Giải Thích Kinh Chuyển Luân Vương

(Cakkavattisuttavaṇṇanā (26))

Xem Trường Bộ Kinh – Kinh Chuyển Luân Vương

Giảng về việc có bản thân là hòn đảo, có bản thân là nơi nương tựa

80. Evaṃme sutanti cakkavattisuttaṃ. Tatrāyamanuttānapadavaṇṇanā – mātulāyanti evaṃnāmake nagare. Taṃ nagaraṃ gocaragāmaṃ katvā avidūre vanasaṇḍe viharati. ‘‘Tatra kho bhagavā bhikkhū āmantesī’’ti ettha ayamanupubbikathā –

80. Bài Kinh Chuyển Luân Vương bắt đầu như sau— ‘Tôi đã nghe như vầy…’ Trong bài Kinh ấy có sự giải thích theo thứ tự các câu như sau – Nơi thành Mātulā: Trong thành phố có tên như vậy. (Đức Thế Tôn) đã biến thành phố đó trở thành hành xứ rồi an trú tại khu rừng rậm không xa. “Tại nơi ấy đức Thế Tôn đã báo các vị tỳ khưu”, điều này được nói trình tự như sau–

Bhagavā kira imassa suttassa samuṭṭhānasamaye paccūsakāle mahākaruṇāsamāpattito vuṭṭhāya lokaṃ volokento imāya anāgatavaṃsadīpikāya suttantakathāya mātulanagaravāsīnaṃ caturāsītiyā pāṇasahassānaṃ dhammābhisamayaṃ disvā pātova vīsatibhikkhusahassaparivāro mātulanagaraṃ sampatto. Mātulanagaravāsino khattiyā ‘‘bhagavā āgato’’ti sutvā paccuggamma dasabalaṃ nimantetvā mahāsakkārena nagaraṃ pavesetvā nisajjaṭṭhānaṃ saṃvidhāya bhagavantaṃ mahārahe pallaṅke nisīdāpetvā buddhappamukhassa bhikkhusaṅghassa mahādānaṃ adaṃsu. Bhagavā bhattakiccaṃ niṭṭhāpetvā cintesi – ‘‘sacāhaṃ imasmiṃ ṭhāne imesaṃ manussānaṃ dhammaṃ desessāmi, ayaṃ padeso sambādho, manussānaṃ ṭhātuṃ vā nisīdituṃ vā okāso na bhavissati, mahatā kho pana samāgamena bhavitabba’’nti.

Nghe rằng, vào thời điểm bài Kinh này xuất hiện, đức Thế Tôn xuất khỏi sự thể nhập đại bi định vào lúc hừng sáng, trong khi quan sát chúng sanh thế gian (Ngài) đã nhìn thấy sự chứng ngộ Giáo pháp của tám mươi bốn ngàn chúng sanh ở thành phố Mātulā với việc thuyết giảng bài Kinh nói về dòng dõi tương lai này, nên mới cùng với hai mươi ngàn vị tỳ khưu tùy tùng đi đến thành phố Mātulā từ sáng sớm. Các vị Sát-đế-lỵ ngụ ở thành Mātulā sau khi nghe tin “Đức Thế Tôn đã đến” liền ra nghênh đón và thỉnh mời đức Thập Lực vào thành với sự tôn vinh trọng thể, đã cho sửa soạn sẵn chỗ ngồi, thỉnh Đức Thế Tôn ngự lên bảo tọa quý giá và đã cúng dường cuộc đại thí đến Hội Chúng tỳ khưu có đức Phật là vị đứng đầu. Đức Thế Tôn sau khi hoàn tất phận sự về thọ thực ngài suy nghĩ rằng: “Nếu như ta thuyết giảng Giáo pháp cho nhóm người này ở đây, nơi này chật hẹp thì họ sẽ không có chỗ đứng (và) ngồi, nhưng có thể có được một hội nhóm lớn.”

Atha rājakulānaṃ bhattānumodanaṃ akatvāva pattaṃ gahetvā nagarato nikkhami. Manussā cintayiṃsu – ‘‘satthā amhākaṃ anumodanampi akatvā gacchati, addhā bhattaggaṃ amanāpaṃ ahosi, buddhānaṃ nāma na sakkā cittaṃ gahetuṃ, buddhehi saddhiṃ vissāsakaraṇaṃ nāma samussitaphaṇaṃ āsīvisaṃ gīvāya gahaṇasadisaṃ hoti; etha bho, tathāgataṃ khamāpessāmā’’ti. Sakalanagaravāsino bhagavatā saheva nikkhantā. Bhagavā gacchantova magadhakkhette ṭhitaṃ sākhāviṭapasampannaṃ sandacchāyaṃ karīsamattabhūmipatthaṭaṃ ekaṃ mātularukkhaṃ disvā imasmiṃ rukkhamūle nisīditvā dhamme desiyamāne ‘‘mahājanassa ṭhānanisajjanokāso bhavissatī’’ti. Nivattitvā maggā okkamma rukkhamūlaṃ upasaṅkamitvā dhammabhaṇḍāgārikaṃ ānandattheraṃ olokesi. Thero olokitasaññāya eva ‘‘satthā nisīditukāmo’’ti ñatvā sugatamahācīvaraṃ paññapetvā adāsi. Nisīdi bhagavā paññatte āsane. Athassa purato manussā nisīdiṃsu. Ubhosu passesu pacchato ca bhikkhusaṅgho, ākāse devatā aṭṭhaṃsu, evaṃ mahāparisamajjhagato tatra kho bhagavā bhikkhū āmantesi.

Sau đó, Đức Thế Tôn đã không ban lời tùy hỷ (phước báu) sau bữa ăn đến các vị thuộc dòng dõi hoàng tộc, Ngài đã cầm bình bát và rời khỏi thành phố. Những người ấy nghĩ rằng: “Đức Thế Tôn không ban lời tùy hỷ (phước báu) cho chúng ta mà đã ra đi. Chắc chắn là những món ăn thượng hạng này không hợp khẩu vị ngài, thật khó có thể để đoán được ý của chư Phật, việc làm quen với chư Phật cũng giống như nắm lấy cổ con rắn độc đang phùng mang; Này các vị hãy đến, chúng ta sẽ đi sám hối đức Như Lai.” Toàn bộ dân chúng trong thành phố đều đã rời khỏi cùng với đức Thế Tôn. Trong khi đang đi, Đức Thế Tôn đã nhìn thấy một cây Mātulā đứng sừng sững trên ruộng của người dân xứ Magadha, cành và lá sum suê tỏa rộng khoảng một mẫu đất, với suy nghĩ rằng: “Ta sẽ ngồi dưới gốc cây này, khi Ta thuyết giảng Giáo pháp, đại chúng sẽ có chỗ đứng và ngồi”. Ngài đã quay người lại để bước xuống con đường, sau khi đi đến gốc cây ngài đưa mắt nhìn trưởng lão Ānanda, là bậc giữ gìn kho tàng Pháp Bảo. Trưởng lão đã biết: “Bậc Đạo Sư có ý muốn ngồi xuống” chỉ nhờ sự nhận thức qua việc quan sát, nên đã trải tấm y lớn để cúng dường đến đức Thiện Thệ. Đức Thế Tôn ngự lên chỗ ngồi mà trưởng lão Ānanda đã trải. Sau đó, dân chúng ngồi phía trước đức Như Lai, Hội Chúng tỳ khưu ngồi hai bên và phía sau, chư Thiên thì đứng trên không trung. Đức Thế Tôn an trú ở giữa Hội Chúng lớn như vậy, tại nơi ấy, đức Thế Tôn đã bảo các vị tỳ khưu.

Te bhikkhūti tatra upaviṭṭhā dhammappaṭiggāhakā bhikkhū. Attadīpāti attānaṃ dīpaṃ tāṇaṃ leṇaṃ gatiṃ parāyaṇaṃ patiṭṭhaṃ katvā viharathāti attho. Attasaraṇāti idaṃ tasseva vevacanaṃ. Anaññasaraṇāti idaṃ aññasaraṇapaṭikkhepavacanaṃ. Na hi añño aññassa saraṇaṃ hoti, aññassa vāyāmena aññassa asujjhanato. Vuttampi cetaṃ ‘‘attā hi attano nātho, ko hi nātho paro siyā’’ti (dha. pa. 160). Tenāha ‘‘anaññasaraṇā’’ti. Ko panettha attā nāma, lokiyalokuttaro dhammo. Tenāha – ‘‘dhammadīpā dhammasaraṇā anaññasaraṇā’’ti. ‘‘Kāye kāyānupassī’’tiādīni mahāsatipaṭṭhāne vitthāritāni.

Này các tỳ khưu: các tỳ khưu là những người thọ nhận Pháp đã đi vào trong Hội Chúng ấy. Có bản thân là hòn đảo: các ngươi hãy tự mình làm hòn đảo, làm chỗ nương tựa, làm nơi ẩn náu, làm hướng đi (cảnh giới tái sanh), làm nơi nâng đỡ, làm chỗ nương tựa, rồi an trú. Có bản thân làm nơi nương tựa: đây là từ đồng nghĩa với từ ‘có bản thân là hòn đảo’. Không nương tựa nơi nào khác: đây là từ bác bỏ việc nương nhờ người khác. Thật vậy, người khác không thể là nơi nương tựa cho người khác, bởi vì một người không thể thanh tịnh bằng sự cố gắng của người khác. Và điều này đã được chính Đức Thế Tôn nói rằng: “Chính ta là người bảo hộ cho ta, còn người nào khác nữa có thể là người bảo hộ (cho ta)?” (dha. pa. 160); Vì thế, Đức Thế Tôn đã nói rằng: “không nương tựa nào khác”. Hơn nữa ‘có bản thân là hòn đảo’ này thì cái gì được gọi là ‘bản thân’, – Pháp Hiệp Thế và Pháp Siêu Thế. Do đó, đức Thế Tôn mới nói rằng – “Có Giáo pháp là hòn đảo, có Giáo Pháp là nơi nương tựa, không nương tựa nơi nào khác”. “Sống có sự quan sát thân ở thân, v.v,” đã được giải thích chi tiết trong bài Đại Kinh Thiết Lập Niệm.

Gocareti carituṃ yuttaṭṭhāne. Saketi attano santake. Pettike visayeti pitito āgatavisaye. Caratanti carantānaṃ. ‘‘Caranta’’ntipi pāṭho, ayamevattho. Na lacchatīti na labhissati na passissati. Māroti devaputtamāropi, maccumāropi, kilesamāropi. Otāranti randhaṃ chiddaṃ vivaraṃ. Ayaṃ panattho leḍḍuṭṭhānato nikkhamma toraṇe nisīditvā bālātapaṃ tapantaṃ lāpaṃ sakuṇaṃ gahetvā. Pakkhandasenasakuṇavatthunā dīpetabbo. Vuttañhetaṃ –

Ở hành xứ: ở nơi đúng đắn để đi lại. Của mình: là tài sản của chính mình. Ở lãnh vực thừa hưởng từ người cha: Ở lãnh vực mà được thừa hưởng từ người cha. Đi lại: đang đi lại. Pāḷī ‘caranta’ cũng có, ý nghĩa tương tự. Sẽ không đạt được: sẽ không đạt được, sẽ không nhìn thấy. Ma Vương: Thiên tử Ma Vương, Tử thần Ma Vương, hay phiền não Ma Vương. Cơ hội: dấu vết, kẽ hở. Hơn nữa, ý nghĩa này bậc trí nên trình bày với câu chuyện con chim ưng sau khi bắt lấy con chim cút vừa bay ra khỏi vạt đất bay đậu trên cổng mái vòm rồi phơi mình dưới ánh nắng ban mai. Và điều này đã được đức Thế Tôn thuyết rằng–

‘‘Bhūtapubbaṃ, bhikkhave, sakuṇagghi lāpaṃ sakuṇaṃ sahasā ajjhappattā aggahesi. Atha kho, bhikkhave, lāpo sakuṇo sakuṇagghiyā hariyamāno evaṃ paridevasi ‘mayamevamha alakkhikā, mayaṃ appapuññā, ye mayaṃ agocare carimha paravisaye, sacejja mayaṃ gocare careyyāma sake pettike visaye, na myāyaṃ sakuṇagghi alaṃ abhavissa yadidaṃ yuddhāyā’ti. Ko pana te lāpa gocaro sako pettiko visayoti? Yadidaṃ naṅgalakaṭṭhakaraṇaṃ leḍḍuṭṭhānanti. Atha kho, bhikkhave, sakuṇagghi sake bale apatthaddhā sake bale asaṃvadamānā lāpaṃ sakuṇaṃ pamuñci gaccha kho tvaṃ lāpa, tatrapi gantvā na mokkhasīti.

Trong thời quá khứ, này các tỳ khưu, một con chim ưng thình lình vồ xuống và chụp lấy một con chim cút. Khi ấy, này các tỳ khưu, con chim cút bị con chim ưng bắt, than khóc như vầy: “– Như thế này, thật bất hạnh cho tôi! Thật thiếu công đức cho tôi! Vì rằng tôi đã đi không phải chỗ hành xứ của mình, đi vào cảnh giới của người khác. Nếu tôi đi trong chỗ hành xứ của tôi, trong cảnh giới của cha mẹ tôi, thời con chim ưng này không thể hơn tôi, nếu phải đánh nhau”. “– Này chim cút, thế nào là chỗ hành xứ của ngươi, thế nào là cảnh giới của cha mẹ ngươi?” — “Là vạt đất được lưỡi cày xới lên”.

Atha kho, bhikkhave, lāpo sakuṇo naṅgalakaṭṭhakaraṇaṃ leḍḍuṭṭhānaṃ gantvā mahantaṃ leḍḍuṃ abhiruhitvā sakuṇagghiṃ vadamāno aṭṭhāsi ‘‘ehi kho dāni me sakuṇagghi, ehi kho dāni me sakuṇagghī’’ti. Atha kho sā, bhikkhave, sakuṇagghi sake bale apatthaddhā sake bale asaṃvadamānā ubho pakkhe sannayha lāpaṃ sakuṇaṃ sahasā ajjhappattā. Yadā kho, bhikkhave, aññāsi lāpo sakuṇo bahuāgatā kho myāyaṃ sakuṇagghīti, atha kho tasseva leḍḍussa antaraṃ paccupādi. Atha kho, bhikkhave, sakuṇagghi tattheva uraṃ paccatāḷesi. Evañhi taṃ, bhikkhave, hoti yo agocare carati paravisaye.

Khi ấy, này các tỳ khưu, con chim ưng không có siết mạnh sức mạnh của mình, không có bóp chặt sức mạnh của mình, thả con chim cút rồi nói: — “Hãy đi, này chim cút. Sau khi đi tại chỗ ấy, ta sẽ không thả cho ngươi”. Rồi này các tỳ khưu, con chim cút đi đến vạt đất được lưỡi cày xới lên, leo lên một hòn đất lớn, đứng trên ấy và nói với con chim ưng: “– Này chim ưng! Hãy đến ta. Này chim ưng! Hãy đến ta” Rồi này các tỳ khưu, con chim ưng siết chặt sức mạnh của mình, bóp chặt sức mạnh của mình, xếp cả hai cánh, thình lình vồ lấy con chim cút. Này các tỳ khưu, khi con chim cút biết được: “Con chim ưng này đang vồ mạnh xuống ta”, liền nấp sau hốc đất ấy. Này các tỳ khưu, ở đây, con chim ưng bị bể ngực. Cũng vậy, này các tỳ khưu, đối với ai đi tới chỗ không phải hành xứ của mình, đi đến cảnh giới của người khác.

Tasmātiha, bhikkhave, mā agocare carittha paravisaye, agocare, bhikkhave, carataṃ paravisaye lacchati māro otāraṃ, lacchati māro ārammaṇaṃ. Ko ca, bhikkhave, bhikkhuno agocaro paravisayo, yadidaṃ pañca kāmaguṇā. Katame pañca? Cakkhuviññeyyā rūpā iṭṭhā kantā manāpā piyarūpā kāmūpasaṃhitā rajanīyā, sotaviññeyyā saddā iṭṭhā kantā manāpā piyarūpā kāmūpasaṃhitā rajanīyā, ghānaviññeyyā gandhā iṭṭhā kantā manāpā piyarūpā kāmūpasaṃhitā rajanīyā, jivhāviññeyyā rasā iṭṭhā kantā manāpā piyarūpā kāmūpasaṃhitā rajanīyā, kāyaviññeyyā phoṭṭhabbā iṭṭhā kantā manāpā piyarūpā kāmūpasaṃhitā rajanīyā. Ayaṃ, bhikkhave, bhikkhuno agocaro paravisayo.

Do vậy, này các tỳ khưu, chớ có đi đến chỗ không phải hành xứ của mình, chỗ cảnh giới của người khác. Này các tỳ khưu, đi đến chỗ không phải hành xứ của mình, đi đến cảnh giới của người khác, thời Ma Vương nắm được cơ hội, Ma Vương nắm được đối tượng. Này các tỳ khưu, chỗ nào không phải hành xứ của tỳ khưu? Chỗ nào là cảnh giới của người khác? Chính là năm loại dục lạc. Thế nào là năm? Có các sắc do mắt nhận thức khả lạc, khả hỷ, khả ý, khả ái, liên hệ đến dục, hấp dẫn. Có các tiếng do tai nhận thức khả lạc, khả hỷ, khả ý, khả ái, liên hệ đến dục, hấp dẫn. Có các hương do mũi nhận thức khả lạc, khả hỷ, khả ý, khả ái, liên hệ đến dục, hấp dẫn. Có các vị do lưỡi nhận thức khả lạc, khả hỷ, khả ý, khả ái, liên hệ đến dục, hấp dẫn. Có các xúc do thân nhận thức khả lạc, khả hỷ, khả ý, khả ái, liên hệ đến dục, hấp dẫn. Này các tỳ khưu, đây là chỗ không phải hành xứ của tỳ khưu, chỗ cảnh giới của người khác.

Gocare, bhikkhave, caratha…pe… na lacchati māro ārammaṇaṃ. Ko ca, bhikkhave, bhikkhuno gocaro sako pettiko visayo, yadidaṃ cattāro satipaṭṭhānā. Katame cattāro? Idha bhikkhave, bhikkhu kāye kāyānupassī viharati ātāpī sampajāno satimā, vineyya loke abhijjhādomanassaṃ; vedanāsu vedanānupassī viharati ātāpī sampajāno satimā, vineyya loke abhijjhādomanassaṃ; citte cittānupassī viharati ātāpī sampajāno satimā, vineyya loke abhijjhādomanassaṃ; dhammesu dhammānupassī viharati ātāpī sampajāno satimā, vineyya loke abhijjhādomanassaṃ – ayaṃ, bhikkhave, bhikkhuno gocaro sako pettiko visayoti (saṃ. ni. 5.371).

Này các tỳ khưu, hãy đi đến chỗ hành xứ của mình, chỗ cảnh giới của cha mẹ mình. Này các tỳ khưu, đi đến chỗ hành xứ của mình, đến cảnh giới của cha mẹ mình, thời Ma Vương không nắm được cơ hội, không nắm được đối tượng. Và này các tỳ khưu, chỗ nào là chỗ hành xứ của tỳ khưu? Chỗ nào là cảnh giới của cha mẹ? Chính là bốn sự thiết lập niệm. Thế nào là bốn? Ở đây, này các tỳ khưu, tỳ khưu sống có sự quan sát thân trên thân, có nhiệt tâm, có sự nhận biết rõ, có niệm, sau khi đã loại trừ tham đắm và ưu phiền ở thế gian; (vị tỳ khưu) sống có sự quan sát thọ trên các thọ, có nhiệt tâm, có sự nhận biết rõ, có niệm, sau khi đã loại trừ tham đắm và ưu phiền ở thế gian; (vị tỳ khưu) sống có sự quan sát tâm trên tâm có nhiệt tâm, có sự nhận biết rõ, có niệm, sau khi đã loại trừ tham đắm và ưu phiền ở thế gian; (vị tỳ khưu) sống có sự quan sát pháp trên các pháp, có nhiệt tâm, có sự nhận biết rõ, có niệm, sau khi đã loại trừ tham đắm và ưu phiền ở thế gian. Này các tỳ khưu, đây là chỗ hành xứ của mình, chỗ cảnh giới của cha mẹ mình. (saṃ. ni. 5.371).

Kusalānanti anavajjalakkhaṇānaṃ. Samādānahetūti samādāya vattanahetu. Evamidaṃ puññaṃ pavaḍḍhatīti evaṃ idaṃ lokiyalokuttaraṃ puññaphalaṃ vaḍḍhati, puññaphalanti ca uparūpari puññampi puññavipākopi veditabbo.

Các thiện pháp: các pháp không có lỗi lầm là tướng trạng. Do nhân thọ trì: do nhận thọ trì rồi thực hành. Như vậy phước báu này tăng trưởng: Như vậy, quả của những phước báu là Hiệp Thế và Siêu Thế này được tăng trưởng, và quả của những phước báu ấy cũng nên biết rằng bao gồm cả phước báu và kết quả của phước báu ở các cõi cao.

Giải thích về vua Chuyển Luân Vương Daḷhanemi

81. Tattha duvidhaṃ kusalaṃ vaṭṭagāmī ca vivaṭṭagāmī ca. Tattha vaṭṭagāmikusalaṃ nāma mātāpitūnaṃ puttadhītāsu puttadhītānañca mātāpitūsu sinehavasena mudumaddavacittaṃ. Vivaṭṭagāmikusalaṃ nāma ‘‘cattāro satipaṭṭhānā’’tiādibhedā sattatiṃsa bodhipakkhiyadhammā. Tesu vaṭṭagāmipuññassa pariyosānaṃ manussaloke cakkavattisirīvibhavo. Vivaṭṭagāmikusalassa maggaphalanibbānasampatti. Tattha vivaṭṭagāmikusalassa vipākaṃ suttapariyosāne dassessati.

81. Ở đây (quả của những phước báu) ấy thì Thiện có hai loại: Thiện là đạo lộ dẫn đến luân hồi, và thiện là đạo lộ xuất luân hồi. Trong hai loại thiện nghiệp đó, tâm nhu nhuyến do tác động tình yêu thương của cha mẹ đối với con cái và của con cái có đối với cha mẹ được gọi là thiện đưa đến vòng luân hồi. Ba mươi bảy pháp trợ giác ngộ được chia thành “bốn sự thiết lập niệm, v.v,” được gọi là thiện đưa đến xuất luân hồi. Trong hai loại thiện ấy, đối với thiện. Trong những thiện nghiệp đó, sự tận cùng (kết quả cao nhất) của thiện đưa đến vòng luân hồi là sự thành tựu bản thể vinh hiển của Chuyển Luân Vương trong cõi nhân loại. Còn sự tận cùng của thiện đưa đến xuất khỏi luân hồi là sự thanh tựu Đạo Quả, và Niết Bàn. Ở đấy, đức Thế Tôn sẽ thuyết giảng quả báo của thiện đưa đến luân hồi ở cuối của bài Kinh.

Idha pana vaṭṭagāmikusalassa vipākadassanatthaṃ, bhikkhave, yadā puttadhītaro mātāpitūnaṃ ovāde na aṭṭhaṃsu, tadā āyunāpi vaṇṇenāpi issariyenāpi parihāyiṃsu. Yadā pana aṭṭhaṃsu, tadā vaḍḍhiṃsūti vatvā vaṭṭagāmikusalānusandhivasena ‘‘bhūtapubbaṃ, bhikkhave’’ti desanaṃ ārabhi. Tattha cakkavattītiādīni mahāpadāne (dī. ni. aṭṭha. 2.33) vitthāritāneva.

Nhưng ở đây, để trình bày quả báo của thiện đưa đến luân hồi, Ngài mới thuyết rằng: “Này các tỳ khưu, khi nào con cái không vâng lời cha mẹ, khi ấy chúng sẽ suy giảm tuổi thọ, sắc đẹp và cả uy quyền. Nhưng khi nào chúng vâng lời, khi ấy chúng sẽ tăng trưởng.” Rồi Ngài bắt đầu thuyết giảng Pháp thoại với sức mạnh của sự tiếp nối thiện đưa đến luân hồi bằng câu “Trong quá khứ, này các tỳ khưu, v.v.” Trong số những từ ấy, “đức Chuyển Luân Vương” đã được giảng giải chi tiết trong bài Kinh Mahāpadāna. (dī. ni. aṭṭha. 2.33).

82. Osakkitanti īsakampi avasakkitaṃ. Ṭhānā cutanti sabbaso ṭhānā apagataṃ. Taṃ kira cakkaratanaṃ antepuradvāre akkhāhataṃ viya vehāsaṃ aṭṭhāsi. Athassa ubhosu passesu dve khadiratthambhe nikhaṇitvā cakkaratanamatthake nemiabhimukhaṃ ekaṃ suttakaṃ bandhiṃsu. Adhobhāgepi nemiabhimukhaṃ ekaṃ bandhiṃsu. Tesu uparimasuttato appamattakampi ogataṃ cakkaratanaṃ osakkitaṃ nāma hoti, heṭṭhā suttassa ṭhānaṃ uparimakoṭiyā atikkantagataṃ ṭhānā cutaṃ nāma hoti, tadetaṃ atibalavadose sati evaṃ hoti. Suttamattampi ekaṅguladvaṅgulamattaṃ vā bhaṭṭhaṃ ṭhānā cutameva hoti. Taṃ sandhāyetaṃ vuttaṃ ‘‘osakkitaṃ ṭhānā cuta’’nti.

82. Bị lún xuống: hơi hạ xuống một chút. Bị lệch khỏi vị trí: toàn bộ đã rời khỏi vị trí. Được biết rằng bánh xe báu đó đã bay lên và lơ lửng trên không trung như được dẫn đi bởi bánh xe, ở phía trên cổng cung điện bên trong. Khi ấy, đức vua ra lệnh chôn hai cây cột trụ bằng cây nhục quế ở hai bên bánh xe đó. Ở đỉnh trên của bánh xe báu, buộc một sợi chỉ sao cho thẳng với vành bánh xe. Ngay cả ở phía dưới, cũng buộc một sợi chỉ sao cho thẳng với vành bánh xe. Bánh xe báu chỉ hơi hạ thấp xuống một chút từ một sợi ở phía trên trong số hai sợi ấy bị chùng xuống, đầu mút của bánh xe báu vượt quá vị trí của sợi chỉ dưới, gọi là đã lệch khỏi vị trí. Khi có lỗi rất lớn bánh xe báu này đây sẽ trở nên như vậy, tức là lệch khỏi vị trí dù chỉ chừng một sợi chỉ hoặc chừng một lóng tay, hai lóng tay. Ngài muốn đề cập đến nhân ấy mới nói rằng: “bị lún xuống, bị lệch khỏi vị trí”.

Atha me āroceyyāsīti tāta, tvaṃ ajja ādiṃ katvā divasassa tikkhattuṃ cakkaratanassa upaṭṭhānaṃ gaccha, evaṃ gacchanto yadā cakkaratanaṃ īsakampi osakkitaṃ ṭhānā cutaṃ passasi, atha mayhaṃ ācikkheyyāsi. Jīvitañhi me tava hatthe nikkhittanti. Addasāti appamatto divasassa tikkhattuṃ gantvā olokento ekadivasaṃ addasa.

Nên lập tức báo tin cho trẫm: Đức vua truyền rằng: “Này ái khanh, kể từ ngày hôm nay trở đi, khanh hãy đến chăm sóc bánh xe báu mỗi ngày ba lần, trong khi khanh đi như vậy, khi nào nhìn thấy bánh xe báu nghiêng bị lún xuống, bị lệch khỏi vị trí dù chỉ một chút, khi ấy hãy báo tin cho trẫm biết ngay lập tức. Bởi vì, mạng sống của trẫm đã giao phó vào tay của khanh. Đã nhìn thấy: người nam ấy không hề lơ là, đã đi xem mỗi ngày ba lần và một ngày nọ đã thấy (bánh xe báu bị lún xuống, bị lệch khỏi vị trí).

83. Athakho, bhikkhaveti bhikkhave, atha rājā daḷhanemi ‘‘cakkaratanaṃ osakkita’’nti sutvā uppannabalavadomanasso ‘‘na dāni mayā ciraṃ jīvitabbaṃ bhavissati, appāvasesaṃ me āyu, na me dāni kāme paribhuñjanakālo, pabbajjākālo me idānī’’ti roditvā paridevitvā jeṭṭhaputtaṃ kumāraṃ āmantāpetvā etadavoca. Samuddapariyantanti parikkhittaekasamuddapariyantameva. Idaṃ hissa kulasantakaṃ. Cakkavāḷapariyantaṃ pana puññiddhivasena nibbattaṃ, na taṃ sakkā dātuṃ. Kulasantakaṃ pana niyyātento ‘‘samuddapariyanta’’nti āha. Kesamassunti tāpasapabbajjaṃ pabbajantāpi hi paṭhamaṃ kesamassuṃ ohārenti. Tato paṭṭhāya parūḷhakese bandhitvā vicaranti. Tena vuttaṃ – ‘‘kesamassuṃ ohāretvā’’ti.

83. Khi ấy, này các tỳ khưu: Đức Thế Tôn đã nói rằng : Này các tỳ khưu, khi ấy đức vua Daḷhanemi nghe rằng: “Bánh xe báu bị lún xuống” liền khởi lên nỗi ưu phiền dữ dội, nghĩ rằng: “Trẫm sẽ không sống được lâu nữa, tuổi thọ của trẫm còn rất ít. Bây giờ, trẫm sẽ không có thời gian để thụ hưởng dục lạc nữa, (và) bây giờ là thời điểm xuất gia của trẫm,” đức vua đã rên rỉ bi thương, sai người cho gọi hoàng tử, người con trai trưởng đến và nói những lời này. Được bao quanh bởi biển cả: Có biển bao quanh làm ranh giới. Thật vậy, tài sản là đất đai này vốn dĩ là tài sản riêng của dòng dõi hoàng gia của vị vua ấy. Hơn nữa, bánh xe báu đó có cả vũ trụ làm ranh giới, xuất hiện do nhờ sức mạnh của phước báu (mà) không có bất kỳ ai có thể trao tặng cho nhau được. Vậy nên, khi đức vua muốn trao lại bánh xe báu vốn là tài sản riêng của dòng dõi hoàng gia, nên đã nói rằng “được bao quanh bởi biển cả”. Cạo bỏ râu tóc: bởi vì tất cả mọi người, ngay cả khi muốn xuất gia làm đạo sĩ, cũng cạo bỏ tóc và râu trước, kể từ đó mới búi tóc đã mọc lên và đi đây đó. Vì thế, ngài đã nói “sẽ cạo bỏ râu tóc”.

Kāsāyānīti kasāyarasapītāni. Ādito evaṃ katvā pacchā vakkalānipi dhārenti. Pabbajīti pabbajito. Pabbajitvā ca attano maṅgalavanuyyāneyeva vasi. Rājisimhīti rājaīsimhi. Brāhmaṇapabbajitā hi ‘‘brāhmaṇisayo’’ti vuccanti. Setacchattaṃ pana pahāya rājapabbajitā rājisayoti. Antaradhāyīti antarahitaṃ nibbutadīpasikhā viya abhāvaṃ upagataṃ. Paṭisaṃvedesīti kandanto paridevanto jānāpesi. Pettikanti pitito āgataṃ dāyajjaṃ na hoti, na sakkā kusītena hīnavīriyena dasa akusalakammapathe samādāya vattantena pāpuṇituṃ. Attano pana sukataṃ kammaṃ nissāya dasavidhaṃ dvādasavidhaṃ vā cakkavattivattaṃ pūrentenevetaṃ pattabbanti dīpeti. Atha naṃ vattapaṭipattiyaṃ codento ‘‘iṅgha tva’’ntiādimāha. Tattha ariyeti niddose. Cakkavattivatteti cakkavattīnaṃ vatte.

(Khoác lên các) y màu ca-sa: những y phục được nhuộm bằng nước vỏ cây. Giải thích rằng ban đầu đã làm như vậy, về sau thậm chí còn mặc cả y vỏ cây. Xuất gia: đã xuất gia. Và sau khi xuất gia, Ngài đã ngự tại khu vườn thượng uyển kiết tường của riêng mình. Khi vị vua ẩn sĩ: vị vua ẩn sĩ. Thật vậy, người xuất gia từ giai cấp Bà-la-môn được gọi là Bà-la-môn ẩn sĩ. Còn người từ bỏ cây lọng trắng, xuất gia từ giai cấp Sát-đế-lỵ được gọi là vua ẩn sĩ. Đã biến mất: đã biến mất, đã đi đến tính chất không có tựa như ngọn đèn đã tắt. Đã bộc lộ: (Hoàng tử) trong lúc than vãn bi thương đã tâu trình cho (đức vua) biết. (Không phải) là tài sản thừa kế từ người cha: ngài chỉ ra rằng đó không phải là tài sản thừa kế từ phía người cha, mà bất cứ ai có sự lười biếng, có sự tinh tấn kém cỏi, thọ trì thực hành mười đường lối tạo bất thiện nghiệp thì không thể đạt được. Nhưng chỉ những người nương nhờ vào nghiệp lành do chính bản thân đã tạo, thực hành mười hoặc mười hai phận sự của vị Chuyển Luân Vương mới đạt được bánh xe báu đó. Khi ấy, vua ẩn sĩ sau khi đã khuyên răn hoàng tử thực hành các phận sự, nên đã nói những lời như “Nào, này con yêu, con hãy thực hành các phận sự…” Thực hành các phận sự đó, sự cao quý là không lỗi lầm. Vị Chuyển Luân: phận sự của vị Chuyển Luân.

Giảng về phận sự cao quý của vị Chuyển Luân

84. Dhammanti dasakusalakammapathadhammaṃ. Nissāyāti tadadhiṭṭhānena cetasā tameva nissayaṃ katvā. Dhammaṃ sakkarontoti yathā kato so dhammo suṭṭhu kato hoti, evametaṃ karonto. Dhammaṃ garuṃ karontoti tasmiṃ gāravuppattiyā taṃ garuṃ karonto. Dhammaṃ mānentoti tameva dhammaṃ piyañca bhāvanīyañca katvā viharanto. Dhammaṃ pūjentoti taṃ apadisitvā gandhamālādipūjanenassa pūjaṃ karonto. Dhammaṃapacayamānoti tasseva dhammassa añjalikaraṇādīhi nīcavuttitaṃ karonto. Dhammaddhajodhammaketūti taṃ dhammaṃ dhajamiva purakkhatvā ketumiva ca ukkhipitvā pavattiyā dhammaddhajo dhammaketu ca hutvāti attho.

84. Pháp: pháp ở trường hợp này là mười đường lối tạo nghiệp thiện. Sau khi nương tựa: sau khi lấy chỉ mỗi pháp làm nơi nương tựa, với tâm đã phát nguyên kiên cố vào pháp đó. Trong khi trọng vọng pháp: pháp đó đã được vị ấy thực hành, đã thực hành tốt đẹp như thế nào, thì ngài cũng thực hành pháp đó tương tự như thế ấy. Trong khi cung kính pháp: Thực hiện sự tôn kính pháp đó bằng cách làm cho khởi khởi lên sự tôn kính. Trong khi sùng bái pháp: Trong lúc an trú, đã làm cho pháp đó trở nên đáng yêu và xứng đáng tôn trọng. Trong khi cúng dường pháp: viện dẫn chứng pháp đó rồi thực hiện sự cúng dường đối với pháp đó bằng sự cúng dường các lễ vật như vật thơm và tràng hoa v.v. Trong khi nể nang pháp: Trong khi thực hiện hành vi cung kính đối với chính pháp đó bằng những hành động thích hợp như chắp tay v.v. Với pháp là biểu hiệu, với pháp là ngọn cờ: giải thích rằng- được gọi là có pháp như biểu hiệu và có pháp là ngọn cờ, bởi sự tôn vinh pháp đó đã được đặt phía trước như ngọn cờ và đã nâng pháp đó lên làm biểu hiệu tựa như ngọn cờ rồi thực hành.

Dhammādhipateyyoti dhammādhipatibhūto āgatabhāvena dhammavaseneva sabbakiriyānaṃ karaṇena dhammādhipateyyo hutvā. Dhammikaṃ rakkhāvaraṇaguttiṃ saṃvidahassūti dhammo assā atthīti dhammikā, rakkhā ca āvaraṇañca gutti ca rakkhāvaraṇagutti. Tattha ‘‘paraṃ rakkhanto attānaṃ rakkhatī’’ti (saṃ. ni. 5.385) vacanato khantiādayo rakkhā. Vuttañhetaṃ ‘‘kathañca, bhikkhave, paraṃ rakkhanto attānaṃ rakkhati. Khantiyā avihiṃsāya mettacittatā anuddayatā’’ti (saṃ. ni. 5.385). Nivāsanapārupanagehādīnaṃ nivāraṇā āvaraṇaṃ, corādiupaddavanivāraṇatthaṃ gopāyanā gutti, taṃ sabbampi suṭṭhu saṃvidahassu pavattaya ṭhapehīti attho. Idāni yattha sā saṃvidahitabbā, taṃ dassento antojanasmintiādimāha.

Với pháp là chủ đạo: có pháp làm chủ đạo, tức là có bản thể pháp làm trưởng bởi vì trạng thái của pháp đã có và bởi vì thực hiện mọi hành động bằng chính mãnh lực các pháp. Hãy sắp xếp sự bảo vệ, sự che chở và sự trông nom đúng pháp: Pháp của sự bảo vệ hiện hữu, vì nguyên nhân ấy, sự bảo vệ đó được gọi là có pháp. Sự bảo vệ, sự che chở và sự trông nom được gọi là sự bảo vệ, sự che chở và sự trông nom. Ở đó, các pháp như kham nhẫn v.v. được gọi là sự bảo vệ, bởi vì Chánh Văn Pāḷī trình bày rằng: “Trong khi bảo vệ người khác, cũng là bảo vệ chính mình.” (saṃ. ni. 5.385); Thật vậy, điều này đã được nói rằng: “Và này các tỳ khưu, thế nào trong khi bảo vệ người khác, là bảo vệ cho mình? Do sự nhẫn nại, do sự không hãm hại, do sự hành trì tâm từ ái và do sự trắc ẩn.” (saṃ. ni. 5.385); Sự bảo vệ các vật dụng như chăn mền, nhà cửa v.v…, được gọi là sự che chở, sự bảo vệ. Sự che chở nhằm ngăn ngừa các tai họa như sự tấn công của kẻ trộm v.v…, gọi là sự che chở, có nghĩa là con hãy sắp xếp mọi phận sự ấy để chúng được vận hành, và duy trì một cách tốt đẹp. Bây giờ, khi thuyết giảng những thứ có thể sắp xếp sự bảo vệ, sự che chở và sự trông nom thì vua chúa ẩn sĩ đã nói rằng: “cho mọi người trong gia đình, v.v.

Tatrāyaṃ saṅkhepattho – antojanasaṅkhātaṃ tava puttadāraṃ sīlasaṃvare patiṭṭhapehi, vatthagandhamālādīni cassa dehi, sabbopaddave cassa nivārehi. Balakāyādīsupi eseva nayo. Ayaṃ pana viseso – balakāyo kālaṃ anatikkamitvā bhattavetanasampadānenapi anuggahetabbo. Abhisittakhattiyā bhadrassājāneyyādiratanasampadānenapi upasaṅgaṇhitabbā. Anuyantakhattiyā tesaṃ anurūpayānavāhanasampadānenapi paritosetabbā. Brāhmaṇā annapānavatthādinā deyyadhammena. Gahapatikā bhattabījanaṅgalaphālabalibaddādisampadānena. Tathā nigamavāsino negamā, janapadavāsino ca jānapadā. Samitapāpabāhitapāpā samaṇabrāhmaṇā samaṇaparikkhārasampadānena sakkātabbā. Migapakkhino abhayadānena samassāsetabbā.

Trong trường hợp này có ý nghĩa tóm tắt như sau – “cho mọi người trong gia đình,” Con hãy cho con cái và vợ (của con), tức là những người trong nhà, an trú trong sự thu thúc giới, hãy cho đến họ các vật phẩm như vải vóc, tràng hoa và hương thơm v.v., và hãy bảo vệ họ tránh khỏi mọi sự rủi ro. Luôn cả trong tập thể quân đội cũng áp dụng cách thức tương tự. Nhưng có sự khác biệt như sau: tập thể quân đội mà nhà vua nên hỗ trợ bằng cách tăng thêm bổng lộc, thưởng không để quá thời gian. Sát-đế-lỵ được làm lễ phong vương nên giúp đỡ bằng cách ban phát các loại châu báu như ngựa thuần chủng hiền thiện v.v. Các Sát-đế-lỵ chư hầu nên được làm hài lòng bằng việc ban phát những phương tiện di chuyển phù hợp với địa vị của họ. Các Bà-la-môn nên được làm hài lòng bằng những phẩm vật cúng dường như cơm, nước và y phục v.v. Các gia chủ nên được giúp đỡ bằng cách ban phát các giống lúa, cày, bừa và bò kéo, v.v. Những người sống ở thị trấn gọi là cư dân ở thị trấn, và những người sống ở nông thôn gọi là cư dân ở nông thôn, cũng tương tự (tức là nên được giúp đỡ bằng cách ban phát giống lúa, cày, bừa và bò kéo v.v.). Các vị Sa-môn và Bà-la-môn có ác pháp đã được yên lặng, có ác pháp đã được thả trôi nên được trọng vọng bằng việc cúng dường các vật dụng thiết yếu dành cho Sa-môn và Bà-la-môn. Các loài thú và các loài chim nên cho sự an tâm bằng cách cho sự an toàn (không săn bắt, không giết).

Vijiteti attano āṇāpavattiṭṭhāne. Adhammakāroti adhammakiriyā. Mā pavattitthāti yathā nappavattati, tathā naṃ paṭipādehīti attho. Samaṇabrāhmaṇāti samitapāpabāhitapāpā. Madappamādāpaṭiviratāti navavidhā mānamadā, pañcasu kāmaguṇesu cittavossajjanasaṅkhātā pamādā ca paṭiviratā. Khantisoracce niviṭṭhāti adhivāsanakhantiyañca suratabhāve ca patiṭṭhitā. Ekamattānanti attano rāgādīnaṃ damanādīhi ekamattānaṃ damenti samenti parinibbāpentīti vuccanti. Kālena kālanti kāle kāle . Abhinivajjeyyāsīti gūthaṃ viya visaṃ viya aggiṃ viya ca suṭṭhu vajjeyyāsi. Samādāyāti surabhikusumadāmaṃ viya amataṃ viya ca sammā ādāya pavatteyyāsi.

Trong lãnh thổ: Trong lãnh địa thuộc quyền cai trị của mình. Việc làm phi pháp: Hành động phi pháp. Chớ để xảy ra: có nghĩa là hãy ngăn chặn hành động phi pháp đó không cho nó xảy ra. Sa-môn và Bà-la-môn: bao gồm những vị có ác pháp đã được yên lặng, có các ác pháp đã được thả trôi. Đã xa lánh sự kiêu hãnh và sự xao lãng: Đã tránh xa sự say đắm do tác động chín loại ngã mạn và sự xao lãng được xem là để tâm buông lung theo năm loại dục. Đã hình thành sự nhẫn nại và sự nhã nhặn: an trú trong sự nhẫn nại tối thắng và trong bản thể điềm đạm. Chính bản thân: Các Sa-môn và Bà-la-môn, được nói rằng tự điều phục bản thân, an tịnh (chính bản thân), thuần hóa (chính bản thân), hoàn toàn tịch tịnh chính bản thân bằng cách chế ngự các ô nhiễm như ái luyến v.v, của chính mình. Thỉnh thoảng: mọi thời. Con nên tránh hẳn: Nên tránh xa những điều bất thiện, những thứ được ví như phân, như thuốc độc và như ngọn lửa. Nên thọ trì: Nên nắm giữ những điều thiện được ví như vòng hoa thơm ngát và được ví như nước bất tử, rồi thực hành một cách đúng đắn.

Idha ṭhatvā vattaṃ samānetabbaṃ. Antojanasmiṃ balakāyepi ekaṃ, khattiyesu ekaṃ, anuyantesu ekaṃ, brāhmaṇagahapatikesu ekaṃ, negamajānapadesu ekaṃ, samaṇabrāhmaṇesu ekaṃ, migapakkhīsu ekaṃ, adhammakārappaṭikkhepo ekaṃ, adhanānaṃ dhanānuppadānaṃ ekaṃ samaṇabrāhmaṇe upasaṅkamitvā pañhapucchanaṃ ekanti evametaṃ dasavidhaṃ hoti. Gahapatike pana pakkhijāte ca visuṃ katvā gaṇentassa dvādasavidhaṃ hoti. Pubbe avuttaṃ vā gaṇentena adhammarāgassa ca visamalobhassa ca pahānavasena dvādasavidhaṃ veditabbaṃ. Idaṃ kho tāta tanti idaṃ dasavidhaṃ dvādasavidhañca ariyacakkavattivattaṃ nāma. Vattamānassāti pūretvā vattamānassa. Tadahuposathetiādi mahāsudassane vuttaṃ.

(Bậc trí) sau khi an trú vào Pháp thiện này, nên thực hành thường xuyên các phận sự ấy. Điều này (phận sự này) có mười loại như vầy là phận sự nên được thực hành – (1) trong tập thể quân đội là những người thuộc nội bộ, (2) đối với các Sát-đế-lỵ, (3) đối với các Sát-đế-lỵ chư hầu, (4) đối với Bà-la-môn và gia chủ, (5) đối với các cư dân ở thị trấn và cư dân ở nông thôn, (6) đối với các Sa-môn và Bà-la-môn, (7) đối với các loài thú và các loài chim, (8) việc ngăn chặn các việc làm phi pháp, (9) việc ban phát của cải cho người không có của cải, (10) việc đi đến gặp các Sa-môn và Bà-la-môn rồi hỏi các câu hỏi. Nhưng nếu tách gia chủ và các loài chim thành một nhóm thì sẽ có mười hai loại. Bởi người liệt kê không nói trước đó, (nhưng) nên biết rằng mười hai phận sự do tác động việc dứt bỏ ái luyến bất chính và tà tham v.v. Này con yêu, đay là phận sự cao quý…: Cả mười phận sự và mười hai phận sự này được gọi là phận sự cao quý của vị Chuyển Luân. Đã thực hành: đã thực hành cho trọn vẹn. Vào ngày trai giới: đã được nói trong bài Kinh Mahāsudassana.

90. Samatenāti attano matiyā. Sudanti nipātamattaṃ. Pasāsatīti anusāsati. Idaṃ vuttaṃ hoti – Porāṇakaṃ rājavaṃsaṃ rājapaveṇiṃ rājadhammaṃ pahāya attano matimatte ṭhatvā janapadaṃ anusāsatīti. Evamayaṃ maghadevavaṃsassa kaḷārajanako viya daḷhanemivaṃsassa upacchedako antimapuriso hutvā uppanno. Pubbenāparanti pubbakālena sadisā hutvā aparakālaṃ. Janapadā na pabbantīti na vaḍḍhanti. Yathā taṃ pubbakānanti yathā pubbakānaṃ rājūnaṃ pubbe ca pacchā ca sadisāyeva hutvā pabbiṃsu, tathā na pabbanti. Katthaci suññā honti hataviluttā, telamadhuphāṇitādīsu ceva yāgubhattādīsu ca ojāpi parihāyitthāti attho.

90. Theo ý kiến của mình: Theo chủ kiến của bản thân. Sudaṃ: chỉ là một phân từ. Cai trị: cai trị. Điều này được nói là – Nhà vua đã từ bỏ dòng dõi vua chúa truyền thống, tức là từ bỏ những vương pháp là truyền thống của vương triều, chỉ thiết lập theo ý kiến riêng của bản thân để cai trị xứ sở. Khi như vậy, vị vua này đã trở thành vị vua cuối cùng, là người đã cắt đứt dòng dõi của vua Daḷhanemi, giống như người tạo ra vết nhơ cho dòng dõi của Maghadeva. Giống như trước đây: Vào thời gian sau này… đã không còn giống như thời gian trước đây. Các xứ sở…đã không phát triển: không còn phát triển như trước nữa. Như là khi chúng được cai trị bởi các vị vua tiền triều: dân chúng đã thịnh vượng đồng đều cả trong thời kỳ đầu và thời kỳ sau của các vị vua tiền triều như thế nào, thì nay không còn thịnh vượng như vậy nữa, tức là ở đâu cũng rỗng không, bị trộm cướp bốc tàn phá. Giải thích rằng ngay cả các chất dinh dưỡng trong dầu, mật ong, đường mía v.v. và trong cháo, cơm v.v. cũng suy giảm.

Amaccā pārisajjāti amaccā ceva parisāvacarā ca. Gaṇakamahāmattāti acchiddakādipāṭhagaṇakā ceva mahāamaccā ca. Anīkaṭṭhāti hatthiācariyādayo. Dovārikāti dvārarakkhino. Mantassājīvinoti mantā vuccati paññā, taṃ nissayaṃ katvā ye jīvanti paṇḍitā mahāmattā, tesaṃ etaṃ nāmaṃ.

Các quan cố vấn, các tùy tùng: Các quan cố vấn và người đi theo hội chúng. Các thầy chiêm tinh, các quan đại thần: Các nhà chiêm tinh thông thạo các văn bản có tính quyết đoán, đoán điềm vải rách v.v., và các vị đại thần cấp cao. Các cận vệ: Các thầy huấn luyện voi v.v. Các người giữ cổng: Người bảo vệ cổng. Sự hiểu biết được gọi là bùa chú trong cụm từ ‘các vị sống bằng bùa chú’. Các vị quan đại thần nào nương vào sự hiểu biết ấy làm phương tiện nuôi mạng, các vị ấy được gọi là các bậc hiền trí. Cụm từ ‘các vị sống bằng bùa chú’ là tên gọi của các vị quan đại thần đó.

Giảng về sự giảm thiểu tuổi thọ, sắc đẹp, …

91. Noca kho adhanānanti balavalobhattā pana adhanānaṃ daliddamanussānaṃ dhanaṃ nānuppadāsi. Nānuppadiyamāneti ananuppadiyamāne, ayameva vā pāṭho. Dāliddiyanti daliddabhāvo. Attanā ca jīvāhīti sayañca jīvaṃ yāpehīti attho. Uddhaggikantiādīsu uparūparibhūmīsu phaladānavasena uddhamaggamassāti uddhaggikā. Saggassa hitā tatrupapattijananatoti sovaggikā. Nibbattaṭṭhāne sukho vipāko assāti sukhavipākā. Suṭṭhu aggānaṃ dibbavaṇṇādīnaṃ dasannaṃ visesānaṃ nibbattanato saggasaṃvattanikā. Evarūpaṃ dakkhiṇaṃ dānaṃ patiṭṭhapetīti attho.

91. Nhưng không ban phát tài sản đến những người không có tài sản: Đến những người không có tài sản, tức là những người nghèo khổ, bởi vì bản thân họ có lòng tham mạnh mẽ. Trong khi tài sản không được ban phát: khi vị ấy không ban phát tài sản. Hoặc là, ở văn bản Pāḷī cũng tương tự như vậy. Sự nghèo khó: trạng thái nghèo khổ. Hãy nuôi sống bản thân: có nghĩa là và (với tài sản này) ngươi hãy tự nuôi sống bản thân. Trong câu được bắt đầu rằng: ‘tạo ra kết quả hướng thượng’ v.v, Kết quả của việc cúng dường ấy (có kết quả) hướng thượng do tác động cho quả ở các cõi cao hơn, vì lẽ đó, sự cúng dường ấy được gọi là có kết quả hướng thượng. Sự cúng dường được gọi là ‘đưa đến Thiên giới’ bởi vì có lợi ích trợ giúp ở cõi trời; (và) bởi vì cho tái sinh ở cõi trời đó. Sự cúng dường được gọi là ‘có hạnh phúc là quả thành tựu’ bởi vì có sự an lạc là kết quả ở nơi mà vị ấy sanh ra. Sự cúng dường được gọi là ‘vận hành đưa đến cõi Trời’ bởi vì tạo ra mười kết quả báo đặc biệt như có sắc đẹp thuộc Thiên giới v.v., một cách tuyệt hảo. Có nghĩa là: Ngươi hãy tiến hành sự cúng dường có hình thức như vậy.

92. Pavaḍḍhissatīti vaḍḍhissati bahuṃ bhavissati. Sunisedhaṃ nisedheyyanti suṭṭhu nisiddhaṃ nisedheyyaṃ. Mūlaghaccanti mūlahataṃ. Kharassarenāti pharusasaddena. Paṇavenāti vajjhabheriyā.

92. Sẽ phát triển: sẽ phát triển, sẽ có nhiều. Ta nên loại trừ triệt để: ta nên ngăn chặn, nên kiên quyết bác bỏ. (Nên thực hiện việc tiêu diệt) tận gốc rễ: nhổ tận gốc rễ. Với âm thanh inh ỏi: Có âm thanh chói tai. Với tiếng trống: trống hành quyết.

93. Sīsāninesaṃ chindissāmāti yesaṃ antamaso mūlakamuṭṭhimpi harissāma, tesaṃ tatheva sīsāni chindissāma, yathā koci haṭabhāvampi na jānissati, amhākaṃ dāni kimettha rājāpi evaṃ uṭṭhāya paraṃ māretīti ayaṃ nesaṃ adhippāyo. Upakkamiṃsūti ārabhiṃsu. Panthaduhananti panthaghātaṃ, panthe ṭhatvā corakammaṃ.

93. Sẽ chặt đầu của bọn họ: Chúng ta sẽ mang đi dù chỉ là một nắm khoai sọ của người nào, (thì) chúng ta cũng sẽ chặt đầu của chính người đó, một cách kín đáo đến nỗi không ai biết chuyện ta giết người. Bây giờ, ở đây có ích lợi gì cho chúng ta nữa, ngay cả đức vua cũng đã đứng lên như vậy rồi ra lệnh cho giết người khác. Nên biết lời giải thích của những từ đó như đã nói. Bắt đầu thực hiện: Đã ra sức thực hiện. Việc cướp đường: Chặn đường cướp bóc khách lữ hành.

94. Na hi, devāti so kira cintesi – ‘‘ayaṃ rājā saccaṃ devāti mukhapaṭiññāya dinnāya mārāpeti, handāhaṃ musāvādaṃ karomī’’ti, maraṇabhayā ‘‘na hi devā’’ti avoca.

94. Quả thật không đúng, tâu bệ hạ: Được biết người đàn ông ấy nghĩ rằng: “Vị vua này ra lệnh giết theo lời thú tội rằng ‘tâu bệ hạ, đây là sự thật’, thôi được, ta sẽ khai gian.’” Vì sợ chết, nên đã tâu rằng: “Quả thật không đúng, tâu bệ hạ.”

96. Ekidanti ettha idanti nipātamattaṃ, eke sattāti attho. Cārittanti micchācāraṃ. Abhijjhābyāpādāti abhijjhā ca byāpādo ca. Micchādiṭṭhīti natthi dinnantiādikā antaggāhikā paccanīkadiṭṭhi.

96. Idaṃ trong từ ‘ekidaṃ’ này chỉ là phân từ, có nghĩa là một số chúng sanh. Đã thực hiện hành vi sai trái: Thực hiện hành vi sái quấy. Tham đắm và thù oán: Tham đắm và thù oán. Tà kiến: Tà kiến là kẻ địch, có hữu biên kiến chẳng hạn như: “Vật thí mà thí chủ đã cho thì không có kết quả.”

101. Adhammarāgoti mātā mātucchā pitucchā mātulānītiādike ayuttaṭṭhāne rāgo. Visamalobhoti paribhogayuttesupi ṭhānesu atibalavalobho. Micchādhammoti purisānaṃ purisesu itthīnañca itthīsu chandarāgo.

101: Luyến ái phi pháp: Sự luyến ái ở những đối tượng không phù hợp nhự là mẹ, dì, cô, bác, v.v. (loạn luân) Tham không chừng mực: Lòng tham mãnh liệt ở những trường hợp gắn liền với của cải. Tình trạng sai quấy: Mong muốn và luyến ái giữa những người nam với người nam, và những người nữ với người nữ (đồng tính luyến ái).

Amatteyyatātiādīsu mātu hito matteyyo, tassa bhāvo matteyyatā, mātari sammā paṭipattiyā etaṃ nāmaṃ. Tassā abhāvo ceva tappaṭipakkhatā ca amatteyyatā. Apetteyyatādīsupi eseva nayo. Na kule jeṭṭhāpacāyitāti kule jeṭṭhānaṃ apacitiyā nīcavuttiyā akaraṇabhāvo.

Tình trạng không hiếu kính mẹ, v.v, phụ giúp mẹ gọi là hiếu kính mẹ, tình trạng hiếu kính mẹ đó gọi là trạng thái hiếu kính mẹ, điều đó được gọi là lối thực hành chân chánh đối với mẹ. Tình trạng không hiếu kính mẹ ấy và trạng thái đối nghịch với tình trạng hiếu kính mẹ được gọi là tình trạng không hiếu kính mẹ (bất hiếu). Luôn cả, tình trạng không hiếu kính cha, cũng áp dụng cách thức tương tự. Tình trạng không nể nang các bậc trưởng thượng trong gia tộc: Trạng thái không thể hiện sự tôn trọng, tức là cư xử đúng mực đối với các bậc trưởng thượng trong gia tộc.

Giảng về thời kỳ có tuổi thọ mười ngàn

103. Yaṃ imesanti yasmiṃ samaye imesaṃ. Alaṃpateyyāti patino dātuṃ yuttā. Imāni rasānīti imāni loke aggarasāni. Atibyādippissantīti ativiya dippissanti, ayameva vā pāṭho. Kusalantipi na bhavissatīti kusalanti nāmampi na bhavissati, paññattimattampi na paññāyissatīti attho. Pujjā ca bhavissanti pāsaṃsā cāti pūjārahā ca bhavissanti pasaṃsārahā ca. Tadā kira manussā ‘‘asukena nāma mātā pahatā, pitā pahato, samaṇabrāhmaṇā jīvitā voropitā, kule jeṭṭhānaṃ atthibhāvampi na jānāti, aho puriso’’ti tameva pūjessanti ceva pasaṃsissanti ca.

103. Những người (ở thời kỳ) này: Trong thời kỳ nào của những người này. (Sẽ đủ phát triển) để gã chồng: Phù hợp để gã chồng. Các vị nếm này: Các vị nếm này là những vị nếm ngon nhất ở thế gian. Sẽ vô cùng chói sáng: sẽ vô cùng sáng chói, hơn nữa, ở văn bản Pāḷī cũng như thế tương tự. Ngay cả cái gọi là thiện cũng sẽ không có: Có nghĩa là kể cả cái gọi là thiện cũng sẽ không còn, thậm chí khái niệm về thiện cũng không được biết đến. Chúng sẽ được cúng dường và được khen ngợi: Sẽ trở thành người xứng đáng được cúng dường và xứng đáng được khen ngợi. Nghe rằng vào thời kỳ đó loài người nghĩ rằng: “Người đàn ông tên kia giết mẹ, giết cha, sát hại Sa-môn, Bà-la-môn, thật đáng thương! Người ấy thậm chí còn không biết đến sự tồn tại của bậc trưởng thượng trong gia tộc,” chúng sẽ cúng dường và sẽ khen ngợi đến chính người đàn ông đó.

Nabhavissati mātāti vāti ayaṃ mayhaṃ mātāti garucittaṃ na bhavissati. Gehe mātugāmaṃ viya nānāvidhaṃ asabbhikathaṃ kathayamānā agāravupacārena upasaṅkamissanti. Mātucchādīsupi eseva nayo. Ettha ca mātucchāti mātubhaginī. Mātulānīti mātulabhariyā. Ācariyabhariyāti sippāyatanāni sikkhāpakassa ācariyassa bhariyā. Garūnaṃ dārāti cūḷapitumahāpituādīnaṃ bhariyā. Sambhedanti missībhāvaṃ, mariyādabhedaṃ vā.

Sẽ không còn tên gọi ‘mẹ’: Tâm gắn liền với sự kính trọng rằng ‘người này là mẹ của tôi’ sẽ không còn nữa. Mọi người khi nói đến lời nói phi chân nhân bằng nhiều cách khác nhau như thể nói chuyện cùng người nữ trong nhà, cũng sẽ đến gặp với biểu hiện không tôn trọng. Luôn cả đối với ‘dì’ và các mối quan hệ khác cũng áp dụng cách thức này tương tự. Và ở đây, ‘dì’ nghĩa là em của mẹ. ‘Thím’ nghĩa là vợ của chú. ‘Vợ của thầy’ là vợ của các thầy dạy học về các lãnh vực nghề nghiệp. ‘hay vợ của các yếu nhân’ bao gồm vợ của các quyến thuộc như chú và bác, v.v. (Thế gian sẽ đi đến) sự lẫn lộn: tính chất bị trộn lẫn, hoặc là sự phá hoại truyền thống.

Tibbo āghāto paccupaṭṭhito bhavissatīti balavakopo punappunaṃ uppattivasena paccupaṭṭhito bhavissati. Aparāni dve etasseva vevacanāni. Kopo hi cittaṃ āghātetīti āghāto. Attano ca parassa ca hitasukhaṃ byāpādetīti byāpādo. Manopadūsanato manopadosoti vuccati. Tibbaṃ vadhakacittanti piyamānassāpi paraṃ māraṇatthāya vadhakacittaṃ. Tassa vatthuṃ dassetuṃ mātupi puttamhītiādi vuttaṃ. Māgavikassāti migaluddakassa.

Sẽ hình thành sự căm hận thâm sâu: cơn giận dữ mãnh liệt sẽ hình thành do mãnh lực sanh khởi thường xuyên. Hai từ sau cũng đều là từ đồng nghĩa của sự giận dữ đó. Thật vậy, sự giận dữ đã khiến tâm buộc lòng thù hận (vì thế) gọi là sự căm hận. Sự thù oán khiến lợi ích và sự an lạc của bản thân và người khác bị mất mát (vì thế) được gọi là sự thù oán. Được gọi là sự ác ý của tâm bởi gây hại cho tâm. Tâm giết hại thâm sâu: Tâm suy nghĩ giết hại để người khác chết có thể xảy ra ngay cả đối với những người yêu thương nhau. Để trình bày về vấn đề của tâm suy nghĩ giết hại lẫn nhau đó nên đã nói rằng: “Giữa mẹ với con trai, v.v.Đối với người thợ săn: người thợ săn.

104. Satthantarakappoti satthena antarakappo. Saṃvaṭṭakappaṃ appatvā antarāva lokavināso. Antarakappo ca nāmesa dubbhikkhantarakappo rogantarakappo satthantarakappoti tividho. Tattha lobhussadāya pajāya dubbhikkhantarakappo hoti. Mohussadāya rogantarakappo. Dosussadāya satthantarakappo. Tattha dubbhikkhantarakappena naṭṭhā yebhuyyena pettivisaye upapajjanti. Kasmā? Āhāranikantiyā balavattā. Rogantarakappena naṭṭhā yebhuyyena sagge nibbattanti kasmā? Tesañhi ‘‘aho vataññesaṃ sattānaṃ evarūpo rogo na bhaveyyā’’ti mettacittaṃ uppajjatīti. Satthantarakappena naṭṭhā yebhuyyena niraye upapajjanti. Kasmā? Aññamaññaṃ balavāghātatāya.

104. Sẽ xảy ra giai đoạn gươm đao: Ở giữa giai đoạn bị hoại bởi gươm đao, tức là vẫn chưa đến giai đoạn tan rã thì thế giới đã bị hoại ở giữa giai đoạn rồi. Và ở giữa giai đoạn này (thế giới bị hoại) có ba (lý do): (1) Ở giữa giai đoạn bị hoại bởi nạn đói; (2) ở giữa giai đoạn bị hoại bởi dịch bệnh; (3) và ở giữa giai đoạn bị hoại bởi gươm đao. Trong ba kiếp nạn ấy, ở giữa giai đoạn bị hoại bởi nạn đói xảy ra đối với chúng sanh dày đặc do lòng tham. Ở giữa giai đoạn bị hoại bởi dịch bệnh xảy ra đối với chúng sanh dày đặc do sự si mê. Ở giữa giai đoạn bị hoại bởi gươm đao xảy ra đối với chúng sanh dày đặc do sự sân hận. Trong các kiếp nạn đó, các chúng sanh bị diệt vong do nạn đói ở giữa thời kỳ phần lớn tái sanh vào cảnh giới ngạ quỷ. Vì sao? Bởi trạng thái mạnh mẽ do thèm khát thức ăn. Các chúng sinh bị diệt vong do dịch bệnh ở giữa thời kỳ phần lớn tái sanh vào cõi trời. Vì sao? Bởi các chúng sanh đó khởi tâm từ nghĩ rằng: “Ôi, mong rằng những bệnh tật như thế này không xảy ra cho các chúng sanh khác.” Những chúng sanh bị diệt vong bởi nạn gươm đao ở giữa thời kỳ phần lớn tái sanh vào địa ngục. Vì sao? Bởi có sự oán hận dữ dội với nhau.

Migasaññanti ‘‘ayaṃ migo, ayaṃ migo’’ti saññaṃ. Tiṇhāni satthāni hatthesu pātubhavissantīti tesaṃ kira hatthena phuṭṭhamattaṃ yaṃkiñci antamaso tiṇapaṇṇaṃ upādāya āvudhameva bhavissati. Mā ca mayaṃ kañcīti mayaṃ kañci ekapurisampi jīvitā mā voropayimha. Mā ca amhe kocīti amhepi koci ekapuriso jīvitā mā voropayittha. Yaṃnūna mayanti ayaṃ lokavināso paccupaṭṭhito, na sakkā dvīhi ekaṭṭhāne ṭhitehi jīvitaṃ laddhunti maññamānā evaṃ cintayiṃsu. Vanagahananti vanasaṅkhātehi tiṇagumbalatādīhi gahanaṃ duppavesaṭṭhānaṃ. Rukkhagahananti rukkhehi gahanaṃ duppavesaṭṭhānaṃ. Nadīvidugganti nadīnaṃ antaradīpādīsu duggamanaṭṭhānaṃ. Pabbatavisamanti pabbatehi visamaṃ, pabbatesupi vā visamaṭṭhānaṃ. Sabhāgāyissantīti yathā ahaṃ jīvāmi diṭṭhā bho sattā, tvampi tathā jīvasīti evaṃ sammodanakathāya attanā sabhāge karissanti.

Tưởng là loài thú: Mọi người khởi lên tưởng rằng- “người này là loài thú, người này là loài thú”. Các gươm đao sắc bén sẽ xuất hiện ở các bàn tay của họ: Kể rằng đối với những người đó, bất cứ vật gì được cầm lấy với bàn tay, đến cả cọng cỏ cũng đều trở thành vũ khí. Chúng ta chớ giết ai: chúng ta chớ tước đoạt mạng sống của bất kỳ một người nào. Chớ ai giết chúng ta: bất kỳ một người nào chớ tước đoạt mạng sống của chúng ta. Hay là chúng ta đi vào (bãi cỏ): các chúng sanh đã suy nghĩ như vầy: “Sự hủy diệt của thế giới này đã xuất hiện, chúng ta hai người ở cùng một chỗ không thể duy trì được sự sống. Hoặc bụi cây: nơi rậm rạp với hệ thực vật có bụi cỏ và dây leo v.v., được gọi là rừng. Hoặc rừng cây: nơi rậm rạp bởi cây cối, khó đi vào. Cồn bãi giữa sông: nơi khó đi, ở nơi có các hòn đảo giữa các con sông v.v. Núi non hiểm trở: nơi không bằng phẳng bởi các ngọn núi, hoặc là nơi gồ ghề trên các ngọn núi. Sẽ hòa đồng: các chúng sanh sẽ làm cho những người đó ngang hàng với mình bằng những lời xã giao như sau: “Này các ông, tôi sống như thế nào, các chúng sanh các ông cũng đã thấy, ngay cả các ông cũng sống như thế ấy.”

Giảng về sự tăng trưởng của tuổi thọ, sắc đẹp…

105. Āyatanti mahantaṃ. Pāṇātipātā virameyyāmāti pāṇātipātato osakkeyyāma. Pāṇātipātaṃ virameyyāmātipi sajjhāyanti, tattha pāṇātipātaṃ pajaheyyāmāti attho. Vīsativassāyukāti mātāpitaro pāṇātipātā paṭiviratā, puttā kasmā vīsativassāyukā ahesunti khettavisuddhiyā. Tesañhi mātāpitaro sīlavanto jātā. Iti sīlagabbhe vaḍḍhitattā imāya khettavisuddhiyā dīghāyukā ahesuṃ. Ye panettha kālaṃ katvā tattheva nibbattā, te attanova sīlasampattiyā dīghāyukā ahesuṃ.

105. Lớn lao: to lớn. Tránh xa việc giết hại sanh mạng (Pāṇātipātā virameyyāma): chúng ta nên giảm bớt việc sát hại sanh mạng. Một số thầy tụng đọc là ‘pāṇātipātaṃ virameyyāma’ (chúng ta nên từ bỏ việc sát hại sinh mạng). Trong lời ấy có giải thích rằng– ‘chúng ta nên từ bỏ việc sát hại sinh mạng’. Có tuổi thọ hai mươi năm: vì sao cha mẹ tránh xa việc giết hại sinh mạng mà con cái lại chỉ có tuổi thọ hai mươi năm? Bởi vì có phước điền thanh tịnh. Thật vậy, cha mẹ của những người con đó là những người có giới hạnh, vì vậy chúng mới có tuổi thọ tăng trưởng nhờ vào phước điền thanh tịnh này, nguyên nhân mà con cái lớn lên trong bụng người có giới hạnh. Những chúng sinh nào mệnh chung ở đây rồi tái sanh ở chính nơi đó, những chúng sinh đó có tuổi thọ tăng trưởng nhờ vào sự thành tựu là giới hạnh của chính mình.

Assāmāti bhaveyyāma. Cattārīsavassāyukātiādayo koṭṭhāsā adinnādānādīhi paṭiviratānaṃ vasena veditabbā.

Sẽ có: có thể có. Có tuổi thọ bốn mươi năm: Về phần đầu bậc trí nên biết do tác động của hạng người đã hoàn toàn tránh xa việc lấy vật không được cho, v.v.

Giảng về sự sanh lên của đức vua Saṅkhā

106. Icchāti mayhaṃ bhattaṃ dethāti evaṃ uppajjanakataṇhā. Anasananti na asanaṃ avipphārikabhāvo kāyālasiyaṃ, bhattaṃ bhuttānaṃ bhattasammadapaccayā nipajjitukāmatājanako kāyadubbalabhāvoti attho. Jarāti pākaṭajarā. Kukkuṭasampātikāti ekagāmassa chadanapiṭṭhato uppatitvā itaragāmassa chadanapiṭṭhe patanasaṅkhāto kukkuṭasampāto. Etāsu atthīti kukkuṭasampātikā. ‘‘Kukkuṭasampādikā’’tipi pāṭho, gāmantarato gāmantaraṃ kukkuṭānaṃ padasā gamanasaṅkhāto kukkuṭasampādo etāsu atthīti attho. Ubhayampetaṃ ghananivāsataṃyeva dīpeti. Avīci maññe phuṭo bhavissatīti avīcimahānirayo viya nirantarapūrito bhavissati.

105. Ước muốn: Tham ái khởi lên như vầy– Các ông hãy cho thức ăn đến tôi. Uể oải: Không có sự ăn uống, tức là trạng thái không vui vẻ, đó là sự uể oải về thân, tức là ý muốn ngủ nghỉ, do nhân là sự say đắm trong thức ăn của người thọ hưởng vật thực. Giải thích rằng: Trạng thái thân thể yếu ớt do việc ăn uống. Già cả: sự già xuất hiện. Cách nhau khoảng cách một tầm bay của gà trống (Kukkuṭasampātikā): sự rơi xuống đồng thời của con gà trống, tức là việc con gà trống này bay lên từ mái nhà này rồi rơi xuống mái nhà khác, có ở những ngôi làng, thị trấn và kinh thành này, vì lẽ đó, những ngôi làng, thị trấn và kinh thành này được gọi là nơi có khoảng cách một tầm bay của gà trống. Bản Pāḷī cũng có ghi là “Kukkuṭasampādikā”. Giải thích rằng: Sự hiện diện đồng thời của gà trống, tức là việc bước đi bằng chân của gà trống khoảng cách từ nhà này đến khoảng cách nhà khác, có ở những ngôi làng, thị trấn và kinh thành này. Ngài chỉ rõ tính chất sống chung thành đàn của các loài vật trong cả hai trường hợp đó. Sẽ bị tràn ngập bởi loài người tưởng chừng như đại địa ngực Avīci: Sẽ tràn ngập, chật ních như đại địa ngực Avīci.

Giảng về sự hiện khởi của Đức Phật Metteyya

107. ‘‘Asītivassasahassāyukesu, bhikkhave, manussesu metteyyo nāma bhagavā loke uppajjissatī’’ti na vaḍḍhamānakavasena vuttaṃ. Na hi buddhā vaḍḍhamāne āyumhi nibbattanti, hāyamāne pana nibbattanti. Tasmā yadā taṃ āyu vaḍḍhitvā asaṅkheyyataṃ patvā puna hāyamānaṃ asītivassasahassakāle ṭhassati, tadā uppajjissatīti attho. Pariharissatīti idaṃ pana parivāretvā vicarantānaṃ vasena vuttaṃ. Yūpoti pāsādo. Raññā mahāpanādena kārāpitoti raññā hetubhūtena tassatthāya sakkena devarājena vissakammadevaputtaṃ pesetvā kārāpito. Pubbe kira dve pitāputtā naḷakārā paccekabuddhassa naḷehi ca udumbarehi ca paṇṇasālaṃ kārāpetvā taṃ tattha vāsāpetvā catūhi paccayehi upaṭṭhahiṃsu. Te kālaṃ katvā devaloke nibbattā. Tesu pitā devalokeyeva aṭṭhāsi. Putto devalokā cavitvā surucissa rañño deviyā sumedhāya kucchismiṃ nibbatto. Mahāpanādo nāma kumāro ahosi. So aparabhāge chattaṃ ussāpetvā mahāpanādo nāma rājā jāto. Athassa puññānubhāvena sakko devarājā vissakammadevaputtaṃ rañño pāsādaṃ karohīti pahiṇi so tassa pāsādaṃ nimmini pañcavīsatiyojanubbedhaṃ sattaratanamayaṃ satabhūmakaṃ. Yaṃ sandhāya jātake vuttaṃ –

107. Đức Thế Tôn không nói dựa vào sự tăng trưởng tuổi thọ của chúng sanh rằng: “Này các tỳ khưu, vào thời kỳ loài người có tuổi thọ tám mươi ngàn năm, đức Thế Tôn tên là Metteyya sẽ hiện khởi trên thế gian.” Bởi vì chư Phật không xuất hiện vào thời kỳ chúng sinh có tuổi thọ tăng trưởng, mà xuất hiện vào thời kỳ chúng sinh có tuổi thọ suy giảm. Giải thích rằng: Vì thế, khi nào tuổi thọ đó tăng trưởng đạt đến a-tăng-kỳ kiếp rồi lại suy giảm, sẽ dừng lại ở thời kỳ chúng sinh có tuổi thọ tám mươi ngàn năm tuổi, khi đó thì đức Phật sẽ xuất hiện. Sẽ quản trị: Ngài nói dựa vào khả năng của các loài vật đi lại xung quanh. Tòa lâu đài: Tòa lâu đài. Đã được ra lệnh xây dựng bởi đức vua Mahāpanāda: Có nhà vua là nguyên nhân, vua trời Sakka đã sai thiên tử Vissakamma xuống xây dựng tòa lâu đài vì lợi ích của chính đức vua đó. Kể rằng, thuở xưa, hai cha con làm nghề thợ đan, cùng nhau dùng cây sậy và cây sung làm thảo am cúng dường đến đức Phật Độc Giác, rồi thỉnh Ngài ở lại đó cúng dường bốn món vật dụng cần thiết. Sau khi mệnh chung (họ) đã tái sanh vào cõi Trời. Trong số hai người ấy, người cha vẫn còn ở cõi Trời đó. Còn người con mệnh chung từ cõi Trời rồi nhập thai vào bụng của hoàng hậu Sumedhā, vợ của đức vua Suruci. (và) đã trở thành hoàng tử tên là Mahāpanāda. Về sau, ngài ra lệnh dựng lọng, trở thành vua tên là Mahāpanāda. Lúc đó, bằng oai lực phước đức của ngài, vua trời Sakka đã sai thiên tử Vissakamma xuống xây dựng tòa lâu đài dâng lên đức vua. Thiên tử Vissakamma đã hóa hiện ra tòa lâu đài cúng dường đến ngài, cao đến hai mươi lăm do tuần, có bảy tầng, hoàn toàn bằng bảy loại châu báu. Đề cập đến điều đó, ngài đã nói trong Bổn Sanh rằng–

‘‘Panādo nāma so rājā, yassa yūpo suvaṇṇayo;

Tiriyaṃ soḷasubbedho, uddhamāhu sahassadhā.

Sahassakaṇḍo satageṇḍu, dhajālu haritāmayo;

Anaccuṃ tattha gandhabbā, cha sahassāni sattadhā.

Evametaṃ tadā āsi, yathā bhāsasi bhaddaji;

Sakko ahaṃ tadā āsiṃ, veyyāvaccakaro tavā’’ti. (jā. 5.3.42);

Vị vua ấy tên là Paṇāda, tòa lâu đài của vị ấy có nhiều màu sắc đẹp,

chiều ngang mười sáu tầm tên bắn, chiều cao đã là một ngàn tầm tên bắn.

Một trăm tầng lầu gồm một ngàn đơn vị, được trang hoàng cờ xí và

làm bằng ngọc lục. Tại nơi ấy, sáu ngàn vũ công đã nhảy múa ở bảy địa điểm

Khi ấy, điều này đã là như vậy, giống như Bhaddaji nói. Khi ấy, ta đã

là Thiên Chủ Sakka, người làm công việc phục dịch cho ngươi.(jā. 5.3.42);

So rājā tattha yāvatāyukaṃ vasitvā kālaṃ katvā devaloke nibbatti. Tasmiṃ devaloke nibbatte so pāsādo mahāgaṅgāya anusotaṃ pati. Tassa dhurasopānasammukhaṭṭhāne payāgapatiṭṭhānaṃ nāma nagaraṃ māpitaṃ. Thupikāsammukhaṭṭhāne koṭigāmo nāma. Aparabhāge amhākaṃ bhagavato kāle so naḷakāradevaputto devalokato cavitvā manussapathe bhaddajiseṭṭhi nāma hutvā satthu santike pabbajitvā arahattaṃ pāpuṇi. So nāvāya gaṅgātaraṇadivase bhikkhusaṅghassa taṃ pāsādaṃ dassetīti vatthu vitthāretabbaṃ. Kasmā panesa pāsādo na antarahitoti? Itarassa ānubhāvā. Tena saddhiṃ puññaṃ katvā devaloke nibbattakulaputto anāgate saṅkho nāma rājā bhavissati. Tassa paribhogatthāya so pāsādo uṭṭhahissati, tasmā na antarahitoti.

Đức vua đó ngự tại tòa lâu đài ấy trọn đời, sau khi băng hà đã hóa sanh vào cõi Trời. Khi ngài hóa sanh vào cõi Trời, thì lâu đài ấy đó liền chìm xuống dòng sông Gaṅgā vĩ đại. Thành phố tên là Payāga được thiết lập do chư Thiên hóa hiện gần kề chân cầu thang của tòa lâu đài đó. Ngôi làng tên là Koṭigāma nằm ngay trên đỉnh của tòa lâu đài. Về sau, vào thời kỳ Đức Thế Tôn của chúng ta, vị Thiên tử thợ đan đó sau khi mệnh chung từ cõi trời, đã (tái sanh) trở thành một trưởng giả tên là Bhaddaji ở cõi nhân loại, (và) sau khi xuất gia trong giáo pháp của đức Thế Tôn đã chứng đắc quả vị A-ra-hán. Nên trình bày chi tiết câu chuyện bằng lời lẽ: “Vị ấy đã thuyết về tòa lâu đài đến Hội Chúng tỳ khưu thấy cung điện đó vào ngày vượt qua dòng sông Gaṅgā bằng chiếc thuyền.” – Vậy vì sao tòa lâu đài này không biến mất? – Bởi do nhờ oai lực phước báu của các vị thiên tử khác. Thiện nam tử đã cùng tạo phước với vị ấy đã hóa sanh vào cõi Trời, (và) sẽ là một vị vua tên là Saṅkha trong thời vị lai. Tòa lâu đài đó sẽ hiện lên để vị vua đó sử dụng, vì thế, tòa lâu đài mới không biến mất.

108. Ussāpetvāti taṃ pāsādaṃ uṭṭhāpetvā. Ajjhāvasitvāti tattha vasitvā. Taṃ datvā vissajjitvāti taṃ pāsādaṃ dānavasena datvā nirapekkho pariccāgavasena ca vissajjitvā. Kassa ca evaṃ datvāti? Samaṇādīnaṃ. Tenāha – ‘‘samaṇabrāhmaṇakapaṇaddhikavanibbakayācakānaṃ dānaṃ datvā’’ti. Kathaṃ pana so ekaṃ pāsādaṃ bahūnaṃ dassatīti? Evaṃ kirassa cittaṃ uppajjissati ‘‘ayaṃ pāsādo vippakiriyatū’’ti. So khaṇḍakhaṇḍaso vippakirissati. So taṃ alaggamānova hutvā ‘‘yo yattakaṃ icchati, so tattakaṃ gaṇhatū’’ti dānavasena vissajjissati. Tena vuttaṃ – ‘‘dānaṃ datvā metteyyassa bhagavato…pe… viharissatī’’ti. Ettakena bhagavā vaṭṭagāmikusalassa anusandhiṃ dasseti.

108. Sau khi dựng lên: sau khi cho dựng lên tòa lâu đài. Sau khi trú ngụ: sau khi trú ngụ tại nơi đó. Sẽ cho đi, sẽ buông bỏ tòa lâu đài: cho đi tòa lâu đài đó bằng sức mạnh của sự bố thí và sẽ buông bỏ nó bằng sức mạnh của sự buông bỏ mà không mong cầu (kết quả đáp lại). – Đã dâng cúng tòa lâu đài như vậy đến ai? – Đến các Sa-môn v.v. Vì thế, ngài đã nói rằng: “Sẽ ban phát vật thí đến các Sa-môn, Bà-la-môn, người cơ cực, kẻ lang thang, và kẻ hành khất.” — Hơn nữa, đức vua (Bhaddaji) đó sẽ chỉ ra một tòa lâu đài cho đa số các tỳ khưu như thế nào? – Nghe rằng tâm của ngài khởi lên suy nghĩ như vầy: “Tòa lâu đài này hãy tan rã.” Tòa lâu đài đó sẽ tan rã thành từng mảnh nhỏ. Ngài hoàn toàn không có tâm vướng mắc vào tòa lâu đài đó, sẽ buông bỏ nó do tác động của sự bố thí, bằng lời nói: “Vị nào ước muốn chừng nào, vị ấy hãy lấy chừng ấy.” Vì thế, ngài đã nói: “Sẽ ban phát vật thí…đức Thế Tôn, Metteyya…sống.” Đức Thế Tôn trình bày sự tiếp nối của các thiện pháp đưa đến luân hồi chỉ với chừng ấy lời.

109. Idāni vivaṭṭagāmikusalassa anusandhiṃ dassento puna attadīpā, bhikkhave, viharathātiādimāha.

109. Bây giờ, khi thuyết giảng sự tiếp nối của các thiện pháp đưa đến xuất luân hồi, ngài mới nói rằng: “Này các tỳ khưu, các ngươi hãy sống có bản thân là hòn đảo.”

Giảng về sự tăng trưởng tuổi thọ, sắc đẹp…của vị tỳ khưu

110. Idaṃ kho, bhikkhave, bhikkhuno āyusminti bhikkhave yaṃ vo ahaṃ āyunāpi vaḍḍhissathāti avocaṃ, tattha idaṃ bhikkhuno āyusmiṃ idaṃ āyukāraṇanti attho. Tasmā tumhehi āyunā vaḍḍhitukāmehi ime cattāro iddhipādā bhāvetabbāti dasseti.

110. Này chư tỳ khưu, cái này, cấu thành tuổi thọ của vị tỳ khưu: Đức Thế Tôn thuyết rằng: “Này các tỳ khưu, lời nào Ta đã nói với các ngươi rằng ‘Các ngươi sẽ tăng trưởng về tuổi thọ’, lời này có trong tuổi thọ của vị tỳ khưu đó, tức là lời này là nhân của tuổi thọ. Vì vậy, khi các ngươi muốn tuổi thọ tăng trưởng, (các người) cần phải tu tập bốn nền tảng của thần thông (Tứ Thần Túc) này.

Vaṇṇasminti yaṃ vo ahaṃ vaṇṇenapi vaḍḍhissathāti avocaṃ, idaṃ tattha vaṇṇakāraṇaṃ. Sīlavato hi avippaṭisārādīnaṃ vasena sarīravaṇṇopi kittivasena guṇavaṇṇopi vaḍḍhati. Tasmā tumhehi vaṇṇena vaḍḍhitukāmehi sīlasampannehi bhavitabbanti dasseti.

(Cấu thành) sắc đẹp: Đức Thế Tôn thuyết rằng: “Lời nào Ta đã nói với các ngươi rằng ‘Các ngươi sẽ tăng trưởng về sắc đẹp’, đây là nhân (tăng trưởng) sắc đẹp trong sắc đẹp đó. Bởi vì sắc đẹp nơi thân thể của người có giới hạnh tăng trưởng nhờ sức mạnh của sự không nóng nảy bực bội v.v., ngay cả sắc đẹp tức là phẩm hạnh cũng tăng trưởng do tác động của danh tiếng. Vì vậy, khi các ngươi muốn sắc đẹp tăng trưởng, (các người) cần phải có giới hạnh viên mãn.

Sukhasminti yaṃ vo ahaṃ sukhenapi vaḍḍhissathāti avocaṃ, idaṃ tattha vivekajaṃ pītisukhādinānappakārakaṃ jhānasukhaṃ. Tasmā tumhehi sukhena vaḍḍhitukāmehi imāni cattāri jhānāni bhāvetabbāni.

(Cấu thành) an lạc: Đức Thế Tôn thuyết rằng: “Lời nào Ta đã nói với các ngươi rằng ‘Các ngươi sẽ tăng trưởng bởi sự an lạc’, lời này có sự an lạc sanh khởi từ các tầng thiền ở các phương diện khác nhau, có hỷ và lạc khởi lên từ sự viễn ly trong sự an lạc đó, tức là làm nhân. Vì vậy, khi các ngươi muốn tăng trưởng về sự an lạc, (các ngươi) cần phải tu tập bốn tầng thiền này.

Bhogasminti yaṃ vo ahaṃ bhogenapi vaḍḍhissathāti avocaṃ, ayaṃ so appamāṇānaṃ sattānaṃ appaṭikūlatāvaho sukhasayanādi ekādasānisaṃso sabbadisāvipphāritabrahmavihārabhogo. Tasmā tumhehi bhogena vaḍḍhitukāmehi ime brahmavihārā bhāvetabbā.

(Cấu thành) tài sản: Đức Thế Tôn thuyết rằng: “Lời nào Ta đã nói với các ngươi rằng ‘Các ngươi sẽ tăng trưởng về tài sản’, đây là tài sản bao gồm Phạm trú, có thể lan tỏa khắp mọi phương hướng, mang đến sự không ghê tởm đối với vô lượng chúng sanh, có mười một lợi ích như nằm được an lạc, v.v. Vì vậy, khi các ngươi muốn tài sản tăng trưởng, (các người) cần phải tu tập các Phạm trú này.

Balasminti yaṃ vo ahaṃ balenapi vaḍḍhissathāti avocaṃ, idaṃ āsavakkhayapariyosāne uppannaṃ arahattaphalasaṅkhātaṃ balaṃ. Tasmā tumhehi balena vaḍḍhitukāmehi arahattappattiyā yogo karaṇīyo.

(Cấu thành) sức mạnh: Đức Thế Tôn thuyết rằng: “Lời nào Ta đã nói với các ngươi rằng ‘Các ngươi sẽ tăng trưởng về sức mạnh’, lời này là sức mạnh, được xem là Quả A-ra-hán, khởi lên ở tận cùng của sự diệt tận các lậu hoặc. Vì vậy, khi các ngươi mong muốn sự tăng trưởng của sức mạnh, (các ngươi) cần phải tinh tấn để chứng đạt Quả A-ra-hán.

Yathayidaṃ, bhikkhave, mārabalanti yathā idaṃ devaputtamāra– maccumāra– kilesamārānaṃ balaṃ duppasahaṃ durabhisambhavaṃ, evaṃ aññaṃ loke ekabalampi na samanupassāmi. Tampi balaṃ idameva arahattaphalaṃ pasahati abhibhavati ajjhottharati. Tasmā ettheva yogo karaṇīyoti dasseti.

Này các tỳ khưu, như là năng lực của Ma Vương: Đức Thế Tôn thuyết rằng: “Ta không nhìn thấy một sức mạnh độc nhất nào khác trên thế gian khó chế ngự, khó tiêu diệt như sức mạnh của Thiên Tử Ma Vương, Tử thần Ma Vương và Phiền não Ma Vương này. Chỉ có Thánh Quả A-ra-hán này mới có thể chế ngự, chi phối, nhận xuống được sức mạnh đó. Vì thế, các ngươi cần phải thực hành sự tinh tấn (để đưa đến chứng đạt) Thánh Quả A-ra-hán này.

Evamidaṃ puññanti evaṃ idaṃ lokuttarapuññampi yāva āsavakkhayā pavaḍḍhatīti vivaṭṭagāmikusalānusandhiṃ niṭṭhapento arahattanikūṭena desanaṃ niṭṭhapesi. Suttapariyosāne vīsati bhikkhusahassāni arahattaṃ pāpuṇiṃsu. Caturāsīti pāṇasahassāni amatapānaṃ piviṃsūti.

Như vậy, phước báu này (tăng trưởng): Ngay cả phước báu thuộc về Siêu Thế này cũng tăng trưởng cho đến khi cạn kiệt các lậu hoặc. Đức Thế Tôn, sau khi trình bày xong sự tiếp nối của các thiện pháp đưa đến luân hồi kết thúc, đã kết thúc pháp thoại bằng đỉnh cao là quả vị A-ra-hán. Vào lúc bài Kinh được chấm dứt, hai mươi ngàn vị tỳ khưu đã chứng đắc quả vị A-ra-hán, và tám mươi bốn ngàn chúng sanh đã uống được nước Bất tử.

Giải thích Kinh Chuyển Luân Vương được chấm dứt –

Kinh thứ ba (26)

Trong Chú Giải Trường Bộ Kinh là Sumaṅgalavilāsī.