etenapi etaṃ nakkhamatīti attho. Api nu kho tattha ayamahamasmīti siyāti api nu kho tesu vedanādhammesu tīsu khandhesu ekadhammopi ayaṃ nāma ahamasmīti evaṃ vattabbo siyā. Atha vā vedanānirodhā saheva vedanāya niruddhesu tesu tīsu khandhesu api nu kho ayamahamasmīti vā ahamasmīti vā uppajjeyyāti attho. Athāyasmā ānando sasavisāṇassa tikhiṇabhāvaṃ viya taṃ asampaṭicchanto no hetaṃ bhanteti āha.
  2. Nơi nào hoàn toàn (không có cái được cảm thọ): Nơi nào hoàn toàn trong sắc uẩn cũng không có cái được cảm nhận bằng tất cả mọi thứ. Phải chăng nơi ấy: Phải chăng trong sắc uẩn ấy, là trong thân câu tāla hoặc ở cửa sổ đã loại trừ thọ, sẽ có thể sanh khởi việc tạo thành ‘tôi’ như vậy. Vì thế, ở đây, này Ānanda: Nơi nào hoàn toàn sắc uẩn được thiết lập không được nói rằng: ‘là tôi’, vì thế điều này không hợp lý để nhận thấy thọ là bản ngã của tôi. Phải chăng nơi ấy (trong sắc uẩn): ‘Cái này là tôi’ có thể khởi lên?: Phải chăng trong các thọ, trong ba uẩn, thậm chí một uẩn, thật thích hợp để nói như vầy ‘tên gọi này là tôi?’” Hoặc hơn nữa, có nghĩa – phải chăng khi ba uẩn đó diệt cùng với thọ, do thọ diệt có thể tạo thành tôi rằng: ‘cái này là tôi’ hoặc ‘tôi là’ v.v. Khi ấy, đại đức Ānanda khi không chấp nhận điều đó, tựa như hạng người không chấp nhận sự sắc nhọn của chiếc sừng thỏ nên đã nói rằng: “Bạch Ngài, chắc chắn không thể có việc đó.

Ettāvatā kiṃ kathitaṃ hoti? vaṭṭakathā kathitā hoti. Bhagavā hi vaṭṭakathaṃ kathento katthaci avijjāsīsena kathesi, katthaci taṇhāsīsena, katthaci diṭṭhisīsena. Tattha “purimā, bhikkhave, koṭi nappaññāyati avijjāya, ‘ito pubbe avijjā nāhosi, atha pacchā samabhavī’ti. Evañcidaṃ, bhikkhave, vuccati. atha ca pana paññāyati idappaccayā avijjā”ti[37] evaṃ avijjāsīsena kathitā. “Purimā, bhikkhave, koṭi nappaññāyati bhavataṇhāya, ‘ito pubbe bhavataṇhā nāhosi, atha pacchā samabhavī’ti. Evañcidaṃ, bhikkhave, vuccati. Atha ca pana paññāyati idappaccayā bhavataṇhā”ti[38] evaṃ taṇhāsīsena kathitā. “Purimā, bhikkhave, koṭi nappaññāyati bhavadiṭṭhiyā, ‘ito pubbe bhavadiṭṭhi nāhosi, atha pacchā samabhavī’ti, evañcidaṃ, bhikkhave, vuccati. Atha ca pana paññāyati idappaccayā bhavadiṭṭhī”ti evaṃ diṭṭhisīsena kathitā. Idhāpi diṭṭhisīseneva kathitā.

Chỉ chừng ấy đức Thế Tôn đã nói đến điều gì? Nói đến luân hồi. Thật vậy, đức Thế Tôn khi thuyết đến vấn đề luân hồi ở một vài chỗ thuyết với tiêu đề vô minh, một vài chỗ thuyết với tiêu đề tham ái, một vài chỗ thuyết với tiêu đề tà kiến. Ở đó, thuyết với tiêu đề vô minh như vậy: “Này các tỳ khưu, khởi điểm đầu tiên của vô minh không được biết đến: ‘Trước điểm này, vô minh không có, rồi sau mới có.’ Này các tỳ kheo, lời này được nói đến như vậy. Tuy vậy, sự việc này được biết đến: “Do cái này là duyên, vô minh có mặt”. Thuyết với tiêu đề tham ái như vầy: “Này các tỳ khưu, khởi điểm đầu tiên của hữu ái không được biết đến: ‘Trước điểm này hữu ái không có, rồi sau mới có’. Này các tỳ khưu, lời này được nói đến như vậy. Tuy vậy, sự việc này được biết đến: ‘Do cái này là duyên, hữu ái có mặt’”. Thuyết với tiêu đề tà kiến như vậy: “Này chư tỳ khưu, khởi điểm đầu của hữu kiến không được biết đến, trước điểm này hưu kiến không có, rồi sau mới có, như vậy, này các  khưu, lời này được nói đến. Khi đó, hữu kiến được biết đến: ‘Do cái này là đuyên, hữu ái mới có mặt.’” Luôn cả trong hữu kiến này cũng là điều tương tự để nói đến tiêu đề tà kiến.

Diṭṭhigatiko hi sukhādivedanaṃ attāti gahetvā ahaṅkāramamaṅkāraparāmāsavasena sabbabhavayonigati — Viññāṇaṭṭhitisattāvāsesu tato tato cavitvā tattha tattha upapajjanto mahāsamudde vātukkhittanāvā viya satataṃ samitaṃ paribbhamati, vaṭṭato sīsaṃ ukkhipituṃyeva na sakkoti.

Thật vậy, người có tà kiến chấp rằng: thọ có lạc thọ v.v, là bản ngã, tất cả (ba) hữu, (bốn) nguồn gốc sanh ra, (năm) cảnh giới tái sanh do mãnh lực sự bám chấp ‘tôi’ ‘của tôi’ – sau khi mệnh chung từ cõi đó ở nơi tồn tại của thức và các hữu tình cư sanh vào kiếp sống đó thường xuyên luân chuyển đến các cõi giống như một con thuyền bị gió thổi trên đại dương, không thể nhấc đầu ra khỏi luân hồi.

  1. Iti bhagavā paccayākāramūḷhassa diṭṭhigatikassa ettakena kathāmaggena vaṭṭaṃ kathetvā idāni vivaṭṭaṃ kathento yato kho pana, ānanda, bhikkhūtiādimāha.
  2. Với cách thức này đức Thế Tôn thuyết đến luân hồi chỉ bằng lời nói về Đạo đối với người có tà kiến trở nên lầm lẫn trong Lý Duyên Khởi, bây giờ trong khi thuyết về đến Nibbāna nên mới nói rằng: “Hơn nữa, này Ānanda khi nào vị tỳ khưu…

Tañca pana vivaṭṭakathaṃ bhagavā desanāsu kusalattā vissaṭṭhakammaṭṭhānaṃ navakammādivasena vikkhittapuggalaṃ anāmasitvā kārakassa satipaṭṭhānavihārino puggalassa vasena ārabhanto neva vedanaṃ attānaṃ samanupassatītiādimāha. Evarūpo hi bhikkhu — “yaṃ kiñci rūpaṃ atītānāgatapaccuppannaṃ ajjhattaṃ vā bahiddhā vā oḷārikaṃ vā sukhumaṃ vā hīnaṃ vā paṇītaṃ vā yaṃ dūre vā santike vā, sabbaṃ rūpaṃ aniccato vavatthapeti, ekaṃ sammasanaṃ. Dukkhato vavatthapeti, ekaṃ sammasanaṃ. Anattato vavatthapeti, ekaṃ sammasanan”tiādinā nayena vuttassa sammasanañāṇassa vasena sabbadhammesu pavattattā neva vedanaṃ attāti samanupassati, na aññaṃ[39], so evaṃ asamanupassanto na kiñci loke upādiyatīti khandhalokādibhede loke rūpādīsu dhammesu kiñci ekadhammampi attāti vā attaniyanti vā na upādiyati.

Và hơn nữa, đức Thế Tôn do bởi ngài là vị thiện xảo trong việc thuyết pháp, không tiếp xúc vivaṭṭakatha (lời nói về Nibbāna) cùng hạng người phóng dật do tác động việc xây cất nói chung v.v, người trút bỏ nghiệp xứ, khi bắt đầu do tác động của hạng người đang an trú với sự thiệt lập niệm, người thực hiện đã nói rằng: “Vị tỳ khưu không nhận thấy thọ là bản ngã”. Thật vậy, vị tỳ khưu có hình thức như thế không nhận thấy thọ là bản ngã, không nhận thấy các Pháp khác bởi vì sự vận hành trong các Pháp do tác động của trí về sự thấu hiểu đã được đức Thế Tôn nói theo cách thức bắt đầu như sau: “Bất cứ sắc nào thuộc quá khứ, hiện tại, vị lai, nội phần hoặc ngoại phần, thô hoặc tế, thấp kém hoặc cao quý, là ở xa hoặc ở gần, (hành giả) xác định toàn bộ sắc ấy là vô thường, (đây là) một sự thấu hiểu; (hành giả) xác định toàn bộ sắc ấy là khổ não, (đây là) một sự thấu hiểu; (hành giả) xác định toàn bộ sắc ấy là vô ngã, (đây là) một sự thấu hiểu.” Vị ấy trong khi không nhận thấy như vậy, vị ấy không chấp thủ bất cứ điều gì ở thế gian; không chấp thủ bất cứ thứ gì dù chỉ một Pháp trong số các Pháp có sắc v.v, ở thế gian mà khác biệt bởi uẩn v.v, rằng bản ngã hoặc sanh trong bản ngã.

Anupādiyaṃ na paritassatīti anupādiyanto taṇhādiṭṭhimānaparitassanāyāpi na paritassati. Aparitassanti aparitassamāno. Paccattaṃyeva parinibbāyatīti attanāva kilesaparinibbānena parinibbāyati. Evaṃ parinibbutassa panassa paccavekkhaṇāpavattidassanatthaṃ khīṇā jātītiādi vuttaṃ.

Trong khi không chấp thủ, vị ấy không rung động: Vị tỳ khưu khi không chấp thủ, vị ấy không rung động, luôn cả sự rúng động là tham ái, tà kiến và ngã mạn. Trong khi không rung động: khi không rúng động. Vị ấy tự chính bản thân sẽ viên mãn Nibbāna: viên tịch Nibbāna bởi sự diệt tắt phiền não do tự chính bản thân. Đức Thế Tôn đã nói rằng: “Sự tái sanh đã cạn kiệt” v.v, nhằm mục đích thuyết đến sự vận hành của sự quán xét lại của vị đã viên tịch Nibbāna như vậy.

Iti sā diṭṭhīti yā tathāvimuttassa arahato diṭṭhi, sā evaṃ diṭṭhi. “itissa diṭṭhī”tipi pāṭho. Yo tathāvimutto arahā, evamassa diṭṭhīti attho. Tadakallanti taṃ na yuttaṃ. Kasmā? Evañhi sati — “arahā na kiñci jānātī”ti vuttaṃ bhaveyya, evaṃ ñatvā vimuttañca arahantaṃ “na kiñci jānātī”ti vattuṃ na yuttaṃ. Teneva catunnampi nayānaṃ avasāne — “taṃ kissa hetū”tiādimāha.

Vị này có quan điểm…: quan điểm của bậc Thánh A-ra-hán vị đã giải thoát, có quan điểm như vậy. Pāḷī “itissa diṭṭhi” cũng có. Có nghĩa là vị ấy là người xa phiền não, là vị đã giải thoát như vậy có thể có quan điểm như thế. Cách nói của hạng người ấy là không phù hợp: Câu đó là không thích hợp. Tại sao? Bởi vì, chính vì như thế có thể nói rằng: “vị A-ra-hán không biết được bất cứ điều gì”, sau khi biết như vậy không nên nói cùng bậc A-ra-hán, vị đã giải thoát rằng: “không biết bất cứ điều gì.” Chính vì nguyên nhân ấy, luôn cả bốn cách thức sau cùng thì đức Thế Tôn cũng đã nói rằng: “Điều ấy do nguyên nhân gì?

Tattha yāvatā ānanda adhivacananti yattako adhivacanasaṅkhāto vohāro atthi. Yāvatā adhivacanapathoti yattako adhivacanassa patho, khandhā āyatanāni dhātuyo vā atthi. Esa nayo sabbattha. Paññāvacaranti paññāya avacaritabbaṃ khandhapañcakaṃ. Tadabhiññāti taṃ abhijānitvā. Ettakena bhagavatā kiṃ dassitaṃ? Tantākulapadasseva anusandhi dassito[40].

Này Ānanda, sự định danh là đến đâu: có sự diễn tả được xem là sự định danh đến đâu. Đường lối của sự định danh là đến đâu: là con đường của sự định danh diễn biến đến đâu, Uẩn – Xứ hoặc Giới có mặt. Cách thức này áp dụng cho các đoạn kế tiếp. Xác định bằng trí tuệ: Năm uẩn được xác định bằng trí tuệ. Sau khi biết thấu đáo điều về điều ấy: Sau khi biết thấu đáo về điều ấy (luân hồi). Chỉ chừng ấy đức Thế Tôn thuyết điều gì? Thuyết giảng sự liên kết của chính câu nói ‘với sự rối ren tựa như cuộn chỉ của người thợ dệt’.

Giảng Giải Về Bảy Thức Trú

  1. Idāni yo — “na paññapetī”ti vutto, so yasmā gacchanto gacchanto ubhatobhāgavimutto nāma hoti. yo ca — “na samanupassatī”ti vutto, so yasmā gacchanto gacchanto paññāvimutto nāma hoti. Tasmā tesaṃ heṭṭhā vuttānaṃ dvinnaṃ bhikkhūnaṃ nigamanañca nāmañca dassetuṃ satta kho imānanda viññāṇaṭṭhitiyotiādimāha.
  2. Bây giờ, người nào được ngài nói rằng – “Không mô tả”, bởi vì người ấy ‘đang đi, đang đi’ gọi là giải thoát từ hai phần. Và người nào được ngài nói rằng – “Không nhận thấy”, bởi vì người ấy ‘đang đi, đang đi’ gọi là giải thoát bằng trí tuệ. Vì thế, để kết luận và tên gọi của hai vị tỳ khưu, những người đã được nói ấy nên mới thuyết rằng: “Này Ānanda, đây là bảy thức trú (bảy nơi tồn tại của thức)”.

Tattha sattāti paṭisandhivasena vuttā, ārammaṇavasena saṅgītisutte[41] vuttā catasso āgamissanti. Viññāṇaṃ tiṭṭhati etthāti viññāṇaṭṭhiti, viññāṇapatiṭṭhānassetaṃ adhivacanaṃ. Dve ca āyatanānīti dve nivāsaṭṭhānāni. Nivāsaṭṭhānañhi idhāyatananti adhippetaṃ. Teneva vakkhati — “asaññasattāyatanaṃ nevasaññānāsaññāyatanameva dutiyan”ti. Kasmā panetaṃ sabbaṃ gahitanti? Vaṭṭapariyādānatthaṃ. Vaṭṭañhi na suddhaviññāṇaṭṭhitivasena suddhāyatanavasena vā pariyādānaṃ gacchati, bhavayonigatisattāvāsavasena pana gacchati, tasmā sabbametaṃ gahitaṃ.

Ơ đó, chúng sanh ngài nói do mãnh lực sự tục sanh. Bốn thức trú ngài nói do tác động của đối tượng, sẽ đến trong bài Kinh Saṅgīti. Nơi tồn tại của thức bởi có thức an trú, đây là sự định danh nơi an trú của thức. Và 2 xứ: hai nơi y cứ và nơi an trú. Thật vậy, xứ trong trường hợp này ngài muốn đề cập đến nơi y cứ. Với chính nguyên nhân ấy ngài sẽ nói đến 2 xứ là “Vô tưởng hữu tình xứ và Phi tưởng phi phi tưởng xứ.” Vậy tại sao ngài nắm lấy tất cả xứ này? Vì mục đích giám sát luân hồi. Thật vậy, luân hồi không đạt đến sự giám sát do tác động (bảy) nơi tồn tại của thức trong sạch hoặc do tác động xứ (chỗ trú) trong sạch, hơn nữa đi đến sự giám sát do tác động (ba) hữu, (bốn) nguồn gốc sanh ra, (năm) cảnh giới tái sanh, (chín) hữu tình cư; vì thế, ngài mới lấy tất cả xứ này.

Idāni anukkamena tamatthaṃ vibhajanto katamā sattātiādimāha. Tattha seyyathāpīti nidassanatthe nipāto, yathā manussāti attho. Aparimāṇesu hi cakkavāḷesu aparimāṇānaṃ manussānaṃ vaṇṇasaṇṭhānādivasena dvepi ekasadisā natthi. Yepi hi katthaci yamakabhātaro vaṇṇena vā saṇṭhānena vā ekasadisā honti, tesampi ālokitavilokitakathitahasitagamanaṭhānādīhi viseso hotiyeva. Tasmā nānattakāyāti vuttā. paṭisandhisaññā pana nesaṃ tihetukāpi dvihetukāpi ahetukāpi honti, tasmā nānattasaññinoti vuttā. Ekacce ca devāti cha kāmāvacaradevā. Tesu hi kesañci kāyo nīlo hoti, kesañci pītakādivaṇṇo. Saññā pana nesaṃ dvihetukāpi tihetukāpi honti, ahetukā natthi. Ekacce ca vinipātikāti catuapāyavinimuttā uttaramātā yakkhinī, piyaṅkaramātā, phussamittā, dhammaguttāti evamādikā aññe ca vemānikā petā. Etesañhi pītaodātakāḷamaṅguracchavisāmavaṇṇādivasena ceva kisathūlarassadīghavasena ca kāyo nānā hoti, manussānaṃ viya dvihetukatihetukāhetukavasena saññāpi. Te pana devā viya na mahesakkhā, kapaṇamanussā viya appesakkhā, dullabhaghāsacchādanā dukkhapīḷitā viharanti. Ekacce kāḷapakkhe dukkhitā juṇhapakkhe sukhitā honti, tasmā sukhasamussayato vinipatitattā vinipātikāti vuttā. Ye panettha tihetukā tesaṃ dhammābhisamayopi hoti, piyaṅkaramātā hi yakkhinī paccūsasamaye anuruddhattherassa dhammaṃ sajjhāyato sutvā —

“Mā saddamakari piyaṅkara, bhikkhu dhammapadāni bhāsati.

Api dhammapadaṃ vijāniya, paṭipajjema hitāya no siyā.

Pāṇesu ca saṃyamāmase, sampajānamusā na bhaṇāmase.

Sikkhema susīlyamattano, api muccema pisācayoniyā”ti.[42]

Evaṃ puttakaṃ saññāpetvā taṃ divasaṃ sotāpattiphalaṃ pattā. Uttaramātā[43] pana bhagavato dhammaṃ sutvāva sotāpannā jātā.

Bây giờ, bậc Đạo Sư trong khi phân tích ý nghĩa đó theo thứ tự nên mới nói rằng: “là bảy nơi nào?” Trong câu đó, như là: đây là một phân từ với ý nghĩa ‘như là’, tức là – như loài người. Thật vậy, trong vũ trụ không thể ước lượng như thể một không có hai về phương diện màu da và hình dáng v.v, của loài người không thể ước lượng. Có sự khác biệt nhờ vào biểu hiện v.v, sự nhìn trước, sự nhìn sau, việc nói, việc cười, việc đi và việc đứng chỉ có chừng ấy, anh em sinh đôi ở bất cứ nơi đâu đều như giống nhau nhờ vào màu da và hình dáng. Do đó, ngài mới nói rằng: có thân khác biệt. Tuy nhiên, thức tục sanh của những chúng sanh ấy có tam nhân, hoặc nhị nhân, hoặc vô nhân, vì thế ngài mới nói có tưởng khác biệt. Một số chư Thiên: Chư Thiên ở sáu cõi Dục. Bởi trong số các chư Thiên ấy một số có thân hình màu xanh, một có thân hình màu vàng v.v. Nhưng tưởng của chư Thiên ấy có nhị nhân, hoặc có tam nhân, hoặc vô nhân. Và một số hạng ở chốn bị trừng phạt: ngạ quỷ Vemānika được bắt đầu như vầy rằng: nữ Dạ-xoa tên là Uttaramātā, Piyaṅkaramātā, Phussamittā, Dhammaguttā người rơi vào bốn khổ cảnh. Bởi thân hình của những loài ngạ quỷ ấy có sự khác biệt về phương diện màu da có màu da vàng, màu rắng, màu đen, màu vàng, màu đỏ thẫm v.v, và về phương diện (thân hình) ốm, mập, cao và thấp. Luôn cả tưởng cũng có do tác động nhị nhân, tam nhân, và vô nhân giống như của người nhân loại. Hơn nữa, những loài ngạ quỷ ấy không có nhiều oai lực giống như chư Thiên, có ít oai lực giống như người ăn xin, thức ăn, quần áo khó kiếm sống bị đau khổ áp bức. Một số thọ lãnh đau khổ vào nửa tháng thuộc hạ huyền, thọ hưởng sự an lạc khi trăng đến độ trăng sáng, vì thế ngài mới nói rằng: ở chốn bị trừng phạt bởi vì bản thể người rơi xuống khỏi sự tích trữ hạnh phúc. Hơn nữa, những ngạ quỷ này dẫu lãnh hội về Giáo Pháp cũng có được đối với nhóm ngạ quỷ nhóm tam nhân, bởi nữ Da-xoa tên Piyaṅkaramātā đã lắng nghe trưởng lão Anuruddha đang trì tụng Pháp vào lúc trời gần sáng – đã nhắc nhở đứa con trai nhỏ như vầy rằng:

Này Piyaṅkara, chớ tạo ra tiếng động, vị tỳ khưu đang trì tụng các nền tảng trong Pháp. Hơn nữa, chúng tôi đã hiểu được một nền tảng Pháp, rồi thực hành theo chánh Pháp nhằm mục đích mang lại lợi ích cho chúng tôi, điều đó có thể xảy ra.

Chúng tôi nên thu thúc (không sát hại) tất cả sinh vật. Không nên cố tình nói láo, chúng ta nên tự mình nghiêm trì giới luật. Chúng ta sẽ thoát khỏi kiếp ngạ quỷ.”

(Vị ấy) đã chứng đắc Thánh Quả Nhập Lưu vào chính ngày hôm ấy. Hơn nữa, nữ Dạ-xoa tên là Uttaramātā sau khi nghe Pháp của đức Thế Tôn đã chứng đắc quả vị Nhập Lưu.

Brahmakāyikāti brahmapārisajja- brahmapurohita- mahābrahmāno. Paṭhamābhinibbattāti te sabbepi paṭhamena jhānena abhinibbattā. Tesu brahmapārisajjā pana parittena abhinibbattā, tesaṃ kappassa tatiyo bhāgo āyuppamāṇaṃ. Brahmapurohitā majjhimena, tesaṃ upaḍḍhakappo āyuppamāṇaṃ, kāyo ca tesaṃ vipphārikataro hoti. Mahābrahmāno paṇītena, tesaṃ kappo āyuppamāṇaṃ, kāyo pana tesaṃ ativipphāriko hoti. Iti te kāyassa nānattā, paṭhamajjhānavasena saññāya ekattā nānattakāyā ekattasaññinoti veditabbā.

(Chư Thiên) thuộc tập thể Phạm Thiên: Phạm Chúng Thiên, Phạm Phụ Thiêm và Đại Phạm Thiên. Đã được tái sanh do Sơ thiền: Tất cả những chư Thiên ấy đã được tái sanh do Sơ thiền. Hơn nữa, trong số chư Thiên ấy thì Phạm Chúng Thiên đã được tái sanh với đức hạnh nhỏ nhặt, Phạm Chúng Thiên có tuổi thọ khoảng 3 phần của một kiếp. Phạm Phụ Thiên đã được tái sanh với đức hạnh trung bình, tuổi thọ chừng một nửa kiếp và thân hình của Phạm Chúng Thiên ấy oai vệ hơn. Đại Phạm Thiên sanh ra với đức hạnh cao quý, tuổi thọ chừng một kiếp, thân hình của các vị ấy oai vệ nhất. Bằng cách như vậy nên biết rằng những vị Thiên này có thân hình khác biệt, có tưởng tương đồng; bởi vì thân khác biệt, bởi vì tưởng tương đồng do tác động của Sơ thiền.

Yathā ca te, evaṃ catūsu apāyesu sattā. Nirayesu hi kesañci gāvutaṃ, kesañci aḍḍhayojanaṃ, kesañci yojanaṃ attabhāvo hoti, devadattassa pana yojanasatiko jāto. tiracchānesupi keci khuddakā, keci mahantā. Pettivisayepi keci saṭṭhihatthā, keci sattatihatthā, keci asītihatthā honti, keci suvaṇṇā, keci dubbaṇṇā honti. Tathā kālakañjikā asurā. Api cettha dīghapiṭṭhikapetā nāma saṭṭhiyojanikāpi honti. Saññā pana sabbesampi akusalavipākāhetukāva honti. Iti āpāyikāpi nānattakāyā ekattasaññinotveva saṅkhyaṃ gacchanti.

Chúng sanh trong bốn cõi khổ cũng tương tự những vị Thiên ấy. Bởi trong địa ngục bản ngã của một số chúng sanh cao một gāvuta, một số cao nửa do-tuần, một số cao một do-tuần, nhưng của Devadatta cao một trăm do-tuần. Cả loài bàng sanh một số nhỏ, một số to lớn. Luôn cả loài ngạ quỷ một số cao 60 hắc tay, một số cao 70 hắc tay, một số 80 hắc tay, một số có làn da đẹp, một số có làn da xấu. Loài A-tu-la Kālakañjikā cũng tương tự như thế. Và hơn nữa, trong các loài A-tu-la này thì loài ngạ quỷ Dīghapiṭṭhika cao đến 60 do-tuần. Nhưng tưởng của tất cả loài ngạ quỷ đều là quả bất thiện vô nhân. Với cách thức này luôn cả những chúng sanh trong địa ngục cũng đều được xem: Có thân khác biệt, có tưởng tương đồng.

Ābhassarāti daṇḍaukkāya acci viya etesaṃ sarīrato ābhā chijjitvā chijjitvā patantī viya sarati vissaratīti ābhassarā. Tesu pañcakanayena dutiyatatiyajjhānadvayaṃ parittaṃ bhāvetvā upapannā parittābhā nāma honti, tesaṃ dve kappā āyuppamāṇaṃ. majjhimaṃ bhāvetvā upapannā appamāṇābhā nāma honti, tesaṃ cattāro kappā āyuppamāṇaṃ. Paṇītaṃ bhāvetvā upapannā ābhassarā nāma honti, tesaṃ aṭṭha kappā āyuppamāṇaṃ. Idha pana ukkaṭṭhaparicchedavasena sabbepi te gahitā. Sabbesañhi tesaṃ kāyo ekavipphārova hoti, saññā pana avitakkavicāramattā vā avitakkāvicārā vāti nānā.

Quang Âm Thiên: Hào quang từ thân của các vị Thiên ấy như ngọn lửa của một ngọn đuốc lan tỏa ra như thể ngắt quãng rồi rơi xuống, vì nguyên nhân ấy mới gọi là Quang Âm Thiên. Trong số các vị Thiên ấy thì sau khi tu tập đức hạnh chút ít có được 2 thiền là Nhị thiền và Tam thiền theo cách thức thứ tư và cách thức thứ năm đã sanh lên gọi là Thiểu Quang Thiên, ước lượng tuổi thọ của chư Thiên cõi Thiểu Quang Thiên ấy là 2 kiếp. Sau khi tu tập đức hạnh trung bình đã sanh lên gọi là Vô Lượng Quang Thiên, ước lượng tuổi thọ của chư Thiên cõi Vô Lượng Quang Thiên ấy là 4 kiếp. Sau khi tu tập đức hạnh cao thượng đã sanh lên gọi là Quang Âm Thiên, ước lượng tuổi thọ của chư Thiên cõi Quang Âm Thiên ấy là 8 kiếp. Hơn nữa ở đây ngài xác định đề cập toàn bộ chư Thiên do tác động sự phân định bậc thượng. Thân của những vị Thiên ấy toàn bộ đều oai vệ như nhau; tuy nhiên tưởng không có tầm-vitakka nhưng có tư-vicāra; hoặc không có cả tầm và tứ, vì lý do ấy mới (có tưởng) khác biệt.

Subhakiṇhāti subhena okiṇṇā vikiṇṇā, subhena sarīrappabhāvaṇṇena ekagghanāti attho. Etesañhi ābhassarānaṃ viya na chijjitvā chijjitvā pabhā gacchati. Pañcakanaye pana parittamajjhimapaṇītassa catutthajjhānassa vasena soḷasadvattiṃsacatusaṭṭhikappāyukā parittasubhāppamāṇasubhasubhakiṇhā nāma hutvā nibbattanti. Iti sabbepi te ekattakāyā ceva catutthajjhānasaññāya ekattasaññino cāti veditabbā. Vehapphalāpi catutthaviññāṇaṭṭhitimeva bhajanti. Asaññasattā viññāṇābhāvā ettha saṅgahaṃ na gacchanti, sattāvāsesu gacchanti.

Biến Tịnh Thiên: phân tán đầy rẫy bởi vẻ đẹp. Giải thích rằng: Có sự dày đặc đồng nhất bởi ánh sáng của hào quang từ thân bởi sự đẹp đẽ. Cũng bởi vì hào quang của những vị Thiên cõi Biến Tịnh Thiên ấy không ngắt quãng, rồi phát ra giống như hào quang của chư Thiên cõi Quang Âm Thiên. Tuy nhiên trong cách thức thứ năm vị Thiên đã hóa sanh trở thành vị Thiên cõi Thiểu Quang Thiên, vị Thiên cõi Vô Lượng Quang Thiên, vị Thiên cõi Biến Tịnh Thiên có tuổi thọ 16 kiếp, 32 kiếp, 60 kiếp do mãnh lực Tứ thiền hy thiểu, trung bình và cao quý. Bằng cách này, tất cả chư Thiên ấy nên biết rằng: có thân tương đồng và có tưởng tương đồng với tưởng của Tứ thiền. Luôn cả chư Thiên ở Quảng Quả Thiên cũng gọp chung với thức trú thứ 4 tương tự. Chúng sanh vô tưởng do không có thức, không nhiếp hợp vào trong thức trú này, nhưng nhiếp hợp ở (chín) hữu tình cư.

Suddhāvāsā vivaṭṭapakkhe ṭhitā na sabbakālikā, kappasatasahassampi asaṅkhyeyyampi buddhasuññe loke nuppajjanti. Soḷasakappasahassabbhantare buddhesu uppannesuyeva uppajjanti, dhammacakkappavattassa bhagavato khandhavāraṭṭhānasadisā honti. Tasmā neva viññāṇaṭṭhitiṃ na sattāvāsaṃ bhajanti. Mahāsīvatthero pana — “Na kho pana so sāriputta sattāvāso sulabharūpo yo mayā anivutthapubbo iminā dīghena addhunā aññatra suddhāvāsehi devehī”ti[44] iminā suttena suddhāvāsāpi catutthaviññāṇaṭṭhitiṃ catutthasattāvāsaṃyeva bhajantīti vadati, taṃ   suttassa anuññātaṃ.

Tịnh Cư Thiên: đã vững trú trong phần giải thoát, không xác định toàn bộ thời gian cũng không sanh vào thới giới không có đức Phật trăm ngàn kiếp, một a-tăng-kỳ, trong khi đức Phật hiện khởi trong giữa mười sáu ngàn kiếp ấy mới sanh lên tương tự như mạng lưới của đức Thế Tôn, vị đã vận hành bánh xe Pháp. Vì thế, vị Thiên ở cõi Tịnh Cư Thiên không nhiếp hợp với thức trú, không nhiếp hợp với (chín) hữu tình cư. Nhưng trưởng lão Mahāsīva đã nói rằng: Dẫu cho chư Thiên ở cõi Tịnh Cư cũng vẫn gọp chung với thức trú thứ 4, hữu tình cư thứ 4 với bài Kinh này – “Này Sārīputta, quả thật không có cõi chúng sanh nào có vẻ dễ dàng đạt được mà Ta không từng cư ngụ trước đây trong một thời gian dài, ngoại trừ chư Thiên ở cõi Tịnh Cư,” lời ấy trùng khớp với bài Kinh bởi không mâu thuẫn.

Sabbaso rūpasaññānantiādīnaṃ attho visuddhimagge vutto. nevasaññānāsaññāyatanaṃ pana yatheva saññāya, evaṃ viññāṇassapi sukhumattā neva viññāṇaṃ nāviññāṇaṃ. Tasmā viññāṇaṭṭhitīsu avatvā āyatanesu vuttaṃ.

Ý nghĩa của câu ‘toàn bộ các tưởng về sắc’ ngài đã nói trong Thanh Tịnh Đạo. Hơn nữa, Phi tưởng phi phi tưởng xứ có thức cũng không phải mà không có thức cũng không phải; dù cho thức vi tế giống như sự vi tế của tưởng. Vì thế, sau khi không nói trong thức trú ngài đã nói trong xứ.

  1. Tatrāti tāsu viññāṇaṭṭhitīsu. Tañca pajānātīti tañca viññāṇaṭṭhitiṃ pajānāti. Tassā ca samudayanti “avijjāsamudayā rūpasamudayo”tiādinā[45] nayena tassā samudayañca pajānāti. Tassā ca atthaṅgamanti — “avijjānirodhā rūpanirodho”tiādinā nayena tassā atthaṅgamañca pajānāti. Assādanti yaṃ rūpaṃ paṭicca … pe … yaṃ viññāṇaṃ paṭicca uppajjati sukhaṃ somanassaṃ, ayaṃ viññāṇassa assādoti, evaṃ tassā assādañca pajānāti. Ādīnavanti yaṃ rūpaṃ … pe … yaṃ viññāṇaṃ aniccaṃ dukkhaṃ vipariṇāmadhammaṃ, ayaṃ viññāṇassa ādīnavoti, evaṃ tassā ādīnavañca pajānāti. Nissaraṇanti yo rūpasmiṃ … pe … yo viññāṇe chandarāgavinayo, chandarāgappahānaṃ, idaṃ viññāṇassa nissaraṇanti[46] evaṃ tassā nissaraṇañca pajānāti. Kallaṃ nu tenāti yuttaṃ nu tena bhikkhunā taṃ viññāṇaṭṭhitiṃ taṇhāmānadiṭṭhīnaṃ vasena ahanti vā mamanti vā abhinanditunti. Etenupāyena sabbattha veditabbo. Yattha pana rūpaṃ natthi, tattha catunnaṃ khandhānaṃ vasena, yattha viññāṇaṃ natthi, tattha ekassa khandhassa vasena samudayo yojetabbo. āhārasamudayā āhāranirodhāti idañcettha padaṃ yojetabbaṃ.
  2. Tatra là trong những thức trú ấy. Biết rõ thức trú đó: Biết rõ thức trú đó. Biết rõ nhân sanh khởi của thức trú đó: biết rõ nhân sanh khởi của thức trú đó theo cách thức được bắt đầu rằng: “Do sự sanh khởi của vô minh, có sự sanh khởi của sắc”. Biết rõ sự hoại diệt của thức trú đó: Biết rõ sự hoại diệt của thức trú đó theo cách thức bắt đầu rằng: “Do sự diệt của vô minh, có sự diệt tận của sắc.” Sự khoái lạc: Sự hạnh phúc và sự an vui sanh khởi tùy thuộc vào sắc-thọ-tưởng-hành-thức nào, đây là sự khoái lạc của thức, biết rõ sự khoái lạc của thức trú đó như vậy. Sự bất lợi: Sắc-thọ-tưởng-hành-thức nào là vô thường, là khổ đau, có bản chất biến đổi, đây là sự bất lợi của thức, và biết rõ sự bất lợi của thức đó như vậy. Sự thoát ra: Việc loại bỏ mong muốn và luyến ái, sự dứt trừ mong muốn và luyến ái trong sắc-thọ-tưởng-hành-thức nào, đây là sự thoát ra của thức, và biết rõ sự thoát ra của thức trú như vậy. Vậy có thích hợp cho vị ấy…: Vị tỳ khưu ấy thích hợp để thích thú thức trú (nơi tồn tại của thức) ấy ‘là tôi’ ‘là của tôi’ do tác động của tham ái, ngã mạn và tà kiến không? Nên biết ý nghĩa các đoạn kế tiếp theo cách thức này. Hơn nữa, nên biết liên kết sự sanh khởi (samudaya) v.v, ở nơi nào không có sắc, ở nơi đó do tác động của bốn uẩn; ở chỗ nào không có thức, ở nơi đó do tác động của một uẩn. Và ở đây, không nên liên kết đoạn này: ‘Do sự sanh khởi của vật thực, do sự diệt tận của vật thực’.

Yato kho, ānanda, bhikkhūti yadā kho ānanda, bhikkhu. Anupādā vimuttoti catūhi upādānehi aggahetvā vimutto. Paññāvimuttoti paññāya vimutto. Aṭṭha vimokkhe asacchikatvā paññābaleneva nāmakāyassa ca rūpakāyassa ca appavattiṃ katvā vimuttoti attho. So sukkhavipassako ca paṭhamajjhānādīsu aññatarasmiṃ ṭhatvā arahattaṃ patto cāti pañcavidho. Vuttampi cetaṃ — “Katamo ca puggalo paññāvimutto? idhekacco puggalo na heva kho aṭṭha vimokkhe kāyena phusitvā viharati, paññāya cassa disvā āsavā parikkhīṇā honti, ayaṃ vuccati puggalo paññāvimutto”ti.[47]

Này Ānanda, từ lúc vị tỳ khưu…: Này Ānanda, khi nào vị tỳ khưu. Được giải thoát do không chấp thủ: là vị được giải thoát do không nắm lấy bởi bốn thủ. Được giải thoát nhờ vào tuệ: là vị được giải thoát nhở vào tuệ. Giải thích rằng: không tác chứng trong tám giải thoát, rồi làm cho danh thân và sắc thân không vận hành với chính tuệ lực gọi là vị đã được giải thoát. Vị tỳ khưu đã được giải thoát ấy có bốn là bậc chứng ngộ khô khan và đã vững trú trong Sơ thiền v.v, nào đó rồi chứng đắc quả vị A-ra-hán. Và điều này đã được nói rằng – “Thế nào là hạng người giải thoát nhờ vào tuệ? Ở đây có một số hạng người không thể chạm đến tám giải thoát với thân rồi an trú, các lậu hoặc của vị ấy đã được cạn kiệt do đã nhìn thấy nhờ vào tuệ. Hạng người này được gọi là có sự giải thoát nhờ vào tuệ.”

Giảng Giải Về Tám Giải Thoát

  1. Evaṃ ekassa bhikkhuno nigamanañca nāmañca dassetvā itarassa dassetuṃ aṭṭha kho imetiādimāha. Tattha vimokkhoti kenaṭṭhena vimokkho? Adhimuccanaṭṭhena. Ko panāyaṃ adhimuccanaṭṭho nāma? Paccanīkadhammehi ca suṭṭhu muccanaṭṭho, ārammaṇe ca abhirativasena suṭṭhu muccanaṭṭho, pituaṅke vissaṭṭhaṅgapaccaṅgassa dārakassa sayanaṃ viya aniggahitabhāvena nirāsaṅkatāya ārammaṇe pavattīti vuttaṃ hoti. Ayaṃ panattho pacchime vimokkhe natthi, purimesu sabbesu atthi.
  2. Sau khi thuyết giảng phần Nigamanaṃ – Đoạn Kết và tên của một vị tỳ khưu như vậy, để thuyết đối với vị tỳ khưu ngoài ra nên mới nói rằng: “đây là tám giải thoát…” Ở đó, sự giải thoát: sự giải thoát với ý nghĩa ra sao? Với ý nghĩa thoát khỏi. Sự giải thoát này có ý nghĩa thoát khỏi như thế nào? Có ý nghĩa thoát khỏi tốt đẹp từ các Pháp đối nghịch và thoát khỏi tốt đẹp do tác động từ sự thỏa thích nơi đối tượng. Ngài giải thích rằng: sự giải thoát vận hành nơi đối tượng do bởi chấm dứt sự xao động bởi sự không chấp thủ, giống như đứa trẻ thả lỏng các chi phần lớn nhỏ nằm ngủ trong lòng của cha. Hơn nữa, ý nghĩa này không có trong sự giải thoát cuối cùng, tất cả có trong sự giải thoát ban đầu.

Rūpī rūpāni passatīti ettha ajjhattaṃ kesādīsu nīlakasiṇādīsu nīlakasiṇādivasena uppāditaṃ rūpajjhānaṃ rūpaṃ, tadassatthīti rūpī. Bahiddhā rūpāni passatīti bahiddhāpi nīlakasiṇādīni rūpāni jhānacakkhunā passati. Iminā ajjhattabahiddhāvatthukesu kasiṇesu uppāditajjhānassa puggalassa cattāri rūpāvacarajjhānāni dassitāni. Ajjhattaṃ arūpasaññīti ajjhattaṃ na rūpasaññī, attano kesādīsu anuppāditarūpāvacarajjhānoti attho. Iminā bahiddhā parikammaṃ katvā bahiddhāva uppāditajjhānassa puggalassa rūpāvacarajjhānāni dassitāni.

Vị có sắc nhìn thấy các sắc: điều này có ý nghĩa rằng sắc là thiền sắc làm sanh khởi do tác động biến xứ xanh v.v, ở tóc v.v, thuộc nội phần gọi là sắc, gọi là có thiền sắc rūpajhāna bởi có thiền sắc rūpajhāna đó. Nhìn thấy các sắc thuộc ngoại phần: Nhìn thấy sắc có biến xứ xanh v.v, ở bên ngoài với đôi mắt thiền (trí nhãn). Với câu này ngài trình bền bốn tầng thiền Sắc giới đối với hành giả làm cho thiền sanh khởi trong các biến xứ có đối tượng nội phần và cả đối tượng ngoại phần. Vị có sự nhận biết không có sắc thuộc nội phần: có sự nhận biết không có sắc thuộc nội phần, nghĩa là không làm cho thiền Sắc giới sanh khởi trong ba mươi hai biểu hiện ‘có tóc v.v, của tôi’. Với câu này ngài thuyết đến bốn thiền Sắc giới của hạng người đã thực hành ở sát-na chuẩn bị (parikamma) từ đối tượng bên ngoài rồi làm cho thiền sanh khởi từ đối tượng bên ngoài.

Subhantveva adhimutto hotīti iminā suvisuddhesu nīlādīsu vaṇṇakasiṇesu jhānāni dassitāni. Tattha kiñcāpi antoappanāyaṃ subhanti ābhogo natthi, yo pana visuddhaṃ subhaṃ kasiṇamārammaṇaṃ karitvā viharati, so yasmā subhanti adhimutto hotīti vattabbataṃ āpajjati, tasmā evaṃ desanā katā. Paṭisambhidāmagge pana — “kathaṃ subhantveva adhimutto hotīti vimokkho? Idha bhikkhu mettāsahagatena cetasā ekaṃ disaṃ pharitvā viharati … pe … mettāya bhāvitattā sattā appaṭikūlā honti. Karuṇā, muditā, upekkhāsahagatena cetasā ekaṃ disaṃ pharitvā viharati … pe … upekkhāya bhāvitattā sattā appaṭikūlā honti. Evaṃ subhaṃ tveva adhimutto hotīti vimokkho”ti[48] vuttaṃ.

Ngài thuyết về thiền trong vaṇṇakasiṇa (biến xứ về màu sắc) v.v, chẳng hạn như biến xứ xanh v.v, là thanh tịnh với câu này ‘Vị thiên về chỉ mỗi tịnh tướng’. Ở đó, không có sự cột chặt tâm (cho rằng) tịnh tướng trong sự chuyên chú bên trong, vị nào trú vào trạng thái tịnh khiết, đẹp đẽ của đối tượng kasiṇa về màu sắc, vị ấy đạt đến trạng thái thích hợp để nói rằng: “vị thiên về chỉ mỗi tịnh tướng”, vì thế ngài đã thuyết giảng như vậy. Nhưng trong bộ Phân Tích Đạo ngài nói rằng “Vị thiên về chỉ mỗi tịnh tướng là giải thoát (có ý nghĩa) thế nào? Vị tỳ khưu trong Pháp và Luật này có tâm câu hữu với tâm từ lan tỏa một phương rồi an trú … nhờ trạng thái phát triển của tâm từ, chúng sanh không kinh tởm nhau. Có tâm câu hữu với tâm bi, có tâm câu hữu với tâm hỷ, có tâm câu hữu với tâm xả rồi an trú … Nhờ trạng thái phát triển của tâm bi, tâm hỷ và tâm xả, chúng sanh không có kinh tởm nhau. Ngài đã nói ‘Vị thiên về chỉ mỗi tịnh tướng’ là giải thoát (có ý nghĩa) như vậy.

Sabbaso rūpasaññānantiādīsu yaṃ vattabbaṃ, taṃ sabbaṃ visuddhimagge vuttameva. Ayaṃ aṭṭhamo vimokkhoti ayaṃ catunnaṃ khandhānaṃ sabbaso visuddhattā vimuttattā aṭṭhamo uttamo vimokkho nāma.

(Do sự vượt qua hẳn) toàn bộ các tưởng về sắc: Điều nào cần nói, tất cả điều đó đều được nói trong Thanh Tịnh Đạo. Đây là giải thoát thứ 8: đây là giải thoát cao cả thứ 8 do trạng thái bốn uẩn thanh tịnh ở mọi khía canh, do trạng thái đã thoát khỏi.

  1. Anulomanti ādito paṭṭhāya yāva pariyosānā. Paṭilomanti pariyosānato paṭṭhāya yāva ādito. Anulomapaṭilomanti idaṃ atipaguṇattā samāpattīnaṃ aṭṭhatvāva ito cito ca sañcaraṇavasena vuttaṃ. Yatthicchakanti okāsaparidīpanaṃ, yattha yattha okāse icchati. Yadicchakanti samāpattidīpanaṃ, yaṃ yaṃ samāpattiṃ icchati. Yāvaticchakanti addhānaparicchedadīpanaṃ, yāvatakaṃ addhānaṃ icchati. Samāpajjatīti taṃ taṃ samāpattiṃ pavisati. Vuṭṭhātīti tato uṭṭhāya tiṭṭhati.
  2. Theo chiều thuận: bắt đầu từ câu đầu tiên cho đến câu cuối cùng. Theo chiều nghịch: bắt đầu từ câu cuối trở lại câu đầu. Theo chiều thuận và chiều nghịch: Điều này đã được ngài nói do tác động của sự thể nhập không thiết lập chắc chắn do quá quen thuộc mới xoay chỗ này xoay chỗ kia. Bất cứ đâu theo ước muốn: thuyết giảng đến hư không, nghĩa là ước muốn trong bất cứ hư không nào đó. Bất cứ khi nào theo ước muốn: thuyết giảng đến sự thể nhập, nghĩa là ước muốn sự thể nhập nào đó. Kéo dài theo ước muốn: thuyết giảng đến việc xác định quãng đường dài, ước muốn con đường xa đến chừng nào. Thế nhập: đi vào bên trong sự thể nhập đó. Xuất ra: xuất khỏi sự thể nhập đó rồi vững trú.

Ubhatobhāgavimuttoti dvīhi bhāgehi vimutto, arūpasamāpattiyā rūpakāyato vimutto, maggena nāmakāyato vimuttoti. Vuttampi cetaṃ —

“Accī yathā vātavegena khittā, (upasivāti bhagavā)

Atthaṃ paleti na upeti saṅkhaṃ.

Evaṃ munī nāmakāyā vimutto,

Atthaṃ paleti na upeti saṅkhan”ti.[49]

Đã được giải thoát cả hai phần: Đã được giải thoát cả hai phần, là thoát khỏi từ sắc thân (tập hợp các yếu tố thuộc về thân) bằng sự thể nhập vô sắc, thoát khỏi danh thân (tập hợp các yếu tố thuộc về tâm) bằng Đạo. Và điều này đã được nói rằng –

“Đức Thế Tôn thuyết rằng: Này Upasīva, giống như ngọn lửa đã bị dập tắt bởi lực đẩy của ngọn gió thời đi đến sự chấm dứt, không đạt đến danh xưng; tương tự như vậy, vị hiền trí đã được giải thoát khỏi danh thân thời đi đến sự chấm dứt, không đạt đến danh xưng.”

So panesa ubhatobhāgavimutto ākāsānañcāyatanādīsu aññatarato uṭṭhāya arahattaṃ patto ca anāgāmī hutvā nirodhā uṭṭhāya arahattaṃ patto cāti pañcavidho. Keci pana — “yasmā rūpāvacaracatutthajjhānampi duvaṅgikaṃ upekkhāsahagataṃ, arūpāvacarajjhānampi tādisameva. Tasmā rūpāvacaracatutthajjhānato uṭṭhāya arahattaṃ pattopi ubhatobhāgavimutto”ti.

Hơn nữa, vị tỳ khưu này đây đã được giải thoát cả hai phần xuất khỏi Không vô biên xứ v.v, nào đó rồi chứng đắc phẩm vị A-ra-hán; và đã trở thành bậc Thánh Bất Lai xuất khỏi thiền diệt rồi chứng đắc phẩm vị A-ra-hán, gọp lại thành 5 phần. Tuy nhiên, một số vị thầy đã nói rằng –  “Do Tứ thiền Sắc giới cũng câu hành với thọ xả có hai chi thiền, luôn cả thiền Vô sắc cũng như thế tương tự. Do đó, vị tỳ khưu xuất khỏi từ Tứ thiền Sắc giới, dẫu chứng đắc A-ra-hán cũng gọi là đã được giải thoát cả hai phần.

Ayaṃ pana ubhatobhāgavimuttapañho heṭṭhā lohapāsāde samuṭṭhahitvā tipiṭakacūḷasumanattherassa vaṇṇanaṃ nissāya cirena vinicchayaṃ patto. Girivihāre kira therassa antevāsiko ekassa piṇḍapātikassa mukhato taṃ pañhaṃ sutvā āha — “āvuso, heṭṭhālohapāsāde amhākaṃ ācariyassa dhammaṃ vaṇṇayato na kenaci sutapubban”ti. Kiṃ pana, bhante, thero avacāti? Rūpāvacaracatutthajjhānaṃ kiñcāpi duvaṅgikaṃ upekkhāsahagataṃ kilese vikkhambheti, kilesānaṃ pana āsannapakkhe virūhanaṭṭhāne samudācarati. Ime hi kilesā nāma pañcavokārabhave nīlādīsu aññataraṃ ārammaṇaṃ upanissāya samudācaranti, rūpāvacarajjhānañca taṃ ārammaṇaṃ na samatikkamati. Tasmā sabbaso rūpaṃ nivattetvā arūpajjhānavasena kilese vikkhambhetvā arahattaṃ pattova ubhatobhāgavimuttoti, idaṃ āvuso thero avaca. idañca pana vatvā idaṃ suttaṃ āhari — “katamo ca puggalo ubhatobhāgavimutto. idhekacco puggalo aṭṭhavimokkhe kāyena phusitvā viharati, paññāya cassa disvā āsavā parikkhīṇā honti, ayaṃ vuccati puggalo ubhatobhāgavimutto”ti.[50]

Thêm nữa, vấn đề đã được giải thoát cả hai phần này được thiết lập luôn cả ở bên trong tòa lâu đài bằng đồng ý cứ vào sự lý giải của trưởng lão Cūḷasumana, bậc lầu thông Tam Tạng trải qua thời gian dài mới đưa ra quyết định. Có câu chuyện như sau: Ở Girivihāra đệ tử của trưởng lão sau khi lắng nghe vấn đề từ miệng của một vị tỳ khưu thọ trì hạnh đi khất thực đã nói rằng: “Này các hiền giả, trong khi thầy của chúng tôi giảng giải Pháp ở dưới tòa lâu đài bằng đồng mà những ai trước đây chưa từng được nghe.” – Thưa ngài, trưởng lão đã nói như thế nào? – Này hiền giả, trưởng lão đã nói rằng: Tứ thiền Sắc giới câu hành với thọ xả có hai chi thiền chế ngự lại các phiền não, mặc dù như vậy Tứ thiền Sắc giới thời tăng thêm ở vị trí của đối tượng sắc, luôn cả phía xa của các phiền não, do bản chất những phiền não này thường đến y cứ đối tượng ở kasiṇa xanh v.v, nào đó trong cõi năm uẩn thời tăng thêm, và thiền Sắc giới không vượt qua hẳn đối tượng ấy. Vì thế, vị tỳ khưu thay đổi sắc theo các khía cạnh rồi chế ngự các phiền não do mãnh lực thiền Vô sắc rồi mới chứng đắc quả vị A-ra-hán là đã được giải thoát cả hai phần. Trưởng lão sau khi nói lời này đã đem bài Kinh này đến – “Thế nào là hạng người đã được giải thoát cả hai phần? Một số hạng người ở đời này sau khi chạm đến tám giải thoát bằng thân rồi an trú và các lậu hoặc của vị ấy đã được cạn kiệt do đã nhìn thấy nhờ vào tuệ. Hạng người này được gọi là đã được giải thoát cả hai phần.”

Imāya ca ānanda ubhatobhāgavimuttiyāti ānanda ito ubhatobhāgavimuttito. sesaṃ sabbattha uttānamevāti.

Imāya ca ānanda ubhatobhāgavimuttiyā đồng nghĩa với ānanda ito ubhatobhāgavimuttito [và này Ānanda (không có) sự giải thoát cả hai phần nào khác (vượt trội hơn và cao cả hơn) sự giải thoát cả hai phần này.] Từ còn lại ở các đoạn còn lại đơn giản.

Giải Thích Kinh Đại Duyên được kết thúc – Kinh thứ hai (15)

Trong Chú Giải Trường Bộ Kinh là Sumaṅgalavilāsī.

[1] Kurūsūti (Syā, Ka)

[2] Purakkhitvā (Syā, Ka)

[3] Uṭṭhāsi (Syā)

[4] Patito (Syā, Ka)

[5] Catvā (Syā)

[6] a. ni. 4.70

[7] Ussārentopi (Ka)

[8] Mayhaṃ (Ka)

[9] Bahalantena (Syā) Bahalatthena (Ka)

[10] Avajjhaṃ (Ka)

[11] Rājakumārāti (Syā)

[12] Sobhassa (Syā)

[13] saṃ. ni. 3.83

[14] …samosaritā (Ka)

[15] Gambhīro. Evamādayo (Ka)

[16] Uttānako (Syā, Ka)

[17] Uttānakova (Syā, Ka)

[18] Gulāguṇṭhikajātāti (Sī), guṇagaṇṭhikajā tāti (Syā)

[19] Gulāguṇṭhikaṃ (Sī), guṇagaṇṭhikaṃ (Syā)

[20] Gulā nāma (Sī), guṇā nāma (Syā)

[21] Sā ce jāti (?)

[22] Siriṃsapāti (Sī, Syā)

[23] Idaṃ gaṇhatha nanti (Ka)

[24] ma. ni. 3.323

[25] mahāni. 102

[26] dī. ni. 2.358

[27] Vinicchindati (Syā, Ka)

[28] a. ni. 8.83

[29] Saṃvaṇṇiyamānapāṭhoyeva.

[30] Sappaṭighasamphassoti (Ka)

[31] Vokkamanaṃ (Syā)

[32] Hontaṃ (?)

[33] Niyyātavacanaṃ (Syā)

[34] Byaggā meti vi-aggoti byaggā (Ka)

[35] Aniccaṃ sukhaṃ dukkhaṃ vokiṇṇanti (Syā)

[36] Na kho panesa (?)

[37] a. ni. 10.61

[38] a. ni. 10.62

[39] Na aññe dhamme (Syā)

[40] Dassitā (Syā, Ka)

[41] dī. ni. 3.311

[42] saṃ. ni. 2.40

[43] Punabbasumātā (Saṃ 1. 212 piṭṭhe)

[44] ma. ni. 1.160

[45] paṭi. ma. 1.49

[46] saṃ. ni. 2.26

[47] pu. pa. 15

[48] paṭi. ma. 1.212

[49] su. ni. 1080

[50]  pu. pa. 24