Giải Thích Kinh Đại Bổn
(Mahāpadānasuttavaṇṇanā)Xem Trường Bộ Kinh – Kinh Ðại bổn
Sumaṃgalavilāsinī – Giảng Giải Kinh Trường Bộ
Mahādhavagga – Đại Phẩm
Kính đảnh lễ đức Thế Tôn, bậc A-ra-hán, đấng Chánh đẳng Chánh giác
Pháp Thoại Liên Quan Đến Các Kiếp Sống Quá Khứ
1. Evaṃ me sutaṃ … pe … karerikuṭikāyanti mahāpadānasuttaṃ. tatrāyaṃ apubbapadavaṇṇanā — Karerikuṭikāyanti karerīti varuṇarukkhassa nāmaṃ, karerimaṇḍapo tassā kuṭikāya dvāre ṭhito, tasmā “karerikuṭikā”ti vuccati, yathā kosambarukkhassa dvāre ṭhitattā “kosambakuṭikā”ti. Antojetavane kira karerikuṭi kosambakuṭi gandhakuṭi salaḷāgāranti[1] cattāri mahāgehāni, ekekaṃ satasahassapariccāgena nipphannaṃ. Tesu salaḷāgāraṃ raññā pasenadinā kāritaṃ, sesāni anāthapiṇḍikena kāritāni. Iti bhagavā anāthapiṇḍikena gahapatinā thambhānaṃ upari kāritāya devavimānakappāya karerikuṭikāyaṃ viharati. Pacchābhattanti ekāsanikakhalupacchābhattikānaṃ pātova bhuttānaṃ antomajjhanhikepi[2] pacchābhattameva. Idha pana pakatibhattassa pacchato “pacchābhattan”ti adhippetaṃ. Piṇḍapātapaṭikkantānanti piṇḍapātato paṭikkantānaṃ, bhattakiccaṃ niṭṭhapetvā uṭṭhitānanti attho.
1. Bài Kinh Đại Bổn bắt đầu như sau ‘Tôi đã nghe như vầy: Một thời, đức Thế Tôn trú trong tịnh thất Kareri ở Jetavana, nơi tu viện của ông Anāthapiṇḍika, tại thành Sāvatthī.’ Ở đây, bài Kinh này được giải thích theo tuần tự như sau – Kareti trong cụm từ ‘tịnh thất Kareri’ tên gọi của cây Varuṇa, cây Kareri bao quanh mọc ở gần của ra vào của tịnh thất đó, vì thế ngài mới gọi là “tịnh thất Kareri”, giống như ngài gọi là tịnh thất Kosamba bởi vì có cây Kosamba mọc ở gần cửa ra vào. Kể rằng ở bên trong tu viện Jetavana có bốn tịnh thất lớn là tịnh thất Kareri, tịnh thất Kosamba, tịnh thất Gandha, Salaḷāgāra, mỗi một tịnh thất được hoàn thành với sự dứt bỏ tài sản một trăm ngàn cho mỗi tịnh thất. Trong bốn tịnh thất đó thì đức vua Pasenadi đã kiến tạo Salaḷāgāra, ba tịnh thất còn lại đều do trưởng giả Anāthapiṇḍika kiến tạo. Vì thế, đức Thế Tôn an trú trong tịnh thất Kareri đã được trưởng giả Anāthapiṇḍika cho xây dựng ở trên một cột trụ tựa như Thiên Cung. Thời gian sau bữa ăn: khi vị tỳ khưu thọ dụng vật thực chỉ một bữa và không thọ dụng vật thực sau bữa ăn, (vị ấy) thọ dụng vật thực từ sớm, dù thọ dụng vật thực trong lúc giữa trưa cũng được gọi là sau bữa ăn (thời điểm tỳ khưu không được phép thọ thực cho đến sáng hôm sau). Nhưng trong trường hợp này ngài muốn nói đến sau bữa ăn thông thường. Sau khi đi khất thực trở về: Có nghĩa là vị tỳ khưu sau khi đi khất thực trở về, đã hoàn tất bữa ăn, và đã đứng dậy.
Karerimaṇḍalamāḷeti tasseva karerimaṇḍapassa avidūre katāya nisīdanasālāya. so kira karerimaṇḍapo gandhakuṭikāya ca sālāya ca antare hoti, tasmā gandhakuṭīpi karerikuṭikāpi sālāpi — “karerimaṇḍalamāḷo”ti vuccati. Pubbenivāsapaṭisaṃyuttāti “ekampi jātiṃ, dvepi jātiyo”ti evaṃ vibhattena pubbenivutthakkhandhasantānasaṅkhātena pubbenivāsena saddhiṃ yojetvā pavattitā. Dhammīti dhammasaṃyuttā.
Gian nhà tròn gần cây Kareri: Ở tọa đường được xây dựng không xa gian nhà tròn gần cây Kareri. Kể rằng gian nhà tròn gần cây Kareri ấy ở giữa tịnh thất Gandha và phòng hội họp, do đó, tịnh thất Gandha, (hay) tịnh thất Kareri, (hay) phòng hội họp – được gọi là “gian nhà tròn Kareri”. Pháp thoại liên quan đến các kiếp sống quá khứ: Có cuộc pháp thoại liên quan đến các kiếp sống quá khứ được xem là sự tiếp nối của các uẩn y cứ vào các kiếp sống trước được phân tích ra như vầy là một kiếp, hai kiếp đã vận hành. Pháp thoại: liên quan đến pháp.
Udapādīti aho acchariyaṃ dasabalassa pubbenivāsañāṇaṃ, pubbenivāsaṃ nāma ke anussaranti, ke nānussarantīti. Titthiyā anussaranti, sāvakā ca paccekabuddhā ca buddhā ca anussaranti. Kataratitthiyā anussaranti? Ye aggappattakammavādino, tepi cattālīsaṃyeva kappe anussaranti, na tato paraṃ. Sāvakā kappasatasahassaṃ anussaranti. Dve aggasāvakā asaṅkhyeyyañceva kappasatasahassañca. Paccekabuddhā dve asaṅkhyeyyāni kappasatasahassañca. Buddhānaṃ pana ettakanti paricchedo natthi, yāvatakaṃ ākaṅkhanti, tāvatakaṃ anussaranti.
Đã khởi lên: Các kiếp sống quá khứ của đấng Thập Lực thật là kỳ diệu, gọi các kiếp sống quá khứ thì ai là người nhớ được, ai là người không nhớ được. Ngoại đạo sư nhớ được (các kiếp sống quá khứ); bậc Thinh-văn đệ tử, chư Phật-độc-giác, chư Phật nhớ được (các kiếp sống quá khứ). Ngoại đạo sư nào đã đạt đến trạng thái tối thắng là chủ trương về nghiệp (có chứng thiền), cả những ngoại đạo sư ấy cũng chỉ nhớ lại được bốn mươi kiếp, không thể hơn. Bậc Thinh-văn đệ tử (có thể) nhớ lại được một trăm ngàn kiếp. Nhị vị Tối-thượng Thinh-văn (có thể) nhớ lại được một a-tăng-kỳ và một trăm ngàn kiếp. Phật-độc-giác (có thể) nhớ lại được hai a-tăng-kỳ và một trăm ngàn kiếp. Còn chư Phật (Chánh đẳng Chánh giác) thì không có giới hạn chừng này chừng này, ngài muốn nhớ lại chừng nào thì nhớ lại chừng ấy.
Titthiyā khandhapaṭipāṭiyā anussaranti, paṭipāṭiṃ muñcitvā na sakkonti, paṭipāṭiyā anussarantāpi asaññabhavaṃ patvā khandhappavattiṃ na passanti, jāle patitā kuṇṭhā[3] viya, kūpe patitā paṅguḷā viya ca honti, te tattha ṭhatvā “ettakameva, ito paraṃ natthī”ti diṭṭhiṃ gaṇhanti. Iti titthiyānaṃ pubbenivāsānussaraṇaṃ andhānaṃ yaṭṭhikoṭigamanaṃ viya hoti. Yathā hi andhā yaṭṭhikoṭiggāhake satiyeva gacchanti, asati tattheva nisīdanti, evameva titthiyā khandhapaṭipāṭiyāva anussarituṃ sakkonti, paṭipāṭiṃ vissajjetvā na sakkonti.
Các ngoại đạo sư nhớ lại được theo thứ tự các uẩn, khi đã vượt ngoài thứ tự thì không thể nhớ lại được, mặc dù nhớ lại được theo thứ tự cũng đạt đến bản thể người không có sự nhận biết, không nhìn thấy sự vận hành của uẩn, cũng giống như con chim bị rơi vào bẫy lưới, giống như người khuyết tật bị rơi cái hố, họ đã rơi vào chỗ ấy “thấy rằng chỉ có chừng này, nhiều hơn thế là không có”. Vì lý do đó, việc nhớ lại các kiếp sống quá khứ của các ngoại đạo sư giống như người mù bước đi nhờ vào đầu cây gậy. Thông thường người mù khi có người nắm lấy đầu gậy thì bước đi được, nhưng khi không có thì lại ngồi ở chính nơi ấy, các ngoại đạo sư cũng tương tự y như thế, họ có thể nhớ lại được theo thứ tự các uẩn, sau khi xuất khỏi thứ tự thì không thể.
Sāvakāpi khandhapaṭipāṭiyāva anussaranti, asaññabhavaṃ patvā khandhappavattiṃ na passanti. Evaṃ santepi te vaṭṭe saṃsaraṇakasattānaṃ khandhānaṃ abhāvakālo nāma natthi. asaññabhave pana pañcakappasatāni pavattantīti tattakaṃ kālaṃ atikkamitvā buddhehi dinnanaye ṭhatvā parato anussaranti; seyyathāpi āyasmā sobhito. Dve aggasāvakā pana paccekabuddhā ca cutipaṭisandhiṃ oloketvā anussaranti. Buddhānaṃ cutipaṭisandhikiccaṃ natthi, yaṃ yaṃ ṭhānaṃ passitukāmā honti, taṃ tadeva passanti.
Luôn cả chư Thánh Thinh-văn đệ tử cũng nhớ lại được theo thứ tự các uẩn, khi đã đạt đến bản thể người không có nhận biết (sẽ) không thấy được sự vận hành của uẩn. Trong khi là như vậy thì gọi là thời gian mà không có các uẩn của chúng sanh luân chuyển trong vòng luân hồi ấy hẳn không có, nhưng ở cõi Vô Tưởng lại vận hành đến năm trăm kiếp, vì thế tất cả chúng sanh đã vượt qua khoảng thời gian chừng ấy, an trú vào lời chỉ bảo của chư Phật đã ban cho nhớ lại được các kiếp sống trước; giống như ngài Sobhita. Hơn nữa, nhị vị Tối-thượng Thinh-văn và chư Phật-độc-giác quan sát sự tử và sự tái tục thì nhớ lại được. Phận sự là sự tử và sự tái tục của chư Phật (Chánh đẳng Chánh giác) không có, chư Phật muốn thấy vị trí-ṭhāna nào thì thấy vị trí-ṭhāna ấy ngay lập tức.
Titthiyā ca pubbenivāsaṃ anussaramānā attanā diṭṭhakatasutameva anussaranti. tathā sāvakā ca paccekabuddhā ca. buddhā pana attanā vā parehi vā diṭṭhakatasutaṃ sabbameva anussaranti.
Và các ngoại đạo sư khi nhớ đến các kiếp sống quá khứ (có thể) nhớ lại những điều bản thân đã thấy, đã làm, đã nghe. Chư Thánh Thinh-văn đệ tử và chư Phật-độc-giác cũng tương tự như thế, Còn đức Phật (Chánh đẳng Chánh giác) nhớ lại được tất cả những điều mà ngài hoặc người khác đã thấy, đã làm, đã nghe.
Titthiyānaṃ pubbenivāsañāṇaṃ khajjopanaka- obhāsasadisaṃ[4], sāvakānaṃ padīpobhāsasadisaṃ, aggasāvakānaṃ osadhitārakobhāsasadisaṃ, paccekabuddhānaṃ candobhāsasadisaṃ, buddhānaṃ sarada[5]sūriyamaṇḍalobhāsasadisaṃ. Tassa ettakāni jātisatāni jātisahassāni jātisatasahassānīti vā ettakāni kappasatāni kappasahassāni kappasatasahassānīti vā natthi, yaṃ kiñci anussarantassa neva khalitaṃ, na paṭighātaṃ hoti, āvajjanapaṭibaddhameva ākaṅkhamanasikāracittuppādapaṭibaddhameva hoti. Dubbalapattapuṭe vegakkhittanārāco viya, sinerukūṭe vissaṭṭhaindavajiraṃ viya ca asajjamānameva gacchati. “Aho mahantaṃ bhagavato pubbenivāsañāṇan”ti evaṃ bhagavantaṃyeva ārabbha kathā uppannā, jātā pavattāti attho. Taṃ sabbampi saṅkhepato dassetuṃ “itipi pubbenivāso, itipi pubvenivāso”ti ettakameva pāḷiyaṃ vuttaṃ. Tattha itipīti evampi.
Trí nhớ lại các kiếp sống quá khứ của nhóm đạo sư tựa như ánh sáng con đom đóm, của chư Thánh Thinh-văn đệ tử tựa như ánh sáng ngọn đèn, của nhị vị Tối-thượng Thinh-văn tựa như ánh sáng ngôi sao Mai, của chư Phật-độc-giác tựa như ánh sáng mặt trăng, của chư Phật (Chánh đẳng Chánh giác) tựa như ánh sáng hàng ngàn vòng tròn mặt trời. Đức Phật ấy không có giới hạn chừng này rằng: một trăm kiếp sống, một ngàn kiếp sống, một trăm ngàn kiếp sống hoặc trăm đại kiếp, ngàn đại kiếp, trăm ngàn đại kiếp, khi đức Phật nhớ đến bất cứ một điều gì thì (điều đó) không sai lệch, không bị xung đột, sự ghi nhớ liên tục là chính do sự tiếp nối bởi sự mong muốn, sự suy xét và sự sanh khởi của tâm ấy, trí nhớ lại các kiếp sống quá khứ trôi đi không đứt quãng như thể mũi tên bay lướt qua tức khắc trong đóng lá mục và như thần Indavajira lật đổ đỉnh núi Sineru. Cuộc đàm luận đã khởi lên liên quan đến đức Thế Tôn như vầy rằng “Ôi, trí về các kiếp sống quá khứ của đức Thế Tôn thật vĩ đại!”, tức là đã được vận hành. Để thuyết giảng toàn bộ nội dung ấy một cách vắn tắt ngài mới nói trong Pāḷī chỉ bấy nhiêu – “Kiếp sống quá khứ là như thế! Kiếp sống quá khứ là như thế!” Trong câu đó, ‘itipi’ được dịch là ‘là như thế’.
2-3. Assosi kho … pe … atha bhagavā anuppattoti ettha yaṃ vattabbaṃ, taṃ brahmajālasuttavaṇṇanāyaṃ[6] vuttameva. Ayameva hi viseso — tattha sabbaññutaññāṇena assosi, idha dibbasotena. Tattha ca vaṇṇāvaṇṇakathā vippakatā, idha pubbenivāsakathā. Tasmā bhagavā — “Ime bhikkhū mama pubbenivāsañāṇaṃ ārabbha guṇaṃ thomenti, pubbenivāsañāṇassa pana me nipphattiṃ na jānanti; handa nesaṃ tassa nipphattiṃ kathetvā dassāmī”ti āgantvā pakatiyāpi buddhānaṃ nisīditvā dhammadesanatthameva ṭhapite taṅkhaṇe bhikkhūhi papphoṭetvā dinne varabuddhāsane nisīditvā “kāya nuttha, bhikkhave”ti pucchāya ca “idha, bhante”tiādipaṭivacanassa ca pariyosāne tesaṃ pubbenivāsapaṭisaṃyuttaṃ dhammiṃ kathaṃ[7] kathetukāmo iccheyyātha notiādimāha. Tattha iccheyyātha noti iccheyyātha nu. Atha naṃ pahaṭṭhamānasā bhikkhū yācamānā etassa bhagavātiādimāhaṃsu. Tattha etassāti etassa dhammikathākaraṇassa.
2-3. Ý nghĩa nào đáng được nói ở trong Pāḷī này: “Đức Thế Tôn đã nghe được cuộc đàm thoại …nt… khi ấy đức Thế Tôn đi đến” ngài đã nói rồi trong Chú-giải bài Kinh Phạm Võng, thật vậy đây chính là sự khác biệt – trong bái kinh đó (Kinh Phạm Võng) đức Thế Tôn đã nghe bằng bằng Toàn-giác-trí, còn trong bài Kinh này ngài đã nghe bằng Thiên nhĩ.” Và ở trong bài Kinh ấy cuộc đàm luận về ‘sự ca ngợi và sự khiển trách’ còn dở dang, trong bài Kinh này đàm luận về ‘trí về các kiếp sống quá khứ’. Vì thế, đức Thế Tôn nghĩ rằng: “Các tỳ khưu này ca ngợi về ân đức liên quan đến trí về các kiếp sống quá khứ của ta, nhưng không biết sự thành tựu của trí về các kiếp sống của ta; vậy thì ta sẽ nói đến sự thành tựu của trí về các kiếp sống quá khứ ấy rồi thuyết giảng cho các vị ấy” nên đã đi đến ngồi xuống ở Phật tọa cao quý theo thường lệ đã được sửa soạn sẵn vào lúc ấy chư tỳ khưu đã trải tấm trải cúng dường để đức Phật ngồi thuyết giảng Giáo Pháp, ngài có ý định thuyết giảng Pháp thoại liên quan đến trí về các kiếp sống quá khứ cho các vị tỳ khưu ấy, cuối cùng của câu hỏi rằng: “Này các tỳ khưu, vào lúc này các ngươi ngồi với nhau ở đây vì câu chuyện gì vậy?…” và câu trả lời bắt đầu rằng: “Bạch Ngài, ở đây, sau bữa ăn, khi đã đi khất thực trở về, chúng con đã ngồi lại tụ hội với nhau ở gian nhà tròn gần tàn cây Kareri, có cuộc pháp thoại liên quan đến các kiếp sống quá khứ đã khởi lên giữa chúng con: ‘Kiếp sống quá khứ là như thế! Kiếp sống quá khứ là như thế!’” – Ngài mới nói rằng: “Này các tỳ khưu, các ngươi có muốn nghe Pháp thoại liên quan đến các kiếp sống quá khứ không?” Ở đó, các ngươi có muốn nghe…không?: các ông có muốn nghe (Pháp thoại liên quan đến các kiếp sống quá khứ) không? Sau đó, các vị tỳ khưu có tâm hân hoan, trong khi thỉnh cầu đức Thế Tôn mới đáp rằng: “Bạch đức Thế Tôn đã đến thời mà ngài thực hiện Pháp thoại này…” Trong những lời ấy ‘Pháp thoại liên quan đến các kiếp sống quá khứ’ là việc thực hiện Pháp thoại này.
- Atha bhagavā tesaṃ yācanaṃ gahetvā kathetukāmo “tena hi, bhikkhave, suṇāthā”ti te sotāvadhāraṇasādhukamanasikāresu niyojetvā aññesaṃ asādhāraṇaṃ chinnavaṭumakānussaraṇaṃ pakāsetukāmo ito so, bhikkhavetiādimāha. Tattha yaṃ vipassīti yasmiṃ kappe vipassī. Ayañhi ‘yan’ti saddo “yaṃ me, bhante, devānaṃ tāvatiṃsānaṃ sammukhā sutaṃ sammukhā paṭiggahitaṃ, ārocemi taṃ, bhagavato”tiādīsu[8] paccattavacane dissati. “Yaṃ taṃ apucchimha akittayī no, aññaṃ taṃ pucchāma tadiṅgha brūhī”tiādīsu[9] upayogavacane. “aṭṭhānametaṃ, bhikkhave, anavakāso, yaṃ ekissā lokadhātuyā”tiādīsu[10] karaṇavacane. Idha pana bhummattheti daṭṭhabbo. Tena vuttaṃ — “yasmiṃ kappe”ti. Udapādīti dasasahassilokadhātuṃ unnādento uppajji.
- Sau đó, đức Thế Tôn đã nhận lời thỉnh cầu của các vị tỳ khưu ấy, có ý định thuyết giảng đã khích lệ các vị ấy trong việc lóng tái lắng nghe và chú tâm lắng nghe một cách khéo léo với kim ngôn rằng: “Vậy thì, này các tỳ khưu, các ngươi hãy lắng nghe…” ngài có ý định tuyên thuyết về sự nhớ lại con đường đã bị cắt đứt không phổ biến cùng người khác mới thuyết rằng: “Này các tỳ khưu, trước đây…” Trong câu đó, đức Thế Tôn, bậc A-ra-hán, đấng Chánh Ðẳng Giác Vipassī: đức Thế Tôn Vipassī ở trong kiếp đó. Thật vậy, ‘yaṃ’ này được sử dụng làm ‘Chủ Cách’ trong câu sau: “Bạch Ngài, hãy để con thuật lại với đức Thế Tôn về điều đã được nghe trực tiếp, đã được tiếp thu trực tiếp từ chư Thiên cõi Đạo Lợi.” Sử dụng làm ‘Đối Cách’ trong câu sau: “Ngài Akittayi, điều nào mà chúng tôi đã hỏi ngài (ngài đã trả lời chúng tôi). Chúng tôi xin hỏi ngài điều khác. Xin ngài hãy nói về điều ấy cho chúng tôi.” Sử dụng làm “Sở Dụng Cách” trong câu sau: “Này các tỳ khưu, điều này là không hợp lý và không có cơ sở, là việc hai bậc A-ra-hán, Chánh đẳng Chánh giác có thể sanh lên trong một thế giới không trước không sau, sự kiện này không được biết đến.” Nhưng trong trường hợp này nên biết rằng sử dụng làm “Định Sở Cách”. Vì thế, ngài mới nói rằng – “Trong kiếp Bhadda”. Đã hiện khởi: đã xuất hiện làm cho mười ngàn thế giới vang dội.
Bhaddakappeti pañcabuddhuppādapaṭimaṇḍitattā sundarakappe sārakappeti bhagavā imaṃ kappaṃ thomento evamāha. Yato paṭṭhāya kira amhākaṃ bhagavatā abhinīhāro kato, etasmiṃ antare ekakappepi pañca buddhā nibbattā nāma natthi. amhākaṃ bhagavato abhinīhārassa purato pana taṇhaṅkaro, medhaṅkaro, saraṇaṅkaro, dīpaṅkaroti cattāro buddhā ekasmiṃ kappe nibbattiṃsu. Tesaṃ orabhāge ekaṃ asaṅkhyeyyaṃ buddhasuññameva ahosi.
Trong kiếp Bhadda: trong kiếp Sundara là trong kiếp Sāra bởi vì có 5 vị Phật xuất hiện. Đức Thế Tôn trong khi nói lời tán thán kiếp này đã nói như vậy. Như đã biết kể từ khi đức Thế Tôn của chúng ta đã thực hiện hành động hướng thượng không chỉ trong một kiếp (mà) trong khoảng thời gian ấy năm vị Phật đã xuất hiện, hơn nữa trước đây hành động tối thượng của đức Thế Tôn của chúng ta, bốn vị Phật là đức Phật Taṇhaṅkara, đức Phật Medhaṅkara, đức Phật Saraṇaṅkara, và đức Phật Dīpaṅkara đã xuất hiện trong cùng một kiếp. Trên những vị Phật ấy thì trống rỗng (không có) vị Phật nào nữa cho đến một a-tăng-kỳ.
Asaṅkhyeyyakappapariyosāne pana koṇḍañño nāma buddho ekova ekasmiṃ kappe uppanno. Tatopi asaṅkhyeyyaṃ buddhasuññameva ahosi. asaṅkhyeyyakappapariyosāne maṅgalo, sumano, revato, sobhitoti cattāro buddhā ekasmiṃ kappe uppannā. Tatopi asaṅkhyeyyaṃ buddhasuññameva ahosi. Asaṅkhyeyyakappapariyosāne pana ito kappasatasahassādhikassa asaṅkhyeyyassa upari anomadassī, padumo, nāradoti tayo buddhā ekasmiṃ kappe uppannā. Tatopi asaṅkhyeyyaṃ buddhasuññameva ahosi. Asaṅkhyeyyakappapariyosāne pana ito kappasatasahassānaṃ upari padumuttaro bhagavā ekova ekasmiṃ kappe uppanno. Tassa orabhāge ito tiṃsakappasahassānaṃ upari sumedho, sujātoti dve buddhā ekasmiṃ kappe uppannā. Tato orabhāge ito aṭṭhārasannaṃ kappasahassānaṃ upari piyadassī, atthadassī, dhammadassīti tayo buddhā ekasmiṃ kappe uppannā. Atha ito catunavutikappe siddhattho nāma buddho ekova ekasmiṃ kappe uppanno. Ito dve navutikappe tisso, phussoti dve buddhā ekasmiṃ kappe uppannā. Ito ekanavutikappe vipassī bhagavā uppanno. Ito ekatiṃse kappe sikhī, vessabhūti dve buddhā uppannā. Imasmiṃ bhaddakappe kakusandho, koṇāgamano, kassapo, gotamo amhākaṃ sammāsambuddhoti cattāro buddhā uppannā, metteyyo uppajjissati. Evamayaṃ kappo pañcabuddhuppādapaṭimaṇḍitattā sundarakappo sārakappoti bhagavā imaṃ kappaṃ thomento evamāha.
Hơn nữa, đến khi chấm dứt a-tăng-kỳ kiếp đức Phật hồng danh Koṇḍañño, chỉ một mình ngài đã xuất hiện trong một kiếp. Kể từ đó thêm một a-tăng-kỳ cũng trống rỗng (không có) vị Phật nào nữa. Thêm nữa, đến khi chấm dứt a-tăng-kỳ kiếp có bốn vị Phật là đức Phật Maṅgala, đức Phật Sumana, đức Phật Revata, đức Phật Sobhita đã xuất hiện trong cùng một kiếp. Kể từ đó thêm một a-tăng-kỳ cũng trống rỗng (không có) vị Phật nào nữa; Đến khi chấm dứt a-tăng-kỳ kiếp thêm một a-tăng-kỳ kiếp (và) với một trăm ngàn kiếp thì ba vị Phật là đức Phật Anomadassī, đức Phật Paduma, đức Phật Nārada đã xuất hiện trong cùng một kiếp; Kể từ đó thêm một a-tăng-kỳ cũng trống rỗng (không có) vị Phật nào nữa; Lại nữa, đến khi chấm dứt a-tăng-kỳ kiếp thêm một trăm ngàn kiếp đức Thế Tôn hồng danh Padumuttara, trong một kiếp chỉ có một mình ngài đã xuất hiện. Từ đó thêm ba mươi ngàn kiếp có hai vị Phật là đức Phật Sumedho, đức Phật Sujāta đã xuất hiện trong cùng một kiếp. Trong phần trên kể từ đó trở đi thêm mười tám ngàn kiếp có ba vị Phật là đức Phật Piyadassī, đức Phật Atthadassī, đức Phật Dhammadassī đã xuất hiện trong cùng một kiếp. Từ đó trở đi chín mươi bốn kiếp có đức Phật hồng danh Siddhattha đã xuất hiện trong một kiếp. Từ đó chín mươi hai kiếp có hai vị Phật là đức Phật Tissa, đức Phật Phussa đã xuất hiện trong cùng một kiếp. Từ đó chín mươi mốt kiếp đức Thế Tôn hồng danh Vipassī đã xuất hiện. Từ đó, ba mươi mốt kiếp có hai vị Phật là đức Phật Sikhī, đức Phật Vessabhū đã xuất hiện. Trong kiếp Bhadda có bốn vị Phật đã xuất hiện là đức Phật Kakusandha, đức Phật Koṇāgamana, đức Phật Kassapa, và đấng Chánh đẳng Chánh giác Gotama của chúng ta, vị thứ năm là đức Phật Meteyya sẽ sanh lên vào thời vị lai. Kiếp này là kiếp Sundara, là kiếp Sāra bởi vì có năm vị Phật (đã và sẽ) xuất hiện là như thế, đức Thế Tôn khi tán thán kiếp này mới thuyết như vậy.
Kiṃ panetaṃ buddhānaṃyeva pākaṭaṃ hoti — “Imasmiṃ kappe ettakā buddhā uppannā vā uppajjissantīti vā”ti, udāhu aññesampi pākaṭaṃ hotīti? Aññesampi pākaṭaṃ hoti. Kesaṃ? Suddhāvāsabrahmānaṃ. Kappasaṇṭhānakālasmiñhi ekamasaṅkhyeyyaṃ ekaṅgaṇaṃ hutvā ṭhite lokasannivāse lokassa saṇṭhānatthāya devo vassituṃ ārabhati. āditova antaraṭṭhake himapāto viya hoti. Tato tilamattā kaṇamattā taṇḍulamattā mugga-māsa-badara-āmalaka-eḷāluka-kumbhaṇḍa-alābumattā udakadhārā hutvā anukkamena usabhadve- usabha- aḍḍhagāvuta- gāvutadve- gāvutāḍḍha- yojanayojanadviyojana … pe … yojanasata- yojanasahassa- yojanasatasahassamattā hutvā koṭisatasahassacakkavāḷabbhantare yāva avinaṭṭhabrahmalokā[11] pūretvā tiṭṭhanti. Atha taṃ udakaṃ anupubbena bhassati, bhassante udake pakatidevalokaṭṭhānesu devalokā saṇṭhahanti[12], tesaṃ saṇṭhahanavidhānaṃ visuddhimagge pubbenivāsakathāyaṃ vuttameva.
(Vấn) – “Điều đức phật nói chỉ chừng ấy, đã xuất hiện hoặc sẽ xuất hiện trong kiếp này” vậy điều này chỉ hiện khởi nơi chư Phật thôi hay cũng hiện hữu ở người khác? (Đáp) – Là hiện hữu luôn cả ở người khác. (Vấn) – Cùng ai? (Đáp) – Cùng Phạm Thiên ở cõi Tịnh Cư. Thật vậy, trong thời gian duy trì của kiếp khi sự an trú thế giới suốt một a-tăng-kỳ, cơn mưa bắt đầu rơi xuống để giữ cho thế giới được tồn tại, như thể vào tám đêm lạnh lẽo của mùa đông có tuyết rơi ngay từ ban đầu. Từ đó, là có kích thước của hạt cám gạo, có kích thước của hạt mè, có kích thước của hạt gạo bể đôi, có kích thước của hạt đậu xanh, có kích thước của hạt đậu xanh, có kích thước của hạt đậu māsa, quả táo, quả me rừng, quả dưa chuột, quả bí xanh, quả bầu, trở thành dòng nước phun lên xinh đẹp có kích thước theo tuần tự một usabha, hai usabha, nửa gāvuta, nửa do-tuần, một do-tuần, hai do-tuần, mười do-tuần, …nt… một trăm ngàn do-tuần được thiết lập đầy đủ ở giữa một trăm ngàn thế giới cho đến thế giới Phạm Thiên Sắc Cứu Cánh. Sau đó, dòng nước ấy rơi xuống theo thứ tự, trong khi rơi xuống thế giới chư Thiên được giữ lại ở thế giới chư Thiên như bình thường. Tiến trình kiến tạo thế giới chư Thiên ấy ngài đã nói ở phần Pubbenivāsa-kathā trong Thanh Tịnh Đạo.
Manussalokasaṇṭhahanaṭṭhānaṃ[13] pana patte udake dhamakaraṇamukhe pihite viya vātavasena taṃ udakaṃ santiṭṭhati, udakapiṭṭhe uppalinipaṇṇaṃ viya pathavī saṇṭhahati. Mahābodhipallaṅko vinassamāne loke pacchā vinassati, saṇṭhahamāne paṭhamaṃ saṇṭhahati. Tattha pubbanimittaṃ hutvā eko paduminigaccho uppajjati, tassa sace tasmiṃ kappe buddho nibbattissati, pupphaṃ uppajjati. No ce, nuppajjati. uppajjamānañca sace eko buddho nibbattissati, ekaṃ uppajjati. sace dve, tayo, cattāro, pañca buddhā nibbattissanti, pañca uppajjanti. Tāni ca kho ekasmiṃyeva nāḷe kaṇṇikābaddhāni hutvā. Suddhāvāsabrahmāno “āyāma, mayaṃ mārisā, pubbanimittaṃ passissāmā”ti mahābodhipallaṅkaṭṭhānaṃ āgacchanti, buddhānaṃ anibbattanakappe pupphaṃ na hoti. Te pana apupphitagacchaṃ disvā — “andhakāro vata bho loko bhavissati, matā matā[14] sattā apāye pūressanti, cha devalokā nava brahmalokā suññā bhavissantī”ti anattamanā honti. Pupphitakāle pana pupphaṃ disvā — “sabbaññubodhisattesu mātukucchiṃ okkamantesu nikkhamantesu sambujjhantesu dhammacakkaṃ pavattentesu yamakapāṭihāriyaṃ karontesu devorohanaṃ karontesu āyusaṅkhāraṃ ossajjantesu parinibbāyantesu dasasahassacakkavāḷakampanādīni pāṭihāriyāni dakkhissāmā”ti ca “cattāro apāyā parihāyissanti, cha devalokā nava brahmalokā paripūressantī”ti ca attamanā udānaṃ udānentā attano attano brahmalokaṃ gacchanti. Imasmiṃ bhaddakappe pañca padumāni uppajjiṃsu. tesaṃ nimittānaṃ ānubhāvena cattāro buddhā uppannā, pañcamo uppajjissati. suddhāvāsabrahmānopi tāni padumāni disvā imamatthaṃ jāniṃsu. Tena vuttaṃ — “aññesampi pākaṭaṃ hotī”ti.
Hơn nữa, vị trí ở thế giới loài người giống như khi nước chảy vào rồi đậy miệng óng lọc nước lại, thì nước ấy cũng tồn tại được do tác động của gió. Quả địa cầu vững trú được giống như lá sen nằm ở phía sau nước. Bảo tọa đại thọ Bồ-đề khi thế giới hoại diệt thì (bảo tọa) sẽ hoại diệt sau đó, khi thế giới được trụ vững thì (bảo tọa) cũng được trụ vững trước. Ở tại bảo tọa Bồ-đề ấy có một bụi hoa sen mọc lên là điềm báo trước. Nếu như trong kiếp ấy của bảo tọa Bồ-đề (mà) đức Phật sẽ xuất hiện thì hoa sen (sẽ) nở, nếu không thì hoa (sẽ) không nở. Hơn nữa, khi hoa sen nở nếu như có một vị Phật xuất hiện thì hoa sen cũng chỉ một bông duy nhất. Nếu như có hai vị Phật, ba vị Phật, bốn vị Phật, năm vị Phật xuất hiện thì hoa sen sẽ nở năm bông. Thêm nữa, những hoa sen ấy là những bông hoa được bó dính vào nhau trong cùng một cuống hoa. Các vị Phạm Thiên cõi Tịnh Cư (nói với nhau) rằng: “Này các ngài, chúng ta hãy đi sẽ thấy được điềm báo trước” rồi cùng nhau đi đến bảo toạ đại thọ Bồ-đề, trong kiếp các vị Phật không xuất hiện thì hoa sen cũng không có. Hơn nữa, khi nhìn thấy bụi hoa sen không có hoa đã khởi lên sự buồn rầu rằng: “Này các ngài, quả thật thế giới này sẽ (trở nên) tâm tối, tất cả chúng sanh bị sự tối tâm chế ngự sẽ đầy rẫy ở địa ngục, sáu cõi trời (Dục giới), chín cõi Phạm Thiên sẽ rỗng không.” Nhưng khi nhìn thấy hoa sen nở ai nấy cũng đều vui mừng rằng: “Khi đức Bồ-tát Toàn-giác nhập thai vào bụng mẹ, đản sanh, giác ngộ, vận hành bánh xe Pháp, thị hiện song thông bước xuống từ Thiên giới, buông bỏ thọ hành, viên tịch Nibbāna, chúng ta sẽ nhìn thấy phép kỳ diệu khiến mười ngàn thế giới rung chuyển và khổ đau ở bốn khổ cảnh sẽ suy giảm, sáu cõi trời (Dục giới), chín Phạm Thiên giới sẽ được đầy đủ” đã thốt lên cảm hứng, trở về Phạm Thiên giới của mỗi cá nhân. Hơn nữa có năm hoa sen đã nở trong kiếp này. Luôn cả các Phạm Thiện cõi Tịnh Cư khi nhìn thấy những bông hoa ấy cũng biết được ý nghĩa này rằng: “Bốn vị Phật đã xuất hiện, vị Phật thứ nam sẽ xuất hiện vào thời vị lai do nhờ uy lực của những điềm báo ấy. Do đó, ngài mới nói rằng: “Điều đó cũng xuất hiện cùng người khác.”
Giảng Giải Việc Xác Định Tuổi Thọ
5-7. Iti bhagavā — “Ito so, bhikkhave”tiādinā nayena kappaparicchedavasena pubbenivāsaṃ dassetvā idāni tesaṃ buddhānaṃ jātiparicchedādivasena dassetuṃ vipassī, bhikkhavetiādimāha. tattha āyuparicchede. Parittaṃ lahukanti ubhayametaṃ appakasseva vevacanaṃ. Yañhi appakaṃ, taṃ parittañceva lahukañca hoti.
5-7. Dẫu vì nguyên nhân này đức Thế Tôn đã thuyết trí về các kiếp sống quá khứ nhờ khả năng xác định kiếp theo cách thức bắt đầu như sau: “Này các tỳ khưu, trước đây…”, bây giờ để thuyết nhờ khả năng xác định về dòng dõi-jāti của các vị Phật ấy đã nói rằng: “Này các tỳ khưu, đức Thế Tôn, bậc A-ra-hán, đấng Chánh đẳng Chánh Giác Vipassī…” Ở trong câu đó, nên biết lý giải trong việc xác định tuổi thọ. Là nhỏ nhoi, ngắn ngủi: cả hai từ này là từ đồng nghĩa với tuổi thọ ít ỏi. Thật vậy, tuổi thọ nào ít thì tuổi thọ ấy là nhỏ nhoi và ngắn ngủi.
Appaṃ vā bhiyyoti vassasatato vā upari appaṃ, aññaṃ vassasataṃ apatvā vīsaṃ vā tiṃsaṃ vā cattālīsaṃ vā paṇṇāsaṃ vā saṭṭhi vā vassāni jīvati. Evaṃ dīghāyuko pana atidullabho, asuko kira evaṃ ciraṃ jīvatīti tattha tattha gantvā daṭṭhabbo hoti. Tattha visākhā upāsikā vīsavassasataṃ jīvati, tathā pokkharasāti brāhmaṇo, brahmāyu brāhmaṇo, selo brāhmaṇo, bāvariyabrāhmaṇo, ānandatthero, mahākassapattheroti. anuruddhatthero pana vassasatañceva paṇṇāsañca vassāni, bākulatthero[15] vassasatañceva saṭṭhi ca vassāni. ayaṃ sabbadīghāyuko. sopi dve vassasatāni na jīvati.
Ít hơn hoặc nhiều hơn (một trăm năm): tuổi thọ hơn một trăm năm có ít, khi chưa tới một trăm năm là hai mươi năm, ba mươi năm, bốn mươi năm, năm mươi năm, sáu mươi năm, tuy nhiên người sống lâu như thế thật khó tìm, được biết người kia sống lâu như vậy nên đi đến thăm ở chính tại các nơi ấy. Trong số những vị có tuổi thọ cao ấy thì cận sự nữ Visākhā sống tới một trăm hai mươi tuổi; Bà-la-môn Pokkharasāti, Bà-la-môn Brahmāyu, Bà-la-môn Sela, Bà-la-môn Bāvariya, trưởng lão Ānanda, trưởng lão Mahākassapa cũng thế (đều sống tới một trăm hai mươi tuổi), còn trưởng lão Anuruddha sống tới một trăm năm mươi tuổi; trưởng lão Bākula sống đến một trăm sáu mươi tuổi, ngài là vị sống trường thọ nhất. Mặc dầu vậy cũng không sống đến hai trăm năm.
Vipassīādayo pana sabbepi bodhisattā mettāpubbabhāgena somanassasahagatañāṇasampayuttāsaṅkhārikacittena mātukucchismiṃ paṭisandhiṃ gaṇhiṃsu. Tena cittena gahitāya paṭisandhiyā asaṅkhyeyyaṃ āyu, iti sabbe buddhā asaṅkhyeyyāyukā. Te kasmā asaṅkhyeyyaṃ na aṭṭhaṃsu? Utubhojanavipattiyā. utubhojanavasena hi āyu hāyatipi vaḍḍhatipi.
Hơn nữa, trong tất cả Bồ-tát có Bồ-tát Vipassī v.v, nhập thai vào bụng mẹ bằng tâm vô trợ (asaṅkhārikacitta), đồng sanh với thọ hỷ và tương ưng với trí thuộc phần sơ khởi của từ tâm (mettāpubbabhāga). Vì thế, tất cả chư Phật mới có tuổi thọ là một a-tăng-kỳ. (Hỏi) vì sao các ngài lại không an trú đến một a-tăng-kỳ. (Đáp) do hiểm họa của thời tiết và vật thực, thật vậy tuổi thọ suy giảm, hay tăng trưởng do tác động của thời tiết và vật thực.
Tattha yadā rājāno adhammikā honti, tadā uparājāno, senāpati, seṭṭhi, sakalanagaraṃ, sakalaraṭṭhaṃ adhammikameva hoti; Atha tesaṃ ārakkhadevatā, tāsaṃ devatānaṃ mittā bhūmaṭṭhadevatā[16], tāsaṃ devatānaṃ[17] mittā ākāsaṭṭhakadevatā, ākāsaṭṭhakadevatānaṃ mittā uṇhavalāhakā devatā, tāsaṃ mittā abbhavalāhakā devatā, tāsaṃ mittā sītavalāhakā devatā, tāsaṃ mittā vassavalāhakā devatā, tāsaṃ mittā cātumahārājikā devatā, tāsaṃ mittā tāvatiṃsā devatā, tāsaṃ mittā yāmā devatāti evamādi. Evaṃ yāva bhavaggā ṭhapetvā ariyasāvake sabbā deva[18]brahmaparisāpi adhammikāva honti. Tāsaṃ adhammikatāya visamaṃ candimasūriyā pariharanti, vāto yathāmaggena na vāyati, ayathāmaggena vāyanto ākāsaṭṭhakavimānāni khobheti, vimānesu khobhitesu devatānaṃ kīḷanatthāya cittāni na namanti, devatānaṃ kīḷanatthāya cittesu anamantesu sītuṇhabhedo utu yathākālena na sampajjati, tasmiṃ asampajjante na sammā devo vassati, kadāci vassati, kadāci na vassati; katthaci vassati, katthaci na vassati, vassantopi vappakāle aṅkurakāle nāḷakāle pupphakāle khīraggahaṇādikālesu yathā yathā sassānaṃ upakāro na hoti, tathā tathā vassati ca vigacchati ca, tena sassāni visamapākāni honti, vigatagandhavaṇṇarasādisampannāni[19]. ekabhājane pakkhittataṇḍulesupi ekasmiṃ padese bhattaṃ uttaṇḍulaṃ hoti, ekasmiṃ atikilinnaṃ, ekasmiṃ samapākaṃ. taṃ paribhuttaṃ kucchiyampi tīhākārehi paccati. tena sattā bahvābādhā ceva honti, appāyukā ca. Evaṃ tāva utubhojanavasena āyu hāyati[20].
Trong câu đó, khi nào các vị vua sai pháp có mặt, khi ấy phó vương, tướng quân, trưởng giả, toàn bộ thành phố, toàn bộ thủ đô trở nên sai pháp tương tự; Lúc đó, chư Thiên hộ trì nhừng người ấy, chư Thiên ở địa cầu là bạn của những vị Thiên ấy, chư Thiên ở hư không là bạn của chư Thiên ngự trên địa cầu, chư thiên thuộc loại mây nóng (uṇhavalāhakā) là bạn của chư Thiên ở hư không, chư thiên thuộc loại mây sấm (abbhavalāhakā) là bận của chư thiên thuộc loại mây nóng, chư thiên thuộc loại mây lạnh (sītavalāhakā) là bạn của chư thiên thuộc loại mây sấm, chư Thiên Tứ Đại Thiên Vương là bạn của chư Thiên thuộc loại mây mưa, chư Thiên cõi Đao Lợi là bạn của chư Thiên Tứ Đại Thiên Vương, chư Thiên cõi Dạ Ma là bạn của chư Thiên cõi Đao Lợi v.v. Cho đến cõi trời cao nhất, ngoại trừ tất cả các vị Thánh Thinh-văn, luôn cả hội chúng Phạm Thiên sai pháp cũng có mặt. Mặt trăng và mặt trời đi sai quỹ đạo do chư Thiên sai pháp có mặt, gió thổi không thuận theo chiều gió, khi gió thổi không thuận theo chiều gió khiến các Thiên cung trụ ở trên hư không bị rung lắc, chư thiên cũng không có tâm đi dạo chơi, khi chư Thiên có tâm không thích thú; thời tiết vào mùa lạnh, mùa nóng cũng không xảy ra đúng thời. Khi thời tiết không xảy ra đúng thời thì trời mưa không điều hòa, thỉnh thoảng mưa, thỉnh thoảng không mưa; mưa ở một vài chỗ, một vài chỗ lại không mưa. Khi mưa rơi xuống trong lúc gieo mạ, trong lúc mọc mầm, trong lúc ra cuống, trong lúc ra bông, trong lúc lúa ngậm sữa v.v, không thể hỗ trợ đến cây lúa và khô hạn trong thời gian dài, vì nguyên nhân ấy (mà) lúa chín trái mùa, không có hương thơm, màu sắc và vị ngon v.v. Ngay cả gạo đặt vào cùng một thùng, gạo sống một phần, một phần bị ướt, một phần bị cháy, (nếu như) thọ dụng loại lúa đó dẫn đến ba triệu chứng ở bụng, do đó những người (thọ dụng loại lúa ấy) sẽ mắc nhiều bệnh và tuổi mạng sẽ ngắn. Tuổi thọ sẽ suy giảm do ảnh hưởng thời tiết và thức ăn theo cách như thế.
Yadā pana rājāno dhammikā honti, tadā uparājānopi dhammikā hontīti purimanayeneva yāva brahmalokā sabbepi dhammikā honti. Tesaṃ dhammikattā samaṃ candimasūriyā pariharanti, yathāmaggena vāto vāyati, yathāmaggena vāyanto ākāsaṭṭhakavimānāni na khobheti, tesaṃ akhobhā devatānaṃ kīḷanatthāya cittāni namanti. Evaṃ kālena utu sampajjati, devo sammā vassati, vappakālato paṭṭhāya sassānaṃ upakāraṃ karonto kāle vassati, kāle vigacchati, tena sassāni samapākāni sugandhāni suvaṇṇāni surasāni ojavantāni honti, tehi sampāditaṃ bhojanaṃ paribhuttampi sammā paripākaṃ gacchati, tena sattā arogā dīghāyukā honti. Evaṃ utubhojanavasena āyu vaḍḍhati.
Tât cả chư Thiên cho đến Phạm Thiên giới đúng pháp có mặt theo cách thức có ở phần đầu rằng – Lại nữa, khi nào đức vua đúng pháp có mặt, khi ấy vị phó vương và vị tướng quân đúng pháp có mặt. Do chư Thiên vững trú trong pháp, (nên) mặt trời và mặt trăng đi đúng quỹ đạo, gió thổi thuận theo chiều gió, không làm cho các Thiên cung trụ ở trên hư không bị rung lắc, khi các Thiên cung không bị rung lắc chư Thiên có tâm thích thú. Thời tiết diễn ra đúng thời như vậy, trời mưa được điều hòa (sẽ) trợ giúp cây lúa từ lúc gieo mạ, rụng đúng thời điểm, khô đúng thời điểm, vì thế lúa chín đúng mùa, có hương thơm, có màu sắc đẹp, có vị ngon, có dinh dưỡng. Vật thực được trộn với loại lúa ấy khi thọ dụng cũng dễ tiêu hóa, vì thế những người (thọ dụng loại lúa ấy) sẽ ít bệnh và có tuổi thọ dài. Tuổi thọ được tăng trưởng do ảnh hưởng thời tiết và vật thực là như thế.
Tattha vipassī bhagavā asītivassasahassāyukakāle nibbatto, sikhī sattativassasahassāyukakāleti idaṃ anupubbena parihīnasadisaṃ kataṃ, na pana evaṃ parihīnaṃ, vaḍḍhitvā vaḍḍhitvā parihīnanti veditabbaṃ. Kathaṃ? Imasmiṃ tāva kappe kakusandho bhagavā cattālīsavassasahassāyukakāle nibbatto, āyuppamāṇaṃ pañca koṭṭhāse katvā cattāri ṭhatvā pañcame vijjamāneyeva parinibbuto. Taṃ āyu parihāyamānaṃ dasavassakālaṃ patvā puna vaḍḍhamānaṃ asaṅkhyeyyaṃ hutvā tato parihāyamānaṃ tiṃsavassasahassakāle ṭhitaṃ; tadā koṇāgamano bhagavā nibbatto. tasmimpi tatheva parinibbute taṃ āyu dasavassakālaṃ patvā puna vaḍḍhamānaṃ asaṅkhyeyyaṃ hutvā parihāyitvā vīsativassasahassakāle ṭhitaṃ; tadā kassapo bhagavā nibbatto. tasmimpi tatheva parinibbute taṃ āyu dasavassakālaṃ patvā puna vaḍḍhamānaṃ asaṅkhyeyyaṃ hutvā parihāyitvā vassasatakālaṃ pattaṃ, atha amhākaṃ sammāsambuddho nibbatto. Evaṃ anupubbena parihāyitvā parihāyitvā vaḍḍhitvā vaḍḍhitvā parihīnanti veditabbaṃ. tattha yaṃ yaṃ āyuparimāṇesu[21] manussesu buddhā nibbattanti, tesampi taṃ tadeva āyuparimāṇaṃ hotīti veditabbaṃ.
Trong số các đức Thế Tôn ấy thì đức Thế Tôn Vipassī xuất hiện trong giai đoạn chúng sanh có tuổi thọ là tám mươi ngàn tuổi, đức Thế Tôn Sikhī xuất hiện trong giai đoạn chúng sanh có tuổi thọ là bảy mươi ngàn tuổi, ngài xác định tuổi thọ này như thể sự suy giảm (tuổi thọ) theo tuần tự, tuy nhiên không phải suy giảm như thế. Nên biết tuổi thọ tăng trưởng, tăng trưởng rồi suy giảm. (Hỏi) Như thế nào? (Đáp) Trong kiếp Bhadda này trước thì đức Thế Tôn Kakusandha xuất hiện trong giai đoạn chúng sanh có tuổi thọ bốn mươi ngàn năm, xác định tuổi thọ thành năm phần, duy trì (thọ mạng) bốn phần (trong năm phần) khi đến phần thứ năm thì viên tịch Nibbāna. Tuổi thọ ấy suy giảm cho đến lúc (loài người) còn mười tuổi, rồi lại tăng lên một a-tăng-kỳ, từ đó lại giảm xuống trụ lại ở giai đoạn chúng sanh có tuổi thọ ba mươi ngàn năm; khi ấy đức Thế Tôn Konāgamana hiện khởi (ở thế gian). Thậm chí khi đức Thế Tôn Konāgamana viên tịch Nibbāna như thế thì tuổi thọ (của loài người) cũng suy giảm cho đến khi còn mười tuổi rồi lại tăng lên một a-tăng-kỳ, lại giảm xuống trụ lại trong lúc chúng sanh có tuổi thọ hai mươi ngàn năm; vào thời gian ấy đức Thế Tôn Kassapa hiện khởi (ở thế gian). Ngay cả khi đức Thế Tôn Kassapa viên tịch Nibbāna như thế thì tuổi thọ (của loài người) cũng giảm đến khi còn mười tuổi, rồi lại tăng lên thành một a-tăng-kỳ, sau đó giảm xuống tới khi (loài người) có tuổi thọ một trăm. Khi ấy, đức Phật bậc Chánh đẳng Chánh giác của chúng ta hiện khởi (ở thế gian). Tuổi thọ không suy giảm theo thứ tự như thế, nên biết rằng (tuổi thọ) tăng lên, sau khi tăng rồi giảm. Ở đây, nên biết rằng khi loài người có tuổi thọ tăng lên thì chính việc xuất hiện của đức Phật là sự xác định tuổi thọ của chư Phật.
Giảng Giải Việc Xác Định Tuổi Thọ được kết thúc
Giảng Giải Việc Xác Định Nơi Giác Ngộ
- Bodhiparicchede pana pāṭaliyā mūleti pāṭalirukkhassa heṭṭhā. Tassā pana pāṭaliyā khandho taṃ divasaṃ paṇṇāsaratano hutvā abbhuggato, sākhā paṇṇāsaratanāti ubbedhena ratanasataṃ ahosi. Taṃ divasañca sā pāṭali kaṇṇikābaddhehi viya pupphehi mūlato paṭṭhāya ekasañchannā ahosi, dibbagandhaṃ vāyati. Na kevalañca tadā ayameva pupphitā, dasasahassacakkavāḷe sabbapāṭaliyo pupphitā. Na kevalañca pāṭaliyo, dasasahassacakkavāḷe sabbarukkhānaṃ khandhesu khandhapadumāni, sākhāsu sākhāpadumāni, latāsu latāpadumāni, ākāse[22] ākāsapadumāni pupphitāni, pathavitalaṃ bhinditvāpi mahāpadumāni uṭṭhitāni. Mahāsamuddopi pañcavaṇṇehi padumehi nīluppalarattuppalehi ca sañchanno ahosi. Sakaladasasahassacakkavāḷaṃ dhajamālākulaṃ tattha tattha nibaddhapupphadāmavissaṭṭhamālāguḷavippakiṇṇaṃ[23] nānāvaṇṇakusumasamujjalaṃ nandanavana- cittalatāvana- missakavana- phārusakavanasadisaṃ ahosi. Puratthima- cakkavāḷamukhavaṭṭiyaṃ ussitaddhajā pacchima- cakkavāḷamukhavaṭṭiṃ abhihananti. Pacchima- dakkhiṇauttara- cakkavāḷamukhavaṭṭiyaṃ ussitaddhajā dakkhiṇa- cakkavāḷamukhavaṭṭiṃ abhihananti. Evaṃ aññamaññasirīsampattāni cakkavāḷāni ahesuṃ. Abhisambuddhoti sakalaṃ buddhaguṇavibhavasiriṃ paṭivijjhamāno cattāri saccāni abhisambuddho.
- Lại nữa, trong việc xác định nơi giác ngộ nên biết lý giải như sau – ở cội cây pāṭalī: ở dưới cây pāṭalī. Cây pāṭalī ấy cao tới một trăm hắc tay, là vào ngày hôm ấy thân cây đã vươn lên năm mươi hắc tay, cành năm mươi hắc tay. Lại nữa, vào ngày hôm cây pāṭalī ấy có những bông hoa như thể kết thành chùm bao phủ lại thành một từ dưới gốc cây, thiên hương lan tỏa. Không phải chỉ có một cây pāṭalī nở hoa, (mà) toàn bộ cây pāṭalī trong mười ngàn thế giới cũng đều nở hoa. Và không chỉ một loại hoa pāṭalī nở, (mà) toàn bộ cây trong mười ngàn thế giới đều nở chẳng hạn như thân hoa sen nở hoa ở thân, cuống sen thì nở hoa ở cuống, dây hoa sen thì hoa nở ở dây, hoa sen ở hư không thì nở hoa ở trên hư không, hoa sen lớn đã phá hủy bề mặt đất nhổ lên. Luôn cả, đại dương cũng đầy đủ năm loại hoa sen và với hoa sen xanh, hoa sen hồng. Toàn bộ mười ngàn thế có những chùm hoa giống như những lá cờ, đầy rẫy với những tràng hoa nối tiếp nhau và những chùm hoa rơi xuống ở tại nơi ấy, rực rỡ với nhiều màu sắc khác nhau, tựa như vườn hoa Nandanavana, Cittalatāvana, Missakavana, và Phārusakavana. Như thể giương ngọn cờ lên ở rìa vũ trụ phía Đông giáp với rìa vũ trụ phía Tây. Đã trở thành một thế giới hoàn hảo bởi sự vinh quang phụ thuộc lẫn nhau như thế. Đã hoàn toàn giác ngộ: đã thấu triệt ân đức, sự tẳng trưởng, sự vinh hiển để trở thành Phật, tức là đã hoàn toàn giác ngộ Bốn Thánh-đế.
“Sikhī, bhikkhave, bhagavā arahaṃ sammāsambuddho puṇḍarīkassa mūle abhisambuddho”tiādīsupi imināva nayena padavaṇṇanā veditabbā. Ettha pana puṇḍarīkoti setambarukkho. Tassāpi tadeva parimāṇaṃ. Taṃ divasañca sopi dibbagandhehi pupphehi susañchanno ahosi. Na kevalañca pupphehi, phalehipi sañchanno ahosi. tassa ekato taruṇāni phalāni, ekato majjhimāni phalāni, ekato nātipakkāni phalāni, ekato supakkāni pakkhittadibbojāni viya surasāni olambanti. Yathā so, evaṃ sakaladasasahassacakkavāḷesu pupphūpagarukkhā pupphehi, phalūpagarukkhā phalehi paṭimaṇḍitā ahesuṃ.
“Này các tỳ khưu, đức Thế Tôn, bậc A-ra-hán, đấng Chánh Ðẳng Giác Vipassī đã chứng quả vị Toàn Giác ở cội cây pāṭalī v.v.” nên biết việc giải thích theo cách thức này. Hơn nữa, cội cây puṇḍarīka ở đây cây puṇḍarīka có vị ngọt. Luôn cả cây puṇḍarīka ấy cũng có ước lượng ấy tương tự. Và vào ngày hôm ấy cây puṇḍarīka ấy cũng bao phủ bởi bông hoa thuộc thiên giới và có hương thơm ngát. Không phải chỉ có bông mà còn có quả nữa. Cây puṇḍarīka ấy một bên thì quả non, ở giữa quả trung bình, một bên thì quả già, một bên quả rất già có vị ngọt, có chất dinh dưỡng như thể được bỏ dưỡng chất thuộc cõi trời vào rồi buông thõng xuống, cây puṇḍarīka ấy như thế nào thì ở trong mười ngàn thế giới cũng như thế ấy, cây trổ hoa được tô điểm bằng những bông ra, cây trổ quả cũng được điểm tô bằng quả.
Sāloti sālarukkho. tassāpi tadeva parimāṇaṃ, tatheva pupphasirīvibhavo veditabbo. Sirīsarukkhepi eseva nayo. Udumbararukkhe pupphāni nāhesuṃ, phalavibhūti panettha ambe vuttanayāva, tathā nigrodhe, tathā assatthe. Iti sabbabuddhānaṃ ekova pallaṅko, rukkhā pana aññepi honti. Tesu yassa yassa rukkhassa mūle catumaggañāṇasaṅkhātabodhiṃ buddhā paṭivijjhanti, so so bodhīti vuccati. Ayaṃ bodhiparicchedo nāma.
Cây sāla: là cây sāla. Luôn cả cây sāla ấy cũng ước lường tương tự; nên biết hoa siri sự thịnh vượng như thế tương tự. Ngay cả cây sirīsa cũng có cách thức này tương tự. Cây udumbara không có hoa vẻ đẹp của quả trên cây này có cách thức được đã được trình bày ở cây puṇḍarīka ấy; ở cây nigrodha cũng tương tự, và cây assatha cũng tương tự. Bảo tọa của các vị Phật chỉ có một (tương tự nhau), còn cây là một loại khác. Trong số các cây ấy chư Phật biết rõ đến việc giác ngộ được xem là bốn Đạo trí ở bất kỳ cội cây nào thì cội cây ấy được gọi là Bồ-đề (dựa vào sự giác ngộ của ngài). Đây gọi là xác định địa điểm giác ngộ.
Giảng Giải Về Việc Xác Định Hai Vị Thinh Văn (xuất sắc nhất)
- Sāvakayugaparicchede pana khaṇḍatissanti khaṇḍo ca tisso ca. Tesu khaṇḍo ekapitiko kaniṭṭhabhātā, tisso purohitaputto. Khaṇḍo paññāpāramiyā matthakaṃ patto, tisso samādhipāramiyā matthakaṃ patto. Agganti ṭhapetvā vipassiṃ bhagavantaṃ avasesehi saddhiṃ asadisaguṇatāya uttamaṃ. Bhaddayuganti aggattāyeva bhaddayugaṃ. Abhibhūsambhavanti abhibhū ca sambhavo ca. Tesu abhibhū paññāpāramiyā matthakaṃ patto. Sikhinā bhagavatā saddhiṃ aruṇavatito brahmalokaṃ gantvā brahmaparisāya vividhāni pāṭihāriyāni dassento dhammaṃ desetvā dasasahassilokadhātuṃ andhakārena pharitvā — “kiṃ idan”ti sañjātasaṃvegānaṃ obhāsaṃ pharitvā — “sabbe me rūpañca passantu, saddañca suṇantū”ti adhiṭṭhahitvā — “ārambhathā”ti gāthādvayaṃ[24] bhaṇanto saddaṃ sāvesi. Sambhavo samādhipāramiyā matthakaṃ patto ahosi.
- Về việc xác định hai vị Thinh-văn (xuất sắc nhất), ngài Khaṇḍa và ngài Tissa: Thánh Thinh-văn đệ tử (xuất sắc nhất) là ngài Khaṇḍa và ngài Tissa. Cả hai vị ấy thì ngài Khaṇḍa là em cùng một cha, ngài Tissa là con trai của vị quan tế tự. Ngài Khaṇḍa chứng đắc tận cùng của khổ bằng tuệ ba-la-mật, ngài Tissa chứng đắc tận cùng của khổ bằng định ba-la-mật. Xuất sắc nhất: là vị tối thắng bởi là vị có đức hạnh không giống với các vị còn lại, ngoại trừ đức Thế Tôn Vippassī. Một cặp thịnh vượng: gọi là cặp thịnh vượng bởi trạng thái là vị tối thắng. Ngài Abhibhū và ngài Sambhava: (hai) vị Thánh Thinh-văn là ngài Abhibhū và ngài Sambhava. Trong hai vị ấy thì ngài Abhibhū chúng đắc tận cùng của khổ bằng tuệ ba-la-mật, đi từ thành Aruṇavatī đến Phạm Thiên giới cùng với đức Thế Tôn Sikhī rồi thị hiện các phép kỳ diệu cùng hội chúng Phạm Thiên, trong khi thuyết giảng Giáo Pháp đã lan tỏa khắp mười ngàn thế giới (bị bao trùm) bởi bóng tối, đã chiếu ánh sáng làm sanh khởi sự chấn động rằng “đây là gì?” rồi phát nguyện rằng: “mong cho tất cả mọi người hãy nhìn thấy hình tướng của ta và cầu cho được lắng nghe âm thanh của ta” đã nói lên hai kệ ngôn rằng: “này các ông hãy bắt đầu v.v,” cho được lắng nghe âm thanh. Ngài Sambhava đã chứng đắc tận cùng của khổ bằng định ba-la-mật.
Soṇuttaranti soṇo ca uttaro ca. tesupi soṇo paññāpāramiṃ patto, uttaro samādhipāramiṃ patto ahosi. Vidhurasañjīvanti vidhuro ca sañjīvo ca. tesu vidhuro paññāpāramiṃ patto ahosi, sañjīvo samādhipāramiṃ patto. Samāpajjanabahulo rattiṭṭhānadivāṭṭhānakuṭileṇamaṇḍapādīsu samāpattibalena jhāyanto[25] ekadivasaṃ araññe nirodhaṃ samāpajji, atha naṃ vanakammikādayo “mato”ti sallakkhetvā jhāpesuṃ. so yathāparicchedena samāpattito uṭṭhāya cīvarāni papphoṭetvā gāmaṃ piṇḍāya pāvisi. tadupādāyeva ca naṃ “sañjīvo”ti sañjāniṃsu. Bhiyyosuttaranti bhiyyoso ca uttaro ca. Tesu bhiyyoso paññāya uttaro, uttaro samādhinā aggo ahosi. Tissabhāradvājanti tisso ca bhāradvājo ca . Tesu tisso paññāpāramiṃ patto, bhāradvājo samādhipāramiṃ patto ahosi. Sāriputtamoggallānanti sāriputto ca moggallāno[26] ca. tesu sāriputto paññāvisaye, moggallāno samādhivisaye aggo ahosi. Ayaṃ sāvakayugaparicchedo nāma.
Ngài Soṇa và ngài Uttara: Ngài Soṇa và ngài Uttara. Trong hai vị ấy thì ngài Soṇa đã chứng đắc tận cùng của khổ bằng tuệ ba-la-mật, ngài Uttara đã chứng đắc tận cùng của khổ bằng định ba-la-mật. Ngài Vidhura và ngài Sañjīva: Ngài Vidhura và ngài Sañjīva. Trong hai vị ấy thì ngài Vidhura đã chứng đắc tận cùng của khổ bằng tuệ ba-la-mật, ngài Sañjīva đã chứng đắc tận cùng của khổ bằng định ba-la-mật. Là vị thường hay nhập thiền chứng nỗ lực bởi sức mạnh thiền chứng ở chỗ nghĩ ngơi buổi trưa, am thất, hang động và ngôi mà mái tròn v.v, nhập thiền diệt trong rừng cả ngày. Những người làm việc trong rừng nghĩ rằng: ngãi đã lâm chung nên đã cùng nhau hỏa táng ngài. Khi khi ngài xuất khỏi thiền diệt theo sự ấn định đã đắp y đi vào làng khất thực. Y cứ vào chính nguyên nhân ấy mọi người mới biết ngài là ‘ngài Sañjīva’. Ngài Bhiyyosa và ngài Uttara: Ngài Bhiyyosa và ngài Uttara. Trong hai vị ấy thì ngài Bhiyyosa là vị tối thắng về tuệ, ngài Uttara là vị tối thắng về định. Ngài Tissa và ngài Bhāradvāja: vị Thánh Thinh-văn đệ tử là ngài Tissa và ngài Bhāradvāja. Trong hai vị ấy thì ngài Tissa đã chứng đắc tuệ ba-la-mật, ngài Bhāradvāja đã chứng đắc định Ba-la-mật. Ngài Sāriputta và ngài Moggallāna: vị Thánh Thinh-văn đệ tử là ngài Sāriputta và ngài Moggallāna. Trong hai vị ấy thì ngài Sāriputta là vị tối thắng về tuệ, ngài Moggallāna tối thắng về định. Đây gọi là việc xác định hai vị Thinh-văn (xuất sắc nhất).
Giảng Giải Việc Xác Định Cuộc Tụ Hội Các Đệ Tử
- Sāvakasannipātaparicchede vipassissa bhagavato paṭhamasannipāto caturaṅgiko ahosi, sabbe ehibhikkhū, sabbe iddhiyā nibbattapattacīvarā, sabbe anāmantitāva āgatā, iti te ca kho pannarase uposathadivase. Atha satthā bījaniṃ[27] gahetvā nisinno uposathaṃ osāresi. Dutiyatatiyesupi eseva nayo. Tathā sesabuddhānaṃ sabbasannipātesu. Tasmā pana amhākaṃ bhagavato paṭhamabodhiyāva sannipāto ahosi, idañca suttaṃ aparabhāge vuttaṃ, tasmā “mayhaṃ, bhikkhave, etarahi eko sāvakānaṃ sannipāto”ti aniṭṭhapetvā “ahosī”ti vuttaṃ.
- Nên biết lý giải trong việc xác định Cuộc Tụ Hội Các Đệ Tử như sau – Việc tụ hội lần đầu tiên của đức Thế Tôn Vipassī đã gắn liền với bốn yếu tố là (1) tất cả các vị tỳ khưu đều (xuất gia theo cách) ehibhikkhu, (2) tất cả đều có bình bát và y phục phát sanh do thần thông, (3) tất cả các vị khưu đã đến mà không hẹn trước, và (4) những vị tỳ đến tụ hội vào ngày Uposatha nhằm ngày 15. Sau đó, bậc Đạo Sư trong khi ngồi đã cầm lấy cây quạt dẫn giải Uposatha. Lần thứ hai, lần thứ ba cũng có phương cách này. Trong tất cả các cuộc tụ hội thì các vị Phật còn lại cũng như thế. Hơn nữa, đức Thế Tôn của chúng ta đã có một cuộc tụ hội duy nhất ở thời kỳ đầu giác ngộ, vì nguyên nhân nào? Bài Kinh này ngài đã nói ở phần khác, vì thế ngài mới nói rằng: “Này các tỳ khưu, hiện nay đã có một cuộc tụ hội các đệ tử của Ta…” như thế việc tụ hội đã kết thúc.
Tattha aḍḍhateḷasāni bhikkhusatānīti purāṇajaṭilānaṃ sahassaṃ, dvinnaṃ aggasāvakānaṃ parivārāni aḍḍhateyyasatānīti aḍḍhateḷasāni bhikkhusatāni. Tattha dvinnaṃ aggasāvakānaṃ abhinīhārato paṭṭhāya vatthuṃ kathetvā pabbajjā dīpetabbā. Pabbajitānaṃ pana tesaṃ mahāmoggallāno sattame divase arahattaṃ patto. dhammasenāpati pannarasame divase gijjhakūṭapabbatamajjhe sūkarakhataleṇapabbhāre bhāgineyyassa dīghanakhaparibbājakassa sajjite dhammayāge vedanāpariggahasuttante[28] desiyamāne desanaṃ anubujjhamānaṃ ñāṇaṃ[29] pesetvā sāvakapāramiñāṇaṃ patto. Bhagavā therassa arahattappattiṃ ñatvā vehāsaṃ abbhuggantvā veḷuvaneyeva paccuṭṭhāsi. Thero — “kuhiṃ nu kho bhagavā gato”ti āvajjanto veḷuvane patiṭṭhitabhāvaṃ ñatvā sayampi vehāsaṃ abbhuggantvā veḷuvaneyeva paccuṭṭhāsi. Atha bhagavā pātimokkhaṃ osāresi. taṃ sannipātaṃ sandhāya bhagavā — “aḍḍhateḷasāni bhikkhusatānī”ti āha. ayaṃ sāvakasannipātaparicchedo nāma.
Ở đó, có một ngàn hai trăm năm mươi vị tỳ khưu: có một ngàn vị Purāṇa-jaṭila, hội chúng của vị Thượng thủ Thinh-văn có hai trăm năm mươi vị. Trong số các vị tỳ khưu ấy, nên nói đến câu chuyện khởi sự từ sự quyết đoán của cả hai vị Thượng thủ Thinh-văn, rồi thuyết giảng đến việc xuất gia. Hơn nữa, trong số những vị xuất gia ấy, ngài Mahāmoggallāna chứng đắc quả vị A-ra-hán vào ngày thứ bảy. Khi đức Thế Tôn thuyết giảng Kinh Phân Biệt Thọ thuộc dhammayāga được chuẩn bị cho du sĩ ngoại đạo Dīghanakha là cháu (của trưởng lão Sārīputta) ở tại hang động Sūkarakhataleṇa giữa ngọn núi Gijjhakūṭa vị Tướng quân Chánh pháp hướng trí đến để hiểu nhờ ghi nhớ Pháp thoại, đã chứng đắc trí ba-la-mật của bậc Thánh Thinh-văn vào ngày thứ mười lăm. Sau khi đức Thế Tôn biết đến sự chứng đắc phẩm vị A-ra-hán của trưởng lão, ngài đã bay lên không trung và hiện ra ở Veḷuvana. Trưởng lão suy tư rằng: “Đức Thế Tôn đi đâu chăng?” Sau khi biết đực bản thể được thành tựu ở tại Veḷuvana, luôn cả ngài cũng bay lên không trung (và) hiện ra ở Veḷuvana tương tự. Sau đó, đức Thế Tôn đã dẫn giải giới bổn pātimokkha, đức Thế Tôn muốn đề cập đến cuộc tụ hội ấy mới nói rằng: “Có một ngàn hai trăm năm mươi vị tỳ khưu…” Đây là việc xác định cuộc tụ hội của các đệ tử.
Giảng Giải Việc Xác Định Vị Tỳ Khưu Thị Giả
- Upaṭṭhākaparicchede pana ānandoti nibaddhupaṭṭhākabhāvaṃ sandhāya vuttaṃ. bhagavato hi paṭhamabodhiyaṃ anibaddhā upaṭṭhākā ahesuṃ. Ekadā nāgasamālo pattacīvaraṃ gahetvā vicari, ekadā nāgito, ekadā upavāno, ekadā sunakkhatto, ekadā cundo samaṇuddeso, ekadā sāgato, ekadā meghiyo. Tattha ekadā bhagavā nāgasamālattherena saddhiṃ addhānamaggapaṭipanno dvedhāpathaṃ patto. Thero maggā okkamma — “bhagavā, ahaṃ iminā maggena gacchāmī”ti āha. Atha naṃ bhagavā — “ehi bhikkhu, iminā maggena gacchāmā”ti āha. So — “Handa, bhagavā, tumhākaṃ pattacīvaraṃ gaṇhatha, ahaṃ iminā maggena gacchāmī”ti vatvā pattacīvaraṃ chamāyaṃ[30] ṭhapetuṃ āraddho. Atha naṃ bhagavā — “āhara, bhikkhū”ti vatvā pattacīvaraṃ gahetvā gato. Tassapi bhikkhuno itarena maggena gacchato corā pattacīvarañceva hariṃsu, sīsañca bhindiṃsu. So — “bhagavā idāni me paṭisaraṇaṃ, na añño”ti cintetvā lohitena gaḷitena bhagavato santikaṃ agamāsi. “kimidaṃ bhikkhū”ti ca vutte taṃ pavattiṃ ārocesi. atha naṃ bhagavā — “mā cintayi, bhikkhu, etaṃyeva te kāraṇaṃ sallakkhetvā nivārayimhā”ti vatvā naṃ samassāsesi.
- Nên biết lý giải trong việc xác định vị tỳ khưu thị giả như sau – Ngài Ānanda: ngài nói đề cập đến trưởng lão Ānanda là vị thị giả thường cận. Bởi vì, ở thời kỳ đầu giác ngộ đức Thế Tôn có các vị thị giả không thường cận. Thỉnh thoảng là ngài Nāgasamāla cầm bình bất và y phục theo ngài, thỉnh thoảng ngài Nāgita, thỉnh thoảng ngài Upavāna, thỉnh thoảng ngài Sunakkhatta, thỉnh thoảng ngài Cunda Samaṇuddesa, thỉnh thoảng ngài Sāgata, thỉnh thoảng ngài Meghiya. Trong số các vị ấy thỉnh thoảng đức Thế Tôn đi quãng đường xa cùng với trưởng lão Nāgasamāla, khi đến con đường hai ngã, trưởng lão rời khỏi con đường (và) nói rằng – “Bạch đức Thế Tôn, con đi theo con đường này.” Khi ấy đức Thế Tôn đã nói rằng – “Đến đây tỳ khưu, chúng ta sẽ đi con đường này.” Trưởng lão đã đáp rằng – “Dạ được rồi, bạch đức Thế Tôn, xin ngài hãy nhận bình bát và y phục của ngài, con đi theo con đường này” nên mới bắt đầu đặt bình bát và y phục trên mặt đất. Khi đó đức Thế Tôn đã nói cùng vị ấy rằng – “Này tỳ khưu, hãy đem lại” sau khi thọ nhận bình bát và y phục, đã đi. Trong lúc vị tỳ khưu ấy đi con đường khác, những tên cướp đã cướp lấy bình bát và y phục và đánh vào đầu (vị ấy). Vị ấy nghĩ rằng – “Lúc này, đức Thế Tôn là nơi nương tựa của ta, không ai khác” đã đến yết kiến đức Thế Tôn cả khi máu còn đang chảy. Và khi đức Thế Tôn hỏi rằng: “chuyện gì này tỳ khưu?” (vị ấy) mới thuật lại câu chuyện đã xảy ra. Khi ấy, đức Thế Tôn đã nói cùng vị ấy rằng: “Này tỳ khưu, chớ nên suy nghĩ, ta đã ngăn cản ngươi đến nguyên nhân ấy, rồi trấn an vị ấy.”
Ekadā pana bhagavā meghiyattherena saddhiṃ pācīnavaṃsamigadāye jantugāmaṃ agamāsi. tatrāpi meghiyo jantugāme piṇḍāya caritvā nadītīre pāsādikaṃ ambavanaṃ disvā — “Bhagavā, tumhākaṃ pattacīvaraṃ gaṇhatha, ahaṃ tasmiṃ ambavane samaṇadhammaṃ karomī”ti vatvā bhagavatā tikkhattuṃ nivāriyamānopi gantvā akusalavitakkehi upadduto[31] anvāsatto[32]. paccāgantvā taṃ pavattiṃ ārocesi. Tampi bhagavā — “Idameva te kāraṇaṃ sallakkhetvā nivārayimhā”ti vatvā anupubbena sāvatthiṃ agamāsi. Tattha gandhakuṭipariveṇe paññattavarabuddhāsane nisinno bhikkhusaṅghaparivuto bhikkhū āmantesi — “bhikkhave, idānimhi mahallako, ‘ekacce bhikkhū iminā maggena gacchāmā’ti vutte aññena gacchanti, ekacce mayhaṃ pattacīvaraṃ nikkhipanti, mayhaṃ nibaddhupaṭṭhākaṃ ekaṃ bhikkhuṃ jānāthā”ti. Bhikkhūnaṃ dhammasaṃvego udapādi. athāyasmā sāriputto uṭṭhāyāsanā bhagavantaṃ vanditvā — “Ahaṃ, bhante, tumheyeva patthayamāno satasahassakappādhikaṃ asaṅkhyeyyaṃ[33] pāramiyo pūrayiṃ, nanu mādiso mahāpañño upaṭṭhāko nāma vaṭṭati, ahaṃ upaṭṭhahissāmī”ti āha. Taṃ bhagavā — “alaṃ sāriputta, yassaṃ disāyaṃ tvaṃ viharasi, asuññāyeva me sā disā, tava ovādo buddhānaṃ ovādasadiso, na me tayā upaṭṭhākakiccaṃ atthī”ti paṭikkhipi. Etenevupāyena mahāmoggallānaṃ ādiṃ katvā asītimahāsāvakā uṭṭhahiṃsu. Te sabbepi bhagavā paṭikkhipi.
Và đôi khi đức Thế Tôn đi đến làng Jantu trong Vaṃsamigadāya ở hướng đông cùng với trưởng lão Meghiya. Dẫu cho ở nơi đó, ngài Meghiya đi khất thực trong làng Jantu đã nhìn thấy khu vườn xoài thơ mộng nằm ở bên bờ sông, đã nói rằng: “Bạch đức Thế Tôn, xin ngài hãy nhận lại bình bát và y phục của ngài, con (sẽ) thực hành Sa-môn Pháp ở tại vườn xoài ấy,” dẫu cho bị đức Thế Tôn ngăn cản đến ba lần, (vị ấy) cũng nhất quyết đi cho bằng được, khi bị bất thiện tầm chế ngự, đã quay trở lại thuật lại nguyên nhân sanh khởi ấy cho (đức Thế Tôn) biết. Đức Thế Tôn nói cùng Meghiya rằng: “Ta đã biết được nguyên nhân này nơi ngươi, nên mới ngăn cản ngươi” rồi cùng ngài đi đến thành Sāvatthī theo tuần tự. Ở tại thành Sāvatthī đức Thế Tôn được đoay quanh bởi hội chúng tỳ khưu, ngồi trên Phật tọa cao quý đã được trải sẵn ở khu vực Hương Thất, cho gọi hội chúng tỳ khưu (và) nói rằng – “này chư tỳ khưu, bây giờ ta đã già, một số vị tỳ khưu khi ta nói rằng: ‘ta đi con theo con đường này’ thì lại đi sang con đường khác, một số đặt bình bát và y phục của ta ở trên mặt đất, các ngươi hãy chọn một vị tỳ khưu làm thị giả thường cận của ta.’” Các vị tỳ khưu khởi lên trạng thái chấn động. Khi ấy, tôn giả Sāriputto từ chỗ ngồi đứng dậy đã đảnh lễ đức Thế Tôn (và) đã nói rằng – “Kính bạch đức Thế Tôn, con thiết lập sự mong mỏi nơi ngài, làm tròn đủ các ba-la-mật suốt một a-tăng-kỳ với một trăm ngàn kiếp, một thị giả có đại trí tuệ như con là thích hợp không phải sao? Con sẽ là thị giả.” Đức Thế Tôn đã khước từ ngài Sārīputta rằng: “Chớ nên này Sārīputta, ngươi an trú ở phương nào, thì phương ấy hoàn toàn không trống rỗng, lời giáo huấn của ngươi tương tợ với lời giáo huấn của chư Phật, (vì thế) ngươi không cần làm bổn phận vị thị giả của ta.” Tám mươi vị Đại-Thánh Thinh-văn đệ tử bắt đầu từ trưởng lão Mahāmoggallāna v.v, từ chỗ ngồi đứng dạy đều làm tương tự. Đức Thế Tôn đêu khước từ hết tất cả.
Ānandatthero pana tuṇhīyeva nisīdi. Atha naṃ bhikkhū evamāhaṃsu — “āvuso, ānanda, bhikkhusaṅgho upaṭṭhākaṭṭhānaṃ yācati, tvampi yācāhī”ti. So āha — “yācitvā laddhupaṭṭhānaṃ nāma āvuso kīdisaṃ hoti, kiṃ maṃ satthā na passati, sace rocissati, ānando maṃ upaṭṭhātūti vakkhatī”ti. Atha bhagavā — “na, bhikkhave, ānando aññena ussāhetabbo, sayameva jānitvā maṃ upaṭṭhahissatī”ti āha. Tato bhikkhū — “uṭṭhehi, āvuso ānanda, uṭṭhehi āvuso ānanda, dasabalaṃ upaṭṭhākaṭṭhānaṃ yācāhī”ti āhaṃsu. thero uṭṭhahitvā cattāro paṭikkhepe, catasso ca āyācanāti aṭṭha vare yāci.
Còn trưởng lão Ānanda thì ngồi thật im lặng. Khi ấy các vị tỳ khưu đã nói với trưởng lão Ānanda như vầy rằng – “Này hiền giả Ānanda, hội chúng tỳ khưu khẩn xin vị trí thị giả, luôn cả hiền giả cũng hãy khẩn xin”. Trưởng lão Ānanda đã nói rằng – “Này chư hiền giả, gọi vị thị giả đã khẩn xin (mà) có được là như thế nào? Bậc Đạo Sư không thấy ta sao? Nếu như ngài hài lòng thi ngài sẽ nói rằng: ‘Ānanda hãy làm thị giả cho ta’”. Khi ấy, đức Thế Tôn đã nói rằng – “Này các tỳ khưu, Ānanda không nên để người khác động viên, sau khi tự mình biết rồi săn sóc ta (trở thành vị thị giả)”. Lúc đó, các tỳ khưu đã nói rằng: “Hiền giả Ānanda hãy đứng lên, hiền giả Ānanda hãy đứng lên, hãy khẩn xin vị trí thị giả cùng đấng Thập Lực”. Trưởng lão đã đứng dậy xin tám điều là bốn điều (được phép) từ khước, (và) bốn điều (được phép) yêu cầu.
Cattāro paṭikkhepā nāma — “sace me, bhante, bhagavā attanā laddhaṃ paṇītaṃ cīvaraṃ na dassati, piṇḍapātaṃ na dassati, ekagandhakuṭiyaṃ vasituṃ na dassati, nimantanaṃ gahetvā na gamissati, evāhaṃ bhagavantaṃ upaṭṭhahissāmī”ti vatvā — “Kiṃ panettha, ānanda, ādīnavaṃ passasī”ti vutte — “Sacāhaṃ, bhante, imāni vatthūni labhissāmi, bhavissanti vattāro — ‘Ānando dasabalena laddhaṃ paṇītaṃ cīvaraṃ paribhuñjati, piṇḍapātaṃ paribhuñjati, ekagandhakuṭiyaṃ vasati, ekato nimantanaṃ gacchati, etaṃ lābhaṃ labhanto tathāgataṃ upaṭṭhāti, ko evaṃ upaṭṭhahato bhāro’ti” Ime cattāro paṭikkhepe yāci.
Bốn điều gọi là từ khước – “Kính bạch đức Thế Tôn, (1) nếu đức Thế Tôn nhận được y phục thượng hạng sẽ không ban cho Ānanda, (2) sẽ không ban cho bình bát, (3) sẽ không cho ở chung một Hương Thất, (4) sau khi (đức Thế Tôn) nhận lời thỉnh mời (Ānanda) sẽ không đi cùng. – Trong khi đức Tếh Tôn nói rằng: “Này Ānanda, ngươi thấy lỗi lầm gì?” – “Kích bạch ngài, nếu con sẽ được nhận những thứ này, (lúc đó) sẽ có người sẽ phê phán con rằng – “Ānanda sử dụng y phục thượng hạng mà đấng Thập Lực đã nhận được, thọ dụng vật thực khất thực, ở cùng trong một Hương Thất, đi chung đến nơi thỉnh mời (nơi chỉ thỉnh mời riêng đức Phật), khi nhận được lợi đắc này mới săn sóc Như Lai, một vị thị giả như vậy (thì) có trọng trách gì? Trưởng lão Ānanda đã xin bốn điều từ khước như thế.
Catasso āyācanā nāma — “sace, bhante, bhagavā mayā gahitanimantanaṃ gamissati, sacāhaṃ tiroraṭṭhā tirojanapadā bhagavantaṃ daṭṭhuṃ āgataṃ parisaṃ[34] āgatakkhaṇe eva bhagavantaṃ dassetuṃ lacchāmi, yadā me kaṅkhā uppajjati, tasmiṃyeva khaṇe bhagavantaṃ upasaṅkamituṃ lacchāmi, yaṃ bhagavā mayhaṃ parammukhā dhammaṃ deseti, taṃ āgantvā mayhaṃ kathessati, evāhaṃ bhagavantaṃ upaṭṭhahissāmī”ti vatvā — “Kaṃ panettha, ānanda, ānisaṃsaṃ passasī”ti vutte — “Idha, bhante, saddhā kulaputtā bhagavato okāsaṃ alabhantā maṃ evaṃ vadanti — ‘sve, bhante ānanda, bhagavatā saddhiṃ amhākaṃ ghare bhikkhaṃ gaṇheyyāthā’ti, sace bhante bhagavā tattha na gamissati, icchitakkhaṇeyeva parisaṃ dassetuṃ, kaṅkhañca vinodetuṃ okāsaṃ na lacchāmi, bhavissanti vattāro — ‘kiṃ ānando dasabalaṃ upaṭṭhāti, ettakampissa anuggahaṃ bhagavā na karotī’ti. Bhagavato ca parammukhā maṃ pucchissanti — ‘ayaṃ, āvuso ānanda, gāthā, idaṃ suttaṃ, idaṃ jātakaṃ, kattha desitan’ti. sacāhaṃ taṃ na sampādayissāmi, bhavissanti vattāro — ‘ettakampi, āvuso, na jānāsi, kasmā tvaṃ chāyā viya bhagavantaṃ avijahanto dīgharattaṃ vicarasī’ti. Tenāhaṃ parammukhā desitassapi dhammassa puna kathanaṃ icchāmī”ti imā catasso āyācanā yāci. Bhagavāpissa adāsi.
Bốn điều gọi là yêu cầu – “Kính bạch đức Thế Tôn, (1) nếu được xin đức Thế Tôn sẽ đi đến nơi mà con đã nhận lời thỉnh mời, (2) nếu được con sẽ đến gặp đức Thế Tôn trong lúc hội chúng đến từ vương quốc khác, từ xứ sở khác khi đến yết kiến đức Thế Tôn, (3) lúc nào sự nghi ngờ khởi lên nơi con, lúc ấy con sẽ được phép đến yết kiến đức Thế Tôn, (4) Khi Thế Tôn thuyết pháp ở đâu không có mặt con, sau khi ngài trở về sẽ thuyết giảng lại Pháp đó cho con, với tám điều như vậy con sẽ săn sóc đức Thế Tôn.” Khi đức Thế Tôn hỏi rằng: “Hơn nữa, ở đây Ānanda thấy được lợi ích gì?” – vị ấy đáp rằng: “Kính bạch đức Thế Tôn, các thiện nam tử có đức tin trong Giáo Pháp này, khi không có được cơ hội của đức Thế Tôn, đã nói cùng con như vầy rằng: ‘Thưa ngài Ānanda, hãy nhận lời thọ thực nơi tư gia của chúng tôi cùng với đức Thế Tôn vào ngày mai’, thưa ngài nếu như đức Thế Tôn sẽ không đi đến nơi ấy, tôi sẽ không có cơ hội để giải thích cùng hội chúng vào lúc họ mong muốn và để xóa tan sự nghi ngờ, sẽ có người nói rằng: ‘Chuyện gì vậy ngài Ānanda, vị hầu cận đấng Thập Lực chỉ chừng ấy, đức Thế Tôn cũng không hỗ trợ cho ngài Ānanda.” Và mọi người sẽ hỏi tôi ở sau lưng đức Thế Tôn rằng – ‘Thưa ngài Ānanda, đức Thế Tôn thuyết giảng kệ ngôn này, bài Kinh này, Bổn Sanh này ở đâu? Nếu như ngài sẽ giải thích điều ấy không được, sẽ có người nói rằng: ‘Chỉ chừng ấy, ngài cũng không biết, ngài không rời khỏi đức Thế Tôn như bóng (không rời hình) trong suốt thời gian dài, do lý do gì? Vì lý do ấy con muốn nói lại Giáo Pháp luôn cả Pháp đã được ngài thuyết giảng gián tiếp (cho con) thêm lần nữa. Ngài Ānanda xin yêu cầu bốn điều này. Đức Thế Tôn cũng đã ban (đồng ý tám điều) với ngài Ānanda.
Evaṃ ime aṭṭha vare gahetvā nibaddhupaṭṭhāko ahosi. Tasseva ṭhānantarassatthāya kappasatasahassaṃ pūritānaṃ pāramīnaṃ phalaṃ pāpuṇīti imassa nibaddhupaṭṭhākabhāvaṃ sandhāya — “mayhaṃ, bhikkhave, etarahi ānando bhikkhu upaṭṭhāko aggupaṭṭhāko”ti āha. Ayaṃ upaṭṭhākaparicchedo nāma.
Ngài Ānanda khi nhận bốn điều cao quý này cũng đã trở thành vị thị giả thường cận như thế. Ngài Ānanda đã chứng đắc Thánh quả ba-la-mật được thực hành suốt một trăm ngàn kiếp để đạt được vị trí ấy. Đức Thế Tôn thuyết rằng – “Này chư tỳ khưu, bây giờ tỳ khưu Ānanda này là vị thị giả thường cận của ta (vị ấy) đã trở thành vị thị giả đệ nhất, để đề cập đến tính chất mà Ānanda này trở thành vị thị giả thường cận ấy. Đây là việc xác định vị thị giả.
- Pitiparicchedo uttānatthoyeva. Việc xác định người cha có ý nghĩa đơn giản.
Vihāraṃ pāvisīti kasmā vihāraṃ pāvisi? Bhagavā kira ettakaṃ kathetvā cintesi — “Na tāva mayā sattannaṃ buddhānaṃ vaṃso nirantaraṃ matthakaṃ pāpetvā kathito, ajja mayi pana vihāraṃ paviṭṭhe ime bhikkhū bhiyyoso mattāya pubbenivāsañāṇaṃ ārabbha vaṇṇaṃ kathayissanti. Athāhaṃ āgantvā[35] nirantaraṃ buddhavaṃsaṃ kathetvā matthakaṃ pāpetvā dassāmī”ti bhikkhūnaṃ kathāvārassa okāsaṃ datvā uṭṭhāyāsanā vihāraṃ pāvisi.
Đi vào trú xá: đức Thế Tôn đi vào trú xá do nguyên nhân gì? Được biết sau khi đức Thế Tôn nói như thế đã suy nghĩ rằng – “Ta đã đạt đến đích đến (bất tử Nibbāna) không có gián đoạn, vẫn chứa nói đến dòng dõi của cả 7 vị Phật, khi ta đi vào trú xá những vị tỳ khưu này bắt đầu nhắc đến trí về các kiếp sống quá khứ càng nhiều hơn rồi sẽ nói đến ân đức. Vậy thì sau khi đi đến ta nói đến dòng dõi chư Phật không có gián đoạn, cho các ty tỳ khưu đạt đến đích đến rồi sẽ thuyết giảng” để tạo cơ hội cho các vị tỳ khưu đàm luận với nhau nên mới từ chỗ ngồi đứng dậy đi vào trú xá.
Yañcetaṃ bhagavā tantiṃ kathesi, tattha kappaparicchedo, jātiparicchedo, gottaparicchedo, āyuparicchedo, bodhiparicchedo, sāvakayugaparicchedo, sāvakasannipātaparicchedo, upaṭṭhākaparicchedo, pitiparicchedoti navime vārā āgatā, sambahulavāro anāgato, ānetvā pana dīpetabbo.
Điều này, đức Thế Tôn đã nói theo cách nào, trong chín phần này đã được thiết lập theo cách ấy là xác định kiếp (niên đại), xác định sanh chủng, xác định dòng họ, xác định tuổi thọ, xác định cội cây Bồ-đề, xác định hai vị tối thượng Thinh-văn, xác định việc tụ hội chư Thánh Thinh-văn, xác định vị thị giả hàng đầu, xác định người cha. Nhiều phần chưa được thiết lập nhưng đếm đến thuyết giảng.
Giảng Giải Về Lời Nói Sambahulavāra
Sabbabodhisattānañhi ekasmiṃ kulavaṃsānurūpe putte jāte nikkhamitvā pabbajitabbanti ayameva vaṃso, ayaṃ paveṇī. Kasmā? Sabbaññubodhisattānañhi mātukucchiṃ okkamanato paṭṭhāya pubbe vuttappakārāni anekāni pāṭihāriyāni honti, tatra nesaṃ yadi neva jātanagaraṃ, na pitā, na mātā, na bhariyā, na putto paññāyeyya, “imassa neva jātanagaraṃ, na pitā, na bhariyā, na putto paññāyati, devo vā sakko vā māro vā brahmā vā esa maññe, devānañca īdisaṃ pāṭihāriyaṃ anacchariyan”ti maññamāno jano neva sotabbaṃ, na saddhātabbaṃ maññeyya. Tato abhisamayo na bhaveyya, abhisamaye asati niratthakova buddhuppādo, aniyyānikaṃ sāsanaṃ hoti. Tasmā sabbabodhisattānaṃ — “ekasmiṃ kulavaṃsānurūpe putte jāte nikkhamitvā pabbajitabban”ti ayameva vaṃso ayaṃ paveṇī. Tasmā puttādīnaṃ vasena sambahulavāro ānetvā dīpetabbo.
Thật vây, khi đứa bé trai (xứng đáng) đã sanh ra ở một gia đình và dòng dõi của chư Bồ-tát thì nên xuất gia, đây chính là dòng dõi, đây là truyền thống. Tại sao? Bởi vậy, kể từ khi nhập thai vào bụng mẹ của Bồ-tát, người trở thành bậc Toàn Giác có những phép kỳ diệu đã được trình bày ở phần trước, giả sử quê hương cha, mẹ, vợ và con của Bồ-tát ấy không thể xuất hiện, quê hương cha, mẹ, vợ và con của những này cũng không xuất hiện. Người này nhìn thấy có lẽ là chư Thiên, vua trời Sakka, Ma-vương, hoặc Phạm Thiên, và nghĩ rằng phép kỳ diệu như thế này của chư Thiên (điều này) quả không kỳ lạ,” nên nghĩ đến phép kỳ diệu không nên lắng nghe, mà cũng không nên tin tưởng. Khi đó, việc giác ngộ không thể có, việc hiện khởi của đức Phật cũng không có lợi ích, lời dạy cũng không dẫn dắt khỏi khổ đau. Vì thế, khi đứa bé trai (xứng đáng) khi đứa con trai đã sanh ra ở một gia đình và dòng dõi của chư Bồ-tát thì nên xuất gia, chính đây là dòng dõi, đây là truyền thống. Cho nên, nên đem nhiều đoạn đến để thuyết giảng với khả năng của đứa bé trai v.v.
Giảng Giải Về Phần Sambahulavāra
Tattha — Samavattakkhandho atulo, suppabuddho ca uttaro.
Satthavāho vijitaseno, rāhulo bhavati sattamoti.
Ete tāva sattannampi bodhisattānaṃ anukkameneva satta puttā veditabbā.
Tattha rāhulabhadde tāva jāte paṇṇaṃ āharitvā mahāpurisassa hatthe ṭhapayiṃsu. Athassa tāvadeva sakalasarīraṃ khobhetvā puttasineho aṭṭhāsi. So cintesi — “ekasmiṃ tāva jāte evarūpo puttasineho, parosahassaṃ kira me puttā bhavissanti, tesu ekekasmiṃ jāte idaṃ sinehabandhanaṃ evaṃ vaḍḍhantaṃ dubbhejjaṃ bhavissati, rāhu jāto, bandhanaṃ jātan”ti āha. taṃ divasameva ca rajjaṃ pahāya nikkhanto. esa nayo sabbesaṃ puttuppattiyanti. ayaṃ puttaparicchedo.
Sutanā sabbakāmā ca, sucittā atha rocinī[36].
Rucaggatī[37] sunandā ca, bimbā bhavati sattamāti.
Etā tesaṃ sattannampi puttānaṃ mātaro ahesuṃ. Bimbādevī pana rāhulakumāre jāte rāhulamātāti paññāyittha. Ayaṃ bhariyaparicchedo.
Ở đó – nên biết cả bảy người con trai theo thứ tự của cả bảy vị Bồ-tát này trước là Samavattakkhandha, Atula, Suppabuddha và Uttara. Satthavāha, Vijitasena và Rāhula là thứ bảy.
Trong số bảy người con trai ấy, khi hoàng tử Rāhula hạ sanh, các cận thần đã mang bức thư đến đặt lên đôi bàn tay của bậc Đại Nhân. Khi ấy tình yêu thương đối với hoàng tử đã khiến toàn thân của bậc Đại Nhân vui sướng. Bậc Đại Nhân suy tư rằng: “Trong khi chỉ sanh có một đứa con trai mà tình yêu thương đối với con đã như thế, nếu như ta có hơn một ngàn đứa con trai, trong số những đứa con ấy, khi một đứa con được sinh ra sự trói buộc bởi tình yêu thương lại tăng thêm như vậy, trái tim (của ta) chắc sẽ bị vỡ tan, (cho nên) ngài đã nói rằng: “Rāhu đã ra đời, sự trói buộc đã sanh khởi!” Vào ngay ngày hôm ấy, bậc Đại Nhân đã rời bỏ vương quốc ra đi xuất gia. Việc sanh con trai của các Bồ-tát đều có phương cách này. Đây là việc xác định con trai.
Luôn cả bảy người con trai ấy đã có những người mẹ này là – Hoàng hậu Sutanā, hoàng hậu Sabbakāmā, hoàng hậu Sucittā, và hoàng hậu Rocinī. Hoàng hậu Rucaggatī, hoàng hậu Sunandā, và Hoàng hâu Bimbā là thứ bảy. Hơn nữa, hoàng hậu Bimbā khi hoàng tử Rāhula được hạ sanh, đã xuất hiện tên gọi là mẹ của Rāhula. Đây là việc xác định người vợ.
Vipassī kakusandhoti ime pana dve bodhisattā payutta-ājañña[38]rathamāruyha mahābhinikkhamanaṃ nikkhamiṃsu. Sikhī koṇāgamanoti ime dve hatthikkhandhavaragatā hutvā nikkhamiṃsu. Vessabhū suvaṇṇasivikāya nisīditvā nikkhami. Kassapo uparipāsāde mahātale nisinnova ānāpānacatutthajjhānaṃ nibbattetvā jhānā uṭṭhāya taṃ jhānaṃ pādakaṃ katvā — “pāsādo uggantvā bodhimaṇḍe otaratū”ti adhiṭṭhāsi. pāsādo ākāsena gantvā bodhimaṇḍe otari. Mahāpurisopi tato otaritvā bhūmiyaṃ ṭhatvā — “pāsādo yathāṭhāneyeva patiṭṭhātū”ti cintesi. so yathāṭhāne patiṭṭhāsi. Mahāpurisopi satta divasāni padhānamanuyuñjitvā bodhipallaṅke nisīditvā sabbaññutaṃ[39] paṭivijjhi. amhākaṃ pana bodhisatto kaṇṭakaṃ[40] assavaramāruyha nikkhantoti. Ayaṃ yānaparicchedo.
Hơn nữa, hai vị Bồ-tát là Bồ-tát Vipassī và Bồ-tát Kakusandha, ngài bước lên cỗ xe ngựa thuần chủng rời khỏi thực hiện cuộc ra đi vĩ đại. Hai vị Bồ-tát là Bồ-tát Sikhī và và Bồ-tát Kakusandha ngồi trên cổ con voi cao quý ra đi (theo hạnh xuất gia). Bồ-tát Vessabhu ngồi trên kiệu vàng ra đi (theo hạnh xuất gia). Bồ-tát Kassapa ngồi ở trên tòa lâu đài rộng lớn đã làm niệm hơi thở ở Tứ thiền, sau khi xuất khỏi thiền đã làm cho thiền đó trở thành nền tảng để phát nguyện rằng – “Tòa lâu đài hãy bay đi (và) đặt xuống dưới cội Bồ-đề”, tòa lâu đài đã bay vào không trung rồi đặt xuống dưới cội Bồ-đề. Khi đó, sau khi bậc Đại Nhân bước xuống từ tòa lâu đài đã đứng trên bề mặt đất phát nguyện rằng – “Tòa lâu đài hãy thiết lập đúng vị trí ban đầu”. (Ngay lập tức) tòa lâu đài đã thiết lập đúng vị trí ban đầu. Luôn cả bậc Đại Nhân cũng gắn liền với sự tinh tấn suốt bảy ngày ngồi ở tại bảo tọa Bồ-đề đã nhận thức thấu đáo (giác ngộ) Toàn-giác trí. Còn Bồ-tát của chúng ta ngự trên ngựa Kaṇṭaka rời khỏi (hoàng cung để đi xuất gia). Đây là việc xác định phương tiện (xuất gia).
Vipassissa pana bhagavato yojanappamāṇe padese vihāro patiṭṭhāsi, sikhissa tigāvute, vessabhussa aḍḍhayojane, kakusandhassa gāvute, koṇāgamanassa aḍḍhagāvute, kassapassa vīsatiusabhe. amhākaṃ bhagavato pakatimānena soḷasakarīse, rājamānena aṭṭhakarīse padese vihāro patiṭṭhitoti. Ayaṃ vihāraparicchedo.
Hơn nữa, trú xá của đức Thế Tôn Vipassī được xây dựng ở khu đất có diện tích khoảng một do-tuần, (trú xá) của đức Thế Tôn Sikhī ba gāvuta, (trú xá) của đức Thế Tôn Vessabhū một nửa do tuần, (trú xá) của đức Thế Tôn Kakusandha một gāvuta, (trú xá) của đức Thế Tôn Koṇāgamana một nửa gāvuta, (trú xá) của đức Thế Tôn Kassapa hai mươi usabha, (trú xá) của đức Thế Tôn của chúng ta được xây dựng ở khu đất có diện tích mười sáu karīsa theo cách đo thông thường, 8 karīsa theo cách đo hoàng tộc. Đây là việc xác định trú xá.
Vipassissa pana bhagavato ekaratanāyāmā vidatthivitthārā aṭṭhaṅgulubbedhā suvaṇṇiṭṭhakā kāretvā cūḷaṃsena chādetvā vihāraṭṭhānaṃ kiṇiṃsu. Sikhissa suvaṇṇayaṭṭhiphālehi chādetvā kiṇiṃsu. Vessabhussa suvaṇṇahatthipādāni kāretvā tesaṃ cūḷaṃsena chādetvā kiṇiṃsu. Kakusandhassa vuttanayeneva suvaṇṇiṭṭhakāhi chādetvā kiṇiṃsu. Koṇāgamanassa vuttanayeneva suvaṇṇakacchapehi chādetvā kiṇiṃsu. Kassapassa suvaṇṇakaṭṭīhiyeva[41] chādetvā kiṇiṃsu. Amhākaṃ bhagavato salakkhaṇānaṃ kahāpaṇānaṃ cūḷaṃsena chādetvā kiṇiṃsu. Ayaṃ vihārabhūmiggahaṇadhanaparicchedo.
Thêm nữa, các trưởng giả cho những người thợ làm những viên gạch màu vàng dài một hắc tay, rộng một gang tay, cao tám lóng tay, đặt chúng theo chiều ngang, mua xây dựng trú xá cúng dường đến đức Thế Tôn Vipassī. Lát bằng những tấm gỗ màu vàng mua cúng đường đến đức Thế Tôn Sikhī. Cho thợ làm chân voi màu vàng lát nằm ngang, mua cúng dường đức Thế Tôn Vessabhū. Lát bằng gạch màu vàng theo cách được đã nói, mua cúng dường đến đức Phật Kakusandha. Lát bằng con rùa màu vàng theo cách được đã nói, mua cúng dường đến đức Phật Koṇāgamana. Lát bàng vàng miếng, mua cúng dường đến đức Phật Kassapa. Và lát theo bề ngang bằng đồng tiền kahāpaṇa có ký hiệu, mua cúng dường đến đức Thế Tôn của chúng ta. Đây là việc xác định việc giữ lấy vùng đất để xây dựng trú xá.
Tattha vipassissa bhagavato tathā bhūmiṃ kiṇitvā vihāraṃ katvā dinnupaṭṭhāko punabbasumitto nāma ahosi, sikhissa sirivaḍḍhano nāma, vessabhussa sotthiyo nāma, kakusandhassa accuto nāma, koṇāgamanassa uggo nāma, kassapassa sumano nāma, amhākaṃ bhagavato sudatto nāma. Sabbe cete gahapatimahāsālā seṭṭhino ahesunti. ayaṃ upaṭṭhākaparicchedo nāma.
Ở đó, người hộ độ mua đất để xây dựng trú xá cúng dường đến đức Thế Tôn Vipassī tên là Punabbasumitta, cúng dường đức Thế Tôn Sikhī tên là Sirivaḍḍhana, cúng dường đức Thế Tôn Vessabhū tên là Sotthiya, cúng dường đức Thế Tôn Kakusandha tên là Accuta, cúng dường đức Thế Tôn Koṇāgamana tên là Ugga, cúng dường đức Thế Tôn Kassapa tên là Sumana, cúng dường đức Phật của chúng ta là Sudatta (tức nam cư sĩ Anāthapiṇḍika). Và toàn bộ những người hộ độ ấy đều là những vị trưởng giả gia chủ hào phú. Đây là việc xác định người hộ độ.
Aparāni cattāri avijahitaṭṭhānāni nāma honti. sabbabuddhānañhi bodhipallaṅko avijahito, ekasmiṃyeva ṭhāne hoti. Dhammacakkappavattanaṃ isipatane migadāye avijahitameva hoti. Devorohanakāle saṅkassanagaradvāre paṭhamapadagaṇṭhikā[42] avijahitāva hoti. Jetavane gandhakuṭiyā cattāri mañcapādaṭṭhānāni avijahitāneva honti. Vihāro pana khuddakopi mahantopi hoti, vihāropi na vijahitoyeva, nagaraṃ pana vijahati. Yadā nagaraṃ pācīnato hoti, tadā vihāro pacchimato; yadā nagaraṃ dakkhiṇato, tadā vihāro uttarato. yadā nagaraṃ pacchimato, tadā vihāro pācīnato; yadā nagaraṃ uttarato, tadā vihāro dakkhiṇato. Idāni pana nagaraṃ uttarato, vihāro dakkhiṇato
Còn có bốn chỗ khác nữa là nơi không thể loại bỏ là bảo tọa giác ngộ của chư Phật, không thể loại bỏ chỉ có ở một chỗ mà thôi. Việc vận hành bánh xe Pháp bảo ở rừng Isipatana, chỗ Vườn Nai không thể loại bỏ. Việc giẫm bước chân đầu tiên ở cổng thành Saṅkassa trong lúc ngài bước xuống từ Thiên giới không thể loại bỏ. Nơi đặt bốn chân giường ở Hương Thất tại Đại tinh xá Jetavana không thể loại bỏ. Dù trú xá có nhỏ, có lớn. Luôn cả trú xá cũng không thể loại bỏ. Tuy nhiên thành phố có thể loại bỏ. Lúc nào thành phố nằm ở hướng Đông, lúc đó trú xá nằm hướng Tây; lúc nào thành phố nằm ở hướng Nam, lúc ấy trú xá nằm ở Bắc. Lúc nào thành phố nằm ở hướng Tây, lúc đó trú xá nằm ở hướng Đông. Lúc nào thành phố nằm ở hướng Bắc, lúc đó trú xá nằm ở hướng Nam. Còn lúc này thành phố nằm ở hướng Bắc, trú xá nằm ở hướng Nam.
Sabbabuddhānañca āyuvemattaṃ, pamāṇavemattaṃ, kulavemattaṃ, padhānavemattaṃ, rasmivemattanti pañca vemattāni honti. Āyuvemattaṃ nāma keci dīghāyukā honti, keci appāyukā. Tathā hi dīpaṅkarassa vassasatasahassaṃ āyuppamāṇaṃ ahosi, amhākaṃ bhagavato vassasataṃ āyuppamāṇaṃ.
Và tất cả các vị Phật có năm sự khác biệt là khác biệt về tuổi thọ, khác nhau về chiều cao, khác nhau về dòng dõi, khác biệt về sự tinh tấn, khác biệt về hào quang. Một số vị Phật được trường thọ, một số vị có tưởi thọ ít thì gọi là khác biệt về tuổi thọ. Sự thật như thế đức Phật Dīpaṅkaracó tuổi thọ ước chừng một trăm ngàn tuổi, đức Phật của chúng ta có tuổi thọ khoảng một trăm tuổi.
Pamāṇavemattaṃ nāma keci dīghā honti keci rassā. Tathā hi dīpaṅkaro asītihattho ahosi, sumano navutihattho, amhākaṃ bhagavā aṭṭhārasahattho.
Một số vị cao, một số vị thấp gọi là khác biệt về chiều cao. Sự thật như thế đức Phật Dīpaṅkara cao tám mươi hắc tay, đức Phật Sumana cao chín mươi hắc tay, còn đức Thế Tôn của chúng cao mười tám hắc tay.
Kulavemattaṃ nāma keci khattiyakule nibbattanti, keci brāhmaṇakule. Padhānavemattaṃ nāma kesañci padhānaṃ ittarakālameva hoti, yathā kassapassa bhagavato. Kesañci addhaniyaṃ, yathā amhākaṃ bhagavato.
Một số vị sanh vào gia đình Sát-đế-lỵ, một số vị sanh ra trong gia đình Bà-la-môn gọi là khác biệt về dòng dõi. Sự tinh tấn của một số vị ngắn chẳng hạn như đức Thế Tôn Kassapa, một số vị rất dài chẳng hạn như đức Thế Tôn của chúng ta gọi là sự khác biệt về sự tinh tấn.
Rasmivemattaṃ nāma maṅgalassa bhagavato sarīrarasmi dasasahassilokadhātuppamāṇā ahosi. Amhākaṃ bhagavato samantā byāmamattā. Tatra rasmivemattaṃ ajjhāsayappaṭibaddhaṃ, yo yattakaṃ icchati, tassa tattakaṃ sarīrappabhā pharati. Maṅgalassa pana niccampi dasasahassilokadhātuṃ pharatūti ajjhāsayo ahosi. Paṭividdhaguṇesu pana kassaci vemattaṃ nāma natthi.
Hào quang từ kim thân của đức Thế Tôn Maṅgala khoảng chừng mười ngàn thế giới. (Hào quang) của đức Thế Tôn của chúng ta bao quanh (kinh than) khoảng chừng hai mét gọi là khác biệt về hào quang. Trong số những sự khác biệt ấy thì khác biệt về hào quang có liên quan đến ý muốn của đức Phật, vị nào có ước muốn chừng nào thì hào quang từ kim thân của vị ấy sẽ lan tỏa chừng ấy. Còn hào quang từ kim thân của đức Thế Tôn Maṅgala lan tỏa mười ngàn thế giới là thường hằng, là ý muốn của đức Phật. Tuy nhiên sự khác biệt về ân đức, tức là sự thấu triệt là không có.
Aparaṃ amhākaṃyeva bhagavato sahajātaparicchedañca nakkhattaparicchedañca dīpesuṃ. Sabbaññubodhisattena kira saddhiṃ rāhulamātā, ānandatthero, channo, kaṇṭako, nidhikumbho, mahābodhi, kāḷudāyīti imāni satta sahajātāni. Mahāpuriso ca uttarāsāḷhanakkhatteneva mātukucchiṃ[43] okkami, mahābhinikkhamanaṃ nikkhami, dhammacakkaṃ pavattesi, yamakapāṭihāriyaṃ akāsi. visākhānakkhattena jāto ca abhisambuddho ca parinibbuto ca. Māghanakkhattenassa sāvakasannipāto ca ahosi, āyusaṅkhārossajjanañca, assayujanakkhattena devorohananti ettakaṃ āharitvā dīpetabbaṃ. Ayaṃ sambahulaparicchedo nāma.
Bậc trí trình bày thêm vấn đề khác chẳng hạn như xác định (người và vật) đồng sanh, và xác định về ngày giờ của đức Thế Tôn của chúng ta. Được biết bảy thứ (người và vật) đồng sanh cùng với Bồ-tát Toàn-giác là mẹ của Rāhula, trưởng lão Ānanda, ngài Channa, ngựa Kaṇṭaka, hầm châu báu, cây Bồ-đề, ngài Kāḷudāyī. Và bậc Đại Nhân nhập thai vào bụng mẹ, ngài đã rời khởi (hoàng cung) thực hiện cuộc ra đi vĩ đại, đã vận hành bánh xe Pháp, đã thị hiện song thông vào chính ngày Uttarāsāḷha. Hạ sanh, giác ngộ và viên tịch Nibbāna vào ngày Visākha. Tụ hội chư Thánh Thinh-văn đệ tử và buông xả thọ hành vào ngày Māgha. Ngài bước xuống từ Thiên giới vào ngày Assayuja, có thể đem đến trình bày chỉ bấy nhiêu. Đây gọi là xác định Sambahula (nhiều phần).
- Idāni atha kho tesaṃ bhikkhūnantiādīsu te bhikkhū — “āvuso, pubbenivāsassa nāma ayaṃ gati, yadidaṃ cutito paṭṭhāya paṭisandhiārohanaṃ. yaṃ pana idaṃ paṭisandhito paṭṭhāya pacchāmukhaṃ ñāṇaṃ pesetvā cuti gantabbaṃ, idaṃ atigarukaṃ. ākāse padaṃ dassento viya bhagavā kathesī”ti ativimhayajātā hutvā — “acchariyaṃ, āvuso,”tiādīni vatvā puna aparampi kāraṇaṃ dassento — “yatra hi nāma tathāgato”tiādimāhaṃsu. Tattha yatra hi nāmāti acchariyatthe nipāto, yo nāma tathāgatoti attho. Chinnapapañceti ettha papañcā nāma taṇhā māno diṭṭhīti ime tayo kilesā. Chinnavaṭumeti ettha vaṭumanti kusalākusalakammavaṭṭaṃ vuccati. Pariyādinnavaṭṭeti tasseva vevacanaṃ, pariyādinnasabbakammavaṭṭeti attho. sabbadukkhavītivatteti sabbaṃ vipākavaṭṭasaṅkhātaṃ dukkhaṃ vītivatte. Anussarissatīti idaṃ yatrāti nipātavasena anāgatavacanaṃ, attho panettha atītavasena veditabbo. Bhagavā hi te buddhe anussari, na idāni anussarissati. Evaṃsīlāti maggasīlena phalasīlena lokiyalokuttarasīlena evaṃsīlā. Evaṃdhammāti ettha samādhipakkhā dhammā adhippetā, maggasamādhinā phalasamādhinā lokiyalokuttarasamādhinā, evaṃsamādhayoti attho. Evaṃpaññāti maggapaññādivaseneva evaṃpaññā. Evaṃvihārīti ettha pana heṭṭhā samādhipakkhānaṃ dhammānaṃ gahitattā vihāro gahitova puna kasmā gahitameva gaṇhātīti ce; na idaṃ gahitameva, idañhi nirodhasamāpattidīpanatthaṃ vuttaṃ. Tasmā evaṃ nirodhasamāpattivihārī te bhagavanto ahesunti evamettha attho daṭṭhabbo.
- Bây giờ ‘Sau đó, khi đức Thế Tôn vừa mới ra đi không lâu, có câu chuyện trao đổi này đã khởi lên giữa các vị tỳ khưu ấy’ v.v. các vị tỳ khưu ấy đã vô cùng ngạc nhiên – “Này các hiền giả, đức Thế Tôn đã nói đến việc tục sanh kể từ lúc tử. Việc hướng trí tuệ quay trở lại từ lúc tục sanh cho tới lúc tử, đây là con đường của trí về các kiếp sống quá khứ, điều này vô cùng nặng nề, như thể chỉ dấu chân ở trên hư không,” rồi mới nói rằng – “Này các hiền giả, thật là phi thường”. Khi thuyết giảng đến nhân khác nữa mới nói rằng: “bởi vì ở lãnh vực này đức Như Lai sẽ nhớ lại…” Ở đó, Yatra hi nāma chỉ là phân từ được sử dụng với ý nghĩa ‘thật là phi thường’, có nghĩa là đấng Như Lại nào. Đã cắt đứt chướng ngại: ở đây là ba pháp phiền não – tham ái, ngã mạn, tà kiến, chúng được gọi là chướng ngại. Đã cắt đứt cuộc hành trình: ở đây ngài nói vòng luân hồi là thiện nghiệp và bất thiện nghiệp rằng ‘cuộc hành trình’. Đã chấm dứt sự luân chuyển: là từ đồng nghĩa với chính cụm từ ‘đã cắt đứt cuộc hành trình’, giải thích rằng – việc áp chế vòng luân hồi là toàn bộ nghiệp lực. Đã vượt qua khỏi tất cả khổ: đã vượt qua khỏi khổ được xem là toàn bộ quả luân hồi. Sẽ nhớ lại: đây là từ nói đến vị lai, về phương diện của phân từ là ‘yatra’. Ở đây, câu này nên biết giải thích theo năng lực thuộc quá khứ. Thật vậy, đức Thế Tôn đã nhớ đến các vị Phật ấy, không phải sẽ nhớ đến trong lúc này. Có Giới như vậy: có giới như vậy bởi Giới thuộc về Đạo, Giới thuộc về Quả, Giới thuộc Hiệp Thế, và Giới thuộc Siêu Thế. Có pháp (Định) như vậy: Ở đây Pháp thuộc phần định là điều ngài muốn đề cập trong câu này, giải thích rằng – có định như vậy bởi Định của Đạo, Định của Quả, Định thuộc Hiệp Thế, và Định thuộc Siêu Thế. Có Tuệ như vậy: Có tuệ như vậy do tác động của Đạo Tuệ v.v. Có sự an trú như vậy: Giải thích rằng – Nếu có vấn đề cho rằng trong câu này do các Pháp thuộc phần Định ngài đã nắm lấy ở phần hạ cũng coi như nắm lấy sự ăn trú, tại sao lại nắm lấy pháp đã được nắm lấy nữa vậy? Đây không phải là việc nắm lấy, bởi vì câu này ngài nói để thuyết đến sự thể nhập thiền diệt. Do đó, các đức Thế Tôn ấy đã có sự an trú là sự thể nhập thiền diệt, nên hiểu ý nghĩa trong câu này như vậy.
Evaṃvimuttāti ettha vikkhambhanavimutti, tadaṅgavimutti, samucchedavimutti, paṭippassaddhivimutti, nissaraṇavimuttīti pañcavidhā vimutti. Tattha aṭṭha samāpattiyo sayaṃ vikkhambhitehi nīvaraṇādīhi vimuttattā vikkhambhanavimuttīti saṅkhyaṃ[44] gacchanti. Aniccānupassanādikā sattānupassanā sayaṃ tassa tassa paccanīkaṅgavasena pariccattāhi[45] niccasaññādīhi vimuttattā tadaṅgavimuttīti saṅkhyaṃ gacchanti. cattāro ariyamaggā sayaṃ samucchinnehi kilesehi vimuttattā samucchedavimuttīti saṅkhyaṃ gacchanti. Cattāri sāmaññaphalāni maggānubhāvena kilesānaṃ paṭippassaddhante uppannattā paṭippassaddhivimuttīti saṅkhyaṃ gacchanti. Nibbānaṃ sabbakilesehi nissaṭattā apagatattā dūre ṭhitattā nissaraṇavimuttīti saṅkhyaṃ gacchati. Iti imāsaṃ pañcannaṃ vimuttīnaṃ vasena — “evaṃ vimuttā”ti ettha attho daṭṭhabbo.
Đã được giải thoát như vậy: sự giải thoát trong câu này có năm loại là – (1) sự giải thoát do áp chế, (2) sự giải thoát do thay thế, (3) sự giải thoát do đoạn trừ, (4) sự giải thoát do tịnh lặng, và (5) sự giải thoát do xuất ly. Trong những sự giải thoát ấy thì tám thiền chứng được xếp vào sự giải thoát do áp chế bởi đã được thoát khỏi các pháp ngăn che v.v, , mà tự thân chế ngự. Bảy Tùy Quán có Quán Vô Thường v.v, được xếp vào sự giải thoát do thay thế nhờ năng lực xác định các yếu tố đối nghịch của chính những pháp ấy bởi đã được thoát khỏi từ Thường Tưởng v.v, ấy. Bốn Thánh Đạo được xếp vào sự giải thoát do đoạn trừ bởi đã được thoát khỏi ô nhiễm mà tự thân cắt đứt. Bốn quả báo Sa-môn được xếp vào sự giải thoát do tịnh lặng bởi đã sanh khởi vào chặng cuối việc vắng lặng của phiền não nhờ năng lực của Đạo. Nibbāna được xếp vào sự giải thoát do xuất ly bởi thoát khỏi, là do viễn ly, là do được thiết lập ở xa tất cả phiền não. Vì thế, nên biết ý nghĩa trong câu này rằng: ‘đã được thoát khỏi như vậy’ nhờ vào khả năng của năm sự giải thoát này.
- Paṭisallānā vuṭṭhitoti ekībhāvā vuṭṭhito.
- Ngài (đức Thế Tôn) xuất khỏi chỗ độc cư thiền tịnh: Đức Thế Tôn xuất khỏi chỗ độc cư thiền tịnh.
- “Ito so, bhikkhave”ti ko[46] anusandhi? idañhi suttaṃ — “tathāgatassevesā, bhikkhave, dhammadhātu suppaṭividdhā”ti ca “devatāpi tathāgatassa etamatthaṃ ārocesun”ti ca imehi dvīhi padehi ābaddhaṃ[47]. Tattha devatārocanapadaṃ[48] suttantapariyosāne devacārikakolāhalaṃ dassento vicāressati. Dhammadhātupadānusandhivasena pana ayaṃ desanā āraddhā. Tattha khattiyo jātiyātiādīni ekādasapadāni nidānakaṇḍe vuttanayeneva veditabbāni.
- “Này các tỳ khưu …” liên kết với nhau như thế nào? Thậy vậy, bài Kinh này – “Đức Thế Tôn bắt bầu với hai câu này, này các tỳ khưu, Như Lai đã thấu triệt Pháp Giới này” và “luôn cả chư Thiên cũng đã thuật lại sự việc ấy cho đức Như Lai”. Trong hai câu ấy thì đức Thế Tôn thuyết đến sự việc được thuật lại của chư Thiên, sẽ cân nhắc đến sự hỗn loạn của cuộc du hành với chư Thiên lúc kết thúc bài Kinh. Hơn nữa, đức Thế Tôn đã bắt đầu Pháp thoại này nhờ phương diện liên kết từ chủ đề Pháp Giới. Trong những câu ấy nên biết mười một câu khởi đầu như sau: “Là Sát-đế-lỵ theo dòng dõi…”
Giảng Giải Về Bodhisatta-dhammatā
- Atha kho, bhikkhave, vipassī bodhisattotiādīsu pana vipassīti tassa nāmaṃ, tañca kho vividhe atthe passanakusalatāya laddhaṃ. Bodhisattoti paṇḍitasatto bujjhanakasatto. Bodhisaṅkhātesu vā catūsu maggesu satto āsatto laggamānasoti bodhisatto. Sato sampajānoti ettha satoti satiyeva. Sampajānoti ñāṇaṃ. Satiṃ sūpaṭṭhitaṃ katvā ñāṇena paricchinditvā mātukucchiṃ okkamīti attho. Okkamīti iminā cassa okkantabhāvo pāḷiyaṃ dassito, na okkamanakkamo. so pana yasmā aṭṭhakathaṃ ārūḷho, tasmā evaṃ veditabbo —
- Từ ‘Vipassī’ trong câu ‘Khi ấy, này các tỳ khưu, đức Bồ-tát Vipassī v.v,’ là tên của vị Bồ-tát ấy. Và ngài có được tên gọi ấy bởi vì ngài là người sáng suốt trong việc nhìn thấy được ý nghĩa ở nhiều khía cạnh. Đức Bồ-tát: Chúng sanh thiện xảo, chúng sanh giác ngộ. Hơn nữa, chúng sanh quan tâm đến, tức là tâm chăm chú trong bốn Đạo được xem là sự giác ngộ, gọi là Bồ-tát (chúng sanh hướng đến sự giác ngộ). Ở đây ‘Trú niệm, có sự nhận biết rõ’ thì ‘sato’ chính là ‘sati-niệm’. Có sự nhận biết rõ: là trí. Giải thích rằng – Bồ-tát đã trú niệm vững chắc, đã xác định bởi trí (ngài) nhập thai vào bụng mẹ. Đã nhập thai: ngài chỉ ra bản thể đức Bồ-tát nhập thai bằng câu này trong Pāḷī đã không nhắc đến theo tuần tự của việc nhập thai, cũng bởi vì tuần tự của việc nhập thai ấy ngài đã nêu ra ở phần Chú Giải, vì thế nên hiểu như vậy –
Sabbabodhisattā hi samatiṃsa pāramiyo pūretvā, pañca mahāpariccāge pariccajitvā, ñātatthacariyalokatthacariyabuddhacariyānaṃ koṭiṃ patvā, vessantarasadise tatiye attabhāve ṭhatvā, satta mahādānāni datvā, sattakkhattuṃ pathaviṃ kampetvā, kālaṅkatvā, dutiyacittavāre tusitabhavane nibbattanti. Vipassī bodhisattopi tatheva katvā tusitapure nibbattitvā saṭṭhisatasahassādhikā sattapaññāsa vassakoṭiyo tattha aṭṭhāsi. Aññadā pana dīghāyukadevaloke nibbattā bodhisattā na yāvatāyukaṃ tiṭṭhanti. Kasmā? Tattha pāramīnaṃ duppūraṇīyattā. Te adhimuttikālakiriyaṃ[49] katvā manussapatheyeva nibbattanti. Pāramīnaṃ pūrento pana[50] yathā idāni ekena attabhāvena sabbaññutaṃ upanetuṃ sakkonti, evaṃ sabbaso pūritattā tadā vipassī bodhisatto tattha yāvatāyukaṃ aṭṭhāsi.
Thật vậy, sau khi tất cả các đức Bồ-tát làm tròn đủ một cách đồng đều ba mươi pháp ba-la-mật, đã thực hiện năm sự bố thí cao thượng[51], đã đạt đến điểm cuối cùng của sự thực hành cho sự lợi ích của bà con quyến thuộc, thực hành về sự lợi ích cho thế gian, sự thực hành để trở thành bậc Giác Ngộ, đã được thiết lập trong bản ngã thứ ba như Bồ-tát Vessantara, đã bố thí bảy cuộc đại thí, khiến quả địa cầu bảy lần rúng chuyển, sau khi từ trần đã hóa sanh vào cõi trời Tusita ở phần chót (vāra) tâm thứ hai. Ngay cả Bồ-tát Vipassī sau khi thực hành như thế, đã sinh lên cõi trời Tusita, (vị ấy) phát nguyện ở cõi trời Tusita ấy suốt năm mươi bảy koṭi năm (và) hơn sáu triệu năm. Hơn nữa, vào thời điểm khác, các đức Bồ-tát khi được sanh vào cõi trời, có tuổi thọ lâu dài, ngài không sống hết tuổi thọ kiếp ấy. Tại sao? Bởi vì khó thực hiện các ba-la-mật cho tròn đủ ở nơi ấy (cõi trời Tusita). Những vị Bồ-tát ấy sau khi thực hiện sự chết bởi ý nguyện mới hạ sanh vào cõi nhân loại. Hơn nữa, các ba-la-mật của đức Bồ-tát Vipassī có thể đưa đến trạng thái Toàn Tri sanh khởi bởi cùng một bản ngã trong lúc này thế nào, khi ấy Bồ-tát Vipassī có tất cả các ba-la-mật đã tròn đủ như thế ấy, đã trú ở cõi trời Tusita cho đến hết tuổi thọ.
Devatānaṃ pana — “manussānaṃ gaṇanāvasena idāni sattahi divasehi cuti bhavissatī”ti pañca pubbanimittāni uppajjanti — mālā milāyanti, vatthāni kilissanti, kacchehi sedā muccanti, kāye dubbaṇṇiyaṃ okkamati, devo devāsane na saṇṭhāti[52]. Tattha mālāti paṭisandhiggahaṇadivase piḷandhanamālā, tā kira saṭṭhisatasahassādhikā sattapaṇṇāsa vassakoṭiyo amilāyitvā tadā milāyanti. Vatthesupi eseva nayo. Ettakaṃ pana kālaṃ devānaṃ neva sītaṃ na uṇhaṃ hoti, tasmiṃ kāle sarīrā bindubinduvasena sedā muccanti. Ettakañca kālaṃ tesaṃ sarīre khaṇḍiccapāliccādivasena vivaṇṇatā na paññāyati, devadhītā soḷasavassuddesikā viya khāyanti, devaputtā vīsativassuddesikā viya khāyanti, maraṇakāle pana tesaṃ kilantarūpo attabhāvo hoti. Ettakañca tesaṃ kālaṃ devaloke ukkaṇṭhitā nāma natthi, maraṇakāle pana nissasanti[53] vijambhanti, sake āsane nābhiramanti.
Hơn nữa – “sẽ chấm dứt tuổi thọ trong bảy ngày theo cách tính đếm của nhân loại” khi năm điềm báo trước xảy ra cho tất cả chư thiên – (1) tràng hoa bị héo úa, (2) y phục bị phai màu, (3) mồ hôi bị tiết ra ở hai bên nách, (4) màu da trở nên xấu xí, (5) vị Thiên nhân không vui thú trong tư thế của vị trời nữa. Ở đó, tràng hoa: những bông hoa được tô điểm vào ngày tục sanh, kể rằng những tràng hoa ấy không héo úa suốt năm mươi bày koṭi năm (và) với hơn sáu triệu năm, tuy nhiên vào lúc ấy lại héo úa. Luôn cả y phục cũng có cách thức tương tự. Cũng xuyên suốt thời gian chừng ấy, chư Thiên không càm giác lạnh, không cảm giác nóng. Vào thời gian ấy mồ hôi tiết ra từ sắc thân thành từng giọt suốt thời gian ngần ấy, sắc thân của vị Thiên không hiển lộ những khuyết điểm về phương diện răng rụng và tóc bạc. Thiên nữ hiển lộ như một thiếu nữ ở độ tuổi mười sáu, còn vị thiên nam hiển lộ như một thanh niên ở độ tuổi hai mươi. Nhưng vào lúc sắp mệnh chung bản ngã (của những vị Thiên ấy) có dáng vẻ vô cùng mệt mỏi. Hơn nữa, những vị Thiên không có sự tiếc nuối ở Thiên giới suốt khoảng thời gian ngần ấy, nhưng vào lúc sắp mệnh chung lại khó thở, trằn trọc, không vui thú nơi sàng toạ của mình.
Imāni pana pubbanimittāni[54] yathā loke mahāpuññānaṃ rājarājamahāmattādīnaṃyeva ukkāpāta-bhūmicāla-candaggāhādīni nimittāni paññāyanti, na sabbesaṃ; evaṃ mahesakkhadevatānaṃyeva paññāyanti, na sabbesaṃ. Yathā ca manussesu pubbanimittāni nakkhattapāṭhakādayova jānanti, na sabbe; evaṃ tānipi na sabbadevatā jānanti, paṇḍitā eva pana jānanti. tattha ye mandena kusalakammena nibbattā devaputtā, te tesu uppannesu — “Idāni ko jānāti, ‘kuhiṃ nibbattessāmā’ti” bhāyanti. Ye mahāpuññā, te “amhehi dinnaṃ dānaṃ, rakkhitaṃ sīlaṃ, bhāvitaṃ bhāvanaṃ āgamma upari devalokesu sampattiṃ anubhavissāmā”ti na bhāyanti. Vipassī bodhisattopi tāni pubbanimittāni disvā “idāni anantare attabhāve buddho bhavissāmī”ti na bhāyati. Athassa tesu nimittesu pātubhūtesu dasasahassacakkavāḷadevatā sannipatitvā — “Mārisa, tumhehi dasa pāramiyo pūrentehi na sakkasampattiṃ, na mārasampattiṃ, na brahmasampattiṃ, na cakkavattisampattiṃ patthentehi pūritā, lokanittharaṇatthāya pana buddhattaṃ patthayamānehi pūritā. So vo, idāni kālo, mārisa, buddhattāya, samayo, mārisa, buddhattāyā”ti yācanti.
Hơn nữa, năm điềm báo trước này chỉ xuất hiện nơi vị Thiên có đại phước báu, không xuất hiện cho tất cả chư thiên, giống như hiện tượng ngôi sao băng rơi quả địa cầu rung chuyển, và nguyệt thực v.v, chỉ xuất hiện cho đức vua và quan đại thần của vua v.v, người có đại phước báu, không xuất hiện nơi thường dân. Và giống như chỉ có những nhà chiêm tinh biết được các điềm báo trước (số phận) của tất cả con người, không phải tất cả; tất cả chư Thiên cũng không biết những điềm báo ấy, mà chỉ có những bậc sáng trí biết được tương tự như thế. Những vị Thiên tử nào sanh lên Thiên giới bởi chút ít thiện nghiệp, khi (năm) điềm báo trước xảy ra đã nghĩ rằng – “bây giờ, ai biết được chúng tôi sẽ sanh ra ở chỗ nào?” (những vị ấy) sợ hãi. Còn những vị đại phước nghĩ rằng – “Chúng ta nương nhờ vật thí được bố thí, giới được gìn giữ, tham thiền đã được tu tập, sẽ thọ hưởng sự thành tựu ở cõi trời cao hơn nữa” (những vị ấy) không sợ hãi. Luôn cả Bồ-tát Vipassī sau khi thấy những điềm báo trước nghĩ rằng: “Bây giờ, ta sẽ trở thành một vị Phật ở bên trong bản ngã tiếp theo” (ngài) không sợ hãi. Lúc đó, khi những điềm báo trước đó xuất hiện nơi ngài, chư Thiên trong mười ngàn thế giới đã đến tụ hội để thỉnh cầu – “Thưa ngài, ngài thực hành mười pháp ba-la-mật không mong cầu sự thành tựu để trở thành vua trời Sakka, không mong cầu sự thành tựu để trở thành Ma-vương, không mong cầu sự thành tựu để trở thành Phạm thiên, không mong cầu sự thành tựu để trở thành vị Chuyển-luân-thánh-vương, nhưng mà ngài mong muốn bản thể vị Phật nhằm mục đích đưa chúng sanh khỏi thế giới. Kính bạch ngài, bây giờ là thời điểm thích hợp cho việc giác ngộ của ngài, kính thưa ngài, bây giờ là thời khắc thích hợp cho việc giác ngộ của ngài.”
Atha mahāsatto tāsaṃ devatānaṃ paṭiññaṃ adatvāva kāladīpadesakulajanettiāyuparicchedavasena pañcamahāvilokanaṃ nāma vilokesi. tattha “Kālo nu kho, na kālo”ti paṭhamaṃ kālaṃ vilokesi. Tattha vassasatasahassato uddhaṃ vaḍḍhitāayukālo kālo nāma na hoti. Kasmā? tadā hi sattānaṃ jātijarāmaraṇāni na paññāyanti, buddhānañca dhammadesanā nāma tilakkhaṇamuttā[55] natthi. Te tesaṃ — “Aniccaṃ dukkhamanattā”ti kathentānaṃ — “Kiṃ nāmetaṃ kathentī”ti neva sotuṃ, na saddahituṃ maññanti, tato abhisamayo na hoti, tasmiṃ asati aniyyānikaṃ sāsanaṃ hoti. Tasmā so akālo. Vassasatato ūnāayukālopi kālo na hoti. Kasmā? Tadā hi sattā ussannakilesā honti, ussannakilesānañca dinno ovādo ovādaṭṭhāne na tiṭṭhati, udake daṇḍarāji viya khippaṃ vigacchati. Tasmā sopi akālova. Vassasatasahassato paṭṭhāya heṭṭhā, vassasatato paṭṭhāya uddhaṃ āyukālo kālo nāma, tadā ca asītivassasahassāyukā manussā. Atha mahāsatto — “nibbattitabbakālo”ti kālaṃ passi.
Lúc bấy giờ, bậc Đại Nhân vẫn chưa nhận lời thỉnh cầu của các vị Thiên, ngài đã xem xét năm điều kiện quan trọng: thời kỳ, châu lục, quốc độ, dòng tộc và việc xác định tuổi thọ của người mẹ. Trong năm điều kiện quan trọng, trước tiên bậc Đại Nhân xem xét thời kỳ: “Có phải đây thời điểm thích hợp, hay không thời điểm?” Thời kỳ mà tuổi thọ của loài người nhiều hơn một trăm ngàn năm là không phải thời. Vì sao? Bởi vì, vào thời kỳ đó thì sự sanh, sự già và sự chết không hiển lộ cùng tất cả chúng sanh, và gọi sự thuyết giảng Giáo Pháp của chư Phật để thoát khỏi Tam tướng là không có. Khi ngài thuyết về “vô thường, khổ não, và vô ngã” thì tất cả mọi người nói rằng: “Ngài đang nói điều gì vậy” họ không nghĩ rằng để lắng nghe, để tin tưởng, từ đó không có sự chứng ngộ, khi không có sự chứng ngộ thì lời dạy cũng không thể dẫn dắt chúng sanh ra khỏi khổ đau. Vì thế đây không phải thời. Thậm chí, thời kỳ mà loài người có tuổi thọ ít hơn một trăm năm cũng không phải thời. Vì sao? Bởi vì thời gian đó loài người có phiền não dày đặc, và lời huấn từ được ban cho người có phiền não dày đặc không vững trú ở vị trí lời huấn từ, cũng giống như lấy một cái que diêm thả xuống nước tan thì nó biến mất tức khắc. Vì thế, kể cả thời gian đó cũng không phải thời. Thời gian khi tuổi thọ loài người từ một trăm ngàn năm trử xuống, bắt đầu từ một trăm năm trở lên gọi là hợp thời. Và vào thời kỳ đó loài nguời có tuổi thọ tám mươi ngàn năm tuổi. Khi đó bậc Đại Nhân quan sát thấy rằng: “Thời kỳ này là thời kỳ thích hợp để hạ sanh.”
Tato dīpaṃ vilokento saparivāre cattāro dīpe oloketvā — “tīsu dīpesu buddhā na nibbattanti, jambudīpeyeva nibbattantī”ti dīpaṃ passi.
Sau đó, trong khi bậc Đại Nhân xem xét châu lục đã quan sát cả 4 châu cùng với những châu nhỏ, thấy rằng – “Chư Phật không sanh vào 3 châu mà chỉ sanh ra ở Jambudīpa”.
Tato — “Jambudīpo nāma mahā, dasayojanasahassaparimāṇo, katarasmiṃ nu kho padese buddhā nibbattantī”ti desaṃ vilokento majjhimadesaṃ passi. Majjhimadeso nāma — “Puratthimāya disāya gajaṅgalaṃ nāma nigamo”tiādinā[56] nayena vinaye[57] vuttova. So āyāmato tīṇi yojanasatāni, vitthārato aḍḍhateyyāni, parikkhepato navayojanasatānīti. Etasmiñhi padese buddhā paccekabuddhā aggasāvakā asīti mahāsāvakā cakkavattirājāno aññe ca mahesakkhā khattiyabrāhmaṇagahapatimahāsālā uppajjanti. Idañcettha bandhumatī nāma nagaraṃ, tattha mayā nibbattitabbanti niṭṭhaṃ agamāsi.
Sau đó, trong khi quan sát quốc độ – “Jambudīpo là châu lục lớn, có (diện tích) khoảng mười ngàn do-tuần, tiếp tục xem xét về quốc độ – Chư Phật sanh ra ở xứ nào? (ngài) thấy (rằng) Trung tâm quốc độ.” Ngài nói đến Trung tâm quốc độ trong Luật Tạng theo cách sau: “Ở hướng Đông có thị trấn gọi là Gajaṅgala”. Ở đó (diện tích) dài 300 do-tuần, rộng 250 do-tuần, có chu vi 900 do-tuần. Thật vậy, ở trong quốc độ này các bậc Chánh-đẳng Chánh-giác, các vị Phật-độc-giác, Thượng thủ Thinh-văn, tám mươi vị Đại đệ tử Thinh-văn, vị Chuyển-luân-thánh-vương, Sát-đế-lý, Bà-la-môn và cả người gia chủ phú hào, người có quyền to lớn khác đều sanh ra ở quốc độ này. Và ở đây trong quốc độ này có thành phố tên là Bandhumatī, bậc Đại Nhân quyết định: ta nên hạ sanh vào thành phố ấy.
Tato kulaṃ vilokento — “buddhā nāma lokasammate kule nibbattanti. idāni ca khattiyakulaṃ lokasammataṃ, tattha nibbattissāmi, bandhumā nāma me rājā pitā bhavissatī”ti kulaṃ passi.
Sau đó, trong khi xem xét đến dòng tộc, đã thấy được dòng tộc rằng: – “thông thường chư Phật sanh vào dòng tộc được mọi người tán thán. Bây giờ dòng tộc Sát-đế-lỵ là dòng tộc được mọi người tán thán, ta sẽ hạ sanh vào dòng tộc ấy, đức vua tên là Bandhumā sẽ làm cha của ta.”
Tato mātaraṃ vilokento — “buddhamātā nāma lolā surādhuttā na hoti, kappasatasahassaṃ pūritapāramī, jātito paṭṭhāya akhaṇḍapañcasīlā hoti, ayañca bandhumatī nāma devī īdisā, ayaṃ me mātā bhavissati, “kittakaṃ panassā āyū”ti āvajjanto “dasannaṃ māsānaṃ upari satta divasānī”ti passi.
Sau đó, trong khi quan sát về người mẹ (ngài) thấy rằng: “Được gọi là Phật mẫu phải là người không ham muốn, không phải người nghiện rượu, thực hành ba-la-mật đến một trăm ngàn kiếp, tính từ lúc sanh phải có ngũ giới không bị đứt, và hoàng hậu tên là Bandhumatī có tướng trạng như thế, sẽ trở thành mẹ của ta”. Trong khi suy nghĩ: “Tuổi thọ của hoàng hậu bao nhiêu”, (ngài) thấy rằng: “Sau mười tháng (hạ sanh hoàng tử) hoàng hậu sẽ có tuổi thọ (thêm) bảy ngày.”
Iti imaṃ pañcamahāvilokanaṃ[58] viloketvā “kālo, me mārisā, buddhabhāvāyā”ti devatānaṃ saṅgahaṃ karonto paṭiññaṃ datvā — “gacchatha, tumhe”ti tā devatā uyyojetvā tusitadevatāhi parivuto tusitapure nandanavanaṃ pāvisi. Sabbadevalokesu hi nandanavanaṃ atthiyeva. Tatra naṃ devatā “ito cuto sugatiṃ gacchā”ti pubbekatakusalakammokāsaṃ sārayamānā vicaranti. so evaṃ devatāhi kusalaṃ sārayamānāhi parivuto tattha vicarantoyeva cavi.
Đức Bồ-tát sau khi xem xét năm điều kiện quan trọng này như đã trình bày mới nói rằng – “Thưa ngài, là thời điểm thích hợp vì bản thể vị Phật”, trong khi quy tụ hội chúng chư Thiên đã ban lời xác nhận rằng: “Các ngài hãy quay cùng nhau trở về đi”, sau khi tiễn các vị Thiên ấy, (ngài) được vây quanh bởi chư Thiên cõi Tusita, bước vào vườn Nanda ở cung trời Tusita. Luôn cả trong các cõi trời cũng đều có vườn Nanda. Các vị Thiên du ngoạn thường nhắc nhở Bồ-tát nhớ lại những nghiệp thiện đã tạo trong quá khứ: “Ngài hãy mệnh chung từ cõi trời này (cõi trời Tusita) đi đến thiện thú loài người”. Bồ-tát ấy được vây quanh bởi chư Thiên, người khiến nhớ lại (nghiệp) thiện (đã tạo) như vậy, ngài đã mệnh chung trong lúc du ngoạn ở nơi ấy.
Evaṃ cuto ca ‘cavāmī’ti jānāti, cuticittaṃ na jānāti. Paṭisandhiṃ gahetvāpi jānāti, paṭisandhicittameva na jānāti. “Imasmiṃ me ṭhāne paṭisandhiṃ gahitā”ti evaṃ pana jānāti. Keci pana therā — “āvajjanapariyāyo nāma laddhuṃ vaṭṭati, dutiyatatiyacittavāre eva jānissatī”ti vadanti. Tipiṭakamahāsīvatthero pana āha — “mahāsattānaṃ paṭisandhi na aññesaṃ paṭisandhisadisā, koṭippattaṃ pana tesaṃ satisampajaññaṃ. Yasmā pana teneva cittena taṃ cittaṃ ñātuṃ na sakkā, tasmā cuticittaṃ na jānāti. Cutikkhaṇepi ‘cavāmī’ti jānāti. Paṭisandhicittaṃ na jānāti. ‘asukasmiṃ me ṭhāne paṭisandhi gahitā’ti jānāti, tasmiṃ kāle dasasahassilokadhātu[59] kampatī”ti. Evaṃ sato sampajāno mātukucchiṃ okkamanto pana ekūnavīsatiyā paṭisandhicittesu mettāpubbabhāgassa somanassa- sahagata- ñāṇasampayutta- asaṅkhārika- kusalacittassa sadisa- mahāvipākacittena paṭisandhi gaṇhi. Mahāsīvatthero pana upekkhāsahagatenāti āha. Yathā ca amhākaṃ bhagavā, evaṃ sopi āsāḷhīpuṇṇamāyaṃ uttarāsāḷhanakkhatteneva paṭisandhiṃ aggahesi.
Và khi mệnh chung như vậy (ngài) biết rằng: ‘ta đang tử, (nhưng) không biết tâm tử’. Kể cả khi tục sanh (vị ấy) biết (ta đang tục sanh), nhưng không biết chính tâm tục sanh ấy. Hơn nữa, ngài biết rõ như vậy rằng: ‘Ta tục sanh ở chỗ này’. Một số trưởng lão nói rằng: “Nên có được tiến trình khai môn, đức Bồ-tát sẽ biết được chính chót tâm thứ hai và chót tâm thứ ba.” Nhưng trưởng lão Tipiṭaka Mahāsīva nói rằng: “Sự tục sanh của các bậc Đại Nhân không giống sự tục sanh của những chúng sanh khác, bởi niệm và sự nhận biết rõ của các vị ấy đã đạt đến tận cùng, tuy nhiên cũng không thể biết được tâm đó bằng tâm đó, vì thế ngài mới không biết tâm tử. Chính ở sát-na tử ấy biết rằng: ‘Ta tử’. Không biết tâm tục sanh chỉ biết rằng: ‘Ta sanh ở chỗ đó’, vào lúc ấy mười ngàn thế giới rúng động’”. Bồ-tát có niệm và sự nhận biết rõ như vậy, ngài nhập thai vào bụng mẹ, tục sanh bằng tâm đại quả như với tâm thiện vô trợ câu hành với hỷ và tương ưng với trí thuộc phần sơ khởi của tâm từ trong 19 tâm tục sanh. Còn trưởng lão Siva lại nói rằng: ‘với tâm đại quả câu hành với thọ xả’. Và giống như đức Thế Tôn của chúng ta, luôn cả vị ấy cũng đã tục sanh vào ngày trăng tròn tháng Āsāḷha với chòm tinh tú Uttarāsāḷha.
Tadā kira pure puṇṇamāya sattamadivasato paṭṭhāya vigatasurāpānaṃ mālāgandhādivibhūtisampannaṃ nakkhattakīḷaṃ anubhavamānā bodhisattamātā sattame divase pāto uṭṭhāya gandhodakena nahāyitvā sabbālaṅkāravibhūsitā varabhojanaṃ bhuñjitvā uposathaṅgāni adhiṭṭhāya sirigabbhaṃ pavisitvā sirisayane nipannā niddaṃ okkamamānā idaṃ supinaṃ addasa — “Cattāro kira naṃ mahārājāno sayaneneva saddhiṃ ukkhipitvā anotattadahaṃ netvā nahāpetvā dibbavatthaṃ[60] nivāsetvā dibbagandhehi vilimpetvā dibbapupphāni piḷandhitvā, tato avidūre rajatapabbato, tassa anto kanakavimānaṃ atthi, tasmiṃ pācīnato sīsaṃ katvā nipajjāpesuṃ. Atha bodhisatto setavaravāraṇo hutvā tato avidūre eko suvaṇṇapabbato, tattha caritvā tato oruyha rajatapabbataṃ abhiruhitvā kanakavimānaṃ pavisitvā mātaraṃ padakkhiṇaṃ katvā dakkhiṇapassaṃ phāletvā[61] kucchiṃ paviṭṭhasadiso ahosi”.
Được biết lần ấy kể từ ngày thứ bày nhằm ngày trăng tròn Āsāḷha có mẹ của Bồ-tát tham gia lễ hội Nakkhatta, được trang hoàng bằng nhiều tràng hoa và hương thơm v.v, không có việc uống rượu, bà dậy từ rất sớm vào ngày thứ bảy sau khi tắm gội bằng nước thơm, đã được trang điểm bằng nhiều vật trang sức, và sau khi thọ dụng các món ăn thượng vị, đã phát nguyện thọ trì tám chi phần uposatha, rồi bước vào ngự phòng, nằm lên trên long sàng, đã ngủ thiếp đi nhìn thấy giấc mộng này – “Kể rằng Tứ-đại-thiên-vương nâng bà lên cùng với chiếc giường đến hồ Anotatta đặt xuống một bên cho bà tắm rửa, cho mặc thiên y, cho thoa hương thơm cõi trời, trang điểm với những hoa trời, không xa chỗ đó có ngọn núi bạc, bên trong ngọn núi bạc ấy có thiên cung bằng vàng, cho mẹ của Bồ-tát nằm quay đầu về hướng Đông của thiên cung ấy. Khi ấy đức Bồ-tát là bạch tượng cao quý, không xa nơi ấy có một ngọn núi vàng, ngài đã đi từ ngọn núi ấy rồi bước xuống từ ngọn núi ấy bước lên ngọn núi bạc, rồi đi vào Thiên cung bằng vàng đã hướng vai phải nhiễu quanh người mẹ, đã trở thành như thể tách phần (hông) bên phải ra rồi bước vào trong bụng.”
Atha pabuddhā devī taṃ supinaṃ rañño ārocesi. rājā vibhātāya rattiyā catusaṭṭhimatte brāhmaṇapāmokkhe pakkosāpetvā haritūpalittāya lājādīhi katamaṅgalasakkārāya bhūmiyā mahārahāni āsanāni paññapetvā tattha nisinnānaṃ brāhmaṇānaṃ sappimadhusakkarābhisaṅkhatassa varapāyāsassa suvaṇṇarajatapātiyo pūretvā suvaṇṇarajatapātīheva paṭikujjitvā adāsi, aññehi ca ahatavatthakapilagāvīdānādīhi nesaṃ santappesi. Atha nesaṃ sabbakāmasantappitānaṃ taṃ supinaṃ ārocetvā — “kiṃ bhavissatī”ti pucchi. Brāhmaṇā āhaṃsu — “mā cintayi, mahārāja, deviyā te kucchimhi gabbho patiṭṭhito, so ca kho purisagabbho na itthigabbho, putto te bhavissati. So sace agāraṃ ajjhāvasissati, rājā bhavissati cakkavattī. Sace agārā nikkhamma pabbajissati, buddho bhavissati loke vivaṭṭacchado”ti. Ayaṃ tāva — “mātukucchiṃ okkamī”ti ettha vaṇṇanākkamo.
Khi ấy, hoàng hậu tỉnh giấc đã kể lại giấc mộng đó cho đức vua. Khi bình minh ló dạng đức vua đã truyền lệnh cho gọi trưởng nhóm Bà-la-môn khoảng 64 vị đến yết kiến, sắp xếp trải chỗ ngồi có giá trị lớn ở trên mặt đất bằng những lễ vật (mang lại) điềm lành được làm bằng cốm gạo v.v, khi các Bà-la-môn ngồi xuống tại nơi ấy đã mang khay vàng, khay bạc đựng đầy ắp cơm sữa thượng hạng hòa trộn với bơ lỏng, mật ong và mật mía, rồi đậy lại bằng một khay vàng, khay bạc khác để cúng dường, làm cho những Bà-la-môn đó cảm thấy hài lòng vói những món đồ khác như y phục mới và những con bò cái hồng và vật thí v.v. Kế tiếp, đức vua đã kể lại giấc mơ ấy đến các vị đã được hài lòng với những thứ mong muốn, rồi hỏi “giấc mộng sẽ như thế nào?” – Các Bà-la-môn đáp rằng: – “Tâu đại vương, đại vương chớ nên suy nghĩ, hoàng hậu của ngài đã thọ thai, và bào thai ấy là bào thai hoàng tử, chớ không phải là bào thai công chúa, ngài sẽ có một hoàng tử. Nếu hoàng tử sống đời sống tại gia thì ngài sẽ trở thành vị Chuyển-luân-thánh-vương; còn nếu ngài xuất gia thì ngài sẽ trở thành đức Phật quét sạch mê lầm ở đời.” nên biết giải thích ý nghĩa trong câu này rằng: “Bồ-tát nhập thai vào bùng mẹ” trước.
Ayamettha dhammatāti ayaṃ ettha mātukucchiokkamane dhammatā, ayaṃ sabhāvo, ayaṃ niyāmoti vuttaṃ hoti. Niyāmo ca nāmesa kammaniyāmo, utuniyāmo, bījaniyāmo, cittaniyāmo, dhammaniyāmoti pañcavidho.[62]
Ở đây, điều này là quy luật cố nhiên: ở đây, điều này là quy luật trong việc ngài nhập thai vào bụng mẹ, ngài giải thích rằng đây là bản chất thật, đây là định luật. Và gọi là định luật này có năm là (1) định luật về nghiệp báo, (2) định luật về thời tiết, (3) định luật về hạt giống, (4) định luật về tâm thức, (5) định luật cố nhiên.
Tattha kusalassa iṭṭhavipākadānaṃ, akusalassa aniṭṭhavipākadānanti ayaṃ kammaniyāmo. Tassa dīpanatthaṃ — “na antalikkhe”ti[63] gāthāya vatthūni vattabbāni. Apica ekā kira itthī sāmikena saddhiṃ bhaṇḍitvā ubbandhitvā maritukāmā rajjupāse gīvaṃ pavesesi. Aññataro puriso vāsiṃ nisento taṃ itthikammaṃ disvā rajjuṃ chinditukāmo — “mā bhāyi, mā bhāyī”ti taṃ samassāsento upadhāvi. Rajju āsīviso hutvā aṭṭhāsi. So bhīto palāyi. Itarā tattheva mari. Evamādīni cettha vatthūni dassetabbāni.
Trong năm định luật ấy thì việc cho quả của thiện đáng ng muốn, việc cho quả của thiện không đáng mong muốn. Đây gọi là định luật về nghiệp báo. Để trình bày định luật về nghiệp báo. Để thuyết giảng định luật về nghiệp ấy nên nói đến câu chuyện trong kệ ngộn sau – “Không phải ở bầu trời”. Câu chuyện kể rằng một người phụ nữ cự cãi với chồng muốn thắt cổ tự tử đã đưa đầu vào dây thòng lọng. Một người đàn ông mài dao đã thấy người phụ nữ ấy muốn cắt dứt sợi dây mới chạy đến an ủi cô ấy – “nàng chớ sợ hãi, nàng chớ sợ hãi”. Dây thòng lọng là con rắn đọc đang thắt cổ người phụ nữ. Người đàn ông sợ hãi vội chạy đi. Người phụ nữ ấy chết tại chính nơi ấy. Và ở đây nên thuyết giảng toàn bộ câu chuyện bắt đầu như vậy.
Tesu tesu janapadesu tasmiṃ tasmiṃ kāle ekappahāreneva rukkhānaṃ pupphaphalagahaṇādīni, vātassa vāyanaṃ avāyanaṃ, ātapassa tikkhatā mandatā, devassa vassanaṃ avassanaṃ, padumānaṃ divā vikasanaṃ rattiṃ milāyananti evamādi utuniyāmo.
Ở xứ sở đó, vào thời gian đó, việc hái hoa và trái cây v.v, bằng cách chỉ cắt đứt một lần, gió thổi, gió không thổi, nắng gắt, nắng yếu, trời mưa, trời không mưa, hoa sen nở vào ban ngày, ban đêm khép lại như thế v.v, đây là định luật về quy luật.
Yaṃ panetaṃ sālibījato sāliphalameva, madhurato madhurasaṃyeva, tittato tittarasaṃyeva phalaṃ hoti, ayaṃ bījaniyāmo.
Hạt lúa sālī là hạt lúa mọc lên từ chính mầm giống sālī, vị ngọt là kết quả từ giống ngọt, vị đắng là kết quả từ mầm giống đắng. Đây là định luật về hạt giống.
Purimā purimā cittacetasikā dhammā pacchimānaṃ pacchimānaṃ cittacetasikānaṃ dhammānaṃ upanissayapaccayena paccayoti evaṃ yadetaṃ cakkhuviññāṇādīnaṃ anantarā sampaṭicchanādīnaṃ nibbattanaṃ, ayaṃ cittaniyāmo.
Pháp là Tâm và Tâm sở trước trước làm duyên bằng cách Cận y duyên của Pháp là Tâm và Tâm sở sau sau, vì thế sự sanh khởi của tâm tiếp thâu v.v, theo tuần tự của nhãn thức v.v, đây là định luật về tâm thức.
Yā panesā bodhisattānaṃ mātukucchiokkamanādīsu dasasahassilokadhātukampanādīnaṃ pavatti, ayaṃ dhammaniyāmo nāma. Tesu idha dhammaniyāmo adhippeto. Tasmā tamevatthaṃ dassento dhammatā esā bhikkhavetiādimāha.
Sự vận hành của sự lay động trong mười ngàn thế giới, trong việc ngài nhập thai vào bụng mẹ của các đức Bồ-tát, đây gọi là định luật cố nhiên. Ở đây, ngài có ý muốn nói đến định luật cố nhiên. Vì thế, mới nói lời sau: “Này các tỳ khưu, quy luật…”
- Tattha kucchiṃ okkamatīti ettha kucchiṃ okkanto hotīti ayamevattho. Okkante hi tasmiṃ evaṃ hoti, na okkamamāne. Appamāṇoti vuḍḍhippamāṇo, vipuloti attho. Uḷāroti tasseva vevacanaṃ. Uḷārāni uḷārāni khādanīyāni khādantītiādīsu[64] hi madhuraṃ uḷāranti vuttaṃ. “Uḷārāya khalu bhavaṃ vacchāyano samaṇaṃ gotamaṃ pasaṃsāya pasaṃsatītiādīsu[65] seṭṭhaṃ uḷāranti vuttaṃ. Idha pana vipulaṃ adhippetaṃ. Devānaṃ devānubhāvanti ettha devānaṃ ayamānubhāvo nivatthavatthassa pabhā dvādasayojanāni pharati, tathā sarīrassa, tathā alaṅkārassa, tathā vimānassa, taṃ atikkamitvāti attho.
- Trong câu đó, ngài nhập thai vào bụng mẹ: ở đây có ý nghĩa – đức Bồ-tát nhập thai vào bụng mẹ. Bởi vì đức Bồ-tát ấy đã nhập thai là như vậy, không phải đang nhập thai. Vô lượng: có nghĩa là – sự ước lượng tăng trưởng, quảng đại. Cao quý: là từ đồng nghĩa của chính từ ấy. Họ ăn những món ăn thù thắng loại cứng v.v, có vị ngon thượng vị, được nói rằng vô cùng quý giá. Dòng dõi của Vacchāyana thật sự tán thán Sa-môn Gotama với lời tán thán tối thượng. Nhưng trong trường hợp này ngài muốn đề cập đến sự quảng đại. Trong câu ‘thần lực của chư Thiên’ này có ý nghĩa rằng: thần lực của chư Thiên, chính là y phục có hào quang lan tỏa mười hai do-tuần, sắc thân cũng như thế, đồ trang sức cũng như thế, Thiên cũng cũng như thế, đức Bồ-tát vượt hơn hẳn thần lực của chư Thiên.
Lokantarikāti tiṇṇaṃ tiṇṇaṃ cakkavāḷānaṃ antarā ekeko lokantariko[66] hoti, tiṇṇaṃ sakaṭacakkānaṃ vā tiṇṇaṃ pattānaṃ vā aññamaññaṃ āhacca ṭhapitānaṃ majjhe okāso viya. So pana lokantarikanirayo parimāṇato aṭṭhayojanasahasso hoti. Aghāti niccavivaṭā. Asaṃvutāti heṭṭhāpi appatiṭṭhā. Andhakārāti tamabhūtā. Andhakāratimisāti cakkhuviññāṇuppattinivāraṇato andhabhāvakaraṇatimisena samannāgatā. tattha kira cakkhuviññāṇaṃ na jāyati. Evaṃmahiddhikāti candimasūriyā kira ekappahāreneva tīsu dīpesu paññāyanti, evaṃ mahiddhikā. Ekekāya disāya nava nava yojanasatasahassāni andhakāraṃ vidhamitvā ālokaṃ dassenti, evaṃmahānubhāvā. Ābhāya nānubhontīti attano pabhāya nappahonti. te kira cakkavāḷapabbatassa vemajjhena vicaranti, cakkavāḷapabbatañca atikkamma lokantarikanirayā. Tasmā te tattha ābhāya nappahonti.
Ở tận cùng thế giới: bất kỳ một khoảng trống ở giữa cả ba thế giới, có ở tận cùng thế giới giống như một khoảng trống ở giữa ba bánh xe kéo hoặc ba bình bát được đặt chồng lên nhau. Địa ngục Lokantarika ấy rộng đến tám ngàn do-tuần. Khoảng trống: Mở ra thường xuyên. Không bị gì che lấp: không có chỗ giữ thăng bằng kể cả ở bên dưới. Tối tâm: u ấm. Vô cùng tăm tối: gắn liền với đám mây (và) sương mù tạo ra sự tối tăm bởi đã ngăn chặn sự sanh khởi của nhãn thức. Được biết nhãn thức không sanh ở trong địa ngục Lokantarika ấy. Có đại thần lực như vậy: kể rằng mặt trăng và mặt trời xuất hiện ở cả 3 châu lan tỏa ánh sáng cùng một lúc, (mặt trăng và mặt trời) có đại thần lực như vậy. Ánh sáng của mặt trăng và mặt trời xua tan sự tăm tối rồi truyền ánh sáng một triệu tám trăm nghìn do-tuần ở mỗi hướng, (mặt trăng và mặt trời) có đại oai lực như vậy. Ánh sáng không soi rọi đến được: ánh sáng của chính nó không đủ. Được biết mặt trăng và mặt trời không thể truyền ánh sáng đến khoảng giữa ngọn núi Cakkavāḷa, và địa ngục Lokantarika nằm ngoài ngọn núi Cakkavāḷa. Vì thế, ngài mới nói rằng mặt trăng và mặt trời ấy mới có ánh sáng không đủ soi rọi đến nơi ấy.
Yepi tattha sattāti yepi tasmiṃ lokantarikamahāniraye sattā uppannā. Kiṃ pana kammaṃ katvā tattha uppajjantīti. Bhāriyaṃ dāruṇaṃ mātāpitūnaṃ dhammikasamaṇabrāhmaṇānañca upari aparādhaṃ, aññañca divase divase pāṇavadhādisāhasikakammaṃ katvā uppajjanti, tambapaṇṇidīpe abhayacoranāgacorādayo viya. Tesaṃ attabhāvo tigāvutiko hoti, vaggulīnaṃ viya dīghanakhā honti. Te rukkhe vagguliyo viya nakhehi cakkavāḷapabbate lagganti. Yadā saṃsappantā aññamaññassa hatthapāsaṃ gatā honti, atha “bhakkho no laddho”ti maññamānā tattha vāvaṭā viparivattitvā lokasandhārakaudake patanti, vāte paharantepi madhukaphalāni viya chijjitvā udake patanti, patitamattāva accantakhāre udake piṭṭhapiṇḍi viya[67] vilīyanti.
Thậm chí những chúng sanh đã được sanh ra trong địa ngục ấy: những chúng sanh đã được sanh ra trong đại địa ngục Lokantara ấy. Lại nữa, những chúng sanh ấy đã tạo nghiệp gì mới phải sanh vào địa ngục đó? Đã tạo nghiệp nặng nề nghiêm trọng đối với mẹ cha, Sa-môn, Bà-la-môn vị vững trú trong pháp, tạo những sai phạm khác chồng chất thêm, tạo nghiệp thô bạo chẳng hạn tước đoạt mạng sống chúng sanh v.v, thường xuyên mỗi ngày sẽ bị tái sanh vào địa ngục Lokantara như Abhayacora và Nāgacora v.v, ở hòn đảo Tambapaṇṇi. Thân thể của những chúng sanh đó cao khoảng 3 gāvuta, móng tay dài giống như móng loài dơi. Chúng sanh ấy sử dụng móng tay bám vào vách núi Cakkavāḷa giống như loài dơi treo mình vào cây. Nhưng khi nào chúng sanh ấy bò trườn lại chạm tay của nhau, khi ấy ai cũng nghĩ rằng ‘ta có được thức ăn” chạy bao vây xung quanh ở ngọn núi Cakkavāḷa, rơi xuống trên dòng nước chống đỡ thế giới, khi gió thổi (đạp vào) đã cắt đứt rơi xuống nước giống như quả madhuka, và vừa rơi xuống cũng tan biến mất tựa như cục bột rớt xuống nước cực mặn.
Aññepi kira bho santi sattāti bho yathā mayaṃ mahādukkhaṃ anubhavāma, evaṃ aññe kira sattāpi imaṃ dukkhamanubhavanatthāya idhūpapannāti taṃ divasaṃ passanti. Ayaṃ pana obhāso ekayāgupānamattampi na tiṭṭhati, accharāsaṅghāṭamattameva vijjobhāso viya niccharitvā — “kiṃ idan”ti bhaṇantānaṃyeva antaradhāyati. Saṅkampatīti samantato kampati. itaradvayaṃ purimapadasseva vevacanaṃ. Puna appamāṇo cātiādi nigamanatthaṃ vuttaṃ.
Kể cả những chúng sanh khác cũng tái sanh ở đây: vào ngày hôm ấy tất cả chúng sanh đều nhìn thấy rõ ràng – “Ôi! ngay cả những chúng sanh khác cũng sanh vào địa ngục Lokantara này lãnh chịu khổ đau cũng giống như chúng ta đang lãnh thọ đau khổ lớn lao”. Hơn nữa, ánh sáng này không trụ lâu, chỉ trụ được khoảnh khắc uống nước cháo, soi rọi giống như ánh sáng tia chớp chỉ trong khoảnh khắc búng ngón tay, khi những chúng sanh ấy nói rằng: “đây là gì?” thì (ánh sáng) đã biến mất. Rúng động: xung quanh đều bị rúng động. Hai câu còn lại chính là từ đồng nghĩa với câu thứ nhất. Và…vô lượng v.v. đã được ngài nói bằng ý nghĩa tóm tắt.
- Cattāro naṃ devaputtā cātuddisaṃ rakkhāya upagacchantīti ettha cattāroti catunnaṃ mahārājānaṃ vasena vuttaṃ. Dasasahassacakkavāḷesu pana cattāro cattāro katvā cattālīsasahassāni honti. Tattha imasmiṃ cakkavāḷe mahārājāno khaggahatthā bodhisattassa ārakkhatthāya upagantvā sirigabbhaṃ paviṭṭhā, itare gabbhadvārato paṭṭhāya avaruddhake paṃsupisācakādiyakkhagaṇe paṭikkamāpetvā yāva cakkavāḷā ārakkhaṃ gaṇhiṃsu.
- Từ ‘có bốn’ trong câu ‘có bốn vị Thiên tử đi đến để bảo vệ vị ấy ở bốn phương’ ngài nói đến bốn vị Tứ-đại-thiên-vương. Hơn nữa, trong mười ngàn thế giới có bốn mươi ngàn vị Đại-thiên-vương thường trú chia thành 4 thế giới. Trong số các vị Đại-thiên-vương ấy, ở thế giới này Đại-thiên-vương tay cầm gươm đã đi vào ngự phòng nhằm mục đích bảo vệ đức Bồ-tát, ngoài ra bè lũ Dạ-xoa có các yêu tinh ở bãi rác v.v đã gây cản trở bắt đầu từ cửa ngự phòng cho rời khỏi rồi bảo vệ khắp cả thế giới.
Kimatthāya panāyaṃ rakkhā? nanu paṭisandhikkhaṇe kalalakālato paṭṭhāya sacepi koṭisatasahassamārā koṭisatasahassasineruṃ ukkhipitvā bodhisattassa vā bodhisattamātuyā vā antarāyakaraṇatthaṃ āgaccheyyuṃ, sabbe antarāva antaradhāyeyyuṃ. Vuttampi cetaṃ bhagavatā ruhiruppādavatthusmiṃ — “aṭṭhānametaṃ, bhikkhave, anavakāso, yaṃ parupakkamena tathāgataṃ jīvitā voropeyya. anupakkamena, bhikkhave, tathāgatā parinibbāyanti. gacchatha, tumhe bhikkhave, yathāvihāraṃ, arakkhiyā, bhikkhave tathāgatā”ti[68]. Evameva, tena parupakkamena na tesaṃ jīvitantarāyo atthi, santi kho pana amanussā virūpā duddasikā bheravarūpā migapakkhino, yesaṃ rūpaṃ vā disvā saddaṃ vā sutvā bodhisattamātu bhayaṃ vā santāso vā uppajjeyya, tesaṃ nivāraṇatthāya rakkhaṃ aggahesuṃ. Apica bodhisattassa puññatejena sañjātagāravā attano gāravacoditāpi te evamakaṃsu.
Việc canh gác này nhằm lợi ích gì? Giả sử, kể từ thời gian chất thụ thai đầu tiên trong bụng mẹ ở sát-na tục sanh, có hàng trăm ngàn koṭi Ma vương nâng lên hàng trăm ngàn koṭi núi Suneru có thể đến để làm hại đức Bồ-tát hoặc mẹ của Bồ-tát, (hoặc) làm hại toàn bộ không phải hay sao? Và điều này, cũng đã được đức Thế Tôn thuyết trong câu chuyện Devadatta đã làm cho bàn chân (đức Phật) bầm máu – “này chư tỳ khưu, việc người nào tước đoạt mạng sống của Như Lai bằng sự hãm hại (của người khác) là không hợp lý và không có cơ sở, này chư Tỳ khưu, các đức Như Lai tịch diệt Nibbāna không do sự hãm hại (của người khác). Này các Tỳ khưu, các ngươi hãy đi về trú xá của mỗi người. Này các tỳ khưu, các đức Như Lai không cần được bảo vệ.” (cūḷava. 341). Điều đó như vậy, sự nguy hại cho mạng sống không có nơi các đức Như Lai do sự hãm hại của người khác. Nhóm phi nhân có sắc thân đáng nhờm gớm, loài chim có thân hình đáng sợ tồn tại, sự sợ hãi và sự kinh sợ có thể khởi sanh nơi mẹ của Bồ-tát do bởi nhìn thấy sắc hoặc nghe âm thanh của những phi nhân đó, để ngăn chặn những phi nhân ấy nên mới cần phải bảo vệ. Và hơn nữa những Đại-thiên-vương ấy có sự tôn kính sanh khởi nhờ năng lực phước báu ba-la-mật của Bồ-tát, cả bản thân cũng có sự tôn kính làm nền tảng nên rồi nên mới làm như vậy.
Kiṃ pana te antogabbhaṃ pavisitvā ṭhitā cattāro mahārājāno bodhisattassa mātuyā attānaṃ dassenti, na dassentīti? nahānamaṇḍanabhojanādisarīrakiccakāle na dassenti, sirigabbhaṃ pavisitvā varasayane nipannakāle pana dassenti. tattha kiñcāpi amanussadassanaṃ nāma manussānaṃ sappaṭibhayaṃ hoti, bodhisattassa mātā pana attano ceva puttassa ca puññānubhāvena te disvā na bhāyati, pakatiantepurapālakesu viya assā etesu cittaṃ uppajjati.
Lại nữa, Tứ-đại-thiên-vương vào đứng bên trong ngự phòng hiển lộ bản thân cho mẹ của Bồ-tát (thấy) hay không hiển lộ? Không hiểu lộ trong suốt thời gian mẹ của Bồ-tát làm các phận sự riêng như tắm gội, trang điểm, và dùng bữa v.v, mà chỉ hiển lộ vào lúc bà bước vào ngự phòng rồi nằm lên long sàng. Ở nơi ấy, thân thể của loài phi nhân là thứ đáng nhờm gớm trước mắt của tất cả mọi người nhưng đối với mẹ của Bồ-tát sau khi nhìn thấy phi nhân (bà) không sợ hãi do nhờ năng lực phước báu của chính bà và hoàng tử. Hoàng hậu có sự cảm nhận trong nhóm phi nhân đó giống như (nhìn thấy) người cận vệ canh gác nói chung.
- Pakatiyā sīlavatīti sabhāveneva sīlasampannā. Anuppanne kira buddhe manussā tāpasaparibbājakānaṃ santike vanditvā ukkuṭikaṃ nisīditvā sīlaṃ gaṇhanti. bodhisattamātāpi kāladevilassa isino santike sīlaṃ gaṇhāti. Bodhisatte pana kucchigate aññassa pādamūle nisīdituṃ nāma na sakkā, samānāsane nisīditvā gahitasīlampi āvajjanakaraṇamattaṃ[69] hoti. Tasmā sayameva sīlaṃ aggahesīti vuttaṃ hoti.
- Là người có giới hạnh theo bản tánh tự nhiên: là người thành tựu về giới do chính bản tánh. Tương truyền rằng khi đức Phật vẫn chưa xuất hiện, tất cả mọi người cùng nhau đến đảnh lễ, ngồi chồm hổm thọ trì giới ở trong trú xứ của các Đạo sĩ và các du sĩ. Luôn cả mẹ của Bồ-tát cũng thọ giới ở trú xứ của Đạo sĩ Kāladevila. Nhưng khi Bồ-tát nhập thai thì không thể ngồi ở dưới chân của người khác, dẫu cho bà ngồi thọ giới trên tọa cụ ngang bằng để nhận lãnh thì cũng chỉ là hình thức xem thường. Vì thế ngài mới nói rằng: mẹ của Bồ-tát tự mình thọ trì giới hạnh.
- Purisesūti bodhisattassa pitaraṃ ādiṃ katvā kesuci manussesu purisādhippāyacittaṃ nuppajjati. Bodhisattamāturūpaṃ pana kusalā sippikā potthakammādīsupi kātuṃ na sakkonti. Taṃ disvā purisassa rāgo nuppajjatīti na sakkā vattuṃ, sace pana taṃ rattacitto upasaṅkamitukāmo hoti, pādā na vahanti, dibbasaṅkhalikā viya bajjhanti. tasmā “anatikkamanīyā”tiādi vuttaṃ.
- Đối với nam nhân: tâm ước muốn đối với bất kỳ nam nhân nào, bắt đầu từ cha của Bồ-tát v.v, không khởi lên nơi mẹ của Bồ-tát. Hơn nữa đối với những họa sĩ tài hoa cũng không thể nào vẽ được hình dáng mẹ của Bồ-tát trong một bức họa. Bất cư ai cũng không thể nói luyến ái không khởi lên do nhìn thấy hình tướng ấy (hình dáng mẹ của Bồ-tát) thì ái luyến không hởi lên cùng nam nhân. Hơn nữa, nếu như nam nhân có tâm ái luyến muốn đi vào tìm bà thì đôi chân người ấy không thể bước, giống như bị trói chặt lại bằng sợi dây xích ở cõi trời. Vì thế ngài mới nới rằng: “không bị xâm phạm”.
- Pañcannaṃ kāmaguṇānanti pubbe kāmaguṇūpasañhitanti iminā purisādhippāyavasena vatthupaṭikkhepo kato, idha ārammaṇappaṭilābho dassito. Tadā kira deviyā evarūpo putto kucchiṃ upapannoti[70] sutvā samantato rājāno mahagghāabharaṇatūriyādivasena pañcadvārārammaṇavatthubhūtaṃ paṇṇākāraṃ pesenti. bodhisattassa ca bodhisattamātu ca katakammassa ussannattā lābhasakkārassa pamāṇaparicchedo natthi.
- Năm loại dục: việc ngăn chặn đối tượng-vatthu do tác động sự ước muốn ở các nam nhân ngài đã nói trước đó như sau: “không (khởi tâm) liên hệ với năm loại dục”, ở đây chỉ thuyết đến việc đạt được đối tượng. Được biết vào gian ấy lần đó “Các đức vua xung quanh biết được tin hoàng tử có hình thức như vậy hạ sanh trong bụng của hoàng hậu, đã gửi quà biếu là nơi thiết lập sự hoan hỷ của cả năm cửa-dvāra về phương diện vật trang trí có giá trị lớn và dụng cụ âm nhạc v.v, đối với Bồ-tát và mẹ của Bồ-tát có được sự lợi đắc và sự cung kính không thể đo lường được, bởi vì sự tích trữ phước báu đã tạo (trong quá khứ).
- Akilantakāyāti yathā aññā itthiyo gabbhabhārena kilamanti hatthapādā uddhumātatādīni pāpuṇanti, evaṃ tassā koci kilamatho nāhosi. Tirokucchigatanti antokucchigataṃ. Passatīti kalalādikālaṃ atikkamitvā sañjātāṅgapaccaṅgāhīnindriyabhāvaṃ upagataṃyeva passati. Kimatthaṃ passati? sukhavāsatthaṃyeva. Yatheva hi mātā puttena saddhiṃ nipannā vā nisinnā vā — “Hatthaṃ vāssa pādaṃ vā olambantaṃ ukkhipitvā saṇṭhapessāmī”ti sukhavāsatthaṃ puttaṃ oloketi, evaṃ bodhisattamātāpi yaṃ taṃ mātu uṭṭhānagamanaparivattananisajjādīsu uṇhasītaloṇikatittakakaṭukāhārājjhoharaṇakālesu ca gabbhassa dukkhaṃ uppajjati, “atthi nu kho me taṃ puttassā”ti sukhavāsatthaṃ olokayamānā pallaṅkaṃ ābhujitvā nisinnaṃ bodhisattaṃ passati. Yathā hi aññe antokucchigatā pakkāsayaṃ avattharitvā āmāsayaṃ ukkhipitvā udarapaṭalaṃ piṭṭhito katvā piṭṭhikaṇḍakaṃ nissāya ukkuṭikaṃ dvīsu muṭṭhīsu hanukaṃ ṭhapetvā deve vassante rukkhasusire makkaṭā viya nisīdanti, na evaṃ bodhisatto, bodhisatto pana piṭṭhikaṇḍakaṃ piṭṭhito katvā dhammāsane dhammakathiko viya pallaṅkaṃ ābhujitvā puratthābhimukho nisīdati. Pubbekatakammaṃ panassā vatthuṃ sodheti, suddhe vatthumhi sukhumacchavilakkhaṇaṃ nibbattati. Atha naṃ kucchitaco paṭicchādetuṃ na sakkoti, olokentiyā bahiṭhito viya paññāyati. Tamatthaṃ upamāya vibhāvento bhagavā seyyathāpītiādimāha. Bodhisatto pana antokucchigato mātaraṃ na passati. na hi antokucchiyaṃ cakkhuviññāṇaṃ uppajjati.
- Thân thể không bị mệt nhọc: Những người phụ nữ khác mệt nhọc với việc chăm sóc bào thai, tay và chân sưng lên, còn hoàng hậu không bị bất cứ sự mệt nhọc nào giống như những người phụ nữ ấy cả. Đức Bồ-tát ở trong bào thai: đức Bồ-tát ở bên trong bào thai. Nhìn thấy: Mẹ của Bồ-tát khi trải qua thời gian kalalarūpa [chất thụ thai đầu tiên trong bụng mẹ] v.v, (mẹ của Bồ-tát) nhìn thấy đức Bồ-tát có đầy đủ các chi phần lớn nhỏ, có các giác quan đầy đủ, đã sanh. Ngắm nhìn vì lợi ích gì? Để sống được an vui. Thật vậy, những người mẹ ngồi hoặc nằm cùng con – ngắm nhìn đứa con của mình để sống thoải mái rằng: “Ta sẽ nâng bàn tay và bàn chân xuống để điều chỉnh cho thích hợp” ngay cả mẹ của Bồ-tát cũng như thế, (bà) ngắm nhìn Bồ-tát để sống được an vui do suy nghĩ rằng: “Bất cứ khổ đau nào khởi lên cho con trong bụng trong lúc mẹ đứng dậy, bước đi, xoay người và ngồi v.v, trong lúc mẹ nuốt thức ăn nóng, lạnh, mặn, đắng và cay, khổ đau đó sẽ có mặt cùng hoàng tử con trai của ta phải chăng? Rồi nhìn thấy Bồ-tát ngồi xếp chân thế kiết già. Thường đứa bé khác ở trong bụng ngồi trên phần vật thực cũ đội phần ruột non xoay lưng về phía bụng mẹ, ngồi xổm, tựa lưng, hai tay chống cằm, y như con khi ngồi trong hốc gỗ lúc trời mưa, còn đức Bồ-tát thì không phải thế. Ngài tựa lưng ngồi xếp chân thế kiết già, xoay mặt về hướng Đông như thể vị Pháp sư đang ngồi trên Pháp toạ. Nghiệp lực mà mẹ của Bồ-tát đã tạo ở tiền kiếp làm vật-vatthu (buồng tử cung) của bà được sạch sẽ, khi buồng tử cung sạch sẽ thì tướng trạng là da thịt mịn màn khởi sanh. Khi ấy lớp da bụng không thể che phủ lớp da ấy được, khi (mẹ của Bồ-tát) quan sát sẽ hiển lộ như thể (Bồ-tát) đang đứng bên ngoài. Đức Thế Tôn làm sáng tỏ ý nghĩa đó bằng ví dụ nên mới nói rằng: ‘ví như v.v.’ Còn đức Bồ-tát trú bên trong bào thai thì không nhìn thấy mẹ bởi nhãn thức vẫn chưa sanh khởi bên trong bào thai.
- Kālaṅkarotīti na vijātabhāvapaccayā, āyuparikkhayeneva. Bodhisattena vasitaṭṭhānañhi cetiyakuṭisadisaṃ hoti, aññesaṃ aparibhogārahaṃ, na ca sakkā bodhisattamātaraṃ apanetvā aññaṃ aggamahesiṭṭhāne ṭhapetunti tattakaṃyeva bodhisattamātu āyuppamāṇaṃ hoti, tasmā tadā kālaṅkaroti. Katarasmiṃ pana vaye kālaṃ karotīti? Majjhimavaye. Paṭhamavayasmiñhi sattānaṃ attabhāve chandarāgo balavā hoti, tena tadā sañjātagabbhā itthī gabbhaṃ anurakkhituṃ na sakkoti, gabbho bahvābādho hoti. Majjhimavayassa pana dve koṭṭhāse atikkamma tatiye koṭṭhāse vatthu visadaṃ hoti, visade vatthumhi nibbattadārakā arogā honti, tasmā bodhisattamātāpi paṭhamavaye sampattiṃ anubhavitvā majjhimavayassa tatiye koṭṭhāse vijāyitvā kālaṃ karotīti ayamettha dhammatā.
- Hoàng hậu mệnh chung: Bà mệnh chung không phải do bà đã hết tuổi thọ, mà vì hạ sanh (đức Bồ-tát) làm duyên. Thật vậy, đức Bồ-tát an trú (trong bụng mẹ) giống như một Bảo điện và am thất không thích hợp để người khác cùng sử dụng, và không ai có thể đưa mẹ của Bồ-tát đặt vào địa vị hoàng hậu của người khác, do đó, tuổi thọ của mẹ Bồ-tát chỉ chừng ấy, cho nên hoàng hậu đã mệnh chung vào thời gian ấy. Hoàng hậu mệnh chung vào giai đoạn nào? Vào giai đoạn trung niên. Bởi vì vào giai đoạn thanh niên tự ngã của tất cả chúng sanh đều có dục vọng và ái luyến mãnh liệt, vì thế người nữ mang thai vào thời gian ấy, không đủ khả năng bảo hộ bào thai đó, bào thai dễ có nhiều bệnh tật. Hơn nữa, qua giai đoạn thứ hai của giai đoạn trung niên, ở giai đoạn thứ ba thì vatthu-vật (buồng tử cung) được sạch sẽ, đứa bé sanh ra trong buồng tử cung sạch sẽ thì không bệnh tật. Vì thế, mẹ của Bồ-tát thọ hưởng sự thành tựu vào giai đoạn thanh niên, hạ sanh (Bồ-tát) vào giai đoạn thứ 3 của giai đoạn trung niên, bà đã mệnh chung như vậy. Và ở đây, điều này là quy luật.
- Nava vā dasa vāti ettha vā saddassa vikappanavasena satta vā aṭṭha vā ekādasa vā dvādasa vāti evamādīnaṃ saṅgaho veditabbo. tattha sattamāsajāto jīvati, sītuṇhakkhamo pana na hoti. Aṭṭhamāsajāto na jīvati, avasesā jīvanti.
- Ở đây, từ ‘hoặc’ trong cụm từ ‘chín tháng hoặc mười tháng’ nên biết về phương diện xác định, nên biết việc gom hợp luôn cả từ được bắt đầu như vầy: ‘bảy tháng, tám tháng, mười một tháng hoặc mười hai tháng’. Ở đấy, đứa bé hạ sanh trong tám tháng (có thể) sinh tồn nhưng không chịu đựng được sự lạnh và sự nóng. Đứa bé hạ sanh trong bảy tháng không thế sinh tồn, ngoài ra đều (có thể) sinh tồn.
- Devā paṭhamaṃ paṭiggaṇhantīti khīṇāsavā suddhāvāsabrahmāno paṭiggaṇhanti. Kathaṃ paṭiggaṇhanti? “sūtivesaṃ gaṇhitvā”ti eke. Taṃ pana paṭikkhipitvā idaṃ vuttaṃ — ‘tadā bodhisattamātā suvaṇṇakhacitaṃ vatthaṃ nivāsetvā macchakkhisadisaṃ dukūlapaṭaṃ yāva pādantā pārupitvā aṭṭhāsi. Athassā sallahukagabbhavuṭṭhānaṃ ahosi, dhamakaraṇato udakanikkhamanasadisaṃ. Atha te pakatibrahmaveseneva upasaṅkamitvā paṭhamaṃ suvaṇṇajālena paṭiggahesuṃ. Tesaṃ hatthato cattāro mahārājāno ajinappaveṇiyā paṭiggahesuṃ. Tato manussā dukūlacumbaṭakena paṭiggahesuṃ’. Tena vuttaṃ — “devā paṭhamaṃ paṭiggaṇhanti, pacchā manussā”ti.
- Chư Thiên đỡ lấy (ngài) trước: Phạm Thiên cõi trời Tịnh Cư là bậc Lậu Tận đỡ lấy (ngài). Đỡ lấy như thế nào? Một số vị thầy nói rằng: “Nhóm Phạm thiên cõi Tịnh cư thay đổi hình tướng trở thành người hầu cận để nâng đỡ sự ra đời (của Bồ-tát). Hơn nữa, sau khi đã khước từ lời của những vị ấy đã nói lời giải rằng – “Thời gian đó mẹ của Bồ-tát quấn y phục trang điểm bằng vàng trông như màu mắt cá có 2 lớp thật mịn phủ quanh đến gót chân ở tư thế đứng, và trong lúc đó mẹ của Bồ-tát đã hạ sanh Bồ-tát, ngài lọt lòng mẹ y như thể một dòng nước chảy ra từ bình lọc nước, vào lúc ấy những Phạm Thiên cõi Tịnh cư ấy với hình tướng Phạm Thiên bình thường tiến vào đỡ lấy Bồ-tát bằng tấm lưới vàng trước. Tứ-đại-thiên-vương đã lấy tấm trải được làm bằng da cọp vằn đỡ lấy tử tay của vị Phạm Thiên ấy, sau đó người nhân loại đỡ lấy (ngài) bằng tấm lót hai lớp loại thượng hạng. Vì thế, ngài mới nói rằng – “Chư thiên đã đỡ lấy (ngài) trước, người nhân loại đỡ lấy (ngài) sau”.
- Cattāro naṃ devaputtāti cattāro mahārājāno. Paṭiggahetvāti ajinappaveṇiyā paṭiggahetvā. Mahesakkhoti mahātejo mahāyaso lakkhaṇasampanno.
- Cả bốn vị thiên tử đỡ lấy đức Bồ-tát ấy: ám chỉ đến Tứ-đại-thiên-vương. Đã đỡ lấy: đỡ lấy bằng tấm lưới da cọp vằn. Có đại uy lực: có oai lực vĩ đại, có danh tiếng lẫy lừng, có sự thành tựu trọn vẹn nhờ tướng trạng.
- Visadova nikkhamatīti yathā aññe sattā yonimagge laggantā bhaggavibhaggā nikkhamanti, na evaṃ nikkhamati, alaggo hutvā nikkhamatīti attho. Udenāti udakena. Kenaci asucināti yathā aññe sattā kammajavātehi uddhaṃpādā adhosirā yonimagge pakkhittā sataporisaṃ narakapapātaṃ patantā viya, tāḷacchiddena nikkaḍḍhiyamānā hatthī viya mahādukkhaṃ anubhavantā nānāasucimakkhitāva nikkhamanti, na evaṃ bodhisatto. Bodhisattañhi kammajavātā uddhapādaṃ adhosiraṃ kātuṃ na sakkonti. So dhammāsanato otaranto dhammakathiko viya, nisseṇito otaranto puriso viya ca dve hatthe ca dve pāde ca pasāretvā ṭhitakova mātukucchisambhavena kenaci asucinā amakkhitova nikkhamati.
- Ngài bước ra thật tinh khiết: không như những chúng sanh khác thường bị mắc kẹt ở cổ tử cung, và (cổ tử cung) co thắt đi co thắt lại mới ra ngoài, nhưng ngài thì không như thế, tức là ngài bước ra không mắc kẹt (dễ dàng). Bởi nước nhớt: bởi nước nhớt. Không bị lấm nhơ bởi bất cứ vật bất tịnh nào: những chúng sanh khác bị gió do nghiệp tạo thổi phần chân quay lên trên, phần đầu xoay xuống tử cung giống như rơi xuống vực thẳm sâu hàng trăm thân người, hoặc giống như con voi bị kéo ra khỏi hốc cây tāla phải chịu khổ đau lớn lao, lấm nhơ với những thứ bất tịnh mới lọt ra được, còn Bồ-tát không phải như thế. Thật vậy, gió sanh lên từ nghiệp không thể ảnh hưởng đến Bồ-tát khiến đôi chân xoay lên trên, đầu xoay xuống dưới được. Ngài giống như một vị Pháp sư bước xuống từ Pháp tòa, hoặc giống như người đàn ông bước xuống từ cầu thang, đã duỗi cả hai tay và cả hai chân trong tư thế đứng, không lấm nhơ bởi bất cứ vật bất tịnh nào, được sản sinh ra từ bào thai của người mẹ, rồi (ngài) bước ra.
Udakassa dhārāti[71] udakavaṭṭiyo. Tāsu sītā suvaṇṇakaṭāhe patati uṇhā rajatakaṭāhe. Idañca pathavitale kenaci asucinā asammissaṃ tesaṃ[72] pānīyaparibhojanīyaudakañceva aññehi asādhāraṇaṃ kīḷāudakañca dassetuṃ vuttaṃ, aññassa pana suvaṇṇarajataghaṭehi āhariyamānaudakassa ceva haṃsavattakādipokkharaṇīgatassa ca udakassa paricchedo natthi.
Dòng nước: dòng nước. Trong dòng nước ấy thì dòng nước lạnh chảy xuống bình nước vàng, dòng nước ấm chảy xuống bình nước bạc. Và điều này được ngài nói để chỉ đến nước uống và nước sử dụng, và dòng nước làm chỗ vui đùa không phổ biến với những dòng nước khác của những dòng nước ấy không lấm nhơ bởi bất cứ một vật bất tịnh nào ở trên mặt đất. Không được xác định dòng nước được mang lại bằng bình vàng và bình bạc, hay nước chảy vào hồ như hồ Haṃsavaṭṭa v.v.
- Sampatijātoti muhuttajāto. Pāḷiyaṃ pana mātukucchito nikkhantamatto viya dassito, na evaṃ daṭṭhabbaṃ. Nikkhantamattañhi naṃ paṭhamaṃ brahmāno suvaṇṇajālena paṭiggaṇhiṃsu, tesaṃ hatthato cattāro mahārājāno ajinappaveṇiyā, tesaṃ hatthato manussā dukūlacumbaṭakena. Manussānaṃ hatthato muccitvā pathaviyaṃ patiṭṭhito.
- Khi vừa được sanh ra: vừa mới được sinh ra. Tuy nhiên, trong Pāḷī đã trình bày rằng: Bồ-tát khi vừa mới sanh ra từ bào thai của mẹ, nhưng không nên thấy như vậy. Bởi vì, các Phạm Thiên đỡ lấy Bồ-tát khi ngài vừa mơi sanh ra bằng tấm lưới vàng trước, Tứ-đại-thiên-vương đỡ lấy (ngài) bằng tấm trải da cọp vằn từ tay của những vị Phạm Thiên, người nhân loại đỡ lấy (ngài) bằng tấm vải hai lớp thượng hạng từ tay của Tứ-đại-thiên-vương. Sau khi rời khỏi tay của loài người (ngài) đã đứng trên mặt đất.
Setamhi chatte anudhāriyamāneti dibbasetacchatte anudhāriyamānamhi. Ettha ca chattassa parivārāni khaggādīni pañca rājakakudhabhaṇḍānipi āgatāneva. Pāḷiyaṃ pana rājagamane rājā viya chattameva vuttaṃ. Tesu chattameva paññāyati, na chattaggāhako. Tathā khagga- tālavaṇṭa- morahatthaka- vāḷabījanī- uṇhīsamattāyeva[73] paññāyanti, na tesaṃ gāhakā. sabbāni kira tāni adissamānarūpā devatā gaṇhiṃsu. vuttañcetaṃ —
“Anekasākhañca sahassamaṇḍalaṃ, chattaṃ marū dhārayumantalikkhe.
Suvaṇṇadaṇḍā vipatanti[74] cāmarā, na dissare cāmarachattagāhakā”ti.[75]
Trong khi có chiếc lọng trắng được che ở bên trên: Khi vị Thiên tử che cây lọng trắng thuộc cõi trời theo ngài. Và ở đây, năm vật biểu tượng của hoàng gia chẳng hạn như thanh gươm v.v, thuộc một bộ của cây lọng ấy cũng xuất hiện ngay tức khắc. Nhưng trong Pāḷī chỉ nói đến cây lọng trắng tựa như đức vua trong lúc ngài bước đi. Trong năm vật biểu tượng của hoàng gia ấy chỉ xuất hiện cây lọng trắng mà thôi, người nắm giữ lọng không xuất hiện. Thanh gươm, cái quạt lá cọ, (quạt) bó lông con công, quạt phất trần, vương miện cũng xuất hiện, người nắm giữ những vật ấy không xuất hiện. Được biết rằng các vị Thiên tử không hiển lộ hình tướng nắm giữ các vật biểu tượng ấy. Và điều này đã được nói –
“Các vị Thiên tử đã nắm giữ chiếc lọng có nhiều thanh nan, có ngàn khoanh tròn ở giữa không trung, và phe phẩy tới lui những cây phất trần có tay cầm bằng vàng; những người nắm giữ các cây phất trần và chiếc lọng không được nhìn thấy.”
Sabbā ca disāti idaṃ sattapadavītihārūpari ṭhitassa viya sabbadisānuvilokanaṃ vuttaṃ, na kho panevaṃ daṭṭhabbaṃ. Mahāsatto hi manussānaṃ hatthato muccitvā paṭhaviyaṃ patiṭṭhito puratthimaṃ disaṃ olokesi. Anekāni cakkavāḷasahassāni ekaṅgaṇāni ahesuṃ. Tattha devamanussā gandhamālādīhi pūjayamānā — “Mahāpurisa, idha tumhehi sadisopi natthi, kuto uttaritaro”ti āhaṃsu. Evaṃ catasso disā, catasso anudisā, heṭṭhā, uparīti dasa disā anuviloketvā attanā sadisaṃ adisvā — “Ayaṃ uttarā disā”ti uttarābhimukho sattapadavītihārena agamāsīti, evamettha attho veditabbo. Āsabhinti uttamaṃ. Aggoti guṇehi sabbapaṭhamo. Itarāni dve padāni etasseva vevacanāni. Ayamantimā jāti, natthi dāni punabbhavoti padadvayena imasmiṃ attabhāve pattabbaṃ arahattaṃ byākāsi.
Và (nhìn khắp) mọi phương hướng – điều này ngài nói như thế đức Bồ-tát đứng sau khi ngài bước đi bảy bước, rồi nhìn khắp mọi phương hướng, nhưng câu này không nên hiểu như vậy. Thật vậy, bậc Đại nhân khi đã tay của mọi người (ngài) đứng vững vàng ở trên mặt đất nhìn về hướng Đông. Nhiều ngàn vũ trụ đã hiện ra thành một gò. Ở đó, Chư Thiên và nhân loại đều lễ bái với những vật thơm và tràng hoa v.v, rồi cùng nhau nói rằng: “Thưa bậc Đại nhân, ở trên đời này ngay cả người ngang bằng ngài cũng không có, thì ở đâu có người vượt trội ngài?” Bậc Đại nhân đã quan sát cả mười phương hướng là 4 hướng chính, 4 hướng phụ, hướng dưới và hướng trên, không thấy bất cứ ai ngang bằng với ngài, ngài suy tư rằng: “Đây là hướng Bắc” rồi ngài quay mặt về hướng Bắc bằng cách bước đi bảy bước. Ở đây, nên hiểu ý nghĩa như vậy. Sự dũng mãnh: tối thượng. Tối cao: vượt trội hơn tất cả mọi người về các ân đức. Còn hai từ còn lại là từ đồng nghĩa với chính từ ‘tối cao’. Ngài tuyên bố quả vị A-ra-hán có thể chứng đắc trong bản ngã này bằng hai câu sau: ‘Kiếp sống này là kiếp sống cuối cùng, giờ đây không còn tái sanh nữa.’
Ettha ca samehi pādehi pathaviyā patiṭṭhānaṃ caturiddhipādapaṭilābhassa pubbanimittaṃ, uttarābhimukhabhāvo mahājanaṃ ajjhottharitvā abhibhavitvā gamanassa pubbanimittaṃ, sattapadagamanaṃ sattabojjhaṅgaratanapaṭilābhassa pubbanimittaṃ, dibbasetacchattadhāraṇaṃ vimuttivarachattapaṭilābhassa pubbanimittaṃ, pañcarājakakudhabhaṇḍānaṃ paṭilābho pañcahi vimuttīhi vimuccanassa pubbanimittaṃ, sabbadisānuvilokanaṃ anāvaraṇañāṇapaṭilābhassa pubbanimittaṃ, āsabhivācābhāsanaṃ appaṭivattiyadhammacakkappavattanassa pubbanimittaṃ, “ayamantimā jātī”ti sīhanādo anupādisesāya nibbānadhātuyā parinibbānassa pubbanimittanti veditabbaṃ . ime vārā pāḷiyaṃ āgatā, sambahulavāro pana nāgato, āharitvā dīpetabbo.
Trong trường hợp này nên biết lý giải như sau: việc ngài đứng trên mặt đất bằng đôi chân bằng phẳng là điềm báo trước của việc đạt được bốn nền tảng như ý – iddhipāda, việc ngài quay mặt về hướng Bắc là điềm báo trước của việc ngài trấn áp, trừng trị toàn thể dân chúng. Việc ngài bước đi bảy bước là điềm báo trước của việc chứng đạt bảy báu là thất giác chi. Việc che lọng trắng thuộc cõi trời là điềm báo trước của việc đạt được cây lọng là giải thoát. Năm biểu tượng của hoàng gia là điềm báo trước của việc giải thoát với năm loại giải thoát. Việc quan sát phương hướng là điềm báo trước của việc chứng đạt trí không bị ngăn che; việc thốt lên tiếng rống của con bò chúa – āsabhīvācā là điềm báo trước của việc chuyển vận bánh xe pháp chưa được vận hành. Việc gầm lên tiếng gầm sư tử “kiếp sống này là kiếp sống cuối cùng” nên hiểu rằng là điềm báo trước của việc viên tịch Nibbāna ở cảnh giới Nibbāna không còn dư sót. Những đoạn này đã đến trong Pāḷī, nhưng có nhiều đoạn chưa xuất hiện nên cần đem đến trình bày.
Mahāpurisassa hi jātadivase dasasahassilokadhātu kampi. Dasasahassilokadhātumhi devatā ekacakkavāḷe sannipatiṃsu. Paṭhamaṃ devā paṭiggaṇhiṃsu, pacchā manussā. Tantibaddhā vīṇā cammabaddhā bheriyo ca kenaci avāditā sayameva vajjiṃsu. Manussānaṃ andubandhanādīni[76] khaṇḍākhaṇḍaṃ chijjiṃsu. Sabbarogā vūpasamiṃsu, ambilena dhotatambamalaṃ viya vigacchiṃsu. jaccandhā rūpāni passiṃsu. Jaccabadhirā saddaṃ suṇiṃsu. Pīṭhasappī javasampannā ahesuṃ. Jātijaḷānampi eḷamūgānaṃ sati patiṭṭhāsi. Videsapakkhandā nāvā supaṭṭanaṃ pāpuṇiṃsu. Ākāsaṭṭhakabhūmaṭṭhakaratanāni sakatejobhāsitāni ahesuṃ. Verino mettacittaṃ paṭilabhiṃsu. Avīcimhi aggi nibbāyi. Lokantaresu āloko udapādi. Nadīsu jalaṃ nappavattati. mahāsamudde madhurasaṃ udakaṃ ahosi. Vāto na vāyi. Ākāsapabbatarukkhagatā[77] sakuṇā bhassitvā pathavigatā ahesuṃ. Cando ativiroci. Sūriyo na uṇho, na sītalo, nimmalo utusampanno ahosi. Devatā attano attano vimānadvāre ṭhatvā apphoṭanaseḷanacelukkhepādīhi mahākīḷakaṃ kīḷiṃsu. Cātuddīpikamahāmegho vassi. Mahājanaṃ neva khudā na pipāsā pīḷesi. Dvārakavāṭāni sayameva vivariṃsu. Pupphūpagaphalūpagā rukkhā pupphaphalāni gaṇhiṃsu. Dasasahassilokadhātu ekaddhajamālā ahosi.
Thật vậy, cũng vào ngày đức Bồ-tát đản sanh mười ngàn thế giới đã rúng động. Tất cả chư thiên trong mười ngàn thế giới tụ hội lại với nhau trong một thế giới. Tất cả chư thiên tiếp đón trước, loài người tiếp đón sau. Các món nhạc khí và các trống được bọc da cũng tự động vang lên mà chẳng có bất kỳ ai điều khiển. Dụng cụ giam cầm như gông cùm và dây xích v.v, của nhân loại đều bị đứt thành từng mảnh từng miếng lớn nhỏ, mọi tật bệnh đều biến mất tương tự như sắt gỉ sét màu nâu được chà bóng bằng chất chua. Người mù bẩm sinh cũng nhìn thấy được mọi sắc. Người điếc bẩm sinh cũng nghe được âm thanh. Người bại liệt được thành tựu đầy đủ sức lực, người mất trí kể cả người đần độn thì được phục hồi lại sự ghi nhớ, tất cả tàu bè đang đi trên biển cũng cập bến được thuận tiện, tất cả các châu báu ở trong hư không và trong lòng đất cũng tự động phát sáng, những người thù oán cũng hết oán giận nhau, trở nên cảm thông với nhau, lửa ở địa ngục Avecī cũng được dập tắt. Ánh sáng xuất hiện ở địa ngục không gian, nước ở các con sông không chuyển động, nước ở trong biển cả cũng trở thành nước ngọt, gió yên lặng không thổi, chim chóc đang bay trên bầu trời và đang đậu trên cây, đồi núi, không muốn bay chỉ muốn đậu trên mặt đất, mặt trăng tuyệt đẹp, ánh nắng mặt trời không nóng, không lạnh, không uế nhiễm, sự thuận lợi theo thời tiết. Chư Thiên đã đứng ở tại cửa Thiên cung của mỗi vị vui đùa hân hoan v.v, vỗ tay, huýt sáo và vẫy những tấm vải, mưa lớn rơi xuống từ bốn hướng, đại chúng không ai có cảm giác đói hay khát, lúc đó tất cả các cửa lớn và cửa nhỏ tự động mở ra, cây cối có hoa có trái tất cả đều đơm hoa, kết trái, mười ngàn thế giới lúc đó đã có cờ hoa giăng đầy khắp.
Tatrāpi dasasahassilokadhātukampo sabbaññutaññāṇapaṭilābhassa pubbanimittaṃ. Devatānaṃ ekacakkavāḷe sannipāto dhammacakkappavattanakāle ekappahāreneva sannipatitvā dhammaṃ paṭiggaṇhanassa pubbanimittaṃ. Paṭhamaṃ devatānaṃ paṭiggahaṇaṃ catunnaṃ rūpāvacarajjhānānaṃ paṭilābhassa pubbanimittaṃ. pacchā manussānaṃ paṭiggahaṇaṃ catunnaṃ arūpāvacarajjhānānaṃ paṭilābhassa pubbanimittaṃ. Tantibaddhavīṇānaṃ sayaṃ vajjanaṃ anupubbavihārapaṭilābhassa pubbanimittaṃ. cammabaddhabherīnaṃ vajjanaṃ mahatiyā dhammabheriyā anussāvanassa pubbanimittaṃ. andubandhanādīnaṃ chedo asmimānasamucchedassa pubbanimittaṃ. mahājanassa rogavigamo catusaccapaṭilābhassa pubbanimittaṃ. jaccandhānaṃ rūpadassanaṃ dibbacakkhupaṭilābhassa pubbanimittaṃ . badhirānaṃ saddassavanaṃ dibbasotadhātupaṭilābhassa pubbanimittaṃ. pīṭhasappīnaṃ javasampadā caturiddhipādapaṭilābhassa pubbanimittaṃ. Jaḷānaṃ[78] satipatiṭṭhānaṃ catusatipaṭṭhānapaṭilābhassa pubbanimittaṃ. videsapakkhandanāvānaṃ supaṭṭanasampāpuṇanaṃ catupaṭisambhidādhigamassa pubbanimittaṃ. ratanānaṃ sakatejobhāsitattaṃ yaṃ lokassa dhammobhāsaṃ dassessati, tassa pubbanimittaṃ.
Ngay cả trong câu này nên biết như sau: sự rúng động của mười ngàn thế giới là điềm báo trước của việc (ngài sẽ) chứng đạt Trí toàn giác. Chư thiên tụ hội lại với nhau trong cùng một thế giới là điềm báo trước của việc hội họp để tiếp nhận Chánh pháp trong cùng một thời điểm vào lúc chuyển vận bánh xe Pháp. Chư thiên đỡ lấy Bồ-tát trước là điềm báo trước của việc chứng đạt cả 4 thiền Sắc-giới, loài người đỡ lấy Bồ-tát sau là điềm báo trước của việc chứng đạt cả 4 thiền Vô-sắc-giới. Các nhạc khí đã được căng dây tự động vang lên là điềm báo trước của việc chứng đạt sự an trú theo tuần tự, trống được bọc da tự động vang lên là điềm báo trước của việc giảng dạy dhammabherī vĩ đại, dụng cụ giam cầm như gông cùm và dây xích v.v, đều đứt đoạn là điềm báo trước của việc cắt đứt ngã mạn [asmimāna] một cách hoàn toàn, tất cả mọi người dứt khỏi mọi bệnh tật là điềm báo trước của việc thoát khỏi tất cả phiền não, người mù bẩm sinh nhìn thấy được các sắc là điềm báo trước của việc chứng đạt thiên nhãn, người điếc bẩm sinh nghe được âm thanh là điềm báo trước của việc chứng đạt thiên nhĩ, người bại liệt được thành tựu đầy đủ sức lực là điềm báo trước của việc chứng đắc cả bốn nền tảng như ý, người mất trí được phục hồi lại sự ghi nhớ là điềm báo trước của việc chứng đắc bốn sự thiết lập niệm. Tất cả tàu bè đang đi trên biển cũng cập bến được thuận tiện là điềm báo trước của việc chứng đắc bốn tuệ phân tích. Tất cả các châu báu tự phát sáng là điềm báo trước của ánh sáng pháp bảo mà ngài sẽ tuyên bố đến người thế gian.
Verīnaṃ mettacittapaṭilābho catubrahmavihārapaṭilābhassa pubbanimittaṃ. Avīcimhi agginibbāyanaṃ[79] ekādasāgginibbāyanassa pubbanimittaṃ. Lokantarikāloko avijjandhakāraṃ vidhamitvā ñāṇālokadassanassa pubbanimittaṃ. ()[80] Mahāsamuddassa madhuratā[81] nibbānarasena ekarasabhāvassa pubbanimittaṃ. Vātassa avāyanaṃ dvāsaṭṭhidiṭṭhigatabhindanassa pubbanimittaṃ. Sakuṇānaṃ pathavigamanaṃ mahājanassa ovādaṃ sutvā pāṇehi saraṇagamanassa pubbanimittaṃ. Candassa ativirocanaṃ bahujanakantatāya pubbanimittaṃ. Sūriyassa uṇhasītavivajjanautusukhatā kāyikacetasikasukhappattiyā pubbanimittaṃ. Devatānaṃ vimānadvāresu ṭhatvā apphoṭanādīhi kīḷanaṃ buddhabhāvaṃ patvā udānaṃ udānassa pubbanimittaṃ. Cātuddīpikamahāmeghavassanaṃ mahato dhammameghavassanassa[82] pubbanimittaṃ. Khudāpīḷanassa abhāvo kāyagatāsatiamatapaṭilābhassa pubbanimittaṃ. Pipāsāpīḷanassa abhāvo vimuttisukhena sukhitabhāvassa pubbanimittaṃ. Dvārakavāṭānaṃ sayameva vivaraṇaṃ aṭṭhaṅgikamaggadvāravivaraṇassa pubbanimittaṃ. Rukkhānaṃ pupphaphalaggahaṇaṃ vimuttipupphehi pupphitassa[83] ca sāmaññaphalabhārabharitabhāvassa ca pubbanimittaṃ. Dasasahassilokadhātuyā ekaddhajamālitā ariyaddhajamālamālitāya pubbanimittanti veditabbaṃ. Ayaṃ sambahulavāro nāma.
Những người thù oán cũng hết oán giận nhau, trở nên từ ái là điềm báo trước của việc chứng đạt bốn Phạm trú. Lửa địa ngục Avecī được diệt tắt là điềm báo trước của việc dập tắt mười một ngọn lửa (khổ đau). Ánh sáng xuất hiện ở địa ngục không gian là điềm báo trước của việc ngài xua tan sự tăm tối là vô minh rồi nhìn thấy ánh sáng bằng trí. Nước ở trong biển cả có vị ngọt là điềm báo trước của bản thể pháp chỉ có một vị duy nhất (vị giải thoát). Gió yên lặng không thổi là điềm báo trước của việc hội chúng của đức Phật không bị chia rẽ do tác động của sáu mươi hai loại tà kiến. Chim chóc đậu trên mặt đất là điềm báo trước của việc đại chúng lắng nghe lời dạy (nên đã đi đến) xin nương nhờ bằng cả mạng sống. Mặt trăng tuyệt đẹp là điềm báo trước của việc đại chúng quan tâm đến Pháp. Ánh nắng mặt trời không nóng, không lạnh cho sự thuận lợi theo thời tiết là điềm báo trước của đại chúng đạt đến (trạng thái) thân an lạc và tâm an lạc. Chư thiên vui đùa có vỗ tay v.v, ở cửa thiên cung là điềm báo trước của việc bậc Đại nhân đạt đến bản thể của một vị Phật rồi thốt lên lời cảm hứng; Mưa lớn rơi xuống cả bốn hướng là điềm báo trước của việc dòng nước là Chánh pháp chảy xuống rất nhiều, đại chúng không ai có cảm giác đói hay khát là điềm báo trước của việc chứng đắc Pháp bất tử là niệm đặt ở thân [kāyagatāsati]. Đại chúng không ai bị sự đói hay khát hành hạ là điềm báo trước của việc hội chúng đức Phật đạt đến sự an lạc nhờ lạc giải thoát; Các cửa lớn cửa nhỏ tự động mở ra là điềm báo trước của việc mở cánh cửa đạo lộ có tám chi phần; Cây cối toàn bộ đều được đơm hoa kết trái là điềm báo trước của Chánh pháp được nở hoa là sự giải thoát và dày đặc với quả vị của Sa-môn; Mười ngàn thế giới lúc đó cờ hoa giăng đầy khắp nên hiểu rằng là điềm báo của việc hội chúng đức Phật có lá cờ của bậc Thánh nhân làm tràng hoa. Đây được gọi là sambahulavāra.
Ettha pañhaṃ pucchanti — “Yadā mahāpuriso pathaviyaṃ patiṭṭhahitvā uttarābhimukho padasā gantvā āsabhiṃ vācaṃ abhāsi, tadā kiṃ pathaviyā gato, udāhu ākāsena; Dissamāno gato, udāhu adissamāno; Acelako gato, udāhu alaṅkatapaṭiyatto; Daharo hutvā gato, udāhu mahallako; Pacchāpi kiṃ tādisova ahosi, udāhu puna bāladārako”ti? Ayaṃ pana pañho heṭṭhālohapāsāde samuṭṭhito tipiṭakacūḷābhayattherena vissajjitova. Thero kira ettha niyatipubbekatakammaissaranimmānavādavasena taṃ taṃ bahuṃ vatvā avasāne evaṃ byākari — “Mahāpuriso pathaviyā gato, mahājanassa pana ākāsena gacchanto viya ahosi. Dissamāno gato, mahājanassa pana adissamāno viya ahosi. Acelako gato, mahājanassa pana alaṅkatapaṭiyatto viya upaṭṭhāsi. daharova gato, mahājanassa pana soḷasavassuddesiko viya ahosi. pacchā pana bāladārakova ahosi, na tādiso”ti. Parisā cassa — “Buddhena viya hutvā bho[84] therena pañho kathito”ti attamanā ahosi. Lokantarikavāro vuttanayo eva.
Ở đây có một câu hỏi: “Khi bậc Đại Nhân đứng trên mặt đất bước chân đi về phía Bắc rồi nói lên tiếng rống của con bò chúa (lời nói tối thượng); khi ấy ngài đứng trên mặt đất, hay hỏng trên mặt đất? Cơ thể ngài phơi bày, hay không phơi bày? Cơ thể ngài lõa lồ, hay được sửa soạn trang điểm? trong hình thức đứa bé, hay người lớn? thậm chí về sau cũng có tính chất như vậy, hay trở lại một bé sơ sinh?” Lại nữa, tiếp đó về sau trưởng lão Tipiṭaka Cūḷābhaya đã giải thích vấn đề này trong lần họp mặt ở Lâu Đài Bằng Đồng [Lohapāsāda]. Được biết rằng trong vấn đề này trưởng lão đã nói rất nhiều về điều đó do tác động niyata-vāda [thuyết cố định], pubbekatakamma-vāda [thuyết về nghiệp lực đã tạo trong quá khứ] và issaranimmāna-vāda [thuyết do tạo hóa] ở cuối cùng đã nói như vầy – “Bậc Đại Nhân đi trên mặt đất, nhưng hiển lộ cùng đại chúng giống như ngài đi trên hư không. Ngài bước đi, nhưng giống như không hiển lộ cùng đại chúng. Cơ thể không mặc y phục, nhưng hiển lộ cùng đại chúng giống như được sửa soạn trang điểm một cách khéo léo. Mặc dù là đứa bé, nhưng hiển lộ cùng đại chúng giống như một thanh niên mười sáu tuổi. Nhưng sau đó thì trở thành đứa bé sơ sinh như bình thường, không còn giống như đã hiện bày. Và khi trưởng lão đã giải thích như vậy thì cả hội chúng của ngài mọi người đều hài lòng đã nói rằng: “Kính bạch ngài, trưởng lão đã giải quyết vấn đề rõ ràng tương tự như đức Phật”. Phần Lokantarika có phương thức như đã trình bày.
Imā ca pana ādito paṭṭhāya kathitā sabbadhammatā sabbabodhisattānaṃ hontīti veditabbā.
Và hơn nữa, quy luật này ngài đã nói từ đầu, nên biết rằng tất cả quy luật có cùng tất cả các đức Bồ-tát.
Giảng Giải Về Ba Mươi Hai Tướng Trạng của Bậc Đại Nhân
- Addasa khoti dukūlacumbaṭake nipajjāpetvā ānītaṃ addasa. Mahāpurisassāti jātigottakulapadesādivasena mahantassa purisassa. Dve gatiyoti dve niṭṭhā, dve nipphattiyo. Ayañhi gatisaddo — “pañca kho imā, sāriputta, gatiyo”ti[85] ettha nirayādibhedāya sattehi gantabbagatiyā vattati. “Imesaṃ kho ahaṃ bhikkhūnaṃ sīlavantānaṃ kalyāṇadhammānaṃ neva jānāmi āgatiṃ vā gatiṃ vā”ti[86] ettha ajjhāsaye. “Nibbānaṃ arahato gatī”ti[87] ettha paṭissaraṇe. “Api ca tyāhaṃ brahme gatiñca pajānāmi, jutiñca pajānāmi evaṃmahiddhiko bako brahmā”ti[88] ettha nipphattiyaṃ vattati. Svāyamidhāpi nipphattiyaṃ vattatīti veditabbo. Anaññāti aññā gati nipphatti nāma natthi.
- Đã nhìn: Đức vua Bandhuma đã nhìn hoàng tử được vú nuôi đặt nằm xuống tấm vải hai lớp loại tốt đến yết kiến. Của bậc Đại Nhân: của một người đàn ông vĩ đại về phương diện sanh chủng, dòng dõi, gia tộc, quốc độ v.v. Chỉ có hai con đường: đạt được hai sự thành tựu. Thật vậy, từ ‘sự đi’ này, ở đây vận hành ở các sanh thú mà các chúng sanh có thể đến các cảnh giới như địa ngục v.v, – “Này Sariputta, có năm loại sanh thú này”. Ở đây, vận hành trong khuynh hướng – “Ta không biết chỗ đến và chỗ đi của các vị tỳ kheo có giới hạnh và thiện pháp này”. Ở đây, vận hành trong (ý nghĩa) chỗ nương tựa “Nibbāna là nơi nương nhờ của bậc A-ra-hán.” Ở đây, vận hành trong (ý nghĩa) sự thành tựu: “Lại nữa, này Phạm thiên, Ta biết được sự tử, ta biết được sự sanh của ông, ông là Phạm Thiên Baka có nhiều thần lực như vậy.” Nên biết ‘sự đi’ trong câu này vận hành trong sự thành tựu. Không có con đường nào khác: Gọi sự thành tựu ở sanh thú khác là không có.
Dhammikoti dasakusaladhammasamannāgato agatigamanavirahito. Dhammarājāti idaṃ purimapadasseva vevacanaṃ. Dhammena vā laddharajjattā dhammarājā. Cāturantoti puratthimasamuddādīnaṃ catunnaṃ samuddānaṃ vasena caturantāya pathaviyā issaro. Vijitāvīti vijitasaṅgāmo. Janapado asmiṃ[89] thāvariyaṃ thirabhāvaṃ pattoti janapadatthāvariyappatto. Caṇḍassa hi rañño balidaṇḍādīhi lokaṃ pīḷayato manussā majjhimajanapadaṃ chaḍḍetvā pabbatasamuddatīrādīni nissāya paccante vāsaṃ kappenti. Atimudukassa rañño corehi sāhasikadhanavilopapīḷitā[90] manussā paccantaṃ pahāya janapadamajjhe vāsaṃ kappenti, iti evarūpe rājini janapado thirabhāvaṃ na pāpuṇāti. Imasmiṃ pana kumāre rajjaṃ kārayamāne etassa janapado pāsāṇapiṭṭhiyaṃ ṭhapetvā ayopaṭṭena parikkhitto viya thiro bhavissatīti dassento — “janapadatthāvariyappatto”ti āhaṃsu.
Vị minh vương công chính: Là vị gắn liền với mười thiện pháp, ngoài trừ việc đạt đến sanh thú. Vị pháp vương: đây là từ đồng nghĩa của chính từ trước. Hoặc, gọi là vị pháp vương bởi vì đạt được vương quyền bằng kỷ cương. Vị cai trị bốn phương: là vị chúa tể ở quả địa cầu có bốn biển là ranh giới bởi bốn biển có bờ biển ở phía Đông v.v. Đấng chiến thắng: chiến thắng cuộc chiến. Vị đã đạt đến sự bền vững của xứ sở, vì thế đứa bé (hoàng tử) mới đạt đến bản thể vị có vương quốc vững chắc. Thật vậy, khi một vị vua hung dữ, gây tổn hại thế gian bằng việc đánh thuế và bạo lực v.v. mọi người cùng nhau rời khỏi Trung quốc độ cư trú dọc theo chân núi và ven biển v.v, nuôi mạng ở vùng biên địa; khi họ bị bọn cướp hung bạo áp bức, đã cùng nhau rời bỏ vùng biên địa để nuôi sống bản thân ở Trung quốc độ của người tử tế; xứ sở trong việc kiềm chế như vậy không đạt đến sự bền vững. Khi hoàng tử này tiếp nhận vương quyền thì vương quyền của ngài sẽ bền vững giống như đặt một tảng đá bên dưới một tảng đá rồi bọc lại bằng một tấm sắt. Các Bà-la-môn tướng số khi chỉ rõ như vậy mới nói rằng: “ vị đã đạt được sự bền vững của xứ sở”.
Sattaratanasamannāgatoti ettha ratijananaṭṭhena ratanaṃ. Apica —
“Cittīkataṃ mahagghañca, atulaṃ dullabhadassanaṃ.
Anomasattaparibhogaṃ, ratanaṃ tena vuccati”.
Được đầy đủ bảy báu vật: ở đây, báu vật theo ý nghĩa là khiến sự hân hoan sanh khởi. Và hơn nữa –
Xứng đáng được tôn trọng; có giá trị to lớn; không thể so sánh được; khó thấy;
Chỉ có hạng người vô cùng đặc biệt (bậc Đại Nhân) mới có thể sử dụng nó.
Vì lý do ấy, mới được gọi là báu vật.
Cakkaratanassa ca nibbattakālato paṭṭhāya aññaṃ devaṭṭhānaṃ nāma na hoti, sabbe gandhapupphādīhi tasseva pūjañca abhivādanādīni ca karontīti cittīkataṭṭhena ratanaṃ. Cakkaratanassa ca ettakaṃ nāma dhanaṃ agghatīti aggho natthi, iti mahagghaṭṭhenāpi ratanaṃ. cakkaratanañca aññehi loke vijjamānaratanehi asadisanti atulaṭṭhenāpi ratanaṃ. Yasmā ca pana yasmiṃ kappe buddhā uppajjanti, tasmiṃyeva cakkavattino uppajjanti, buddhā ca kadāci karahaci uppajjanti, tasmā dullabhadassanaṭṭhenāpi ratanaṃ. Tadetaṃ jātirūpakulaissariyādīhi anomassa uḷārasattasseva uppajjati, na aññassāti anomasattaparibhogaṭṭhenāpi ratanaṃ. Yathā cakkaratanaṃ, evaṃ sesānipīti. imehi sattahi ratanehi parivārabhāvena ceva sabbabhogūpakaraṇabhāvena ca samannāgatoti sattaratanasamannāgato.
Và kể từ khi bánh xe báu xuất hiện không có đền thờ chư thiên nào khác, tất cả mọi người lễ bái bánh xe báu ấy bằng hương thơm và tràng hoa v.v, và thực hiện đảnh lễ v.v, vì thế báu vật được vận hành với ý nghĩa đáng được tôn trọng. Việc định giá là tài sản có giá trị chừng này, giá trị của bánh xe báu ấy là không có, vì thế báu vật ấy được vận hành với ý nghĩa là có giá trị to lớn (vô giá). Lại nữa, bánh xe bấu ấy không giống như những báu vật khác ở trong thế gian, vì thế báu vật ấy mới vận hành với nghĩa không thể so sánh được. Và lại nữa, bởi vì vị Chuyển-luân-thánh-vương xuất hiện trong kiếp mà chư Phật xuất hiện, tuy nhiên hiếm khi chư Phật xuất hiện, vì thế báu vật ấy được vận hành với ý nghĩa là khó thấy. Báu vậy ấy hiện ra cho người vô cùng đặc biệt bởi sanh chủng, sắc tướng, dòng dõi, và uy quyền v.v, không hiện ra cùng người khác, vì thế báu vật ấy mới vận hành với ý nghĩa là của hạng người vô cùng đặc biệt (bậc Đại Nhân). Kể cả những báu vật còn lại cũng giống như bánh xe báu ấy, bậc Đại Nhân được đầy đủ với bảy báu vật này bởi tính chất hội đủ và nhờ sự trang bị tất cả vật sở hữu vì thế bậc Đại Nhân gọi là được đầy đủ bảy báu vật.
Idāni tesaṃ sarūpato dassanatthaṃ tassimānītiādi vuttaṃ. Tattha cakkaratanantiādīsu ayaṃ saṅkhepādhippāyo — dvesahassadīpaparivārānaṃ catunnaṃ mahādīpānaṃ sirivibhavaṃ gahetvā dātuṃ samatthaṃ cakkaratanaṃ pātubhavati. Tathā purebhattameva sāgarapariyantaṃ pathaviṃ anusaṃyāyanasamatthaṃ[91] vehāsaṅgamaṃ hatthiratanaṃ, tādisameva assaratanaṃ, caturaṅgasamannāgate andhakāre yojanappamāṇaṃ andhakāraṃ vidhamitvā ālokadassanasamatthaṃ maṇiratanaṃ, chabbidhadosavivajjitaṃ manāpacāri itthiratanaṃ, yojanappamāṇe antopathavigataṃ nidhiṃ dassanasamatthaṃ gahapatiratanaṃ, aggamahesiyā kucchimhi nibbattitvā sakalarajjamanusāsanasamatthaṃ jeṭṭhaputtasaṅkhātaṃ pariṇāyakaratanaṃ pātubhavati.
Bây giờ để trình bày những báu vật ấy một cách ngắn gọn đã nói rằng: (Bảy báu vật này) là thuộc về vị ấy v.v. Trong số những báu vật ấy được giải thích tóm tắt trong câu rằng: “bánh xe báu v.v.” – bánh xe báu được hiện ra có thể nắm lấy sự thành tựu tài sản (sirisampatti) của bốn đại châu lục (và) có hai ngàn châu lục nhỏ. Voi báu bay trên bầu trời có thể lao thẳng xuống ngự trên mặt đất được biển bao quanh trước bữa ăn ngay tức khắc. Ngựa báu cũng tương tự như thế. Khi bóng tối gắn liền với bốn yếu tố thì ngọc ma-ni báu có thể xua tan sự tối tâm khoảng một do-tuần để có thể nhìn thấy được ánh sáng. Nữ nhân báu có cách hành xử làm đẹp lòng người (và) tránh xa sáu lỗi lầm. Gia chủ báu có thể nhìn thấy hầm châu báu ở bên trong lòng đất chừng một do-tuần. Tướng quân báu được xem là đứa con trai cao cả có thể nhập thai vào bụng của hoàng hậu rồi trị vì toàn bộ vương quyền được hiện ra.
Parosahassanti atirekasahassaṃ. Sūrāti abhīrukā. Vīraṅgarūpāti vīrānaṃ aṅgaṃ vīraṅgaṃ, vīriyassetaṃ nāmaṃ, vīraṅgaṃ rūpametesanti vīraṅgarūpā, vīriyajātikā vīriyasabhāvā vīriyamayā[92] akilāsuno ahesuṃ, divasampi yujjhantā na kilamantīti vuttaṃ hoti. Sāgarapariyantanti cakkavāḷapabbataṃ sīmaṃ katvā ṭhitasamuddapariyantaṃ. Adaṇḍenāti ye katāparādhe satte satampi sahassampi gaṇhanti, te dhanadaṇḍena rajjaṃ kārenti. Ye chejjabhejjaṃ anusāsanti, te satthadaṇḍena. Ayaṃ pana duvidhampi daṇḍaṃ pahāya adaṇḍena ajjhāvasati. Asatthenāti ye ekatodhārādinā satthena paraṃ vihesanti, te satthena rajjaṃ kārenti nāma. Ayaṃ pana satthena khuddamakkhikāyapi pivanamattaṃ lohitaṃ kassaci anuppādetvā dhammeneva — “ehi kho mahārājā”ti evaṃ paṭirājūhi sampaṭicchitāgamano vuttappakāraṃ pathaviṃ abhivijinitvā ajjhāvasati, abhibhavitvā sāmī hutvā vasatīti attho.
Có hơn một ngàn (con trai): có hơn một ngàn. Vị dũng sĩ: can đảm. Có vóc dáng anh hùng: có vóc dáng anh hùng, câu này là tên gọi của sự tinh tấn, có vóc dáng anh hùng bởi vì có hình dáng là vị ánh hùng, có vóc dáng anh hùng là có sự tinh tấn khởi sanh, có sự tinh tán là thực tính, thành tựu nhờ sự tinh tấn, là vị không lười biếng, giải thích rằng dù chiến dấu suốt ngày cũng không mệt mỏi. Có biển cả làm ranh giới: có biển cả ở tận cùng đã được thực hiện làm ngọn núi Cakkavāḷa trở thành ranh giới được thiết lập. Không phải bằng bạo lực: người nào xử phạt người không sai phạm một trăm, (hay) một ngàn, người ấy gọi là sử dụng quyền lực bằng hình phạt tiền. Người nào ra lệnh giết hoặc đâm (bằng dao kiếm) người ấy gọi là sử dụng quyền lực với hình phạt bằng vũ khí. Nhưng đức vua này đã từ bỏ cả hai loại hình phạt ấy, trì vì (vương quốc) không cần áp dụng hình phạt. Không phải bằng gươm đao: người nào sử dụng vũ khí sắc bén ở một bên v.v, gây tổn thương người khác, người ấy gọi là sử dụng quyền lực bằng gươm đao, nhận được sự tiếp đón từ đức vua đối nghịch như vầy – “Đại vương mong ngài hãy đến bằng kỹ cương”, giải thích rằng – sau khi chiến thắng vương quốc như đã nói, (vị ấy) trú ngụ, sau khi trấn áp cho đến khi trở thành chủ nhân ngự trị.
Evaṃ ekaṃ nipphattiṃ kathetvā dutiyaṃ kathetuṃ sace kho panātiādi vuttaṃ. Tattha rāga- dosa- moha- māna- diṭṭhi- kilesataṇhā- saṅkhātaṃ chadanaṃ āvaraṇaṃ vivaṭaṃ viddhaṃsitaṃ vivaṭakaṃ[93] etenāti vivaṭacchado. “Vivaṭṭacchadā”tipi pāṭho, ayameva attho.
Khi nói đến sự thành tựu thứ nhất như vậy, để nói đến sự thành tựu thứ hai đã nói lời bắt đầu rằng “nhưng nếu hoàng tử…” Trong câu này, vị hoàng tử này có mài che là phiền não đã mở bởi vì có tấm màn che cản trở được đề cập đến là “ái luyến, sân hận, si mê, ngã mạn, tà kiến, phiền não ái”, phiền não đã mở là đã phá hủy. Chủ thể “Vivaṭṭacchado” như thế này cũng có ý nghĩa tương tự.
- Evaṃ dutiyaṃ nipphattiṃ kathetvā tāsaṃ nimittabhūtāni lakkhaṇāni dassetuṃ ayañhi, deva, kumārotiādi vuttaṃ. Tattha suppatiṭṭhitapādoti yathā aññesaṃ bhūmiyaṃ pādaṃ ṭhapentānaṃ aggapādatalaṃ vā paṇhi vā passaṃ vā paṭhamaṃ phusati, vemajjhe vā pana chiddaṃ hoti, ukkhipantānaṃ aggatalādīsu ekakoṭṭhāsova paṭhamaṃ uṭṭhahati, na evamassa. Assa pana suvaṇṇapādukatalamiva ekappahāreneva sakalaṃ pādatalaṃ bhūmiṃ phusati, ekappahāreneva bhūmito uṭṭhahati. Tasmā ayaṃ suppatiṭṭhitapādo.
- Khi nói đến sự thành tựu thứ hai như vậy, để thuyết tướng trạng làm điềm báo của những sanh thú ấy mới nói lời bắt đầu như sau: “Và tâu bệ hạ, hoàng tử này…” Ở đây, có lòng bàn chân bằng phẳng: hoàng tử không giống như những người khác, khi người khác đặt chân xuống trên mặt đất lòng bàn chân, gót chân, hoặc cạnh bàn chân chạm đất trước, dù thế nào cũng xuất hiện lỗ trống ở chính giữa, ngay cả khi nhấc một bên ở lòng bàn chân lên cũng là phần nhấc lên trước. Khi đặt chân xuống thì toàn bộ lòng bàn chân của hoàng tử ấy cùng chạm mặt đất một lần, tựa như đế đóng giày bằng vàng; khi nhấc bàn chân cũng được thực hiện y như vậy. Vì thế, hoàng tử này là vị có lòng bàn chân bằng phẳng.
Cakkānīti dvīsu pādatalesu dve cakkāni, tesaṃ arā ca nemi ca nābhi ca pāḷiyaṃ vuttāva. Sabbākāraparipūrānīti iminā pana ayaṃ viseso veditabbo, tesaṃ kira cakkānaṃ pādatalassa majjhe nābhi dissati, nābhiparicchinnā vaṭṭalekhā dissati, nābhimukhaparikkhepapaṭṭo dissati, panāḷimukhaṃ dissati, arā dissanti, aresu vaṭṭilekhā dissanti, nemimaṇikā dissanti. Idaṃ tāva pāḷiyaṃ āgatameva. Sambahulavāro pana anāgato, so evaṃ daṭṭhabbo — satti, sirivaccho, nandi, sovattiko, vaṭaṃsako, vaḍḍhamānakaṃ, macchayugaḷaṃ, bhaddapīṭhaṃ, aṅkusako, pāsādo, toraṇaṃ, setacchattaṃ, khaggo, tālavaṇṭaṃ, morahatthako, vāḷabījanī, uṇhīsaṃ, maṇi, patto, sumanadāmaṃ, nīluppalaṃ, rattuppalaṃ, setuppalaṃ, padumaṃ, puṇḍarīkaṃ, puṇṇaghaṭo, puṇṇapāti, samuddo, cakkavāḷo, himavā, sineru, candimasūriyā, nakkhattāni, cattāro mahādīpā, dviparittadīpasahassāni, antamaso cakkavattirañño parisaṃ upādāya sabbo cakkalakkhaṇasseva parivāro.
Có hai bánh xe: ngài đã nói trong Pāḷī rằng – “Ở bên bưới hai lòng bàn chân có hai bánh xe hiện ra, hai bánh xe ấy có căm xe, có vành xe, và có trục xe. Hơn nữa, nên biết ý nghĩa đặc biệt này rằng: “có đầy đủ tất cả các bộ phận”, kể rằng trục xe ấy hiện ra ở giữa lòng bàn chân, hoa văn hình tròn được xác định bằng trục bánh xe được hiện ra, vòng tròn quanh bề mặt trục bánh xe hiện ra, ống nước hiện ra; căm xe hiện ra, hoa văn hình tròn ở các căm xe hiện ra; vành xe hiện ra, vành ngọc ma-ni hiện ra. Điều này đã cập trong Pāḷī trước rồi. Nhưng ở trong đoạn sambahula không đề cập, đoạn ấy nên biết như vậy – Hình ảnh giáo nhọn, hình ảnh kính soi sáng, hình ảnh hoa bạch thiên hương, hình ảnh dây chuyền, hình ảnh khay vàng, hình ảnh hai con cá, hình ảnh giá đỡ, hình ảnh móc câu, hình ảnh tòa lâu đài, hình ảnh cột trụ, hình ảnh cây lọng trắng, hình ảnh thanh gươm, hình ảnh cái quạt lá cọ, hình nảh (quạt) bó lông con công, hình ảnh quạt phất trần, hình ảnh vương miện, hình ảnh ngọc ma-ni, hình ảnh bình bát, hình ảnh đóa hoa nhài, hình ảnh hoa súng xanh, hình ảnh hoa súng hồng, hình hoa súng trắng, hình ảnh hoa sen xanh, hình ảnh hoa sen trắng, hình ảnh chiếc bình đựng đầy nước, hình ảnh cái bát đựng đầy nước, hình ảnh đại dương, hình ảnh vũ trụ, hình ảnh rừng Hy-mã-lạp, hình ảnh núi Sineru, hình ảnh mặt trăng và hình ảnh mặt trời, hình ảnh chòm sao, hình ảnh của bốn châu lục lớn, hình ảnh hai ngàn châu lục nhỏ, cuối cùng đề cập đến đoàn tùy tùng của vua Chuyển-luân, và cùng với những phụ tùng của chính tướng trạng bánh xe ấy.
Āyatapaṇhīti dīghapaṇhi, paripuṇṇapaṇhīti attho. Yathā hi aññesaṃ aggapādo dīgho hoti, paṇhimatthake jaṅghā patiṭṭhāti, paṇhiṃ tacchetvā ṭhapitā viya hoti, na evaṃ mahāpurisassa. mahāpurisassa pana catūsu koṭṭhāsesu dve koṭṭhāsā aggapādo hoti, tatiye koṭṭhāse jaṅghā patiṭṭhāti, catutthakoṭṭhāse āraggena vaṭṭetvā ṭhapitā viya rattakambalageṇḍukasadisā paṇhi hoti.
Có gót chân dài: Có gót chân dài, có gót chân tròn đầy. Giải thích rằng gót chân của bậc Đại Nhân không giống như gót chân của người khác, ống quyển đặt ở cuối gót chân giống như cắt gót chân đặt xuống. Còn bàn chân của bậc Đại Nhân có bốn phần, phần ngón chân có 2 phần, phần ống quyển đặt ở phần thứ ba, còn trong phần thứ tư gót chân giống như quả bóng tròn được làm với tấm vải len được nhuộm đỏ, như thể cuộn lại bằng đầu kim rồi đặt xuống.
Dīghaṅgulīti yathā aññesaṃ kāci aṅguliyo dīghā honti, kāci rassā, na evaṃ mahāpurisassa. Mahāpurisassa pana makkaṭasseva dīghā hatthapādaṅguliyo mūle thūlā, anupubbena gantvā agge tanukā, niyyāsatelena madditvā vaṭṭitaharitālavaṭṭisadisā honti. tena vuttaṃ — “dīghaṅgulī”ti.
Các ngón tay-chân dài: Như những người khác một số người có ngón tay dài, một số người có ngón tay ngắn, nhưng của bậc Đại Nhân thì không như vậy. Hơn nữa, các ngón tay và ngón chân dài dày ở góc thon dần lên đến đầu ngón tay, giống như cây nến được nhào trộn với dầu nhựa cây, bởi thế ngài đã nói rằng “có ngón tay-chân dài”.
Mudutalunahatthapādoti sappimaṇḍe osāretvā ṭhapitaṃ satavāravihatakappāsapaṭalaṃ viya mudu. Yathā ca idāni jātamattassa, evaṃ vuḍḍhakālepi mudutalunāyeva bhavissanti, mudutalunā hatthapādā etassāti mudutalunahatthapādo.
Có lòng bàn tay và bàn chân mềm mại: gọi là có lòng bàn tay và bàn chân mềm mại với ý nghĩa mềm như sợi bông được vò nhàu cả trăm lần rồi nhúng vào bơ lỏng đặt ở đó, và có bàn tay và bàn chân luôn luôn mềm mại như của đứa bé mới sanh, vì thế đức Bồ-tát có lòng bàn tay và bàn chân mềm mại.
Jālahatthapādoti na cammena paṭibaddhāṅgulantaro. Ediso hi phaṇahatthako purisadosena[94] upahato pabbajjaṃ na paṭilabhati. Mahāpurisassa pana catasso hatthaṅguliyo pañcapi pādaṅguliyo ekappamāṇā honti, tāsaṃ ekappamāṇatāya yavalakkhaṇaṃ[95] aññamaññaṃ paṭivijjhitvā tiṭṭhati. Athassa hatthapādā kusalena vaḍḍhakinā yojitajālavātapānasadisā honti. Tena vuttaṃ — “jālahatthapādo”ti.
Lòng bàn tay và lòng bàn chân có màng da lưới: khoảng cách giữa các ngón tay không dính lại bởi da, bởi vì người có bàn tay dính lại với nhau thành dãy như vậy bị loại bỏ do khuyết điểm về hình dạng của con người, thì không được xuất gia. Nhưng cả bốn ngón tay và cả năm ngón chân của bậc Đại Nhân thì đều có kích thước bằng nhau. Các ngón tay-chân dính lại với nhau, có đặc điểm tương tự như cây lúa mạch đối xứng được thiết lập. Bàn tay và bàn chân của bậc Đại Nhân ấy tương tự như tấm lưới mỏng cửa sổ được người thợ mộc tài giỏi đã kéo căng ra (đồng đều và song song). Vì thế ngài nói rằng “lòng bàn tay và lòng bàn chân có màng da lưới”.
Uddhaṃ patiṭṭhitagopphakattā ussaṅkhā pādā assāti ussaṅkhapādo. aññesañhi piṭṭhipāde gopphakā honti, tena tesaṃ pādā āṇibaddhā viya baddhā honti, na yathāsukhaṃ parivaṭṭanti, gacchantānaṃ pādatalānipi na dissanti. Mahāpurisassa pana āruhitvā upari gopphakā patiṭṭhahanti, tenassa nābhito paṭṭhāya uparimakāyo nāvāya ṭhapitasuvaṇṇapaṭimā viya niccalo hoti, adhokāyova iñjati, sukhena pādā parivaṭṭanti, puratopi pacchatopi ubhayapassesupi ṭhatvā passantānaṃ pādatalāni paññāyanti, na hatthīnaṃ viya pacchatoyeva.
Có mắt cá tròn như vỏ con sò: Do mắt cá chân được cố định ở trên, chân của đức Bồ-tát mới giống như vỏ óc lật úp, vì thế Bồ-tát mới chân như vỏ con sò lật úp. Thật vậy, mắt cá chân của người khác nằm gần sát mu bàn chân, vì thế bàn chân của họ cứng chai như dính với cái nêm không thể xoay chuyển thoải mái, khi bước đi hai lòng bàn chân không hiện ra. Còn mắt cá chân của bậc Đại Nhân ở trên. Bởi thế phần thân trên của ngài từ phần rốn trở đi không bị chuyển động trông như pho tượng bằng vàng được đặt ở trên thuyền, chỉ có phần thân dưới mới chuyển động. Bàn chân xoay chuyển được dễ dàng. Khi có người đứng nhìn từ bốn phía là trước mặt, sau lưng, hay ở hai bên thì đều có thể nhìn thấy lòng bàn chân ngài, còn như loài voi thì chỉ có thể nhìn thấy lòng bàn chân của nó từ phía sau.
Eṇijaṅghoti eṇimigasadisajaṅgho maṃsussadena paripuṇṇajaṅgho, na ekato baddhapiṇḍikamaṃso, samantato samasaṇṭhitena maṃsena parikkhittāhi suvaṭṭitāhi sāligabbhayavagabbhasadisāhi jaṅghāhi samannāgatoti attho.
Có ống chân như ống chân con sơn dương: có ống chân đầy đặn như ống chân con sơn dương, nghĩa là có ống chân tròn đều bởi được bọc thịt đầy đặn, không phải phần thịt mông vón thành cục dính ở một bên, gắn kết với ống chân như bụng lúa sālī, bụng cây lúa mạch, lớp thịt được phân bổ đồng đều ở xung quanh, khéo xoay tròn.
Anonamantoti anamanto, etenassa akhujjāvāmanabhāvo dīpito. Avasesajanā hi khujjā vā honti vāmanā vā. Khujjānaṃ uparimakāyo aparipuṇṇo hoti, vāmanānaṃ heṭṭhimakāyo. Te aparipuṇṇakāyattā na sakkonti anonamantā jaṇṇukāni parimajjituṃ. Mahāpuriso pana paripuṇṇaubhayakāyattā sakkoti.
Không cúi xuống: không cuối xuống. Với câu này ngài trình bày đến bản thể bậc Đại Nhân không phải người gù lưng và cũng không phải người lùn. Thật vậy, những người còn lại là những người gù, hoặc những người lùn. Người gù có phần thân trên không trọn vẹn, người lùn có phần thân dưới không trọn vẹn. Những người ấy do thân hình không trọn vẹn khi cúi xuống chạm tay xoa đụng đầu gối. Còn bậc Đại Nhân thì thân thể cả phần trên và phần dưới đều hoàn hảo nên có thể chạm xoa đầu gối.
Kosohitavatthaguyhoti usabhavāraṇādīnaṃ viya suvaṇṇapadumakaṇṇikasadisehi kosehi ohitaṃ paṭicchannaṃ vatthaguyhaṃ assāti kosohitavatthaguyho. Vatthaguyhanti vatthena guhitabbaṃ aṅgajātaṃ vuccati.
Có nam căn được bọc lại: bậc đại nhân có nam căn ẩn dưới lớp vỏ bọc như hoa sen vàng, hoa kaṇṇika, giống như dương vật của con bò mộng và voi v.v. Do đó, bậc đại nhân mới có nam căn ẩn dưới lớp vỏ bọc. Nam căn hay dương vật: ngài nói đến bộ phận sinh dục nam được che dậy dưới lớp vải.
Suvaṇṇavaṇṇoti jātihiṅgulakena majjitvā dīpidāṭhāya ghaṃsitvā[96] gerukaparikammaṃ katvā ṭhapitaghanasuvaṇṇarūpasadisoti attho. Etenassa ghanasiniddhasaṇhasarīrataṃ dassetvā chavivaṇṇadassanatthaṃ kañcanasannibhattacoti vuttaṃ. Purimassa vā vevacanametaṃ.
Có màu da tựa như vàng: Bậc Đại Nhân có sắc thân như vàng khối được tô với màu đỏ tươi, đánh bóng bằng răng nanh của hổ, rồi tô bằng bút chì đỏ (và) đặt xuống. Với câu này đã chỉ ra sắc thân của bậc Đại Nhân vô cùng hoàn hảo và tinh tế như một khối (vàng), mới nói rằng có màu da trong sáng như vàng, ngài nói rằng: bậc Đại Nhân có màu da tựa như vàng khối. Hơn nữa, lời này đồng nghĩa với lời nói trước.
Rajojallanti rajo vā malaṃ vā. Na upalimpatīti na laggati padumapalāsato udakabindu viya vivaṭṭati. hatthadhovanādīni pana utuggahaṇatthāya ceva dāyakānaṃ puññaphalatthāya ca buddhā karonti, vattasīsenāpi ca karontiyeva. Senāsanaṃ pavisantena hi bhikkhunā pāde dhovitvā pavisitabbanti vuttametaṃ.
Bụi bẩn gồm bụi hoặc chất bẩn. Không dính vào: không dính vào, lăn tròn giống như những giọt nước lăn tròn từ lá sen. Mặc dầu vậy, chư Phật cũng rửa tay và chân v.v, vì mục đích xác định thời tiết (nóng và lạnh) và vì quả phước cho những thí chủ, và thực hiện cũng chỉ vì bổn phận. Thường vị tỳ khưu đi vào chỗ trú ngụ cần phải rửa chân rồi mới đi vào, ngài nói đến điều này.
Uddhaggalomoti āvaṭṭapariyosāne uddhaggāni hutvā mukhasobhaṃ ullokayamānāni viya ṭhitāni lomāni assāti uddhaggalomo.
Có lông mọc xoáy tròn thẳng lên: bậc Đại Nhân có lông mọc thẳng lên bởi lông của ngài có phần ngọn mềm mại nhô lên, ở ngọn tóc xoắn tròn theo phía hữu, được thiết lập, ngắm nhìn diện mạo xinh đẹp.
Brahmujugattoti brahmā viya ujugatto, ujumeva uggatadīghasarīro bhavissati. Yebhuyyena hi sattā khandhe kaṭiyaṃ jāṇūsūti tīsu ṭhānesu namanti, te kaṭiyaṃ namantā pacchato namanti, itaresu dvīsu ṭhānesu purato. Dīghasarīrā pana eke passavaṅkā honti, eke mukhaṃ unnametvā nakkhattāni gaṇayantā viya caranti, eke appamaṃsalohitā sūlasadisā honti, eke purato pabbhārā honti, pavedhamānā gacchanti. Ayaṃ pana ujumeva uggantvā dīghappamāṇo devanagare ussitasuvaṇṇatoraṇaṃ viya bhavissatīti dīpenti. Yathā cetaṃ, evaṃ yaṃ yaṃ jātamattassa sabbaso aparipuṇṇaṃ mahāpurisalakkhaṇaṃ hoti, taṃ taṃ āyatiṃ tathābhāvitaṃ sandhāya vuttanti veditabbaṃ.
Có thân hình cao thẳng như Phạm Thiên: Bậc Đại Nhân có thân hình thẳng đứng tựa như thân hình Phạm Thiên, tức là có thân hình hoàn toàn cao thẳng như Phạm Thiên. Thật vậy, đa số chúng sanh cúi mình ở 3 vị trí là cổ, eo và hai đầu gối. Những người ấy khi cúi xuống ở eo sẽ nghiêng về phía sau, cúi xuống ở hai vị trí còn lại sẽ nghiêng về phía trước. Một số người có thân hình cao có cột sống cong vẹo, một số có khuôn mặt ngẩng lên trông giống như đang đếm các chòm sao, một số có ít thịt và máu y như cây lao, một số cúi về phía trước bước đi run rẩy. Các vị thầy nói rằng: Bậc Đại Nhân này duy trì thân hình hoàn toàn thẳng đứng, có sự ước chừng chiều cao giống như cột trụ vàng được nâng lên ở thành phố Chư Thiên. Hơn nữa, nên biết rằng điều này ngài muốn đề cập đến Đại Nhân Tướng của bậc Đại Nhân khi vừa mới sanh ra vẫn chưa hoàn thiện ở mọi mặt sẽ phát triển vào thời gian tiếp theo.
Sattussadoti dve hatthapiṭṭhiyo dve pādapiṭṭhiyo dve aṃsakūṭāni khandhoti imesu sattasu ṭhānesu paripuṇṇo maṃsussado assāti sattussado. Aññesaṃ pana hatthapādapiṭṭhādīsu sirājālaṃ paññāyati, aṃsakūṭakkhandhesu aṭṭhikoṭiyo. te manussā petā viya khāyanti, na tathā mahāpuriso, mahāpuriso pana sattasu ṭhānesu paripuṇṇamaṃsussadattā nigūḷhasirājālehi hatthapiṭṭhādīhi vaṭṭetvā suṭṭhapitasuvaṇṇāḷiṅgasadisena khandhena silārūpakaṃ viya khāyati, cittakammarūpakaṃ viya ca khāyati.
Thân thể có bảy chỗ tròn đầy: Bậc Đại Nhân có phần thịt ở bảy chỗ được đầy đặn là hai mu bàn tay, hai mu bàn chân, hai bên vai, và phần cổ, vì thế được gọi là thân thể có bảy chỗ tròn đầy. Còn của những người khác hiện ra những đường gân dạng lưới ở hai mu bàn và hai mu bàn chân, ở phần vai và ở cổ, ở cuối đều là xương. Những người ấy xuất hiện như loài ngạ quỷ. Còn bậc Đại Nhân không như thế. Bậc Đại Nhân có mạng lưới các sợi gân đã bao phủ kỹ lưỡng (không thể nhìn thấy), có cái cổ tròn đều, xinh đẹp như cái trống vàng được đánh bóng, nhờ vào phần thịt trên cơ thể tròn đầy ở bảy vị trí có mu bàn tay v.v, ngài xuất hiện trước mắt người khác giống như một pho tượng bằng đá khéo được tạc, hay như một bức chân dung khéo họa.
Sīhassa pubbaddhaṃ viya kāyo assāti sīhapubbaddhakāyo. sīhassa hi puratthimakāyova paripuṇṇo hoti, pacchimakāyo aparipuṇṇo. Mahāpurisassa pana sīhassa pubbaddhakāyo viya sabbo kāyo paripuṇṇo. Sopi sīhasseva tattha tattha vinatunnatādivasena dussaṇṭhitavisaṇṭhito na hoti, dīghayuttaṭṭhāne pana dīgho, rassathūlakisaputhulānuvaṭṭitayuttaṭṭhānesu tathāvidhova hoti. Vuttañhetaṃ bhagavatā —
Có nửa thân trước như nửa phần thân trước con sư tử: Bậc Đại Nhân có nửa phần thân trước như nửa phần thân trước của loài sư tử, vì thế, bậc Đại Nhân mới gọi là có nửa phần thân trước của loài sư tử đầy đặn. Bởi vì nửa phần thân trước của loài sư tử đầy đặn, còn phần thân sau không đầy đặn. Còn toàn bộ phần thân của bậc Đại nhân đầy đặn tựa như nửa phần thân trước của loài sư tử. Mặc dù thân hình của bậc Đại Nhân cũng giống như phần thân của loài sư tử không được thiết lập ở chỗ cao, thấp bởi khả năng của sự phình ra và xẹp v.v, hơn nữa dài ở vị trí cần dài, ngắn ở chỗ cần ngắn, rắn chắc ở chỗ cần rắn chắc, thon ở chỗ cần thon, tròn ở chỗ cần tròn cũng hoàn toàn như thế. Thật vậy, điều này đức Thế Tôn đã nói rằng —
“Manāpiyeva kho, bhikkhave, kammavipāke paccupaṭṭhite yehi aṅgehi dīghehi sobhati, tāni aṅgāni dīghāni saṇṭhanti. Yehi aṅgehi rassehi sobhati, tāni aṅgāni rassāni saṇṭhanti. Yehi aṅgehi thūlehi sobhati, tāni aṅgāni thūlāni saṇṭhanti. Yehi aṅgehi kisehi sobhati, tāni aṅgāni kisāni saṇṭṭhanti. Yehi aṅgehi puthulehi sobhati, tāni aṅgāni puthulāni saṇṭhanti. yehi aṅgehi vaṭṭehi sobhati, tāni aṅgāni vaṭṭāni saṇṭhantī”ti.
“Này chư tỳ khưu, bậc Đại Nhân hài lòng khi quả của nghiệp hiện hữu, xinh đẹp bởi các chi phần dài nào? Những chi phần dài đó cũng tồn tại. Xinh đẹp với những chi phần ngắn nào? Những chi phần ngắn đó tồn tại. Xinh đẹp với những chi phần rắn chắc nào? những chi phần rắn chắc đó tồn tại. Xinh đẹp với những chi phần thon nào? những chi phần thon đó tồn tại. Xinh đẹp với những chi phần tròn nào? Những chi phần tròn đó tồn tại.”
Iti nānācittena puññacittena[97] cittito dasahi pāramīhi sajjito mahāpurisassa attabhāvo, loke sabbasippino vā sabbaiddhimanto vā patirūpakampi kātuṃ na sakkonti.
Kim thân của bậc Đại Nhân với vô số vẻ đẹp được tích lũy, với vẻ đẹp của phước báu được tô điểm bởi mười pháp ba-la-mật, là như thế, tất cả những nghệ nhân hoặc những vị có thần thông ở trên cõi đời cũng không thể nào tạo ra được dù chỉ một hình dáng so sánh được với bậc Đại Nhân.
Citantaraṃsoti[98] antaraṃsaṃ vuccati dvinnaṃ koṭṭānaṃ antaraṃ, taṃ citaṃ[99] paripuṇṇaṃ antaraṃsaṃ assāti citantaraṃso. Aññesañhi taṃ ṭhānaṃ ninnaṃ hoti, dve piṭṭhikoṭṭā pāṭiyekkā paññāyanti. mahāpurisassa pana kaṭito paṭṭhāya maṃsapaṭalaṃ yāva khandhā uggamma samussitasuvaṇṇaphalakaṃ viya piṭṭhiṃ chādetvā patiṭṭhitaṃ.
Có khoảng giữa hai vai đầy đặn: ở khoảng giữa cả hai bên (xương sườn) ngài gọi là khoảng giữa hai vai. Bậc Đại Nhân có hai vai đầy đặn, tròn đều, vì thế ngài được gọi là có khoảng giữa hai vai đầy đặn. Sự thật, vị trí ấy của người khác trũng, lưng và bụng cả hai bên hiện ra riêng biệt. Còn của bậc Đại Nhân thì lớp thịt được vòng eo cho đến cổ trở lên bao phủ phần lưng (và) được thiết lập, tựa như một tấm vàng được nâng lên đặt ở trên cao.
Nigrodhaparimaṇḍaloti nigrodho viya parimaṇḍalo. yathā paññāsahatthatāya vā satahatthatāya vā samakkhandhasākho nigrodho dīghatopi vitthāratopi ekappamāṇova hoti, evaṃ kāyatopi byāmatopi ekappamāṇo. yathā aññesaṃ kāyo dīgho vā hoti byāmo vā, na evaṃ visamappamāṇoti attho. Teneva yāvatakvassa kāyotiādi vuttaṃ. Tattha yāvatako assāti yāvatakvassa.
Có thân thể tròn đều như cây Nigrodha: Có thân tròn đều tựa như cây Nigrodha. Cây Nigrodha có thân cây và nhánh đối xứng nhau 50 hắt tay, hoặc 100 hắt tay có cùng một kích thước cả chiều dài và cả chiều rộng, có cùng một kích thước (chiều cao) của thân, thậm chí (chiều dài của hai tay) sải rộng như vậy. Còn của những người khác thì (chiều cao) của thân và (chiều dài của hai tay) sải rộng có chiều dài không bằng nhau như vậy. Bởi thế ngài đã nói rằng “thân của vị này cao chừng nào thì sải tay của vị này chừng ấy…” Ở đó, từ ‘yāvatakvassa’ chia thành ‘yāvatako assā’.
Samavaṭṭakkhandhoti samavaṭṭitakkhandho. yathā eke koñcā viya ca bakā viya ca varāhā viya ca dīghagalā vaṅkagalā puthulagalā ca honti, kathanakāle sirājālaṃ paññāyati, mando saro nikkhamati, na evaṃ mahāpurisassa. mahāpurisassa pana suvaṭṭitasuvaṇṇāḷiṅgasadiso khandho hoti, kathanakāle sirājālaṃ na paññāyati, meghassa viya gajjito saro mahā hoti.
Có cổ tròn đều: có cổ tròn đều. Một số người có cổ dài, có cổ cong và có cổ rộng trông giống như con diệc, trông giống như con sếu, trông giống như con lợn, trong lúc nói chuyện thì sợi gân ở cổ sẽ nổi lên, âm thanh phát ra chậm chạp. Còn của bậc Đại Nhân không phải như thế, của bậc Đại Nhân có cần cổ tròn đều như cái trống vàng. Trong lúc nói chuyện sợi gân không nổi lên, có âm giọng vang tựa như tiếng sấm chớp.
Rasaggasaggīti ettha rasaṃ gasanti harantīti rasaggasā. Rasaharaṇīnametaṃ adhivacanaṃ, tā aggā assāti rasaggasaggī. Mahāpurisassa kira sattarasaharaṇīsahassāni uddhaggāni hutvā gīvāyameva paṭimukkāni. tilaphalamattopi āhāro jivhagge ṭhapito sabbakāyaṃ anupharati. teneva mahāpadhānaṃ padahantassa ekataṇḍulādīhipi kaḷāyayūsapasatamattenāpi kāyassa yāpanaṃ ahosi. aññesaṃ pana tathā abhāvā na sakalaṃ kāyaṃ ojā pharati. Tena te bahvābādhā honti.
Có vị giác vô cùng sắc bén: gọi là ‘vị giác sắc bén’ bởi ý nghĩa thần kinh tiếp nhận vị tối thắng, lời đó là tên gọi của thần kinh (vị giác) nhận hương vị của thức ăn. Có vị giác vô cùng sắc bén bởi ý nghĩa thần kinh (vị giác) ấy của ngài là tối thắng. Vì thần kinh (vị giác) tiếp nhận vị thức ăn có khoảng bảy nghìn sợi dây thần kinh có phần đầu lưỡi được đặt nhô lên kết nối đến chính phần cổ. Vật thực dầu có kích thước bằng hạt mè đặt ở đầu lưỡi cũng có thể chuyển hóa khắp toàn bộ cơ thể. Vì thế, khi ngài thể hiện sự nỗ lực lớn lao làm cho cơ thể của ngài được duy trì dầu chỉ bằng một hạt cơm v.v, với thực phẩm có chừng một nhúm đậu đen. Dầu chỉ có chừng một nhúm đậu đen, nhưng những người khác thì chất dinh dưỡng không thể chuyển hóa đi toàn bộ cơ thể bởi vì không giống như thế. Vì lý do đó những người ấy mới mắc nhiều căn bệnh.
Sīhasseva hanu assāti sīhahanu. Tattha sīhassa heṭṭhimahanumeva paripuṇṇaṃ hoti, na uparimaṃ. Mahāpurisassa pana sīhassa heṭṭhimaṃ viya dvepi paripuṇṇāni dvādasiyā pakkhassa candasadisāni honti. Atha nemittakā hanukapariyantaṃ olokentāva imesu hanukesu heṭṭhime vīsati uparime vīsatīti cattālīsadantā samā aviraḷā patiṭṭhahissantīti sallakkhetvā ayañhi deva, kumāro cattālīsadanto hotītiādimāhaṃsu. Tatrāyamattho, aññesañhi paripuṇṇadantānampi dvattiṃsa dantā honti. Imassa pana cattālīsaṃ bhavissanti. Aññesañca keci dantā uccā, keci nīcāti visamā honti, imassa pana ayapaṭṭakena chinnasaṅkhapaṭalaṃ viya samā bhavissanti. Aññesaṃ kumbhilānaṃ viya dantā viraḷā honti, macchamaṃsāni khādantānaṃ dantantaraṃ pūrenti. Imassa pana kanakaphalakāyaṃ samussitavajirapanti viya aviraḷā tūlikāya dassitaparicchedā viya dantā bhavissanti. Aññesañca pūtidantā uṭṭhahanti. Tena kāci dāṭhā kāḷāpi vivaṇṇāpi honti. Ayaṃ pana suṭṭhu sukkadāṭho osadhitārakampi atikkamma virocamānāya pabhāya samannāgatadāṭho bhavissati.
Có quai hàm như con sư tử: Quai hàm của ngài tựa như cằm của loài sư tử. Ở đó, hàm dưới của sư tử tròn đầy, còn hàm trên thì không tròn đầy. Còn của bậc Đại Nhân thì tròn đầy cả hai tựa như hàm dưới của sư tử chúa, tựa như mặt trăng của thượng huyền vào ngày thứ 12. Khi ấy các Bà-la-môn xem tướng nhìn vào quai hàm nhận thấy rằng: Ở quai hàm này (có) bốn mươi chiếc răng là hàm dưới có hai mươi chiếc răng, và hàm trên có hai mươi chiếc răng mọc đồng đều nhau, không thưa, nên mới nói rằng: ‘Tâu bệ hạ bởi vì hoàng tử này có bốn mươi cái răng v.v.” Ở đây, điều này có ý nghĩa như sau, những người khác dầu có đầy đủ ba mươi hai cái răng. Còn hoàng tử này sẽ có bốn mươi cái răng, còn nữa (răng) của những người khác một số mọc cao, một số mọc thấp, một số mọc không đều. Tuy nhiên của hoàng tử này sẽ đồng đều giống như vỏ bọc con sò được thợ rèn cắt ra. Hàm răng của người khác mọc thưa thớt giống như hàm răng cá sấu, khi nhai cá và thịt thì nó lấp đầy hết giữa các răng. Nhưng hàm răng của hoàng tử này sẽ không thưa, như dãy kim cương được đặt trên tấm bảng vàng, sẽ giống như khi vị ấy thể hiện bằng bút chì màu. Hơn nữa, răng của người khác là răng (có thể) hư hoại, vì thế một vài cái răng bị đen, một số bị sỉ màu, nhưng răng của hoàng tử này có màu trắng bóng, có răng nanh gắn liền với hào quang rực rỡ hơn cả vì sao osadhī.
Pahūtajivhoti puthulajivho. Aññesaṃ jivhā thūlāpi honti kisāpi rassāpi thaddhāpi visamāpi, mahāpurisassa pana jivhā mudu dīghā puthulā vaṇṇasampannā hoti. So hi etaṃ lakkhaṇaṃ pariyesituṃ āgatānaṃ kaṅkhāvinodanatthaṃ mudukattā taṃ jivhaṃ kathinasūciṃ viya vaṭṭetvā ubho nāsikasotāni parāmasati, dīghattā ubho kaṇṇasotāni parāmasati, puthulattā kesantapariyosānaṃ kevalampi nalāṭaṃ paṭicchādeti. Evamassa mududīghaputhulabhāvaṃ pakāsento tesaṃ kaṅkhaṃ vinodeti. Evaṃ tilakkhaṇasampannaṃ jivhaṃ sandhāya “pahūtajivho”ti vuttaṃ.
Có tướng lưỡi rộng dài: hoàng tử có lưỡi rộng dài. Lưỡi của những người khác dày, mỏng, ngắn, không đều nhau. Còn lưỡi của bậc Đại Nhân mềm, dài, rộng hoàn hảo về màu sắc. Ngài cuộn lưỡi tựa như cây kim may y kathina (có thể) xỏ vào được cả hai lỗ mũi, bởi tướng lưỡi mềm, làm phá tan sự nghi hoặc của những người đến quan sát tướng trạng ấy; đụng tới, chạm tới được cả hai lỗ tai bởi vì tướng lưỡi dài. Và sẽ che được toàn bộ phần trán (khuôn mặt) mép tóc là phần cuối cùng bởi tướng lưỡi rộng. Khi tuyên bố tướng lưỡi mềm, dài, và rộng làm xua tan được sự nghi hoặc bằng cách như thế. Có tướng lưỡi rộng dài ngài nói đề cập đến tướng lưỡi được tròn đầy bởi ba tướng trạng như vậy.
Brahmassaroti aññe chinnassarāpi bhinnassarāpi kākassarāpi honti, ayaṃ pana mahābrahmuno sarasadisena sarena samannāgato bhavissati, mahābrahmuno hi pittasemhehi apalibuddhattā saro visado hoti. mahāpurisenāpi katakammaṃ tassa vatthuṃ sodheti. vatthuno suddhattā nābhito paṭṭhāya samuṭṭhahanto saro visado aṭṭhaṅgasamannāgatova samuṭṭhāti. karavīko viya bhaṇatīti karavīkabhāṇī, mattakaravīkarutamañjughosoti attho.
Có giọng nói như của Phạm Thiên: những người khác có âm thanh bị đứt, có âm thanh bị vỡ, có âm thanh tựa như quạ. Còn đối với bậc Đại Nhân thành tựu với âm thanh như âm thanh của Phạm thiên, là tiếng của Đại Phạm thiên, âm thanh trong trẻo bởi không bị ngăn trở bởi mật và đờm dãi. Nghiệp đã tạo bởi đấng Như Lai làm cho bộ phận tạo ra âm thanh ấy trong trẻo. Âm thanh được phát ra từ bụng, trong trẻo được hội đủ bởi tám yếu tố tạo thành bởi vì bộ phận tạo ra âm thanh thuần khiết. Có giọng nói của loài chim karavika bởi vì lời nói tựa như tiếng chim karavika, có nghĩa là lời nói có âm giọng tựa như tiếng hót chim karavika đáng chiêm ngưỡng.
Abhinīlanettoti na sakalanīlanetto, nīlayuttaṭṭhāne panassa umāpupphasadisena[100] ativisuddhena nīlavaṇṇena samannāgatāni nettāni honti, pītayuttaṭṭhāne kaṇikārapupphasadisena pītavaṇṇena, lohitayuttaṭṭhāne bandhujīvakapupphasadisena lohitavaṇṇena, setayuttaṭṭhāne osadhitārakasadisena setavaṇṇena, kāḷayuttaṭṭhāne addāriṭṭhakasadisena kāḷavaṇṇena samannāgatāni. suvaṇṇavimāne ugghāṭitamaṇisīhapañjarasadisāni khāyanti.
Có hai mắt màu xanh đậm: đôi mắt của ngài không hoàn toàn có màu xanh đậm. Nhưng đôi mắt của ngài phối hợp với màu xanh đậm ở nơi cần xanh, (và) vô cùng trong sáng tựa như màu hoa của cây bông vải. với màu vàng tựa như màu hoa của cây hoa kaṇikāra ở vị trí nên màu vàng, với màu đỏ tựa như màu hoa bandhujīvaka ở vị trí nên đỏ, với màu trắng tựa như ngôi sao osadhī (ngôi sao sáng nhất trong các vì sao), phối hợp với màu đen tựa như màu trái addāriṭṭhaka ở vị trí nên đen, hiện ra tựa như khung cửa sổ có họa tiết hình con sư tử bằng ngọc được treo ở Thiên cung bằng vàng.
Gopakhumoti ettha pakhumanti sakalacakkhubhaṇḍaṃ[101] adhippetaṃ, taṃ kāḷavacchakassa bahaladhātukaṃ hoti, rattavacchakassa vippasannaṃ, taṃmuhuttajātataruṇarattavacchakasadisacakkhubhaṇḍoti attho. aññesañhi cakkhubhaṇḍā[102] aparipuṇṇā honti, hatthimūsikādīnaṃ akkhisadisehi viniggatehipi gambhīrehipi akkhīhi samannāgatā honti. mahāpurisassa pana dhovitvā majjitvā ṭhapitamaṇiguḷikā viya mudusiniddhanīlasukhumapakhumācitāni akkhīni.
Ở đây lông mi trong từ có lông mi tựa như con bê mới sinh này ngài có ý muốn lầy toàn bộ. Cặp mắt ấy có bản chất dày của con bê hồng, trong trẻo tựa như mắt con bê hồng, có nghĩa là có con mắt giống như mắt con bê đỏ mới sinh ra vào thời điểm đó. Đôi mắt của những người khác không đầy đặn phối hợp với tròng mắt lệch đi, hay sâu giống như tròng mắt của loài voi, chuột và quạ v.v, còn của bậc Đại Nhân có đôi mắt có hàng lông mi mềm mịn màu đen huyền, tinh tế đã được thiết lập như hai viên ngọc ma-ni đã được rửa sạch, đã được đánh bóng.
Uṇṇāti uṇṇalomaṃ. Bhamukantareti dvinnaṃ bhamukānaṃ vemajjhe nāsikamatthakeyeva jātā, uggantvā pana nalāṭavemajjhe jātā. Odātāti parisuddhā, osadhitārakasamānavaṇṇā. Mudūti sappimaṇḍe osāretvā ṭhapitasatavāravihatakappāsapaṭalasadisā. Tūlasannibhāti simbalitūlalatātūlasamānā, ayamassa odātatāya upamā. Sā panesā koṭiyaṃ gahetvā ākaḍḍhiyamānā upaḍḍhabāhuppamāṇā hoti, vissaṭṭhā dakkhiṇāvaṭṭavasena āvaṭṭitvā uddhaggā hutvā santiṭṭhati. suvaṇṇaphalakamajjhe ṭhapitarajatapubbuḷakaṃ viya, suvaṇṇaghaṭato nikkhamamānā khīradhārā viya, aruṇappabhārañjite gaganappadese osadhitārakā viya ca atimanoharāya siriyā virocati.
Có sợi lông trắng giữa hai lông mày: có sợi lông trắng giữa hai lông mày. Ở giữa hai lông mày: có sợi lông trắng mọc lên trên mũi ở chính giữa hai lông mày, hơn nữa mọc ở giữa trán (và) đã mọc thẳng lên. Trắng: thanh tịnh, có màu tựa như vì sao osadhī. Mềm mại: giống như sợi bông được nhúng vào trong bơ lỏng rồi giũ một trăm lần rồi đặt xuống. Tựa như sợi bông gòn: tựa như sợi bông và sợi latā. Đây là ví dụ về tính chất sợi lông mọc ở giữa hai lông mày có màu trắng. Sợi lông mọc ở hai lông mày khi cầm lấy ở ngọn kéo ra có kích thước khoảng chừng một nửa cánh tay. Khi buông ra sẽ xoắn tròn lại có phần ngọn xoắn thẳng lên theo chiều kim đồng hồ, sáng chói bởi sự vinh quang vô cùng xinh đẹp, giống như một ngôi sao bạc được đặt ở chính giữa cái đĩa vàng, tựa như dòng sữa chảy ra từ cái ấm vàng và tựa như ngôi sao osadhī ở giữa bầu trời chiếu sáng bởi ánh sáng lúc bình minh.
Uṇhīsasīsoti idaṃ paripuṇṇanalāṭatañca paripuṇṇasīsataṃ cāti dve atthavase paṭicca vuttaṃ. mahāpurisassa hi dakkhiṇakaṇṇacūḷikato paṭṭhāya maṃsapaṭalaṃ uṭṭhahitvā sakalanalāṭaṃ chādayamānaṃ pūrayamānaṃ gantvā vāmakaṇṇacūḷikāyaṃ patiṭṭhitaṃ, taṃ rañño bandhauṇhīsapaṭṭo viya virocati. mahāpurisassa kira imaṃ lakkhaṇaṃ disvā rājūnaṃ uṇhīsapaṭṭaṃ akaṃsu. ayaṃ tāva eko attho. aññe pana janā aparipuṇṇasīsā honti, keci kapisīsā, keci phalasīsā, keci aṭṭhisīsā, keci hatthisīsā, keci tumbasīsā, keci pabbhārasīsā. mahāpurisassa pana āraggena vaṭṭetvā ṭhapitaṃ viya suparipuṇṇaṃ udakapubbuḷasadisaṃ sīsaṃ hoti. tattha purimanaye uṇhīsaveṭhitasīso viyāti uṇhīsasīso. Dutiyanaye uṇhīsaṃ viya sabbattha parimaṇḍalasīsoti uṇhīsasīso.
Có cái đầu tròn được quấn xung quanh tợ như được trang điểm bởi lớp vải lụa bao quanh đầu: ngài nói dựa vào hai điều lợi ích là có vầng trán hoàn hảo, có cái đầu hoàn hảo, tức là (có) lớp thịt che phủ hết toàn bộ phần trán bắt từ phần điểm tóc bên tai phải tràn đầy chạm vào phần điểm tóc ở bên tai trái, chiếu sáng tựa như lớp vải băng được thêu chỉ vàng mà đức vua đội. Được biết rằng bậc hiền triết biết được tướng trạng này của đức Bồ tát ở kiếp cuối cùng, nên đã thêu một tấm vải lụa để cúng dường đến đức vua, đây là ý nghĩa câu đầu tiên. Hơn nữa, những người khác có cái đầu không đầy đặn, một số người có cái đầu như đầu khỉ, một số người có cái đầu (hình dáng) như trái cây, một số người có cái đầu (hình dáng) tựa như khúc xương, một số người có cái đầu (hình dáng) như chai lọ, một số người có cái đầu (hình dáng) như dốc núi (nhô ra trước, hoặc phình ra sau). Còn của bậc Đại Nhân có cái đầu hoàn toàn tròn đầy tựa như bong bóng nước, như thể xoay tròn bởi mũi kim sắc nhọn. Ở đó, có cái đầu tròn như được quấn quanh bởi lớp vải lụa, (với ý nghĩa) cái đầu được quấn xung quanh bằng một tấm vải lụa theo cách thứ nhất. Có cái đầu tròn như được tô điểm bởi lớp vải lụa (với ý nghĩa) có cái đầu được bao quanh đều đặn trong tất cả các phần tựa như lớp vải lụa theo cách thứ hai.
Giảng Giải Về Việc Đặt Tên Vipassī
- Sabbakāmehīti idaṃ lakkhaṇāni pariggaṇhāpetvā pacchā kataṃ viya vuttaṃ, na panevaṃ daṭṭhabbaṃ. Paṭhamañhi te nemittake santappetvā pacchā lakkhaṇa-pariggaṇhanaṃ katanti veditabbaṃ. Tassa vitthāro gabbhokkantiyaṃ vuttoyeva. Pāyentīti thaññaṃ pāyenti. Tassa kira niddosena madhurena khīrena samannāgatā saṭṭhi dhātiyo upaṭṭhāpesi, tathā sesāpi tesu tesu kammesu kusalā saṭṭhisaṭṭhiyeva. tāsaṃ pesanakārake saṭṭhi purise, tassa tassa katākatabhāvaṃ sallakkhaṇe saṭṭhi amacce upaṭṭhāpesi. Evaṃ cattāri saṭṭhiyo itthīnaṃ, dve saṭṭhiyo purisānanti cha saṭṭhiyo upaṭṭhakānaṃyeva ahesuṃ. Setacchattanti dibbasetacchattaṃ. kuladattiyaṃ pana sirigabbheyeva tiṭṭhati. Mā naṃ sītaṃ vātiādīsu mā abhibhavīti attho veditabbo. Svāssudanti so assudaṃ. Aṅkeneva aṅkanti[103] aññassa[104] bāhunāva aññassa bāhuṃ. Aññassa ca aṃsakūṭeneva aññassa aṃsakūṭaṃ. Parihariyatīti nīyati, sampāpiyatīti attho.
- Với mọi điều mong muốn này ngài nói giống như đức vua Bandhuma đã cho các Bà-la-môn thấy các tướng, rồi chăm sóc sau đó, nhưng không nên thấy như thế. Nên biết rằng đức vua Bandhuma đã làm cho các Bà-la-môn tướng số hài lòng trước, rồi sau đó mới quan sát các tướng. Chi tiết của câu chuyện ấy ngài đã nói trong sự nhập thai vào bụng mẹ. Cho bú: cho bú sữa. Được biết đức vua Bandhuma cho 60 vú nuôi pha sữa có vị ngọt nguyên chất để nuôi dưỡng Bồ-tát, cả những vú nuôi còn lại đều là người khéo léo trong công việc, mỗi bộ phận đều có 60, ban cho 60 nam nhân để phục vụ những vú nuôi đó. Cử 60 lính canh theo dõi hành động và không hành động của những nam nhân ấy. Bằng cách như vậy đã có đến 360 người hầu hạ gồm có 240 nữ và 120 nam. Cây lọng màu trắng: Cây lọng trắng cõi trời. Hơn nữa, cây lọng trắng cõi trời được gia định đặt ở ngự phòng. Nên biết rằng chớ chế ngự trong câu “chớ để lạnh…làm hoàng tử bị bệnh” Svāssudaṃ tách từ thành ‘so assu sudaṃ’. (Hoàng tử) được chuyền từ lòng người này sang lòng người khác: Hoàng tử ấy được mọi người thay phiên nhau ẵm, thay phiên nhau bồng. Ẵm bồng: bế đi, ẵm đi.
- Mañjussaroti akharassaro. Vaggussaroti chekanipuṇassaro. Madhurassaroti sātassaro. Pemaniyassaroti pemajanakassaro. Tatridaṃ karavīkānaṃ madhurassaratāya — karavīkasakuṇe kira madhurarasaṃ ambapakkaṃ mukhatuṇḍakena paharitvā paggharitarasaṃ pivitvā pakkhena tālaṃ datvā vikūjamāne catuppadā mattā viya laḷituṃ ārabhanti. gocarapasutāpi catuppadā mukhagatāni tiṇāni chaḍḍetvā taṃ saddaṃ suṇanti. vāḷamigā khuddakamige anubandhamānā ukkhittaṃ pādaṃ anikkhipitvāva tiṭṭhanti. anubaddhamigā ca maraṇabhayaṃ jahitvā tiṭṭhanti. ākāse pakkhandā pakkhinopi pakkhe pasāretvā taṃ saddaṃ suṇamānāva tiṭṭhanti. udake macchāpi kaṇṇapaṭalaṃ papphoṭetvā taṃ saddaṃ suṇamānāva tiṭṭhanti. evaṃ madhurassarā karavīkā.
- Có giọng nói du dương: Hoàng tử có giọng nói không gay gắt. Có giọng nói êm dịu: Hoàng tử có giọng nói đầy sự khéo léo. Có giọng nói ngọt ngào: Hoàng tử có giọng nói đáng hài lòng. Có giọng nói đáng yêu: Hoàng tử có giọng nói khiến sanh khởi sự yêu mến. Điều này giải thích trong câu ấy bởi vì tiếng chim karavīka có âm thanh du dương. — được biết giống như việc loài chim karavīka mổ quả xoài chín có vị ngọt ngon bằng cái mỏ, sau khi nếm hương vị chảy ra (từ quả xoài) tạo nhịp điệu bằng đôi cánh rồi cất lên tiếng hót khiến các loài bốn chân v.v, như thể rơi vào trạng thái mê mẩn bắt đầu (làm cho chúng) bối rối, loài bốn chân dầu cố gắng tìm kiếm thức ăn cũng vứt bỏ cỏ đang gặm ở trong miệng để lắng nghe âm thanh đó, các loài thú ăn thịt đang rượt đuổi con mồi không bước chân đã nâng lên (và) dừng lại, thậm chí loài thú bị rượt đuổi cũng loại bỏ sự sợ hãi cái chết (và) dừng lại. Ngay cả loài chim đang bay trên bầu trời cũng thu cánh lại (và) ngưng bay. Loài cá ở dưới nước cũng ngưng bơi lội chỉ để lắng nghe âm thanh đó (và) dừng lại. Loài chim karavika có tiếng hót êm dịu như vậy.
Asandhimittāpi dhammāsokassa devī — “atthi nu kho, bhante, buddhassarena sadiso kassaci saro”ti saṅghaṃ pucchi. atthi karavīkasakuṇassāti. kuhiṃ, bhante, te sakuṇāti? Himavanteti. Sā rājānaṃ āha — “deva, ahaṃ karavīkasakuṇaṃ passitukāmāmhī”ti. Rājā — “imasmiṃ pañjare nisīditvā karavīko āgacchatū”ti suvaṇṇapañjaraṃ vissajjesi. pañjaro gantvā ekassa karavīkassa purato aṭṭhāsi. So — “Rājāṇāya āgato pañjaro, na sakkā na gantun”ti tattha nisīdi. Pañjaro āgantvā rañño purato aṭṭhāsi. Na karavīkasaddaṃ kārāpetuṃ sakkonti. Atha rājā — “kathaṃ, bhaṇe, ime saddaṃ na karontī”ti āha. Ñātake adisvā devāti. Atha naṃ rājā ādāsehi parikkhipāpesi. So attano chāyaṃ disvā — “Ñātakā me āgatā”ti maññamāno pakkhena tālaṃ datvā madhurassarena maṇivaṃsaṃ dhamamāno viya viravi. Sakalanagare manussā mattā viya laḷiṃsu. Asandhimittā cintesi — “imassa tāva tiracchānagatassa evaṃ madhuro saddo, kīdiso nu kho sabbaññutaññāṇasiripattassa bhagavato saddo[105] ahosī”ti pītiṃ uppādetvā taṃ pītiṃ avijahitvā sattahi jaṅghasatehi saddhiṃ sotāpattiphale patiṭṭhāsi. Evaṃ madhuro kira karavīkasaddoti. Tato pana satabhāgena sahassabhāgena ca madhurataro vipassissa kumārassa saddo ahosīti veditabbo.
Thậm chí Hoàng hậu của Vua Dhammāsoka có tên là Asandhimittā đã hỏi chư Tăng rằng: — “Bạch ngài, có hay không âm giọng của người nào giống như âm giọng của đức Thế Tôn?” – Có âm thanh của loài chim karavīka. – Kính bạch ngài loài chim đó cư trú ở đâu? – Chúng sống ở rừng Hy-mã-lạp. Hoàng hậu đã nói với đức Vua, — “Tâu Đại vương, thần thiếp có lòng mong muốn được nhìn thấy loài chim karavika”. Đức Vua đã gửi cái lồng bằng vàng với mệnh lệnh rằng “loài chim karavīka hãy bay đến đậu ở trong lồng này.” Cái lồng ấy đã bay đến đặt ở trước mặt chim karavīka. Con chim suy nghĩ rằng: “cái lồng này đã đến theo mệnh lệnh của đức Vua, (ta) không thể không đi” (vì thế) nó đã bay (đậu) vào cái lồng ấy. Cái lồng đó đã bay trở về ở trước mặt của đức Vua. Nhưng không ai có thể khiến chim karavīka cất lên tiếng hót. Sau đó đức Vua đã nói rằng: “này hiền khanh làm thế nào con chim này mới có thể cất tiếng hót.” – Quan đại thần đáp rằng: “Muôn tâu Đại vương, loài chim này khi nhìn thấy được đồng loại của chúng thì chúng sẽ cất tiếng hót.” – Khi đó đức Vua ra lệnh cho đặt những tấm kính rào xung quanh (cái lồng chim). Con chim ấy khi nhìn thấy cái bóng của mình trong gương nghĩ rằng “đồng loại của ta đã đến” đã tạo nhịp điệu với đôi cánh rồi cất lên tiếng hót êm dịu tựa như người thổi sáo ngọc. Toàn bộ dân chúng như thể bị ngất đi do say rượu. Hoàng hậu Asandhimittā nghĩ rằng – “Đây chỉ là loài bàng sanh mà lại có âm thanh ngọt ngào như vầy rồi thì huống hồ gì âm thanh của đức Thế Tôn vị đã đạt đến sự vinh hiển của trí tuệ Toàn giác sẽ ngọt ngào như thế nào nữa?” (cho nên) đã khởi lên niềm hoan hỷ không rời bỏ hỷ đó Hoàng hậu đã vững trú vào Thánh Quả Nhập Lưu, cùng với bảy trăm nàng tỳ nữ. Nên biết rằng âm thanh của loài chim karavīka ngọt ngào như vậy. Âm thanh của hoàng tử Vipassī còn ngọt ngào hơn âm thanh ấy cả trăm, cả ngàn lần.
- Kammavipākajanti na bhāvanāmayaṃ, kammavipākavasena pana devatānaṃ cakkhusadisameva maṃsacakkhu ahosi, yena nimittaṃ katvā tilavāhe pakkhittaṃ ekatilampi ayaṃ soti uddharitvā dātuṃ sakkoti.
- Do quả thành tựu của nghiệp: không thành tựu bởi bhāvanā, hơn nữa nhục nhãn có giống như con mắt của chư Thiên do mãnh lực quả thành tựu của nghiệp, kể cả một hạt mè đã làm dấu rồi đặt vào trong chậu mè cũng có thể lấy (hạt mè) đó lên được.
- Vipassīti ettha ayaṃ vacanattho, antarantarā nimīla- janita- andhakāra- virahena[106] visuddhaṃ passati, vivaṭehi ca akkhīhi passatīti vipassī; dutiyavāre viceyya viceyya passatīti vipassī; vicinitvā vicinitvā passatīti attho.
- Vipassī: ở đây điều này là ý nghĩa của lời nói, gọi là Vipassī bởi nhìn thấy rõ ràng trừ phi nhắm mắt, sự ghi nhớ và sự tăm tối, và nhìn bằng mắt được mở ra; ở phần thứ hai gọi là Vipassī bởi có thể quan sát, tức là suy xét cẩn trọng.
Atthe panāyatīti atthe jānāti passati, nayati[107] vā pavattetīti attho. Ekadivasaṃ kira vinicchayaṭṭhāne nisīditvā atthe[108] anusāsantassa rañño alaṅkatapaṭiyattaṃ mahāpurisaṃ ānetvā hatthe ṭhapayiṃsu. Tassa taṃ aṅkekatvā upalāḷayamānasseva amaccā sāmikaṃ assāmikaṃ akaṃsu. Bodhisatto anattamanasaddaṃ nicchāresi. Rājā — “Kimetaṃ, upadhārethā”ti āha. Upadhāriyamānā aññaṃ adisvā — “aḍḍassa dubbinicchitattā evaṃ kataṃ bhavissatī”ti puna sāmikaṃyeva sāmikaṃ katvā “ñatvā nu kho kumāro evaṃ karotī”ti vīmaṃsantā puna sāmikaṃ assāmikaṃ akaṃsu. Punapi bodhisatto tatheva saddaṃ nicchāresi. Atha rājā — “jānāti mahāpuriso”ti tato paṭṭhāya appamatto ahosi. Idaṃ sandhāya vuttaṃ — “viceyya viceyya kumāro atthe panāyatī”ti.
Quan sát việc xử kiện: biết, thấy, chỉ đạo hoặc suy xét việc xử kiện. Kể rằng một ngày nọ khi đức vua ngồi ở pháp đình rồi chỉ đạo việc xử kiện, vú nuôi đã đưa bậc Đại Nhân đi trang điểm rồi đặt trên tay (đức vua) khi đức vua tiếp nhận hoàng từ đặt ở trong lòng (và) ôm hôn (hoàng tử), nhóm người xử kiện đã quyết định người không phải chủ sở hữu trở thành chủ sở hữu. Đức Bồ-tát đã lên tiếng bày tỏ sự không hài lòng. Đức vua nói rằng – “Các ông giải quyết vụ việc này thế nào?” – Các quan đại thần không nhìn thấy người khác bởi bản thân xử kiện sai, nghĩ rằng: “Ta sẽ quyết định như vậy”. – Nhóm người xử kiện quyết định chủ sở hữu thật là chủ sở hữu mới, suy xét rằng: “Liệu hoàng tử biết hay không? nên mới hành động như vậy” đã quyết định chủ sở hữu không phải là chủ sở hữu nữu. Lần nữa, Bồ-tát lại cất giọng (bày tỏ sự không hài lòng). Khi ấy, đức vua nghĩ rằng: “Hoàng tử là một bậc Đại Nhân biết được (sự việc) kể từ lúc đó không được xem thường. – Ngài nói rằng: “Hoàng tử có thể quan sát và xử kiện đúng theo trình tự,’” đề cập đến điều này.
- Vassikantiādīsu yattha sukhaṃ hoti vassakāle vasituṃ, ayaṃ vassiko. Itaresupi eseva nayo. Ayaṃ panettha vacanattho vassāvāso vassaṃ, vassaṃ arahatīti vassiko. itaresupi eseva nayo.
- Dành cho mùa mưa: nơi (tòa lâu đài) sống có sự an lạc vào mùa mưa, đây gọi là (tòa lâu dài) dành cho mùa mưa. Các tòa lâu đài còn lại ngoài lâu đài dành cho mùa mưa có cách thức tương tự. Hơn nữa, ở đây điều này có ý nghĩa làm lời nói, việc sống trong mùa mưa gọi là vassa, nơi thích hợp an trú vào mùa mưa gọi là vassaka. Luôn cả những câu còn lại cũng có cách thức này.
Tattha vassiko pāsādo nātiucco hoti, nātinīco, dvāravātapānānipissa nātibahūni nātitanūni, bhūmattharaṇapaccattharaṇakhajjabhojjānipettha missakāneva vaṭṭanti. Hemantike thambhāpi bhittiyopi nīcā honti, dvāravātapānāni tanukāni sukhumacchiddāni, uṇhappavesanatthāya bhittiniyūhāni nīhariyanti. bhūmattharaṇapaccattharaṇanivāsanapārupanāni panettha uṇhaviriyāni[109] kambalādīni vaṭṭanti. Khajjabhojjaṃ siniddhaṃ kaṭukasannissitaṃ nirudakasannissitañca. Gimhike thambhāpi bhittiyopi uccā honti, dvāravātapānāni panettha bahūni vipulajātāni honti, bhūmattharaṇādīni dukūlamayāni vaṭṭanti. Khajjabhojjāni madhurasasannissitabharitāni. Vātapānasamīpesu cettha nava cāṭiyo ṭhapetvā udakassa pūretvā nīluppalādīhi sañchādenti. Tesu tesu padesesu udakayantāni karonti, yehi deve vassante viya udakadhārā nikkhamanti.
Trong ba tòa lâu đài đó, lâu đài dành cho mùa mưa, không quá cao và cũng không quá thấp. Ngay cả cửa chính và cửa sổ của tòa lâu đài ấy, cũng không quá ít và cũng không quá nhiều. Tấm trải sàn nhà, vật thực cứng vật thực mềm trong tòa lâu đài này có nhiều hơn mức đủ. Ở trong tòa lâu đài dành cho mùa đông, cột trụ, hay vách tường thấp. Có ít cửa lớn và cửa sổ, có khoảng không nhỏ. Lấy khoảng trống bức tưởng nhằm mục đích cho hơi ấm đi vào. Hơn nữa, trong lâu đài này, tấm thảm trải sàn, chăn ga gối đệm và y phục mặc thích hợp đều được làm bằng vải len v.v, giúp giữ ấm. Thức ăn loại cứng và thức ăn loại mền dễ tiêu hóa và có hương vị đậm đà. Trong lâu đài dành cho mùa hè, cột trụ, hay vách tường cao. Có nhiều của lớn và cửa sổ, có ánh sáng xung quanh. Tấm trải sàn v.v, thích hợp, loại vải có chất liệu tốt. Vật thực cứng và vật thực mềm có vị ngọt để tạo ra sự mát mẽ. Hơn nữa, ở gần cửa sổ trong tòa lâu đài này được đặt 9 hồ nước chứa đầy nước, trồng hoa sen xanh v.v, một vài chỗ khác tại nơi đó vị ấy cho xây dựng đài phun nước, dòng nước sẽ phun ra tựa như mưa rơi xuống.
Nippurisehīti purisavirahitehi. na kevalañcettha tūriyāneva nippurisāni, sabbaṭṭhānānipi nippurisāneva, dovārikāpi itthiyova, nahāpanādiparikammakarāpi itthiyova. Rājā kira — “tathārūpaṃ issariyasukhasampattiṃ anubhavamānassa purisaṃ disvā purisāsaṅkā[110] uppajjati, sā me puttassa mā ahosī”ti sabbakiccesu itthiyova ṭhapesīti.
Không có người nam: là không có người nam. Lại nữa, không phải chỉ dụng cụ mà không có người nam lẫn lộn, dù ở mọi chỗ (trong tòa lâu đài) cũng không có người nam tương tự. Ngay cả người gác cửa cũng là người nữ. Luôn cả người hầu cận phục vụ chẳng hạn như tắm gội v.v, cũng là người nữ. Được biết đức vua sắp đặt nhóm người nữ làm mọi phận sự bởi suy nghĩ rằng: “Khi Bồ-tát tận hưởng sự thành tựu về quyền thế và sự thành tựu lợi lạc bằng hình thức như thế, sẽ khởi lên sự nghi ngờ sau khi nhìn thấy nam nhân, sự nghi ngờ ấy đừng có nơi hoàng tử con trai của ta.”
Giải Thích Tụng Phẩm Thứ Nhất được kết thúc
Giải Thích Về Người Già
- Dutiyabhāṇavāre gopānasivaṅkanti gopānasī viya vaṅkaṃ. Bhogganti khandhe, kaṭiyaṃ, jāṇūsūti tīsu ṭhānesu bhoggavaṅkaṃ[111]. Daṇḍaparāyananti daṇḍagatikaṃ daṇḍapaṭisaraṇaṃ. Āturanti jarāturaṃ. Gatayobbananti atikkantayobbanaṃ pacchimavaye ṭhitaṃ. Disvāti aḍḍhayojanappamāṇena balakāyena parivuto susaṃvihitārakkhopi gacchanto yadā ratho purato hoti, pacchā balakāyo, tādise okāse suddhāvāsakhīṇāsavabrahmehi attano ānubhāvena rathassa puratova dassitaṃ, taṃ purisaṃ passitvā. suddhāvāsā kira — “mahāpuriso paṅke gajo viya pañcasu kāmaguṇesu laggo, satimassa uppādessāmā”ti taṃ dassesuṃ. Evaṃ dassitañca taṃ bodhisatto ceva passati sārathi ca. Brahmāno hi bodhisattassa appamādatthaṃ sārathissa ca kathāsallāpatthaṃ taṃ dassesuṃ. Kiṃ panesoti “eso jiṇṇoti kiṃ vuttaṃ hoti, nāhaṃ, bho ito pubbe evarūpaṃ addasan”ti pucchi.
- Nên biết tụng phẩm thứ hai, ‘lưng còng xuống như then cửa’ gồm có xương sườn cong queo như cái then cài cửa. Có lưng cong: có lưng cong, ở ba vị trí là cổ, thắt lưng, và hai đầu gối. Chống gậy: đi bằng cây gậy, có cây gậy làm chỗ nương tựa. Run rẩy: run rẩy do sự già nua. Đã qua thời tuổi trẻ: đã qua thời tuổi trẻ, đã thiết lập vào thời kỳ trung niên. Sau khi nhìn thấy: Hoàng tử tháp tùng với đội quân binh khoảng nửa do-tuần sắp xếp canh phòng cẩn thận, ngài đưa mắt nhìn người đàn ông ấy được Phạm Thiên ở cõi Tịnh Cư và Phạm Thiên là bậc Lậu Tận hóa hiện ở trước cỗ xe bằng oai lực của ngài vào lúc cỗ xe ở trước còn quân binh ở phía sau. Được biết Đại Phạm Thiên cõi Tịnh Cư nghĩ rằng: “Bậc Đại Nhân dính mắc trong năm loại dục giống như con voi con voi dính bùn, ta sẽ làm cho niệm sanh khởi nơi bậc Đại Nhân” nên mới hóa hiện ra người đàn ông ấy”. Như vậy, cả Bồ-tát và xa phụ đều đưa mắt nhìn và thấy người đàn ông được Đại Phạm Thiên hóa hiện như thế. Thật vậy, luôn cả các Phạm Thiên đã hiện ra người đàn ông ấy cũng vì sự không xao lãng của đức Bồ-tát và vì việc đàm luận của xa phu. Hoàng tử hỏi rằng: “người này là người gì?” – Xa phu đáp rằng: “Thưa hoàng tử, đây là người già.” – Khanh nói thế nào? – Này khành trước đây ta chưa từng nhìn thấy người đàn ông như vậy.
Tena hīti yadi mayhampi evarūpehi kesehi evarūpena ca kāyena bhavitabbaṃ, Tena hi samma sārathi. alaṃ dānajja uyyānabhūmiyāti — “ajja uyyānabhūmiṃ passissāmā”ti gacchāma, alaṃ tāya uyyānabhūmiyāti saṃviggahadayo saṃvegānurūpamāha. Antepuraṃ gatoti itthijanaṃ vissajjetvā sirigabbhe ekakova nisinno. Yatra hi nāmāti yāya jātiyā sati jarā paññāyati, sā jāti dhiratthu dhikkatā atthu, jigucchāmetaṃ jātinti[112], jātiyā mūlaṃ khaṇanto nisīdi, paṭhamena sallena hadaye viddho viya.
Tena hi: nếu vậy thì, luôn cả ta cũng có thể có tóc như thế, có thân hình như thế. Vậy thì, này cậu xa phu, với khu đất công viên hôm nay đến đây là đủ rồi! – “Hoàng tử nói rằng ngày hôm nay đến đây là đủ rồi với khu đất vườn thượng uyển mà ta đã nhìn thấy, chúng ta hãy quay trở về” ngài đã (khởi lên) sự động tâm đã nói đúng theo sự sự rúng động. Về lại nội cung: hoàng tử đã không ngó ngàn đến các nữ nhân, ngài ngồi một mình ở ngự phòng. Bởi vì từ cái được gọi là sanh: Khi có sự sanh (thì) sự già hiện hữu, hãy chê bai, chán ghét sự sanh, sự sanh được gọi là thứ đáng chán ghét vì thế hoàng tử đã ngồi đào bơi gốc rễ của sự sanh như thể bị mũi tên thứ nhất đâm thủng quả tim.
- Sārathiṃ āmantāpetvāti rājā kira nemittakehi kathitakālato paṭṭhāya ohitasoto vicarati, so “kumāro uyyānaṃ gacchanto antarāmagge nivatto”ti sutvā sārathiṃ āmantāpesi. Mā heva khotiādīsu rajjaṃ kāretu, mā pabbajatu, brāhmaṇānaṃ vacanaṃ mā saccaṃ hotūti evaṃ cintesīti attho.
- Đã cho gọi người đánh xe đến: được biết đức vua kể từ khi các Bà-la-môn tướng số (xem tướng của Bồ-tát) tâu thì ngài luôn chú tâm lắng nghe trong suốt thời gian đó, đức vua đã nghe rằng “hoàng tử khi đi du ngoạn vườn thượng uyển, ở giữa đường khi trở về” (ngài) đã cho gọi người đánh xe đến. Chớ để hoàng tử… v.v, nghĩa là đức vua suy nghĩ như vầy rằng: Hoàng tử của ta hãy trị vì vương quốc, chớ xuất gia, lời nói của các Bà-la-môn chớ trở thành sự thật.
Giải Thích Về Người Bệnh
- Addasa khoti pubbe vuttanayeneva suddhāvāsehi dassitaṃ addasa. Ābādhikanti iriyāpathabhañjanakena visabhāgabādhena ābādhikaṃ. Dukkhitanti rogadukkhena dukkhitaṃ. Bāḷhagilānanti adhimattagilānaṃ. Palipannanti nimuggaṃ. Jarā paññāyissati byādhi paññāyissatīti idhāpi yāya jātiyā sati idaṃ dvayaṃ paññāyati, dhikkatā[113] sā jāti, ajātaṃ khemanti jātiyā mūlaṃ khaṇanto nisīdi, dutiyena sallena viddho viya.
- Đã nhìn thấy: Hoàng tử đã nhìn thấy người đàn ông được Phạm Thiên cõi Tịnh Cư hóa hiện theo cách thức đã nói trước đó. Người bệnh: có sự đau đớn do nhiều loại bệnh tật làm tổn thương đến các oai nghi. Bị khổ sở: bị khổ sở bởi nỗi đau bệnh tật. Có bệnh trầm trọng: bệnh nặng. Đang vùi mình: chìm xuống. Già sẽ được biết đến, bệnh sẽ được biết đến: khi có sanh (thì) già, bệnh cả hai đều xuất hiện, sự tái sanh là kinh tởm, sự không tái sanh là an ổn, vì thế hoàng tử đã ngồi đào lên gốc rễ của sự sanh như thế bị mũi tên thứ hai đâm thủng (tâm can).
Giải Thích Về Người Chết
- Vilātanti sivikaṃ. Petanti ito paṭigataṃ. Kālaṅkatanti[114] katakālaṃ, yattakaṃ tena kālaṃ jīvitabbaṃ, taṃ sabbaṃ katvā niṭṭhapetvā matanti attho. Imampissa purimanayeneva brahmāno dassesuṃ. Yatra hi nāmāti idhāpi yāya jātiyā sati idaṃ tayaṃ paññāyati, dhikkatā sā jāti, ajātaṃ khemanti jātiyā mūlaṃ khaṇanto nisīdi, tatiyena sallena viddho viya.
- Chõng che: chõng che. Đã quá vãng: từ giã cõi đời này. Bị mệnh chung: chết. Giải thích rằng: những điều chúng ta đã làm thời còn sống, sau khi hoàn tất cũng đều phải chết. Các vị Phạm Thiên đã hóa hiện cả vấn đề này cho hoàng tử theo chính cách thức trước. Yatra hi nāma (bởi vì từ cái được được gọi…): điều này được giải thích khi có sự sanh thì sự già, bệnh tật, và sự chết cả ba đều có mặt, sự tái sanh là đáng kinh tởm, sự không tái sanh là an ổn, vì thế hoàng tử đã ngồi đào lên gốc rễ của sự sanh như thế bị mũi tên thứ ba đâm thủng (tâm can).
Giải Thích Về Người Xuất Gia
- Bhaṇḍunti muṇḍaṃ. imampissa purimanayeneva brahmāno dassesuṃ. Sādhu dhammacariyātiādīsu ayaṃ deva dhammacaraṇabhāvo sādhūti cintetvā pabbajitoti evaṃ ekamekassa padassa yojanā veditabbā. Sabbāni cetāni dasakusalakammapathavevacanāneva. Avasāne pana avihiṃsāti karuṇāya pubbabhāgo. anukampāti mettāya pubbabhāgo. Tenahīti uyyojanatthe nipāto. Pabbajitaṃ hissa disvā cittaṃ pabbajjāya ninnaṃ jātaṃ. atha tena saddhiṃ kathetukāmo hutvā sārathiṃ uyyojento tena hītiādimāha.
- Cạo tóc: đầu trọc. Các vị Phạm Thiên đã hóa hiện cả chuyện này cho hoàng tử theo chính cách thức trước. Lành thay sự hành pháp v.v, người đánh xe trả lời hoàng tử rằng – Thưa hoàng tử, bản thể người hành pháp thật tốt đẹp, nên biết rằng việc liên kết mỗi một câu như thế ‘người xuất gia’. Hơn nữa, tất cả các câu này đều là từ đồng nghĩa của thập thiện nghiệp. Ở cuối câu ‘sự không hãm hại’ là phần sơ khởi của tâm từ. Tena hi (vậy thì) là phân từ trong ý nghĩa thúc giục. Bởi vì sau khi hoàng tử thấy vị xuất gia đã có tâm hướng đến việc xuất gia. Khi ấy, hoàng tử có ý muốn nói với người đánh xe, để tiễn người đánh xe trở về mới rằng: “vậy thì…”.
Giải Thích Về Việc Xuất Gia của Bồ Tát
- Atha kho, bhikkhaveti — “pabbajitassa sādhu dhammacariyā”tiādīni ca aññañca bahuṃ mahājanakāyena rakkhiyamānassa puttadārasambādhe ghare vasato ādīnavapaṭisaṃyuttañceva migabhūtena cetasā yathāsukhaṃ vane vasato pabbajitassa vivekānisaṃsapaṭisaṃyuttañca dhammiṃ kathaṃ sutvā pabbajitukāmo hutvā — Atha kho, bhikkhave, vipassī kumāro sārathiṃ āmantesi.
- Sau đó, này các tỳ khưu – Hoàng tử đã nghe lời này “Lành thay việc hành pháp của bậc xuất gia” và nhiều lời khác nữa là pháp thoại gắn liền với sự bất lợi của người sống đời sống tại gia, trở ngài bởi vợ và con mà đám đông dân chúng che chở và gắn liền với lợi ích của việc xuất ly của bậc xuất gia, vị sống ở rừng một cách thoải mái, có tâm tựa như con thú rừng, rồi có ý muốn xuất gia – Sau đó, này các tỳ khưu, hoàng tử Vipassī đã cho gọi người đánh xe đến.
Imāni cattāri disvā pabbajitaṃ nāma sabbabodhisattānaṃ vaṃsova tantiyeva paveṇīyeva. Aññepi ca bodhisattā yathā ayaṃ vipassī kumāro, evaṃ cirassaṃ cirassaṃ passanti. amhākaṃ pana bodhisatto cattāripi ekadivasaṃyeva disvā mahābhinikkhamanaṃ nikkhamitvā anomānadītīre pabbajito. Teneva rājagahaṃ patvā Tattha raññā bimbisārena — “Kimatthaṃ, paṇḍita, pabbajitosīti” puṭṭho āha —
Việc nhìn thấy cả bốn Thiên Sứ này rồi xuất gia là dòng dõi, là khuôn mẫu, là truyền thống của tất cả Bồ-tát. Và những vị Bồ-tát khác cũng nhìn thấy hết (bốn Thiên Sứ) trong thời gian dài, như hoàng tử Vipassī này nhìn thấy (bốn Thiên Sứ) trong thời gian dài. Nhừng Bồ-tát của chúng ta nhìn thấy cả bốn Thiên Sứ chỉ trong một ngày mà thôi, ngài đã rời khỏi thực hiện cuộc ra đi vĩ đại xuất gia ở bờ sông Anomā, từ đó ngài đã đến thành Rājagaha. Ở nơi đó, vua Bimbisāra đã hỏi rằng: “Này bậc sáng trí, ngài xuất gia vì mục đích gì?”
“Jiṇṇañca disvā dukhitañca byādhitaṃ,
Matañca disvā gatamāyusaṅkhayaṃ.
Kāsāyavatthaṃ pabbajitañca disvā,
Tasmā ahaṃ pabbajitomhi rājā”ti.
Ngài đáp rằng: Tâu đại vương, “Sau khi nhìn thấy người già, và người bệnh bị khổ sở, và sau khi nhìn thấy người bị chết đã đi đến sự cạn kiệt của tuổi thọ, sau khi nhìn thấy vị xuất gia đắp áo cà-sa, vì thế tôi đã ra đi, tôi đã xuất gia.”
Giải Thích Việc Xuất Gia Theo Bồ Tát
- Sutvāna tesanti tesaṃ caturāsītiyā pāṇasahassānaṃ sutvā etadahosi. Orakoti ūnako lāmako. Anupabbajiṃsūti anupabbajitāni. Kasmā panettha yathā parato khaṇḍatissānaṃ anupabbajjāya — “Bandhumatiyā rājadhāniyā nikkhamitvā”ti vuttaṃ, evaṃ na vuttanti? nikkhamitvā sutattā. Ete kira sabbepi vipassissa kumārassa upaṭṭhākaparisāva, te pātova upaṭṭhānaṃ āgantvā kumāraṃ adisvā pātarāsatthāya gantvā bhuttapātarāsā āgamma “kuhiṃ kumāro”ti pucchitvā “uyyānabhūmiṃ gato”ti sutvā “tattheva naṃ dakkhissāmā”ti nikkhamantā nivattamānaṃ sārathiṃ disvā — “kumāro pabbajito”ti cassa vacanaṃ sutvā sutaṭṭhāneyeva sabbābharaṇāni omuñcitvā antarāpaṇato kāsāvapītāni vatthāni āharāpetvā kesamassuṃ ohāretvā pabbajiṃsu. Iti nagarato nikkhamitvā bahinagare sutattā ettha — “bandhumatiyā rājadhāniyā nikkhamitvā”ti na vuttaṃ.
- Quần chúng sau khi nghe điều này: đám đông dân chúng có tám mươi bốn ngàn người sau khi nghe tin, đã có suy nghĩa như thế. Thấp thỏi: kém cõi, thấp kém. Đã xuất gia theo: xuất gia theo. Vì sao? trong trường hợp này ngài không nói giống như ngài đã nói ở phần trước rằng: “Hoàng tử đã rời khỏi kinh thành Bandhumadī” đã xuất gia theo cách của ngài Khaṇḍa và ngài Tissa. Sau khi rời khỏi đã nghe – được biết toàn thể dân chúng này là những người phục vụ hoàng tử Vipassī. Họ đến phục vụ (hoàng tử) từ sáng sớm, khi không nhìn thấy hoàng tử mới cùng nhau đi dùng điểm tâm sáng, sau khi hoàn tất điểm tâm sáng mới đến hỏi rằng “hoàng tử đã đi đâu?”được nghe rằng: “Hoàng tử đã đi đến khu đất vườn thượng uyển” bọn họ cũng đưa nhau rời khỏi với suy nghĩ rằng: “Chúng ta sẽ yết kiến hoàng tử trong vườn thượng uyển đó”, sau khi nhìn thấy những nữ nhân trở về đã nghe được những lời nói của các nữ nhân ấy như sau: “Hoàng tử đã xuất gia” họ đã cởi bỏ tất cả đồ trang sức đặt xuống ngay chỗ đã nghe, sau khi cho người mang y ca-sa màu vàng từ chợ đến đã cạo bỏ râu tóc rồi xuất gia. Vì thế, ở đây mới nói rằng: “Đã rời khỏi kinh thành Bandhumatī” do đã rời khỏi kinh thành rồi mới nghe ở ngoài thành.
Cārikaṃ caratīti gatagataṭṭhāne mahāmaṇḍapaṃ katvā dānaṃ sajjetvā āgamma svātanāya nimantito janassa[115] āyācitabhikkhameva paṭiggaṇhanto cattāro māse cārikaṃ cari.
Đi du hành: Bồ-tát Vipassī cho dựng một ngôi nhà mái tròn lớn ở chỗ đã đi, đám đông dân chúng đã chuẩn bị vật thí đến thỉnh mời (ngài) thọ thực vào ngày mai, nhận lời thỉnh cầu thọ thực từ đại chúng (ngài) đi du hành suốt bốn tháng.
Ākiṇṇoti iminā gaṇena parivuto. Ayaṃ pana vitakko bodhisattassa kadā uppannoti? Sve visākhapuṇṇamā bhavissatīti cātuddasīdivase. Tadā kira so — “yatheva maṃ ime pubbe gihibhūtaṃ parivāretvā caranti, idānipi tatheva, kiṃ iminā gaṇenā”ti gaṇasaṅgaṇikāya ukkaṇṭhitvā “ajjeva gacchāmī”ti cintetvā puna “ajja avelā, sace idāni gamissāmi, sabbeva ime jānissanti, sveva gamissāmī”ti cintesi. Taṃ divasañca uruvelagāmasadise gāme gāmavāsino svātanāya nimantayiṃsu. te caturāsītisahassānampi tesaṃ pabbajitānaṃ mahāpurisassa ca pāyāsameva paṭiyādayiṃsu. Atha mahāpuriso punadivase tasmiṃyeva gāme tehi pabbajitehi saddhiṃ bhattakiccaṃ katvā vasanaṭṭhānameva agamāsi. Tattha te pabbajitā mahāpurisassa vattaṃ dassetvā attano attano rattiṭṭhānadivāṭṭhānāni paviṭṭhā. Bodhisattopi paṇṇasālaṃ pavisitvā nisinno.
“Ṭhite majjhanhike kāle, sannisīvesu pakkhisu.
Saṇateva brahāraññaṃ, taṃ bhayaṃ paṭibhāti man”ti.[116]
Bị chộn rộn: bị vây quanh bởi hội chúng này. Hơn nữa, sự suy tầm này đã khởi lên nơi Bồ-tát khi nào? Vào ngày mười bốn (âm lịch), bởi vì ngày mai sẽ là ngày trăng tròn tháng Visākha. Kể rằng khi đó Đức Bồ-tát suy nghĩ rằng – “Hội chúng này trước đây khi ta còn là cư sĩ đã vây quanh ta như thế nào, ngay lúc này cũng như thế ấy nữa, lợi ích gì với hội chúng này?” (ngài) không ưa thích việc chộn rộn với hội chúng nên đã suy nghĩ rằng: “Ta (sẽ) đi ngay ngày hôm nay”, rồi ngài nghĩ tiếp rằng: “Hôm nay chưa phải thời” nếu như ta sẽ đi ngay lúc này thì tất cả bọn họ đều biết, (cho nên) ta sẽ đi vào ngày mai. Hơn nữa, vào ngày hôm ấy, người dân trong làng như ở làng Uruvelā đã thỉnh mời đức Bồ-tát thọ thực vào ngày mai. Dân làng đã chuẩn bị phần cơm sữa dành cho tám mươi bốn ngàn vị xuất gia và dành cho bậc Đại Nhân. Khi ấy, bậc Đại Nhân đã thọ dụng thức ăn cùng với những vị xuất gia ấy ở ngôi làng đó vào ngày kế tiếp rồi trở về nơi cư trú. Ở nơi đó, các vị xuất gia đã chăm sóc bậc Đại Nhân rồi đi vào chỗ nghỉ ban đêm và ban ngày của mỗi cá nhân. Luôn cả đức Bồ-tát cũng đi vào ngồi ở gian nhà lá, suy tư rằng –
Này vào thời gian giữa trưa các loài chim chóc bay đến đậu cùng nhau;
Khu rừng lớn có âm thanh vang vọng, sự sợ hãi ấy soi rọi đến ta.
Evarūpe avivekārāmānaṃ bhayakāle sabbasattānaṃ sadarathakāleyeva — “ayaṃ kālo”ti nikkhamitvā paṇṇasālāya dvāraṃ pidahitvā bodhimaṇḍābhimukho pāyāsi. aññadāpi ca tasmiṃ ṭhāne vicaranto bodhimaṇḍaṃ passati, nisīdituṃ panassa cittaṃ na namitapubbaṃ[117]. Taṃ divasaṃ panassa ñāṇaṃ paripākagataṃ, tasmā alaṅkataṃ bodhimaṇḍaṃ disvā ārohanatthāya cittaṃ uppannaṃ. So dakkhiṇadisābhāgena upagamma padakkhiṇaṃ katvā puratthimadisābhāge cuddasahatthaṃ pallaṅkaṃ paññapetvā caturaṅgavīriyaṃ adhiṭṭhahitvā — “yāva buddho na homi, na tāva ito vuṭṭhahāmī”ti[118] paṭiññaṃ katvā nisīdi. Idamassa vūpakāsaṃ sandhāya — “ekova gaṇamhā vūpakaṭṭho vihāsī”ti vuttaṃ.
Vào lúc sợ hãi cho người hoan hỷ trong sự tịch tịnh, vào lúc lộn xộn cho tất cả chúng sanh có hình thức như thế, Bồ-tát nghĩ rằng – “Đây là thời điểm” sau khi rời khỏi ngài đã đóng cánh cửa gian nhà lá, quay mặt về phía khuôn viên của cội Bồ-đề. Và vào thời gian khác đức Bồ-tát cũng đi du hành ở nơi đó, nhìn thấy khuôn viên của cội Bồ-đề nhưng tâm của đức Bồ-tát ấy chưa từng cúi xuống để ngồi, tuy nhiên vào hôm ấy trí của đức Bồ-tát đã đạt đến sự chín muồi, vì thế đã khởi tâm để quan sát khuôn viên cội Bồ-đề được trang hoàng rồi ngài bước lên. Vị ấy đi đến ở khu vực hướng Nam đã thực hiện (đi) nhiễu quanh (khuôn viên cội Bồ-đề), trải chỗ ngồi rộng mười bốn cánh tay ở khu vực hướng Đông, đã phát nguyện sự tinh tấn kết hợp với bốn yếu tố, đã ngồi xuống rồi lập lời nguyện rằng: “Cho đến khi nào ta không trở thành Phật, cho đến khi ấy ta sẽ không đứng dậy.” Ngài đã nói rằng: “Một mình đức Bồ-tát đã rời khỏi hội chúng, (ngài) an trú,” ám chỉ đến việc tách riêng khỏi (hội chúng) của đức Bồ-tát này.
Aññeneva tānīti te kira sāyaṃ bodhisattassa upaṭṭhānaṃ āgantvā paṇṇasālaṃ parivāretvā nisinnā “ativikālo jāto, upadhārethā”ti vatvā paṇṇasālaṃ vivaritvā taṃ apassantāpi “kuhiṃ gato”ti nānubandhiṃsu, “gaṇavāse nibbinno eko viharitukāmo maññe mahāpuriso, buddhabhūtaṃyeva naṃ passissāmā”ti vatvā antojambudīpābhimukhā cārikaṃ pakkantā.
Đã đi theo con đường khác: kể rằng những vị xuất gia ấy đến phục vụ đức Bồ-tát, vào buổi chiều ngồi xung quanh gian nhà lá nói rằng: “Đã quá trễ để đi, các ông hãy cân nhắc” khi mở gian nhà lá mặc dù không nhìn thấy đức Bồ-tát ấy cũng không theo để tìm hiểu rằng: “Đức Bồ-tát đã đi đâu?” Các vị nghĩ rằng: “bậc Đại Nhân chán ghét trong việc sống chung với hội chúng, dường như ngài có ý muốn sống độc cư, chúng ta sẽ nhìn thấy ngài khi ngài (đạt đến) bản thể Phật” rồi đi về phía trước trong Jambudīpa để hành.
Giải Thích Việc Chứng Ngộ của Đức Bồ Tát
- Vāsūpagatassāti bodhimaṇḍe ekarattivāsaṃ upagatassa. Rahogatassāti rahasi gatassa. Paṭisallīnassāti ekībhāvavasena nilīnassa. Kicchanti dukkhaṃ. Cavati ca upapajjati cāti idaṃ dvayaṃ pana aparāparaṃ cutipaṭisandhiṃ sandhāya vuttaṃ. Jarāmaraṇassāti ettha yasmā pabbajanto jiṇṇabyādhimatteyeva disvā pabbajito, tasmāssa jarāmaraṇameva upaṭṭhāti. Tenevāha — “Jarāmaraṇassā”ti. Iti jarāmaraṇaṃ mūlaṃ katvā abhiniviṭṭhassa bhavaggato otarantassa viya — atha kho, bhikkhave, vipassissa bodhisattassa etadahosi.
- Thiền tịnh: đã đến an trú một đêm ở khuôn viên của cội Bồ-đề. Trú xứ thanh vắng: đi đến chỗ kín đáo. Độc cư: kín đáo với khả năng của vị (sống) một mình. Khổ ải: Khó khăn. Nó diệt vong và nó tái sanh: điều này ngài nói đến sự chết và sự tái tục liên tiếp. Già và chết: Ở đây do đức Bồ-tát trong khi xuất gia đã nhìn thấy người già, người bệnh và người chết mới xuất gia, vì thế chính già và chết có mặt cho đức Bồ-tát ấy. Cho nên đức Thế Tôn đã nói rằng – “Già và chết”. Bằng cách như thế – Khi ấy, này các tỳ khưu, điều này đã khởi đến đức Bồ Tát Vipassī, vị đã thực hiện già và chết trở thành gốc rễ vững chắc như thể bước xuống từ cõi Hữu Đảnh (bhavagga).
Yonisomanasikārāti upāyamanasikārā pathamanasikārā. Aniccādīni hi aniccāditova manasikaroto yonisomanasikāro nāma hoti. Ayañca — “kismiṃ nu kho satijātiādīni honti, kismiṃ asati na hontī”ti udayabbayānupassanāvasena pavattattā tesaṃ aññataro. Tasmāssa ito yonisomanasikārā iminā upāyamanasikārena ahu paññāya abhisamayo, bodhisattassa paññāya yasmiṃ sati jarāmaraṇaṃ hoti, tena jarāmaraṇakāraṇena saddhiṃ samāgamo ahosi. Kiṃ pana tanti? Jāti. Tenāha — “jātiyā kho sati jarāmaraṇaṃ hotī”ti. yā cāyaṃ jarāmaraṇassa kāraṇapariggāhikā paññā, tāya saddhiṃ bodhisattassa samāgamo ahosīti ayamettha attho. etenupāyena sabbapadāni veditabbāni.
Tác ý khéo léo: Tác ý đúng đường lối, tác ý đúng con đường. Thật vậy, trong khi tác ý khéo léo về trạng thái vô thường v.v, bằng trạng thái có tính chất vô thường gọi là người tác ý đúng đường lối. Và điều này – tác ý đúng đường lối là một trong những sự chứng ngộ đó bởi sự vận hành do mãnh lực tuệ quán chiếu sanh diệt rằng: “Khi cái gì có mặt, thì sanh v.v, có mặt? Khi cái gì không có mặt, thì sanh v.v, không có mặt?” Vì thế, đức Bồ-tát Vipassī, do tác ý khéo léo, nhờ vào tuệ đã có sự chứng ngộ, tức là tác ý đúng đường lối này – “Khi cái gì có mặt, thì già và chết có mặt?” việc gọp chung cùng với nguyên nhân là già và chết ấy đã có bởi trí của đức Bồ-tát. Hơn nữa, do cái gì già và chết ấy có mặt? Do sanh (có mặt). Vì thế, đức Thế Tôn mới thuyết rằng – “Quả là khi sanh có mặt, thì già chết có mặt.” việc gọp chung với tuệ xác định nguyên nhân của già và chết đã có cùng dức Bồ-tát, ở đây điều này là ý nghĩa. Nên hiểu các câu đều có phương cách này.
Nāmarūpe kho sati viññāṇanti ettha pana saṅkhāresu sati viññāṇanti ca, avijjāya sati saṅkhārāti ca vattabbaṃ bhaveyya, tadubhayampi na gahitaṃ. Kasmā? avijjāsaṅkhārā hi atīto bhavo tehi saddhiṃ ayaṃ vipassanā na ghaṭiyati. Mahāpuriso hi paccuppannavasena abhiniviṭṭhoti. Nanu ca avijjāsaṅkhārehi adiṭṭhehi na sakkā buddhena bhavitunti. Saccaṃ na sakkā, iminā pana te bhavaupādānataṇhāvaseneva diṭṭhāti. Imasmiṃ ṭhāne vitthārato paṭiccasamuppādakathā kathetabbā. Sā panesā visuddhimagge kathitāva.
Quả là khi danh sắc có mặt, thì thức có mặt: hơn nữa, ở đây nên nói rằng: ‘Khi các hành có mặt, thì thức có mặt’ và ‘khi vô minh có mặt, thì các hành có mặt’, mặc dù cả hai điều đó không thể tin cậy. Vì sao? Bởi vì vô minh cùng với các hành thuộc kiếp quá khứ, Minh Sát này không tiếp nối với vô minh và các hành. Thật vậy, bậc Đại Nhân đã được thiết lập chắc chắn về phương diện ở hiện tại. Và chẳng phải người không nhìn thấy vô minh và các hành không thể trở thành Phật? Sự thật không thể, tuy nhiên các pháp đó bậc Đại Nhân đã nhìn thấy do tác động của hữu, thủ và ái. Trong trường hợp này nên nói đến Lý Duyên Khởi một cách chi tiết. Và Lý Duyên Khởi ấy đã được ngài nói trong Thanh Tịnh Đạo.
- Paccudāvattatīti paṭinivattati. Katamaṃ panettha viññāṇaṃ paccudāvattatīti? Paṭisandhiviññāṇampi vipassanāñāṇampi. Tattha paṭisandhiviññāṇaṃ paccayato paṭinivattati, vipassanāñāṇaṃ ārammaṇato. Ubhayampi nāmarūpaṃ nātikkamati, nāmarūpato paraṃ na gacchati. Ettāvatā jāyetha vātiādīsu viññāṇe nāmarūpassa paccaye honte, nāmarūpe ca viññāṇassa paccaye honte, dvīsupi aññamaññapaccayesu hontesu ettakena jāyetha vā … pe … upapajjetha vā, ito hi paraṃ kiṃ aññaṃ jāyeyya vā … pe … upapajjeyya vā. Nanu etadeva jāyati ca … pe … upapajjati cāti? Evaṃ saddhiṃ aparāparacutipaṭisandhīhi pañca padāni dassetvā puna taṃ ettāvatāti vuttamatthaṃ niyyātento[119] — “yadidaṃ nāmarūpapaccayā viññāṇaṃ, viññāṇapaccayā nāmarūpan”ti vatvā tato paraṃ anulomapaccayākāravasena viññāṇapaccayā nāmarūpamūlaṃ āyatimpi jātijarāmaraṇaṃ dassetuṃ nāmarūpapaccayā saḷāyatanantiādimāha. Tattha kevalassa dukkhakkhandhassa samudayo hotīti sakalassa jātijarāmaraṇasokaparidevadukkhadomanassupāyāsādibhedassa dukkharāsissa nibbatti hoti. iti mahāpuriso sakalassa vaṭṭadukkhassa nibbattiṃ addasa.
- Quả thật thức này quay vòng ngược trở lại: quay vòng ngược trở lại. Hơn nữa ở đây, thức quay vòng ngược trở lại như thế nào? Thức ấy bao gồm thức tục sanh, và thức minh sát. Trong hai loại thức ấy, thức tục sanh quay ngược lại từ duyên, thức minh sát quay ngược trở lại từ đối tượng. Thậm chí cả hai không thoát khỏi danh và sắc, từ danh và sắc không đi đến nơi nào khác (ngoài danh và sắc). Đến chừng này thì nó được sinh ra: ngài đã thuyết cả năm cùng với sự chết và sự tái tục khác như đã nói: ‘Khi thức làm duyên cho danh sắc, và khi danh sắc làm duyên cho thức, cả hai thuộc hỗ tương duyên,’ đến chừng này thì chúng sanh ở thế gian lại được sanh ra, hoặc bị già, hoặc bị chết, hoặc diệt vong, hoặc tái sanh; ngoài ra chẳng có nơi nào khác sao chúng sanh lại được sanh ra …nt… hoặc tái sanh; Chẳng phải chỉ chừng ấy chúng sanh được sanh ra …nt… và được tái sanh. Như vậy, để giải thích ý nghĩa ngài đã nói tiếp lời này ‘đến chừng này’ mới nói rằng: ‘Do danh sắc làm duyên, thức sanh khởi; do thức làm duyên, danh sắc sanh khởi’ từ đó để trình bày ‘sự sanh, sự già và sự chết’ tiếp tục mà có danh sắc làm gốc rễ do thức làm duyên, do mãnh lực duyên khởi theo chiều thuận nên mới nói lời bắt đầu như sau: ‘do danh sắc làm duyên, sáu xứ sanh khởi’. Trong những câu ấy, như thế là sự hiện khởi của toàn bộ khổ uẩn này: sự sanh khởi của toàn bộ khổ uẩn này có hình thức như sau: sanh, già, chết, sầu-bi-khổ-ưu-não có mặt. Bậc Đại Nhân đã nhìn thấy sự sanh khởi của toàn bộ vòng luân hồi khổ như thế.
- Samudayo samudayoti khoti nibbatti nibbattīti kho. Pubbe ananussutesūti na anussutesu assutapubbesu. Cakkhuṃ udapādītiādīsu udayadassanapaññāvesā. dassanaṭṭhena cakkhu, ñātakaraṇaṭṭhena ñāṇaṃ, pajānanaṭṭhena paññā, nibbijjhitvā paṭivijjhitvā uppannaṭṭhena vijjā, obhāsaṭṭhena ca ālokoti vuttā. yathāha — “cakkhuṃ udapādīti dassanaṭṭhena. Ñāṇaṃ udapādīti ñātaṭṭhena. paññā udapādīti pajānanaṭṭhena. vijjā udapādīti paṭivedhaṭṭhena. Āloko udapādīti obhāsaṭṭhena. Cakkhudhammo dassanaṭṭho attho. Ñāṇadhammo ñātaṭṭho attho. Paññādhammo pajānanaṭṭho attho. Vijjādhammo paṭivedhaṭṭho attho. Āloko dhammo obhāsaṭṭho attho”ti.[120] Ettakehi padehi kiṃ kathitanti? Imasmiṃ sati idaṃ hotīti paccayasañjānanamattaṃ kathitaṃ. Athavā vīthipaṭipannā taruṇavipassanā kathitāti.
- Sự hiện khởi, sự hiện khởi: thật vậy sự sanh khởi, sự sanh khởi. Trước đây chưa từng được nghe: chưa từng nghe, trước đó chưa từng nghe. Pháp nhãn đã sanh lên v.v, với tuệ thấy được sự sanh khởi này, Pháp nhãn với ý nghĩa nhìn thấy, trí với ý nghĩa thực hiện điều đã được biết, tuệ với ý nghĩa biết toàn diện, minh với ý nghĩa đã đâm thủng, thấu triệt đã sanh khởi, ánh sáng với ánh nghĩa chiếu sáng. Như ngài đã nói – “Pháp nhãn đã sanh khởi với ý nghĩa thấy. Trí đã sanh khởi với ý nghĩa điều đã được biết. Tuệ đã sanh khởi với ý nghĩa biết toàn diện. Minh đã sanh khởi với ý nghĩa thấu triệt. Ánh sáng đã sanh khởi với ý nghĩa chiếu sáng. Pháp nhãn là nhân, ý nghĩa của sự thấy là quả. Trí là nhân, ý nghĩa của điều đã được biết là quả. Tuệ là nhân, ý nghĩa của sự thấu triệt là quả. Minh là nhân, ý nghĩa của sự thấu triệt là quả. Ánh sáng là nhân, ý nghĩa của sự chiếu sáng là quả.” Chỉ chừng ấy ngài muốn đề cập đến điều gì? Ngài nói chỉ để nhận biết về duyên rằng: ‘khi cái này có mặt, thì cái này cũng có mặt’. Và hơn nữa, ngài nói đến ‘tuệ minh sát yếu – taruṇavipassanā’ là con đường thực hành.
- Adhigato kho myāyanti adhigato kho me ayaṃ. Maggoti vipassanāmaggo. Bodhāyāti[121] catusaccabujjhanatthāya, nibbānabujjhanatthāya eva vā. api ca bujjhatīti bodhi, ariyamaggassetaṃ nāmaṃ, tadatthāyātipi vuttaṃ hoti. Vipassanāmaggamūlako hi ariyamaggoti. Idāni taṃ maggaṃ niyyātento — “Yadidaṃ nāmarūpanirodhātiādimāha. ettha ca viññāṇanirodhotiādīhi paccattapadehi nibbānameva kathitaṃ. iti mahāpuriso sakalassa vaṭṭadukkhassa anibbattinirodhaṃ addasa.
- Đã được ta chứng đắc: Đạo lộ này ta đã chứng đắc. Đạo lộ: Đạo lộ Minh Sát. Đưa đến Toàn Giác: nhằm mục đích giác ngộ Tứ Thánh Đế, hoặc để thấu rõ Nibbāna. Và hơn nữa, giác ngộ bởi vì thấu rõ. Đây là tên gọi của Thánh Đạo, là điều ngài nios để đưa đến lợi ích cho Thánh Đạo ấy. Bởi vì Thánh Đạo có Minh Sát Đạo làm gốc. Bây giờ, khi giải thích Đạo ấy mới nói lời bắt đầu như sau: “Do sự diệt tận của danh sắc…” Và ở trong câu này ngài chỉ nói đến Nibbāna bởi câu làm chủ cách rằng: “Có sự diệt tận của thức v.v.” Bậc Đại Nhân đã thấy sự diệt, tức là sự không sanh khởi của toàn bộ vòng luân hồi khổ.
- Nirodho nirodhoti khoti anibbatti anibbattiti kho. cakkhuntiādīni vuttatthāneva. Idha pana sabbeheva etehi padehi — “Imasmiṃ asati idaṃ na hotī”ti nirodhasañjānanamattameva kathitaṃ, athavā vuṭṭhānagāminī balavavipassanā kathitāti.
- Sự diệt tận, sự diệt tận: không sanh khởi, không sanh khởi. (Pháp) nhãn v.v, có ý nghĩa đã được ngài nói rồi. Nhưng ở trong trường hợp này: với toàn bộ câu này, ngài nói để biết đến sự diệt tận mà thôi ‘khi cái này không có mặt, thì cái này cũng không có mặt.” Hoặc thêm nữa, ngài nói đến tuệ Minh Sát mạnh mẽ đưa đến sự xuất khỏi.
- Aparena samayenāti evaṃ paccayañca paccayanirodhañca viditvā tato aparabhāge. Upādānakkhandhesūti upādānassa paccayabhūtesu khandhesu. Udayabbayānupassīti tameva paṭhamaṃ diṭṭhaṃ udayañca vayañca anupassamāno. Vihāsīti sikhāpattaṃ vuṭṭhānagāminivipassanaṃ vahanto vihari. Idaṃ kasmā vuttaṃ? sabbeyeva hi pūritapāramino bodhisattā pacchimabhave puttassa jātadivase mahābhinikkhamanaṃ nikkhamitvā pabbajitvā padhānamanuyuñjitvā bodhipallaṅkamāruyha mārabalaṃ vidhamitvā paṭhamayāme pubbenivāsaṃ anussaranti, dutiyayāme dibbacakkhuṃ visodhenti, tatiyayāme paccayākāraṃ sammasitvā ānāpānacatutthajjhānato uṭṭhāya pañcasu khandhesu abhinivisitvā udayabbayavasena samapaññāsa lakkhaṇāni disvā yāva gotrabhuñāṇā vipassanaṃ vaḍḍhetvā ariyamaggena sakale buddhaguṇe paṭivijjhanti. Ayampi mahāpuriso pūritapāramī. So yathāvuttaṃ sabbaṃ anukkamaṃ katvā pacchimayāme ānāpānacatutthajjhānato uṭṭhāya pañcasu khandhesu abhinivisitvā vuttappakāraṃ udayabbayavipassanaṃ ārabhi. Taṃ dassetuṃ idaṃ vuttaṃ.
- Một thời gian sau: Đức Bồ Tát đã biết được duyên và sự diệt của duyên như vậy ở thời điểm khác kể từ đó. Ở năm thủ uẩn: ở các uẩn có tính chất là duyên đưa đến chấp thủ. Có sự quan sát sanh và diệt: có sự quan sát thấy sự sanh và sự diệt đã thấy ở lần thứ nhất. Đã sống: Đức Bồ-tát đã sống phát triển Minh Sát là nhân đưa đến sự giải thoát tối thượng. Ngài nói điều này để làm gì? Bởi vì các đức Bồ-tát thực hành các Ba-la-mật ở kiếp sống cuối cùng, đã rời khỏi để thực hiện cuộc ra đi vĩ đại vào ngày hoàng tử chào đời, đã xuất gia, gắn liền với sự tinh tấn bước lên bảo toạ Bồ-đề, đã tiêu diệt Ác-ma và đạo binh của Ác-ma, vào canh thứ nhất nhớ lại các uẩn đã từng y cứ trong kiếp sống quá khứ, vào canh thứ hai thanh tịnh thiên nhãn, vào canh thứ ba đã quan sát về lý duyên khởi, xuất khỏi Tứ thiền ghi nhận hơi thở vào hơi thở ra, chú tâm quan sát năm uẩn đã thấy năm mươi tướng trạng chẵn do mãnh lực sự sanh và sự diệt, phát triển minh sát cho đến trí chuyển tộc rồi thấu triệt hết toàn bộ ân đức Phật bằng Thánh Đạo. Hơn nữa, dù cho bậc Đại Nhân này đã có các Ba-la-mật tròn đủ. (Nhưng) ngài vẫn thực hiện tất cả theo tuần tự như đã nói vào canh cuối (ngài) xuất khỏi Tứ thiền ghi nhận hơi thở vào và hơi thở ra, chú tâm quan sát năm uẩn đã bắt đầu thấy rõ sự sanh và sự diệt theo cách thức đã được giảng giải. Ngài nói đến sự thấy rõ đưa đến sứ thoát khỏi này để thuyết đến sự thấy rõ sanh và diệt đó.
Tattha iti rūpanti idaṃ rūpaṃ, ettakaṃ rūpaṃ, ito uddhaṃ rūpaṃ natthīti ruppanasabhāvañceva bhūtupādāyabhedañca ādiṃ katvā lakkhaṇarasapaccupaṭṭhānapadaṭṭhānavasena anavasesarūpapariggaho vutto. Iti rūpassa samudayoti iminā evaṃ pariggahitassa rūpassa samudayadassanaṃ vuttaṃ. Tattha itīti evaṃ samudayo hotīti attho. Tassa vitthāro — “avijjāsamudayā rūpasamudayo, taṇhāsamudayā rūpasamudayo, kammasamudayā rūpasamudayo, āhārasamudayā rūpasamudayoti, nibbattilakkhaṇaṃ passantopi rūpakkhandhassa udayaṃ passatī”ti evaṃ veditabbo. Atthaṅgamepi “avijjānirodhā rūpanirodho … pe … vipariṇāmalakkhaṇaṃ passantopi rūpakkhandhassa nirodhaṃ passatī”ti[122] ayamassa vitthāro.
Ở đây, thế này là sắc: sắc này, sắc có chừng này, ngoài sắc ấy ra thì không có (sắc nào khác), vi thế ngài mới nói đến việc xác định sắc không có phần dư sót do tác động trạng thái, phận sự, thành tựu và nhân cận, đã tạo ra thực tính tan rã và thể loại của sắc tứ đại và sắc y đại sinh là thí dụ. Ngài đã nói đến cái thấy nhân sanh của sắc được xác định như vậy với câu này: “Thế này là sự sanh khởi của sắc”. Trong câu đó ‘iti’: có nghĩa là như vậy là nhân sanh. Nên hiểu chi tiết của từ ‘samudayo – sự sanh khởi’ ấy như vầy rằng – “Do sự sanh khởi của vô minh, có sự sanh khởi của sắc; Do sự sanh khởi của ái, có sự sanh khởi của sắc; Do sự sanh khởi của nghiệp, có sự sanh khởi của sắc; Do sự sanh khởi của vật thực, có sự sanh khởi của sắc; vì thế ngay cả trong khi nhận thấy tướng trạng của sự sanh ra (vị ấy) cũng thấy được nhân sanh của các uẩn.” Luôn cả ở trong sự diệt cũng nên biết chi tiết như vậy rằng: “Do sự diệt tận của vô minh, có sự diệt tận của sắc …nt… ngay cả trong khi nhận thấy tướng trạng của sự diệt tận (vị ấy) cũng thấy được sự diệt tận của các uẩn.”
Iti vedanātiādīsupi ayaṃ vedanā, ettakā vedanā, ito uddhaṃ vedanā natthi. Ayaṃ saññā, ime saṅkhārā, idaṃ viññāṇaṃ, ettakaṃ viññāṇaṃ, ito uddhaṃ viññāṇaṃ natthīti vedayitasañjānanābhisaṅkharaṇavijānanasabhāvañceva sukhādirūpasaññādi phassādi cakkhuviññāṇādi bhedañca ādiṃ katvā lakkhaṇarasapaccupaṭṭhānapadaṭṭhānavasena anavasesavedanāsaññāsaṅkhāraviññāṇapariggaho vutto. Iti vedanāya samudayotiādīhi pana evaṃ pariggahitānaṃ vedanāsaññāsaṅkhāraviññāṇānaṃ samudayadassanaṃ vuttaṃ. Tatrāpi itīti evaṃ samudayo hotīti attho. Tesampi vitthāro — “Avijjāsamudayā vedanāsamudayo”ti[123] rūpe vuttanayeneva veditabbo. Ayaṃ pana viseso — Tīsu khandhesu “āhārasamudayā”ti avatvā “phassasamudayā”ti vattabbaṃ. Viññāṇakkhandhe “nāmarūpasamudayā”ti atthaṅgamapadampi tesaṃyeva vasena yojetabbaṃ. ayamettha saṅkhepo, vitthāro pana udayabbayavinicchayo sabbākāraparipūro visuddhimagge vutto. Tassa pañcasu upādānakkhandhesu udayabbayānupassino viharatoti tassa vipassissa bodhisattassa imesu rūpādīsu pañcasu upādānakkhandhesu samapaññāsalakkhaṇavasena udayabbayānupassino viharato yathānukkamena vaḍḍhite vipassanāñāṇe anuppādanirodhena nirujjhamānehi āsavasaṅkhātehi kilesehi anupādāya aggahetvāva cittaṃ vimuccati, tadetaṃ maggakkhaṇe vimuccati nāma, phalakkhaṇe vimuttaṃ nāma; maggakkhaṇe vā vimuttañceva vimuccati ca, phalakkhaṇe vimuttameva. Tassa pañcasu upādānakkhandhesu udayabbayānupassino viharatoti tassa vipassissa bodhisattassa imesu rūpādīsu pañcasu upādānakkhandhesu samapaññāsalakkhaṇavasena udayabbayānupassino viharato yathānukkamena vaḍḍhite vipassanāñāṇe anuppādanirodhena nirujjhamānehi āsavasaṅkhātehi kilesehi anupādāya aggahetvāva cittaṃ vimuccati, tadetaṃ maggakkhaṇe vimuccati nāma, phalakkhaṇe vimuttaṃ nāma; maggakkhaṇe vā vimuttañceva vimuccati ca, phalakkhaṇe vimuttameva.
Kể cả những câu ‘thế này là thọ’ cũng có nghĩa rằng: “Thọ này, thọ có chừng này, ngoài thọ ấy ra thì không có (thọ nào khác). Tưởng này, các hành này, thức này, thức có chừng này, ngoài thức ấy ra thì không có (thức nào khác), ngài nói xác định thọ, tưởng, hành va thức không còn dư sót do tác động trạng thái, phận sự, thành tựu và nhân cận, đã tạo ra thực tính của sự thọ hưởng cảnh, sự cảm nhận, sự tạo tác và sự hiểu biết; và thể loại của sự an lạc v.v, sắc tưởng v.v, xúc v.v, nhãn thức v.v, là thí dụ. Hơn nữa, ngài nói đến sự thấy về nhân sanh của thọ, tưởng, hành và thức được xác định như vậy bằng câu rằng: “Thế này là sự sanh khởi của thọ v.v.” ‘iti’ luôn cả trong câu này cũng có ý nghĩa rằng: “như thế là nhân sanh”. Chi tiết kể cả trong câu này rằng: “Do sự sanh khởi của vô minh, có sự sanh khởi của thọ” nên hiểu theo phương cách đã được nói ở phần sắc. Tuy nhiên có sự khác biệt như sau – Trong ba uẩn không nên nói rằng: Do sự sanh khởi của vật thực, (mà) nên nói rằng: “do sự sanh khởi của xúc”. Trong thức uẩn nên nói rằng: “Do sự sanh khởi của danh sắc.” Luôn cả ‘sự diệt tận’ nên liên kết với khả năng của những câu đó. Đây chỉ là (ý nghĩa) vắn tắt ở câu này. Lý giải sự sanh và sự diệt một cách chi tiết đầy đủ ở mọi khía cạnh ngài đã nói trong Thanh Tịnh Đạo. Khi đức Bồ-tát đã sống có sự quan sát sanh và diệt ở năm thủ uẩn: Khi đức Bồ-tát Vipassī đã sống quan sát sanh và diệt với mãnh lực năm mươi tướng trạng chẵn ở năm thủ uẩn có sắc v.v, khi minh sát trí đã phát triển theo tuần tự, tâm không chấp thủ do không sanh, giải thoát khỏi tất cả phiền não được xem là các lậu hoặc diệt tận hoàn toàn do diệt tận không sanh khởi, tâm đó được gọi là giải thoát ở sát-na Đạo, gọi là giải thoát ở sát-na Quả; hoặc đã giải thoát và được thoát khỏi ở sát-na Đạo, cũng chính là đã giải thoát ở sát-na Quả.
Ettāvatā ca mahāpuriso sabbabandhanā vippamutto sūriyarasmisamphuṭṭhamiva padumaṃ suvikasitacittasantāno cattāri maggañāṇāni, cattāri phalañāṇāni, catasso paṭisambhidā, catuyoniparicchedakañāṇaṃ, pañcagatiparicchedakañāṇaṃ, cha asādhāraṇañāṇāni, sakale ca buddhaguṇe hatthagate katvā paripuṇṇasaṅkappo bodhipallaṅke nisinnova —
“Anekajātisaṃsāraṃ, sandhāvissaṃ anibbisaṃ.
Gahakāraṃ gavesanto, dukkhā jāti punappunaṃ.
Gahakāraka diṭṭhosi, puna gehaṃ na kāhasi.
Sabbā te phāsukā bhaggā, gahakūṭaṃ visaṅkhataṃ.
Visaṅkhāragataṃ cittaṃ, taṇhānaṃ khayamajjhagā”ti.[124]
“Ayoghanahatasseva, jalato jātavedaso.
Anupubbūpasantassa, yathā na ñāyate gati.
Evaṃ sammāvimuttānaṃ, kāmabandhoghatārinaṃ.
Paññāpetuṃ gati natthi, pattānaṃ acalaṃ sukhan”ti.[125]
Evaṃ manasi karonto sarade sūriyo viya, puṇṇacando viya ca virocitthāti.
Và chỉ bấy nhiêu bậc Đại Nhân đã giải thoải khỏi mọi ràng buộc, có cơ tánh tươi sáng tựa như hoa sen chạm vào ánh mặt trời, có tâm tư được trọn vẹn ngồi xuống tại bảo tọa Bồ-đề, đã thực hiện bốn trí về Đạo, bốn trí về Quả, bốn tuệ phân tích, bốn trí về phân định sanh chủng, năm trí về phân định sanh thú tái sanh, sáu loại trí không phổ thông (đến các vị Thinh-văn) và toàn bộ ân đức Phật nằm trong lòng bàn tay.
Ngài đã tác ý như vầy rằng –
“Ta đã trãi qua luân hồi trong nhiều kiếp sống không ngừng nghỉ, trong khi tìm kiếm người thợ làm nhà; sự sanh tái diễn là khổ đau.
Hỡi người thợ làm nhà, ta đã nhìn thấy ngươi. Ngươi sẽ không xây dựng nhà nữa. Tất cả các rường cột của ngươi đã bị gãy đổ, mái nhà đã bị phá tan. Tâm (của ta) đã đi đến sự không còn tạo tác, Ta đã chứng đạt sự diệt tận của các tham ái.”
“Giống như điểm đến của ngọn lửa (của vật) đang cháy sáng, bị đập vỡ bởi cái búa sắt, được từ từ lắng dịu, là không được biết đến. Cũng vậy, không có cảnh giới tái sanh để tuyên bố của các vị đã được giải thoát chân chánh, đã vượt qua dòng chảy của sự trói buộc vào các dục, đã đạt đến sự an lạc bất động.”
Chói sáng tựa như ánh mặt trời vào mùa thu và tựa như ánh mặt trăng vào ngày trăm rằm.
Giải Thích Tụng Phẩm thứ nhì được kết thúc
Giải Thích Brahmayācanakathā
- Tatiyabhāṇavāre yaṃnūnāhaṃ dhammaṃ deseyyanti yadi panāhaṃ dhammaṃ deseyyaṃ. Ayaṃ pana vitakko kadā uppannoti? buddhabhūtassa aṭṭhame sattāhe. So kira buddho hutvā sattāhaṃ bodhipallaṅke nisīdi, sattāhaṃ bodhipallaṅkaṃ olokento aṭṭhāsi, sattāhaṃ ratanacaṅkame caṅkami, sattāhaṃ ratanagabbhe dhammaṃ vicinanto nisīdi, sattāhaṃ ajapālanigrodhe nisīdi, sattāhaṃ mucalinde nisīdi, sattāhaṃ rājāyatane nisīdi. Tato uṭṭhāya aṭṭhame sattāhe puna āgantvā ajapālanigrodhe nisinnamattasseva sabbabuddhānaṃ āciṇṇasamāciṇṇo ayañceva ito anantaro ca vitakko uppannoti.
- Trong tụng phẩm thứ ba, ‘hay là Ta nên thuyết Pháp’: Làm sao ta có thể thuyết Pháp. Hơn nữa, suy tầm này khởi lên khi nào? Khởi lên vào tuần lễ thứ tám của bản thể Phật. Được biết đức Thế Tôn hồng danh Vipassī ấy là vị Phật đã ngồi dưới bảo tọa Bồ-đề trọn bảy ngày, đã đứng nhìn chăm chú bảo tọa Bồ-đề trọn bảy ngày, đã đi kinh hành ở con đường kinh hành bằng ngọc trọn bảy ngày, (kế đến) đã ngồi tại cây đa của người chăn dê trọn bảy ngày, (sau đó) đã ngồi ở cội cây Mucalinda trọn bảy ngày, (tiếp đến) đã ngồi ở cội cây Rājāyatana trọn bảy ngày. Sau đó, ngài đã đứng dậy từ cội cây Rājāyatana ấy khi vừa đến vào tuần lễ thứ tám ngài lại ngồi tại cây đa của người chăn dê thì suy tầm này và suy tầm khác ngoài ra được đức Phật thực hành và thực hành thường xuyên đã sanh khởi đối với chư Phật.
Tattha adhigatoti paṭividdho. Dhammoti catusaccadhammo. Gambhīroti uttānabhāvapaṭikkhepavacanametaṃ. Duddasoti gambhīrattāva duddaso dukkhena daṭṭhabbo, na sakkā sukhena daṭṭhuṃ. Duddasattāva duranubodho dukkhena avabujjhitabbo, na sakkā sukhena avabujjhituṃ. Santoti nibbuto. Paṇītoti atappako. Idaṃ dvayaṃ lokuttarameva sandhāya vuttaṃ. Atakkāvacaroti takkena avacaritabbo ogāhitabbo na hoti, ñāṇeneva avacaritabbo. Nipuṇoti saṇho. Paṇḍitavedanīyoti sammāpaṭipadaṃ paṭipannehi paṇḍitehi veditabbo. Ālayarāmāti sattā pañcasu kāmaguṇesu allīyanti, tasmā te ālayāti vuccanti. Aṭṭhasatataṇhāvicaritāni ālayanti, tasmā ālayāti vuccanti. Tehi ālayehi ramantīti ālayarāmā. Ālayesu ratāti ālayaratā. Ālayesu suṭṭhu muditāti ālayasammuditā. yatheva hi susajjitaṃ pupphaphalabharitarukkhādisampannaṃ uyyānaṃ paviṭṭho rājā tāya tāya sampattiyā ramati, pamudito āmodito hoti, na ukkaṇṭhati, sāyaṃ nikkhamituṃ na icchati, evamimehipi kāmālayataṇhālayehi sattā ramanti, saṃsāravaṭṭe pamuditā anukkaṇṭhitā vasanti. tena nesaṃ bhagavā duvidhampi ālayaṃ uyyānabhūmiṃ viya dassento — “ālayarāmā”tiādimāha.
Ở đây, ‘đã được chứng đắc’: đã thấu triệt. Pháp:Pháp là Tứ Thánh Đế. Thâm sâu: Đây là cách gọi của việc phủ nhận tính chất nông cạn. (Pháp) khó nhận thấy: là Pháp khó thấy, là Pháp mà con người rất khó để thấy, không thể dễ dàng nhận thấy chính vì là Pháp thâm sâu. Do là Pháp khó nhận thấy nên mới khó lĩnh hội, mà con người khó lĩnh hội, không thể giác ngộ dễ dàng. Thanh tịnh: đã diệt tắt hoàn toàn. Cao quý: không nóng nảy. Cả hai từ này ngài nói đề đến chính Pháp Siêu Thế. Vượt ra khỏi giới hạn lý luận là Pháp không thể thăm dò bằng suy nghĩ, mà chỉ thăm dò bằng trí tuệ mà thôi. Tinh tế: vi tế. Chỉ người trí mới hiểu thấu: Điều các bậc trí thực hành chân chánh có thể biết biết. Có sự thỏa thích trong ngũ dục: Chúng sanh bám níu lấy trong năm loại dục, vì thế (năm dục ấy) được gọi là sự thỏa thích. (Chúng sanh) dính vào 108 ái du (taṇhāvicarita), vì thế được gọi là sự thỏa thích. Chúng sanh vui mừng với sự thỏa thích ấy, vì thế gọi là được thỏa thích trong ngũ dục, tức là có sự thỏa thích trong sự quyến luyến. Chúng sanh vui sướng trong sự quyến luyến, do đó gọi là được vui sướng trong ngũ dục, tức là vui sướng trong sự quyến luyến. Tương tự như đức vua bước vào vườn thượng uyển với đầy đủ các loại cây sum suê hoa và trái v.v, được trang trí tuyệt mỹ. Vị ấy trở nên vui thích hài lòng thỏa mãn, không nhàm chán, thậm chí khi hoàng hôn buông xuống cũng không muốn quay trở về như thế nào; Chúng sanh hoan hỷ bằng sự quyến luyến là dục và sự quyến luyến là tham ái này cũng như thế đó cũng vui thích và không biết nhàm chán trong vòng luân hồi. Vì thế đức Thế Tôn khi thuyết giảng 2 sự quyến luyến cho chúng sanh ấy giống như vườn thượng uyển mới thuyết lời như sau: “chúng sanh thỏa thích trong ngũ dục”.
Yadidanti nipāto, tassa ṭhānaṃ sandhāya — “yaṃ idan”ti, paṭiccasamuppādaṃ sandhāya — “yo ayan”ti evamattho daṭṭhabbo. Idappaccayatāpaṭiccasamuppādoti imesaṃ paccayā idappaccayā, idappaccayā eva idappaccayatā, idappaccayatā ca sā paṭiccasamuppādo cāti idappaccayatāpaṭiccasamuppādo. Saṅkhārādipaccayānaṃ avijjādīnaṃ etaṃ adhivacanaṃ. Sabbasaṅkhārasamathotiādi sabbaṃ nibbānameva. Yasmā hi taṃ āgamma sabbasaṅkhāravipphanditāni sammanti vūpasammanti. Tasmā — “sabbasaṅkhārasamatho”ti vuccati. Yasmā ca taṃ āgamma sabbe upadhayo paṭinissaṭṭhā honti, sabbā taṇhā khīyanti, sabbe kilesarāgā virajjanti, sabbaṃ dukkhaṃ nirujjhati, tasmā “sabbūpadhipaṭinissaggo taṇhākkhayo virāgo nirodho”ti vuccati. Sā panesā taṇhā bhavena bhavaṃ, phalena vā saddhiṃ kammaṃ vinati saṃsibbatīti katvā vānanti vuccati. tato vānato nikkhantanti nibbānaṃ. so mamassa kilamathoti yā ajānantānaṃ desanā nāma, so mama kilamatho assa, sā mama vihesā assāti attho. kāyakilamatho ceva kāyavihesā ca assāti vuttaṃ hoti, citte pana ubhayampetaṃ buddhānaṃ natthi.
Yadidaṃ: là một phân từ, nên biêt ý nghĩa như vầy “Yaṃ idaṃ” đề cập đến vị trí câu ấy, “yo imaṃ” đề cập đến Pháp tùy thuận duyên sanh. Duyên của cả hai câu này ‘tính chất của duyên và sự sanh khởi tùy thuộc vào điều kiện’ gọi là idappaccayā là cái này làm duyên của cáci này, gọi là tính chất của duyên và sự sanh khởi tùy thuộc vào điều kiện bởi tính chất cái này làm duyên cho cái này và các duyên nương nhau sanh lên. Điều này là tên gọi là ‘vô minh’ v.v, làm duyên cho ‘hành’ v.v, (sanh khởi). Các pháp được tùy thuận sanh lên do tính chất của duyên ấy này là tên gọi của các duyên có các hành v.v. Sự vắng lặng của tất cả các hành toàn bộ câu là đồng nghĩa với Niết bàn. Vì sự đấu tranh của tất cả các hành y cứ Nibbāna ấy được an tịnh, được vắng lặng. Vì thế ngài đã nói Nibbāna là sự vắng lặng của tất cả các hành. Lại nữa, bởi vì tất cả bản thể của sự tái sanh đã được dứt bỏ, tất cả tham ái đã bị cạn kiệt, ái luyến là phiền não toàn bộ được lìa bỏ, toàn bộ khổ đau được diệt tận do ý cứ Niết bàn ấy; Vì thế, ngài mới nói rằng: “sự buông bỏ đối với tất cả các mầm tái sanh, sự cạn kiệt của tham ái, sự không còn luyến ái, sự diệt tận (khổ đau)”. Hơn nữa, tham ái ngài gọi là vāna (sự ham muốn) bởi trói buộc, đan kết kiếp sống này với kiếp sống khác, hoặc nghiệp và quả của nghiệp. Gọi là Niết bàn bởi vì đã thoát khỏi tham ái, tức là vāna (sự ham muốn) đó. Điều ấy sẽ đem lại sự mệt mỏi cho Ta: Việc thuyết giảng Pháp cho kẻ thiếu hiểu biết có thể (mang lại) sự mệt mỏi cho ta. Ngài nói rằng: có thể (đem lại) sự mệt mỏi ở thân và cũng có thể gây tổn thương nơi thân, cả 2 điều đó không có nơi tâm của chư Phật.
- Apissūti anubrūhanatthe nipāto. so — “na kevalaṃ etadahosi, imāpi gāthā paṭibhaṃsū”ti dīpeti. Vipassintiādīsu vipassissa bhagavato arahato sammāsambuddhassāti attho. Anacchariyāti anuacchariyā. Paṭibhaṃsūti paṭibhānasaṅkhātassa ñāṇassa gocarā ahesuṃ, parivitakkayitabbataṃ pāpuṇiṃsu.
- Apissu là một phân từ được dùng với ý nghĩa chồng chất. Phân từ ấy chỉ ra rằng: “không riêng điều này, mà luôn cả trong kệ ngôn cũng đã rõ ràng.” Vipassī v.v, Đức Thế Tôn Vipassī là bậc A-ra-hán, đấng Chánh đẳng Chánh giác. Vi diệu: kỳ diệu. Hiển nhiên: các hành xứ đã khởi lên cho trí được xem là hiển nhiên, đã đạt đến bản thể pháp cần được suy tầm.
Kicchenāti dukkhena, na dukkhāya paṭipadāya. buddhānañhi cattāropi maggā sukhapaṭipadāva honti. Pāramīpūraṇakāle pana sarāgasadosasamohasseva sato āgatāgatānaṃ yācakānaṃ alaṅkatapaṭiyattaṃ sīsaṃ chinditvā galalohitaṃ nīharitvā suañjitāni akkhīni uppāṭetvā kulavaṃsapadīpakaṃ puttaṃ manāpacāriniṃ bhariyanti evamādīni dentassa aññāni ca khantivādisadisesu attabhāvesu chejjabhejjādīni pāpuṇantassa āgamanīyapaṭipadaṃ sandhāyetaṃ vuttaṃ. Halanti ettha hakāro nipātamatto, alanti attho. Pakāsitunti desetuṃ; evaṃ kicchena adhigatassa dhammassa alaṃ desetuṃ; ()[126] ko attho desitenāti vuttaṃ hoti. Rāgadosaparetehīti rāgadosaphuṭṭhehi rāgadosānugatehi vā.
(Pháp này) đã được Ta chứng đắc một cách khó khăn: khó khăn, nhưng không phải với lối thực hành khó khăn. Thật vậy, bốn Đạo là lối thực hành dễ dàng đối với chư Phật. Lời này ngài muốn nói đến āgamanīyapaṭipadā (việc thực hành để đạt được ân đức cao thượng) của ngài, người vẫn còn ái luyến, vần còn sân hận, và vẫn còn si mê trong lúc thực hành ba-la-mật, bố thí những thứ bắt đầu như vầy sau khi (ngài) chặt đứt đầu đã được trang điểm, lấy máu chảy ra tử cổ, móc cả hai con mắt được nhỏ thuốc mắt loại tốt, dứt bỏ đứa con trai là người kế thừa của dòng tộc; dứt bỏ vợ, người có đức hạnh đoan chính hài lòng đối cho những kẻ ăn xin và những thứ khác như việc cắt lìa (các chi phần như tay, chân v.v,) gây tổn thương v.v, đối với cơ thể như đạo sĩ Khantivādi. Phụ âm ‘ha’ trong từ ‘halaṃ’ chỉ là phân từ nghĩa là ‘thích hợp’. Thuyết giảng: để thuyết giảng; Pháp đã được Ta chứng đắc một cách khó khăn như vậy, giờ đây không nên thuyết giảng; ngài giải thích rằng: Lợi ích gì đối với việc thuyết Pháp? Những kẻ bị luyến ái và sân hận chế ngự: người có ái luyến và sân hận chi phối, hoặc người có ái luyến và sân hận theo sau.
Paṭisotagāminti niccādīnaṃ paṭisotaṃ aniccaṃ dukkhamanattāsubhanti evaṃ gataṃ catusaccadhammaṃ. Rāgarattāti kāmarāgena bhavarāgena diṭṭhirāgena ca rattā. na dakkhantīti aniccaṃ dukkhamanattā asubhanti iminā sabhāvena na passissanti, te apassante ko sakkhissati evaṃ gāhāpetuṃ? Tamokhandhena āvuṭāti avijjārāsinā ajjhotthaṭā.
Pháp mà đi ngược lại dòng chảy của đời: Bốn Pháp Chân Lý đã đến như vầy rằng: đã đi ngược lại dòng chảy của Pháp có sự thường hằng v.v, là vô thường, khổ não, vô ngã và bất tịnh. Những kẻ đắm say luyến ái: những kẻ say đắm bởi Dục ái, bởi Hữu ái và bởi Kiến ái. Không thể nhìn thấy: không thể nhận thức được thực tính này là vô thường, là khổ đau, là vô ngã, là bất tịnh. Ai có thể làm cho hạng người không nhận thấy những điều đó (có thế) nắm lấy (những điều đó) được? Bị che phủ bởi tăm tối dày đặc: bị khối vô minh bao trùm.
Appossukkatāyāti nirussukkabhāvena, adesetukāmatāyāti attho. Kasmā panassa evaṃ cittaṃ nami? nanu esa — “mutto mocessāmī, tiṇṇo tāressāmi”,
“Kiṃ me aññātavesena, dhammaṃ sacchikatenidha.
Sabbaññutaṃ pāpuṇitvā, santāressaṃ sadevakan”ti.[127]
Khuynh hướng thụ động: với tính chất người có khuynh hướng không năng động, tức là không có ý muốn thuyết giảng (Giáo Pháp). (Hỏi) vì sao, tâm của ngài thiên về khuynh hướng như thế? “Ta đã thoát khỏi sẽ làm cho người khác thoát khỏi, đã vượt khỏi cũng sẽ làm cho người khác vượt khỏi” không phải sao?
Ta có được lợi ích gì ở đây khi chứng đắc Giáo Pháp theo phương thức không được tiếng tăm? Ta nên thành tựu quả vị Toàn Tri và và giúp cho thế gian luôn cả chư thiên vượt qua.
Patthanaṃ katvā pāramiyo pūretvā sabbaññutaṃ pattoti. Saccametaṃ, paccavekkhaṇānubhāvena panassa evaṃ cittaṃ nami. Tassa hi sabbaññutaṃ patvā sattānaṃ kilesagahanataṃ dhammassa ca gambhīrataṃ paccavekkhantassa sattānaṃ kilesagahanatā ca dhammagambhīratā ca sabbākārena pākaṭā jātā. Athassa — “Ime sattā kañjikapuṇṇalābu viya takkabharitacāṭi viya[128] vasātelapītapilotikā viya[129] añjanamakkhitahatthā viya kilesabharitā atisaṃkiliṭṭhā rāgarattā dosaduṭṭhā mohamūḷhā, te kiṃ nāma paṭivijjhissantī”ti cintayato kilesagahanapaccavekkhaṇānubhāvenāpi evaṃ cittaṃ nami.
Sau khi thực hành tròn đủ các ba-la-mật đến khi chứng đắc quả vị Toàn Tri. (Đáp) điều này là sự thật, tâm của ngài hướng đến như vậy bằng oai lực của trí quán xét lại Đạo Quả. Thật vậy, khi ngài chứng đạt quả vị Toàn Tri đã quán xét đến bản thể chúng sanh vẫn đang còn bám chấp vào phiền não và bản thể Pháp thâm sâu; bản thể chúng sanh vẫn đang còn bám chấp vào phiền não và bản thể Pháp thâm sâu ở mọi biểu hiện của chúng. Khi điều đó xảy ra, ngài nghĩ rằng những chúng sanh này đầy rẫy những cấu uế phiền não, ham muốn do ái luyến, sân hận do giận dữ, lẫn lộn do si mê, như trái bầu đổ đầy với nước gạo, tựa như chai lọ đổ đầy bơ sữa, như tấm vải cũ thấm đẫm mỡ đặc, và như bàn tay vấy bẩn thuốc nhỏ mắt, thì những chúng sanh đó sẽ thấu triệt (Giáo Pháp) được như thế nào? Vì vậy, tâm của Ta đã thiên về khuynh hướng như vậy, do oai lực của việc nắm lấy phiền não và quán xét.
“Ayañca dhammo pathavīsandhārakaudakakkhandho viya gambhīro, pabbatena paṭicchādetvā ṭhapito sāsapo viya duddaso, satadhā bhinnassa vālassa koṭiyā koṭiṃ paṭipādanaṃ viya duranubodho, nanu mayā hi imaṃ dhammaṃ paṭivijjhituṃ vāyamantena adinnaṃ dānaṃ nāma natthi, arakkhitaṃ sīlaṃ nāma natthi, aparipūritā kāci pāramī nāma natthi. Tassa me nirussāhaṃ viya mārabalaṃ vidhamantassāpi pathavī na kampittha, paṭhamayāme pubbenivāsaṃ anussarantassāpi na kampittha, majjhimayāme dibbacakkhuṃ visodhentassāpi na kampittha, pacchimayāme pana paṭiccasamuppādaṃ paṭivijjhantasseva me[130] dasasahassilokadhātu kampittha. Iti mādisenāpi tikkhañāṇena kicchenevāyaṃ dhammo paṭividdho taṃ lokiyamahājanā kathaṃ paṭivijjhissantī”ti dhammagambhīratāpaccavekkhaṇānubhāvenāpi evaṃ cittaṃ namīti veditabbaṃ.
“Và Pháp này thâm sâu giống như mạch nước ngầm dưới mặt đất; khó nhận thấy tựa như hạt cải bị ngọn núi bao phủ; khó nhận thấy giống như tách đầu ngọn một sợi lông được chia nhỏ một trăm lần, thật vậy, ta đã cố gắng để thấu triệt Pháp này vật thí không được bố thí là không có, giới không được thọ trì là không có, ba-la-mật không được làm tròn đủ là không có, luôn cả khi ta tiêu diệt Ác-mà và đạo binh của Ác-ma như thể thiếu sự nỗ lực, quả địa cầu cũng không rung chuyển; khi ta nhớ lại các kiếp sống quá khứ vào canh đầu (quả địa cầu) cũng không rung chuyển; khi ta làm cho tinh khiết thiên nhãn vào canh giữa (quả địa cầu) cũng không rung chuyển; nhưng khi ta thấu triệt Lý Duyên Khởi vào canh cuối thì mười ngàn thế giới đều rung chuyển. Ngay cả người như ta thấu triệt Pháp này bằng trí sắc bén một cách khó khăn, dân chúng ở đời sẽ thấu triệt được Pháp ấy như thế nào?” Nên biết rằng tâm của ngài đã thiên về khuynh hướng như vậy, ngay cả với oai lực của bản thể Pháp thuộc Pháp thâm sau và sự quán xét lại.
Apica brahmunā yācite desetukāmatāyapissa evaṃ cittaṃ nami. Jānāti hi bhagavā — “mama appossukkatāya citte namamāne maṃ mahābrahmā dhammadesanaṃ[131] yācissati, ime ca sattā brahmagarukā, te ‘satthā kira dhammaṃ na desetukāmo ahosi, atha naṃ mahābrahmā yācitvā desāpesi, santo vata bho dhammo, paṇīto vata bho dhammo’ti maññamānā sussūsissantī”ti. imampissa kāraṇaṃ paṭicca appossukkatāya cittaṃ nami, no dhammadesanāyāti veditabbaṃ.
Và hơn nữa, khi Phạm Thiên thỉnh cầu thì tâm của ngài đã thiên về khuynh hướng như thế này, bởi có ý muốn sẽ thuyết giảng Giáo Pháp. Thật vậy, đức Thế Tôn biết rằng – “Khi tâm của ngài đã thiên về khuynh hướng thụ động, Đại Phạm thiên thỉnh cầu ta thuyết Pháp. Vì những chúng sanh này có lòng tôn kính Phạm thiên, khi biết được tin bậc Đạo Sư không có mong muốn thuyết giảng Giáo Pháp đến chúng ta, khi đó Đại Phạm thiên đã thỉnh cầu ngài thuyết giảng rằng: ‘kính bạch ngài, Pháp này quả thật an tịnh, Pháp này quả thật tinh lương, hãy chú ý lắng nghe thật khéo léo, dựa trên điều kiện này nên biết rằng tâm của ngài đã thiên về khuynh hướng không năng động, không thiên về việc thuyết giảng Giáo Pháp.
- Aññatarassāti ettha kiñcāpi “aññataro”ti vuttaṃ, atha kho imasmiṃ cakkavāḷe jeṭṭhakamahābrahmā esoti veditabbo. Nassati vata bho lokoti so kira imaṃ saddaṃ tathā nicchāresi, yathā dasasahassilokadhātubrahmāno sutvā sabbe sannipatiṃsu. Yatra hi nāmāti yasmiṃ nāma loke. Purato pāturahosīti tehi dasahi brahmasahassehi saddhiṃ pāturahosi. Apparajakkhajātikāti paññāmaye akkhimhi appaṃ parittaṃ rāgadosamoharajaṃ etesaṃ, evaṃ sabhāvāti apparajakkhajātikā. Assavanatāti assavanatāya. Bhavissantīti purimabuddhesu dasapuññakiriyavatthuvasena katādhikārā paripākagatā padumāni viya sūriyarasmisamphassaṃ, dhammadesanaṃyeva ākaṅkhamānā catuppadikagāthāvasāne ariyabhūmiṃ okkamanārahā na eko, na dve, anekasatasahassā dhammassa aññātāro bhavissantīti dasseti.
- Ở đây, ‘một vị’ ngài nói rằng ‘aññataro’ thật thế, dầu vậy cũng nên biết rằng: đó là Đại Phạm Thiên bậc cao cả trong thế giới này. Ôi, thế gian bị tiêu hoại mất! Được biết Đại Phạm Thiên ấy thốt lên lời này theo cách mà nhóm Phạm Thiên trong mười ngàn thế giới đã nghe, tất cả đều tụ hội lại. Yatra hi nāma: Ở thế giới tên gọi nào đó. Hiện ra ở phía trước mặt: Đại Phạm Thiên đã hiện ra cùng với mười ngàn Phạm Thiên ấy. có mắt ít bị vấy bụi: bụi là ái luyến, sân hận và si mê; ít ỏi là chút ít trong con mắt thành tựu do tuệ, thực tính như vậy của những chúng sanh ấy tồn tại, (do đó) những chúng sanh này được gọi là có mắt ít bị vấy bụi. Do việc không nghe: do việc không nghe. Sẽ có: ngài chỉ ra rằng: tất cả chúng sanh có hành động hướng thượng đã được thực hiện đến chư Phật quá khứ bởi tác động về nền tảng của mười thiện hạnh chỉ hy vọng Pháp thoại cũng giống như hoa sen hy vọng ánh mặt trời, là vị xứng đáng nhập vào địa phận của các bậc Thánh nhân, khi kết thúc bốn câu kệ không phải một người, hai người, (mà) có nhiều trăm ngàn (người) sẽ là người biết Pháp.
- Ajjhesananti evaṃ tikkhattuṃ yācanaṃ. Buddhacakkhunāti indriyaparopariyattañāṇena ca āsayānusayañāṇena ca. Imesañhi dvinnaṃ ñāṇānaṃ “buddhacakkhū”ti nāmaṃ, sabbaññutaññāṇassa “samantacakkhū”ti, tiṇṇaṃ maggañāṇānaṃ “dhammacakkhū”ti. Apparajakkhetiādīsu yesaṃ vuttanayeneva paññācakkhumhi rāgādirajaṃ appaṃ, te apparajakkhā. Yesaṃ taṃ mahantaṃ, te mahārajakkhā. Yesaṃ saddhādīni indriyāni tikkhāni, te tikkhindriyā. Yesaṃ tāni mudūni, te mudindriyā. Yesaṃ teyeva saddhādayo ākārā sundarā, te svākārā. Ye kathitakāraṇaṃ sallakkhenti, sukhena sakkā honti viññāpetuṃ, te suviññāpayā. Ye paralokañceva vajjañca bhayato passanti, te paralokavajjabhayadassāvino nāma.
- Việc thỉnh mời: khẩn cầu như vậy ba lần. Phật nhãn: với trí biết được khả năng của người khác về các quyền’ và ‘với trí về thiên kiến và xu hướng ngủ ngầm’. Thật vậy, ‘với Phật nhãn’ là tên gọi của 2 loại trí tuệ này, “Toàn Nhãn” là tên gọi của Trí Toàn Giác, “Pháp nhãn” là tên gọi của 3 Trí về Đạo. Các chúng sanh ít nhiễm bụi đời v.v, những chúng sanh nào ít nhiễm bụi đời có ái luyến, v.v. trong con mắt trí tuệ theo phương thức đã đề cập, những chúng sanh đó được gọi là ít nhiễm bụi đời. Chúng sanh nào nhiễm nhiều bụi đời có ái luyến như vậy, chúng sanh đó được gọi là nhiều nhiễm bụi đời. Chúng sanh nào có các quyền là đức tin v.v, sắc bén, những chúng sanh đó được gọi là các quyền sắc bén. Những chúng sanh nào có các quyền yếu kém, những chúng sanh đó được gọi là các quyền cùn lụt. Chúng sanh nào có tánh khí có đức tin v.v, những chúng sanh đó được gọi là có tánh khí tốt. Những chúng sanh nào biết nguyên nhân để thuyết, có thể nhận biết dễ dàng, những chúng sanh đó được gọi là có thể hiểu được một cách nhanh chóng. Những chúng sanh nào nhìn thấy nỗi sợ hãi phải tái sanh vào những kiếp sống khác và nỗi sợ hãi trong tội lỗi, những chúng sanh đó gọi là có sự nhìn thấy nỗi sợ hãi trong tội lỗi và sự tái sanh vào những đời sống khác.
Ayaṃ panettha pāḷi — “Saddho puggalo apparajakkho, assaddho puggalo mahārajakkho…. āraddhavīriyo … pe … kusīto… upaṭṭhitassati… muṭṭhassati… samāhito… asamāhito… paññavā… duppañño puggalo mahārajakkho. Tathā saddho puggalo tikkhindriyo … pe … paññavā puggalo paralokavajjabhayadassāvī, duppañño puggalo na paralokavajjabhayadassāvī. Lokoti khandhaloko, dhātuloko, āyatanaloko, sampattibhavaloko, vipattibhavaloko, sampattisambhavaloko, vipattisambhavaloko. Eko loko — sabbe sattā āhāraṭṭhitikā. Dve lokā — nāmañca rūpañca. Tayo lokā — tisso vedanā. Cattāro lokā — cattāro āhārā. Pañca lokā — pañcupādānakkhandhā. Cha lokā — cha ajjhattikāni āyatanāni. Satta lokā — satta viññāṇaṭṭhitiyo. Aṭṭha lokā — aṭṭha lokadhammā. Nava lokā — nava sattāvāsā. Dasa lokā — dasāyatanāni. Dvādasa lokā — dvādasāyatanāni. aṭṭhārasa lokā — aṭṭhārasa dhātuyo. Vajjanti sabbe kilesā vajjaṃ, sabbe duccaritā vajjaṃ, sabbe abhisaṅkhārā vajjaṃ, sabbe bhavagāmikammā[132] vajjaṃ. iti imasmiñca loke imasmiñca vajje tibbā bhayasaññā paccupaṭṭhitā hoti, seyyathāpi ukkhittāsike vadhake . imehi paññāsāya ākārehi imāni pañcindriyāni jānāti passati aññāti paṭivijjhati, idaṃ tathāgatassa indriyaparopariyatte ñāṇan”ti.[133]
Hơn nữa, ở đây điều này có Pāḷī như sau – “Người có đức tin có ít bụi bẩn trong mắt là có mắt bị vấy bụi ít, người không có đức tin là có nhiều bụi bẩn trong mắt. Người có sự cố gắng tinh tấn (có mắt bị vấy bụi ít), người biếng nhác (có mắt bị vấy bụi nhiều), Người có niệm được thiết lập (có mắt bị vấy bụi ít), người có niệm bị quên lãng (có mắt bị vấy bụi nhiều). Người định tĩnh (có mắt bị vấy bụi ít), người không được định tĩnh (có mắt bị vấy bụi nhiều). Người có tuệ sắc bén (có mắt bị vấy bụi ít), người có tuệ cùn lụt là có mắt bị vấy bụi nhiều. Ở đó, hạng người có đức tin như thế gọi là có quyền sắc bén (chín muồi)…nt…người có tuệ gọi là người thấy được sự sợ hãi ở tội lỗi và sự tái sanh vào những đời sống khác, người có trí tuệ cùn lụt là người không thấy được sự sợ hãi ở tội lỗi và sự tái sanh vào những đời sống khác. Thế giới là thế giới của các uẩn, thế giới của các xứ, thế giới của các xứ, thế giới của các giới, thế giới có sự thuận lợi, thế giới đem lại sự thuận lợi, thế giới có sự bất hạnh, thế giới đem lại sự bất hạnh, một thế giới là tất cả chúng sanh được tồn tại nhờ vật thực. Hai thế giới là danh và sắc. Ba thế giới là ba thọ. Bốn thế giới là tứ thực. Năm thế giới là ngũ thủ uẩn. Sáu thế giới là sáu nội xứ. Bảy thế giới là bảy trụ xứ của thức. Tám thế giới là tám pháp thế gian. Chính thế giới là chín trú xứ của chúng sanh. Mười thế giới là 10 xứ-āyatana. Mười hai thế giới là mười hai xứ-āyatana. Mười tám thế giới là 18 giới-dhātu. Tội lỗi: tất cả các ô nhiễm là tội lỗi, tất cả ác hạnh là tội lỗi, tất cả các thắng hành là tội lỗi, tất cả nghiệp làm nhân đưa đến các hữu là tội lỗi. Như thế, tưởng đến sự kinh hãi sắc bén về thế giới này và về tội lỗi này đã được đề cập, cũng giống như (tưởng đến sự kinh hãi) về cuộc chém giết có thanh gươm đã được vung lên. Như thế, tưởng đến thế giới này và tội lỗi này về sự kinh hãi sắc bén đã được đề cập, cũng giống như về cuộc chém giết có thanh gươm đã được vung lên. Đức Như Lai biết được, thấy được, biết trọn vẹn, thấu triệt năm quyền này thông qua năm mươi biểu hiện này. Đây là trí biết được khả năng của người khác của các đức Như Lai.
Uppaliniyanti uppalavane. itaresupi eseva nayo. Antonimuggaposīnīti yāni aññānipi padumāni antonimuggāneva posayanti. Udakaṃ accuggamma ṭhitānīti[134] udakaṃ atikkamitvā ṭhitāni[135]. Tattha yāni accuggamma ṭhitāni, tāni sūriyarasmisamphassaṃ āgamayamānāni ṭhitāni ajja pupphanakāni. Yāni samodakaṃ ṭhitāni, tāni sve pupphanakāni. Yāni udakānuggatāni antoudakaposīni, tāni tatiyadivase pupphanakāni. Udakā pana anuggatāni aññānipi saroja[136] uppalādīni nāma atthi, yāni neva pupphissanti, macchakacchapabhakkhāneva bhavissanti, tāni pāḷiṃ nārūḷhāni. Āharitvā pana dīpetabbānīti dīpitāni[137]. Yatheva hi tāni catubbidhāni pupphāni, evameva ugghaṭitaññū, vipañcitaññū, neyyo, padaparamoti cattāro puggalā. Tattha yassa puggalassa saha udāhaṭavelāya dhammābhisamayo hoti, ayaṃ vuccati puggalo ugghaṭitaññū. Yassa puggalassa saṅkhittena bhāsitassa vitthārena atthe vibhajiyamāne dhammābhisamayo hoti, ayaṃ vuccati puggalo vipañcitaññū. Yassa puggalassa uddesato paripucchato yonisomanasikaroto kalyāṇamitte sevato bhajato payirupāsato anupubbena dhammābhisamayo hoti, ayaṃ vuccati puggalo neyyo. Yassa puggalassa bahumpi suṇato bahumpi bhaṇato bahumpi gaṇhato bahumpi dhārayato bahumpi vācayato na tāya jātiyā dhammābhisamayo hoti, ayaṃ vuccati puggalo padaparamo.[138]
Ở hồ sen xanh: Trong hồ sen xanh. Cả những từ còn lại cũng theo phương thức này tương tự. Được nuôi dưỡng chìm ở bên trong nước: cả những hoa sen khác bị chìm trong nước được nuôi lớn bởi nước. Được phát triển ở trong nước, vươn lên khỏi nước, đứng vững: Một số hoa sen đã vươn lên khỏi mặt nước, đứng vững. Bất kỳ loại hoa sen nào trong số những hoa sen này nhô lên khỏi mặt nước, đứng vững chờ đợi tiếp xúc với ánh nắng mặt trời sẽ nở hoa vào hôm nay; những bông hoa nào nằm ngang mặt nước, chúng sẽ nở vào ngày mai; những bông hoa nào chìm bên trong nước được nuôi dưỡng bởi nước sẽ nở hoa vào ngày thứ 3. Tuy nhiên vẫn còn một số bông hoa khác bị bệnh không thể nhô lên khỏi mặt nước v.v, những bông hoa nào không nở, (những bông hoa đó) sẽ là thức ăn cho cá và rùa. Những hoa sen ấy không nên đem vào Pāḷī cũng đã trình bày rõ ràng rồi. Thật vậy, hoa sen có bốn loại như thế nào, hạng người cũng có bốn nhóm cũng tương tự như thế ấy là – (1) người hiểu khi được nói ngắn gọn (ugghaṭitaññū), (2) người hiểu khi được nói đầy đủ (vipañcitaññū), (3) người cần được dẫn dắt (neyyo), và (4) padaparamo (chỉ giỏi về chữ nghĩa, mà không thể làm gì nhiều hơn nữa) cũng tương tự như thế. Ở đó, “hạng người nào chứng ngộ Pháp cùng với thời gian nêu ra đầu đề Pháp thì hạng người đó gọi là người hiểu khi được nói ngắn gọn (ugghaṭitaññū). Hạng người nào chứng ngộ Pháp khi Ngài phân tích ý nghĩa của lời nói vắn tắt thành chi tiết, hạng người đó gọi là người hiểu khi được nói đầy đủ (vipañcitaññū). Hạng người nào tác ý đúng đắn cả ghi nhớ lẫn phần giải thích kết bạn thân cận gần gũi với thiện bạn hữu mới giác ngộ Pháp, hạng người đó gọi là người cần được dẫn dắt (neyyo). Hạng người nào nghe nhiều, hoặc nói nhiều, ghi nhớ nhiều, hoặc học nhiều vẫn không thể chứng ngộ Pháp trong kiếp sống này đấy, hạng người này gọi là padaparamo.”
Tattha bhagavā uppalavanādisadisaṃ dasasahassilokadhātuṃ olokento — “ajja pupphanakāni viya ugghaṭitaññū, sve pupphanakāni viya vipañcitaññū, tatiyadivase pupphanakāni viya neyyo, macchakacchapabhakkhāni viya padaparamo”ti addasa. passanto ca — “ettakā apparajakkhā, ettakā mahārajakkhā. Tatrāpi ettakā ugghaṭitaññū”ti evaṃ sabbākārato addasa. Tattha tiṇṇaṃ puggalānaṃ imasmiṃyeva attabhāve bhagavato dhammadesanā atthaṃ sādheti, padaparamānaṃ anāgate vāsanatthāya hoti[139].
Ở đó, đức Thế Tôm trong khi quan sát mười ngàn thế giới giống như những hoa sen v.v, Ngài thấy rằng: “người hiểu khi được nói ngắn gọn (ugghaṭitaññū) tương tự y như hoa nở trong ngày hôm nay. Người hiểu khi được nói đầy đủ (vipañcitaññū) tương tự y như bông hoa nở vào ngày mai. Người cần được dẫn dắt (neyyo) giống như bông hoa nở vào ngày thứ ba, padaparamo giống như bông hoa làm thức ăn của cá và rùa.” Đức Thế Tôn khi quan sát đã thấy ở mọi phương diện như vậy “chúng sanh chừng ấy có mắt bị vấy bụi ít, chúng sanh chừng ấy có mắt bị vấy bụi nhiều, thậm chí trong số những chúng sanh ấy thì nhóm người hiểu khi được nói ngắn gọn có chừng ấy”. Trong bốn nhóm ấy việc thuyết giảng Giáo Pháp của đức Thế Tôn thành tựu lợi ích cho ba hạng người trong bản ngã này. Còn đối với hạng Padaparamo có may mắn vì lợi ích trong thời vị lai.
Atha bhagavā imesaṃ catunnaṃ puggalānaṃ atthāvahaṃ dhammadesanaṃ viditvā desetukamyataṃ uppādetvā puna te sabbesupi tīsu bhavesu sabbe satte bhabbābhabbavasena dve koṭṭhāse akāsi. Ye sandhāya vuttaṃ — “Ye te sattā kammāvaraṇena samannāgatā, vipākāvaraṇena samannāgatā, kilesāvaraṇena samannāgatā, assaddhā acchandikā duppaññā abhabbā niyāmaṃ okkamituṃ kusalesu dhammesu sammattaṃ, ime te sattā abhabbā. Katame sattā bhabbā? Ye te sattā na kammāvaraṇena … pe …ime te sattā bhabbā”ti (vibha. 827; paṭi. ma. 1.114).
Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn đã tuyên bố Pháp thoại sẽ mang lại lợi ích cho cả bốn nhóm người, những nhóm người này khiến ý định (thuyết giảng Giáo Pháp) sanh khởi, ngài đã phân loại tất cả chúng sanh trong ba cõi thành 2 nhóm là hạng người có khả năng (chứng đắc Đạo Quả trong kiếp hiện tại) và hạng người không có khả năng (chứng đắc Đạo Quả trong kiếp hiện tại). Chúng sanh ngài muốn đề cập đến là – “Những chúng sanh nào có sự chướng ngại do nghiệp, có sự chướng ngại do quả thành tựu (của nghiệp), có sự chướng ngại do phiền não, không có đức tin, không có ước muốn, không có trí tuệ, không chắc chắn có khả năng nhập vào bản thể chơn chánh trong các thiện pháp, những chúng sanh đó được xem là không có khả năng. Chúng sanh nào có khả năng? Những chúng sanh nào không có sự chướng ngại do nghiệp…nt…những chúng sanh đó được xem là có khả năng.”[140]
Tattha sabbepi abhabbapuggale pahāya bhabbapuggaleyeva ñāṇena pariggahetvā — “ettakā rāgacaritā, ettakā dosamohavitakkasaddhābuddhicaritā”ti cha koṭṭhāse akāsi. Evaṃ katvā — “Dhammaṃ desessāmī”ti cintesi. Brahmā taṃ ñatvā somanassajāto bhagavantaṃ gāthāhi ajjhabhāsi. idaṃ sandhāya — “atha kho so, bhikkhave, mahābrahmā”ti[141]ādi vuttaṃ.
Ở đó, đức Thế Tôn loại bỏ toàn bộ những chúng sanh không có khả năng sau khi quan sát bằng trí tuệ, chỉ duy nhất hạng người có khả năng, chia thành sáu 6 nhóm là: “chừng ấy người có tánh ái luyến, chừng ấy người có tánh sân, chừng ấy người có tánh si, chừng ấy người có tánh tầm, tánh đức tin và tánh giác.” Sau khi chia ra như vậy, ngài suy nghĩ rằng: “Ta sẽ thuyết giảng Giáo Pháp.” Bà-la-môn khi biết được điều ấy khởi tâm hoan hỷ đã nói cùng đức Thế Tôn các câu kệ. Đức Thế Tôn đã nỏi rằng: “Khi ấy, này các tỳ khưu, vị Đại Phạm Thiên ấy…”
- Tattha ajjhabhāsīti adhiabhāsi, adhikicca ārabbha abhāsīti attho. Sele yathā pabbatamuddhaniṭṭhitoti selamaye ekagghane pabbatamuddhani yathāṭhitova, na hi tattha ṭhitassa dassanatthaṃ gīvukkhipanapasāraṇādikiccaṃ atthi. Tathūpamanti tappaṭibhāgaṃ selapabbatūpamaṃ. Ayaṃ panettha saṅkhepattho, yathā selapabbatamuddhani yathāṭhitova cakkhumā puriso samantato janataṃ passeyya, tathā tvampi sumedha sundarapañña[142]sabbaññutaññāṇena samantacakkhu bhagavā dhammamayaṃ paññāmayaṃ pāsādamāruyha sayaṃ apetasoko sokāvatiṇṇaṃ jātijarābhibhūtaṃ janataṃ apekkhassu, upadhāraya upaparikkha.
- Trong câu đó ‘ajjhabhāsi’ tách từ thành adhi abhāsi, có nghĩa là đã nói mở lối phận sự vượt trội hơn. Giống như người đứng trên tảng đá ở đỉnh đầu của ngọn núi: Giống như người đứng trên tảng đá ở đỉnh đầu của ngọn núi, thật vậy khi đứng trên đỉnh đầu của ngọn núi không có phận sự v.v, rằng nâng lên và vươn cổ để nhìn. Tương tự như thế ấy: So sánh với điều đó, tức là so sánh đỉnh núi đá. Ở đây, điều này có ý nghĩa vắn tắt, giống như một người sáng mắt đứng trên tảng đá ở đỉnh của ngọn núi có thể nhìn thấy những người xung mình như thế nào; Tương tự như thế ấy, hỡi bậc trí, đức Thế Tôn là vị có trí tuệ tốt đẹp, có tuệ khéo léo, Toàn Nhãn với Trí Toàn Tri cũng như thế đó. Ngài hãy bước lên tòa lâu đài được xây bằng Giáo Pháp, bằng trí tuệ, là vị tự mình thoát khỏi sự sầu khổ, sư cân nhắc, sự xem xét nhân loại bị đắm chìm trong sầu khổ, bị hành hạ bởi sự sanh và sự già.
Ayamettha adhippāyo — yathā hi pabbatapāde samantā mahantaṃ khettaṃ katvā tattha kedārapāḷīsu kuṭikāyo katvā rattiṃ aggiṃ jāleyyuṃ. Caturaṅgasamannāgatañca andhakāraṃ assa. athassa pabbatassa matthake ṭhatvā cakkhumato purisassa bhūmiṃ olokayato neva khettaṃ, na kedārapāḷiyo, na kuṭiyo, na tattha sayitamanussā paññāyeyyuṃ, kuṭikāsu pana aggijālamattameva paññāyeyya. Evaṃ dhammapāsādamāruyha sattanikāyaṃ olokayato tathāgatassa ye te akatakalyāṇā sattā, te ekavihāre dakkhiṇajāṇupasse nisinnāpi buddhacakkhussa āpāthaṃ nāgacchanti, rattiṃ khittasarā viya honti. Ye pana katakalyāṇā veneyyapuggalā, te tassa dūre ṭhitāpi āpāthaṃ āgacchanti, so aggi viya himavantapabbato viya ca. vuttampi cetaṃ —
“Dūre santo pakāsenti, himavantova pabbato.
Asantettha na dissanti, rattiṃ khittā yathā sarā”ti.[143]
Ở đây, điều này được giải thích như vầy – giống như những người nông dân làm ruộng ở cánh đồng to lớn xung quanh chân núi, đã dựng một túp lều trong rãnh đất thích hợp canh tác, ở đó được thắp một ngọn lửa vào ban đêm. Và (nói đó) có bóng tối hội đủ với bốn yếu tố, khi ấy người có mắt sáng đứng trên đỉnh núi nhìn xuống dưới thì cánh đồng không hiện hữu, rãnh đất cũng không hiện hữu, túp lều cũng không hiện hữu, những người nằm bên trong đó cũng không hiện hữu, chỉ xuất hiện ánh sáng trong túp lều như thế nào; cũng tương tự như thế ấy khi đấng Như Lai bước lên tòa lâu đài được xây bằng Giáo Pháp, quan sát những chúng sanh đã không tạo nghiệp thiện dầu có ngồi cạnh mắt cá chân bên phải, ở trong cùng tịnh xá cũng không lọt vào tầm mắt của đức Phật, giống như bắn cây cung vào ban đêm; Còn đối với chúng sanh hữu tình đã tạo nghiệp thiện dầu ở xa đấng Như Lai ấy cũng lọt vào tầm mắt của đức Phật, giống như ngọn lửa và giống như núi tuyết Hy-mã-lạp đó, điều này như đã được nói trong kệ ngôn sau:
“Những người tốt tỏa sáng ở nơi xa, ví như núi Hy-mã-lạp. Những kẻ xấu ở đây (vẫn) không được nhìn thấy, giống như những mũi tên được bắn ra vào ban đêm.”
Uṭṭhehīti bhagavato dhammadesanatthaṃ cārikacaraṇaṃ yācanto bhaṇati. Vīrātiādīsu bhagavā vīriyavantatāya vīro, devaputtamaccukilesamārānaṃ vijitattā vijitasaṅgāmo, jātikantarādinittharaṇatthāya veneyyasatthavāhanasamatthatāya satthavāho, kāmacchandaiṇassa abhāvato aṇaṇoti veditabbo.
Xin Ngài hãy đứng lên: Khi Phạm thiên thỉnh cầu đức Thế Tôn du hành nhằm mục đích thuyết giảng Giáo Pháp. Nên biết rằng: vị anh hùng v.v, đức Thế Tôn gọi là vị anh hùng bởi vì ngài có sự thực hành tinh tấn. Gọi là vị đã chiến thắng trong cuộc chiến bởi vì ngài đã đánh bại Thiên tử Ma vương, Tử thần Ma vương và phiền não Ma vương; gọi là người hướng dẫn đoàn xe bởi vì ngài có thể lãnh đạo dẫn dắt chúng sanh vượt qua khỏi kiếp sống (sanh tử), v.v. gọi là người không mắc nợ bởi vì không vướng nợ đời là sự ước muốn dục lạc.
- Apārutāti vivaṭā. Amatassa dvārāti ariyamaggo. So hi amatasaṅkhātassa nibbānassa dvāraṃ. so mayā vivaritvā ṭhapitoti dasseti. Pamuñcantu saddhanti sabbe attano saddhaṃ pamuñcantu vissajjentu. Pacchimapadadvaye ayamattho, ahañhi attano paguṇaṃ suppavattitampi imaṃ paṇītaṃ uttamaṃ dhammaṃ kāyavācākilamathasaññī hutvā na bhāsiṃ, idāni pana sabbe janā saddhābhājanaṃ upanentu, pūressāmi tesaṃ saṅkappanti.
- Apārutā đồng nghĩa với vivaṭā (đã được mở ra). Các cánh cửa bất tử: Thánh Đạo. Đức Thế Tôn đã thuyết rằng: thật vậy Thánh Đạo ấy là cánh cửa của Niết bàn, được gọi là Pháp Bất Tử, Thánh Đạo là cánh cửa của Nibbbāna ấy đã dược ta mở ra rồi. Pamuñcantu saddha (hãy cởi trói niềm tin): Những ai có tai nghe hãy từ bỏ, hãy cởi trói niềm tin của chính mình. Ở hai câu sau có ý nghĩa rằng – bởi vì ta là người có suy nghĩ về sự nhọc nhằn của thân và khẩu nên đã không thuyết giảng Giáo Pháp cao quý tuyệt vời này, mà bản thân đã thực hiện rành rẽ, vận hành suông sẽ, còn bây giờ mọi người hãy mang lại vật chứa đựng là niềm tin vào, ta sẽ làm cho suy tư của những người đó được tròn đủ.
Giảng Giải Về Các Vị Đệ Tử Hàng Đầu
- Bodhirukkhamūleti bodhirukkhassa avidūre ajapālanigrodhe antarahitoti attho. Kheme migadāyeti isipatanaṃ tena samayena khemaṃ nāma uyyānaṃ hoti, migānaṃ pana abhayavāsatthāya dinnattā migadāyoti vuccati. Taṃ sandhāya vuttaṃ — “kheme migadāye”ti. Yathā ca vipassī bhagavā, evaṃ aññepi buddhā paṭhamaṃ dhammadesanatthāya gacchantā ākāsena gantvā tattheva otaranti. Amhākaṃ pana bhagavā upakassa ājīvakassa upanissayaṃ disvā — “Upako imaṃ addhānaṃ paṭipanno, so maṃ disvā sallapitvā gamissati. atha puna nibbindanto āgamma arahattaṃ sacchikarissatī”ti ñatvā aṭṭhārasayojanamaggaṃ padasāva agamāsi. Dāyapālaṃ āmantesīti disvāva punappunaṃ oloketvā — “Ayyo no, bhante, āgato”ti vatvā upagataṃ āmantesi.
- Ở cội cây Bồ-đề: Đức Thế Tôn hồng danh Vippassī đã biến mất ở cây đa của người chăn dê không xa cội cây Bồ-đề. Tại vườn nai Khema: Isipatana, nơi vườn nai, vào lúc bấy giờ khu vườn tên là Khema, nơi ấy được gọi là vườn nai bởi vì là nơi được ngài ban cho sự an toàn đến các loài thú. Ngài nói rằng: “Tại vườn nai” để đề cập đến khu vườn đó. Và luôn cả những vị Phật khác cũng giống như đức Thế Tôn Vipassī đi để thuyết giảng Giáo Pháp lần đầu tiên đã đi bằng đường không trung rồi hạ xuống tại nơi đó tương tự. Còn đức Thế Tôn của chúng ta nhìn thấy nhân duyên của Upaka Jīvaka thì biết được rằng: “Upaka đi bằng con đường này, sau khi nhìn thấy ta sẽ đàm luận cùng ta rồi đi, tuy nhiên Upaka nhàm chán sẽ lại đến gặp ta, sẽ tác chứng quả vị A-ra-hán” đã đi bằng đôi chân trần hết quãng đường mười tám do-tuần. Đức Thế Tôn đã bảo người giữ vườn: đức Thế Tôn đã quan sát người giữ vườn nhiều lần, đã bảo đến gần rồi nói rằng: “Hãy đến…nói với Khaṇḍa, con trai đức vua, và Tissa, con trai viên quan tế tự rằng: ‘thưa các ngài, chủ nhân của chúng ta đã đến’”.
75-6. Anupubbiṃ kathanti dānakathaṃ, dānānantaraṃ sīlaṃ, sīlānantaraṃ saggaṃ, saggānantaraṃ magganti evaṃ anupaṭipāṭikathaṃ[144] kathesi. Tattha dānakathanti idaṃ dānaṃ nāma sukhānaṃ nidānaṃ, sampattīnaṃ mūlaṃ, bhogānaṃ patiṭṭhā, visamagatassa tāṇaṃ leṇaṃ gati parāyaṇaṃ, idhalokaparalokesu dānasadiso avassayo patiṭṭhā ārammaṇaṃ[145] tāṇaṃ leṇaṃ gati parāyaṇaṃ natthi. Idañhi avassayaṭṭhena ratanamayasīhāsanasadisaṃ, patiṭṭhānaṭṭhena mahāpathavīsadisaṃ, ārammaṇaṭṭhena[146] ālambanarajjusadisaṃ. Idañhi dukkhanittharaṇaṭṭhena nāvā, samassāsanaṭṭhena saṅgāmasūro, bhayaparittāṇaṭṭhena susaṅkhatanagaraṃ, maccheramalādīhi anupalittaṭṭhena padumaṃ, tesaṃ nidahanaṭṭhena aggi, durāsadaṭṭhena āsīviso, asantāsanaṭṭhena sīho, balavantaṭṭhena hatthī, abhimaṅgalasammataṭṭhena setausabho, khemantabhūmisampāpanaṭṭhena valāhakāssarājā. dānañhi loke sakkasampattiṃ mārasampattiṃ brahmasampattiṃ cakkavattisampattiṃ sāvakapāramiñāṇaṃ paccekabodhiñāṇaṃ abhisambodhiñāṇaṃ detīti evamādidānaguṇapaṭisaṃyuttaṃ kathaṃ.
- (Đức Thế Tôn) đã thuyết Pháp theo thứ lớp đến họ: đức Thế Tôn thuyết Pháp theo tuần tự như vậy, là bài thuyết về bố thí, giới thứ tự từ bố thí, cõi trời thứ tự từ giới, lỗi lầm của tất cả các dục thứ tự từ cõi trời. Trong tuần tự Pháp ấy bài thuyết về bố thí: là lời nói tương ưng với ân đức của sự bố thí v.v, gọi là bố thí này (bởi vì) làm nhân của mọi sự an lạc, là gốc của mọi sự thành tựu, là nơi thiết lập sự thành tựu tất cả loại tài sản, là nơi bảo hộ, là nơi bảo vệ, là nơi an toàn, là nơi để đi, là nơi tiến về phía trước của người đi trên con đường không bằng phẳng; không có nơi nương tựa, nơi nâng đỡ, chỗ treo lên, nơi bảo hộ, chỗ để đi, chỗ tiến về phía trước, như là bố thí ở trong đời này và đời sau. Bởi sự bố thí này tựa như chỗ ngồi hình sư tử được làm bằng đá quý với ý nghĩa nơi nương tựa, giống như đại địa cầu với ý nghĩa nâng đỡ, giống như sợi dây thừng với ý nghĩa treo lên. Thật vậy, bố thí giống như chiếc thuyền với ý nghĩa vượt qua khổ đau. Giống như (người chiến sĩ) dũng mãnh ở chiến trường với ý nghĩa làm cho an lòng, giống như thành phố khéo được hoàn thiện với ý nghĩa ngăn chặn khỏi sự sợ hãi, giống như hoa sen bởi ý nghĩa những thứ dơ bẩn (bùn lầy), là sự keo kiệt v.v, không thể thâm nhập. Trong giống như ngọn lửa với ý nghĩa thiêu đốt các cấu uế. Trông giống như con rắn độc với ý nghĩa khó đến gần. Giống như sư tử chúa với ý nghĩa không sợ hãi khiếp đảm, giống như con voi với ý nghĩa có sức mạnh, giống như bò chúa Usabha với ý nghĩa ban phước lành cao thượng, giống như con ngựa chúa Valāhaka với ý nghĩa đưa đến đến vùng đất an toàn. Thật vậy, bố thí cho (quả) thành tựu địa vị Sakka ở thế gian, cho thành tựu địa vị Ma-vương, cho thành tựu địa vị Phạm thiên, cho thành tựu địa vị Chuyển luân vương, cho thành tựu trí tuệ ba-la-mật của một vị Thánh Thinh-văn, cho thành tựu trí giác ngộ của vị Phật-độc-giác, cho thành tựu trí giác ngộ của vị Toàn giác.
Yasmā pana dānaṃ dadanto sīlaṃ samādātuṃ sakkoti, tasmā tadanantaraṃ sīlakathaṃ kathesi. sīlakathanti sīlaṃ nāmetaṃ avassayo patiṭṭhā ārammaṇaṃ tāṇaṃ leṇaṃ gati parāyaṇaṃ. Idhalokaparalokasampattīnañhi sīlasadiso avassayo patiṭṭhā[147] ārammaṇaṃ tāṇaṃ leṇaṃ gati parāyaṇaṃ natthi, sīlasadiso alaṅkāro natthi, sīlapupphasadisaṃ pupphaṃ natthi, sīlagandhasadiso gandho natthi, sīlālaṅkārena hi alaṅkataṃ sīlakusumapiḷandhanaṃ sīlagandhānulittaṃ sadevakopi loko olokento tittiṃ na gacchatīti evamādisīlaguṇapaṭisaṃyuttaṃ kathaṃ.
Hơn nữa, hạng người trong khi bố thí có thể thọ trì giới, vì thế đức Thế Tôn đã nói bài thuyết về trì giới theo thứ tự từ bố thí ấy. Bài thuyết về trì giới: là bài thuyết liên quan đến ân đức của giới, giới này là chỗ nương tựa, chỗ nâng đỡ, làm đối tượng, nơi trú ẩn, nơi nương nhờ, là sự đi, là đích đến. Thật vậy không có nơi nương nhờ (nào khác dẫn đến) thành tựu ở đời này và cả đời sau, không có chỗ nương tựa, chỗ nâng đỡ, làm đối tượng, chỗ trú ẩn, chỗ nương nhờ, là sự đi, là đích đến như giới. Không có đồ trang sức (nào khác) giống như đồ trang sức của giới, không có tràng hoa (nào khác) giống như tràng hoa của giới, không có hương thơm (nào khác) giống như hương thơm của giới, thế giới (nhân loại) cùng với thế giới chư thiên khi quan sát người được trang điểm bằng vật trang điểm là giới, trang điểm bằng những tràng hoa là giới, thoa bằng các mùi hương là giới vẫn không cảm thấy no đủ.
Idaṃ pana sīlaṃ nissāya ayaṃ saggo labbhatīti dassetuṃ sīlānantaraṃ saggakathaṃ kathesi. saggakathanti ayaṃ saggo nāma iṭṭho kanto manāpo, niccamettha kīḷā, niccaṃ sampattiyo labbhanti, cātumahārājikā devā navutivassasatasahassāni dibbasukhaṃ dibbasampattiṃ paṭilabhanti, tāvatiṃsā tisso ca vassakoṭiyo saṭṭhi ca vassasatasahassānīti evamādisaggaguṇapaṭisaṃyuttaṃ kathaṃ. Saggasampattiṃ kathayantānañhi buddhānaṃ mukhaṃ nappahoti. Vuttampi cetaṃ — “anekapariyāyena kho ahaṃ, bhikkhave, saggakathaṃ katheyyan”tiādi.[148]
Hơn nữa, để chỉ ra rằng (người) do nương vào giới sẽ đạt đến cõi trời này, ngài mới nói bài thuyết về cõi trời theo thứ từ từ giới ấy. Bài thuyết về cõi trời: bài thuyết liên quan đến ân đức cõi trời v.v, như vậy, cõi trời này đáng ước muốn, đáng mong muốn, đáng hài lòng, ở cõi trời ấy có sự vui thú là thường, có được sự thành tựu là thường, chư thiên cõi Tứ Thiên Vương thọ hưởng sự an lạc cõi trời và sự thành tựu ở thiên giới 9 triệu năm, chư Thiên cõi trời Đao Lợi (thọ hưởng sự an lạc cõi trời và sự thành tựu ở thiên giới) là 3 Koṭi với 6 triệu năm, miệng của chư Phật đang nói đến sự thành tựu cõi trời cũng không đủ. Và điều này cũng đã được đức Thế Tôn nói đến: “Này các tỳ khưu, ta có thể nói bài thuyết về cõi trời bằng nhiều cách thức v.v.”
Evaṃ saggakathāya palobhetvā puna hatthiṃ alaṅkaritvā tassa soṇḍaṃ chindanto viya — “ayampi saggo anicco addhuvo, na ettha chandarāgo kātabbo”ti dassanatthaṃ — “appassādā kāmā bahudukkhā bahupāyāsā, ādīnavo ettha bhiyyo”tiādinā[149] nayena kāmānaṃ ādīnavaṃ okāraṃ saṃkilesaṃ kathesi. tattha ādīnavoti doso. okāroti avakāro lāmakabhāvo. saṃkilesoti tehi sattānaṃ saṃsāre saṃkilissanaṃ. Yathāha — “kilissanti vata bho sattā”ti[150]. Evaṃ kāmādīnavena tejjatvā nekkhamme ānisaṃsaṃ pakāsesi, pabbajjāya guṇaṃ pakāsesīti attho. sesaṃ ambaṭṭhasuttavaṇṇanāyaṃ vuttanayañceva uttānatthañca.
Đức Thế Tôn khi dụ dỗ bằng bài thuyết về cõi trời này giống như sau khi trang điểm cho con voi rồi cắt đứt cái vòi của nó – “cõi trời này vô thường, không bền vững, không nên tạo sự ước muốn và ái luyến trong cõi trời ấy” thấy được lợi ích ngài đã nói về sự tai hại, sự thấp kém, sự ô nhiễm của các dục theo cách thức như sau: “Các dục đã được ta thuyết giảng chỉ có chút ít khoái lạc, nhiều khổ đau, nhiều ưu phiền, ở đó điều bất lợi còn nhiều hơn.” Ở đó, lỗi lầm: sự tại hại. Sự thấp kém: Thấp kém, thấp hèn. Sự ô nhiễm: sự ô nhiễm trong vòng luân hồi của tất cả chúng sanh do các dục vọng đó. Như đã nói “Này hiền giả, tất cả chúng sanh quả thật bị ô nhiễm.” Đức Thế Tôn đã đe dọa bằng sự tai hại của các dục, giảng giải lợi ích về việc xuất ly, có nghĩa là giảng giải về ân đức của việc xuất gia. Các câu còn lại đã được nói ở Chú Giải Kinh Ambaṭṭha và có nội dung đơn giản.
- Alatthunti kathaṃ alatthuṃ? Ehibhikkhubhāvena. bhagavā kira tesaṃ iddhimayapattacīvarassūpanissayaṃ olokento anekāsu jātīsu cīvaradānādīni disvā etha bhikkhavotiādimāha. Te tāvadeva bhaṇḍū kāsāyavasanā aṭṭhahi bhikkhuparikkhārehi sarīrapaṭimukkeheva vassasatikattherā viya bhagavantaṃ namassamānāva nisīdiṃsu.
- Đã đạt được (tu lên bậc trê): đã đạt được ra sao? Đã đạt được bản thể ‘Ehi bhikkhu – này tỳ khưu, hãy đến’. Được biết rằng đức Thế Tôn khi quan sát việc huân tập bình bát và y phục thành tựu nhờ thần thông đã nhìn thấy việc cúng dường y phục v.v, trong không ít kiếp sống của nhóm người này (đã tạo) nên đã nói lời bắt đầu rằng: “Này các tỳ khưu, hãy đến…” Họ lập tức có đầu được cạo trọc, đắp y casa, có đủ tám món vật phụ tùng của vị tỳ khưu, ngồi xuống đảnh lễ đức Thế Tôn như vị trưởng lão hai mươi hạ-lạp.
Sandassesītiādīsu idhalokatthaṃ sandassesi, paralokatthaṃ sandassesi. idhalokatthaṃ dassento aniccanti dassesi, dukkhanti dassesi, anattāti dassesi, khandhe dassesi, dhātuyo dassesi, āyatanāni dassesi, paṭiccasamuppādaṃ dassesi, rūpakkhandhassa udayaṃ dassento pañca lakkhaṇāni dassesi, tathā vedanākkhandhādīnaṃ, tathā vayaṃ dassentopi udayabbayavasena paññāsalakkhaṇāni dassesi, paralokatthaṃ dassento nirayaṃ dassesi, tiracchānayoniṃ, pettivisayaṃ, asurakāyaṃ, tiṇṇaṃ kusalānaṃ vipākaṃ, channaṃ devalokānaṃ, navannaṃ brahmalokānaṃ sampattiṃ dassesi.
Cho thấy rõ v.v, đức Thế Tôn đã chỉ ra lợi ích ở đời này và chỉ ra lợi ích ở đời sau. Trong khi thuyết về lợi ích ở đời này “thuyết về vô thường, thuyết về khổ, thuyết về vô ngã, thuyết về các uẩn, thuyết về giới-dhātu, thuyết về xứ-āyatana, thuyết về Lý Duyên Khởi, khi thuyết giảng sự sanh khởi của sắc uẩn thuyết đến năm trạng thái, khi thuyết sự hoại diệt của thọ uẩn v.v, cũng như thế, do đó, đức Thế Tôn thuyết năm mươi trạng thái do mạnh lực của sự sanh khởi và sự diệt tận. Khi thuyết đến lợi ích ở đời sau, thuyết đến địa ngục, thai bào của loài thú, ngạ quỷ, A-tu-la, kết quả của ba loại nghiệp thiện, sự thành tựu của sáu cõi trời (Dục giới), (sự thành tựu) chín Phạm Thiên giới.
Samādapesīti catupārisuddhisīla- terasadhutaṅga- dasakathāvatthuādike kalyāṇadhamme gaṇhāpesi. Samuttejesīti suṭṭhu uttejesi, abbhussāhesi. Idhalokatthañceva paralokatthañca tāsetvā tāsetvā adhigataṃ viya katvā kathesi. Dvattiṃsakammakāraṇa- pañcavīsatimahābhayapabhedañhi idhalokatthaṃ buddhe bhagavati tāsetvā tāsetvā kathayante pacchābāhaṃ, gāḷhabandhanaṃ bandhitvā cātumahāpathe pahārasatena tāḷetvā dakkhiṇadvārena niyyamāno viya āghātanabhaṇḍikāya ṭhapitasīso viya sūle uttāsito viya mattahatthinā maddiyamāno viya ca saṃviggo hoti. paralokatthañca kathayante nirayādīsu nibbatto viya devalokasampattiṃ anubhavamāno viya ca hoti.
Cho thọ trì: thọ trì Pháp thiện có Tứ Thanh Tịnh Giới, mười ba hạnh Đầu-đà, mười chuyện có ít (kathāvatthu). Đã khuyến khích: khéo động viên, tạo sự tinh tấn vượt trội. Đức Thế Tôn khiến hoảng hốt, khiến sợ hãi, lợi ích ở đời này và lợi ích ở đời sau, nói để thực hiện như thế đã chứng đắc. Khi đức Phật Thế Tôn khiến chúng sanh hoảng hốt, sợ hãi rồi thuyết đến lợi ích ở đời này có thể loại chẳng hạn ba mươi hai hình phạt và hai mươi lăm sự nguy hiểm lớn lao đã khiến sanh khởi sự hoảng hốt giống như bị trói tay ngoặt ra sau thật chặt rồi đánh một trăm roi ở ngã tư đường dẫn ra cổng phía Nam, giống như việc đặt đầu ở một cái chuông để hành quyết, giống như đâm qua ngọn giáo, giống như bị con voi động dục giẫm đạp. Và khi nói đến lợi ích đời sau thì giống như đoạ vào địa ngục v.v., và tựa như thọ hưởng sự thành tựu ở thế giới chư Thiên.
Sampahaṃsesīti paṭiladdhaguṇena codesi[151], mahānisaṃsaṃ katvā kathesīti attho. Saṅkhārānaṃ ādīnavanti heṭṭhā paṭhamamaggādhigamatthaṃ kāmānaṃ ādīnavaṃ kathesi, idha pana uparimaggādhigamatthaṃ — “aniccā, bhikkhave, saṅkhārā addhuvā anassāsikā, yāvañcidaṃ, bhikkhave, alameva sabbasaṅkhāresu nibbindituṃ alaṃ virajjituṃ alaṃ vimuccitun”tiādinā[152] nayena saṅkhārānaṃ ādīnavañca lāmakabhāvañca tappaccayañca kilamathaṃ pakāsesi. Yathā ca tattha nekkhamme, evamidha — “santamidaṃ, bhikkhave, nibbānaṃ nāma paṇītaṃ tāṇaṃ leṇan”tiādinā nayena nibbāne ānisaṃsaṃ pakāsesi.
Đã tạo niềm phấn khởi: tạo niềm phấn khởi bởi đức hạnh của mình, có nghĩa là nói để thực hiện được lợi ích lớn. Sự tai hại của các hành: Thuyết đến tai hại của các dục nhằm mục đích chứng đắc Sơ Đạo thấp, nhưng ở đây nhằm mục đích chứng đắc Đạo cao, ngài thuyết giảng tai hại của các hành, tính chất các hành thấp hèn, và sự chán ngán có các hành làm duyên theo phương cách như sau: “Này các tỳ khưu, các hành là vô thường, các hành là không có kiên cố, các hành là không an ổn, cho đến như vậy, này các tỳ khưu, là vừa đủ để nhàm chán, là vừa đủ để ly tham, là vừa đủ để giải thoát đối với tất cả hành.” Và ở đây, tương tự như trong sự xuất ly, điều này như vậy – (ngài) giảng giải lợi ích về Nibbāna theo phương cách sau: “Này chư tỳ khưu, điều này là có mặt, Nibbāna là cao quý, là nơi nương tựa, là nơi trú ẩn.”
Giảng Giải Việc Xuất Gia của Đại Chúng
- Mahājanakāyoti tesaṃyeva dvinnaṃ kumārānaṃ upaṭṭhākajanakāyoti.
- Bhagavantaṃ saraṇaṃ gacchāma, dhammañcāti saṅghassa aparipuṇṇattā dvevācikameva saraṇamagamaṃsu.
- Alatthunti pubbe vuttanayeneva ehibhikkhubhāveneva alatthuṃ. Ito anantare pabbajitavārepi eseva nayo.
- Đại chúng: đám đông là những người hầu cận của cả hai vị hoàng tử.
- Chúng con đây xin đi đến nương nhờ đức Thế Tôn, Giáo Pháp: Đại chúng đã đọc lên hai lần (đến nương nhờ đức Phật một lần, và đến nương nhờ Giáo Pháp một lần) làm nơi nương nhờ bởi vì vẫn chưa đầy đủ Tăng.
- Đã đạt được: đã được được bản thể (tu lên bậc trên) ‘ehibhikkhu, này các tỳ khưu hãy đến’ theo cách thức đã được nói ở đoạn trước. Ngay cả lúc thọ giới theo tuần tự từ đây cũng có cách thức này.
Giảng Giải Về Việc Cho Phép Để Du Hành
- Parivitakko udapādīti kadā udapādi? sambodhito satta saṃvaccharāni satta māse satta divase atikkamitvā udapādi. Bhagavā kira pitusaṅgahaṃ karonto vihāsi. rājāpi cintesi — “Mayhaṃ jeṭṭhaputto nikkhamitvā buddho jāto, dutiyaputto me nikkhamitvā aggasāvako jāto, purohitaputto dutiyāggasāvako, ime ca avasesā bhikkhū gihikālepi mayhaṃ puttameva parivāretvā vicariṃsu. Ime sabbe[153] idānipi mayhaṃyeva bhāro, ahameva ca ne catūhi paccayehi upaṭṭhahissāmi, aññesaṃ okāsaṃ na dassāmī”ti Vihāradvārakoṭṭhakato paṭṭhāya yāva rājagehadvārā ubhayato khadirapākāraṃ kārāpetvā kilañjehi chādāpetvā vatthehi paṭicchādāpetvā upari ca chādāpetvā suvaṇṇatārakavicittaṃ samolambitatālakkhandhamattaṃ vividhapupphadāmavitānaṃ kārāpetvā heṭṭhā bhūmiyaṃ cittattharaṇehi santharāpetvā anto ubhosu passesu mālāvacchake puṇṇaghaṭe, sakalamaggavāsatthāya ca gandhantare pupphāni pupphantare gandhe ca ṭhapāpetvā bhagavato kālaṃ ārocāpesi.
- Có ý nghĩ suy tầm như vầy đã khởi đến: Sự suy tầm khởi lên khi nào? Khởi lên khi đã trôi qua bảy năm bảy tháng bảy ngày từ việc giác ngộ. Được biết đức Thế Tôn đã sống trong khi thực hiện tiếp độ cha. Ngay cả đức vua cũng suy tư rằng: “Hoàng tử lớn của trẫm đã xuất gia trở thành Phật, hoàng tử thứ hai của trẫm đã xuất gia trở thành vị Đệ nhất Thinh văn, con trai của vị quan tế tự là vị Thánh Thinh văn thứ hai, và những vị tỳ khưu khác còn lại du hành khi còn là cư sĩ đã vây quanh hoàng tử của trẫm, những vị tỳ khưu này trước đây là gánh nặng của trẫm, kể cả lúc này cũng chính là gánh nặng của trẫm, trẫm sẽ phục vụ những vị ấy bằng bốn món vật dụng, trẫm không để cơ hội đến người khác.” Đức vua truyền lệnh cho xây dựng bức tường bằng gỗ sao đen ở cả hai bên bắt đầu từ cổng vòm lớn của tinh xá cho đến cổng thành Rājagaha phủ lên với một tấm thảm lợp bằng tấm vải và che đậy ở bên trên, cho làm trần nhà có nhiều loại bông hoa kích thước bằng một cây cọ, treo lơ lửng, trang trí với những ngôi sao vàng, bên dưới mặt đất là những tấm trải tuyệt đẹp, ra lệnh sắp xếp các loài hoa theo thứ tự hương thơm, và hương thơm theo thứ tự hoa cho đến khi đầy chậu nước, trong vườn hoa, ở hai bên phía trong, để toàn bộ nằm trên cùng một lối, sau đó ngài ra lệnh thông báo thời gian đến đức Thế Tôn.
Bhagavā bhikkhusaṅghaparivuto antosāṇiyāva rājagehaṃ gantvā bhattakiccaṃ katvā vihāraṃ paccāgacchati. añño koci daṭṭhumpi na labhati, kuto pana bhikkhaṃ vā dātuṃ, pūjaṃ vā kātuṃ, dhammaṃ vā sotuṃ. Nāgarā cintesuṃ — “ajja satthu loke uppannassa sattamāsādhikāni sattasaṃvaccharāni, mayañca daṭṭhumpi na labhāma, pageva bhikkhaṃ vā dātuṃ, pūjaṃ vā kātuṃ, dhammaṃ vā sotuṃ. Rājā — ‘mayhameva buddho, mayhameva dhammo, mayhameva saṅgho’ti mamāyitvā sayameva upaṭṭhahi. Satthā ca uppajjamāno sadevakassa lokassa atthāya hitāya uppanno. Na hi raññoyeva nirayo uṇho assa, aññesaṃ nīluppalavanasadiso. Tasmā rājānaṃ vadāma. sace no satthāraṃ deti, iccetaṃ kusalaṃ. no ce deti, raññā saddhiṃ yujjhitvāpi saṅghaṃ gahetvā dānādīni puññāni karoma. Na sakkā kho pana suddhanāgareheva[154] evaṃ kātuṃ, ekaṃ jeṭṭhapurisampi gaṇhāmā”ti.
Đức Thế Tôn được vay quanh bởi các tỳ khưu đã đi đến hoàng cung bên trong tấm màn che sau khi hoàn tất việc thọ dụng vật thực quay trở về tịnh xá. Những người khác không có được dù chỉ nhìn thấy, hơn nữa việc cúng dường vật thực, hay việc lễ bái, hay việc thính Pháp có ở nơi đâu? Người dân ở thành nghĩ rằng – “Ngày hôm nay, khi bậc Đạo Sư hiện khởi ở thế gian, chúng ta không có được dù chỉ được nhìn, suốt bảy năm bảy tháng, còn nói gì nữa đến việc cúng dường vật thực, hoặc việc lễ bái, hoặc việc thính Pháp. Đức vua hài lòng (và) quý trọng (điều đó) rằng – “Đức Phật của riêng trẫm, Giáo Pháp của riêng trẫm, đức Tăng của riêng trẫm,” để tự tay (trẫm) phục vụ. Bậc Đạo Sư khi hiện khởi, đã hiện khởi vì lợi ích, vì sự trợ giúp đến thế gian cùng với thế giới chư Thiên. Thật vậy, địa ngục của đức vua không thể nóng, nhưng của những người khác giống như bụi sen xanh. Vì thế, chúng tôi đã tâu với đức vua. Nếu như đức vua không đưa bậc Đạo Sư cho chúng tôi, được thôi nếu thế chúng tôi dầu phải chiến đấu với đức vua cũng sẽ đưa đức Tăng đi rồi làm phước như bố thí v.v, tuy nhiên cư dân thành phố thanh tịnh sẽ không làm điều đó, chúng tôi giữ lấy một vị cao quý như vậy.”
Te senāpatiṃ upasaṅkamitvā tassetamatthaṃ ārocetvā — “sāmi, kiṃ amhākaṃ pakkho hosi, udāhu rañño”ti āhaṃsu. So — “ahaṃ tumhākaṃ pakkho homi, api ca kho pana paṭhamadivaso mayhaṃ dātabbo”ti. Te sampaṭicchiṃsu. So rājānaṃ upasaṅkamitvā — “Nāgarā, deva, tumhākaṃ kupitā”ti āha. Kimatthaṃ tātāti? Satthāraṃ kira tumheyeva upaṭṭhahatha, amhe na labhāmāti. Sace idānipi labhanti, na kuppanti, alabhantā tumhehi saddhiṃ yujjhitukāmā devāti. Yujjhāmi, tāta, nāhaṃ bhikkhusaṅghaṃ demīti. Deva tumhākaṃ dāsā tumhehi saddhiṃ yujjhāmāti vadanti, tumhe kaṃ gaṇhitvā yujjhissathāti? Nanu tvaṃ senāpatīti? Nāgarehi vinā na samattho ahaṃ devāti. Tato rājā — “Balavanto nāgarā, senāpatipi tesaññeva pakkho”ti ñatvā “aññānipi sattamāsādhikāni sattasaṃvaccharāni mayhaṃ bhikkhusaṅghaṃ dadantū”ti āha. Nāgarā na sampaṭicchiṃsu. Rājā — “cha vassāni, pañca, cattāri, tīṇi, dve, ekavassan”ti hāpesi. Evaṃ hāpentepi na sampaṭicchiṃsu. Aññe satta divase yāci. Nāgarā — “atikakkhaḷaṃ dāni raññā saddhiṃ kātuṃ na vaṭṭatī”ti anujāniṃsu.
Họ đã đến tìm vị Tướng Quân để nói lên ý nghĩa ấy cùng vị ấy, đã nói rằng – “Thưa ngài, bên phía của chúng tôi vẫn có chứ? Hay chỉ có nơi đức vua?” Vị Tướng Quân ấy đã nói rằng: “Tôi bên phía của các vị, tuy nhiên vào ngày thứ nhất nên ưu tiên cho ta trước, hôm sau mới đến lượt của các vị. Cư dân thành phố nhận lời.” Sau khi vị Tướng Quân đến đến yết kiến đức vua đã nói rằng: “Tâu bệ hạ, cư dân thành phố đều giận bệ hạ.” – Đức vua hỏi rằng: “Giận trẫm về chuyện gì?” – Tâu rằng: Được biết chỉ có một mình ngài được phục vụ bậc Đạo Sư, còn chúng hạ thần thì không được (phục vụ bậc Đạo Sư). Nếu như họ được (phục vụ bậc Đạo Sư) vào lúc này thị họ sẽ không giận nữa, nếu không được họ muốn chiến đấu với ngài, thưa bệ hạ. – Này khanh, ta chiến đấu, ta không để Tăng Chúng (cho họ phục vụ). – Tâu bệ hạ, cư dân thành phố là bề tôi của ngài, họ sẽ chiến đấu với ngài. – Các khanh sẽ bắt những người chiến đâu, khanh là vị Tướng Quân không phải sao? – Tâu bệ hạ, thần đã miễn cho họ nên không thể chiến đấu, thưa bệ hạ. Lúc đó, đức vua biết rằng – “cư dân thành phố có sức mạnh, luôn cả vị Tướng Quân cũng về phe của họ,” mới nói rằng: “cư dân thành phố hãy để Tăng Chúng cho trẫm suốt bảy năm bảy tháng liên tục.” Cư dân thành phố không đồng ý. Đức vua đã hoãn lại – “Sáu năm, năm năm, ba năm, hai năm, một năm.” Thậm chí hoãn lại như vậy cư dân thành phố cũng không đồng ý. Đức vua yêu cầu thêm bảy ngày nữa. Cư dân thành phố nghĩ rằng: “Bây giờ, chúng ta không nên tạo ra sự khó chịu với đức vua” nên đã đồng ý.
Rājā sattamāsādhikānaṃ sattannaṃ saṃvaccharānaṃ sajjitaṃ dānamukhaṃ sattannameva divasānaṃ vissajjetvā cha divase kesañci apassantānaṃyeva dānaṃ datvā sattame divase nāgare pakkosāpetvā — “Sakkhissatha, tāta, evarūpaṃ dānaṃ dātun”ti āha. Tepi — “Nanu amheyeva nissāya taṃ devassa uppannan”ti vatvā — “Sakkhissāmā”ti āhaṃsu. Rājā piṭṭhihatthena assūni puñchamāno bhagavantaṃ vanditvā — “Bhante, ahaṃ aṭṭhasaṭṭhibhikkhusatasahassaṃ aññassa vāraṃ akatvā yāvajīvaṃ catūhi paccayehi upaṭṭhahissāmīti cintesiṃ. Nāgarā na dāni[155] me anuññātā, nāgarā hi ‘mayaṃ dānaṃ dātuṃ na labhāmā’ti kuppanti. Bhagavā sve paṭṭhāya tesaṃ anuggahaṃ karothā”ti āha.
Đức vua đã chuẩn bị vật thí chính yếu đã được chuẩn bị đến bảy năm, bảy tháng, chỉ còn lại bảy ngày, suốt sáu ngày cúng dường vật thí đến một số người không nhìn thấy chừng ấy, vào ngày thứ bảy (ngài) bảo những cư dân thành phố đến nói rằng: “Các khanh sẽ có thể cúng dường vật thí có hình thức như thế chăng?” – Cư dân thành phố đã tâu rằng – “Vật thí ấy y cứ nơi chúng thần sanh lên nơi ngài không phải hay sao? Nên đã nói rằng: “Tâu bệ hạ, chúng thần có thể.” – Đức vua trong khi lâu những giọt nước mắt bằng mu bàn tay, đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi nói rằng: “Kính bạch ngài, trẫm nghĩ rằng: ‘Trẫm sẽ không để cho sáu triệu tám trăm ngàn vị tỳ khưu trở thành gánh nặng của người khác, sẽ phụng sự (ngài) bằng bốn món vật dụng đến trọn cuộc đời. Bây giờ, trẫm đã cho phép cư dân thành phố bởi vì họ đã giận dữ (cho rằng) ‘chúng tôi không được cúng dường vật thí.’ Kể từ ngày mai xin đức Thế Tôn hãy tiếp độ cho họ.’”
Atha dutiyadivase senāpati mahādānaṃ sajjetvā — “ajja yathā añño koci ekabhikkhampi na deti, evaṃ rakkhathā”ti samantā purise ṭhapesi. Taṃ divasaṃ seṭṭhibhariyā rodamānā dhītaraṃ āha — “sace, amma, tava pitā jīveyya, ajjāhaṃ paṭhamaṃ dasabalaṃ bhojeyyan”ti . Sā taṃ āha — “amma, mā cintayi, ahaṃ tathā karissāmi yathā buddhappamukho bhikkhusaṅgho paṭhamaṃ amhākaṃ bhikkhaṃ paribhuñjissatī”ti. Tato satasahassagghanikāya suvaṇṇapātiyā nirudakapāyāsassa pūretvā sappimadhusakkarādīhi abhisaṅkharitvā aññāya pātiyā paṭikujjitvā taṃ sumanamālāguḷehi parikkhipitvā mālāguḷasadisaṃ katvā bhagavato gāmaṃ pavisanavelāya sayameva ukkhipitvā dāsigaṇaparivutā[156] nagarā nikkhami. Antarāmagge senāpatiupaṭṭhākā — “amma, mā ito agamā”ti vadanti. Mahāpuññā nāma manāpakathā honti, na ca tesaṃ punappunaṃ bhaṇantānaṃ kathā paṭikkhipituṃ sakkā hoti. Sā — “cūḷapitā mahāpitā mātulā kissa tumhe gantuṃ na dethā”ti āha. senāpatinā — “aññassa kassaci khādanīyabhojanīyaṃ dātuṃ mā dethā”ti ṭhapitamha ammāti. Kiṃ pana me hatthe khādanīyaṃ bhojanīyaṃ passathāti? Mālāguḷaṃ[157] passāmāti. Kiṃ tumhākaṃ senāpati mālāguḷapūjampi kātuṃ na detīti? Deti, ammāti. Tena hi, apetha, apethāti bhagavantaṃ upasaṅkamitvā mālāguḷaṃ gaṇhāpetha bhagavāti āha. Bhagavā ekaṃ senāpatissupaṭṭhākaṃ oloketvā mālāguḷaṃ gaṇhāpesi. Sā bhagavantaṃ vanditvā — “bhagavā, bhavābhave nibbattiyaṃ me sati paritassanajīvitaṃ nāma mā hotu, ayaṃ sumanamālā viya nibbattanibbattaṭṭhāne piyāva homi, nāmena ca sumanā yevā”ti patthanaṃ katvā satthārā — “sukhinī hohī”ti vuttā vanditvā padakkhiṇaṃ katvā pakkāmi.
Khi ấy, vào ngày thứ hai Tướng Quân đã chuẩn bị đại lễ bố thí rồi nói rằng: “Ngày hôm nay, các vị hãy hộ trì như vậy, theo cách một số người không bố thí dù chỉ một bữa ăn” đã bố trí mọi người xung quanh. Vào ngày hôm ấ, phu nhân của vị trưởng giả trong khi khóc đã nói với con gái (của mình) rằng: “Con ơi, nếu như cha của con còn sống thì ngày hôm nay (chúng ta) có lẽ (cúng dường) vật thức đến đấng Thập Lực trước.” Cô ấy đã nói cùng mẹ rằng: “Mẹ à, mẹ chớ nên suy nghĩ, con sẽ làm theo cách mà Hội chúng tỳ khưu có đức Phật dẫn đầu sẽ thọ dụng vật thực cúng dường của chúng ta trước.” Lúc đó, trong cái mâm vàng có giá trị ước chừng một trăm ngàn (đồng tiền vàng) chất đầy cơm sữa không có nước, nàng đã trộn bơ lỏng, mật ong, đường mật mía v.v, lấy cái mâm khác đậy cái mâm vàng lại, bao quanh cái mâm ấy bằng chuỗi hoa nhài được làm tựa như sợi dây xâu chuỗi các bông hoa, vào lúc đức Thế Tôn bước vào làng, nàng đã tự mình nâng lên (cái mâm vàng) được vây quanh bởi các người hầu rởi khỏi nhà. Giữa đường những người tùy tùng của vị Tướng Quân nói rằng: “Này cô em, nàng chớ có đi con đường này”. Thường người nữ có đại phước luôn có lời nói (khiến người khác) hài lòng, khi họ nói đi nói lại cũng không thể nào ngăn cản được lời nói của nàng. Nàng đã nói rằng: “Các chú ơi! các bác ơi! các cô ơi! tại sao quý vị lại không cho tôi đi?” – Những tùy tùng ấy đã nói rằng: Tướng Quân đã bố trí tôi (và) bảo – “Chớ để bất kỳ ai cúng dường vật thực cứng, vật thực mềm”. – Các vị nhìn thấy vật thực cứng, vật thực mềm trong bàn tay của tôi hay sao? – Chúng tôi thấy tràng hoa. – Thế Tướng Quân của các vị không cho thực hiện luôn cả việc lễ bái với tràng hoa luôn sao? – Cho chứ này cô em. – Vậy thì quý vị hãy tránh đường rồi đi vào yết kiến đức Thế Tôn rồi nói rằng: “Kính bạch đức Thế Tôn, cầu mong ngài hãy thọ nhận tràng hoa này.” Đức Thế Tôn quan sát một người tùy tùng của vị Tướng Quân đã cho nhận lấy tràng hoa. Sau khi nàng đảnh lễ đến đức Thế Tôn đã thiết lập ước muốn rằng: “Khi con có phải sanh ra ở các Hữu và Phi Hữu cầu mong (cho con) đừng có đời sống sợ hãi, cầu mong cho con hãy trở thành nơi yêu thương, là nơi vừa lòng, và mong cho (con có) tên là Sumanā ở nơi sinh ra tựa như tràng hoa nhài, rồi bậc Đạo Sư đáp rằng: “Mong cho nàng hãy có sự an lạc”, sau khi đảnh lễ (và) thực hiện việc nhiễu quanh (đức Thế Tôn) rồi rời đi.
Bhagavā senāpatissa gehaṃ gantvā paññattāsane nisīdi. Senāpati yāguṃ gahetvā upagañchi, satthā pattaṃ pidahi. Nisinno, bhante, bhikkhusaṅghoti. Atthi no eko antarā piṇḍapāto laddhoti. So mālaṃ apanetvā piṇḍapātaṃ addasa. Cūḷupaṭṭhāko āha — “sāmi, mālāti maṃ vatvā mātugāmo vañcesī”ti. Pāyāso bhagavantaṃ ādiṃ katvā sabbesaṃ bhikkhūnaṃ pahoti. Senāpatipi attano deyyadhammaṃ adāsi. Satthā bhattakiccaṃ katvā maṅgalaṃ vatvā pakkāmi. Senāpati — “kā nāma sā piṇḍapātamadāsī”ti pucchi. seṭṭhidhītā, sāmīti. Sappaññā sā itthī, evarūpāya ghare vasantiyā purisassa saggasampatti nāma na dullabhāti taṃ ānetvā jeṭṭhikaṭṭhāne ṭhapesi.
Đức Thế Tôn đã đi đến nhà của vị Tướng Quân, ngồi xuống chỗ ngồi đã được trải sẵn. Vị Tướng Quân đã mang cháo chua đến cúng dường, (tuy nhiên) bậc Đạo Sư lại đậy bình bát. – (Tướng Quân nói rằng) bạch ngài, Hội Chúng tỳ khưu đã ngồi. – (Bậc Đạo Sư) chúng tôi có vật thực đã nhận ở giữa đường. – Vị Tướng Quân đã lấy tràng hoa ra thì thấy vật thực. Người tùy tùng trẻ đã nói rằng – “Nữ nhân đã nói cùng chúng tôi rằng: đây là tràng hoa, đã đánh lừa chúng tôi thưa ngài.” Cơm sữa đủ cho tất cả hội chúng tỳ khưu bắt đầu từ đức Thế Tôn v.v. Cả vị Tướng Quân cũng đã cúng dường vật dâng cúng của mình. Sau khi bậc Đạo Sư hoàn tất việc thọ dụng vật thực đã nói lời phúc chúc rồi trở về. Vị Tướng Quân hỏi rằng: “Người phụ nữa cúng dường vật thực ấy tên gì?” Thưa ngài cô ấy là con gái của vị trưởng giả. Vị Tướng Quân nghĩ rằng: “Con gái ấy có trí tuệ, khi người nữ có hình thức như vậy ở trong nhà được gọi là sự thành tựu cõi trời của người đàn ông không khó để đạt được, nên đã đặt nàng vào địa vị người chị lớn.
Punadivase nāgarā dānamadaṃsu, punadivase rājāti ekantarikāya dānaṃ dātuṃ ārabhiṃsu. rājāpi carapurise ṭhapetvā nāgarehi dinnadānato atirekataraṃ deti, nāgarāpi tatheva katvā raññā dinnadānato atirekataraṃ. Rājagehe nāṭakitthiyo daharasāmaṇere vadanti — “gaṇhatha, tātā, na gahapatikānaṃ gattavatthādīsu puñchitvā bāḷadārakānaṃ kheḷasiṅghāṇikādidhovanahatthehi kataṃ, suciṃ paṇītaṃ katan”ti. punadivase nāgarāpi dadamānā vadanti — “gaṇhatha, tātā, na nagaragāmanigamādīsu saṅkaḍḍhitataṇḍulakhīradadhisappiādīhi, na aññesaṃ jaṅghasīsapiṭṭhiādīni bhañjitvā āharāpitehi kataṃ, jātisappikhīrādīhiyeva katan”ti. Evaṃ sattasu saṃvaccharesu sattasu māsesu sattasu divasesu ca atikkantesu atha bhagavato ayaṃ vitakko udapādi. Tena vuttaṃ — “sambodhito satta saṃvaccharāni satta māsāni satta divasāni atikkamitvā udapādī”ti.
Vào ngày kế tiếp, cư dân thành phố cùng nhau cúng dường vật thí, họ bắt đầu cúng dường vật thí luân phiên nhau, luôn cả đức vua cũng cúng dường vào ngày hôm đó. Đức vua đã bố trí những trinh thám để cúng dường cho vượt trội hơn vật thí mà cư dân thành phố cúng dường. Ngay cả cư dân thành phố cũng đã thực hiện như thế tương tự, họ đã cúng dường vật thí vượt trội hơn hẳn vật thí mà đức vua đã cúng dường. Các nữ vũ công trong thành Rājagaha nói với các vị Sa-di trẻ rằng: “Này các vị, xin hãy nhận lấy vật thí đã không được thực hiện bằng tay được lau khô bằng khăn lau người của những cư sĩ rồi làm vệ sinh rửa sạch nước dãi và nước mũi v.v, của những đứa bé, đã cho vật thí sạch sẽ thượng hạng”. Vào ngày kế tiếp luôn cả cư dân thành phố cũng nói với các vị Sa-di trẻ rằng: “Này các vị, xin hãy nhận lấy vật thí đã không được chế biến bằng gạo, sữa, nước cam, và bơ lỏng được mang đến từ thành phố, làng mạc và thị trấn v.v, Nó không được thực hiện bằng cách hủy hoại ống quyển, đầu và lưng của người khác rồi đem lại cúng dường, (mà) được làm hoàn toàn bằng bơ lỏng và sữa nguyên chất, v.v. Sau bảy năm, bảy tháng và bảy ngày trôi qua như vậy, ý nghĩ suy tầm này lại khởi lên nơi đức Thế Tôn. Do đó, ngài đã nói rằng: “Trải qua bảy năm, bảy tháng và bảy ngày kể từ ngày giác ngộ, ý nghĩ suy tầm đã sanh khởi như thế.”
- Aññataro mahābrahmāti dhammadesanaṃ āyācitabrahmāva.
- Caturāsīti āvāsasahassānīti caturāsīti vihārasahassāni. Te sabbepi dvādasasahassabhikkhugaṇhanakā mahāvihārā abhayagiri- cetiyapabbata- cittalapabbata- mahāvihārasadisāva ahesuṃ.
- Có một vị Đại Phạm Thiên: Vị Phạm Thiên đã thỉnh cầu đức Phật Vipassī thuyết giảng Giáo Pháp.
- Có tám mươi bốn ngàn trú xá: có tám mươi bốn ngàn trú xá. Tất cả những trú xá ấy đều là trú xá lớn có sức chứa lên đến một triệu hai trăm ngàn vị tỳ khưu giống với Đại tinh xá Abhayagīri, Cetiyapabbata và Cittalapabbata.
- Khantī paramaṃ tapoti adhivāsanakhanti nāma paramaṃ tapo. Titikkhāti khantiyā eva vevacanaṃ. Titikkhā saṅkhātā adhivāsanakhanti uttamaṃ tapoti attho. Nibbānaṃ paramanti sabbākārena pana nibbānaṃ paramanti vadanti buddhā. Na hi pabbajito parūpaghātīti yo adhivāsanakhanti-virahitattā paraṃ upaghāteti bādheti hiṃsati, so pabbajito nāma na hoti. Catutthapādo pana tasseva vevacanaṃ. “Na hi pabbajito”ti etassa hi na samaṇo hotīti vevacanaṃ. Parūpaghātīti etassa paraṃ viheṭhayantoti vevacanaṃ. Atha vā parūpaghātīti sīlūpaghātī. Sīlañhi uttamaṭṭhena paranti vuccati. yo ca samaṇo paraṃ yaṃ kañci sattaṃ viheṭhayanto parūpaghātī hoti, attano sīlaṃ vināsako, so pabbajito nāma na hotīti attho. Athavā yo adhivāsanakhantiyā abhāvato parūpaghātī hoti, paraṃ antamaso ḍaṃsamakasampi sañcicca jīvitā voropeti, so na hi pabbajito. Kiṃ kāraṇā? Malassa apabbājitattā. “pabbājayamattano malaṃ, tasmā pabbajitoti vuccatī”ti[158] idañhi pabbajitalakkhaṇaṃ. Yopi na heva kho upaghāteti, na māreti, api ca daṇḍādīhi viheṭheti, so paraṃ viheṭhayanto samaṇo na hoti. Kiṃ kāraṇā? vihesāya asamitattā. “samitattā hi pāpānaṃ, samaṇoti pavuccatī”ti[159] idañhi samaṇalakkhaṇaṃ.
- Nhẫn nại là sự chịu đựng, là sự khổ hạnh tối thượng: Nhẫn nại là sự chịu đựng, là sự khổ hạnh tối thượng. Sự chịu đựng là từ đồng với chính từ ‘nhẫn nại’. Adhivāsanakhanti được xem là sự chịu đụng, là sự khổ hạnh tối thượng. Nibbāna là tối thượng: Chư Phật nói rằng – Nibbāna là Pháp tối thượng ở tất cả mọi biểu hiện. Kẻ làm hãm hại người khác không phải là bậc xuất gia: người nào hãm hai, khuấy rối và gây tổn thương người khác do tránh xa sự khổ hành tối thượng, người ấy phải là bậc xuất gia. Câu thứ tư là đồng nghĩa với chính câu đó. Không phải là Sa-môn: đồng nghĩa với câu “không phải là bậc xuất gia”. Kẻ ức hiếp người khác: đồng nghĩa với “hãm hại người khác”. Hơn nữa, hãm hại người khác là phá hủy giới hạnh. Bởi vì giới hành ngài nói rằng ‘paraṃ’ với ý nghĩa cao thượng. Giải thích rằng: nguời nào là Sa-môn gây tổn thương đến chúng sanh bằng hình này hay hình thức khác gọi là hãm hại người khác, là làm cho giới của bản thân tiêu hoại, người ấy không phải là bậc xuất gia. Hơn nữa, người nào làm hại người khác bởi không có sự khổ hạnh tối thượng, sát hại chúng sanh khác dù chỉ là con rận và con muỗi, người ấy không phải là bậc xuất gia. Tại sao? Bởi vẫn chưa thể dứt bỏ được cấu uế. Như ngài đã nói: “Vị đã dứt bỏ ô nhiễm của bản thân, vì thế được gọi là bậc xuất gia.” Thật vậy, đây gọi là trạng thái của bậc xuất gia. Còn người nào không hãm hại, không sát hại, nhưng làm tổn thương bằng hình phạt v.v, người ấy (được xem là) gây tổn thương người khác thì không phải là Sa-môn. Vì sao? Bởi không lắng dịu được sự não hại. Như ngài đã nói: “Do đã lắng dịu đối với các điều ác mà được gọi là Sa-môn.” Thật vậy, đây là trạng thái của Sa-môn.
Dutiyagāthāya sabbapāpassāti sabbākusalassa. Akaraṇanti anuppādanaṃ. Kusalassāti catubhūmikakusalassa. Upasampadāti paṭilābho. Sacittapariyodapananti attano cittajotanaṃ, taṃ pana arahattena hoti. Iti sīlasaṃvarena sabbapāpaṃ pahāya samathavipassanāhi kusalaṃ sampādetvā arahattaphalena cittaṃ pariyodāpetabbanti etaṃ buddhānaṃ sāsanaṃ ovādo anusiṭṭhī ti.
Ở kệ ngôn thứ hai, (không làm) mọi điều ác: mọi bất thiện. Không làm: không để sanh khởi. Việc thiện: thiện có ở bốn địa vức (catubhūmika). Thành tựu: viên đắc. Thanh lọc tâm của mình: Làm cho tâm của mình được trong sáng, hơn nữa câu đó có được bởi bản thể bậc A-ra-hán. Như vậy bậc xuất gia nên từ bỏ mọi điều ác nhờ sự thu thúc giới khiến thiện được thành tựu nhờ các đề mục Chỉ tịnh và Minh sát, tâm được trong sáng bởi Thánh Quả A-ra-hán, đây là lời chỉ dạy, là lời giáo huấn, là lời nhắc nhở của chư Phật.
Tatiyagāthāya anūpavādoti vācāya kassaci anupavadanaṃ. Anūpaghātoti kāyena upaghātassa akaraṇaṃ. Pātimokkheti yaṃ taṃ pātimokkhaṃ, atipamokkhaṃ, uttamasīlaṃ, pāti vā agativisesehi[160] mokkheti[161] duggatibhayehi, yo vā naṃ pāti, taṃ mokkhetīti “pātimokkhan”ti vuccati. Tasmiṃ pātimokkhe ca saṃvaro. Mattaññutāti paṭiggahaṇaparibhogavasena pamāṇaññutā. Pantañca sayanāsananti sayanāsanañca saṅghaṭṭanavirahitanti attho. tattha dvīhiyeva paccayehi catupaccayasantoso dīpito hotīti veditabbo. Etaṃ buddhāna sāsananti etaṃ parassa anupavadanaṃ anupaghātanaṃ pātimokkhasaṃvaro paṭiggahaṇaparibhogesu mattaññutā aṭṭhasamāpattivasibhāvāya vivittasenāsanasevanañca buddhānaṃ sāsanaṃ ovādo anusiṭṭhīti. Imā pana sabbabuddhānaṃ pātimokkhuddesagāthā hontīti veditabbā.
Ở kệ ngôn thứ ba, không phỉ báng: không phỉ báng bất cứ ai bằng lời nói. không giết hại: Không làm hại bằng thân. (Sự thu thúc) theo giới bổn Pātimokkha: tách từ thành Pa+ati+mokkhaṃ nghĩa là thoát khỏi hoàn toàn, là giới tối thượng, gìn giữ nhờ sự tuyệt diệu là lạc cảnh, và cho thoát khỏi sợ hãi là khổ cảnh, hoặc gìn giữ lạc cảnh để thoát khỏi khổ cảnh. Do đó giới ấy được ngài gọi là ‘theo giới bổn Pātimokkha’, vị thu thúc theo giới bổn Pātimokkha đó. Sự biết đủ: biết chừng mực nhờ khả năng thọ nhận và thọ dụng. Ở chỗ nằm ngồi thanh vắng: nghĩa là từ bỏ chỗ nằm và chỗ ngồi chen chút. Trong câu đó nên biết rằng: là điều ngài nói đến sự hài lòng trong bốn món vật dụng chỉ với hai món vật dụng (trong bốn món). Điều này là lời giáo huấn của chư Phật: không nói lời phỉ báng, không hãm hại người khác, sự thu thúc theo giới bổn Pātimokkha, sự biết đủ trong việc thọ nhận và thọ dụng, sử dụng chỗ nằm ngồi thanh vắng do bản thể vị thiện xảo trong tám thiền chứng, đây là lời dậy, là lời giáo huấn, là lời nhắc nhở của chư Phật. Hơn nữa, nên biết những kệ ngôn này là kệ ngôn diễn giải về đầu đề Pháp của toàn bộ các vị Phật.
Giảng Giải Việc Thỉnh Cầu của Chư Thiên
- Ettāvatā ca iminā vipassissa bhagavato apadānānusārena vitthārakathanena — “tathāgatassevesā, bhikkhave, dhammadhātu suppaṭividdhā”ti evaṃ vuttāya dhammadhātuyā suppaṭividdhabhāvaṃ pakāsetvā idāni — “devatāpi tathāgatassa etamatthaṃ ārocesun”ti vuttaṃ devatārocanaṃ pakāsetuṃ ekamidāhantiādimāha.
- Và chỉ chừng ấy để tuyên bố đến bản thể đã khéo được thấu triệt các Pháp giới được ngài thuyết giảng như vầy – “Như thế, này các tỳ khưu, pháp giới ấy đã khéo được thấu triệt bởi chính đức Như Lai” rồi tuyên bố việc thỉnh cầu được ngài nói rằng: – “Bây giờ, Chư Thiên cũng đã thuật lại sự việc ấy cho đức Như Lai” mới nói lời bắt đầu như sau: “một lần nọ Ta…” bằng cách nói chi tiết theo diễn biến câu chuyện của đức Thế Tôn Vipassī này.
Tattha subhagavaneti evaṃnāmake vane. Sālarājamūleti vanappatijeṭṭhakassa mūle. Kāmacchandaṃ virājetvāti anāgāmimaggena mūlasamugghātavasena virājetvā. yathā ca vipassissa, evaṃ sesabuddhānampi sāsane vutthabrahmacariyā devatā ārocayiṃsu, pāḷi pana vipassissa ceva amhākañca bhagavato vasena āgatā.
Ở đó, trong rừng Subhaga: trong rừng có tên như vậy. Dưới gốc một cây sālā lớn: Dưới gốc cây lớn cổ thụ trong rừng. Đã xa lìa sự mong muốn về dục: Đã xa lìa do mãnh lực nhổ bỏ gốc rễ bằng Thánh Đạo A-na-hàm, Chư thiên thực hành Phạm hạnh cao thượng trong Giáo Pháp đã thuật lại, ngay cả đối với các vị Phật còn lại, điều đó cũng giống như nói ra cùng đức Phật Vipassī, nhưng Pāḷī đã đến nhờ vào năng của đức Phật Vipassī và đức Phật của chúng ta.
Tattha attano sampattiyā na hāyanti, na vihāyantīti avihā. Na kañci sattaṃ tapantīti atappā. Sundaradassanā abhirūpā pāsādikāti sudassā. Suṭṭhu passanti, sundarametesaṃ vā dassananti sudassī. Sabbeheva ca saguṇehi[162] bhavasampattiyā ca jeṭṭhā, natthettha kaniṭṭhāti akaniṭṭhā.
Trong những cõi trời ấy, gọi là Vô Phiền bởi vì không từ bỏ, không hoại diệt từ sự thành tựu của mình. Gọi là Vô Nhiệt bởi không thiêu đốt bất kỳ chúng sanh nào. Gọi là Thiện Kiến bởi đẹp vô cùng, có dáng nhìn xinh xắn đáng tịnh tín. Gọi là Thiện Hiện bởi đáng nhìn của người tiếp xúc thấy. Gọi là Sắc Cứu Cánh: bởi vì to lớn bởi tất cả mọi đức hạnh và bởi sự thành tựu ở trong Hữu, không có sự ít ỏi trong Hữu này.
Idha ṭhatvā bhāṇavārā samodhānetabbā. Imasmiñhi sutte vipassissa bhagavato apadānavasena tayo bhāṇavārā vuttā. yathā ca vipassissa, evaṃ sikhīādīnampi apadānavasena vuttāva. Pāḷi pana saṅkhittā. Iti sattannaṃ buddhānaṃ vasena amhākaṃ bhagavatā ekavīsati bhāṇavārā kathitā. Tathā avihehi. tathā atappehi. tathā sudassehi. tathā sudassīhi. Tathā akaniṭṭhehīti sabbampi chabbīsatibhāṇavārasataṃ hoti. tepiṭake buddhavacane aññaṃ suttaṃ chabbīsatibhāṇavārasataparimāṇaṃ nāma natthi, suttantarājā nāma ayaṃ suttantoti veditabbo. ito paraṃ anusandhidvayampi niyyātento iti kho bhikkhavetiādimāha. Taṃ sabbaṃ uttānamevāti.
Ở đây nên tập hợp các tụng phẩm lại đặt ở đây. Trong bày Kinh này ngài nói ba tụng phẩm về phương diện những câu chuyện của đức Thế Tôn Vipassī. Ngài cũng nói về phương diện những câu chuyện của đức Thế Tôn Sikhī, v.v. cũng giống như đức Thế Tôn Vipassī. Nhưng Chánh văn được rút ngắn lại. Còn đức Thế Tôn của chúng ta đã nói hai mươi mốt tụng phẩm về phương diện bảy vị Phật như thế, Chư thiên ở cõi trời Vô Phiền, Vô Nhiệt, Thiện Kiến, Thiện Hiện và Sắc Cứu Cánh cũng thuật lại tượng tự, tất cả là hai ngàn sáu trăm tụng phẩm. Ở bài Kinh khác trong Phật ngôn thuộc Tam Tạng không có tổng cộng hai ngàn sáu trăm tụng phẩm. Nên biết rằng: bài Kinh này gọi là Suttantarājā. Đức Thế Tôn khi xác định thậm chí kết hợp cả hai kể từ đây mới nói rằng: “Như thế, này các tỳ khưu… v.v.” Tất cả các câu (còn lại) đều có ý nghĩa đơn giản.
Trong Chú Giải Trường Bộ Kinh là Sumaṅgalavilāsī.
Giải Thích Kinh Đại Bổn được kết thúc – Kinh thứ nhất
[1] Saḷalagharanti (Syā)
[2] Antomajjhantikepi (Syā)
[3] Sakuṇā (Syā) Kuṇḍā (Ka)
[4] Khajjopanakakimi-obhāsasadisaṃ (Ka)
[5] Sahassa (Syā, Ka)
[6] Dī-Ṭṭha 1. 45 piṭṭhe.
[7] Dhammakathaṃ (Syā)
[8] dī. ni. 2.203
[9] su. ni. 881
[10] a. ni. 1.277
[11] Akaniṭṭhabrahmalokā (Ka)
[12] Patiṭṭhahanti (Syā)
[13] Manussalokaṭṭhānaṃ (Syā)
[14] Tamabhibhūtā (Syā)
[15] Bakkulatthero (Sī)
[16] Bhummā devatā (Syā)
[17] Bhummadevānaṃ (Syā)
[18] Sabbe devā (Syā)
[19] …rasādisampavattīni (Syā)
[20] Aṃ 1. 386 piṭṭhe passitabbaṃ.
[21] Yaṃyaṃāyuvuddhippamāṇesu (Syā)
[22] Ākāsesu (Syā)
[23] …mālāguṇavippakiṇṇaṃ (Syā)
[24] saṃ. ni. 1.185
[25] Vāyamanto (Syā)
[26] Moggalāno (Ka)
[27] Vījaniṃ (Sī, Syā)
[28] ma. ni. 2.201
[29] Desanānusārena anu bujjhamānañānāṃ (Syā)
[30] Bhūmiyaṃ (Syā)
[31] Ajjhāpanno (Syā)
[32] Anvāyanto (Ka) Aṃ 3. 167; Khu 1. 117 piṭṭhesu passitabbaṃ.
[33] Asaṅkheyyaṃ (Sī, Syā)
[34] Āgataparisāya (Syā)
[35] Ānetvā (Ka)
[36] Rocanā (Syā)
[37] Ruccatinā (Syā)
[38] Chayutta-ājañña (Ka)
[39] Sabbaññutaññāṇaṃ (Syā)
[40] Kaṇṭhakaṃ (Sī, Syā), Kaṇḍakaṃ (Khu 2 Vimānavatthusmiṃ 110 piṭṭhe)
[41] Suvaṇṇakaḷīhiyeva (Syā)
[42] Paṭhamapādagaṇḍikā (Syā)
[43] Mātukucchiyaṃ (Syā)
[44] Saṅkhaṃ (Sī)
[45] Paricchinnattā tehi (Syā, Ka) Ma-Ṭṭha 3. Acchariya-abbhutasuttavaṇṇanāyaṃ passitabbaṃ.
[46] Kā (Syā, Ka)
[47] Ābandhaṃ (Ka)
[48] Devacārikāya kolāhalaṃ (Syā)
[49] Adhimuttakālakiriyaṃ (Syā)
[50] Pāramiyo panassa (Syā), pāramīnaṃ pana (?)
[51] Năm sự bố thí cao thượng bao gồm 1. Sự bố thí bộ phận của cơ thể (ngoại trừ đôi mắt), 2. Bố thí mắt, 3. Bố thí vật chất (tiền, vàng, bạc, …), 4. Bố thí đất nước (đất đai), 5. Bố thí vợ và con cái.
[52] Nābhiramati (Khu 1. 247 piṭṭhe)
[53] Nissamanti (Ka)
[54] Pañca pubbanimittāni (Syā)
[55] Tilakkhaṇavinimuttā (Syā)
[56] mahāva. 259
[57] Vi 3. 287 piṭṭhe.
[58] Ime pañca mahāvilokane (Ka)
[59] Dasasahassī lokadhātu (Syā)
[60] Dibbavatthehi (Syā)
[61] Phālento (Ka)
[62] dha. sa. aṭṭha. 498
[63] khu. pā. 127
[64] ma. ni. 1.399
[65] ma. ni. 1.288
[66] Ekekā lokantarikā (Syā, Ka)
[67] Piṭṭhapiṇḍaṃ viya (Syā)
[68] cūḷava. 341
[69] Avaññākaraṇamattaṃ (Sī) Avamaññākaraṇamattaṃ (Syā)
[70] Kucchimhi uppannoti (Syā)
[71] Udakadhārāti (Syā, Ka)
[72] Tāsaṃ (Ka)
[73] …uṇhīsapaṭāyeva (Syā)
[74] Vivattanti (Syā)
[75] su. ni. 693
[76] Aṭṭabandhanādīni (Syā)
[77] Ākāsagatā pabbatarukkhagatā (Syā)
[78] Jātijaḷānaṃ (Syā)
[79] Agginibbāpanaṃ (Ka)
[80] (Nadīsu toyassa appavattanaṃ catuvesārajjapaṭilābhassa pubbanimittaṃ) (Syā)
[81] Madhurasatā (Ka)
[82] Dhammavegavassanassa (Ka)
[83] Pupphanassa (?)
[84] Sundaro (Syā)
[85] ma. ni. 1.153
[86] ma. ni. 1.508
[87] pari. 339
[88] ma. ni. 1.503
[89] Assa (Syā)
[90] Sāhasikajanavilopapīḷitā (Syā)
[91] Anupariyāyanasamatthaṃ (Syā)
[92] Vīriyamayā viya (?)
[93] Vivaṭitaṃ (Syā)
[94] Purisadosena (Syā, Ka)
[95] Jālalakkhaṇaṃ (Ka)
[96] Nisadāyaṃ ghaṃsitvā (Ka)
[97] Dānacittena puṭṭacittena (Syā), dānapuññacittena (Ka)
[98] Pītantaraṃsoti (Syā)
[99] Pītaṃ (Syā)
[100] Ummāpupphasadisena (Sī, Syā Ka)
[101] Sakalacakkhugeṇḍaṃ (Syā)
[102] Cakkhugeṇḍā (Syā)
[103] Aṇgeneva aṇganti (Ka)
[104] Aññissā (?)
[105] Saro (Syā)
[106] Nimmisasañjanitandhakāravirahena (Syā)
[107] Nāyati (Ka)
[108] Aṭṭaṃ (Syā)
[109] Uṇhabharitāni (Ka)
[110] Parisaṇkā (?)
[111] Bhaggavaṇkaṃ (Syā)
[112] Jigucchā nāmesā jātīti (Syā)
[113] Dhiratthu (Syā) dhikkataṃ (Ka)
[114] Kālakatanti (Sī, Syā)
[115] Mahājanassa (Syā)
[116] saṃ. ni. 1.15
[117] Na bhūtapubbaṃ (Ka)
[118] Vuṭṭhahissāmīti (Ka)
[119] Niyyādento (bahūsu)
[120] paṭi. ma. 2.39
[121] Sambodhāyāti (Ka)
[122] paṭi. ma. 1.50
[123] paṭi. ma. 1.50
[124] dha. pa. 153, 154
[125] udā. 80
[126] (Paribyattaṃ desituṃ.) (Syā)
[127] bu. vaṃ. 2.56
[128] Takkapūritacāṭi viya (Ka)
[129] Vasātelatemitapaṭapilotikā viya (Syā)
[130] Medanī (Syā)
[131] Dhammadesanāya (Syā)
[132] Sabbaṃ bhavagāmikammaṃ (Ka)
[133] paṭi. ma. 1.112
[134] Tiṭṭhantīti (Syā, Ka)
[135] Tiṭṭhanti (Syā, Ka)
[136] Sarogāni (Syā)
[137] Sudīpitāni (Syā)
[138] pu. pa. 148, 149, 150, 151
[139] Anāgatatthāya vāsanā hoti (Syā)
[140] vibha. 827; paṭi. ma. 1.115
[141] Brahmāti (Ka)
[142] Sumedhaso sundarapñño (Syā)
[143] dha. pa. 304
[144] Anupaṭipāṭiyā kathaṃ (Syā, Ka)
[145] Ālambanaṃ (?)
[146] Ālambanaṭṭhena (?)
[147] Sīlasadisā patiṭṭhā (Ka)
[148] ma. ni. 3.255
[149] ma. ni. 1.235; 2.42
[150] ma. ni. 2.351
[151] Modesi (Syā)
[152] a. ni. 7.66; saṃ. ni. 2.134
[153] Ime pubbe (Syā)
[154] Yuddhaṃ nāgareheva (Ka)
[155] Nāgarānaṃ dāni (Syā)
[156] Dhātigaṇaparivutā (Syā, Ka)
[157] Mālāguṇaṃ (Sī, Sya)
[158] dha. pa. 388
[159] dha. pa. 265
[160] Sugativisesehi (Syā)
[161] Mokkheti ca (Syā)
[162] Guṇehi (Syā)