Giải Thích Kinh Ba Kiến Thức Vệ Đà (Kinh Tam Minh)

(Tevijjasuttavaṇṇanā )

Xem Trường Bộ Kinh – Kinh Ba Kiến Thức Vệ Đà (Kinh Tam Minh)

518. Evaṃ me sutaṃ … pe … kosalesūti tevijjasuttaṃ. Tatrāyaṃ anuttānapadavaṇṇanā. Manasākaṭanti tassa gāmassa nāmaṃ. Uttarena manasākaṭassāti manasākaṭato avidūre uttarapasse. Ambavaneti taruṇāmbarukkhasaṇḍe, ramaṇīyo kira so bhūmibhāgo, heṭṭhā rajatapaṭṭasadisā vālikā vippakiṇṇā, upari maṇivitānaṃ viya ghanasākhāpattaṃ ambavanaṃ. Tasmiṃ buddhānaṃ anucchavike pavivekasukhe ambavane viharatīti attho.

518. Bài Kinh Ba Kiến Thức Vệ Đà: “Tôi đã nghe như vầy …nt… ở xứ Kosala”. Ở đây, bài Kinh này được giải thích theo tuần tự như sau – Manasākaṭa: là tên gọi của ngôi làng ấy. Ở phía Bắc của ngôi làng Manasākaṭa: Ở phía Bắc không xa ngôi làng Manasākaṭa. Nơi khu rừng xoài: Giữa những cây xoài non. Tương truyền rằng vùng đất ấy xinh đẹp, bên dưới được trải cát tưa như những phiến bạc, bên trên là rừng xoài với cành và lá dày đặc nó tựa như mái vòm được che bởi những viên ngọc quý. Đức Phật đang an trú tại khu rừng xoài, trong sự an lạc sanh khởi từ sự viễn ly, phù hợp cho tất cả chư Phật.

519. Abhiññātā abhiññātāti kulacārittādisampattiyā tattha tattha paññātā. Caṅkītiādīni tesaṃ nāmāni. Tattha caṅkī opāsādavāsiko[1]. Tārukkho icchānaṅgalavāsiko. Pokkharasātī ukkaṭṭhavāsiko. Jāṇusoṇī sāvatthivāsiko. Todeyyo tudigāmavāsiko. Aññe cāti aññe ca bahujanā, attano attano nivāsaṭṭhānehi āgantvā mantasajjhāyakaraṇatthaṃ tattha paṭivasanti. Manasākaṭassa kira ramaṇīyatāya te brāhmaṇā tattha nadītīre gehāni kāretvā parikkhipāpetvā aññesaṃ bahūnaṃ pavesanaṃ nivāretvā antarantarā tattha gantvā vasanti.

519. Nhiều Bà-la-môn giàu có vô cùng nổi tiếng: là người nổi tiếng ở tại ngôi làng ấy nhờ sự thành tựu về hạnh kiểm thực hành hạnh gia tộc (kulacāritta). Caṅkī v.v, là tên gọi cũng những vị Bà-la-môn giàu có ấy. Trong số những vị Bà-la-môn ấy thì Bà-la-môn Caṅkī ngụ ở làng Opāsāda. Bà-la-môn Tārukkha ngụ ở làng Icchānaṅga. Bà-la-môn Pokkharasātī ngụ ở thành Ukkaṭṭha. Bà-la-môn Jāṇusoṇī ngụ ở thành Sāvatthī. Bà-la-môn Todeyya ngụ ở làng Tudigāma. Và một số Bà-la-môn giàu có khác nữa: và nhiều người khác từ chỗ ở riêng của mỗi cá nhân đã đến rồi cư trú lại ở tại ngôi làng Manasākaṭa ấy. Được biết rằng – do ngôi làng Manasākaṭa là nơi xinh đẹp, những vị Bà-la-môn ấy đã cùng nhau cho xây dựng một ngôi nhà gần bờ sông trong ngôi làng Manasākaṭa ấy, sau đó bao bọc xung quanh để ngăn những người khác bước vào, rồi cùng nhau đi đến cư ngụ ở nơi ấy theo tuần tự.

520-521. Vāseṭṭhabhāradvājānanti vāseṭṭhassa ca pokkharasātino antevāsikassa, bhāradvājassa ca tārukkhantevāsikassa. Ete kira dve jātisampannā tiṇṇaṃ vedānaṃ pāragū ahesuṃ. Jaṅghavihāranti aticiranisajjapaccayā kilamathavinodanatthāya jaṅghacāraṃ. Te kira divasaṃ sajjhāyaṃ katvā sāyanhe vuṭṭhāya nhānīyasambhāragandhamālateladhotavatthāni gāhāpetvā attano parijanaparivutā nhāyitukāmā nadītīraṃ gantvā rajatapaṭṭavaṇṇe vālikāsaṇḍe aparāparaṃ caṅkamiṃsu. Ekaṃ[2] caṅkamantaṃ itaro anucaṅkami, puna itaraṃ itaroti. Tena vuttaṃ “anucaṅkamantānaṃ anuvicarantānan”ti. Maggāmaggeti magge ca amagge ca. Katamaṃ nu kho paṭipadaṃ pūretvā katamena maggena sakkā sukhaṃ brahmalokaṃ gantunti evaṃ maggāmaggaṃ ārabbha kathaṃ samuṭṭhāpesunti attho. Añjasāyanoti ujumaggassetaṃ vevacanaṃ, añjasā vā[3] ujukameva etena āyanti āgacchantīti añjasāyano niyyāniko niyyātīti niyyāyanto niyyāti, gacchanto gacchatīti attho[4]. Takkarassa brahmasahabyatāyāti yo taṃ maggaṃ karoti paṭipajjati, tassa brahmunā saddhiṃ sahabhāvāya, ekaṭṭhāne pātubhāvāya gacchatīti attho. Yvāyanti yo ayaṃ. Akkhātoti kathito dīpito. Brāhmaṇena pokkharasātināti attano ācariyaṃ apadisati. Iti vāseṭṭho sakameva ācariyavādaṃ thometvā paggaṇhitvā vicarati. bhāradvājopi sakamevāti. Tena vuttaṃ “neva kho asakkhi vāseṭṭho”tiādi.

520-521. Thanh niên Vāseṭṭha và thanh niên Bhāradvāja: Thanh niên Vāseṭṭha là học trò của Bà-la-môn Pokkharasāti, thanh niên Bhāradvāja là học trò của Bà-la-môn Tārukkha. Được biết cả hai vị Bà-la-môn ấy là vị thành tựu về sanh chủng, thông thạo ba bộ Vệ-Đà. Đang đi tản bộ: đi tản bộ cho thư giãn để giảm bớt sự mệt mỏi, do đã ngồi quá lâu là nguyên nhân. Được biết cả hai thanh niên ấy ngồi trì tụng chú thuật suốt ngày, đã đứng dậy vào buổi chiều tối, cho người cầm lấy vật thơm và tràng hoa, dầu và y phục sạch sẽ là những đồ dùng sử dụng để tắm gội, vây quanh bởi tùy tùng của mình, ý định đi tắm, đã đi đến bờ sông rồi đi tới đi lui ở những gò cát, có màu sắc tựa như màu bạc. Một người đi (trước) một người đi theo sau, thêm một người khác lại đi theo sau người đó nữa. Vì lý do ấy, ngài mới nói rằng: “đi tản bộ cùng nhau”. Đạo lộ và không phải đạo lộ: Đạo lộ và không phải đạo lộ. Giải thích rằng – cả hai thanh niên thảo luận với nhau liên quan đến đạo lộ và không phải đạo lộ như vầy rằng: Tôi hoàn thiện đạo lộ thực hành thế nào đây? Bằng con đường nào mới có thể đi đến thế giới Phạm Thiên được an lạc? Tuyến đường đi: đây là từ đồng nghĩa của ‘con đường thẳng tắp’ hoặc chính con đường thẳng tắp ấy, người đi (và) về bằng còn đường ấy, chính vì thế con đường ấy gọi là tuyến đường đi. Là con đường thoát ra, dẫn dắt: khi thoát ra (sẽ) thoát ra được, tức là khi đi (sẽ) đi được. Dẫn dắt đến cộng trú với Phạm Thiên cho những ai thực hành theo nó: Để cho người thực hành theo (đạo lộ) ấy cộng trú với Phạm Thiên, có nghĩa là người đi vì sự cộng trú với Phạm Thiên, vì sự hiện hữu trong cùng một chỗ được diễn tiến theo đạo lộ ấy. Yvāyaṃ tách từ thành yo ayaṃ (điều này). Được giảng giải: đã nói, đã được biểu lộ. Bởi Bà-la-môn Tārukkha: Thanh niên Vāsaṭṭha dẫn chứng thầy của mình, thanh niên Vāsaṭṭha tản bộ ca ngợi học thuyết của thầy mình chỉ ở một phía, luôn cả Bhāradvāja cũng tản bộ ca ngợi…chỉ ở một phía. Vì lý do đó ngài mới nói rằng: Thanh niên Vāseṭṭha đã không thể thuyết phục được thanh niên Bhāradvāja” v.v.

Tato vāseṭṭho “ubhinnampi amhākaṃ kathā aniyyānikāva, imasmiñca loke maggakusalo nāma bhotā gotamena sadiso natthi, bhavañca gotamo avidūre vasati, so no tulaṃ gahetvā nisinnavāṇijo viya kaṅkhaṃ chindissatī”ti cintetvā tamatthaṃ bhāradvājassa ārocetvā ubhopi gantvā attano kathaṃ bhagavato ārocesuṃ. Tena vuttaṃ “atha kho vāseṭṭho … pe … yvāyaṃ akkhāto brāhmaṇena tārukkhenā”ti.

Khi ấy, thanh niên Vāsaṭṭha đã nghĩ rằng: “Lời nói của tôi, thậm chí cả hai chắc chắn không phải đạo lộ thoát ra, và được gọi là vị thiện xảo trong đạo lộ ở thế gian này không giống như Ngài Gotama, Ngài Gotama cư ngụ không xa, Ngài sẽ cắt đứt sự nghi ngờ của tôi, cũng giống như một người thương buôn ngồi cầm lấy cái cân” rồi mới nói ý nghĩa ấy cho thanh niên Bhāradvāja, cả hai đã đi trình lên sự việc cho đức Thế Tôn. Do đó ngài mới nói rằng: “Khi ấy, thanh niên Vāseṭṭho …nt… điều này đã được giảng giải bởi Bà-la-môn Tārukkha”.

522. Ettha bho gotamāti etasmiṃ maggāmagge. Viggaho vivādotiādīsu pubbuppattiko viggaho. Aparabhāge vivādo. Duvidhopi eso nānāācariyānaṃ vādato nānāvādo.

522. Thưa Ngài Gotama, về việc này: về đạo lộ và không phải đạo lộ này. Có sự cãi vã, có sự tranh cãi: Việc cãi vã sanh khởi lên trước, việc tranh cãi sanh khởi sau. Thậm chí cả hai đều có học thuyết khác biệt từ học thuyết của các vị thầy.

523. Atha kismiṃ pana voti tvampi ayameva maggoti attano ācariyavādameva paggayha tiṭṭhasi, bhāradvājopi attano ācariyavādameva, ekassāpi ekasmiṃ saṃsayo natthi. Evaṃ sati kismiṃ vo viggahoti pucchati.

523. Thế thì…về điều gì?: Đức Thế Tôn hỏi rằng – thậm chí cậu ấy cũng chỉ tán thán học thuyết của vị thầy mình, xác nhận rằng: “Đây chính là con đường, ngay cả Bhāradvāja cũng ca ngợi vị thầy của mình tương tự, sự hoài nghi của một người không có trong một người. Như vậy các cậu cãi vã với nhau trong chuyện gì?”

524. Maggāmagge, bho gotamāti magge bho gotama amagge ca, ujumagge ca anujumagge cāti attho. Esa kira ekabrāhmaṇassāpi maggaṃ “na maggo”ti na vadati. yathā pana attano ācariyassa maggo ujumaggo, na evaṃ aññesaṃ anujānāti, tasmā tamevatthaṃ[5] dīpento “kiñcāpi bho gotamā”tiādimāha.

524. Thưa ngài Gotama, về đạo lộ và không phải đạo lộ: Thưa ngài Gotama, về đạo lộ và không phải đạo lộ, có nghĩa là về đạo lộ thẳng tắp và không phải đạo lộ thẳng tắp. Được biết rằng thanh niên ấy không nói đến đạo lộ của bất kỳ một vị Bà-la-môn nào rằng: “(đây) không phải đạo lộ, tuy nhiên (vị ấy) không chấp nhận đạo lộ của người khác ‘đây là đạo lộ thẳng tắp’ giống như ‘đạo lộ thầy của mình’, vì thế, trong khi thuyết giảng về chính ý nghĩa đó, vị ấy đã nói rằng: “Thưa ngài Gotama…tuyên bố các đạo lộ khác biệt.

Sabbāni tānīti liṅgavipallāsena vadati, sabbe teti vuttaṃ hoti. Bahūnīti aṭṭha vā dasa vā. Nānāmaggānīti mahantāmahantajaṅghamaggasakaṭamaggādivasena nānāvidhāni sāmantā gāmanadītaḷākakhettādīhi āgantvā gāmaṃ pavisanamaggāni.

Tất cả các đạo lộ ấy: Ngài nói về sự thay đổi tánh (liṅgavipallāsa). Nhiều con đường: là tám (con đường) hoặc mười (con đường). Nhiều con đường khác nhau: con đường đến từ làng, dòng sông, hồ nước và ruộng đồng v.v. thông qua nhiều con đường san sát nhau cả lớn và không lớn, là đường bộ và đường xe v.v, rồi vào nhà.

525-526. “Niyyantīti vāseṭṭha vadesī”ti bhagavā tikkhattuṃ vacībhedaṃ katvā[6] paṭiññaṃ kārāpesi. Kasmā? Titthiyā hi paṭijānitvā pacchā niggayhamānā avajānanti. So tathā kātuṃ na sakkhissatīti.

525-526. Này Vāseṭṭha, có phải ngươi nói: ‘Những con đường ấy dẫn dắt đến’?” Đức Thế Tôn cho thanh niên Vāseṭṭha thốt ra lời nói ba lần, rồi đã xác nhận. Vì sao? Bởi vì các ngoại đạo sư đã thừa nhận, về sau trong khi bị áp bức (sẽ) khinh thường. Thanh niên Vāseṭṭha sẽ không thể làm như thế ấy.

527-529. Teva tevijjāti te tevijjā. Vakāro āgamasandhimattaṃ. Andhaveṇīti andhapaveṇī, ekena cakkhumatā gahitayaṭṭhiyā koṭiṃ eko andho gaṇhati, taṃ andhaṃ añño taṃ aññoti evaṃ paṇṇāsasaṭṭhi andhā paṭipāṭiyā ghaṭitā andhaveṇīti vuccati. Paramparasaṃsattāti aññamaññaṃ laggā, yaṭṭhigāhakenapi cakkhumatā virahitāti attho. Eko kira dhutto andhagaṇaṃ disvā “asukasmiṃ nāma gāme khajjabhojjaṃ sulabhan”ti ussāhetvā “tena hi[7] tattha no sāmi nehi, idaṃ nāma te demā”ti vutte, lañjaṃ gahetvā antarāmagge maggā okkamma mahantaṃ gacchaṃ anuparigantvā purimassa hatthena pacchimassa kacchaṃ gaṇhāpetvā “kiñci kammaṃ atthi, gacchatha tāva tumhe”ti vatvā palāyi, te divasampi gantvā maggaṃ avindamānā “kuhiṃ no cakkhumā, kuhiṃ maggo”ti paridevitvā maggaṃ avindamānā tattheva mariṃsu. Te sandhāya vuttaṃ “paramparasaṃsattā”ti. Purimopīti purimesu dasasu brāhmaṇesu ekopi. Majjhimopīti majjhimesu ācariyapācariyesu ekopi. Pacchimopīti idāni tevijjesu brāhmaṇesu ekopi. Hassakaññevāti hasitabbameva. Nāmakaññevāti lāmakaṃyeva. Tadetaṃ atthābhāvena rittakaṃ, rittakattāyeva tucchakaṃ. Idāni brahmaloko[8] tāva tiṭṭhatu, yo tevijjehi na diṭṭhapubbova. Yepi candimasūriye tevijjā passanti, tesampi sahabyatāya maggaṃ desetuṃ nappahontīti dassanatthaṃ “taṃ kiṃ maññasī”tiādimāha.

527-529. Các Bà-la-môn thông ba kiến thức Vệ-Đà: Các Bà-la-môn thông ba kiến thức Vệ-Đà. Phụ âm ‘Va’: chỉ là phép tiếp ngữ xen chữ (āgamasandhi). Một hàng người mù: một hàng người mù, giải thích rằng: Bởi một người mù đã nắm lấy đầu gậy do một người sáng mắt cầm, (và) những người khác vịnh vào người mù tiếp theo bằng cách này, 50-60 người mù nối tiếp với nhau theo tuần tự gọi là một hàng người mù. Một chuỗi vịnh vào nhau: Vịnh vào vai của nhau, tức là bị người mắt sáng cầm gậy tránh đi. Có câu chuyện như sau: Sau khi một tên côn đồ nhìn thấy nhóm người mù đã khích lệ (nhóm người mù) nói rằng: “Ở ngôi làng đằng kia, thức ăn loại cứng và loại mềm rất dễ tìm.” – Những người mù nói rằng: “Ông hãy giúp dẫn chúng tôi đến ngôi làng đó. Chúng tôi sẽ đưa những thứ này cho ông.” – Anh ta nhận lấy phần thù lao (đưa họ đến giữa đường) ghé vào bên vệ đường, đưa (họ) đi dạo quanh một lùm cây lớn, mới cho nhóm người mù nắm lấy tấm vải thắt ngang hông theo tuần tự ở đằng sau rồi nói rằng: “Tôi có một số công việc, các ông hãy đi trước, sau đó trốn đi.” Những người mù đó đi suốt cả ngày cũng không tìm được lối đi đã than khóc bi thương: “Người có mắt tốt đi đâu? Con đường nằm ở đâu?” khi không tìm ra con đường thì đã chết ngay chính tại chỗ đó. Ngài đã nói rằng: “Một chuỗi vịnh vào nhau” (điều đó) muốn đề cập đến nhóm người mù ấy. Người trước (cũng không thấy): Một vị trong số mười vị Bà-la-môn ngay cả người đầu tiên cũng không thấy. Người giữa (cũng không thấy): trong số các thầy và các tôn sư ở giữa, dù chỉ một người cũng không thấy. Người sau cùng: Trong số các vị Bà-la-môn thông ba kiến thức Vệ-Đà hiện nay luôn cả một người cũng không thấy. Chỉ là trò cười: Thực sự buồn cười. Chỉ là nói suông: Thật sự thấp hèn. Lời nói này đây là lời trống rỗng bởi không có lợi ích, chỉ là lời nói trống rỗng bởi không có ý nghĩa gì cả. Bây giờ, đức Thế Tôn để chỉ ra rằng: Phạm Thiên vị được Bà-la-môn thông ba kiến thức Vệ-Đà chưa từng nhìn thấy hoãn lại trước, Bà-la-môn thông ba kiến thức Vệ-Đà nhìn thấy mặt trăng và mặt trời, nhưng không thể chỉ ra đạo lộ để cộng trú với mặt trăng và mặt trời ấy, nên đã nói rằng: “Này Vāseṭṭha, ngươi nghĩ gì về việc này…

530. Tattha yato candimasūriyā uggacchantīti yasmiṃ kāle uggacchanti. Yattha ca oggacchantīti yasmiṃ kāle atthamenti[9], uggamanakāle ca atthaṅgamanakāle ca passantīti attho. Āyācantīti “udehi bhavaṃ canda, udehi bhavaṃ sūriyā”ti evaṃ āyācanti. Thomayantīti “sommo cando, parimaṇḍalo cando, sappabho cando”tiādīni vadantā pasaṃsanti. Pañjalikāti paggahitāñjalikā. Namassamānāti “namo namo”ti vadamānā.

530. Ở đó, vào lúc mặt trăng và mặt trời mọc lên: Mọc lên vào lúc nào. Vào lúc chúng lặn xuống: là lặn xuống vào thời gian nào, có nghĩa là tất cả mọi người nhìn thấy thời gian (mặt trăng và mặt trời) mọc và lặn. Các Bà-la-môn cầu khẩn: Cầu khẩn như vầy rằng – “Cầu xin thần mặt trăng hãy mọc lên, cầu xin thần mặt trời hãy mọc lên.” Ca ngợi: Tất cả mọi người ca ngợi rằng: “Mặt trăng xinh đẹp, mặt trăng tròn trịa, mặt trăng sáng chói v.v.” Chấp tay: duy trì chấp tay tỏ sự cung kính. Tôn kính: trong khi nói rằng ‘đảnh lễ, đảnh lễ’.

531-532. Yaṃ passantīti ettha yanti nipātamattaṃ. Kiṃ pana na kirāti ettha idha pana kiṃ vattabbaṃ. Yattha kira tevijjehi brāhmaṇehi na brahmā sakkhidiṭṭhoti evamattho daṭṭhabbo.

531-532. Từ ‘yaṃ’ trong cụm từ ‘Yaṃ passanti’ chỉ là một phân từ. Hơn nữa, điều gì cần được nói ở đây: Hơn nữa, có điều gì cần nói ở đây? Được biết Bà-la-môn thông ba kiến thức Vệ-Đà không chính mắt nhìn thấy Phạm Thiên ý nghĩa nên được hiểu như vậy.

542. Samatittikāti samabharitā. Kākapeyyāti yattha katthaci tīre ṭhitena kākena sakkā pātunti kākapeyyā. Pāraṃ taritukāmoti nadiṃ[10] atikkamitvā paratīraṃ gantukāmo[11]. Avheyyāti pakkoseyya. Ehi pārāpāranti ambho pāra apāraṃ ehi, atha maṃ sahasāva gahetvā gamissasi, atthi me accāyikakammanti attho.

542. Nước lên ngang mép bờ: (nước) đầy mép bờ. Chim quạ có thể uống: Chim quạ đứng ở trên bất cứ  bờ nào cũng có thể uống nước. Có ước muốn vượt qua bờ bên kia: có ước muốn vượt sông để đến bờ bên kia. Cầu khẩn: cầu khẩn. Nào bờ bên kia hãy sang bờ bên này, giải thích rằng: vị ấy cầu khẩn như vầy – Nào, ở bờ bên kia, hãy đi đến bờ bên này, nếu thế ông sẽ đưa tôi vượt qua một cách nhanh chóng, tôi có phận sự cần phải làm gấp.

544. Ye dhammā brāhmaṇakārakāti ettha pañcasīla- dasakusalakammapathabhedā dhammā brāhmaṇakārakāti veditabbā, tabbiparītā abrāhmaṇakārakā. Indamavhāyāmāti indaṃ avhāyāma pakkosāma. Evaṃ brāhmaṇānaṃ avhāyanassa niratthakataṃ dassetvā punapi bhagavā aṇṇavakucchiyaṃ sūriyo viya jalamāno pañcasatabhikkhuparivuto[12] aciravatiyā tīre nisinno aparampi nadīupamaṃyeva āharanto “seyyathāpī”tiādimāha.

544. Các pháp tạo thành Bà-la-môn: Nên biết rằng – Pháp tạo thành Bà-la-môn bao gồm ngũ giới, thập giới, và thập thiện nghiệp đạo. Pháp sai lệch từ đó không phải Pháp tạo thành Bà-la-môn. Indamavhāyāma: tách từ thành Indaṃ avhāyāma (chúng tôi cầu khẩn thần Inda). Đức Thế Tôn khi thuyết đến trạng thái cầu khẩn của Bà-la-môn không có lợi ích, vị thịnh vượng tựa như vầng thái dương trong lòng đại dương, vây quanh bởi năm trăm vị tỳ khưu ngồi ở trên bờ sông Aciravatī, trong khi mang lại dòng sông khác để so sánh thêm đã nói rằng: “cũng giống như…”

546. Kāmaguṇāti kāmayitabbaṭṭhena kāmā, bandhanaṭṭhena guṇā. “Anujānāmi bhikkhave, ahatānaṃ vatthānaṃ diguṇaṃ saṅghāṭin”ti [13]ettha hi paṭalaṭṭho guṇaṭṭho. “accenti kālā tarayanti rattiyo, vayoguṇā anupubbaṃ jahantī”ti[14] ettha rāsaṭṭho guṇaṭṭho. “sataguṇā dakkhiṇā pāṭikaṅkhitabbā”ti[15] ettha ānisaṃsaṭṭho guṇaṭṭho. “antaṃ antaguṇaṃ[16] kayirā mālāguṇe bahū”ti[17] ca ettha bandhanaṭṭho guṇaṭṭho. idhāpi eseva adhippeto. tena vuttaṃ “bandhanaṭṭhena guṇā”ti. Cakkhuviññeyyāti cakkhuviññāṇena passitabbā. Etenupāyena sotaviññeyyādīsupi attho veditabbo. Iṭṭhāti pariyiṭṭhā[18] vā hontu, mā vā, iṭṭhārammaṇabhūtāti attho. Kantāti kāmanīyā. Manāpāti manavaḍḍhanakā. Piyarūpāti piyajātikā. Kāmūpasañhitāti ārammaṇaṃ katvā uppajjamānena kāmena upasañhitā. Rajanīyāti rañjanīyā, rāguppattikāraṇabhūtāti attho.

546. Năm loại dục (Kāmaguṇā): gọi là kāmā bởi ý nghĩa có thể (đưa đến) ham muốn, guṇā bởi ý nghĩa trói buộc. Bởi vậy ở đây guṇa với ý nghĩa ‘lớp’ trong câu sau: “Này chư tỳ khưu, ta cho phép y Tăng-già-lê 2 lớp đối với tấm vải được mang lại.” Từ guṇa với ý nghĩa ‘tuổi tác’ trong câu sau: “Thời gian để cho trôi qua, ngày và đêm đi qua nhanh chóng, các giai đoạn tuổi tác lần lượt sẽ từ bỏ (chúng ta).” Từ guṇa với ý nghĩa ‘phước báu, công đức’ trong câu sau: “Việc cúng dường này đáng được ước muốn đem lại trăm lần công đức.” Từ guṇa dùng với ý nghĩa ‘trong 32 thể trược’ trong câu sau: “Ruột, màng ruột.” Từ guṇa dùng với ý nghĩa ‘trói buộc’ trong câu sau: “Có thể tạo thành nhiều loại tràng hoa.” Ở đây, Ngài chỉ muốn nói đến ý nghĩa này, vì thế đã nói rằng: “guṇa với ý nghĩa là trói buộc.” Cần nhận thức bằng mắt: cần được thấy bằng nhãn thức. Cần nhận thức thức bằng tai: nên biết ý nghĩa bằng phương thức nói trên. Đáng mong muốn: (năm loại dục) là những thứ đáng tìm kiếm, hoặc không đáng tìm kiếm. Đáng mến: là nơi thiết lập sự ham muốn. Đáng thích thú: là khiến ý càng tăng trưởng. Đáng yêu: là khởi lên lòng yêu thương. Phối hợp với dục: Tương ưng với dục đã làm cho cảnh sanh khởi. Làm cho tâm bị lôi cuốn: nghĩa là cám dỗ, quyến rũ, có nghĩa là làm nhân sanh khởi của ái luyến.

Gadhitāti gedhena abhibhūtā hutvā. Mucchitāti mucchākārappattāya adhimattakāya taṇhāya abhibhūtā. Ajjhopannāti adhiopannā ogāḷhā “idaṃ sāran”ti pariniṭṭhānappattā hutvā. Anādīnavadassāvinoti ādīnavaṃ apassantā. Anissaraṇapaññāti idamettha nissaraṇanti, evaṃ parijānanapaññāvirahitā, paccavekkhaṇaparibhogavirahitāti attho.

Bị trói buộc: bị tham ái ngự trị. Bị mê mẫn: Bị tham ái quá mức dẫn đến biểu hiện mê đắm chi phối. Bị lôi cuốn: chìm xuống, thăm dò, đã đạt đến sự chấp thuận rằng: “đây là cốt lõi”. Không nhìn thấy sự bất lợi: không nhìn thấy sự bất lợi. Từ ‘nissaraṇa’ trong từ ‘Anissaraṇapaññā (không biết rõ lối thoát ra)’ này, ở đây là tuệ tránh khỏi sự biết rõ toàn diện như vậy, có nghĩa là tuệ tránh khỏi việc sử dụng để quán chiếu lại.

548. Āvaraṇātiādīsu āvarantīti āvaraṇā. Nivārentīti nīvaraṇā. Onandhantīti onāhanā[19]. Pariyonandhantīti pariyonāhanā. Kāmacchandādīnaṃ vitthārakathā visuddhimaggato gahetabbā.

548. Sự ngăn trở v.v (năm loại dục) gọi là sự ngăn trở bởi làm phương tiện níu lại. Sự ngăn che: sự che lấp. Sự che đậy: sự siết chặt. Sự bao bọc lại: đậy lại. Lời nói chi tiết của sự ngăn che có ‘sự mong muốn về dục’ có thể tìm thấy trong bộ Thanh Tịnh Đạo.

549-550. Āvutā nivutā onaddhā[20] pariyonaddhāti padāni āvaraṇādīnaṃ vasena vuttāni. Sapariggahoti itthipariggahena sapariggahoti pucchati. Apariggaho bho gotamātiādīsupi kāmacchandassa abhāvato itthipariggahena apariggaho. Byāpādassa abhāvato kenaci saddhiṃ veracittena avero. Thinamiddhassa abhāvato cittagelaññasaṅkhātena byāpajjena abyāpajjo. Uddhaccakukkuccābhāvato uddhaccakukkuccādīhi saṃkilesehi asaṃkiliṭṭhacitto suparisuddhamānaso. Vicikicchāya abhāvato cittaṃ vase vatteti. Yathā ca brāhmaṇā cittagatikā hontīti, cittassa vasena vattanti, na tādisoti vasavattī.

549-550. Bị ngăn trở, bị che lấp, bị che đậy, bị bao bọc lại: ngài nói do tác động của năm loại dục có sự ngăn trở v.v. Có sở hữu: có sở hữu với việc sở hữu phụ nữ. Luôn cả trong câu ‘Thưa ngài Gotama, không sở hữu (phụ nữ)’: Không sở hữu với việc sở hữu phụ nữ bởi không có sự mong muốn về dục. Không có thù nghịch với tâm thù nghịch với bất cứ ai bởi không có sân độc. Không có sân độc bởi sự sân độc được xem là sự đau bệnh của tâm thức do không có hôn trầm và thụy miên. Không có tâm bị ô nhiễm do sự nhiễm ô có phóng dật và hối hận v.v, bởi không có phóng dật và hối hận gọi là người có tâm khéo được thanh tịnh. Không có sự tự chủ: bởi khiến tâm nằm trong mãnh lực, bởi không có hoài nghi, và không tạo thành Bà-là-môn vị rơi vào mãnh lực của tâm, là vận hành theo mãnh lực của tâm.

552. Idha kho panāti idha brahmalokamagge. Āsīditvāti amaggameva “maggo”ti upagantvā. Saṃsīdantīti “samatalan”ti saññāya paṅkaṃ otiṇṇā viya anuppavisanti. Saṃsīditvā visāraṃ[21] pāpuṇantīti evaṃ paṅke viya saṃsīditvā visāraṃ aṅgamaṅgasaṃbhañjanaṃ pāpuṇanti. Sukkhataraṃ maññe tarantīti marīcikāya vañcetvā “kākapeyyā nadī”ti saññāya “tarissāmā”ti hatthehi ca pādehi ca vāyamamānā sukkhataraṇaṃ maññe taranti. Tasmā yathā hatthapādādīnaṃ saṃbhañjanaṃ paribhañjanaṃ, evaṃ apāyesu saṃbhañjanaṃ paribhañjanaṃ pāpuṇanti. Idheva ca sukhaṃ vā sātaṃ vā na labhanti. Tasmā idaṃ tevijjānaṃ brāhmaṇānanti tasmā idaṃ brahmasahabyatāya maggadīpakaṃ tevijjakaṃ pāvacanaṃ tevijjānaṃ brāhmaṇānaṃ. Tevijjā-iriṇanti[22] tevijjā-araññaṃ iriṇanti[23] hi agāmakaṃ mahāaraññaṃ vuccati. Tevijjāvivananti[24] pupphaphalehi aparibhogarukkhehi sañchannaṃ nirudakaṃ araññaṃ. Yattha maggato ukkamitvā parivattitumpi na sakkā honti, taṃ sandhāyāha “tevijjāvivanantipi vuccatī”ti. Tevijjābyasananti tevijjānaṃ pañcavidhabyasanasadisametaṃ. Yathā hi ñātirogabhoga diṭṭhi sīlabyasanappattassa sukhaṃ nāma natthi, evaṃ tevijjānaṃ tevijjakaṃ pāvacanaṃ āgamma sukhaṃ nāma natthīti dasseti.

552. Hơn nữa, ở trong đời này: Đạo lộ của thế giới Phạm Thiên này. Không có sự tự chủ: sau khi đi đến nơi thật sự không phải đạo lộ lại lầm tưởng là “đạo lộ”. Đang lún sâu vào: chìm xuống giống như một người dẫm vào bãi lầy lại tưởng rằng là bề mặt bằng phẳng. Sâu khi lún sâu vào các vị đạt được (chỉ mỗi sự tuyệt vọng): khi lún sâu giống như lún sâu vào bùn lầy như thế đạt đến sự tuyệt vọng, là sự tan rã của các bộ phận lớn nhỏ. Nghĩ rằng vượt qua dễ dàng: mọi người nghĩ rằng – “tôi sẽ vượt qua” với suy nghĩ “dòng sông có nước đầy ở bên bờ chim quạ có thể uống được, mới cố gắng cả tay lẫn chân nghĩ (sẽ) vượt qua sông dễ dàng bởi vì đánh lừa thị giác do ảo ảnh. Vì thế, tất cả họ đi đến sự thiệt hại, sự vỡ nát hoàn toàn trong địa ngục, giống như tay và chân v.v, đạt đến sự thiệt hại, sự vỡ nát hoàn toàn, là không đạt được sự an lạc, hoặc sự lầm tưởng ở đây. Vì thế ba kiến thức Vệ-Đà này của các vị Bà-la-môn thông ba kiến thức Vệ-Đà: Vì thế, đây là lời tuyên thuyết, tức là ba kiến thức Vệ-Đà diễn đạt đến sự cộng trú với các vị Bà-la-môn thông ba kiến thức Vệ-Đà. Ba kiến thức Vệ-Đà (được gọi là) ‘cánh đồng rộng lớn’: Khu rừng là ba kiến thức Vệ-Đà, khu rừng lớn không có làng mạc ngài gọi là cánh đồng. Ba kiến thức Vệ-Đà (được gọi là) ‘khu rừng rộng lớn’: Khu rừng không có nước, bao phủ bởi những hàng cây có hoa quả không thể thọ dụng được. Ngài đã nói – đức Thế Tôn thuyết rằng: Họ gọi khu rừng lớn là ba kiến thức Vệ-Đà như thế muốn đề cập đến khu rừng mà bất cứ ai cũng không thể ghé vào để thay đổi được con đường. Ba kiến thức Vệ-Đà (được gọi là) ‘sự tổn hại’: Lời này đồng nghĩa với năm sự suy vong của ba kiến thức Vệ-Đà. Ngài trình bày rằng: vị thông ba kiến thức Vệ-Đà không có sự an lạc do y cứ vào lời dạy chính yếu gồm ba kiến thức Vệ-Đà, giống như người đi đến sự tổn hại về thân quyến, bệnh tật, tài sản, kiến thức và giới hạnh cũng không thể tìm kiếm được sự an lạc.

554. Jātasaṃvaḍḍhoti jāto ca vaḍḍhito ca, yo hi kevalaṃ tattha jātova hoti, aññattha vaḍḍhito, tassa samantā gāmamaggā na sabbaso paccakkhā honti, tasmā jātasaṃvaḍḍhoti āha. jātasaṃvaḍḍhopi yo ciranikkhanto, tassa na sabbaso paccakkhā honti. Tasmā “tāvadeva avasaṭan”ti āha, taṅkhaṇameva nikkhantanti attho. Dandhāyitattanti ayaṃ nu kho maggo, ayaṃ na nukhoti kaṅkhāvasena cirāyitattaṃ. Vitthāyitattanti yathā sukhumaṃ atthajātaṃ sahasā pucchitassa kassaci sarīraṃ thaddhabhāvaṃ gaṇhāti, evaṃ thaddhabhāvaggahaṇaṃ. Na tvevāti iminā sabbaññutaññāṇassa appaṭihatabhāvaṃ dasseti. Tassa hi purisassa mārāvaṭṭanādivasena siyā ñāṇassa paṭighāto. tena so dandhāyeyya vā vitthāyeyya vā. sabbaññutaññāṇaṃ pana appaṭihataṃ, na sakkā tassa kenaci antarāyo kātunti dīpeti.

554. Một người đã được sanh ra và lớn lên: đã được sanh ra và lớn lên, bởi vì con đường đi đến ngôi làng kế bên của người được sanh ra ở một nơi (nhưng) lại lớn lên ở một chỗ khác, không rành rẽ mọi thứ, vì thế đức Thế Tôn đã nói rằng: “Một người đã được sanh ra và lớn lên…” Người dù đã được sanh ra và lớn lên nhưng đi (khỏi nơi ở) từ lâu (cũng) không thể rành rẽ mọi chuyện. Do đó, (đức Thế Tôn) đã nói “ngay vào lúc người ấy vừa rời khỏi”, tức là rời khỏi ngay vào ấy. Có trạng thái chậm chạp: chậm chạp do nghi ngờ rằng: Phải chăng con đường này hoặc không phải con đường này? Có trạng thái ấp úng: trạng thái ương ngạnh giống như khi bất cứ ai đột nhiên bị hỏi câu hỏi khởi lên một cách chi tiết, (vị ấy) đạt đến tính chất là người có cơ thể trì trệ, việc nắm lấy trạng thái ương ngạnh như vậy. Đức Thế Tôn thuyết đến trạng thái không bị trở ngại của Toàn-giác-trí với câu “không chậm chạp, không ấp úng”, ngài giải thích rằng: việc cản trở trí của người ấy có thể có được do tác động ác ma xui khiến v.v. Vì thế, người đó có thể chậm chạp hoặc ấp úng, tuy nhiên Toàn giác trí không bị cản trở, không ai có thể gây chướng ngại cho Toàn giác trí ấy.

555. Ullumpatu bhavaṃ gotamoti uddharatu bhavaṃ gotamo. Brāhmaṇiṃ pajanti brāhmaṇadārakaṃ, bhavaṃ gotamo mama brāhmaṇaputtaṃ apāyamaggato uddharitvā brahmalokamagge patiṭṭhapetūti attho. Athassa bhagavā buddhuppādaṃ dassetvā saddhiṃ pubbabhāgapaṭipadāya mettāvihārādibrahmalokagāmimaggaṃ desetukāmo “tena hi vāseṭṭhā”tiādimāha. Tattha “idha tathāgato”tiādi sāmaññaphale vitthāritaṃ. Mettāsahagatenātiādīsu yaṃ vattabbaṃ, taṃ sabbaṃ visuddhimagge brahmavihārakammaṭṭhānakathāyaṃ vuttaṃ. Seyyathāpi vāseṭṭha balavā saṅkhadhamotiādi pana idha apubbaṃ. Tattha balavāti balasampanno. Saṅkhadhamoti saṅkhadhamako. Appakasirenāti akicchena adukkhena. dubbalo hi saṅkhadhamo saṅkhaṃ dhamantopi na sakkoti catasso disā sarena viññāpetuṃ, nāssa saṅkhasaddo sabbato pharati. balavato pana vipphāriko hoti, tasmā “balavā”tiādimāha. Mettāya cetovimuttiyāti ettha mettāti vutte upacāropi appanāpi vaṭṭati, “cettovimuttī”ti vutte pana appanāva vaṭṭati.

555. Xin ngài Gotama hãy tế độ dòng dõi Bà-la-môn: Xin ngài Gotama hãy tế độ dòng dõi Bà-la-môn. Dân chúng thuộc Bà-la-môn: ám chỉ đến đứa trẻ của Bà-la-môn. Giải thích rằng: Xin ngài Gotama hãy tế độ đưa Bà-la-môn và con trai của Bà-la-môn lên từ con đường khổ, để đi đến thế giới Phạm Thiên. Khi ấy, đức Thế Tôn có ý muốn thuyết giảng đến việc xuất hiện của đức Thế Tôn, rồi thuyết về đạo lộ dẫn đến thế giới Phạm Thiên có phát triển Từ Tâm v.v, cùng với Pháp hành sơ khởi của vị ấy nên mới nói rằng: “Chính vì điều ấy, này Vāseṭṭha, ngươi hãy lắng nghe…” Ở đây, “Như Lai xuất hiện ở đời” trong bài Kinh này, ngài đã nói chi tiết trong bài Kinh Sāmaññaphala. Điều cần được nói toàn bộ trong câu ‘có tâm tương ưng với Từ’ v.v. ngài đã nói lời nói về (bốn) đề mục hành thiền về Phạm-Trú trong Visuddhimagga. Này Vāseṭṭha, cũng giống như người thổi tù và vỏ ốc, đầy đủ với sức mạnh: v.v, trong bài Kinh này chưa từng có, trong số các từ ấy thì từ ‘balavā’ dịch là ‘đầy đủ với sức mạnh’. ‘Saṅkhadhamo’ dịch là ‘người thổi tù và vỏ ốc’. Chỉ với chút ít khó nhọc: không khó nhọc, không khổ đau. Giải thích rằng, thật vậy người thổi tù và tàn tật dù thổi tù và cũng không thể lắng nghe âm thanh khắp 4 phương hướng, âm thanh tù và của người ấy không thể lan truyền khắp nơi, nhưng đối với người có sức mạnh (thì có thể) truyền đi. Vì thế, đức Thế Tôn đã nói “đầy đủ với sức mạnh”. Trong khi nói ‘Tâm Từ’ trong cụm từ ‘sự giải thoát của tâm thông qua (tâm) Từ được phát triển’ này thích hợp cả ‘tâm cận định’ và cả ‘tâm an chỉ định’, “sự giải thoát của tâm” phù hợp hoàn toàn cho “tâm an chỉ định”.

Yaṃ pamāṇakataṃ kammanti pamāṇakataṃ kammaṃ nāma kāmāvacaraṃ vuccati. Appamāṇakataṃ kammaṃ nāma rūpārūpāvacaraṃ. Tañhi pamāṇaṃ atikkamitvā odissakānodissaka-disāpharaṇavasena vaḍḍhetvā katattā appamāṇakatanti vuccati. Na taṃ tatrāvasissati na taṃ tatrāvatiṭṭhatīti taṃ kāmāvacarakammaṃ tasmiṃ rūpāvacarārūpāvacarakamme na ohīyati, na tiṭṭhati. Kiṃ vuttaṃ hoti — Taṃ kāmāvacarakammaṃ tassa rūpārūpāvacarakammassa antarā laggituṃ vā ṭhātuṃ vā rūpārūpāvacarakammaṃ pharitvā pariyādiyitvā attano okāsaṃ gahetvā patiṭṭhātuṃ na sakkoti. Atha kho rūpāvacarārūpāvacarakammameva kāmāvacaraṃ mahogho viya parittaṃ udakaṃ pharitvā pariyādiyitvā attano okāsaṃ gahetvā tiṭṭhati. Tassa vipākaṃ paṭibāhitvā sayameva brahmasahabyataṃ upanetīti. Evaṃvihārīti evaṃ mettādivihārī.

Nghiệp đã được làm hữu hạn: là nghiệp có hạn lượng, được gọi là Dục giới. Nghiệp đã được làm vô lượng là Sắc giới và Vô sắc giới. Nghiệp đã được làm vô lượng bởi vì vượt khỏi hạn lượng rồi làm cho phát triển với mãnh lực truyền đi các hướng cụ thể và không cụ thể. (Nghiệp ấy) không lưu lại ở nơi ấy, không tồn tại ở nơi ấy (trong Sắc giới và Vô sắc giới): Nghiệp thuộc Dục giới không lưu lại, không tồn tại trong nghiệp thuộc Sắc giới và Vô sắc giới ấy. Là được nói như thế nào? Nghiệp thuộc Dục giới ấy không thể mắc vào, hoặc tồn tại trong khoảng giữa nghiệp thuộc Sắc giới và Vô sắc giới ấy, hoặc để lan truyền nghiệp thuộc Sắc giới và Vô sắc giới rồi trông nom nghiệp (thuộc) Dục giới, (vị ấy) đã nắm lấy cơ hội của mình (rồi) vững trú, giống như dòng nước lớn chảy tràn ra chút ít thì dừng lại, vì thế (sẽ) ngăn chặn quả dị thục của nghiệp thuộc Dục giới ấy, đưa đến sự cộng trú với Phạm Thiên nhờ vào chính mình. Với sự an trú như vậy: (có pháp) an trú với tâm từ v.v, như vậy.

559. Ete mayaṃ bhavantaṃ gotamanti idaṃ tesaṃ dutiyaṃ saraṇagamanaṃ. Paṭhamameva hete majjhimapaṇṇāsake vāseṭṭhasuttaṃ[25] sutvā saraṇaṃ gatā, imaṃ pana tevijjasuttaṃ sutvā dutiyampi saraṇaṃ gatā. Katipāhaccayena pabbajitvā aggaññasutte[26] upasampadañceva arahattañca alatthuṃ. Sesaṃ sabbattha uttānamevāti.

559. Chúng tôi đây xin đi đến nương nhờ đức Thế Tôn Gotama: đây là việc đi đến nương nhờ lần thứ hai của hai Bà-la-môn ấy. Cả hai thanh niên ấy đã lắng nghe bài Kinh Vāseṭṭha trong Trung Bộ Kinh nhóm năm mươi bài Kinh rồi đi đến nương nhờ lần thứ nhất, (và) sau khi lắng nghe bài Kinh Ba Kiến Thức Vệ-Đà này rồi đi đến nương nhờ lần thứ hai, qua 2-3 ngày đã xuất gia và tu lên bậc trên, và đắc chứng phẩm vị A-ra-hán trong bài Kinh Aggañña. Từ còn lại ở các câu đều đơn giản.

Giải Thích Kinh Ba Kiến Thức Vệ Đà được kết thúc – Kinh thứ mười ba.

Trong Chú Giải Trường Bộ Kinh là Sumaṅgalavilāsī.

Việc Giải Thích Ý Nghĩa Của Giới Uẩn được Trang Điểm với bài Kinh thứ mười ba được kết thúc.

Giải Thích Ý Nghĩa PHẨM GIỚI UẨN được kết thúc.



[1] Opasādavāsiko (Sī, Syā), opahāravāsiko (Ka) Ma 2. 376 piṭṭhe.

[2] Etaṃ (Syā), evaṃ (Ka)

[3] Añjasā ca (Sī)

[4] Attho. Kva gacchatīti (Sī, Syā)

[5] Tameva vatthuṃ (Sī-Ṭṭ Abhinava 2. 427 piṭṭhe.)

[6] Kāretvā (Sī, Syā)

[7] Tehi (Sī)

[8] Brahmā (Sī, Syā)

[9] Atthaṇgamenti (Syā, Ka)

[10] Nadītīraṃ (Ka)

[11] Pattukāmo (Syā)

[12] Parivāro (Ka)

[13] mahāva. 348

[14] saṃ. ni. 1.4

[15] ma. ni. 3.379

[16] khu. pā. 3.1

[17] dha. pa. 53

[18] Pari-iṭṭha (Sī)

[19] Onahā (Sī)

[20] Ophuṭā (Sī, Syā), opuṭā (Ka) imāya saṃvaṭṭanāya saṃsandetabbaṃ.

[21] Visāraṃ (Ka), visattaṃ (Syā)

[22] Tevijjā-īriṇaṃ (Sī, Syā)

[23] Iraṇanti (Sī)

[24] Tevijjāvivinanti (Sī)

[25] Ma 2. 406 piṭṭhe.

[26] Dī 3. 66 piṭṭhe.