14. GIẢI THÍCH CHƯƠNG MỘT PHÁP (XXIV – Phẩm Người Tối Thắng-01)

Xem Tăng Chi Bộ Kinh – Chương 1 pháp – Phẩm 1-14 

(Kệ 188-267)

1– Phẩm Người Tối Thắng thứ nhất

1-1. Giải Thích Phẩm Người Tối Thắng

188. Etadaggesu paṭhamavaggassa paṭhame etadagganti etaṃ aggaṃ. Ettha ca ayaṃ aggasaddo ādikoṭikoṭṭhāsaseṭṭhesu dissati. ‘‘Ajjatagge, samma dovārika, āvarāmi dvāraṃ nigaṇṭhānaṃ nigaṇṭhīna’’ntiādīsu (ma. ni. 2.70) hi ādimhi dissati. ‘‘Teneva aṅgulaggena taṃ aṅgulaggaṃ parāmaseyya (kathā. 441), ucchaggaṃ veḷagga’’ntiādīsu koṭiyaṃ. ‘‘Ambilaggaṃ vā madhuraggaṃ vā tittakaggaṃ vā (saṃ. ni. 5.374), anujānāmi, bhikkhave, vihāraggena vā pariveṇaggena vā bhājetu’’ntiādīsu (cūḷava. 318) koṭṭhāse. ‘‘Yāvatā, bhikkhave, sattā apadā vā…pe… tathāgato tesaṃ aggamakkhāyatī’’tiādīsu (a. ni. 4.34; itivu. 90) seṭṭhe. Svāyamidha koṭiyampi vaṭṭati seṭṭhepi. Te hi therā attano attano ṭhāne koṭibhūtātipi aggā, seṭṭhabhūtātipi. Tasmā etadagganti esā koṭi eso seṭṭhoti ayamettha attho. Eseva nayo sabbasuttesu.

Ở bài Kinh thứ nhất của phẩm thứ nhất trong phẩm người tối thắng, từ ‘etadaggaṃ’ tách từ thành eta aggaṃ (đây là tối thắng). Và từ ‘agga’ này trong từ ‘đây là tối thắng’ ấy biểu thị với ý nghĩa sau— (1) bắt đầu, (2) chót đỉnh/đứng đầu, (3) phần và (4) tối thượng. Thật vậy, ‘aggga’ biểu thị với ý nghĩa ‘bắt đầu’— “Kể từ nay trở đi, này người gác cửa, ta sẽ đóng cửa đối với các nam Nigantha, các nữ Nigantha.” (ma. ni. 2.70); Chót đỉnh/đứng đầu: “Nên vuốt Vệ-đàu ngọn mía, đầu ngọn tre bằng đầu ngón tay này với đầu ngón tay kia bằng chính đầu ngón tay ấy.” (kathā. 441); Phần— “Này chư Tỳ-khưu, Như Lai cho phép phân chia phần thức ăn chua, phần thức ăn ngọt, hoặc phần thức ăn đắng,” (saṃ. ni. 5.374); (hoặc) “Này chư Tỳ-khưu, Như Lai cho phép phân phối theo phòng ngủ, và phân phối theo phòng ở.” (cūḷava. 318) Tối thượng: “Này các Tỳ-khưu, so sánh với các chúng sanh không chân, hoặc hai chân, -nt- đức Như Lai được gọi là tối thượng trong số ấy,” (a. ni. 4.34; itivu. 90); Trong ngữ cảnh này, từ ‘agga’ được sử dụng với ý nghĩa chót đỉnh và tối thượng. Thật vậy, các vị Trưởng lão đó được gọi là tối cao vì tính chất đứng đầu, hoặc vì tính chất tối thượng ở địa vị tối thượng của mỗi cá nhân. Do đó, ý nghĩa trong từ ‘etadaggaṃ’ này là ‘Đây là đứng đầu, đây là tối thượng.’ Luôn cả trong toàn bộ bài kinh cũng áp dụng theo cách thức này.

Ayañca etadaggasannikkhepo nāma catūhi kāraṇehi labbhati aṭṭhuppattito āgamanato ciṇṇavasito guṇātirekatoti. Tattha koci thero ekena kāraṇena etadaggaṭṭhānaṃ labhati, koci dvīhi, koci tīhi, koci sabbeheva catūhipi āyasmā sāriputtatthero viya. So hi aṭṭhuppattitopi mahāpaññatāya etadaggaṭṭhānaṃ labhi āgamanādīhipi.

Và thông thường việc thiết lập vào vị thế ‘đây là (vị) tối thắng’ được thực hiện dựa trên bốn lý do—

(1) aṭṭhuppattito – bởi nguyên nhân sanh khởi của câu chuyện
(2) āgamanato – với tư cách là vị đi đến trước   
(3) ciṇṇavasito – với tư cách là vị tinh thông
(4) guṇātirekato – với tư cách là vị vượt trội về đức hạnh

Trong số bốn lý do đó, một số Trưởng lão được thiết lập vào vị thế ‘đây là (vị) tối thắng’ chỉ với một lý do, một số vị đạt được với hai lý do, một số vị đạt được với ba lý do, một số vị đạt được với bốn lý do giống như Trưởng lão Sāriputta. Thật vậy, Trưởng lão Sāriputta đã đạt được vị thế ‘đây là (vị) tối thắng’ bởi là vị có tuệ vĩ đại, bởi nguyên nhân sanh khởi, bởi việc đến trước.

Kathaṃ? Ekasmiṃ hi samaye satthā jetavanamahāvihāre viharanto kaṇḍambarukkhamūle titthiyamaddanaṃ yamakapāṭihāriyaṃ dassetvā ‘‘kahaṃ nu kho purimabuddhā yamakapāṭihāriyaṃ katvā vassaṃ upagacchantī’’ti āvajjento ‘‘tāvatiṃsabhavane’’ti ñatvā dve padantarāni dassetvā tatiyena padena tāvatiṃsabhavane paccuṭṭhāsi. Sakko devarājā bhagavantaṃ disvā paṇḍukambalasilāto uṭṭhāya saddhiṃ devagaṇena paccuggamanaṃ agamāsi. Devā cintayiṃsu – ‘‘sakko devarājā devagaṇaparivuto saṭṭhiyojanāyāmāya paṇḍukambalasilāya nisīditvā sampattiṃ anubhavati, buddhānaṃ nāma nisinnakālato paṭṭhāya na sakkā aññena ettha hatthampi ṭhapetu’’nti. Satthāpi tattha nisinno tesaṃ cittācāraṃ ñatvā mahāpaṃsukūliko viya muṇḍapīṭhakaṃ sabbameva paṇḍukambalasilaṃ avattharitvā nisīdi. Evaṃ nisīdanto pana attano vā sarīraṃ mahantaṃ katvā māpesi, paṇḍukambalasilaṃ vā khuddakaṃ akāsīti na sallakkhetabbaṃ. Acinteyyo hi buddhavisayo. Evaṃ nisinno pana mātaraṃ kāyasakkhiṃ katvā dasasahassacakkavāḷadevatānaṃ ‘‘kusalā dhammā akusalā dhammā abyākatā dhammā’’ti abhidhammapiṭakaṃ desesi.

Tại sao? Vì một thuở nọ bậc Đạo Sư an trú ở Tịnh xá Jetavana, Ngài đã thị hiện Song Thông và chế ngự các ngoại đạo tại gốc cây Kaṇḍamba, Ngài đã khởi lên suy nghĩ rằng: “Chư Phật trong quá khứ sau khi thị hiện Song Thông thì sẽ vào mùa an cư mưa ở đâu?” Sau khi biết: “Ở tại cung trời Đao Lợi.” Ngài đã biểu lộ hai dấu chân, còn dấu chân thứ ba thì được đặt lên cung trời Đao Lợi. Chúa Trời Sakka sau khi nhìn thấy đức Thế Tôn đang đi đến, Ngài liền đứng dậy khỏi tảng đá Paṇḍukambala và đi đến tiếp đón Ngài cùng với tập thể chư Thiên. Chư Thiên đã khởi lên suy nghĩ rằng: “Chúa Trời Sakka, được vây quanh bởi tập thể chư Thiên, ngự trên tảng đá Paṇḍukambala dài 60 do-tuần và thọ hưởng sự thành tựu to lớn. Kể từ khi chư Phật an tọa trên bảo tọa này, thì không một ai khác có thể đặt lên dù chỉ là bàn tay lên bảo tọa này được. Về phần bậc Đạo Sư trong khi an tọa ở tại nơi đó, sau khi biết được trạng thái tâm của tập thể chư Thiên ấy. Ngài an tọa tràn ra khắp tảng đá tảng đá Paṇḍukambala, giống như một vị mặc y phấn tảo lớn an tọa tràn ra khỏi cái ghế nhỏ vậy. Tuy nhiên, mọi người không nên xác định rằng— bậc Đạo Sư trong khi an tọa như vậy, đã hóa hiện thân thể của Ngài trở nên to lớn, hay đã làm cho tảng đá Paṇḍukambala trở nên nhỏ bé. Bởi vì, phạm vi của một bậc Giác Ngộ là bất khả tư nghì. Hơn nữa, trong khi an tọa như vậy, Ngài đã làm cho mẹ Ngài trở thành bậc thân chứng, rồi bắt đầu thuyết giảng Tạng Vi Diệu Pháp rằng: “Các Pháp thiện, các Pháp tất thiện, các Pháp vô ký, v.v,” đến cho tập thể chư Thiên trong mười ngàn thế giới.

Pāṭihāriyaṭṭhānepi sabbāpi dvādasayojanikā parisā anuruddhattheraṃ upasaṅkamitvā ‘‘kahaṃ, bhante, dasabalo gato’’ti pucchi. Tāvatiṃsabhavane paṇḍukambalasilāyaṃ vassaṃ upagantvā abhidhammakathaṃ desetuṃ gatoti. Bhante, na mayaṃ satthāraṃ adisvā gamissāma. Kadā satthā āgamissatīti satthu āgamanakālaṃ jānāthāti? Mahāmoggallānattherassa bhāraṃ karotha, so buddhānaṃ santikaṃ gantvā sāsanaṃ āharissatīti. Kiṃ pana therassa tattha gantuṃ balaṃ natthīti? Atthi, visesavantānaṃ pana visesaṃ passantūti evamāha. Mahājano mahāmoggallānattheraṃ upasaṅkamitvā satthu sāsanaṃ gahetvā āgamanatthāya yāci. Thero passanteyeva mahājane pathaviyaṃ nimujjitvā antosinerunā gantvā satthāraṃ vanditvā āha – ‘‘bhante, mahājano tumhākaṃ dassanakāmo, āgamanadivasaṃ vo jānituṃ icchatī’’ti. Tena hi ‘‘ito temāsaccayena saṅkassanagaradvāre passathā’’tissa vadehīti. Thero bhagavato sāsanaṃ āharitvā mahājanassa kathesi. Mahājano tattheva temāsaṃ khandhāvāraṃ bandhitvā vasi. Cūḷaanāthapiṇḍiko dvādasayojanāya parisāya temāsaṃ yāgubhattaṃ ādāsi.

Ngay tại nơi thị hiện Song Thông, toàn thể đại chúng ước chừng 12 do-tuần, sau khi đi đến tìm gặp Trưởng lão Anuruddha đã hỏi rằng: “Kính bạch Ngài, đấng Thập Lực hiện đang an trú ở đâu?” – Trưởng lão Anuruddha đáp: “Đấng Thập Lực đang an cư mùa mưa tại tảng đá Paṇḍukambala ở cung trời Ðao Lợi, và Ngài đang bắt đầu thuyết giảng Tạng Vi Diệu Pháp. – Đại chúng hỏi: Kính bạch Ngài, nếu chúng tôi không nhìn thấy bậc Đạo Sư thì chúng tôi sẽ không trở về. Khi nào bậc Đạo Sư sẽ trở về, các Ngài cần phải biết được thời gian bậc Đạo Sư trở lại? – Trưởng lão Anuruddha đáp: Các vị hãy giao phó nhiệm vụ này cho Trưởng lão Mahāmoggallāna. Ngài ấy sẽ đi yết kiến Đức Phật rồi sẽ mang tin tức trở về. –  Đại chúng hỏi: Vậy thì năng lực để đi đến nơi đó của Ngài Trưởng lão không có hay sao? — Trưởng lão Anuruddha đã đáp như vầy: “Có, nhưng xin đại chúng hãy nhìn xem phẩm chất đặc biệt.” – Đại chúng sau khi đi đến tìm gặp Trưởng lão Mahāmoggallāna đã thỉnh cầu Ngài về việc đi đến (và) nhận lấy thông điệp của bậc Đạo Sư. Trước sự chứng kiến của đại chúng, Trưởng lão đã lặn xuống quả đất to lớn, đi xuyên qua ngọn núi Suṇeru rồi đến đảnh lễ bậc Đạo Sư, và thưa rằng: “Kính bạch đức Thế Tôn, đại chúng mong muốn được yết kiến Ngài, và mong muốn biết được ngày Ngài sẽ trở lại.” – Bậc Đạo Sư đáp: “Nếu vậy, ông hãy bảo họ rằng: ‘Kể từ nay, ba tháng nữa thì các vị sẽ được nhìn thấy (bậc Đạo Sư) tại cổng thành Saṅkassa.’” Trưởng lão đã đem thông điệp của đức Thế Tôn trở về và truyền đạt lại cho đại chúng. Đại chúng đã dựng lều trại nghỉ ngơi ở tại đó suốt ba tháng, (Trong thời gian ấy,) Cūḷa Anāthapiṇḍika đã bố thí cháo chua và thức ăn đến hội chúng ước chừng 12 do-tuần suốt ba tháng.

Satthāpi sattappakaraṇāni desetvā manussalokaṃ āgamanatthāya ākappaṃ dassesi. Sakko devarājā vissakammaṃ āmantetvā tathāgatassa otaraṇatthāya sopānaṃ māpetuṃ āṇāpesi. So ekato sovaṇṇamayaṃ ekato rajatamayaṃ sopānaṃ māpetvā majjhe maṇimayaṃ māpesi. Satthā maṇimaye sopāne ṭhatvā ‘‘mahājano maṃ passatū’’ti adhiṭṭhāsi. Attano ānubhāveneva ‘‘mahājano avīcimahānirayaṃ passatū’’tipi adhiṭṭhāsi. Nirayadassanena cassa uppannasaṃvegataṃ ñatvā devalokaṃ dassesi. Athassa otarantassa mahābrahmā chattaṃ dhāresi, sakko devarājā pattaṃ gaṇhi, suyāmo devarājā dibbaṃ vāḷabījaniṃ bīji, pañcasikho gandhabbadevaputto beluvapaṇḍuvīṇaṃ samapaññāsāya mucchanāhi mucchitvā vādento purato otari. Buddhānaṃ pathaviyaṃ patiṭṭhitakāle ‘‘ahaṃ paṭhamaṃ vandissāmi, ahaṃ paṭhamaṃ vandissāmī’’ti mahājano aṭṭhāsi. Saha mahāpathavīakkamanena pana bhagavato neva mahājano na asītimahāsāvakā paṭhamakavandanaṃ sampāpuṇiṃsu, dhammasenāpati sāriputtattheroyeva pana sampāpuṇi.

Còn về phía bậc Đạo Sư, sau khi thuyết giảng bảy bộ Vi Diệu Pháp, Ngài đã bày tỏ ý định quay trở lại cõi Nhân loại. Chúa Trời Sakka đã gọi Thiên tử Vissakamma đến, và ra lệnh cho vị ấy hóa hiện một chiếc cầu thang để Như Lai đi xuống. Thiên tử Vissakamma đã hóa hiện một bên là chiếc cầu thang bằng vàng, và một bên là chiếc cầu thang bằng bạc, còn ở chính giữa là một chiếc cầu thang bằng ngọc Ma-ni. Bậc Đạo Sư sau khi đứng trên cầu thang ngọc Ma-ni, Ngài đã phát nguyện: “Cầu mong đại chúng hãy nhìn thấy được Ta!” Chính nhờ oai lực phát nguyên của Ngài rằng: “Cầu mong đại chúng hãy nhìn thấy được Địa ngục Avīci!” Và sau khi Ngài biết được rằng: “Đại chúng đã khởi lên nỗi sợ hãi vì đã nhìn thấy Địa ngục, thì Ngài mới cho thấy thế giới cõi Trời.” Tiếp đó, trong khi Ngài bước xuống, thì Đại Phạm Thiên che lọng, Chúa Trời Sakka cầm lấy bình bát, Thiên Chủ Suyāma quạt bằng cây phất trần cõi Trời. Càn-thát-bà Pañcasikha đã tấu cây đàn vīṇā bằng gỗ beluva màu vàng nhạt, làm say đắm lòng người với đúng năm mươi loại âm thanh bước xuống phía trước. Vào lúc Đức Phật đặt chân lên mặt đất, đại chúng đã phát nguyện rằng: “Tôi sẽ đảnh lễ trước, tôi sẽ đảnh lễ trước.” Hơn nữa, cùng với việc giẫm chân trên mặt đất to lớn cả đại chúng và luôn cả tám mươi vị Đại Thinh văn đều đã không kịp đảnh lễ đức Thế Tôn trước. Mà chính Trưởng lão Sāriputta, vị Tướng quân Chánh pháp là kịp đảnh lễ Ngài mà thôi.

Atha satthā dvādasayojanāya parisāya antare ‘‘therassa paññānubhāvaṃ jānantū’’ti puthujjanapañcakaṃ pañhaṃ ārabhi. Paṭhamaṃ lokiyamahājano sallakkhessatīti puthujjanapañhaṃ pucchi. Ye ye sallakkhiṃsu, te te kathayiṃsu. Dutiyaṃ puthujjanavisayaṃ atikkamitvā sotāpattimagge pañhaṃ pucchi. Puthujjanā tuṇhī ahesuṃ, sotāpannāva kathayiṃsu. Tato sotāpannānaṃ visayaṃ atikkamitvā sakadāgāmimagge pañhaṃ pucchi. Sotāpannā tuṇhī ahesuṃ, sakadāgāminova kathayiṃsu. Tesampi visayaṃ atikkamitvā anāgāmimagge pañhaṃ pucchi. Sakadāgāmino tuṇhī ahesuṃ, anāgāminova kathayiṃsu. Tesampi visayaṃ atikkamitvā arahattamagge pañhaṃ pucchi. Anāgāmino tuṇhī ahesuṃ, arahantāva kathayiṃsu. Tato heṭṭhimakoṭito paṭṭhāya abhiññāte abhiññāte sāvake pucchi, te attano attano paṭisambhidāvisaye ṭhatvā kathayiṃsu. Atha mahāmoggallānaṃ pucchi, sesasāvakā tuṇhī ahesuṃ, therova kathesi. Tassāpi visayaṃ atikkamitvā sāriputtattherassa visaye pañhaṃ pucchi. Mahāmoggallāno tuṇhī ahosi, sāriputtattherova kathesi. Therassāpi visayaṃ atikkamitvā buddhavisaye pañhaṃ pucchi. Dhammasenāpati āvajjentopi passituṃ na sakkoti, puratthimapacchimuttaradakkhiṇā catasso disā catasso anudisāti ito cito ca olokento pañhuppattiṭṭhānaṃ sallakkhetuṃ nāsakkhi.

Tiếp đó, bậc Đạo Sư bắt đầu câu hỏi có phàm nhân là thứ năm ở giữa hội chúng mười hai do-tuần với ý muốn rằng: “Đại chúng hãy nhận biết câu hỏi này bằng oai lực trí tuệ của Trưởng lão.” Thứ nhất, Đức Phật đã hỏi câu hỏi đối với phàm nhân với ý muốn rằng: “Đại chúng ở thế gian sẽ có thể xác định được.” Những người nào xác định được, những người đó cũng sẽ trả lời được. Thứ hai, Ngài đã hỏi câu hỏi trong phạm vi của vị Nhập lưu Đạo – vượt ra khỏi phạm vi của phàm nhân; các phàm nhân ấy đã trở nên im lặng, chỉ có vị Nhập lưu mới trả lời được. Tiếp theo, Ngài đã hỏi câu hỏi trong phạm vi của vị Nhất Lai Đạo – vượt ra khỏi phạm vi của vị Nhập lưu; các vị Nhập lưu đã trở nên im lặng, chỉ có vị Nhất Lai mới trả lời được. Kế đến, Ngài đã hỏi câu hỏi trong phạm vi của vị Bất Lai Đạo – vượt ra khỏi phạm vi của vị Nhất Lai; các vị Nhất Lai đã trở nên im lặng, chỉ có vị Bất Lai mới trả lời được. Tiếp tục, Ngài đã hỏi câu hỏi trong phạm vi của vị A-ra-hán Đạo – vượt ra khỏi phạm vi của vị Bất Lai; các vị Bất Lai đã trở nên im lặng, chỉ có vị A-ra-hán mới trả lời được. Sau đó, từ các mấu chốt câu hỏi ở cấp độ thấp hơn, Ngài đã hỏi các vị Thinh văn hiểu biết rõ, các vị đã vững trú trong phạm vi Tứ Tuệ Phân Tích của mỗi cá nhân đều có thể trả lời được. Khi đó, Ngài đã hỏi Trưởng lão Mahāmoggallāna, các vị Thinh Văn còn lại đều trở nên im lặng, chỉ có Trưởng lão (Mahāmoggallāna) mới trả lời được. Ngài đã hỏi câu hỏi vượt ra khỏi phạm vi của Trưởng lão đó, (nhưng) trong phạm vi của Trưởng lão Sāriputta, Trưởng lão Mahāmoggallāna đã trở nên im lặng, chỉ có Trưởng lão Sāriputta mới trả lời được. Cuối cùng, Ngài đã hỏi câu hỏi vượt ra khỏi phạm vi của cả Trưởng lão Sāriputta – (nhưng) thuộc phạm vi của Đức Phật. Vị Tướng quân Chánh pháp (Sāriputta), dù có suy nghĩ cũng không thể nhìn thấy được, cũng không thể xác định nền tảng sanh khởi của câu hỏi khi nhìn xung quanh khắp bốn hướng chính là Đông, Tây, Nam, Bắc và cả bốn hướng phụ.

Satthā therassa kilamanabhāvaṃ jānitvā ‘‘sāriputto kilamati, nayamukhamassa dassessāmī’’ti ‘‘āgamehi tvaṃ, sāriputtā’’ti vatvā ‘‘nāyaṃ tuyhaṃ visayo pañho, buddhānaṃ esa visayo sabbaññūnaṃ yasassīna’’nti buddhavisayabhāvaṃ ācikkhitvā ‘‘bhūtamidanti, sāriputta, samanupassasī’’ti āha. Thero ‘‘catumahābhūtikakāyapariggahaṃ me bhagavā ācikkhatī’’ti ñatvā ‘‘aññātaṃ bhagavā, aññātaṃ sugatā’’ti āha. Etasmiṃ ṭhāne ayaṃ kathā udapādi – mahāpañño vata, bho, sāriputtatthero, yatra hi nāma sabbehi anaññātaṃ pañhaṃ kathesi, buddhehi ca dinnanaye ṭhatvā buddhavisaye pañhaṃ kathesi, iti therassa paññānubhāvo yattakaṃ ṭhānaṃ buddhānaṃ kittisaddena otthaṭaṃ, sabbaṃ ajjhottharitvā gatoti evaṃ tāva thero aṭṭhuppattito mahāpaññatāya etadaggaṭṭhānaṃ labhi.

Bậc Đạo Sư sau khi biết trạng thái bối rối của Trưởng lão, nên Ngài khởi tâm rằng: “Sāriputta đang bối rối, Ta sẽ chỉ bảo phương pháp cho vị ấy.” Vì vậy, Ngài nói: “Ông hãy chờ một chút, này Sāriputta,” rồi Ngài nói rằng: “Câu hỏi ấy thuộc về phạm vi của chư Phật, với lời dạy rằng: “Câu hỏi này không thuộc phạm vi của ông, mà thuộc về phạm vi của chư Phật Toàn Giác, vị có uy danh.” Sau đó, Ngài nói: “Này Sāriputta, hãy quán sát thân thể này.” Trưởng lão hiểu rằng: “Đức Thế Tôn đang chỉ dạy việc quán thân được hợp thành bởi bốn yếu tố chính (đất, nước, lửa, gió), nên mới thưa rằng: “Bạch đức Thế Tôn, con đã hiểu. Bạch đấng Thiện Thệ, con đã hiểu.” Tại nơi ấy, đã diễn ra cuộc đàm luận như vầy: “Thưa Ngài, Trưởng lão Sāriputta, quả thật là vị có trí tuệ vĩ đại, có thể trả lời những câu hỏi mà tất cả mọi người không biết, và đã vững trú trong phương pháp được ban tặng bởi Đức Phật, có thể trả lời những câu hỏi trong phạm vi của chư Phật,” Vì vậy, oai lực trí tuệ của Trưởng lão đã lan truyền khắp mọi nơi, như tiếng đồn tốt đẹp được lan truyền của Đức Phật. Trưởng lão đã đạt được vị thế tối thắng do có tuệ vĩ đại ‘bởi nguyên nhân sanh khởi của câu chuyện’ theo cách thức như vậy.

Kathaṃ āgamanato? Imissāyeva hi aṭṭhuppattiyā satthā āha – sāriputto na idāneva paññavā, atīte pañca jātisatāni isipabbajjaṃ pabbajitvāpi mahāpaññova ahosi –

‘‘Yo pabbajī jātisatāni pañca, Pahāya kāmāni manoramāni;
Taṃ vītarāgaṃ susamāhitindriyaṃ, Parinibbutaṃ vandatha sāriputta’’nti.

Evaṃ pabbajjaṃ upabrūhayamāno ekasmiṃ samaye bārāṇasiyaṃ brāhmaṇakule nibbatto. Tayo vede uggaṇhitvā tattha sāraṃ apassanto ‘‘pabbajitvā ekaṃ mokkhadhammaṃ gavesituṃ vaṭṭatī’’ti cittaṃ uppādesi. Tasmiṃ kāle bodhisattopi kāsiraṭṭhe udiccabrāhmaṇamahāsālakule nibbatto vuddhimanvāya uggahitasippo kāmesu ādīnavaṃ nekkhamme ca ānisaṃsaṃ disvā gharāvāsaṃ pahāya himavantaṃ pavisitvā kasiṇaparikammaṃ katvā pañca abhiññā aṭṭha samāpattiyo nibbattetvā vanamūlaphalāhāro himavantappadese vasati. Sopi māṇavo nikkhamitvā tasseva santike pabbaji. Parivāro mahā ahosi pañcasatamattā isayo.

(Đạt được vị thế tối thắng) bởi việc đi đến trước là như thế nào? Theo chính ‘nguyên nhân sanh khởi của sự việc’ này bậc Đạo Sư đã nói rằng — “Sāriputta không chỉ là người có tuệ trong kiếp hiện tại này, mà trong kiếp quá khứ ngay cả khi xuất gia theo đời sống xuất gia của vị ẩn sĩ suốt năm trăm kiếp cũng đã là người có tuệ vĩ đại.

Vị nào đã xuất gia đến năm trăm kiếp, sau khi dứt bỏ các dục làm thích ý; Chư vị hãy đảnh lễ vị ấy là Sāriputta— vị đã xa lìa luyến ái, có các giác quan hoàn toàn tập trung, vị đã hữu dư Niết Bàn.”

Trong khi đã tích lũy công hạnh xuất gia như vậy, vào một thuở nọ Ngài hạ sanh vào gia đình Bà-la-môn tại thành Bārāṇasī. Sau khi học tập ba kiến thức Vệ-đà, nhưng không thấy được giá trị cốt lõi trong đó, nên đã khởi lên ý nghĩ rằng: “Thật xứng đáng để Ta xuất gia đi tầm cầu một pháp giải thoát nào đó.” Vào thời gian đó, ngay cả Bồ Tát cũng hạ sanh vào gia tộc Bà-la-môn Udicca giàu có. Khi trưởng thành đã học tập các nghề thủ công; Sau khi nhìn thấy sự nguy hiểm trong các dục và sự lợi ích của việc xuất ly, (Ngài) đã từ bỏ đời sống gia đình, rồi đi vào núi Hy-mã-lạp, thực hành đề mục thiền định Kasiṇa, và làm sanh khởi năm pháp thần thông và tám thiền chứng, (Ngài) sống ở gần vùng núi Hy-mã-lạp có trái cây và rễ cây trong rừng làm thức ăn. Ngay cả chàng thanh niên (tức là Trưởng lão Sāriputta) cũng đã xuất gia trong sự hiện diện của chính đức Bồ Tát đó. Ngài có đông đảo tùy tùng, có khoảng 500 vị ẩn sĩ.

Athassa so jeṭṭhantevāsiko ekadesaṃ parisaṃ gahetvā loṇambilasevanatthaṃ manussapathaṃ agamāsi. Tasmiṃ samaye bodhisatto tasmiṃyeva himavantappadese kālaṃ akāsi. Kālakiriyasamayeva naṃ antevāsikā sannipatitvā pucchiṃsu – ‘‘atthi tumhehi koci viseso adhigato’’ti. Bodhisatto ‘‘natthi kiñcī’’ti vatvā aparihīnajjhāno ābhassarabrahmaloke nibbatto. So kiñcāpi ākiñcaññāyatanassa lābhī, bodhisattānaṃ pana arūpāvacare paṭisandhi nāma na hoti. Kasmā? Abhabbaṭṭhānattā. Iti so arūpasamāpattilābhī samānopi rūpāvacare nibbatti. Antevāsikāpissa ‘‘ācariyo ‘natthi kiñcī’ti āha, moghā tassa kālakiriyā’’ti na kiñci sakkārasammānaṃ akaṃsu. Atha so jeṭṭhantevāsiko atikkante vassāvāse āgantvā ‘‘kahaṃ ācariyo’’ti pucchi. Kālaṃ katoti. Api nu ācariyena laddhaguṇaṃ pucchitthāti? Āma pucchimhāti. Kiṃ vadetīti? Natthi kiñcīti. Mayampi ‘‘ācariyena laddhaguṇo nāma natthī’’ti nāssa sakkārasammānaṃ karimhāti. Tumhe bhāsitassa atthaṃ na jānittha, ācariyo ākiñcaññāyatanassa lābhīti.

Sau đó, trưởng đệ tử của Ngài (tức Trưởng lão Sāriputta) đã dẫn một phần hội chúng đến địa phận của loài người nhằm mục đích thọ dụng vị mặn và vị chua. Vào thời điểm đó, đức Bồ Tát đã mệnh chung ngay tại vùng Hy-mã-lạp đó. Trước lúc lâm chung, các đệ tử đã tập trung lại và hỏi: “Bạch Thầy, Ngài có sự chứng đắc cao quý không?” Bồ Tát đáp: “Không có gì cả.” Ngài có thiền định không bị hư hoại và đã tái sinh vào cõi Phạm Thiên Quang Âm Thiên. Mặc dù đức Bồ Tát đã đạt được sự thể nhập Vô Sở Hữu Xứ, nhưng theo quy luật thì các đức Bồ Tát sẽ không tái sanh vào cõi Vô Sắc. Vì sao? Vì đó là nơi không thích hợp. Do đó, dù Ngài đã chứng đạt các sự thế nhập Vô Sắc, nhưng Ngài vẫn tái sanh vào cõi Sắc. Về phần các đệ tử của Ngài đã không thể hiện bất kỳ sự tôn kính và sự kính nể nào (đối với Ngài) với ý nghĩ: “Thầy đã nói rằng ‘không có gì cả’, vậy thì sự mệnh chung của Ngài là vô ích.”’ Tiếp đó, vị trưởng đệ tử ấy sau khi trải qua mùa an cư kiết hạ đã trở về rồi hỏi: ‘Thầy đi đâu rồi?” Các vị đệ tử đáp rằng: “Thầy đã mệnh chung.” – Ngài hỏi rằng: Các đệ đã hỏi về các ân đức đã được chứng đạt bởi Thầy hay chưa? – Thưa huynh, chúng đệ đã hỏi. – Thầy đã nói gì? – Thầy đã nói rằng: ‘Chẳng có gì cả.’ – Chúng đệ nghĩ rằng: “Các ân đức đã được chứng đạt bởi thầy là không có,” nên mới không thể hiện sự tôn kính và sự kính nể gì đối với Thầy. – Vị huynh trưởng nói rằng: “Các đệ không hiểu ý nghĩa lời nói của Thầy. Thầy đã chứng đạt sự thể nhập Vô Sở Hữu Xứ.”

Atha te jeṭṭhantevāsikassa kathaṃ na saddahiṃsu. So punappunaṃ kathentopi saddahāpetuṃ nāsakkhi. Atha bodhisatto āvajjamāno ‘‘andhabālo mahājano mayhaṃ jeṭṭhantevāsikassa kathaṃ na gaṇhāti, imaṃ kāraṇaṃ pākaṭaṃ karissāmī’’ti brahmalokato otaritvā assamapadamatthake ṭhito ākāsagatova jeṭṭhantevāsikassa paññānubhāvaṃ vaṇṇetvā imaṃ gāthaṃ abhāsi –

‘‘Parosahassampi samāgatānaṃ,
Kandeyyuṃ te vassasataṃ apaññā;
Ekova seyyo puriso sapañño,
Yo bhāsitassa vijānāti attha’’nti. (jā. 1.1.101);

Lúc ấy, họ không tin lời của vị huynh trưởng. Vị huynh trưởng, dù đã nói đi nói lại, cũng không thể khiến những vị ấy tin. Sau đó, đức Bồ Tát trong khi hướng tâm đã suy nghĩ: “Đại chúng ngu muội không tin lời nói của vị trưởng đệ tử của Ta. Ta phải làm cho sự việc này được sáng tỏ.” Sau khi suy nghĩ vậy, Ngài đã giáng xuống từ Phạm Thiên giới, đứng ở cuối sau am thất, Ngay chính trong không trung ấy, (Ngài) đã tán thán oai lực trí tuệ của vị trưởng đệ tử, rồi đã đọc bài kệ này —

Dẫu hơn một ngàn người đã tụ hội lại,
những kẻ ấy không có trí tuệ, than khóc một trăm năm,
chỉ một người có trí tuệ vẫn tốt hơn,
là người hiểu được ý nghĩa của lời đã được nói ra
.” (jā. 1.1.101);

Evaṃ isigaṇaṃ saññāpetvā bodhisatto brahmalokameva gato. Sesaisigaṇopi aparihīnajjhāno hutvā kālaṃ katvā brahmalokaparāyaṇo jāto. Tattha bodhisatto sabbaññutaṃ patto, jeṭṭhantevāsiko sāriputtatthero jāto, sesā isayo buddhaparisā jātāti evaṃ atītepi sāriputto mahāpaññova saṃkhittena bhāsitassa vitthārena atthaṃ jānituṃ samatthoti veditabbo.

Idameva ca puthujjanapañcakaṃ aṭṭhuppattiṃ katvā –

‘‘Parosatañcepi samāgatānaṃ,
Jhāyeyyuṃ te vassasataṃ apaññā;
Ekova seyyo puriso sapañño,
So bhāsitassa vijānāti attha’’nti. (jā. 1.1.101) – Imampi jātakaṃ kathesi.

Sau khi làm cho nhóm ẩn sĩ hiểu được như vậy, đức Bồ Tát đã trở về Phạm Thiên giới. Các vị ẩn sĩ còn lại có thiền định không bị hư hoại nên khi mệnh chung cũng đều được tái sanh vào cõi Phạm Thiên. Trong số các cá nhân ấy, đức Bồ Tát đạt đến quả vị Toàn Giác, vị trưởng đệ tử là Trưởng lão Sāriputta, các ẩn sĩ còn lại là hội chúng của Đức Phật. Ngay cả trong thời quá khứ, cũng nên hiểu rằng Trương lão Sāriputta đã có trí tuệ vĩ đại, có khả năng hiểu được ý nghĩa của lời dạy (của Thầy) được nói một cách tóm tắt, một cách chi tiết như vậy.

Và đức Thế Tôn đã lấy câu hỏi có hạng phàm phu là thứ năm làm nhân sanh khởi câu chuyện, rồi đã thuyết câu chuyện Bổn Sanh này—

Thậm chí nếu hơn một trăm người đã tụ hội lại,
những kẻ ấy không có trí tuệ, tham thiền một trăm năm,
chỉ một người có trí tuệ vẫn tốt hơn,
là người hiểu được ý nghĩa của lời đã được nói ra
.” (jā. 1.1.101) –

Tassa purimajātake vuttanayeneva attho veditabbo. Aparampi idameva puthujjanapañcakaṃ aṭṭhuppattiṃ katvā –

‘‘Ye saññino tepi duggatā, yepi asaññino tepi duggatā;
Etaṃ ubhayaṃ vivajjaya, taṃ samāpattisukhaṃ anaṅgaṇa’’nti. (jā. 1.1.134) –

Imaṃ anaṅgaṇajātakaṃ kathesi. Ettha ca ācariyo kālaṃ karonto antevāsikehi pucchito ‘‘nevasaññī nāsaññī’’ti āha. Sesaṃ vuttanayeneva veditabbaṃ.

Ý nghĩa của câu chuyện Bổn Sanh đó, nên hiểu theo cách thức đã được trình bày trong câu chuyện Bổn Sanh trước đó. Đức Phật đã lấy chính câu hỏi có hạng phàm phu là thứ năm làm nhân sanh khởi câu chuyện thêm một lần nữa, và đã thuyết giảng câu chuyện Bổn Sanh Anaṅgaṇa này (với bài kệ) —

Những người (ở cõi) hữu tưởng, họ cũng đi khổ cảnh,
ngay cả những người (ở cõi) vô tưởng, họ cũng đi khổ cảnh.
Sau khi buông bỏ cả hai điều này,
an lạc của sự chứng đạt ấy là không có ô nhiễm
.” (jā. 1.1.134) –

Và trong câu chuyện Bổn Sanh này, Vị thầy (đức Bồ Tát), trong lúc sắp lâm chung, được các đệ tử hỏi, và đã nói rằng: “Phi tưởng phi phi tưởng” (vị có tưởng cũng không phải, không có tưởng cũng không phải). Các từ còn lại nên được hiểu theo phương thức đã được nói.

Aparampi idameva puthujjanapañcakaṃ aṭṭhuppattiṃ katvā –

‘‘Candābhaṃ sūriyābhañca, yodha paññāya gādhati;
Avitakkena jhānena, hoti ābhassarūpago’’ti. (jā. 1.1.135) –

Idaṃ candābhajātakaṃ kathesi. Etthāpi ācariyo kālaṃ karonto antevāsikehi pucchito ‘‘odātakasiṇaṃ candābhaṃ nāma, pītakasiṇaṃ sūriyābhaṃ nāmāti taṃ ubhayaṃ yo paññāya gādhati pavisati pakkhandati, so avitakkena dutiyajjhānena ābhassarūpago hoti, tādiso aha’’nti sandhāya – ‘‘candābhaṃ sūriyābha’’nti āha. Sesaṃ purimanayeneva veditabbaṃ.

Ngài đã lấy câu hỏi có hạng phàm phu là thứ năm thậm chí cả câu này nữa làm nhân sanh khởi câu chuyện rồi thuyết câu chuyện Bổn Sanh Candābha này rằng—

Ở thế gian này người nào gắn chặt vào ánh sáng của mặt trăng và ánh sáng của mặt trời bằng trí tuệ, người ấy sanh về cõi Quang Âm Thiên với (việc chứng đạt) thiền không có tầm (Nhị thiền),

Ở câu chuyện Bổn Sanh này, vị Thầy trong lúc sắp lâm chung, bị các đệ tử hỏi nên đã nói rằng “ánh sáng của mặt trăng và ánh sáng của mặt trời” — ý muốn nói rằng: “Người nào gắn chặt, đi vào, và tiến vào hai đề mục kasiṇa ấy là: ‘đề mục kasiṇa trắng gọi là ánh sáng mặt trăng, đề mục kasiṇa màu vàng là ánh sáng mặt trời, ngay khi người ấy đi đến cõi Quang Âm Thiên với Nhị thiền không có Tầm, (thì) Ta cũng như thế.’” Các từ còn lại nên được hiểu theo phương thức trước đó.

Idameva ca puthujjanapañcakaṃ aṭṭhuppattiṃ katvā –

‘‘Āsīsetheva puriso, na nibbindeyya paṇḍito;
Passāmi vohaṃ attānaṃ, yathā icchiṃ tathā ahu.

‘‘Āsīsetheva puriso, na nibbindeyya paṇḍito;
Passāmi vohaṃ attānaṃ, udakā thalamubbhataṃ.

‘‘Vāyametheva puriso, na nibbindeyya paṇḍito;
Passāmi vohaṃ attānaṃ, yathā icchiṃ tathā ahu.

‘‘Vāyametheva puriso, na nibbindeyya paṇḍito;
Passāmi vohaṃ attānaṃ, udakā thalamubbhataṃ.

‘‘Dukkhūpanītopi naro sapañño, Āsaṃ na chindeyya sukhāgamāya;
Bahū hi phassā ahitā hitā ca, Avitakkitā maccamupabbajanti.

‘‘Acintitampi bhavati, cintitampi vinassati;
Na hi cintāmayā bhogā, itthiyā purisassa vā.

‘‘Sarabhaṃ giriduggasmiṃ, yaṃ tvaṃ anusarī pure;
Alīnacittassa tuvaṃ, vikkantamanujīvasi.

‘‘Yo taṃ viduggā narakā samuddhari, Silāya yoggaṃ sarabho karitvā;
Dukkhūpanītaṃ maccumukhā pamocayi, Alīnacittaṃ ta migaṃ vadesi.

‘‘Kiṃ tvaṃ nu tattheva tadā ahosi, Udāhu te koci naṃ etadakkhā;
Vivaṭṭacchaddo nusi sabbadassī, Ñāṇaṃ nu te brāhmaṇa bhiṃsarūpaṃ.

‘‘Na cevahaṃ tattha tadā ahosiṃ,
Na cāpi me koci naṃ etadakkhā;
Gāthāpadānañca subhāsitānaṃ,
Atthaṃ tadānenti janinda dhīrā’’ti. (jā. 1.13.134-143) –

Imaṃ terasanipāte sarabhajātakañca kathesi.

Và Ngài đã lấy câu hỏi có hạng phàm phu là thứ năm này làm nhân sanh khởi câu chuyện, rồi đã thuyết câu chuyện Bổn Sanh Sarabha trong nhóm mười ba kệ ngôn như sau—

Con người cần phải hy vọng, bậc sáng suốt không nên chán nản. Ta thật sự nhìn thấy được bản thân; ta đã ước muốn như thế nào thì đã thành tựu như thế ấy.”

“Con người cần phải hy vọng, bậc sáng suốt không nên chán nản. Ta thật sự nhìn thấy bản thân đã được đưa lên mặt đất từ hố nước sâu.”

“Con người cần phải tinh tấn, bậc sáng suốt không nên chán nản. Ta thật sự nhìn thấy được bản thân; ta đã ước muốn như thế nào thì đã thành tựu như thế ấy.”

“Con người cần phải tinh tấn, bậc sáng suốt không nên chán nản. Ta thật sự nhìn thấy bản thân đã được đưa lên mặt đất từ hố nước sâu.”

“Con người có trí tuệ, dầu bị rơi vào khổ đau, cũng không nên cắt đứt niềm hy vọng về việc thành đạt hạnh phúc, bởi vì có nhiều ý tưởng không có lợi ích và có lợi ích. Những người không suy nghĩ đi đến cái chết.”

Việc không nghĩ đến lại xảy ra, việc được nghĩ đến lại tiêu hoại. Bởi vì không phải do ý tưởng mà người nữ hay người nam có được của cải.

(Bà-la-môn phụ trách tế tự đã nói với Đức Vua rằng) —

Trước đó, bệ hạ đã đuổi theo con nai Sarabha ở lối đi hiểm trở của ngọn núi. Bệ hạ sống sót nhờ vào sự dũng cảm của con nai có tâm không lui sụt.

Sau khi thực hiện sự bám chặt vào tảng đá, con nai đã đưa bệ hạ ra khỏi địa ngục, nơi có sự di chuyển khó khăn. Nó đã giúp cho kẻ đã bị rơi vào khổ đau thoát khỏi cửa miệng của Thần Chết. Bệ hạ nói về con nai có tâm không lui sụt ấy.

(Đức Vua nói rằng) —

Vậy có phải lúc đó khanh đã có mặt ngay tại chỗ ấy? Hay là có ai đó đã tường thuật lại việc ấy cho khanh? Khanh đã bóc trần sự che giấu, phải chăng khanh là người có sự nhìn thấy tất cả? Này Bà-la-môn, trí tuệ của khanh quả thật khủng khiếp!

(Bà-la-môn phụ trách tế tự khi giải thích mới nói với Đức Vua rằng) —

Lúc đó, quả thật thần đã không có mặt ngay tại chỗ ấy. Và cũng không có bất cứ ai đã tường thuật lại việc ấy cho thần. Tâu vị chúa của loài người, đối với những đoạn kệ ngôn đã được khéo thuyết, khi ấy, các bậc sáng trí lần tìm ra ý nghĩa.”

Imāni pana pañcapi jātakāni atītepi saṃkhittena bhāsitassa vitthārena atthaṃ mayhaṃ putto jānātīti satthārā dhammasenāpatisāriputtattherassa paññānubhāvappakāsanatthameva kathitānīti evaṃ āgamanatopi thero mahāpaññatāya etadaggaṭṭhānaṃ labhi.

Hơn nữa, cả năm câu chuyện câu chuyện Bổn Sanh này, bậc Đạo Sưđã thuyết giảng chỉ nhằm mục đích tuyên bố oai lực Trí tuệ của vị Tướng quân Chánh pháp Trưởng Lão Sāriputta rằng: “Ngay cả trong kiếp sống quá khứ, con trai của Ta cũng có thể hiểu được ý nghĩa một cách chi tiết đối với điều mà Ta đã nói một cách tóm tắt.” Do đó, Trưởng lão đã đạt được vị thế tối thắng với bản thể vị có tuệ vĩ đại, luôn cả ‘với tư cách là vị đi đến trước’ cũng như vậy.

Kathaṃ ciṇṇavasitoti? Ciṇṇaṃ kiretaṃ therassa catuparisamajjhe dhammaṃ kathento cattāri saccāni amuñcitvā kathetīti evaṃ ciṇṇavasitopi thero mahāpaññatāya etadaggaṭṭhānaṃ labhi.

Với tư cách là vị tinh thông là (có ý nghĩa) như thế nào? Được biết rằng, điều đó là sự tinh thông của Trưởng lão, trong khi thuyết giảng Giáo Pháp giữa bốn hội chúng, Ngài thuyết giảng không không nằm ngoài bốn chân lý. Do đó, Ngài đã đạt được vị thế tối thắng với bản thể vị có tuệ vĩ đại, luôn cả với tư cách là vị tinh thông cũng như vậy.

Kathaṃ guṇātirekatoti? Ṭhapetvā hi dasabalaṃ añño koci ekasāvakopi mahāpaññatāya dhammasenāpatinā sadiso nāma natthīti evaṃ guṇātirekatopi thero mahāpaññatāya etadaggaṭṭhānaṃ labhi.

Với tư cách là vị vượt trội về đức hạnh là (có ý nghĩa) như thế nào? Thật vậy, ngoại trừ đấng Thập Lực ra, (thì) không ai khác dù chỉ là một đệ tử có thể sánh bằng với vị Tướng quân Chánh Pháp, Trưởng lão Sāriputta được, bởi vì Ngài là vị có tuệ vĩ đại. Vì thế, Ngài đã đạt được vị thế tối thắng với bản thể vị có tuệ vĩ đại, luôn cả ‘với tư cách là vị vượt trội về đức hạnh’ cũng như vậy.

Yathā ca sāriputtatthero, evaṃ mahāmoggallānattheropi sabbeheva catūhipi imehi kāraṇehi etadaggaṭṭhānaṃ labhi. Kathaṃ? Thero hi mahiddhiko mahānubhāvo nandopanandasadisampi nāgarājānaṃ damesīti evaṃ tāva aṭṭhuppattito labhi. Na panesa idāneva mahiddhiko mahānubhāvo, atīte pañca jātisatāni isipabbajjaṃ pabbajitopi mahiddhiko mahānubhāvo ahosīti.

‘‘Yo pabbajī jātisatāni pañca, Pahāya kāmāni manoramāni;
Taṃ vītarāgaṃ susamāhitindriyaṃ, Parinibbutaṃ vandatha moggallāna’’nti. –

Ngay cả Trưởng lão Mahāmoggallāna cũng tương tự như Trưởng lão Sāriputta, đã đạt được vị thế tối thắng với cả bốn lý do này. Thế nào? Bởi vì, trưởng lão là vị có đại thần lực, có đại oai lực, đã hàng phục được rồng chúa như rồng Nandopananda. Vì thế Trưởng lão đã đạt được (vị thế tối thắng) bởi nguyên nhân sanh khởi của câu chuyện như vậy, đây là lý do thứ nhất. Vị ấy không chỉ là người có đại thần lực trong hiện tại, mà cả trong quá khứ, dù Ngài xuất gia sống đời sống ẩn sĩ, cũng là người có đại thần lực, có đại oai lực đến 500 kiếp.

Vị nào đã xuất gia đến năm trăm kiếp, sau khi dứt bỏ các dục làm thích ý; Chư vị hãy đảnh lễ vị ấy là Moggallāna— vị đã xa lìa luyến ái, có các giác quan hoàn toàn tập trung, vị đã hữu dư Niết Bàn.”

Evaṃ āgamanatopi labhi. Ciṇṇaṃ cetaṃ therassa nirayaṃ gantvā attano iddhibalena nirayasattānaṃ assāsajananatthaṃ sītaṃ adhiṭṭhāya cakkamattaṃ padumaṃ māpetvā padumakaṇṇikāyaṃ nisīditvā dhammakathaṃ katheti, devalokaṃ gantvā devasaṅghaṃ kammagatiṃ jānāpetvā saccakathaṃ kathetīti evaṃ ciṇṇavasito labhi. Ṭhapetvā ca sammāsambuddhaṃ añño sāvako mahāmoggallāno viya mahiddhiko mahānubhāvo natthīti evaṃ guṇātirekato labhi.

Ngài đã đạt được (vị thế tối thắng) với tư cách là vị đi đến trước như vậy. Điều đó là sự tinh thông của Trưởng lão. Sau khi đi đến địa ngục, Ngài đã phát nguyện tạo ra sự mát mẻ để tạo ra sự dễ chịu cho các chúng sanh trong địa ngục bằng năng lực thần thông của mình, rồi hóa hiện ra một hoa sen lớn kích thước bằng bánh xe, Ngài đã ngồi lên trên cánh sen thuyết giảng bài Pháp. Sau khi đi đến thế giới chư Thiên, Ngài đã làm cho tập thể chư Thiên biết được cõi tái sanh của Nghiệp rồi thuyết giảng về các chân lý. Vì thế, Ngài đã đạt được (vị thế tối thắng) với tư cách là vị tinh thông như vậy. (Với tư cách là vị vượt trội về đức hạnh là có ý nghĩa như thế nào?) Và ngoại trừ đấng Chánh đẳng Chánh giác, (thì) không có vị Thinh Văn nào khác có thể ngang bằng (Trưởng lão Mahāmoggallāna). Vì thế, Trưởng lão đã đạt được vị thế tối thắng với tư cách là vị vượt trội về đức hạnh là như vậy.

Yathā cesa, evaṃ mahākassapattheropi sabbehevimehi kāraṇehi etadaggaṭṭhānaṃ labhi. Kathaṃ? Sammāsambuddho hi therassa tigāvutaṃ maggaṃ paccuggamanaṃ katvā tīhi ovādehi upasampādetvā cīvaraṃ parivattetvā adāsi. Tasmiṃ samaye mahāpathavī udakapariyantaṃ katvā kampi, mahājanassa abbhantare therassa kittisaddo ajjhottharitvā gato. Evaṃ aṭṭhuppattito labhi. Na cesa idāneva dhutadharo, atīte pañca jātisatāni isipabbajjaṃ pabbajitopi dhutadharova ahosi.

‘‘Yo pabbajī jātisatāni pañca, Pahāya kāmāni manoramāni;
Taṃ vītarāgaṃ susamāhitindriyaṃ, Parinibbutaṃ vandatha mahākassapa’’nti. –

Ngay cả Trưởng lão Mahākassapa cũng đã đạt được vị thế tối thắng với tất cả các lý do (bởi nguyên nhân sanh khởi của câu chuyện, với tư cách là vị đi đến trước, với tư cách là vị tinh thông, với tư cách là vị vượt trội về đức hạnh) — giống như Trưởng lão Mahāmoggallāna. (Ngài đã đạt được vị thế tối thắng) như thế nào? Thật ra, bậc Chánh đẳng Chánh giác đã đích thân tiếp đón Trưởng lão trên quãng đường dài khoảng ba gāvuta, đã ban phép tu lên bậc trên thông qua ba lời giáo huấn, và đã trao đổi y phục ban cho (Trưởng lão). Vào thời điểm ấy, đại địa cầu đã rúng động đến vành đai nước. Tiếng đồn tốt đẹp của Trưởng lão đã lan truyền rộng rãi giữa đại chúng. Như vậy, Ngài đã đạt được (vị thế tối thắng) bởi nguyên nhân sanh khởi của câu chuyện (như đã nói ở đoạn trước). Và vị Trưởng lão này không những là người thọ trì pháp đầu đà trong kiếp hiện tại, mà cả trong kiếp quá khứ, ngay cả trong khi xuất gia theo đời sống xuất gia của vị ẩn sĩ suốt năm trăm kiếp thì Ngài cũng đã là người thọ trì pháp đầu đà.

Vị nào đã xuất gia đến năm trăm kiếp, sau khi dứt bỏ các dục làm thích ý; Chư vị hãy đảnh lễ vị ấy là Mahākassapa— vị đã xa lìa luyến ái, có các giác quan hoàn toàn tập trung, vị đã hữu dư Niết Bàn.”

Evaṃ āgamanatopi labhi. Ciṇṇaṃ cetaṃ therassa catuparisamajjhagato dhammaṃ kathento dasa kathāvatthūni avijahitvāva kathetīti evaṃ ciṇṇavasito labhi. Ṭhapetvā ca sammāsambuddhaṃ añño sāvako terasahi dhutaguṇehi mahākassapasadiso natthīti evaṃ guṇātirekato labhi . Imināva niyāmena tesaṃ tesaṃ therānaṃ yathālābhato guṇe kittetuṃ vaṭṭati.

Trưởng lão đã đạt được vị thế tối thắng với tư cách là vị đã đi đến trước như vậy. Cũng điều đó là sự tinh thông của Trưởng lão; Trưởng lão đi đến giữa bốn hội chúng, trong khi thuyết giảng Giáo Pháp (sẽ) thuyết giảng không loại ra khỏi mười đề tài nói chuyện, vì lý do đó, ngài đã đạt được (vị thế tối thắng) với tư cách là vị tinh thông như vậy. (Với tư cách là vị vượt trội về đức hạnh là có ý nghĩa như thế nào?) Và ngoại trừ bậc Chánh đẳng Chánh giác, (thì) không có vị Thinh Văn nào khác có thể sánh bằng Trưởng lão Mahākassapa về mười ba pháp đầu đà. Vì thế, Trưởng lão đã đạt được vị thế tối thắng với tư cách là vị vượt trội về đức hạnh là như vậy. Nên tuyên bố về đức hạnh của các vị Trưởng lão đó theo điều đã đạt được với cách thức này.

Guṇavaseneva hi sammāsambuddho yathā nāma rājā cakkavattī cakkaratanānubhāvena cakkavāḷagabbhe rajjasiriṃ patvā ‘‘pattabbaṃ me pattaṃ, kiṃ me idāni mahājanena olokitenā’’ti na appossukko hutvā rajjasiriṃyeva anubhoti, kālena pana kālaṃ vinicchayaṭṭhāne nisīditvā niggahetabbe niggaṇhāti, paggahetabbe paggaṇhāti, ṭhānantaresu ca ṭhapetabbayuttake ṭhānantaresu ṭhapeti, evamevaṃ mahābodhimaṇḍe adhigatassa sabbaññutaññāṇassa ānubhāvena anuppattadhammarajjo dhammarājāpi ‘‘kiṃ me idāni lokena olokitena, anuttaraṃ phalasamāpattisukhaṃ anubhavissāmī’’ti appossukkataṃ anāpajjitvā catuparisamajjhe paññattavarabuddhāsane nisinno aṭṭhaṅgasamannāgataṃ brahmassaraṃ nicchāretvā dhammaṃ desayamāno niggahetabbayutte kaṇhadhamme puggale sinerupāde pakkhipanto viya apāyabhayasantajjanena niggahetvā paggahetabbayutte kalyāṇadhamme puggale ukkhipitvā bhavagge nisīdāpento viya paggaṇhitvā ṭhānantaresu ṭhapetabbayuttake aññāsikoṇḍaññattherādayo sāvake yāthāvasarasaguṇavaseneva ṭhānantaresu ṭhapento etadaggaṃ, bhikkhave, mama sāvakānaṃ bhikkhūnaṃ rattaññūnaṃ, yadidaṃ aññāsikoṇḍaññotiādimāha.

Thật vậy, khi nói về phương diện của đức hạnh, Chuyển Luân Vương đã đạt được sự vinh quang của vương quyền trong căn phòng của thế giới nhờ oai lực của bánh xe báu, Ngài đã không bận tâm rằng: “Điều nên đạt được ta đã đạt được, bây giờ lợi ích gì với đám đông người mà Ta đang trông nom,” chỉ biết hưởng thụ sự vinh quang của vương quyền (điều ấy) không phải vậy; mà Ngài ngồi tại Pháp đình vào thời điểm thích hợp, Ngài trừng phạt người đáng bị trừng phạt, khen ngợi người đáng được khen ngợi, và bổ nhiệm người vào các vị trí đáng được bổ nhiệm ở các vị trí thích hợp; Tương tự y như thế, bậc Chánh đẳng Chánh giác dù là vị Pháp Vương đã đạt đến bản thể vị Pháp Vương với oai lực của Trí Toàn Tri mà Ngài đã đạt được ở khuôn viên cội Đại Bồ Đề, đã đạt đến trạng thái thụ động rằng: “Giờ đây, lợi ích gì với chúng sanh ở thế gian mà Ta phải quan sát, Ta sẽ thọ hưởng sự an lạc trong sự thể nhập Thánh Quả vô thượng,” trong khi ngồi trên Phật tòa đã được xếp đặt sẵn giữa bốn hội chúng, Ngài đã thốt ra âm giọng tựa như âm giọng của Phạm Thiên (Phạm âm) hội đủ tám yếu tố, rồi thuyết giảng Giáo Pháp. Ngài chế ngự những hạng người có pháp thuộc phần đen (ác pháp) xứng đáng bị chế ngự bằng lời hăm dọa với nỗi kinh hãi trong Khổ cảnh, giống như quăng họ vào vực thẳm dưới chân núi Suneru. Ngài tán thán những người có Pháp tốt đẹp (thiện pháp) xứng đáng được tán thán, giống như nâng họ lên ngồi ở tại cảnh giới cao nhất. Ngài đặt các vị Thinh Văn đệ tử như Trưởng lão Aññā Koṇḍañña, v.v., những người xứng đáng được đặt vào các vị trí đó, cho họ an trụ vào các địa vị tương xứng về phương diện đức hạnh và cùng với phận sự theo đúng sự thật, nên mới nói lời bắt đầu như sau— “Này các Tỳ-khưu, trong số các đệ tử Tỳ-khưu là bậc thâm niên của Ta, (thì) Aññā Koṇḍañña là tối thắng.

Giải thích về Người Tối Thắng được kết thúc.

Câu chuyện về Trưởng lão Aññāsikoṇḍañña

Tattha etadagganti padaṃ vuttatthameva. Rattaññūnanti rattiyo jānantānaṃ. Ṭhapetvā hi sammāsambuddhaṃ añño sāvako aññāsikoṇḍaññattherato paṭhamataraṃ pabbajito nāma natthīti pabbajitakālato paṭṭhāya thero cirakālaṃ rattiyo jānātīti rattaññū. Sabbapaṭhamaṃ dhammassa paṭividdhattā yadā tena dhammo paṭividdho, cirakālato paṭṭhāya taṃ rattiṃ jānātītipi rattaññū. Apica khīṇāsavānaṃ rattidivasaparicchedo pākaṭova hoti, ayañca paṭhamakhīṇāsavoti evampi rattaññūnaṃ sāvakānaṃ ayameva aggo purimakoṭibhūto seṭṭho. Tena vuttaṃ – ‘‘rattaññūnaṃ yadidaṃ aññāsikoṇḍañño’’ti.

Ở đấy, ‘là tối thắng’ có ý nghĩa như đã được đề cập. Bậc thâm niên: Người biết được đêm hôm. Thật vậy, trừ bậc Chánh đẳng Chánh giác ra, không có vị Thinh Văn nào xuất gia trước Trưởng lão Aññā Koṇḍañña cả. Vì thế, Trưởng lão đã biết được đêm hôm trong suốt thời gian dài kể từ thời điểm xuất gia. Cho nên, Ngài được gọi là bậc thâm niên. Hơn nữa, vì Ngài là người thấu triệt Giáo Pháp trước tất cả, nên Ngài đã biết được đêm hôm (tức khoảng thời gian) của sự chứng ngộ Giáo Pháp đó vốn dĩ đã từ rất lâu. Luôn cả vì lý do đó, Ngài cũng được gọi là bậc thâm niên. Mặt khác, sự xác định ngày và đêm của Ngài, vị đã cạn kiệt tất cả lậu hoặc là một điều hiển nhiên, và Trưởng lão Aññā Koṇḍañña này là vị đã cạn kiệt tất cả lậu hoặc trước tiên. Vì thế, Trưởng lão Aññā Koṇḍañña này chính là bậc tối cao, là vị đứng đầu, là vị đạt đến tột đỉnh đầu tiên trong số các vị Thinh Văn được gọi là bậc thâm niên, là như vậy. Vì lý do đó, nên Ngài mới thuyết rằng— “Này các Tỳ-khưu, trong số các đệ tử Tỳ-khưu là bậc thâm niên của Ta, (thì) Aññā Koṇḍañña là tối thắng.

Ettha ca yadidanti nipāto, tassa theraṃ avekkhitvā yo esoti, aggasaddaṃ avekkhitvā yaṃ etanti attho. Aññāsikoṇḍaññoti ñātakoṇḍañño paṭividdhakoṇḍañño. Tenevāha – ‘‘aññāsi vata, bho, koṇḍañño, aññāsi vata, bho, koṇḍaññoti. Iti hidaṃ āyasmato koṇḍaññassa aññāsikoṇḍañño tveva nāmaṃ ahosī’’ti (saṃ. ni. 5.1081; mahāva. 17). Ayaṃ pana thero katarabuddhakāle pubbapatthanaṃ abhinīhāraṃ akāsi, kadā pabbajito, kadānena paṭhamaṃ dhammo adhigato, kadā ṭhānantare ṭhapitoti iminā nayena sabbesupi etadaggesu pañhakammaṃ veditabbaṃ.

Và ở đây, ‘yadidaṃ’ chỉ là một phân từ, nếu nhắm vào vị ấy thì từ này có nghĩa là ‘yo eso,’ còn nếu nhìn vào từ ‘tối thắng’ thì có nghĩa là ‘yaṃ etaṃ’. Aññā Koṇḍañña: Koṇḍañña đã hiểu, Koṇḍañña đã thấu triệt. Vì lý do đó, đức Thế Tôn mới thuyết rằng: “Quả nhiên Koṇḍañña đã hiểu được! Quả nhiên Koṇḍañña đã hiểu được! Do đó, Trưởng lão Koṇḍañña đã có tên là ‘Aññākoṇḍañña.’” (saṃ. ni. 5.1081; mahāva. 17). Nên biết rằng nghiệp đã thiết lập lời ước nguyện lần đầu tiên trong kiếp quá khứ đối với mỗi vị Thinh Văn đạt được vị thế tối thắng theo cách thức này như sau— “Còn vị Trưởng lão này đã thực hiện lời thệ nguyện trong quá khứ vào thời kỳ của vị Phật nào? Ngài xuất gia khi nào? Ngài đã chứng đắc Pháp lần đầu tiên khi nào? Ngài đã được thiết lập vào vị thế (tối thắng) khi nào?

Tattha imassa tāva therassa pañhakamme ayamanupubbikathā – ito kappasatasahassamatthake padumuttaro nāma buddho loke udapādi, tassa paṭividdhasabbaññutaññāṇassa mahābodhipallaṅkato uṭṭhahantassa mahāpathaviyaṃ ṭhapetuṃ pāde ukkhittamatte pādasampaṭicchanatthaṃ mahantaṃ padumapupphaṃ uggañchi, tassa dhurapattāni navutihatthāni honti, kesaraṃ tiṃsahatthaṃ, kaṇṇikā dvādasahatthā, pādena patiṭṭhitaṭṭhānaṃ ekādasahatthaṃ. Tassa pana bhagavato sarīraṃ aṭṭhapaṇṇāsahatthubbedhaṃ ahosi. Tassa padumakaṇṇikāya dakkhiṇapāde patiṭṭhahante mahātumbamattā reṇu uggantvā sarīraṃ okiramānā otari, vāmapādassa ṭhapanakālepi tathārūpaṃyeva padumaṃ uggantvā pādaṃ sampaṭicchi. Tatopi uggantvā vuttappamāṇāva reṇu sarīraṃ okiri. Taṃ pana reṇuṃ abhibhavamānā tassa bhagavato sarīrappabhā nikkhamitvā yantanāḷikāya vissaṭṭhasuvaṇṇarasadhārā viya samantā dvādasayojanaṭṭhānaṃ ekobhāsaṃ akāsi. Tatiyapāduddharaṇakāle pathamuggataṃ padumaṃ antaradhāyi, pādasampaṭicchanatthaṃ aññaṃ navaṃ padumaṃ uggañchi. Imināva niyāmena yattha yattha gantukāmo hoti, tattha tatthāpi mahāpadumaṃ uggacchati. Tenevassa ‘‘padumuttarasammāsambuddho’’ti nāmaṃ ahosi.

Trong số các vị Trưởng lão đã đạt được vị thế tối thắng ấy, trước hết về các vấn đề liên quan đến nghiệp lực của vị Trưởng lão này, có câu chuyện được thuật lại theo trình tự sau đây— Cách đây một trăm ngàn kiếp kể từ kiếp này, Đức Phật có tên là Padumuttara đã xuất hiện ở trên đời. Trong khi thấu triệt Trí Toàn Tri, Ngài đã đứng dậy từ bảo tọa Đại Bồ Đề, vừa nhấc chân lên để đặt xuống đại địa cầu, một đóa sen to lớn đã nhô lên để tiếp đón bàn chân của Ngài. Hoa sen đó có cánh dài 90 cánh tay, nhụy dài 30 cánh tay, cuống dài 12 cánh tay, và nơi đặt chân của Ngài (đài sen) dài 11 cánh tay. Hơn nữa, thân thể của đức Thế Tôn đó cao 58 cánh tay, khi bàn chân phải của Ngài được đặt lên đài sen, hạt phấn lớn bằng một cái chén lớn (đơn vị đo lường) đã phun lên và rải khắp thân thể của Ngài. Ngay cả khi đặt bàn chân trái, chính đóa sen lớn như vậy cũng mọc lên để tiếp đón bàn chân Ngài, hạt phấn có kích thước như đã nói cũng phun lên từ đó, rải khắp thân thể của đức Thế Tôn đó. Hơn nữa, hào quang từ thân thể của đức Thế Tôn phát ra đã bao phủ hạt phấn đó, làm cho khu vực xung quanh khoảng 12 do-tuần sáng rực lên tạo thành một khối đồng nhất, giống như dòng nước vàng phun ra từ một cỗ máy. Vào lúc bước chân thứ ba, đóa hoa sen đã mọc lên trước đó biến mất. Một đóa sen mới khác lại mọc lên để đón bàn chân Ngài. Theo cách thức này, Ngài mong muốn đi đến ở bất cứ nơi nào đóa hoa sen to lớn cũng mọc lên ở những nơi đó sau mỗi bước chân của Ngài. Với chính nguyên nhân ấy, Ngài mới có tên là Đức Phật Chánh đẳng Chánh giác Padumuttara.

Evaṃ so bhagavā loke uppajjitvā bhikkhusatasahassaparivāro mahājanassa saṅgahatthāya gāmanigamarājadhānīsu bhikkhāya caranto haṃsavatīnagaraṃ sampāpuṇi. Tassa āgatabhāvaṃ sutvā pitā mahārājā paccuggamanaṃ akāsi. Satthā tassa dhammakathaṃ kathesi. Desanāpariyosāne keci sotāpannā keci sakadāgāmī keci anāgāmī keci arahattaṃ pāpuṇiṃsu. Rājā svātanāya dasabalaṃ nimantetvā punadivase kālaṃ ārocāpetvā bhikkhusatasahassaparivārassa bhagavato sakanivesane mahādānaṃ adāsi. Satthā bhattānumodanaṃ katvā vihārameva gato. Teneva niyāmena punadivase nāgarā, punadivase rājāti dīghamaddhānaṃ dānaṃ adaṃsu.

Đức Thế Tôn ấy đã hiện khởi ở thế gian này như vậy, có một trăm ngàn vị Tỳ-khưu làm tùy tùng, trong khi đi khất thực ở các các ngôi làng, thị trấn, và thành thị nhằm mục đích giáo hóa đại chúng, Ngài đã đi đến kinh thành Haṃsavatī. Đại Vương là Phụ vương của bậc Đạo Sư đó, sau khi biết tin rằng bậc Đạo Sư đã đến, liền đi ra nghênh đón. Bậc Đạo Sư đã thuyết giảng Giáo Pháp đến Phụ vương. Khi bài thuyết giảng chấm dứt thì một số đạt được quả vị Nhập lưu, một số đạt được quả vị Nhất Lai, một số đạt được quả vị Bất Lai, và một số đạt được quả vị A-ra-hán. Đức Vua đã thỉnh mời đấng Thập Lực vào ngày mai. Vào ngày hôm sau, Đức Vua thông báo thời gian thọ dụng vật thực, đã cúng dường lễ đại thí tại Hoàng cung của Ngài đến đức Thế Tôn cùng với một trăm ngàn vị Tỳ-khưu tùy tùng. Bậc Đạo Sư sau khi thể hiện sự tùy hỷ (phước báu), rồi Ngài trở về lại Tịnh xá. Chính theo cách thức này, việc cúng dường đã được thực hiện trong một thời gian rất dài— cứ vào ngày hôm sau thì dân chúng trong thành cúng dường, và vào ngày kế tiếp thì đến Đức Vua.

Tasmiṃ kāle ayaṃ thero haṃsavatīnagare gahapatimahāsālakule nibbatto. Ekadivasaṃ buddhānaṃ dhammadesanākāle haṃsavatīnagaravāsino gandhamālādihatthe yena buddho, yena dhammo, yena saṅgho, tanninne tappoṇe tappabbhāre gacchante disvā tena mahājanena saddhiṃ dhammadesanaṭṭhānaṃ agamāsi. Tasmiñca samaye padumuttaro bhagavā attano sāsane paṭhamaṃ paṭividdhadhammaṃ ekaṃ bhikkhuṃ etadaggaṭṭhāne ṭhapesi.

Khi ấy, vị Trưởng Lão này (tức Trưởng lão Aññā Koṇḍañña tương lai) tái sanh vào gia tộc người tại gia giàu có tại Kinh thành Haṃsavati. Một hôm, vào lúc Đức Phật thuyết giảng Giáo Pháp, chàng thanh niên thấy dân chúng trong thành Haṃsavati, ai nấy cũng mang hương thơm, vòng hoa, v.v., cung kính thiên về, hương về, nghiêng về Đức Phật, đức Pháp và đức Tăng, nên chàng cũng đi đến chỗ thuyết giảng Giáo Pháp cùng với đại chúng đó. Và vào thời điểm đó, đức Thế Tôn tên là Padumuttara đã thiết lập một vị Tỳ-khưu là người đã thấu triệt Giáo Pháp trước tiên trong Giáo Pháp của Ngài vào vị thế tối thắng.

So kulaputto taṃ kāraṇaṃ sutvā ‘‘mahā vatāyaṃ bhikkhu, ṭhapetvā kira buddhaṃ añño iminā paṭhamataraṃ paṭividdhadhammo nāma natthi. Aho vatāhampi anāgate ekassa buddhassa sāsane paṭhamaṃ dhammaṃ paṭivijjhanasamattho bhaveyya’’nti cintetvā desanāpariyosāne bhagavantaṃ upasaṅkamitvā ‘‘sve mayhaṃ bhikkhaṃ gaṇhathā’’ti nimantesi. Satthā adhivāsesi.

Con trai gia đình cao quý (thiện nam tử) ấy sau khi nghe lý do đó, đã nghĩ rằng— “Vị Tỳ-khưu này thật vĩ đại! Nghe nói rằng, trừ Đức Phật ra, không ai khác được gọi là người thấu triệt Giáo Pháp trước vị Tỳ-khưu này. Ngay cả ta cũng sẽ là người có khả năng thấu triệt Giáo Pháp trước tiên trong Giáo Pháp của một vị Phật ở tương lai. Khi bài thuyết giảng chấm dứt đã đến yết kiến đức Thế Tôn, rồi thỉnh mời rằng: “Vào ngày mai, xin Ngài hãy thọ nhận bữa ăn của con.” Bậc Đạo Sư đã nhận lời.

So bhagavantaṃ abhivādetvā padakkhiṇaṃ katvā sakanivesanaṃ gantvā sabbarattiṃ buddhānaṃ nisajjanaṭṭhānaṃ gandhadāmamālādāmādīhi alaṅkaritvā paṇītaṃ khādanīyaṃ bhojanīyaṃ paṭiyādāpetvā tassā rattiyā accayena sakanivesane bhikkhusatasahassaparivārassa bhagavato vicitrayāgukhajjakaparivāraṃ nānārasasūpabyañjanaṃ gandhasālibhojanaṃ datvā bhattakiccapariyosāne ticīvarapahonake vaṅgapaṭṭe tathāgatassa pādamūle ṭhapetvā cintesi – ‘‘nāhaṃ parittakassa ṭhānassatthāya carāmi, mahantaṃ ṭhānaṃ patthento carāmi, na kho pana sakkā ekameva divasaṃ dānaṃ datvā taṃ ṭhānantaraṃ patthetu’’nti ‘‘anupaṭipāṭiyā satta divasāni mahādānaṃ datvā patthessāmī’’ti. So teneva niyāmena satta divasāni mahādānaṃ datvā bhattakiccapariyosāne dussakoṭṭhāgāraṃ vivarāpetvā uttamasukhumavatthaṃ buddhānaṃ pādamūle ṭhapetvā bhikkhusatasahassaṃ ticīvarena acchādetvā tathāgataṃ upasaṅkamitvā, ‘‘bhante, yo tumhehi ito sattadivasamatthake bhikkhu etadagge ṭhapito, ahampi so bhikkhu viya anāgate uppajjanakabuddhassa sāsane pabbajitvā paṭhamaṃ dhammaṃ paṭivijjhituṃ samattho bhaveyya’’nti vatvā satthu pādamūle sīsaṃ katvā nipajji.

Vị ấy đảnh lễ đức Thế Tôn, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi trở về chỗ ở của mình. Trọn đêm đó, chàng đã trang hoàng chỗ ngồi cho Đức Phật bằng hương thơm và vòng hoa, v.v, và đã cho chuẩn bị sẵn sàng thức ăn hảo hạng loại cứng loại mềm. Khi đêm ấy trôi qua, chàng đã cúng dường cơm gạo lúa thơm có các món xúp và nhiều món ăn kèm theo với nhiều hương vị khác nhau, cùng nhiều món ăn phụ có cháo chua và các loại vật thực nhai (bánh, trái cây, v.v.), đến Đức Thế Tôn cùng với một trăm ngàn vị Tỳ-khưu tùy tùng ở tại nơi ở của mình. Sau khi kết thúc phận sự về thọ thực, chàng đã đặt một tấm vải vừa đủ may ba y ở gần bàn chân của Như Lai, nghĩ rằng— “Ta thực hành không nhằm mục đích cho một địa vị nhỏ bé, Ta mong mỏi địa vị to lớn nên mới thực hành. Nhưng ta chỉ mới cúng dường vật thí một ngày thì không thể nào mong mỏi được địa vị ấy.” – Vì vậy, chàng nghĩ tiếp: “Ta sẽ cúng dường lễ đại thí trong bảy ngày liên tục, rồi sau đó sẽ ước nguyện. Chính theo cách thức này, chàng đã cúng dường lễ đại thí trong bảy ngày, sau khi kết thúc phận sự về thọ thực, chàng đã cho mở kho vải và đặt tấm vải mịn quý giá ở chân của Đức Phật, dâng cho một trăm ngàn vị Tỳ-khưu khoác lên tam y, rồi đi vào yết kiến đức Thế Tôn, thưa rằng: “Bạch đức Thế Tôn, vị Tỳ-khưu nào được Ngài thiết lập vào vị thế tối thắng, khoảng thời gian bảy ngày kể từ ngày hôm nay, cả con cũng mong trở thành người có thể xuất gia trong Giáo Pháp của một vị Phật sẽ xuất hiện trong tương lai và thấu triệt Giáo Pháp đầu tiên giống như vị Tỳ-khưu ấy,” nói xong chàng đã cúi đầu xuống gần bàn chân của bậc Đạo Sư.

Satthā tassa vacanaṃ sutvā ‘‘iminā kulaputtena mahāadhikāro kato, samijjhissati nu kho etassa ayaṃ patthanā no’’ti anāgataṃsañāṇaṃ pesetvā āvajjento ‘‘samijjhissatī’’ti passi. Buddhānañhi atītaṃ vā anāgataṃ vā paccuppannaṃ vā ārabbha āvajjentānaṃ āvaraṇaṃ nāma natthi, anekakappakoṭisatasahassantarampi ca atītaṃ vā anāgataṃ vā cakkavāḷasahassantarampi ca paccuppannaṃ vā āvajjanapaṭibaddhameva manasikārapaṭibaddhameva hoti. Evaṃ appaṭivattiyena ñāṇena so bhagavā idaṃ addasa – ‘‘anāgate satasahassakappapariyosāne gotamo nāma buddho loke uppajjissati, tadā imassa patthanā samijjhissatī’’ti. Atha naṃ evamāha – ‘‘ambho, kulaputta, anāgate satasahassakappapariyosāne gotamo nāma buddho loke uppajjissati, tvaṃ tassa paṭhamakadhammadesanāya teparivaṭṭadhammacakkappavattanasuttantapariyosāne aṭṭhārasahi brahmakoṭīhi saddhiṃ sahassanayasampanne sotāpattiphale patiṭṭhahissasī’’ti.

Bậc Đạo Sư, sau khi nghe lời thệ nguyện ấy, đã khởi trí biết về vị lai để quán xét rằng: “Người con trai gia đình cao quý này đã thực hiện đại nguyện. liệu lời thệ nguyện của vị này sẽ được thành tựu chăng? Trong khi quan sát (Ngài) thấy rõ: “(Lời thệ nguyện của vị ấy) chắc chắn sẽ được thành tựu.” Thật vậy, khi chư Phật quán sát về quá khứ, vị lai hay hiện tại, không có gì có thể ngăn ngại. Những sự kiện đã xảy ra trong quá khứ, hay sẽ xảy ra trong tương lai trong khoảng thời gian nhiều trăm ngàn koṭi kiếp (vô số kiếp), hay các sự kiện đang diễn ra trong hiện tại trong khoảng một trăm ngàn thế giới; tất cả đều có liên quan đến sự quan sát và liên quan đến sự tác ý. Đức Thế Tôn đã thấy rõ sự việc này bằng Tuệ giác, không ai có thể đảo ngược: “Trong tương lai, khi kết thúc một trăm ngàn kiếp, Đức Phật có tên là Gotama sẽ xuất hiện ở thế gian. Vào thời điểm đó, lời thệ nguyện của vị này chắc chắn sẽ được thành tựu.” Khi ấy, đức Thế Tôn đã nói với vị ấy như sau— “Này người con trai gia đình cao quý, vào thời vị lai, đến khi mãn một trăm ngàn kiếp, Đức Phật tên là Gotama sẽ xuất hiện ở thế gian. Ngươi sẽ an trú trong Sơ Quả Tu-đà-hoàn, thành tựu với một ngàn phương pháp (để chứng ngộ), cùng với mười tám koṭi Phạm Thiên, vào lúc chấm dứt bài Kinh Chuyển Vận Bánh Xe Pháp có ba Luân (vòng xoay) với bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Gotama đó.

Iti satthā taṃ kulaputtaṃ byākaritvā caturāsīti dhammakkhandhasahassāni desetvā anupādisesāya nibbānadhātuyā parinibbāyi. Tassa parinibbutassa sarīraṃ suvaṇṇakkhandho viya ekagghanaṃ ahosi, sarīracetiyaṃ panassubbedhena sattayojanikaṃ akaṃsu. Iṭṭhakā suvaṇṇamayā ahesuṃ, haritālamanosilāya mattikākiccaṃ, telena udakakiccaṃ sādhayiṃsu. Buddhānaṃ dharamānakāle sarīrappabhā dvādasayojanikaṃ phari, parinibbutānaṃ pana tesaṃ rasmi nikkhamitvā samantā yojanasataṃ avatthari.

Sau khi thọ ký cho người con trai gia đình cao quý đó như vậy, Bậc Đạo Sư đã thuyết giảng 84,000 Pháp Uẩn, rồi viên tịch Niết Bàn trong cảnh giới Niết Bàn không còn dư sót. Thân thể của Ngài, vị đã viên tịch Niết Bàn, đã trở thành một khối đồng nhất, trông giống như một khối vàng, dân chúng đã xây dựng ngôi bảo điện để tôn thờ Xá lợi của Ngài cao 7 do-tuần. Tất cả các viên gạch hoàn toàn làm bằng vàng. Dân chúng đã sử dụng hùng hoàng (khoáng vật có màu đỏ) và thư hoàng thay cho đất sét, và dùng dầu mè thay cho nước (để xây dựng). Trong lúc chư Phật vẫn còn tại thế, hào quang từ kim thân của Ngài chỉ tỏa ra 12 do-tuần, nhưng khi chư Phật đã viên tịch Niết Bàn thì hào quang đó đã lan tỏa ra bao phủ toàn bộ khu vực xung quanh một trăm do-tuần.

Ayaṃ seṭṭhi buddhānaṃ sarīracetiyaṃ parivāretvā sahassaratanagghiyāni kāresi. Cetiyapatiṭṭhāpanadivase antocetiye ratanagharaṃ kāresi. So vassasatasahassaṃ mahantaṃ dānādimayaṃ kalyāṇakammaṃ katvā tato cuto devapure nibbatti. Tassa devesu ca manussesu ca saṃsarantasseva navanavuti kappasahassāni nava kappasatāni nava ca kappā samatikkantā. Ettakassa kālassa accayena ito ekanavutikappamatthake ayaṃ kulaputto bandhumatīnagarassa dvārasamīpe gāme kuṭumbiyagehe nibbatto. Tassa mahākāloti nāmaṃ ahosi, kaniṭṭhabhātā panassa cūḷakālo nāma.

Vị trưởng giả này đã cho xây dựng các vật phẩm trị giá tương đương một ngàn viên ngọc bao quanh ngôi bảo điện tôn thờ Xá lợi chư Phật. Vào ngày kiến lập ngôi bảo điện, Ngài đã cho xây dựng một ngôi nhà bằng ngọc bên trong ngôi bảo điện. Vị trưởng giả ấy đã tạo nghiệp tốt đẹp thành tựu với việc bố thí to lớn suốt một trăm ngàn năm. Sau khi từ trần tại nơi ấy, vị ấy đã tái sanh vào cõi Trời. Trải qua chín mươi ngàn chín trăm lẻ chín (99.909) kiếp luân hồi giữa chư Thiên và loài người (tính từ thời Đức Phật Padumuttara). Thời gian trôi qua như vậy, đến mãn kiếp thứ chín mươi mốt (91) tính từ kiếp này (Bhadda-kappa), người con trai gia đình cao quý này tái sanh trong gia đình của một gia chủ tại Rāmagāma, gần cổng thành Bandhumatī, và được đặt tên là Mahākāla (Đại Hắc). Còn em trai của Ngài tên là Cūḷakāla (Tiểu Hắc).

Tasmiṃ samaye vipassī bodhisatto tusitapurā cavitvā bandhumatīnagare bandhumassa rañño aggamahesiyā kucchismiṃ nibbatto. Anukkamena sabbaññutaṃ patvā dhammadesanatthāya mahābrahmunā āyācito ‘‘kassa nu kho paṭhamaṃ dhammaṃ desessāmī’’ti cintetvā attano kaniṭṭhaṃ khaṇḍaṃ nāma rājakumāraṃ tissañca purohitaputtaṃ ‘‘paṭhamaṃ dhammaṃ paṭivijjhituṃ samatthā’’ti disvā ‘‘tesañca dhammaṃ desessāmi, pitu ca saṅgahaṃ karissāmī’’ti bodhimaṇḍato ākāseneva āgantvā kheme migadāye otiṇṇo te pakkosāpetvā dhammaṃ desesi. Desanāpariyosāne te dvepi janā caturāsītiyā pāṇasahassehi saddhiṃ arahattaphale patiṭṭhahiṃsu.

Vào lúc ấy, đức Bồ Tát tên là Vipassī mệnh chung từ cõi trời Tusita (Đâu Suất) và tái sanh vào bào thai của Hoàng Hậu chánh cung của Đức Vua Bandhumā tại kinh thành Bandhumatī. Sau này, Ngài chứng đạt quả vị Toàn Giác theo tuần tự, khi được Đại Phạm Thiên thỉnh cầu vì mục đích thuyết giảng Giáo Pháp, (Đức Phật) đã suy nghĩ rằng: “Ta sẽ thuyết giảng Giáo Pháp cho ai trước tiên?” (Quán sát), Ngài thấy Hoàng Tử Khaṇḍa là em trai của Ngài và con trai của vị quan tế tự tên là Tissa, là những người có khả năng chứng ngộ Giáo Pháp trước nhất. Vì vậy, Ngài nghĩ: “Ta sẽ thuyết giảng Giáo Pháp cho hai người ấy, rồi sẽ tế độ Phụ vương. Sau đó, từ khuôn viên cội Bồ Đề Ngài đã bay đến và hạ xuống tại Vườn Lộc Uyển Khema, cho gọi hai người ấy đến, rồi thuyết giảng Giáo Pháp. Khi bài thuyết giảng kết thúc cả hai người đều an trú vào Thánh Quả A-ra-hán cùng với tám mươi bốn ngàn (84,000) chúng sanh khác.

Athāparepi bodhisattakāle anupabbajitā caturāsītisahassā kulaputtā taṃ pavattiṃ sutvā satthu santikaṃ āgantvā dhammadesanaṃ sutvā arahattaphale patiṭṭhahiṃsu. Satthā taṃ tattheva khaṇḍattheraṃ aggasāvakaṭṭhāne, tissattheraṃ dutiyasāvakaṭṭhāne ṭhapesi. Rājāpi taṃ pavattiṃ sutvā ‘‘puttaṃ passissāmī’’ti uyyānaṃ gantvā dhammadesanaṃ sutvā tīsu saraṇesu patiṭṭhāya satthāraṃ svātanāya nimantetvā abhivādetvā padakkhiṇaṃ katvā pakkāmi.

Ngoài ra, có thêm một nhóm xuất gia khi Ngài vẫn còn là Bồ Tát, sau khi nghe về sự việc đó (việc hai người Khaṇḍa và Tissa chứng quả), họ đã đến yết kiến bậc Đạo Sư, lắng nghe bài thuyết Pháp và đã an trú vào Thánh Quả A-ra-hán. Ngay tại nơi ấy, bậc Đạo Sư đã thiết lập Trưởng lão Khaṇḍa vào vị thế ‘vị Thinh Văn tối thắng thứ nhất,’ và Trưởng lão Tissa vào vị thế ‘vị Thinh Văn tối thắng thứ hai.’Còn Đức Vua (Vua Bandhumā), sau khi nghe sự việc ấy, Ngài đã khởi lên ý nghĩ rằng: “Trẫm sẽ đến thăm con trai (Đức Phật Vipassī)” nên Ngài liền đi đến vườn thượng uyển. Sau khi lắng nghe bài thuyết Pháp, Đức Vua đã an trú vào ba sự nương nhờ; rồi thỉnh mời bậc Đạo Sư vào ngày mai, đảnh lễ, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi trở về Hoàng cung.

So pāsādavaragato nisīditvā cintesi – ‘‘mayhaṃ jeṭṭhaputto nikkhamitvā buddho jāto, dutiyaputto me aggasāvako, purohitaputto dutiyasāvako. Ime ca avasesabhikkhū gihikālepi mayhaṃ puttameva parivāretvā vicariṃsu, ime pubbepi dānipi mayhameva bhārā, ahameva te catūhi paccayehi upaṭṭhahissāmi, aññesaṃ okāsaṃ na dassāmī’’ti. Vihāradvārakoṭṭhakato paṭṭhāya yāva rājagehadvārā ubhosu passesu khadirapākāraṃ kāretvā vatthehi paṭicchādāpetvā upari suvaṇṇatārakavicittaṃ samolambitatālakkhandhamattavividhapupphadāmavitānaṃ kāretvā heṭṭhābhūmiṃ vicittattharaṇehi santharāpetvā anto ubhosu passesu mālāgacchakesu puṇṇaghaṭe sakalamaggavāsatthāya ca gandhantaresu pupphāni pupphantaresu gandhe ca ṭhapāpetvā bhagavato kālaṃ ārocāpesi. Bhagavā bhikkhusaṅghaparivuto antosāṇiyāva rājagehaṃ gantvā bhattakiccaṃ katvā vihāraṃ paccāgacchati. Añño koci daṭṭhumpi na labhati, kuto pana bhikkhaṃ vā dātuṃ pūjaṃ vā kātuṃ.

Ngài đã bước lên Cung điện cao quý, ngồi xuống và suy nghĩ rằng— “Đứa con trai cả của trẫm đã xuất gia trở thành Đức Phật. Đứa con trai thứ hai của trẫm cũng là ‘vị Thinh Văn tối thắng thứ nhất,’ Còn trai của vị quan tế tự là ‘vị Thinh Văn tối thắng thứ hai.’ Và các vị Tỳ-khưu còn lại này ngay cả khi còn là cư sĩ, cũng thường tháp tùng cùng con trai của trẫm. Các vị Tỳ-khưu này, cả trước đây lẫn bây giờ, đều thuộc phần trách nhiệm của trẫm. Một mình trẫm sẽ phục vụ cho các vị ấy với bốn món vật dụng, trẫm sẽ không để cơ hội đến những người khác.” Vì thế, Ngài đã cho dựng hàng rào bằng gỗ sao đen ở hai bên từ cổng vòm Tịnh xá cho đến tận cổng Hoàng cung, cho che lại bằng những tấm vải, xây trần nhà với nhiều vòng hoa lớn bằng cây thốt nốt, trang hoàng với những chuỗi ngôi sao bằng vàng ở bên trên, trải sàn bằng những tấm thảm tuyệt đẹp, đặt các bình nước đầy bên cạnh các khóm hoa và các vật thơm ở cả hai bên, đặt các bông hoa xen kẽ giữa các vật thơm, và đặt các vật thơm xen kẽ giữa các bông hoa, để hương thơm tỏa khắp con đường đó. Sau đó, Ngài thông báo thời giờ cho đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn được Hội chúng Tỳ-khưu tháp tùng, đi đến Hoàng cung, sau khi làm phận sự về thọ thực, đã trở về Tịnh xá ở bên trong tấm màn che ấy. Người ngoài dù có nhìn cũng không thể thấy, thế thì làm sao có thể cúng dường vật thực hoặc thực hiện sự cúng dường.

Nāgarā cintesuṃ – ‘‘ajja satthu loke uppannassa sattamāsādhikāni satta saṃvaccharāni, mayañca daṭṭhumpi na labhāma, pageva bhikkhaṃ vā dātuṃ pūjaṃ vā kātuṃ dhammaṃ vā sotuṃ. Rājā ‘mayhaṃ eva buddho, mayhaṃ dhammo, mayhaṃ saṅgho’ti mamāyitvā sayameva upaṭṭhahati. Satthā ca uppajjamāno sadevakassa lokassa atthāya uppanno, na raññoyeva atthāya. Na hi raññoyeva nirayo uṇho, aññesaṃ nīluppalavanasadiso. Tasmā rājānaṃ evaṃ vadāma ‘sace no satthāraṃ deti, iccetaṃ kusalaṃ. No ce deti, raññā saddhiṃ yujjhitvā saṅghaṃ gahetvā dānādīni puññāni karoma. Na sakkā kho pana suddhanāgareheva evaṃ kātuṃ, ekaṃ jeṭṭhakapurisampi gaṇhāmā’’’ti senāpatiṃ upasaṅkamitvā tassa tamatthaṃ ārocetvā ‘‘sāmi kiṃ amhākaṃ pakkho hohisi, udāhu rañño’’ti āhaṃsu. So āha – ‘‘tumhākaṃ pakkho homi, apica kho pana paṭhamadivaso mayhaṃ dātabbo’’ti. Te sampaṭicchiṃsu.

Dân chúng trong Kinh thành nghĩ rằng: “Kể từ khi bậc Đạo Sư xuất hiện ở thế gian đã được 7 năm và 7 tháng rồi, mà đến hôm nay chúng ta vẫn chưa được diện kiến Ngài, thì còn nói gì đến việc được cúng dường vật thực, thực hiện sự cúng dường, hay lắng nghe Giáo Pháp. Đức Vua cứ giữ chặt: “Đức Phật là của ta, Tăng đoàn là của ta” và tự mình Ngài phục vụ. Bậc Đạo Sư, khi xuất hiện, là xuất hiện vì lợi ích cho toàn thế gian cùng với chư Thiên, chứ không phải vì lợi ích của riêng một mình Đức Vua. Địa ngục là nơi nóng rực chỉ dành riêng cho một mình Đức Vua đó, chứ không phải giống như hoa sen xanh cho những người khác. Vì lý do đó, chúng ta sẽ tâu lên Đức Vua như vầy rằng: “Nếu như Đức Vua ban cho chúng tôi bậc Đạo Sư, điều đó là việc tốt. Nếu Ngài không cho, chúng tôi sẽ gây chiến với Ngài, rồi rước Tăng đoàn đi và tự mình tạo các phước  báu như bố thí, v.v. Mặc khác, dân chúng thành thị chính gốc thì không thể làm như vậy. (nếu vậy) “Chúng ta sẽ giữ lấy dù chỉ một người làm người đứng đầu,” Cho nên, sau khi tìm đến vị Tướng Quân, họ đã nói lên sự việc đó, rồi hỏi rằng – “Thưa Ngài, Ngài đứng về phía của chúng tôi, hay đứng về phía của Đức Vua?” – Vị ấy nói rằng: “Tôi đứng về phía của các vị, tuy nhiên các vị phải nhường cho tôi vào ngày thứ nhất, (hôm sau mới đến lượt của các vị).” (và) họ đã đồng ý.

So rājānaṃ upasaṅkamitvā ‘‘nāgarā, deva, tumhākaṃ kupitā’’ti āha. Kimatthaṃ tātāti? Satthāraṃ kira tumheva upaṭṭhahatha, amhe na labhāmāti. Sace idānipi labhanti, na kuppanti. Alabhantā tumhehi saddhiṃ yujjhitukāmā, devāti. Yujjhāmi, tāta, na bhikkhusaṅghaṃ demīti. Deva, tumhākaṃ dāsā tumhehi saddhiṃ yujjhāmāti vadanti, tumhe kaṃ gaṇhitvā yujjhissathāti? Nanu tvaṃ senāpatīti? Nāgarehi vinā asamattho ahaṃ, devāti. Tato rājā ‘‘balavanto nāgarā, senāpatipi tesaṃyeva pakkho’’ti ñatvā ‘‘aññāni sattamāsādhikāni satta saṃvaccharāni mayhaṃ bhikkhusaṅghaṃ dentū’’ti āha. Nāgarā na sampaṭicchiṃsu. Rājā ‘‘chabbassāni pañcavassānī’’ti evaṃ hāpetvā aññe satta divase yāci. Nāgarā ‘‘atikakkhaḷaṃ dāni raññā saddhiṃ kātuṃ na vaṭṭatī’’ti anujāniṃsu.

Vị ấy, sau khi đến yết kiến Đức Vua đã tâu rằng: “Tâu bệ hạ, dân chúng trong thành đầy lòng tức giận bệ hạ.” – Đức Vua hỏi rằng: “Giận trẫm về chuyện gì?” – Tâu rằng: Được biết chỉ có một mình bệ hạ được phục vụ bậc Đạo Sư, còn chúng hạ thần thì không được (phục vụ bậc Đạo Sư). Nếu như họ được (phục vụ bậc Đạo Sư) vào lúc này thị họ sẽ không giận nữa. Nếu như không được họ sẽ có ý muốn chiến đấu với Ngài, thưa bệ hạ. – Này khanh, Trẫm sẽ chiến đấu, trẫm không để Hội chúng Tỳ-khưu (cho họ phục vụ). – Tâu bệ hạ, dân chúng trong thành là bề tôi của bệ hạ, họ sẽ chiến đấu với bệ hạ. – Các khanh sẽ bắt những kẻ chiến đấu, khanh là vị Tướng Quân không phải sao? – Tâu bệ hạ, hạ thần đã miễn cho họ nên không thể chiến đấu, thưa bệ hạ. Lúc đó, Đức Vua biết rằng – “Dân chúng trong thành có sức mạnh, luôn cả vị Tướng Quân cũng về phe của họ,” nên mới nói rằng: “dân chúng trong thành hãy để Tăng Chúng cho trẫm phục vụ thêm bảy năm bảy tháng liên tục.” Dân chúng trong thành sẽ không đồng ý. Đức Vua đã hoãn lại như vầy – “(Vậy thì) sáu năm, năm năm, v.v.” rồi cuối cùng chỉ yêu cầu thêm 7 ngày. Dân chúng trong thành đã chấp thuận, vì họ nghĩ rằng: “Việc chúng ta làm những hành động thô lỗ đối với Đức Vua trong lúc này thật không phù hợp.’”

Rājā sattamāsādhikānaṃ sattannaṃ saṃvaccharānaṃ sajjitaṃ dānamukhaṃ sattannameva divasānaṃ sajjetvā cha divase kesañci apassantānaṃyeva dānaṃ datvā sattame divase nāgare pakkosāpetvā ‘‘sakkhissatha, tātā, evarūpaṃ dānaṃ dātu’’nti āha. Tepi ‘‘nanu amheyeva nissāyetaṃ devassa uppanna’’nti vatvā ‘‘sakkhissāmā’’ti āhaṃsu. Rājā piṭṭhihatthena assūni puñchamāno bhagavantaṃ vanditvā, ‘‘bhante, aṭṭhasaṭṭhibhikkhusatasahassaṃ aññassu bhāraṃ akatvā yāvajīvaṃ catūhi paccayehi upaṭṭhahissāmīti cintesiṃ, nāgarānaṃ dāni me anuññātaṃ, nāgarā hi ‘mayaṃ dānaṃ dātuṃ na labhāmā’ti bhagavā kuppanti. Sveva paṭṭhāya tesaṃ anuggahaṃ karothā’’ti āha.

Đức Vua đã chuẩn bị vật phẩm cúng dường chính yếu vốn đã được chuẩn bị trước cho 7 năm 7 tháng – nay chỉ còn lại 7 ngày. Khi chẳng ai nhìn thấy đã ban phát vật thí vào ngày thứ 6, vào ngày thứ 7 Ngài đã cho gọi dân chúng trong thành đến, và nói rằng:  “Các khanh sẽ có thể cúng dường vật thí có hình thức như thế chăng?” – Dân chúng trong thành tâu rằng: “Vật thí ấy phát sanh nơi ngài do y cứ nơi chúng thần không phải hay sao? Nên đã thưa rằng: “Tâu bệ hạ, chúng thần có thể.” – Đức Vua lau những giọt nước mắt với mu bàn tay, đảnh lễ đức Thế Tôn, rồi nói rằng: “Kính bạch Ngài, trẫm nghĩ rằng: ‘Trẫm sẽ không để cho sáu triệu tám trăm ngàn vị Tỳ-khưu (6,800,000) trở thành gánh nặng của người khác, sẽ phụng sự (ngài) với bốn món vật dụng cho đến trọn cuộc. Nhưng bây giờ, trẫm đã cho phép dân chúng trong thành vì họ đã nổi giận (cho rằng): ‘Chúng tôi không được cúng dường vật thí.’” Kể từ ngày mai xin đức Thế Tôn hãy vì lòng bi mẫn tế độ cho họ.’”

Atha dutiyadivase senāpati mahādānaṃ adāsi. Tato nāgarā raññā katasakkārato uttaritaraṃ sakkārasammānaṃ katvā dānaṃ adaṃsu. Eteneva niyāmena sakalanagarassa paṭipāṭiyā gatāya dvāragāmavāsino sakkārasammānaṃ sajjayiṃsu. Mahākālakuṭumbiko cūḷakālaṃ āha – ‘‘dasabalassa sakkārasammānaṃ sveva amhākaṃ pāpuṇāti, kiṃ sakkāraṃ karissāmā’’ti? Tvameva bhātika jānāhīti. Sace mayhaṃ ruciyā karosi, amhākaṃ soḷasakarīsamattesu khettesu gahitagabbhā sāliyo atthi. Sāligabbhaṃ phāletvā ādāya buddhānaṃ anucchavikaṃ pacāpemāti. Evaṃ kayiramāne kassaci upakāro na hoti, tasmā netaṃ mayhaṃ ruccatīti. Sace tvaṃ evaṃ na karosi, ahaṃ mayhaṃ santakaṃ mamāyituṃ labhāmīti soḷasakarīsamattaṃ khettaṃ majjhe bhinditvā aṭṭhakarīsaṭṭhāne sīmaṃ ṭhapetvā sāligabbhaṃ phāletvā ādāya asambhinne khīre pacāpetvā catumadhuraṃ pakkhipitvā buddhappamukhassa saṅghassa adāsi. Kuṭumbikassa kho gabbhaṃ phāletvā gahitagahitaṭṭhānaṃ puna pūrati. Puthukakāle puthukaggaṃ nāma adāsi, gāmavāsīhi saddhiṃ aggasassaṃ nāma adāsi, lāyane lāyanaggaṃ, veṇikaraṇe veṇaggaṃ, kalāpādīsu kalāpaggaṃ khalaggaṃ khalabhaṇḍaggaṃ koṭṭhagganti. Evaṃ so ekasasseva nava vāre aggadānaṃ adāsi. Tampi sassaṃ atirekaṃ uṭṭhānasampannaṃ ahosi.

Khi ấy, vào ngày thứ hai (sau khi Vua nhường quyền), Tướng Quân (Mahākāla) đã cúng dường lễ đại thí. Sau đó, dân chúng trong thành đã thực hiện sự tôn kính vô cùng trọng thể vượt xa những gì Đức Vua đã làm, rồi đã cúng dường vật thí. Theo chính cách thức đó, khi đến lượt của dân chúng – toàn bộ thành phố những người dân làng ở gần cổng thành đã chuẩn bị các lễ vật cúng dường vô cùng trọng thể. Gia chủ Mahākāla đã nói với Cūḷakāla rằng— “Này em Cūḷakāla, sự tôn kính long trọng đối với đấng Thập Lực đã đến lượt của chúng ta vào ngày mai. Chúng ta sẽ thực hiện sự tôn kính như thế nào?” – Cūḷakāla nói rằng: “Thưa anh, chỉ có anh mới biết được điều đó.” Mahākāla nói: “Nếu em đồng ý làm theo ý của anh, “Có lúa gạo sāli đã trổ bông trong cánh đồng ước chừng 16 karīsa[1] của chúng ta. Chúng ta sẽ cho rạch bụng hạt lúa để lấy gạo sữa, đem về nấu sao cho xứng đáng với chư Phật. – “Trong khi làm như vậy sẽ không có lợi ích cho ai cả. Vì vậy, em không hài lòng với điều đó.” – “Nếu em nói như vậy thì anh sẽ làm theo ý anh,” Mahākāla liền chia đôi cánh đồng 16 karīsa thành hai phần bằng nhau, rồi cắm mốc ranh giới 8 karīsa dành cho mình. Vị ấy cho rạch bụng hạt lúa sāli lấy gạo sữa, đem về nấu với sữa không pha trộn, thêm món có bốn hương vị ngon ngọt và cúng dường đến Hội chúng Tỳ-khưu có Đức Phật là vị đứng đầu. Tuy nhiên, ở những chỗ mà vị ấy đã rạch bụng hạt lúa sāli và đem đi, (bụng lúa) lại đầy trở lại. (Không chỉ dừng lại ở đó), vào thời điểm thu hoạch cốm, vị ấy đã cúng dường phần ngon nhất trong số cốm đó. Cùng với dân làng, vị ấy đã cúng dường phần lúa chín ngon nhất. Trong lúc gặt (vị ấy đã cúng dường) phần lúa gặt ngon nhất. Trong lúc buộc thành bó (vị ấy cúng dường) phần ngon nhất trong số các bó lúa. Trong lúc phơi lúa (vị ấy cúng dường) phần ngon nhất trong số lúa được phơi. (vị ấy cúng dường) phần lúa ngon nhất trong lúc đập lúa. (vị ấy cúng dường) phần lúa ngon nhất trong lúc đưa lúa vào sân đập. (vị ấy cúng dường) phần lúa ngon nhất trong lúc đưa lúa vào kho. Như vậy, vị ấy đã cúng dường vật thí tốt nhất chín lần chỉ với một ruộng lúa. Dù đã cúng dường nhiều lần như vậy, nhưng cây lúa đó vẫn mọc thêm nữa.

Yāva buddhā dharati, yāva ca saṅgho dharati, eteneva niyāmena kalyāṇakammaṃ katvā tato cuto devaloke nibbattitvā devesu ceva manussesu ca saṃsaranto ekanavutikappe sampattiṃ anubhavitvā amhākaṃ satthu loke uppannakāle kapilavatthunagarassa avidūre doṇavatthubrāhmaṇagāme brāhmaṇamahāsālakule nibbatti. Tassa nāmaggahaṇadivase koṇḍaññamāṇavoti nāmaṃ akaṃsu. So vuḍḍhimanvāya tayo vede uggahetvā lakkhaṇamantānaṃ pāraṃ agamāsi. Tena samayena amhākaṃ bodhisatto tusitapurā cavitvā kapilavatthupure nibbatti. Tassa nāmaggahaṇadivase aṭṭhuttaraṃ brāhmaṇasataṃ ahatavatthehi acchādetvā appodakaṃ madhupāyāsaṃ pāyetvā tesaṃ antare aṭṭha jane uccinitvā mahātale nisīdāpetvā alaṅkatapaṭiyattaṃ bodhisattaṃ dukūlacumbaṭake nipajjāpetvā lakkhaṇapariggahaṇatthaṃ tesaṃ santikaṃ ānayiṃsu.

Theo cách thức này vị ấy đã tạo nghiệp thiện tốt đẹp cho đến khi Đức Phật còn tại thế, và cho đến khi Hội chúng Tỳ-khưu còn tại thế. (Sau đó) Ngài đã từ trần tại nơi ấy rồi tái sanh về cõi Trời, Ngài đã luân hồi giữa chư Thiên và loài Người và thọ hưởng sự thành tựu trong suốt 91 kiếp. Vào lúc bậc Đạo Sư của chúng ta xuất hiện ở trên đời, Ngài đã tái sanh vào gia đình Bà-la-môn giàu có tại làng Bà-la-môn Doṇavatthu, không xa thành Kapilavatthu. Vào ngày đặt tên, thân quyến đã gọi Ngài là thanh niên Koṇḍañña. Khi đã đến tuổi trưởng thành, Ngài đã học xong ba kiến thức Vệ-Đà và cả các chú thuật về tướng trạng. Lúc bấy giờ, đức Bồ Tát của chúng ta mệnh chung từ cõi trời Tusita (Đâu Suất) rồi tái sanh trong kinh thành Kapilavatthu. Vào ngày lễ đặt tên của Ngài, bà con quyến thuộc đã thỉnh mời 108 vị Bà-la-môn mặc y phục mới, uống cháo sữa ít nước. Họ đã lựa chọn ra 8 vị Bà-la-môn trong số 108 vị đó, cho ngồi trên những chiếc ghế lớn, rồi đặt đức Bồ Tát đã được trang điểm nằm ở trên tấm đệm bằng vải mịn, đưa Ngài đến trước mặt các vị Bà-la-môn đó để xem xét về các tướng trạng.

Dhurāsane nisinnabrāhmaṇo mahāpurisassa sarīrasampattiṃ oloketvā dve aṅguliyo ukkhipi. Evaṃ paṭipāṭiyā satta janā ukkhipiṃsu. Tesaṃ pana sabbanavako koṇḍaññamāṇavo, so bodhisattassa lakkhaṇavaranipphattiṃ oloketvā ‘‘agāramajjhe ṭhānakāraṇaṃ natthi, ekantenesa vivaṭṭacchado buddho bhavissatī’’ti ekameva aṅguliṃ ukkhipi.  Itare pana satta janā ‘‘sace agāraṃ ajjhāvasissati, rājā bhavissati cakkavattī. Sace pabbajissati, buddho bhavissatī’’ti dve gatiyo disvā dve aṅguliyo ukkhipiṃsu. Ayaṃ pana koṇḍañño katādhikāro pacchimabhavikasatto paññāya itare satta jane abhibhavitvā ‘‘imehi lakkhaṇehi samannāgatassa agāramajjhe ṭhānakaraṇaṃ nāma natthi, nissaṃsayaṃ buddho bhavissatī’’ti ekameva gatiṃ addasa, tasmā ekaṃ aṅguliṃ ukkhipi. Tato brāhmaṇā attano gharāni gantvā putte āmantayiṃsu – ‘‘tātā, amhe mahallakā, suddhodanamahārājassa puttaṃ sabbaññutappattaṃ mayaṃ sambhāveyyāma vā no vā. Tumhe tasmiṃ kumāre sabbaññutaṃ patte tassa sāsane pabbajeyyāthā’’ti.

Các vị Bà-la-môn ngồi trên ghế lớn, sau khi xem xét sự thành tựu về thân thể của Đại Nhân, đã giơ lên hai ngón tay. Có 7 vị lần lượt giơ hai ngón tay như vậy. Tuy nhiên, trong số tám vị Bà-la-môn đó, chỉ có thanh niên Bà-la-môn Koṇḍañña người trẻ nhất trong số đó, sau khi xem xét tướng trạng tuyệt hảo đã chỉ giơ lên một ngón tay rồi nói rằng: “Không có nguyên nhân và lý do nào để Ngài sống đời sống gia đình. Thái tử chắc chắn sẽ trở thành một vị Phật, vị có màn che đã được vén lên hoàn toàn.” Hơn nữa, bảy vị này thấy có hai con đường: “Nếu Thái tử sống đời sống tại gia thì ngài sẽ trở thành vị Chuyển-luân Thánh-vương; còn nếu ngài xuất gia thì sẽ trở thành vị Phật,” nên họ đã giơ lên hai ngón tay. Nhưng Aññā Koṇḍañña này, vị đã tạo lập lời thệ nguyện và là chúng sanh ở kiếp cuối cùng, đã vượt hẳn 7 vị kia về trí tuệ, đã nhìn thấy chỉ có một con đường mà thôi– “Bậc Đại Nhân, vị hội đủ những tướng trạng này không sống đời sống gia đình, sẽ trở thành vị Phật không cần phải nghi ngờ,” vì thế chỉ giơ lên một ngón tay. Sau đó, các vị Bà-la-môn đã trở về nhà của mình và khuyên bảo với các con rằng: “Này các con thương, cha đã già có thể không được chiêm ngưỡng hoặc không kịp chiêm ngưỡng Thái tử, con trai của Đức Vua Suddhodana khi Ngài chứng đạt Trí Toàn Giác. Vì vậy, khi Thái tử đã đạt đến Trí Toàn Giác, các con hãy xuất gia trong Giáo Pháp của Ngài.”

Suddhodanamahārājāpi bodhisattassa dhātiyo ādiṃ katvā parihāraṃ upaṭṭhapento bodhisattaṃ vuddhiṃ āpādesi. Mahāsattopi vuddhippatto devo viya sampattiṃ anubhavitvā paripakke ñāṇe kāmesu ādīnavaṃ nekkhamme ca ānisaṃsaṃ disvā rāhulakumārassa jātadivase channasahāyo kaṇḍakaṃ āruyha devatāhi vivaṭena dvārena mahābhinikkhamanaṃ nikkhamitvā teneva rattibhāgena tīṇi rajjāni atikkamitvā anomānadītīre pabbajitvā ghaṭikāramahābrahmunā ābhate arahaddhaje gahitamatteyeva vassasaṭṭhikatthero viya pāsādikena iriyāpathena rājagahaṃ patvā tattha piṇḍāya caritvā paṇḍavapabbatacchāyāya piṇḍapātaṃ paribhuñjitvā raññā māgadhena rajjasiriyā nimantiyamānopi taṃ paṭikkhipitvā anukkamena uruvelaṃ gantvā ‘‘ramaṇīyo vata ayaṃ bhūmibhāgo, alaṃ vatidaṃ kulaputtassa padhānatthikassa padhānāyā’’ti padhānābhimukhaṃ cittaṃ uppādetvā tattha vāsaṃ upagato.

Còn Đại Vương Suddhodana đã sắp đặt việc chăm nom như chọn bà vú, v.v, dành cho đức Bồ Tát, và nuôi nấng Ngài trưởng thành. Còn bậc Đại Nhân, khi đã đến tuổi trưởng thành, Ngài tận hưởng sự sung sướng (của cuộc sống) giống như vị Thiên nhân. Khi trí tuệ đã chín muồi, Ngài nhận ra sự nguy hại trong các dục và thấy rõ lợi ích trong việc xuất ly. Đúng ngày Hoàng Tử Rāhula chào đời, có bạn đồng hành là Channa, Ngài cưỡi ngựa Kaṇṭhaka thực hiện cuộc ra đi vĩ đại, đi qua cánh cổng do chư Thiên mở, và  vượt qua ba vương quốc ngay trong đêm tối. Ngài xuất gia bên bờ sông Anomā, khi vừa nhận được cờ hiệu của bậc A-ra-hán do Đại Phạm Thiên Ghaṭikāra dâng cúng, Ngài trở nên uy nghi như một vị Trưởng lão 100 Hạ-lạp, rồi đến thành Rājagaha với phong thái (oai nghi) đáng kính ngưỡng. Tại đó, Ngài đã đi khất thực và thọ dụng vật thực dưới bóng mát của ngọn núi Paṇḍava. Dù được Đức Vua Magadha thỉnh mời nhường lại vương vị, nhưng Ngài đã từ chối. Sau đó, Ngài đến xứ sở Uruvelā theo tuần tự. Tại đó, Ngài đã khởi tâm hướng đến sự nỗ lực rằng: “Vùng đất này đây thật đáng mến! Nơi này thích hợp cho việc nỗ lực của người con trai gia đình cao quý, là người mong muốn sự nỗ lực,” Sau đó, Ngài đã an trú tại nơi đó.

Tena samayena itare satta brāhmaṇā yathākammaṃ gatā, sabbadaharo pana lakkhaṇapariggāhako koṇḍaññamāṇavo arogo. So ‘‘mahāpuriso pabbajito’’ti sutvā tesaṃ brāhmaṇānaṃ putte upasaṅkamitvā evamāha – ‘‘siddhatthakumāro kira pabbajito. So hi nissaṃsayaṃ buddho bhavissati. Sace tumhākaṃ pitaro arogā assu, ajja nikkhamitvā pabbajeyyuṃ. Sace tumhepi icchatha, etha mayaṃ taṃ mahāpurisamanupabbajissāmā’’ti. Te sabbe ekacchandā bhavituṃ nāsakkhiṃsu. Tayo janā na pabbajiṃsu, koṇḍaññabrāhmaṇaṃ jeṭṭhakaṃ katvā itare cattāro pabbajiṃsu. Ime pañca pabbajitvā gāmanigamarājadhānīsu bhikkhāya carantā bodhisattassa santikaṃ agamiṃsu. Te chabbassāni bodhisatte mahāpadhānaṃ padahante ‘‘idāni buddho bhavissati idāni buddho bhavissatī’’ti mahāsattaṃ upaṭṭhahamānā santikāvacarāvassa ahesuṃ. Yadā pana bodhisatto ekatilataṇḍulādīhi vītināmentopi dukkarakārikāya ariyadhammapaṭivedhassa abhāvaṃ ñatvā oḷārikaṃ āhāraṃ āhari, tadā te pakkamitvā isipatanaṃ agamaṃsu.

Lúc bấy giờ, bảy vị Bà-la-môn kia đã đi theo nghiệp tương ứng, chỉ còn lại thanh niên Bà-la-môn Koṇḍañña, là vị xem tướng trẻ tuổi hơn tất cả, là vị không có bệnh tật (khỏe mạnh). Vị ấy, sau khi nghe: “Bậc Đại Nhân đã xuất gia,” liền đi đến gặp các con trai của những vị Bà-la-môn kia, và nói như sau: “Được biết, Thái tử Siddhattha đã xuất gia, chắc chắn Ngài sẽ trở thành một vị Phật mà không phải nghi ngờ. Nếu cha của các vị không có bệnh tật (mệnh chung), hôm nay họ cũng đã xuất gia rồi. Nếu các vị cũng có ước nguyện thì hãy đến đây, chúng ta sẽ cùng xuất gia theo bậc Đại Nhân ấy.” Tuy nhiên, tất cả họ không thể có cùng chung ước nguyện được. Thế nên, ba người đã không xuất gia, và bốn người còn lại cùng với thanh niên Bà-la-môn Koṇḍañña làm người đứng đầu đã xuất gia. Năm vị này trong khi đi khất thực tại làng mạc, phố chợ và kinh thành, đã đến trú xứ của đức Bồ Tát. Các vị ấy, khi đức Bồ Tát bắt đầu thực hành sự nỗ lực lớn lao trong suốt sáu năm, đã nghĩ rằng: “Giờ đây, đức Bồ Tát sẽ trở thành Phật! Giờ đây, đức Bồ Tát sẽ trở thành Phật!” nên mới chăm sóc bậc Đại Nhân, trở thành người thường xuyên lui tới trú xứ của Ngài. Mặc khác, cho đến khi nào đức Bồ Tát, dẫu cho (Ngài) phải tự kiềm chế, chỉ sống nhờ vào duy nhất một hạt mè và một hạt gạo v.v., thì Ngài nhận ra rằng: ‘Không thể nào thấu triệt được giáo pháp của bậc Thánh bằng bằng cách thực hiện hành động khó khăn (tự hành hạ thân thể), nên Ngài đã thọ dụng vật thực loại thô; cho đến khi ấy, các vị ấy đã bỏ đi rồi đến ở Vườn Lộc Uyển Isipatana.

Atha bodhisatto oḷārikāhāraparibhogena chavimaṃsalohitapāripūriṃ katvā visākhapuṇṇamadivase sujātāya dinnaṃ varabhojanaṃ bhuñjitvā suvaṇṇapātiṃ nadiyā paṭisotaṃ khipitvā ‘‘ajja buddho bhavissāmī’’ti katasanniṭṭhāno sāyanhasamaye kālena nāgarājena anekehi thutisatehi abhitthaviyamāno mahābodhimaṇḍaṃ āruyha acalaṭṭhāne pācīnalokadhātuabhimukho pallaṅkena nisīditvā caturaṅgasamannāgataṃ vīriyaṃ adhiṭṭhāya sūriye dharamāneyeva mārabalaṃ vidhamitvā paṭhamayāme pubbenivāsaṃ anussaritvā majjhimayāme dibbacakkhuṃ visodhetvā paccūsakālasamanantare paṭiccasamuppāde ñāṇaṃ otāretvā anulomapaṭilomaṃ paccayākāravaṭṭaṃ sammasanto sabbabuddhehi paṭividdhaṃ asādhāraṇaṃ sabbaññutaññāṇaṃ paṭivijjhitvā nibbānārammaṇāya phalasamāpattiyā tattheva sattāhaṃ vītināmesi.

Sau đó, đức Bồ Tát đã thọ dụng vật thực thô, làm cho da, thịt và huyết mạch trở nên đầy đặn. Vào ngày trăng tròn tháng Visākha, Ngài đã thọ dụng món ăn hảo hạng (cháo sữa) được dâng cúng bởi nàng Sujātā. Sau đó, Ngài thả cái tô vàng trôi ngược giữa dòng sông (Nerañjarā), rồi đã có quyết định rằng: “Hôm nay, Ta sẽ thành vị Phật.” Vào lúc chiều tối, Long Vương Kāla đã khen ngợi với hàng trăm lời ca ngợi. Ngài bước lên khuôn viên cội Đại Bồ Đề, hướng mặt về phương Đông của thế giới, sau khi ngồi thế kiết già ở vị trí không lay động, rồi phát nguyện sự tinh tấn được hội đủ với bốn yếu tố. Khi mặt trời còn chưa lặn, Ngài đã chế ngự được lực lượng của Ma Vương. Vào canh đầu, Ngài đã nhớ lại các đời sống quá khứ (Túc Mạng Minh); vào canh giữa, Ngài đã thanh lọc Thiên Nhãn (Thiên Nhãn Minh); vào lúc tàn canh cuối, Ngài đã hướng tâm vào các sự sanh khởi tùy thuận, quán xét về lý duyên khởi cả chiều thuận lẫn chiều nghịch, và đã chứng đắc Tuệ Toàn Giác là trí không phổ thông[2] (đối với các vị Thinh Văn) mà chư Phật đều đã thấu suốt. Sau khi thành tựu, Ngài đã an trú ở tại nơi đó (khuôn viên cội Đại Bồ Đề) bảy ngày với sự thể nhập Thánh Quả có Niết Bàn làm đối tượng.

Eteneva upāyena sattasattāhaṃ bodhimaṇḍe viharitvā rājāyatanamūle madhupiṇḍikabhojanaṃ paribhuñjitvā puna ajapālanigrodhamūlaṃ āgantvā tattha nisinno dhammagambhīrataṃ paccavekkhitvā appossukkatāya citte namante mahābrahmunā yācito buddhacakkhunā lokaṃ volokento tikkhindriyādibhede satte disvā mahābrahmuno dhammadesanāya paṭiññaṃ datvā ‘‘kassa nu kho ahaṃ paṭhamaṃ dhammaṃ desessāmī’’ti āḷārudakānaṃ kālakatabhāvaṃ ñatvā puna cintento ‘‘bahūpakārā kho pana me pañcavaggiyā bhikkhū, ye maṃ padhānapahitattaṃ upaṭṭhahiṃsu. Yaṃnūnāhaṃ pañcavaggiyānaṃ bhikkhūnaṃ paṭhamaṃ dhammaṃ deseyya’’nti cittaṃ uppādesi. Idaṃ pana sabbameva buddhānaṃ parivitakkamattameva, ṭhapetvā pana koṇḍaññabrāhmaṇaṃ añño koci paṭhamaṃ dhammaṃ paṭivijjhituṃ samattho nāma natthi. Sopi etadatthameva kappasatasahassaṃ adhikārakammaṃ akāsi, buddhappamukhassa bhikkhusaṅghassa nava vāre aggasassadānaṃ adāsi.

Theo đúng phương thức ấy, sau khi an trú tại khuôn viên cội Bồ Đề trong bảy tuần lễ, Ngài đã thọ dụng vật thực là các cục mật ong tại gốc cây Rājāyata, rồi đã quay trở lại gốc cây Nigrodha của những người chăn dê và an tọa tại nơi đó. Ngài quán xét bản thể thâm sâu của Giáo Pháp. Khi tâm Ngài thiên về khuynh hướng không năng động (không muốn thuyết Pháp), được Đại Phạm Thiên thỉnh cầu (thuyết giảng Giáo Pháp). Trong lúc dùng Phật nhãn xem xét thế gian, Ngài thấy các chúng sanh có sự khác biệt do có quyền nhạy bén và có quyền yếu kém, v.v, rồi đã nhận lời thỉnh cầu của vị Đại Phạm Thiên để thuyết giảng Giáo Pháp, và nghĩ rằng: “Ta nên thuyết giảng Giáo Pháp cho ai trước tiên?” – Ngài biết được sự việc đã tạ thế của đạo sĩ Ālāra và đạo sĩ Uddaka. Tiếp tục suy nghĩ, Ngài đã khởi ý điều này: “Các Tỳ-khưu nhóm năm vị có nhiều công đức đối với Ta, các vị này đã phục vụ ta trong khi ta có sự nỗ lực quyết tâm, hay là ta nên nên thuyết giảng Giáo Pháp đến các Tỳ-khưu nhóm năm vị trước tiên?” Hơn nữa, tất cả những điều này chỉ là ý nghĩ suy tầm của chư Phật. Thật vậy, ngoài Bà-la-môn Koṇḍañña ra, không có ai khác là người có khả năng thấu triệt Giáo Pháp trước tiên. Bởi vì, vị ấy đã tạo lập hành động hướng thượng trong một trăm ngàn (100,000) kiếp vì chính mục đích này (để chứng ngộ Giáo Pháp đầu tiên), nên đã dâng vật thí đến 9 lần với lúa sāli tốt nhất đến Hội chúng Tỳ-khưu có Đức Phật là vị đứng đầu.

Atha satthā pattacīvaramādāya anupubbena isipatanaṃ gantvā yena pañcavaggiyā bhikkhū, tenupasaṅkami. Te tathāgataṃ āgacchantaṃ disvāva attano katikāya saṇṭhātuṃ nāsakkhiṃsu. Eko pattacīvaraṃ paṭiggahesi, eko āsanaṃ paññāpesi, eko pādodakaṃ paccupaṭṭhāpesi, eko pāde dhovi, eko tālavaṇṭaṃ gahetvā bījamāno ṭhito.

Sau đó, bậc Đạo Sư đã mang bình bát và y phục đi đến Vườn Lộc Uyển Isipatana theo tuần tự. Ngài đến gặp các Tỳ-khưu nhóm năm vị. Các vị ấy nhìn thấy đức Như Lai đang đến, đã không thể tuân theo điều thỏa thuận của họ (đã cam kết không chào đón Đức Phật). Một vị thọ nhận bình bát và y phục, một vị đã sắp đặt chỗ ngồi, một vị đã đem lại nước rửa chân, một vị rửa chân, một vị cầm quạt lá cọ đứng quạt phục vụ.

Evaṃ tesu vattaṃ dassetvā santike nisinnesu koṇḍaññattheraṃ kāyasakkhiṃ katvā satthā anuttaraṃ teparivaṭṭaṃ dhammacakkappavattanasuttantaṃ ārabhi. Manussaparisā pañca janāva ahesuṃ, devaparisā aparicchinnā. Desanāpariyosāne koṇḍaññatthero aṭṭhārasahi mahābrahmakoṭīhi saddhiṃ sotāpattiphale patiṭṭhito. Atha satthā ‘‘mayā dukkarasatābhataṃ dhammaṃ paṭhamameva aññāsīti aññāsikoṇḍañño nāma aya’’nti theraṃ ālapanto ‘‘aññāsi vata, bho, koṇḍañño, aññāsi vata, bho, koṇḍañño’’ti āha. Tassa tadeva nāmaṃ jātaṃ. Tena vuttaṃ – ‘‘iti hidaṃ āyasmato koṇḍaññassa aññāsikoṇḍaññotveva nāmaṃ ahosī’’ti.

Sau khi các Tỳ-khưu nhóm năm vị đó đã làm các bổn phận, rồi ngồi ở chỗ kế cận, bậc Đạo Sư đã làm cho Trưởng lão Koṇḍañña trở thành bậc thân chứng và bắt đầu thuyết giảng bài Kinh Vận Chuyển Bánh Xe Pháp về ba Luân (vòng xoay) vô thượng. Tập thể loài Người cũng chỉ có năm vị (tức là các Tỳ-khưu nhóm năm vị), tập thể chư Thiên thì không thể xác định. Khi bài thuyết giảng chấm dứt, Trưởng lão Koṇḍañña cùng với mười tám koṭi Đại Phạm Thiên đã an trú vào Thánh Quả Nhập lưu. Lúc đó, bậc Đạo Sư nghĩ rằng: “Koṇḍañña đã hiểu được Giáo Pháp mà ta đã chứng đắc bằng việc thực hiện hành động khó thực hành, trước tất cả mọi người, khi gọi Trưởng lão rằng: ‘Vị Tỳ-khưu Aññāsikoṇḍañña’ mới nói rằng:Quả nhiên Koṇḍañña đã hiểu được! Quả nhiên Koṇḍañña đã hiểu được!’” Chính lời nói ấy đã trở thành tên gọi của Ngài. Vì thế, mới nới rằng: “Như vậy, Đại đức Trưởng lão Koṇḍañña đã được gọi tên là Aññāsikoṇḍañña.”

Iti thero āsāḷhipuṇṇamāyaṃ sotāpattiphale patiṭṭhito, pāṭipadadivase bhaddiyatthero, dutiyapakkhadivase vappatthero, tatiyapakkhadivase mahānāmatthero, pakkhassa catutthiyaṃ assajitthero sotāpattiphale patiṭṭhito. Pañcamiyā pana pakkhassa anattalakkhaṇasuttantadesanāpariyosāne sabbepi arahatte patiṭṭhitā.

Như vậy, vị Trưởng lão Aññāsikoṇḍañña đã an trú trong Thánh Quả Nhập lưu vào ngày trăng tròn tháng Āsāḷha (ngày rằm tháng 8); Trưởng lão Bhaddiya vào ngày thứ nhất của kỳ trăng, Trưởng lão Vappa vào ngày thứ hai của kỳ trăng, Trưởng lão Vappa vào ngày thứ ba của kỳ trăng, và vào ngày thứ tư của kỳ trăng Trưởng lão Assaji đã an trú trong Thánh Quả Nhập lưu. Hơn nữa, vào ngày thứ năm của kỳ trăng khi kết thúc bài Kinh Vô Ngã Tướng thì tất cả các vị đều đã an trú vào phẩm vị A-ra-hán.

Tena kho pana samayena cha loke arahanto honti. Tato paṭṭhāya satthā yasadārakappamukhe pañcapaññāsa purise, kappāsiyavanasaṇḍe tiṃsamatte bhaddavaggiye, gayāsīse piṭṭhipāsāṇe sahassamatte purāṇajaṭileti evaṃ mahājanaṃ ariyabhūmiṃ otāretvā bimbisārappamukhāni ekādasanahutāni sotāpattiphale, ekaṃ nahutaṃ saraṇattaye patiṭṭhāpetvā jambudīpatale sāsanaṃ pupphitaphalitaṃ katvā sakalajambudīpamaṇḍalaṃ kāsāvapajjotaṃ isivātapaṭivātaṃ karonto ekasmiṃ samaye jetavanamahāvihāraṃ patvā tattha vasanto bhikkhusaṅghamajjhe paññattavarabuddhāsanagato dhammaṃ desento ‘‘paṭhamaṃ dhammaṃ paṭividdhabhikkhūnaṃ antare mama putto koṇḍañño aggo’’ti dassetuṃ etadaggaṭṭhāne ṭhapesi.

Vào lúc bấy giờ, đã có sáu vị A-ra-hán hiện diện ở thế gian. Kể từ đó, bậc Đạo Sư dẫn dắt đại chúng tiến vào địa phận của các bậc Thánh nhân như sau— năm mươi lăm thanh niên có thanh niên Yasa là người dẫn đầu; ba mươi thanh niên nhóm Bhadda ở tại khu rừng rậm Kappāsiya; một ngàn vị đạo sĩ tóc bện tại tảng đá bằng phẳng ở đỉnh núi Gayā (sau khi nghe bài Kinh Lửa Cháy đã chứng đạt phẩm vị A-ra-hán); và một trăm mười ngàn (110,000) tùy tùng của Đức Vua Bimbisāra có Đức Vua Bimbisāra là người đứng đầu đã an trú vào Thánh Quả Nhập lưu. Ngoài ra, mười ngàn người khác đã an trú vào ba sự nương nhờ (quy y Tam Bảo). Ngài đã làm cho Phật Giáo đơm hoa kết trái trên mảnh đất Jambudīpa, khiến toàn bộ cõi Jambudīpa trở nên rực rỡ với màu y ca-sa và đông đảo những người tầm cầu phước báu. Một thuở nọ, Đức Phật đến Đại Tinh Xá Jetavana, trong khi an trú tại nơi đó, Ngài ngự trên Phật tòatối thắng đã được chuẩn bị sẵn, thuyết giảng Giáo Pháp giữa Hội chúng Tỳ-khưu để tuyên bố rằng: “Trong số các Tỳ-khưu, vị đã thấu triệt Giáo Pháp trước tiên, Koṇḍañña, con trai của Ta là tối thắng,” rồi đã thiết lập Ngài vào vị thế tối thắng.

Theropi dve aggasāvake attano nipaccakāraṃ karonte disvā buddhānaṃ santikā apakkamitukāmo hutvā ‘‘puṇṇamāṇavo pabbajitvā sāsane aggadhammakathiko bhavissatī’’ti disvā doṇavatthubrāhmaṇagāmaṃ gantvā attano bhāgineyyaṃ puṇṇamāṇavaṃ pabbājetvā ‘‘ayaṃ buddhānaṃ santike vasissatī’’ti tassa buddhānaṃ antevāsikabhāvaṃ katvā sayaṃ dasabalaṃ upasaṅkamitvā ‘‘bhagavā mayhaṃ gāmantasenāsanaṃ asappāyaṃ, ākiṇṇo viharituṃ na sakkomi, chaddantadahaṃ gantvā vasissāmī’’ti bhagavantaṃ anujānāpetvā uṭṭhāyāsanā satthāraṃ vanditvā chaddantadahaṃ gantvā chaddantahatthikulaṃ nissāya dvādasa vassāni vītināmetvā tattheva anupādisesāya nibbānadhātuyā parinibbāyi.

Ngay cả Trưởng lão, sau khi thấy hai vị đệ nhất Thinh Văn (Trưởng lão Sāriputta và Trưởng lão Moggallāna) thể hiện sự khiêm cung đối với mình, Ngài có ý muốn rời khỏi từ trú xứ của chư Phật. Ngài thấy rằng: “Thanh niên Puṇṇa sau khi xuất gia sẽ trở thành vị thuyết giảng Giáo Pháp tối thượng trong Giáo Pháp, nên Ngài đã quay về làng Bà-la-môn Doṇavatthu (quê hương của Ngài). Ngài đã cho thanh niên Puṇṇa là cháu trai của Ngài xuất gia, Ngài nghĩ rằng: “Thanh niên Puṇṇa này sẽ sống trong sự hiện diện của Đức Phật,” vì thế Ngài đã đưa thanh niên Puṇṇa đến trong sự hiện diện của chư Phật. Bản thân Ngài, sau khi đến yết kiến đấng Thập Lực đã xin phép đức Thế Tôn rằng: “Bạch Đức Thế Tôn, trú xứ gần xóm làng không phù hợp đối với con. Con không thể sống nơi đông đúc. Sau khi đi đến hồ Chaddanta con sẽ sống (tại đấy),” rồi từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ bậc Đạo Sư, đi đến hồ Chaddanta, sống nương tựa đàn voi thuộc dòng Chaddanta và đã trải qua 12 năm ở tại nơi đó. Cuối cùng, Ngài đã viên tịch Niết Bàn trong cảnh giới Niết Bàn không còn dư sót.

Câu chuyện của Trưởng lão Sāriputta và Trưởng lão Moggallāna

189-190. Dutiyatatiyesu mahāpaññānanti mahatiyā paññāya samannāgatānaṃ. Iddhimantānanti iddhiyā sampannānaṃ. Sāriputto moggallānoti tesaṃ therānaṃ nāmaṃ.

189-190. Trong bài Kinh thứ hai, trí tuệ vĩ đại: vị hội đủ với tuệ vĩ đại. Vị có thần thông: vị thành tựu về thần thông. Trưởng lão Sāriputta (và) Trưởng lão Moggallāna: Là tên của hai vị Trưởng lão.

Imesampi pañhakamme ayamanupubbikathā – ito satasahassakappādhike asaṅkhyeyyakappamatthake sāriputto brāhmaṇamahāsālakule nibbatti, nāmena saradamāṇavo nāma ahosi. Moggallāno gahapatimahāsālakule nibbatti, nāmena sirivaḍḍhanakuṭumbiyo nāma ahosi. Te ubhopi sahapaṃsukīḷitāva sahāyakā ahesuṃ.  Saradamāṇavo pitu accayena kulasantakaṃ mahādhanaṃ paṭipajjitvā ekadivasaṃ rahogato cintesi – ‘‘ahaṃ idhalokattabhāvameva jānāmi, no paralokattabhāvaṃ, jātasattānañca maraṇaṃ nāma dhuvaṃ, mayā ekaṃ pabbajjaṃ pabbajitvā mokkhadhammagavesanaṃ kātuṃ vaṭṭatī’’ti. So sahāyakaṃ upasaṅkamitvā āha – ‘‘samma sirivaḍḍhana, ahaṃ pabbajitvā mokkhadhammaṃ gavesissāmi, tvaṃ mayā saddhiṃ pabbajituṃ sakkhissasī’’ti. Na sakkhissāmi , samma, tvaṃyeva pabbajāhīti. So cintesi – ‘‘paralokaṃ gacchantā sahāye vā ñātimitte vā gahetvā gatā nāma natthi, attanā kataṃ attanova hotī’’ti. Tato ratanakoṭṭhāgāraṃ vivarāpetvā kapaṇaddhikavaṇibbakayācakānaṃ mahādānaṃ datvā pabbatapādaṃ pavisitvā isipabbajjaṃ pabbaji. Tassa eko dve tayoti evaṃ anupabbajjaṃ pabbajitā catusattatisahassamattā jaṭilā ahesuṃ. So pañcābhiññā aṭṭha ca samāpattiyo nibbattetvā tesampi jaṭilānaṃ kasiṇaparikammaṃ ācikkhi. Tepi sabbe pañca abhiññā aṭṭha ca samāpattiyo nibbattesuṃ.

Về các vấn đề liên quan đến nghiệp lực của cả hai vị Trưởng lão này, có câu chuyện sẽ được kể theo thứ tự như sau— Vào khoảng thời gian một a-tăng-kỳ cùng với một trăm ngàn kiếp tính từ kiếp này (tức là 1 a-tăng-kỳ và 100.000 kiếp trước), Ngài Sāriputta đã tái sanh trong một gia tộc giàu có thuộc dòng dõi Bà-la-môn, đã có tên là thanh niên Sarada. Ngài Moggallāna tái sanh trong một gia tộc giàu có của gia chủ, đã có tên là cậu gia chủ Sirivaḍḍha. Cả hai vị là bạn chơi với nhau từ thuở bé. Khi cha qua đời, thanh niên Sarada đã thừa hưởng khối tài sản lớn của gia đình. Một ngày nọ, ở nơi thanh vắng (thanh niên Sarada) đã khởi lên suy nghĩ rằng: “Ta không biết tình trạng bản thân ở đời này, và cũng không biết tình trạng bản thân ở đời sau, và sự chết là điều chắc chắn cho tất cả chúng sinh đã sanh ra, thích hợp để Ta xuất gia rồi thực hiện việc tầm cầu Pháp Giải Thoát (Niết Bàn).” Chàng đã đi đến gặp người bạn thuở bé, rồi nói— “Này bạn Sirivaḍḍhana, Tôi sẽ xuất gia để tầm cầu Pháp Giải Thoát, bạn sẽ xuất gia cùng với tôi chứ?” – Cậu gia chủ Sirivaḍḍha trả lời rằng: “Này bạn, tôi không thể, bạn hãy xuất gia một mình đi.” Thanh niên Sarada nghĩ: “Con người khi đi đến thế giới bên kia, (thì) họ sẽ không thể mang theo bạn bè hay người thân, chỉ có nghiệp lực do bản thân đã tạo mới chính là tài sản của riêng mình.” Từ đó, chàng đã cho mở kho châu báu, thực hiện lễ đại thí cho những người nghèo khổ, những người đi đường xa, những người hành khất và những người ăn xin, rồi xuất gia theo đời sống xuất gia của vị ẩn sĩ. Có những người lần lượt xuất gia theo Ngài như sau: “Một người, hai người, ba người,… dần dần trở thành một nhóm đạo sĩ tóc bện với số lượng khoảng 74,000 vị.” Ngài đã làm sanh khởi năm pháp thần thông và tám sự chứng đắc (tám thiền chứng), rồi chỉ dạy lại đề mục thiền định kasiṇa cho các vị đạo sĩ tóc bện ấy. Và chính các vị ấy cũng làm sanh khởi năm pháp thần thông và tám sự chứng đắc.

Tena samayena anomadassī nāma buddho loke udapādi. Nagaraṃ candavatī nāma ahosi, pitā yasavanto nāma khattiyo, mātā yasodharā nāma devī, bodhi ajjunarukkho, nisabhatthero ca anomatthero cāti dve aggasāvakā, varuṇatthero nāma upaṭṭhāko, sundarā ca sumanā cāti dve aggasāvikā, āyu vassasatasahassaṃ ahosi, sarīraṃ aṭṭhapaññāsahatthubbedhaṃ, sarīrappabhā dvādasayojanaṃ phari, bhikkhusatasahassaparivāro ahosi.

Lúc bấy giờ, Đức Phật có tên là Anomadassī đã xuất hiện ở thế gian. Kinh thành có tên là Candavatī, cha là Sát-đế-lỵ tên là Yasavanta, mẹ là Hoàng Hậu tên là Yasodharā. Cây Bồ Đề tên là Ajjuna. Hai vị Thinh Văn đệ nhất là Trưởng lão Nisabha và Trưởng lão Anoma. Vị thị giả tên là Trưởng lão Varuṇa. Hai vị nữ Thinh Văn đệ nhất là Sundarā và Sumanā. Có tuổi thọ là một trăm ngàn năm. Thân hình cao năm mươi bốn cánh tay. Hào quang từ kim thân lan tỏa mười hai do-tuần. Có Hội chúng Tỳ-khưu là một trăm ngàn vị.

Athekadivasaṃ paccūsakāle mahākaruṇāsamāpattito vuṭṭhāya lokaṃ volokento saradatāpasaṃ disvā ‘‘ajja mayhaṃ saradatāpasassa santikaṃ gatapaccayena dhammadesanā ca mahatī bhavissati, so ca aggasāvakaṭṭhānaṃ patthessati, tassa sahāyako sirivaḍḍhanakuṭumbiyo dutiyasāvakaṭṭhānaṃ, desanāpariyosāne cassa parivārā catusattatisahassajaṭilā arahattaṃ pāpuṇissanti, mayā tattha gantuṃ vaṭṭatī’’ti attano pattacīvaramādāya aññaṃ kañci anāmantetvā sīho viya ekacaro hutvā saradatāpasassa antevāsikesu phalāphalatthāya gatesu ‘‘buddhabhāvaṃ me jānātū’’ti tassa passantasseva saradatāpasassa ākāsato otaritvā pathaviyaṃ patiṭṭhāsi. Saradatāpaso buddhānubhāvaṃ ceva sarīrasampattiṃ cassa disvā lakkhaṇamante sammasitvā ‘‘imehi lakkhaṇehi samannāgato nāma agāramajjhe vasanto rājā hoti cakkavattī, pabbajjanto loke vivaṭṭacchado sabbaññu buddho hoti, ayaṃ puriso nissaṃsayaṃ buddho’’ti jānitvā paccuggamanaṃ katvā pañcapatiṭṭhitena vanditvā āsanaṃ paññāpetvā adāsi. Nisīdi bhagavā paññattāsane. Saradatāpasopi attano anucchavikaṃ āsanaṃ gahetvā ekamantaṃ nisīdi.

Sau đó, vào một ngày nọ, lúc trời hừng sáng, Đức Phật Anomadassī xuất khỏi Đại Bi Định, trong khi quán xét thế gian, Ngài đã thấy đạo sĩ Sarada, và nghĩ rằng: “Hôm nay, do Ta đi đến gặp đạo sĩ Sarada làm nhân duyên, sẽ có một bài pháp thoại lớn, và vị ấy sẽ thệ nguyện vị thế vị Thinh Văn đệ nhất. Cậu gia chủ Sirivaḍḍha, bạn của vị ấy sẽ thệ nguyện vị thế vị Thinh Văn đệ nhất thứ hai. Khi bài thuyết giảng kết thúc, bảy mươi bốn ngàn (74,000) vị đạo sĩ tóc bện là tùy tùng của vị ấy sẽ đạt được quả vị A-ra-hán. Thật xứng đáng để Ta nên đi đến nơi đó.” Nghĩ vậy, Ngài mang bình bát và y phục của mình, không gọi vị nào khác, một mình bước đi (oai nghi) tựa như sư tử chúa. Khi các đệ tử của đạo sĩ Sarada ra ngoài tìm kiếm hoa quả, Đức Phật đã phát nguyện rằng: “Mong cho đạo sĩ Sarada hãy biết được Ta chính là Đức Phật.” Ngài hạ xuống từ trên hư trung, đứng trên mặt đất khi đạo sĩ Sarada đang quan sát. Đạo sĩ Sarada đã thấy được thần lực của Đức Phật và sự toàn hảo của thân tướng của Ngài, liền quan sát kỹ lưỡng theo thuật xem tướng và đã biết rằng: “Thông thường, người hội đủ với các tướng này, nếu sống đời sống gia đình thì chắc chắn sẽ trở thành vị Chuyển Luân Thánh Vương; còn nếu xuất gia thì sẽ là Đức Phật Toàn Giác, bậc có màn che đã được vén lên hoàn toàn ở thế gian, người đàn ông này chính là Đức Phật không cần phải nghi ngờ,” vị ấy đi ra tiếp đón, đảnh lễ với năm phần thân thể chạm đất, rồi trải tọa cụ để cúng dường. Đức Thế Tôn ngồi lên tọa cụ đã được trải sẵn. Đạo sĩ Sarada cũng lấy tọa cụ phù hợp cho mình, và ngồi xuống một bên.

Tasmiṃ samaye catusattatisahassajaṭilā paṇītapaṇītāni ojavantāni phalāphalāni gahetvā ācariyassa santikaṃ sampattā buddhānañceva ācariyassa ca nisinnāsanaṃ oloketvā āhaṃsu – ‘‘ācariya, mayaṃ ‘imasmiṃ loke tumhehi mahantataro natthī’ti vicarāma, ayaṃ pana puriso tumhehi mahantataro maññe’’ti. Tātā, kiṃ vadatha? Sāsapena saddhiṃ aṭṭhasaṭṭhiyojanasatasahassubbedhaṃ sineruṃ samaṃ kātuṃ icchatha, sabbaññubuddhena saddhiṃ mayhaṃ upamaṃ mā karittha puttakāti. Atha te tāpasā ‘‘sace ayaṃ ittarasatto abhavissa, na amhākaṃ ācariyo evarūpaṃ upamaṃ āhareyya, yāva mahā vatāyaṃ puriso’’ti sabbeva pādesu nipatitvā sirasā vandiṃsu.

Vào lúc ấy, bảy mươi bốn ngàn đạo sĩ tóc bện mang theo những loại hoa quả lớn nhỏ giàu dinh dưỡng, và thơm ngon nhất đến trước mặt vị thầy. Họ nhìn thấy tọa cụ mà Đức Phật và thầy đang ngồi, liền nói: “Thưa thầy, chúng con đi khắp nơi đều nghĩ rằng: ‘Trong đời này không có ai là vĩ đại hơn thầy, nhưng người đàn ông này dường như còn vĩ đại hơn thầy.’” – Đạo sĩ Sarada đáp: “Này các trò, các con đang nói điều gì vậy? Các con định so sánh ngọn núi Sineru cao sáu triệu do-tuần với một hạt cải hay sao?” Này các trò, các con chớ đem ta so với Đức Phật Toàn Giác. Khi ấy, các vị ấy nghĩ: “Nếu người đàn ông này là một kẻ tầm thường, thì thầy của chúng ta chắc chắn sẽ không đem ra để so sánh như thế. Thật sự, người đàn ông này hẳn phải là bậc vĩ đại,” toàn bộ tất cả đều quỳ xuống sát ở chân Đức Phật, đê đầu đảnh lễ.

Atha ne ācariyo āha – ‘‘tātā, amhākaṃ buddhānaṃ anucchaviko deyyadhammo natthi, satthā ca bhikkhācāravelāya idhāgato, mayaṃ yathābalaṃ deyyadhammaṃ dassāma. Tumhe yaṃ yaṃ paṇītaṃ phalāphalaṃ, taṃ taṃ āharathā’’ti. Āharāpetvā hatthe dhovitvā sayaṃ tathāgatassa patte patiṭṭhāpesi. Satthārā ca phalāphale paṭiggahitamatte devatā dibbojaṃ pakkhipiṃsu. Tāpaso udakampi sayameva parissāvetvā adāsi. Tato bhattakiccaṃ niṭṭhāpetvā hatthaṃ dhovitvā nisinne satthari sabbe antevāsike pakkositvā satthu santike sāraṇīyaṃ kathaṃ kathento nisīdi. Satthā ‘‘dve aggasāvakā bhikkhusaṅghena saddhiṃ āgacchantū’’ti cintesi. Te satthu cittaṃ ñatvā satasahassakhīṇāsavaparivārā āgantvā satthāraṃ vanditvā ekamantaṃ aṭṭhaṃsu.

Sau đó, vị thầy đã nói với các vị đạo sĩ tóc bện rằng: “Này các trò, chúng ta không có phẩm vật cúng dường nào xứng đáng với Đức Phật. Bậc Đạo Sư đã đến chỗ này trong lúc khất thực. Chúng ta sẽ dâng vật phẩm cúng dường tùy theo khả năng. Các trò có những loại hoa quả lớn nhỏ nào thơm ngon nhất, thì hãy mang đến những loại hoa quả đó.” Sau khi cho mang đến, (vị thầy) đã rửa sạch đôi tay và tự tay đặt vào bình bát của đức Như Lai. Khi bậc Đạo Sư vừa thọ nhận hoa quả, chư Thiên đã bỏ thêm vào dưỡng chất của cõi Trời (làm cho món ăn trở nên tuyệt hảo). Vị đạo sĩ cũng đã tự mình lược nước để cúng dường. Sau đó, khi bậc Đạo Sư ngồi xuống, sau khi hoàn tất phận sự về thọ thực, đã rửa đôi tay; vị đạo sĩ đã gọi tất cả các đệ tử đến, ngồi nói những lời nói làm cho hoan hỷ trong sự hiện diện của bậc Đạo Sư. Bậc Đạo Sư khởi ý rằng: “Mong hai vị Thinh Văn tối thắng hãy đến cùng với Hội chúng Tỳ-khưu.” Hai vị ấy biết được tâm tư của bậc Đạo Sư: “Cùng với một trăm ngàn vị Lậu Tận tháp tùng đã đi đến đảnh lễ bậc Đạo Sư rồi đứng ở một bên.”

Tato saradatāpaso antevāsike āmantesi – ‘‘tātā, buddhānaṃ nisinnāsanampi nīcaṃ, samaṇasatasahassānampi āsanaṃ natthi, tumhehi ajja uḷāraṃ buddhasakkāraṃ kātuṃ vaṭṭati, pabbatapādato vaṇṇagandhasampannāni pupphāni āharathā’’ti. Kathanakālo papañco viya hoti, iddhimantānaṃ pana visayo acinteyyoti muhuttamatteneva te tāpasā vaṇṇagandhasampannāni pupphāni āharitvā buddhānaṃ yojanappamāṇaṃ pupphāsanaṃ paññāpesuṃ, ubhinnaṃ aggasāvakānaṃ tigāvutaṃ, sesabhikkhūnaṃ aḍḍhayojanikādibhedaṃ, saṅghanavakassa usabhamattaṃ ahosi. Evaṃ paññattesu āsanesu saradatāpaso tathāgatassa purato añjaliṃ paggahetvā ṭhito, ‘‘bhante, mayhaṃ dīgharattaṃ hitasukhatthāya imaṃ pupphāsanaṃ abhiruhathā’’ti āha.

‘‘Nānāpupphañca gandhañca, sampādetvāna ekato;
Pupphāsanaṃ paññāpetvā, idaṃ vacanamabraviṃ.

‘‘Idaṃ te āsanaṃ vīra, paññattaṃ tavanucchaviṃ;
Mama cittaṃ pasādento, nisīda pupphamāsane.

‘‘Sattarattidivaṃ buddho, nisīdi pupphamāsane;
Mama cittaṃ pasādetvā, hāsayitvā sadevake’’ti.

Sau đó, Đạo sĩ Sarada đã gọi các đệ tử đến rồi nói rằng: “Này các trò, chỗ ngồi mà Đức Phật đang ngồi thì thấp, và chỗ ngồi cho một trăm ngàn vị Sa-môn cũng không có. Hôm nay, thích hợp để các trò thực hiện sự tôn kính đến Phật một cách cao thượng. Các trò hãy mang những bông hoa đầy đủ màu sắc và hương thơm từ dưới chân núi đến đây.” Thời gian nói có vẻ như chậm chạp, nhưng với phạm vi thần thông không thể nghĩ bàn của các vị đạo sĩ tóc bện đó, họ đã mang những bông hoa với đầy đủ màu sắc và hương thơm chỉ trong chốc lát. Trang trí chỗ ngồi bằng những bông hoa khoảng một do-tuần dành cho Đức Phật, hai vị Thinh Văn tối thắng là ba gāvuta, các vị Tỳ-khưu còn lại, mỗi vị nửa do-tuần; còn vị tân Tỳ-khưu trong Hội chúng khoảng một usabha. Khi việc trang trí chỗ ngồi đã hoàn tất, đạo sĩ Sarada đứng chắp tay trước mặt đức Như Lai, rồi cung kính thưa rằng: “Bạch đức Thế Tôn, xin Ngài thương xót bước lên chỗ ngồi bằng những bông hoa này để mang lại sự lợi ích và sự an lạc lâu dài cho chúng con.” (Sau khi nói như vậy, vị ấy đã đọc lên bài kệ này) —

Tôi đã gom lại nhiều loại hoa và hương thơm, để trang trí chỗ ngồi bằng những bông hoa, rồi nói những lời này—

“Bạch đấng Đại Hùng, chỗ ngồi này đã được chúng con chuẩn bị là thích hợp đối với Ngài, trong lúc làm cho tâm chúng con được tịnh tín, cúi xin Ngài hãy ngồi trên chỗ ngồi bằng bông hoa này.

“Đức Phật đã ngồi trên chỗ ngồi bằng bông hoa suốt bảy ngày bảy đêm. Ngài đã khiến tâm của chúng con được tịnh tín, làm cho thế gian cùng với chư Thiên đều vui mừng.

Evaṃ nisinne satthari dve aggasāvakā ca sesabhikkhū ca attano attano pattāsanesu nisīdiṃsu. Saradatāpaso mahantaṃ pupphacchattaṃ gahetvā tathāgatassa matthake dhārayanto aṭṭhāsi. Satthā ‘‘jaṭilānaṃ ayaṃ sakkāro mahapphalo hotū’’ti nirodhasamāpattiṃ samāpajji. Satthu samāpannabhāvaṃ ñatvā dve aggasāvakāpi sesabhikkhūpi samāpattiṃ samāpajjiṃsu. Tathāgate sattāhaṃ nirodhasamāpattiṃ samāpajjitvā nisinne antevāsikā bhikkhācārakāle sampatte vanamūlaphalāphalaṃ paribhuñjitvā sesakāle buddhānaṃ añjaliṃ paggayha tiṭṭhanti. Saradatāpaso pana bhikkhācārampi agantvā pupphacchattaṃ gahitaniyāmeneva sattāhaṃ pītisukhena vītināmesi.

Khi bậc Đạo Sư ngồi như vậy, hai vị Thinh Văn tối thắng cùng với các vị Tỳ‑khưu còn lại cũng ngồi trên chỗ ngồi riêng của mỗi vị. Đạo sĩ Sarada đã cầm lấy chiếc lọng che bằng bông hoa lớn, đứng che phía trên đỉnh đầu của đức Như Lai. Bậc Đạo Sư đã thể nhập Thiền Diệt với ý nghĩ rằng: “Sự tôn kính này hãy có kết quả lớn cho các vị đạo sĩ tóc bện.” Hai vị Thinh Văn tối thắng cũng như các Tỳ‑khưu khác, biết được trạng thái đang thể nhập của bậc Đạo Sư, thì (tất cả các vị ấy) cũng cùng nhau nhập định. Đức Như Lai đã ngồi trong sự thể nhập Thiền Diệt suốt bảy ngày. Các đệ tử, khi đến giờ đi khất thực, đã thọ dụng các loại hoa quả, rễ cây rừng; trong thời gian còn lại, họ đứng chắp tay cung kính Đức Phật. Riêng đạo sĩ Sarada, ngay cả khi đến giờ đi khất thực cũng không đi, mà vẫn ở lại, an trú trong niềm hỷ lạc suốt bảy ngày, vẫn giữ tư thế cầm chiếc lọng che bằng bông hoa che (phía trên đỉnh đầu của Đức Phật).

Satthā nirodhato vuṭṭhāya dakkhiṇapasse nisinnaṃ aggasāvakaṃ nisabhattheraṃ āmantesi – ‘‘nisabha sakkārakārakānaṃ tāpasānaṃ pupphāsanānumodanaṃ karohī’’ti. Thero cakkavattirañño santikā paṭiladdhamahālābho mahāyodho viya tuṭṭhamānaso sāvakapāramiñāṇe ṭhatvā pupphāsanānumodanaṃ ārabhi. Tassa desanāvasāne dutiyasāvakaṃ āmantesi – ‘‘tvampi dhammaṃ desehī’’ti. Anomatthero tepiṭakaṃ buddhavacanaṃ sammasitvā dhammaṃ kathesi. Dvinnaṃ sāvakānaṃ desanāya ekassapi abhisamayo nāhosi. Atha satthā aparimāṇe buddhavisaye ṭhatvā dhammadesanaṃ ārabhi. Desanāpariyosāne ṭhapetvā saradatāpasaṃ sabbepi catusattatisahassajaṭilā arahattaṃ pāpuṇiṃsu. Satthā ‘‘etha bhikkhavo’’ti hatthaṃ pasāresi. Tesaṃ tāvadeva kesamassu antaradhāyi, aṭṭha parikkhārā kāye paṭimukkāva ahesuṃ.

Bậc Đạo Sư xuất khỏi sự thể nhập Thiền Diệt, đã gọi Trưởng lão Nisabha là Thinh Văn tối thắng (thứ nhất) đang ngồi bên phải rồi nói rằng— “Này Nisabha, con hãy thể hiện sự tùy hỷ liên quan đến việc cúng dường chỗ ngồi bằng bông hoa của các vị đạo sĩ, người đã thực hiện sự tôn kính.” – Trưởng lão hoan hỷ như một đại dũng sĩ nhận được phần thưởng lớn từ đức Chuyển Luân Vương, sau khi an trú trong trí toàn hảo của bậc Thinh Văn, Ngài bắt đầu bày tỏ sự tùy hỷ về việc cúng dường chỗ ngồi bằng bông hoa. Khi chấm dứt bài giảng của vị Thinh Văn tối thắng ấy, (bậc Đạo Sư) đã gọi vị Thinh Văn tối thắng thứ hai, và nói rằng— “Này Tỳ-khưu, cả con cũng hãy thuyết giảng Giáo Pháp.” Trưởng lão Anoma đã nắm bắt được Tam Tạng là những lời dạy của Đức Phật và thuyết giảng Giáo Pháp. Tuy nhiên, qua bài thuyết Pháp của hai vị Thành Văn tối thắng, thì đã không có dầu chỉ một vị có được sự lãnh hội. Khi ấy, bậc Đạo Sư an trú vào phạm vi của vi Phật vốn không thể đo lường được và bắt đầu bài thuyết Pháp. Khi kết thúc bài thuyết Pháp, toàn bộ tất cả bảy mươi bốn ngàn vị đạo sĩ tóc bện đều đạt đến phẩm vị A-ra-hán. Bậc Đạo Sư duỗi cánh tay và nói: “Này các Tỳ-khưu, hãy đến đây!” Ngay khoảnh khắc ấy, tóc và râu của họ đã biến mất, và tám món vật dụng thiết yếu tức thì (hiện ra) đã được mặc vào và gắn liền ở thân.

Saradatāpaso kasmā arahattaṃ na pattoti? Vikkhittacittattā. Tassa kira buddhānaṃ dutiyāsane nisīditvā sāvakapāramiñāṇe ṭhatvā dhammaṃ desayato aggasāvakassa desanaṃ sotuṃ āraddhakālato paṭṭhāya ‘‘aho vatāhampi anāgate uppajjanakassa buddhassa sāsane imināva sāvakena laddhadhuraṃ labheyya’’nti cittaṃ udapādi. So tena parivitakkena maggaphalapaṭivedhaṃ kātuṃ nāsakkhi. Tathāgataṃ pana vanditvā sammukhe ṭhatvā āha – ‘‘bhante, tumhākaṃ anantarāsane nisinno bhikkhu tumhākaṃ sāsane ko nāma hotī’’ti? Mayā pavattitaṃ dhammacakkaṃ anuppavattetā sāvakapāramiñāṇassa koṭippatto soḷasa paññā paṭivijjhitvā ṭhito mayhaṃ sāsane aggasāvako nisabhatthero nāma esoti. ‘‘Bhante, yvāyaṃ mayā sattāhaṃ pupphacchattaṃ dhārentena sakkāro kato, ahaṃ imassa phalena aññaṃ sakkattaṃ vā brahmattaṃ vā na patthemi, anāgate pana ayaṃ nisabhatthero viya ekassa buddhassa aggasāvako bhaveyya’’nti patthanaṃ akāsi.

Tại sao, đạo sĩ Sarada không đạt được quả vị A-ra-hán? Bởi vì vị ấy có trạng thái tấm xao lãng. Nghe rằng: Kể từ thời điểm bắt đầu lắng nghe thuyết giảng Giáo Pháp của vị Thinh Văn tối thắng đang ngồi trên chỗ ngồi thứ hai của Đức Phật, vị đã an trú trong trí toàn hảo của bậc Thinh Văn và thuyết giảng Giáo Pháp, đạo sĩ Sarada đã khởi lên ý nghĩ: “Ôi! mong sao cả ta cũng có thể có được phận sự như vị Thinh Văn này đã đạt được trong Giáo Pháp của Đức Phật sẽ hiện khởi ở thời vị lai.” Chính vì ý nghĩ suy tầm ấy mà đạo sĩ Sarada không thể thấu triệt Đạo và Quả. Nhưng sau khi đảnh lễ đức Như Lai, vị ấy đã đứng trước mặt Ngài, rồi thưa rằng– “Bạch Ngài, vị Tỳ-khưu đang ngồi trên chỗ ngồi liền kề với Ngài tên là gì trong Giáo Pháp của Ngài?” – Bậc Đạo Sư đáp: “Vị Tỳ-khưu này đã vận chuyển Bánh Xe Pháp đã được Ta vận chuyển, đã đạt đến tột đỉnh của trí toàn hảo của bậc Thinh Văn, và đã thấu triệt mười sáu loại tuệ[3], vị này là Trưởng lão Nisabha, là vị Thinh Văn tối thắng trong Giáo Pháp của Ta.” – Đạo sĩ Sarada (sau khi nghe xong), liền thực hiện lời thệ nguyện rằng: “Bạch Ngài, sự tôn kính mà con đã thực hiện bằng việc cầm chiếc lọng che bằng bông hoa trong suốt 7 ngày, với quả báo của sự tôn kính ấy, con không mong muốn trở thành Vua Trời Sakka hay Phạm Thiên. Nhưng trong thời vị lai, nguyện cho con được trở thành vị Thinh Văn tối thắng của một vị Phật (xuất hiện trong tương lai), giống như Trưởng lão Nisabha này.”

Satthā ‘‘samijjhissati nu kho imassa purisassa patthanā’’ti anāgataṃsañāṇaṃ pesetvā olokento kappasatasahassādhikaṃ asaṅkhyeyyaṃ atikkamitvā samijjhanabhāvaṃ addasa. Disvā saradatāpasaṃ āha – ‘‘na te ayaṃ patthanā moghā bhavissati, anāgate pana kappasatasahassādhikaṃ asaṅkhyeyyaṃ atikkamitvā gotamo nāma buddho loke uppajjissati. Tassa mātā mahāmāyā nāma devī bhavissati, pitā suddhodano nāma rājā, putto rāhulo nāma, upaṭṭhāko ānando nāma, dutiyasāvako moggallāno nāma, tvaṃ pana tassa aggasāvako dhammasenāpati sāriputto nāma bhavissasī’’ti. Evaṃ tāpasaṃ byākaritvā dhammakathaṃ kathetvā bhikkhusaṅghaparivāro ākāsaṃ pakkhandi.

Bậc Đạo Sư đã khởi trí biết về vị lai để quán xét rằng: “Lời thệ nguyện của người đàn ông này liệu sẽ thành tựu?” Ngài đã thấy rằng: “Khi đã trải qua một a-tăng-kỳ và một trăm ngàn kiếp thì lời thệ nguyện này sẽ thành tựu.” Sau khi nhìn thấy Ngài đã nói với với đạo sĩ Sarada rằng: “Lời thệ nguyện này của ông sẽ không trở nên trống rỗng. Vả trong thời vị lai, sau khi trải qua một a-tăng-kỳ và một trăm ngàn kiếp, Đức Phật tên là Gotama sẽ xuất hiện ở thế gian, mẹ của vị ấy sẽ là Hoàng Hậu tên là Mahāmāyā, cha là Đức Vua tên là Suddhodana, con trai tên là Rāhula, vị thị giả tên là Ānanda, vị Thinh Văn tối thắng thứ hai tên là Moggallāno, còn bản thân ông sẽ trở thành vị Thinh Văn tối thắng (thứ nhất) của vị ấy tên là Tướng quân Chánh Pháp Sāriputta. Sau khi thọ ký cho vị đạo sĩ đó như vậy, Đức Phật đã thuyết giảng bài Pháp có Hội chúng Tỳ-khưu tháp tùng rồi Ngài bay lên hư không.

Saradatāpasopi antevāsikattherānaṃ santikaṃ gantvā sahāyakassa sirivaḍḍhanakuṭumbikassa sāsanaṃ pesesi – ‘‘bhante, mama sahāyakassa vadetha ‘sahāyakena te saradatāpasena anomadassibuddhassa pādamūle anāgate uppajjanakassa gotamabuddhassa sāsane aggasāvakaṭṭhānaṃ patthitaṃ, tvaṃ dutiyasāvakaṭṭhānaṃ patthehī’’’ti. Evañca pana vatvā therehi puretarameva ekapassena gantvā sirivaḍḍhassa nivesanadvāre aṭṭhāsi.

Còn đạo sĩ Sarada đã đi đến trú xứ của vị Trưởng lão từng là đệ tử của mình, rồi nhờ (vị ấy) chuyển lời nhắn đến cậu gia chủ Sirivaḍḍha là bạn thân của mình rằng: “Thưa Ngài, Ngài hãy nói với bạn của tôi rằng: ‘Đạo sĩ Sarada là bạn của đạo hữu, (vị ấy) thiết lập lời thệ nguyện vào vị thế Thinh Văn tối thắng (thứ nhất) trong Giáo Pháp của Đức Phật Gotama, vị sẽ xuất hiện trong thời vị lai dưới chân Đức Phật Anomadassī. Còn đạo hữu hãy thiết lập lời thệ nguyện vào vị thế Thinh Văn tối thắng thứ hai.’” Và sau khi đã nói như vậy. Vị ấy đã đi đến trước mặt của các vị Trưởng lão khác trong chốc lát, rồi đã đứng tại cửa nhà của cậu gia chủ Sirivaḍḍha.

Sirivaḍḍhano ‘‘cirassaṃ vata me ayyo āgato’’ti āsane nisīdāpetvā attanā nīcāsane nisinno ‘‘antevāsikaparisā pana vo, bhante, na paññāyatī’’ti pucchi. Āma samma, amhākaṃ assamaṃ anomadassī nāma buddho āgato, mayaṃ tassa attano balena sakkāraṃ akarimha. Satthā sabbesaṃ dhammaṃ desesi, desanāpariyosāne ṭhapetvā maṃ sesā arahattaṃ patvā pabbajiṃsūti. Tumhe kasmā na pabbajitāti? Ahaṃ satthu aggasāvakaṃ nisabhattheraṃ disvā anāgate uppajjanakassa gotamassa nāma buddhassa sāsane aggasāvakaṭṭhānaṃ patthesiṃ, tvampi tassa sāsane dutiyasāvakaṭṭhānaṃ patthehīti. Mayhaṃ buddhehi saddhiṃ paricayo natthi, bhanteti. Buddhehi saddhiṃ kathanaṃ mayhaṃ bhāro hotu, tvaṃ mahantaṃ adhikāraṃ sajjehīti.

Cậu gia chủ Sirivaḍḍha nói rằng: “Quả thật đã rất lâu, Ngài mới đến,” sau khi mời Ngài ngồi trên chỗ ngồi, còn bản thân ngồi trên chỗ ngồi thấp hơn và đã hỏi rằng: “Thưa Ngài, nhóm đệ tử của Ngài không xuất hiện sao?” – Đạo sĩ Sarada nói: “Này đạo hữu, Đức Phật tên là Anomadassī đã đến khu ẩn cư của chúng tôi. Chúng tôi đã thực hiện sự tôn kính đến Ngài tùy theo năng lực của mỗi cá nhân.” – Bậc Đạo Sư đã thuyết giảng Giáo Pháp cho toàn bộ các vị đạo sĩ. Khi bài giảng kết thúc, tất cả các vị đạo sĩ còn lại đã đạt đến quả vị A-ra-hán, trừ bần đạo.’” – Sirivaḍḍha hỏi: “Tại sao Ngài không xuất gia (theo Đức Phật Anomadassī)?” – Đạo sĩ Sarada đáp: “Bần đạo nhìn thấy Trưởng lão Nisabha là Thinh Văn tối thắng (thứ nhất) của bậc Đạo Sư, nên bần đạo đã thệ nguyện vào vị thế Thinh Văn tối thắng trong Giáo Pháp của Đức Phật tên là Gotama, Ngài sẽ xuất hiện vào thời vị lai. Cả bản thân đạo hữu cũng hãy thệ nguyện vào vị thế Thinh Văn tối thắng thứ hai trong Giáo Pháp của Ngài.” – Cậu gia chủ Sirivaḍḍha nói: “Thưa Ngài, tôi không có sự quen biết với Đức Phật. – Đạo sĩ Sarada đáp: “Việc đàm luận cùng với Đức Phật hãy để đó là trách nhiệm của bần đạo, còn đạo hữu hãy chuẩn bị hành động hướng thượng vĩ đại.”

Sirivaḍḍhano saradatāpasassa vacanaṃ sutvā attano nivesanadvāre rājamānena aṭṭhakarīsamattaṃ ṭhānaṃ samatalaṃ kāretvā vālukaṃ okirāpetvā lājapañcamāni pupphāni vikiritvā nīluppalacchadanaṃ maṇḍapaṃ kāretvā buddhāsanaṃ paññāpetvā sesabhikkhūnampi āsanāni paṭiyādāpetvā mahantaṃ sakkārasammānaṃ sajjetvā buddhānaṃ nimantanatthāya saradatāpasassa saññaṃ adāsi. Tāpaso tassa vacanaṃ sutvā buddhappamukhaṃ bhikkhusaṅghaṃ gahetvā tassa nivesanaṃ agamāsi. Sirivaḍḍhano paccuggamanaṃ katvā tathāgatassa hatthato pattaṃ gahetvā maṇḍapaṃ pavesetvā paññattāsanesu nisinnassa buddhappamukhassa bhikkhusaṅghassa dakkhiṇodakaṃ datvā paṇītena bhojanena parivisitvā bhattakiccapariyosāne buddhappamukhaṃ bhikkhusaṅghaṃ mahārahehi vatthehi acchādetvā, ‘‘bhante, nāyaṃ ārambho appamattakaṭṭhānatthāya, imināva niyāmena sattāhaṃ anukampaṃ karothā’’ti āha. Satthā adhivāsesi. So teneva niyāmena sattāhaṃ mahādānaṃ pavattetvā bhagavantaṃ vanditvā añjaliṃ paggahetvā ṭhito āha – ‘‘bhante, mama sahāyo saradatāpaso yassa satthu aggasāvako homīti patthesi, ahampi tasseva dutiyasāvako bhavāmī’’ti.

Cậu gia chủ Sirivaḍḍhana sau khi nghe lời nói của đạo sĩ Sarada, đã cho san lấp khu đất rộng khoảng tám karīsa trước cửa nhà mình bằng các dụng cụ đo đạc, làm cho bề mặt bằng phẳng, cho rải cát, cho rắc đều các bông hoa và có thêm bắp rang là thứ năm, sau đó cho thực hiện mái che được lợp bằng những đóa sen xanh, trang trí Phật tòa, sắp xếp chỗ ngồi cho các Tỳ-khưu còn lại, và chuẩn bị các lễ vật cúng dường vô cùng long trọng, rồi ra hiệu cho đạo sĩ Sarada thỉnh mời Đức Phật. Đạo sĩ Sarada, sau khi nghe được lời nói của Sirivaḍḍha, đã dẫn Hội chúng Tỳ-khưu có Đức Phật là vị đứng đầu đến nhà của vị ấy. Sirivaḍḍha đã thực hiện việc tiếp đón, sau khi nhận lấy bình bát từ tay của đức Như Lai, đã thỉnh Ngài bước vào mái che, dâng nước cúng dường đến Hội chúng Tỳ-khưu có Đức Phật là vị đứng đầu, đang ngồi trên chỗ ngồi đã được soạn sẵn, và cúng dường với các loại thức ăn hảo hạng. Sau khi hoàn thành phận sự về thọ thực, vị ấy đã cho Hội chúng Tỳ-khưu có Đức Phật là vị đứng đầu khoác lên những tấm y có giá trị lớn, rồi thưa: “Bạch Ngài, sự khởi đầu này không nhằm mục đích mong cầu địa vị nhỏ bé, cúi xin Ngài hãy thực hiện vì lòng thương tưởng trong bảy ngày theo cách thức này.” Bậc Đạo Sư đã nhận lời. Sirivaḍḍhana đã tiến hành cuộc đại thí không ngơi nghỉ suốt bảy ngày theo chính cách thức đó. Sau đó, vị ấy đảnh lễ đức Thế Tôn, đứng chắp tay và nói rằng: “Bạch Ngài, đạo sĩ Sarada là bạn hữu của con, (vị ấy) đã lập lời thệ nguyện trở thành vị Thinh Văn tối thắng (thứ nhất) của bậc Đạo Sư nào, thì con cũng xin lập lời thệ nguyện trở thành vị Thinh Văn tối thắng thứ hai của bậc Đạo Sư đó.

Satthā anāgataṃ oloketvā tassa patthanāya samijjhanabhāvaṃ disvā byākāsi – ‘‘tvaṃ ito kappasatasahassādhikaṃ asaṅkhyeyyaṃ atikkamitvā gotamabuddhassa dutiyasāvako bhavissasī’’ti. Buddhānaṃ byākaraṇaṃ sutvā sirivaḍḍhano haṭṭhapahaṭṭho ahosi. Satthāpi bhattānumodanaṃ katvā saparivāro vihārameva gato. Sirivaḍḍhano tato paṭṭhāya yāvajīvaṃ kalyāṇakammaṃ katvā dutiyattavāre kāmāvacaradevaloke nibbatto. Saradatāpaso cattāro brahmavihāre bhāvetvā brahmaloke nibbatto.

Bậc Đạo Sư, sau khi quán xét về tương lai đã thấy rằng: “Lời thệ nguyện của vị này sẽ được thành tựu, nên mới thọ ký: ‘Khi đã trải qua một a-tăng-kỳ và một trăm ngàn kiếp kể từ kiếp này, ông sẽ là vị Thinh Văn tối thắng thứ hai của Đức Phật Gotama.” Sau khi nghe được lời thọ ký của Đức Phật, Sirivaḍḍhano đã trở nên vô cùng hoan hỷ và hạnh phúc. Về phần bậc Đạo Sư, sau khi thể hiện sự tùy hỷ phước báu về bữa ăn, rồi Ngài đã trở về Tịnh xá cùng với nhóm tùy tùng. Từ đó trở đi, Sirivaḍḍha đã tạo các nghiệp lành cho đến hết đời, và đã tái sanh vào thế giới chư Thiên thuộc cõi trời Dục giới ở sát-na tâm thứ hai (ngay sau khi mệnh chung). Còn đạo sĩ Sarada, sau khi tu tập bốn Pháp Phạm Trú, (khi mệnh chung) đã tái sanh vào cõi Phạm Thiên.

Tato paṭṭhāya imesaṃ ubhinnampi antarākammaṃ na kathitaṃ. Amhākaṃ pana buddhassa nibbattito puretarameva saradatāpaso rājagahanagarassa avidūre upatissagāme sāribrāhmaṇiyā kucchismiṃ paṭisandhiṃ gaṇhi. Taṃdivasameva cassa sahāyopi rājagahasseva avidūre kolitagāme moggallibrāhmaṇiyā kucchiyaṃ paṭisandhiṃ gaṇhi. Tāni kira dvepi kulāni yāva sattamā kulaparivaṭṭā ābaddhapaṭibaddhasahāyakāneva. Tesaṃ dvinnampi ekadivasameva gabbhaparihāraṃ adaṃsu. Dasamāsaccayena jātānampi tesaṃ chasaṭṭhi dhātiyo upaṭṭhahiṃsu. Nāmaggahaṇadivase sāribrāhmaṇiyā puttassa upatissagāme jeṭṭhakulassa puttattā upatissoti nāmaṃ akaṃsu, itarassa kolitagāme jeṭṭhakulassa puttattā kolitoti nāmaṃ akaṃsu. Te ubhopi vuddhimanvāya sabbasippānaṃ pāraṃ agamaṃsu.

Bắt đầu từ đó, (chú giải) không đề cập đến các nghiệp lực trong các kiếp sống trung gian của hai vị này. Hơn nữa, trước khi Đức Phật của tất cả chúng ta được sanh ra, đạo sĩ Sarada (người sẽ trở thành Sāriputta) đã hạ sanh vào bụng của nữ Bà-la-môn Sārī tại làng Upatissa, không xa thành Rājagaha. Ngay trong ngày đó, bạn của đạo sĩ Sarada (người sẽ trở thành Moggallāna) đã hạ sanh vào bụng của nữ Bà-la-môn Moggallī tại ngôi làng Kolita, cũng không xa thành Rājagaha. Nghe rằng: cả hai gia tộc này đã là bạn bè thân thiết qua lại với nhau suốt bảy đời. Tất cả thân quyến đã cho chăm sóc thai nhi chỉ trong một ngày cho cả hai. Khi hai vị đã được sanh ra sau 10 tháng, thân quyến đã đưa sáu mươi sau (66) vú nuôi đến chăm sóc cho cả hai. Trong ngày đặt tên, thân quyến đã gọi con trai của nữ Bà-la-môn Sārī là Upatissa, vì là con trai của Trưởng tộc tại làng Upatissa. Người con trai còn lại gọi là Kolita, vì là con trai của Trưởng tộc tại làng Kolita. Cả hai khi đến tuổi trưởng thành cũng đã hoàn thành tất cả mọi nghề nghiệp.

Upatissamāṇavassa kīḷanatthāya nadiṃ vā uyyānaṃ vā pabbataṃ vā gamanakāle pañca suvaṇṇasivikāsatāni parivārā honti, kolitamāṇavassa pañca ājaññarathasatāni. Dvepi janā pañcapañcamāṇavakasataparivārā honti. Rājagahe ca anusaṃvaccharaṃ giraggasamajjaṃ nāma hoti, tesaṃ dvinnampi ekaṭṭhāneyeva mañcaṃ bandhanti. Dvepi janā ekatova nisīditvā samajjaṃ passantā hasitabbaṭṭhāne hasanti, saṃvegaṭṭhāne saṃvijjanti, dāyaṃ dātuṃ yuttaṭṭhāne dāyaṃ denti. Tesaṃ imināva niyāmena ekadivasaṃ samajjaṃ passantānaṃ paripākagatattā ñāṇassa purimadivasesu viya hasitabbaṭṭhāne hāso vā saṃvegaṭṭhāne saṃvejanaṃ vā dāyaṃ dātuṃ yuttaṭṭhāne dāyadānaṃ vā nāhosi. Dvepi pana janā evaṃ cintayiṃsu – ‘‘kiṃ ettha oloketabbaṃ atthi, sabbepime appatte vassasate apaṇṇattikabhāvaṃ gamissanti. Amhehi pana ekaṃ mokkhadhammaṃ gavesituṃ vaṭṭatī’’ti ārammaṇaṃ gahetvā nisīdiṃsu.

Khi đi đến dòng sông, vườn hoa, hay ở triền núi để vui chơi, thanh niên Upatissa có năm trăm chiếc kiệu vàng làm phương tiện rước đi, còn thanh niên Kolita có năm trăm cỗ xe ngựa quý làm phương tiện rước đi. Cả hai người mỗi người đều có năm trăm thanh niên làm tùy tùng. Và ở thành Rājagaha, hằng năm đều có lễ hội được tổ chức ở trên đỉnh núi, các tùy tùng đã buộc chiếc giường ở cùng một địa điểm cho cả hai thanh niên (ngồi xem). Cả hai cùng nhau ngồi xem lễ hội, cười ở những chỗ đáng cười, xúc động ở những chỗ đáng xúc động, và ban thưởng ở những chỗ xứng đáng được ban thưởng. Theo chính hình thức đó, một hôm khi hai người đang xem lễ hội, họ đã không còn cười ở chỗ đáng cười, hay xúc động ở chỗ đáng xúc động, hay ban thưởng ở chỗ xứng đáng ban thưởng, bởi vì trí đã đạt đến trạng thái chín muồi. Cả hai người đều nghĩ như vầy— “Có gì đáng để chúng ta xem trong lễ hội này? Tất cả những người này, khi chưa đến 100 tuổi, rồi cũng sẽ đi đến trạng thái không tồn tại nữa. Vậy chúng ta nên tầm cầu một Pháp Giải Thoát,” và họ đã ngồi giữ lấy tâm trạng ấy.

Tato kolito upatissaṃ āha – ‘‘samma upatissa, na tvaṃ aññasu divasesu viya haṭṭhapahaṭṭho, anattamanadhātukosi, kiṃ te sallakkhita’’nti? Samma kolita, ‘‘etesaṃ olokane sāro natthi, niratthakametaṃ, attano mokkhadhammaṃ gavesituṃ vaṭṭatī’’ti idaṃ cintayanto nisinnomhīti, tvaṃ pana kasmā anattamanosīti? Sopi tatheva āha. Athassa attanā saddhiṃ ekajjhāsayataṃ ñatvā upatisso taṃ evamāha – ‘‘amhākaṃ ubhinnampi sucintitaṃ, mokkhadhammaṃ gavesantehi pana ekā pabbajjā laddhuṃ vaṭṭati, kassa santike pabbajāmā’’ti.

Sau đó, Kolita đã nói với Upatissa— “Này bạn Upatissa, hôm nay (tôi thấy) bạn không vui vẻ và rộn ràng như những ngày trước, dường như có tâm trạng không hài lòng, bạn đang nghĩ ngợi điều gì vậy?” – Này bạn Kolita, tôi đang ngồi suy nghĩ đến chuyện này: “Việc xem những người này vốn không có giá trị, việc này chẳng đem lại lợi ích. Chúng ta nên tầm cầu Pháp Giải Thoát cho chính mình. Còn bạn, vì sao lại không hài lòng?’” – Kolita ấy cũng nói y như vậy. Khi Upatissa biết Kolita có chung một tâm nguyện với mình, liền nói như vầy: “Điều cả hai chúng ta nghĩ đều là những ý nghĩ tốt đẹp. Trong khi tầm cầu Pháp Giải Thoát, chúng ta cần phải được xuất gia theo một cách nào đó, vậy chúng ta sẽ xuất gia trong sự chứng minh của ai?

Tena kho pana samayena sañcayo paribbājako rājagahe paṭivasati mahatiyā paribbājakaparisāya saddhiṃ. Te ‘‘tassa santike pabbajissāmā’’ti pañcahi māṇavakasatehi saddhiṃ sañcayassa santike pabbajiṃsu. Tesaṃ pabbajitakālato paṭṭhāya sañcayo atirekalābhaggayasaggappatto ahosi. Te katipāheneva sabbaṃ sañcayassa samayaṃ pariggaṇhitvā, ‘‘ācariya, tumhākaṃ jānanasamayo ettakova, udāhu uttaripi atthī’’ti pucchiṃsu. Sañcayo ‘‘ettakova, sabbaṃ tumhehi ñāta’’nti āha. Te tassa kathaṃ sutvā cintayiṃsu – ‘‘evaṃ sati imassa santike brahmacariyavāso niratthako, mayaṃ mokkhadhammaṃ gavesituṃ nikkhantā, so imassa santike uppādetuṃ na sakkā. Mahā kho pana jambudīpo, gāmanigamarājadhāniyo carantā mayaṃ avassaṃ mokkhadhammadesakaṃ ekaṃ ācariyaṃ labhissāmā’’ti. Te tato paṭṭhāya yattha yattha paṇḍitā samaṇabrāhmaṇā atthīti suṇanti, tattha tattha gantvā pañhasākacchaṃ karonti. Tehi puṭṭhaṃ pañhaṃ aññe kathetuṃ samatthā natthi, te pana tesaṃ pañhaṃ vissajjenti. Evaṃ sakalajambudīpaṃ pariggaṇhitvā nivattitvā sakaṭṭhānameva āgantvā, ‘‘samma kolita, yo paṭhamaṃ amataṃ adhigacchati, so ārocetū’’ti katikaṃ akaṃsu.

Vào lúc bấy giờ, vị du sĩ Sañjaya cư trú tại thành Rājagaha cùng với tập thể du sĩ đông đảo. Hai thanh niên đó đã thống nhất: “Chúng ta sẽ xuất gia trong sự chứng minh của vị ấy,” nên cả hai cùng với 500 thanh niên tùy tùng đã xuất gia trong sự chứng minh của du sĩ Sañjaya. Kể từ lúc hai thanh niên đó xuất gia, du sĩ Sañjaya đã đạt được đỉnh cao về lợi lộc và đỉnh cao Vệ-đành vọng vượt bậc. Họ đã học hết toàn bộ giáo lý của du sĩ Sañjaya chỉ trong hai-ba ngày, rồi hỏi rằng: “Thưa thầy, giáo lý thuộc sự hiểu biết của thầy chỉ có bấy nhiêu thôi, hay còn nhiều hơn nữa?” – Du sĩ Sañjaya trả lời: “Chỉ có bấy nhiêu thôi. Các con đã hiểu hết rồi!” Sau khi nghe lời nói của vị thầy, họ đã nghĩ rằng: “Nếu chỉ như vậy, thì việc sống thực hành phạm hạnh trong sự chứng minh của vị thầy này cũng chẳng có ích lợi. Chúng ta đã ra đi để tầm cầu Pháp Giải Thoát, (nhưng) chúng ta không thể làm cho Pháp ấy sanh khởi trong sự hiện diện của vị này. Tuy nhiên, cõi Jambudīpa thật rộng lớn, chúng ta sẽ đi khắp các làng mạc, thị trấn và kinh thành, chắc chắn sẽ có được một vị thầy thuyết giảng Pháp Giải Thoát.” Bắt đầu từ đó, tại những nơi nào họ nghe được có các vị Sa-môn, Bà-la-môn là bậc trí giả thì họ liền đi đến tại những nơi đó để thực hiện việc đàm luận về các vấn đề. Các vấn đề mà họ đã hỏi thì những người khác đều không có khả năng giải đáp, nhưng họ lại giải đáp được các vấn đề của những người đó. Sau khi khảo sát toàn bộ cõi Jambudīpa như vậy, họ đã trở về chỗ cư ngụ của mình. Cả hai lập lời giao ước với nhau rằng: “Này bạn Kolita, người nào chứng đạt sự bất tử trước, thì người đó hãy nói lại cho người kia biết.”

Tena samayena amhākaṃ satthā paṭhamābhisambodhiṃ patvā pavattitavaradhammacakko anupubbena rājagahaṃ sampatto hoti. Atha ‘‘ekasaṭṭhi arahanto loke uppannā hontī’’ti vuttakāle ‘‘caratha, bhikkhave, cārikaṃ bahujanahitāyā’’ti ratanattayaguṇappakāsanatthaṃ uyyojitānaṃ bhikkhūnaṃ antare pañcavaggiyabbhantaro assajitthero paṭinivattitvā rājagahameva āgato. Punadivase pātova pattacīvaraṃ ādāya rājagahaṃ piṇḍāya pāvisi.

Lúc bấy giờ, bậc Đạo Sư của chúng ta đã đạt được quả vị giác ngộ tối thượng (Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác) đầu tiên rồi vận chuyển bánh xe Pháp cao quý, Ngài đi đến thành Rājagaha theo tuần tự. Khi đó, Trưởng lão Assaji trong số nhóm năm vị Tỳ-khưu đầu tiên được Đức Phật phái đi nhằm mục đích tuyên bố về ân đức của Tam Bảo rằng: “Này các Tỳ-khưu, các ông hãy lên đường vì sự lợi ích cho nhiều người,” vào lúc được nói: “Đã có sáu mươi mốt vị A-ra-hán xuất hiện ở thế gian,” Ngài đã quay trở lại thành Rājagaha. Vào buổi sáng sớm hôm sau, Ngài mang theo bình bát và y phục đi vào thành Rājagaha để khất thực.

Tasmiṃ samaye upatissaparibbājako pātova bhattakiccaṃ katvā paribbājakārāmaṃ gacchanto theraṃ disvā cintesi – ‘‘mayā evarūpo pabbajito nāma na diṭṭhapubbo. Ye vata loke arahanto vā arahattamaggaṃ vā samāpannā, ayaṃ tesaṃ bhikkhūnaṃ aññataro, yaṃnūnāhaṃ imaṃ bhikkhuṃ upasaṅkamitvā pañhaṃ puccheyyaṃ – ‘kaṃsi tvaṃ, āvuso uddissa, pabbajito, ko vā te satthā, kassa vā tvaṃ dhammaṃ rocesī’’’ti. Athassa etadahosi – ‘‘akālo kho imaṃ bhikkhuṃ pañhaṃ pucchituṃ, antaragharaṃ paviṭṭho piṇḍāya carati, yaṃnūnāhaṃ imaṃ bhikkhuṃ piṭṭhito piṭṭhito anubandheyyaṃ atthikehi upaññātaṃ magga’’nti. So theraṃ laddhapiṇḍapātaṃ aññataraṃ okāsaṃ gacchantaṃ disvā nisīditukāmatañcassa ñatvā attano paribbājakapīṭhakaṃ paññāpetvā adāsi. Bhattakiccapariyosānepissa attano kuṇḍikāya udakaṃ adāsi.

Lúc bấy giờ, du sĩ Upatissa sau khi làm phận sự về thọ thực vào buổi sớm mai, trên đường đi đến khu vườn của du sĩ, đã nhìn thấy vị Trưởng lão và nghĩ rằng: “Ta chưa từng thấy vị xuất gia có dáng vẻ như thế này. Trong số những người trên thế gian, các vị A-la-hán hoặc các vị đã đạt đến A-la-hán Đạo, vị Tỳ-khưu này có lẽ là một vị Tỳ-khưu trong số các vị ấy.” Hay là ta nên đến gặp vị Tỳ-khưu này và hỏi câu hỏi: “Thưa đại đức, đại đức đã được xuất gia có liên quan đến vị nào?’ hoặc là ‘Ai là thầy của đại đức?’ hoặc là ‘Đại đức ưa thích pháp của vị nào?’” Sau đó, vị ấy lại có suy nghĩ: “Không phải lúc để hỏi vị Tỳ-khưu này, vị ấy đã đi vào xóm nhà và đang đi khất thực. Hay là ta nên đi sát theo sau vị Tỳ-khưu này là vị biết đạo lộ đang được học tập bởi những kẻ mong cầu sự lợi ích?” Du sĩ Upatissa, sau khi thấy Trưởng lão đã nhận được đồ ăn khất thực, đi đến một khoảng trống, và biết rằng Trưởng lão đó muốn ngồi xuống, liền sắp xếp chỗ ngồi dành cho du sĩ của bản thân để cúng dường. Ngay khi hoàn tất phận sự về thọ thực, đã dâng nước trong bình của mình đến Trưởng lão ấy.

Evaṃ ācariyavattaṃ katvā katabhattakiccena therena saddhiṃ madhurapaṭisanthāraṃ katvā ‘‘vippasannāni kho te, āvuso, indriyāni, parisuddho chavivaṇṇo pariyodāto, kaṃsi tvaṃ, āvuso uddissa, pabbajito, ko vā te satthā, kassa vā tvaṃ dhammaṃ rocesī’’ti pucchi. Thero ‘‘atthāvuso, mahāsamaṇo sakyaputto sakyakulā pabbajito, tāhaṃ bhagavantaṃ uddissa pabbajito, so ca me bhagavā satthā, tassevāhaṃ bhagavato dhammaṃ rocemī’’ti āha. Atha naṃ ‘‘kiṃvādī panāyasmato satthā, kimakkhāyī’’ti pucchi. Thero cintesi – ‘‘ime paribbājakā nāma sāsanassa paṭipakkhabhūtā, imassa sāsanassa gambhīrataṃ dassessāmī’’ti. Attano navakabhāvaṃ dassento āha – ‘‘ahaṃ kho, āvuso, navo acirapabbajito, adhunāgato imaṃ dhammavinayaṃ, na tāvāhaṃ sakkomi vitthārena dhammaṃ desetu’’nti. Paribbājako ‘‘ahaṃ upatisso nāma, tvaṃ yathāsattiyā appaṃ vā bahuṃ vā vada, etaṃ nayasatena nayasahassena paṭivijjhituṃ mayhaṃ bhāro’’ti cintetvā āha –

Sau khi thực hiện phận sự đối với thầy như vậy, (vị ấy) đã thực hiện việc chào hỏi thân mật với Trưởng lão, Ngài đã hoàn tất việc thọ thực, rồi hỏi rằng: “Thưa đại đức, các giác quan của đại đức được trầm tĩnh, màu da được thanh tịnh và trong sáng. Thưa đại đức, vì ai mà đại đức đã xuất gia? Ai là thầy của đại đức? Đại đức ưa thích pháp của vị nào?” – Trưởng lão đáp rằng: “Này đạo hữu, có vị đại Sa-môn con trai dòng Sakya, từ dòng họ Sakya đã xuất gia. Ta đã được xuất gia có liên quan đến đức Thế Tôn ấy. Đức Thế Tôn ấy là đạo sư của ta và ta ưa thích Pháp của đức Thế Tôn ấy.” – Khi ấy, du sĩ Upatissa mới hỏi Trưởng lão: “Vị đạo sư của đại đức đã thuyết về điều gì? Đã giảng về điều gì?” – Trưởng lão nghĩ rằng: “Thường các du sĩ ngoại đạo này là kẻ đối nghịch với Giáo Pháp, ta sẽ thuyết giảng tính chất thâm sâu trong Giáo Pháp cho vị này. Khi bày tỏ bản thể người mới của mình, đã nói rằng: “Này đạo hữu, tôi là vị mới tu, được xuất gia chưa bao lâu, vừa mới đến với Pháp và Luật này, tôi không thể thuyết giảng Giáo Pháp một cách chi tiết cho đạo hữu được.” – Du sĩ Upatissa đa suy nghĩ, rồi nói (với đại đức Assaji điều này): “Tôi tên là Upatissa, Ngài hãy nói ít hoặc nhiều tùy theo khả năng, việc thấu triệt điều đó bằng hàng trăm phương pháp, bằng hàng ngàn phương pháp là trách nhiệm của tôi.” –

‘‘Appaṃ vā bahuṃ vā bhāsassu, atthaṃyeva me brūhi;
Attheneva me attho, kiṃ kāhasi byañjanaṃ bahu’’nti. (mahāva. 60);

Evaṃ vutte thero ‘‘ye dhammā hetuppabhavā’’ti (mahāva. 60; apa. thera. 1.1.286) gāthaṃ āha. Paribbājako paṭhamapadadvayameva sutvā sahassanayasampanne sotāpattimagge patiṭṭhahi. Itaraṃ padadvayaṃ sotāpannakāle niṭṭhāsi.

Ngài hãy nói ít hoặc nhiều, xin hãy giảng thuần ý nghĩa cho tôi. Tôi chỉ cần ý nghĩa thôi, ngài nói nhiều từ làm chi? (mahāva. 60);

Trong khi nói như vậy, Trưởng lão đã nói lên kệ ngôn: “Các pháp nào có nguồn sanh khởi do nhân, đức Như Lai đã nói về nhân của chúng và về sự diệt tắt của chúng, bậc Đại Sa-môn đã có lời dạy như thế.[4]” (mahāva. 60; apa. thera. 1.1.286); Du sĩ chỉ nghe hai câu đầu đã an trú vào Sơ Đạo Nhập lưu hoàn toàn đầy đủ với hàng ngàn phương pháp. Hai câu còn lại đã hoàn tất vào lúc trở thành vị Nhập lưu (Sơ Quả Nhập lưu).

So sotāpanno hutvā uparivisese appavattante ‘‘bhavissati ettha kāraṇa’’nti sallakkhetvā theraṃ āha – ‘‘bhante, mā upari dhammadesanaṃ vaḍḍhayittha, ettakameva hotu, kahaṃ amhākaṃ satthā vasatī’’ti? Veḷuvane paribbājakāti. Bhante, tumhe purato yātha, mayhaṃ eko sahāyako atthi. Amhehi ca aññamaññaṃ katikā katā ‘‘yo paṭhamaṃ amataṃ adhigacchati, so ārocetū’’ti. Ahaṃ taṃ paṭiññaṃ mocetvā sahāyakaṃ gahetvā tumhākaṃ gatamaggeneva satthu santikaṃ āgamissāmīti pañcapatiṭṭhitena therassa pādesu nipatitvā tikkhattuṃ padakkhiṇaṃ katvā theraṃ uyyojetvā paribbājakārāmābhimukho agamāsi.

Vị ấy, sau khi trở thành vị Nhập lưu, đã suy xét rằng: “Nguyên nhân trong lời dạy này chắc chắn sẽ có,” khi các ân đức đặc biệt cao quý không sanh khởi, nên đã nói với Trưởng lão rằng— “Thưa Ngài, xin Ngài chớ mở rộng bài thuyết Pháp vượt xa hơn nữa. Chỉ chừng ấy lời là đủ rồi. Bậc Đạo Sư của chúng ta hiện đang cư ngụ ở đâu?” – Trưởng lão đáp rằng: “Này du sĩ, (Bậc Đạo Sư) hiện đang cư ngụ ở Veḷuvana.” – Du sĩ nói rằng: “Thưa Ngài, xin Ngài hãy đi trước, con còn có một người bạn đồng hành và chúng con đã lập lời giao ước: “Người nào chứng đạt sự bất tử trước, thì người đó hãy nói cho người kia biết.’” Sau khi xua tan lời giao ước ấy, con sẽ dẫn người bạn ấy đến yết kiến bậc Đạo Sư, theo con đường mà Ngài đã đi đó. Rồi quỳ xuống đảnh lễ ở chân của Trưởng lão với năm phần thân thể chạm xuống đất, hướng vai phải nhiễu quanh ba vòng, và tiễn biệt vị Ngài.  Còn bản thân thì đi thẳng đến khu vườn của du sĩ.

Kolitaparibbājako taṃ dūratova āgacchantaṃ disvā ‘‘ajja mayhaṃ sahāyakassa mukhavaṇṇo na aññesu divasesu viya, addhā tena amataṃ adhigataṃ bhavissatī’’ti amatādhigamaṃ pucchi. Sopissa ‘‘āma āvuso, amataṃ adhigata’’nti paṭijānitvā tameva gāthaṃ abhāsi. Gāthāpariyosāne kolito sotāpattiphale patiṭṭhahitvā āha – ‘‘kahaṃ kira, samma, satthā vasatī’’ti? ‘‘Veḷuvane kira, samma, vasatī’’ti evaṃ no ācariyena assajittherena kathitanti. Tena hi samma āyāma, satthāraṃ passissāmāti. Sāriputtatthero ca nāmesa sadāpi ācariyapūjakova, tasmā sahāyaṃ kolitamāṇavaṃ evamāha – ‘‘samma, amhehi adhigataṃ amataṃ amhākaṃ ācariyassa sañcayaparibbājakassāpi kathessāma. Bujjhamāno paṭivijjhissati, appaṭivijjhanto amhākaṃ saddahitvā satthu santikaṃ gamissati, buddhānaṃ desanaṃ sutvā maggaphalapaṭivedhaṃ karissatī’’ti.

Du sĩ Kolita nhìn thấy du sĩ Upatissa từ xa đang đi lại liền nghĩ: “Hôm nay bạn ta có sắc mặt trong sáng không giống như những ngày trước. Chắc chắn cậu ấy đã chứng đạt sự bất tử,” nên đã hỏi về việc chứng đạt sự bất tử. Du sĩ Upatissa cũng đã xác nhận với du sĩ Kolita rằng: “Này bạn, tôi đã chứng đạt sự bất tử,” rồi nói lại chính bài kệ đó. Khi bài kệ kết thúc, Kolita an trú vào Sơ Quả Nhập lưu, rồi nói— “Này bạn, có nghe bậc Đạo Sư đang cư ngụ ở đâu không?” Upatissa nói rằng: “Này bạn, được biết bậc Đạo Sư đang cư ngụ trong Tịnh xá Veḷuvana,” Trưởng lão Assaji, thầy của chúng ta đã nói như vậy. Kolita nói tiếp: “Này bạn, vậy thì chúng ta hãy đến! Chúng ta sẽ đến yết kiến bậc Đạo Sư.” Trưởng lão Sāriputta vốn luôn là người tôn kính thầy ở mọi thời. Cho nên, Ngài đã nói với Kolita như vầy— “Này bạn, chúng ta sẽ nói về sự bất tử mà chúng ta đã chứng đạt cho cả du sĩ Sañjaya, thầy của chúng ta.” Nếu thầy lãnh hội thì sẽ thấu triệt. Còn nếu thầy không lãnh hội, nhưng nếu thầy tin chúng ta thì thầy sẽ cùng đi đến yết kiến bậc Đạo Sư, sau khi lắng nghe Giáo Pháp của Đức Phật sẽ thấu triệt được Đạo và Quả.”

Tato dvepi janā sañcayassa santikaṃ gantvā, ‘‘ācariya, tvaṃ kiṃ karosi, buddho loke uppanno, svākkhāto dhammo, suppaṭipanno saṅgho. Āyāma, dasabalaṃ passissāmā’’ti. So ‘‘kiṃ vadetha, tātā’’ti tepi vāretvā lābhaggayasaggappattimeva tesaṃ dīpesi. Te ‘‘amhākaṃ evarūpo antevāsikavāso niccameva hotu, tumhākaṃ pana gamanaṃ vā agamanaṃ vā jānāthā’’ti āhaṃsu. Sañcayo ‘‘ime ettakaṃ jānantā mama vacanaṃ na karissantī’’ti ñatvā ‘‘gacchatha tumhe, tātā, ahaṃ mahallakakāle antevāsikavāsaṃ vasituṃ na sakkomī’’ti āha. Te anekehipi kāraṇehi taṃ bodhetuṃ asakkontā attano ovāde vattamānaṃ janaṃ ādāya veḷuvanaṃ agamaṃsu. Atha tesaṃ pañcasu antevāsikasatesu aḍḍhateyyasatā nivattiṃsu, aḍḍhateyyasatā tehi saddhiṃ agamaṃsu.

Sau đó, cả hai đã đi đến trú xứ của Sañjaya và nói: “Thưa thầy, thầy sẽ làm gì? Đức Phật đã xuất hiện trên thế gian. Giáo Pháp đã khéo được tuyên thuyết. Hội chúng Tỳ-khưu đã thực hành tốt đẹp. Xin thầy hãy đến! Chúng ta sẽ yết kiến đấng Thập Lực.” – Du sĩ Sañjaya đáp: “Các con nói gì vậy? Rồi ông ngăn cản họ, chỉ phô bày cho họ thấy sự thành tựu đỉnh cao về lợi lộc và đỉnh cao Vệ-đành vọng đang có.” Hai vị đã nói rằng: “Việc sống với tư cách một đệ tử có hình thức như thế này của chúng tôi hãy là mãi mãi. Nhưng thầy hãy biết bản thân thầy sẽ đi hay không đi.” – Du sĩ Sañjaya biết rằng: “Những người này đã biết được chừng ấy, họ sẽ không tin vào lời nói của ta nữa,” nên nói rằng: “Các ông hãy đi, ta không thể sống với tư cách là đệ tử (của người khác) khi tuổi đã già.” Mặc dù cả hai đã dùng nhiều lý lẽ nhưng vẫn không thể làm cho du sĩ Sañjaya lãnh hội được. Vì vậy, họ đã dẫn những người thực hành theo lời khuyên của mình đến Tịnh xá Veḷuvana. Khi ấy, trong số năm trăm đệ tử của hai vị, có hai trăm năm mươi người đã quay trở lại (nương nhờ du sĩ Sañjaya), và hai trăm năm mươi người đã đi cùng với hai vị ấy.

Satthā catuparisamajjhe dhammaṃ desento te dūratova disvā bhikkhū āmantesi – ‘‘ete, bhikkhave, dve sahāyā āgacchanti kolito ca upatisso ca, etaṃ me sāvakayugaṃ bhavissati aggaṃ bhaddayuga’’nti. Atha tesaṃ parisāya cariyavasena dhammadesanaṃ vaḍḍhesi. Ṭhapetvā dve aggasāvake sabbepi te aḍḍhateyyasatā paribbājakā arahattaṃ pāpuṇiṃsu . Satthā ‘‘etha bhikkhavo’’ti hatthaṃ pasāresi. Sabbesaṃ kesamassu antaradhāyi, iddhimayaṃ pattacīvaraṃ kāyappaṭibaddhaṃ ahosi. Dvinnaṃ aggasāvakānampi iddhimayapattacīvaraṃ āgataṃ, uparimaggattayakiccaṃ pana na niṭṭhāsi. Kasmā? Sāvakapāramiñāṇassa mahantatāya.

Bậc Đạo Sư đang thuyết giảng Giáo Pháp giữa bốn hội chúng, đã nhìn thấy những người đó từ đằng xa, rồi bảo các Tỳ-khưu rằng— “Này các Tỳ-khưu, họ là hai người bạn, Kolita và Upatissa, đang đi đến. Họ sẽ trở thành một cặp đệ tử của ta, một cặp (đệ tử) xuất sắc, đứng đầu.” Sau đó, Ngài đã giải thích chi tiết bài thuyết Pháp liên quan đến hạnh nghiệp của hội chúng của hai người bạn ấy. Trừ hai vị Thinh Văn tối thắng, hai trăm năm mươi du sĩ còn lại, thì tất cả những vị ấy đều đã đạt đến phẩm vị A-ra-hán. Bậc Đạo Sư duỗi cánh tay ra (và nói rằng): “Hãy đến, này các Tỳ-khưu.” Tóc và râu của các vị du sĩ biến mất, bình bát và y phục do thần thông đã hiện ra buộc vào thân. Bình bát và y phục do thần thông cũng đã đến cho cả hai vị Thinh Văn tối thắng, nhưng phận sự với ba Đạo cao vẫn chưa hoàn tất (đối với Upatissa và Kolita). Tại sao? Bởi vì trí toàn hảo của bậc Thinh Văn là vĩ đại.

Athāyasmā mahāmoggallāno pabbajitadivasato sattame divase magadharaṭṭhe kallavālagāmakaṃ upanissāya samaṇadhammaṃ karonto thinamiddhe okkante satthārā saṃvejito thinamiddhaṃ vinodetvā tathāgatena dinnaṃ dhātukammaṭṭhānaṃ suṇantova uparimaggattayakiccaṃ niṭṭhāpetvā sāvakapāramiñāṇassa matthakaṃ patto. Sāriputtattheropi pabbajitadivasato addhamāsaṃ atikkamitvā satthārā saddhiṃ tameva rājagahaṃ upanissāya sūkarakhataleṇe viharanto attano bhāgineyyassa dīghanakhaparibbājakassa vedanāpariggahasuttante (ma. ni. 2.205-206) desiyamāne suttānusārena ñāṇaṃ pesetvā parassa vaḍḍhitabhattaṃ bhuñjanto viya sāvakapāramiñāṇassa matthakaṃ patto. Bhāgineyyo panassa desanāpariyosāne sotāpattiphale patiṭṭhito. Iti dvinnampi mahāsāvakānaṃ tathāgate rājagahe viharanteyeva sāvakapāramiñāṇakiccaṃ matthakaṃ pattaṃ. Aparabhāge pana satthā jetavane viharanto ‘‘mahāpaññānaṃ yadidaṃ sāriputto, iddhimantānaṃ yadidaṃ mahāmoggallāno’’ti dvepi mahāsāvake ṭhānantare ṭhapesīti.

Lúc bấy giờ, vào ngày thứ bảy kể từ ngày xuất gia đại đức Mahāmoggallāna đã đi đến xứ sở Magadha kế cận ngôi làng Kallavāla để thực hành Sa-môn Pháp, khi bị hôn trầm thụy miên chi phối, bậc Đạo Sư làm cho Ngài chấn động và đã xua đi hôn trầm thụy miên, ngay lúc đang nghe đề mục thiền định về các nguyên tố (đất, nước, lửa, gió) do đức Như Lai ban bố, Ngài đã hoàn thành phận sự về ba Đạo cao, và đã đạt đến tột đỉnh của trí toàn hảo của bậc Thinh Văn. Trưởng lão Sāriputta, trải qua nửa tháng kể từ ngày xuất gia, khi trú ngụ tại hang động Sūkarakhata gần thành Rājagaha cùng với bậc Đạo Sư, trong lúc bậc Đạo Sư thuyết giảng về bài kinh Phân Tích Các Cảm Thọ (ma. ni. 2.205-206) cho du sĩ Dīghanakha là cháu trai của Trưởng lão, Ngài đã khởi trí xuôi theo dòng chảy của bài Kinh và đã đạt đến tột đỉnh của trí toàn hảo của bậc Thinh Văn giống như thọ dụng bữa cơm được dọn sẵn cho người khác. Còn cháu trai của Ngài cũng đã an trú trong Sơ Quả Nhập lưu vào lúc kết thúc bài thuyết giảng. Như vậy, trong lúc đức Như Lai ngự tại thành Rājagaha, phận sự về trí toàn hảo của bậc Thinh Văn của cả hai vị Đại Thinh Văn đã đạt đến tột đỉnh. Hơn nữa, thời gian kế tiếp, khi bậc Đạo Sư ngự tại Tịnh xá Jetavana đã thiết lập cả hai vị Đại Thinh Văn vào vị thế ‘tối thắng’ như sau— “Trong các vị Thinh Văn, những vị có tuệ vĩ đại, tối thắng là Sāriputta. Trong các vị Thinh Văn, những vị có thần thông, tối thắng là Trưởng lão Mahāmoggallāna.”

Câu chuyện về Trưởng lão Mahākassapa

191. Catutthe dhutavādānanti ettha dhuto veditabbo, dhutavādo veditabbo, dhutadhammā veditabbā, dhutaṅgāni veditabbāni. Tattha dhutoti dhutakileso vā puggalo kilesadhunano vā dhammo.

Trong bài Kinh thứ tư, vị đã từ khước và thuyết về hạnh từ khước: Ở đây, nên biết– vị đã từ khước (vị đã giũ bỏ phiền não), nên biết– thuyết về hạnh từ khước, nên biết– các pháp làm duyên từ khước, nên biết– các hạnh từ khước. Ở đó, vị đã từ khước: là người đã giũ bỏ phiền não, hoặc pháp làm duyên từ khước.

Dhutavādoti ettha pana atthi dhuto na dhutavādo, atthi na dhuto dhutavādo, atthi neva dhuto na dhutavādo, atthi dhuto ceva dhutavādo ca. Tattha yo dhutaṅgena attano kilese dhuni, paraṃ pana dhutaṅgena na ovadati nānusāsati bākulatthero viya, ayaṃ dhuto na dhutavādo. Yathāha – ‘‘tayidaṃ āyasmā bākulo dhuto na dhutavādo’’ti. Yo pana dhutaṅgena attano kilese na dhuni, kevalaṃ aññe dhutaṅgena ovadati anusāsati upanandatthero viya, ayaṃ na dhuto dhutavādo. Yathāha – ‘‘tayidaṃ āyasmā upanando na dhuto dhutavādo’’ti. Yo pana ubhayavipanno lāḷudāyī viya, ayaṃ neva dhuto na dhutavādo. Yathāha – ‘‘tayidaṃ āyasmā lāḷudāyī neva dhuto na dhutavādo’’ti. Yo pana ubhayasampanno āyasmā mahākassapatthero viya, ayaṃ dhuto ceva dhutavādo ca. Yathāha – ‘‘tayidaṃ āyasmā mahākassapo dhuto ceva dhutavādo cā’’ti.

Hơn nữa, ở đây thuyết về pháp diệt trừ:

(1) có hạng người đã từ khước nhưng không thuyết về hạnh từ khước,
(2) có hạng người không từ khước nhưng thuyết về hạnh từ khước,
(3) có hạng người vừa không từ khước, vừa không thuyết về hạnh từ khước,
(4) có hạng người đã từ khước và thuyết về hạnh từ khước.

Trong bốn hạng người ấy, người nào đã giũ bỏ phiền não của bản thân bằng hạnh từ khước, nhưng không khuyên bảo, không chỉ dạy người khác bằng hạnh từ khước, như Trưởng lão Bākula, đây là người đã từ khước, nhưng không thuyết về hạnh từ khước. Như lời đức Thế Tôn đã nói: “Trưởng lão Bākula này là vị đã từ khước, nhưng không thuyết về hạnh từ khước.” Hơn nữa, người nào chưa giũ bỏ phiền não của bản thân bằng hạnh từ khước, nhưng lại khuyên bảo, chỉ dạy người khác bằng hạnh từ khước, như Trưởng lão Upananda. Đây gọi là người không từ khước, nhưng thuyết về hạnh từ khước. Như lời đức Thế Tôn đã nói — “Trưởng lão Upananda này là vị đã không từ khước, nhưng thuyết về hạnh từ khước.” Mặc khác, người nào hư hỏng cả hai, như Trưởng lão Lāḷudāyī, đây là người vừa không từ khước, vừa không thuyết về hạnh từ khước. Như lời đức Thế Tôn đã nói — “Trưởng lão Lāḷudāyī này là vị không những không từ khước mà cũng không thuyết về hạnh từ khước.” Cuối cùng, người nào thành tựu cả hai, như Trưởng lão Mahākassapa, đây gọi là người đã từ khước và thuyết về hạnh từ khước. Như lời đức Thế Tôn đã nói— “Trưởng lão Mahākassapa này là vị đã từ khước và thuyết về hạnh từ khước.

Dhutadhammā veditabbāti appicchatā santuṭṭhitā sallekhatā pavivekatā idamaṭṭhikatāti ime dhutaṅgacetanāya parivārā pañca dhammā ‘‘appicchaṃyeva nissāyā’’tiādivacanato (a. ni. 5.181; pari. 325) dhutadhammā nāma. Tattha appicchatā ca santuṭṭhitā ca alobho, sallekhatā ca pavivekatā ca dvīsu dhammesu anupatanti alobhe ceva amohe ca, idamaṭṭhitā ñāṇameva. Tattha alobhena paṭikkhepavatthūsu lobhaṃ, amohena tesveva ādīnavappaṭicchādakaṃ mohaṃ dhunāti. Alobhena ca anuññātānaṃ paṭisevanamukhena pavattaṃ kāmasukhallikānuyogaṃ, amohena dhutaṅgesu atisallekhamukhena pavattaṃ attakilamathānuyogaṃ dhunāti. Tasmā ime dhammā dhutadhammāti veditabbā.

Nên biết các pháp làm duyên từ khước: Có năm Pháp phụ trợ của tác ý trong các pháp từ khước này—

(1) có tánh ít muốn,
(2) có tánh tự biết đủ,
(3) có tánh khắc khổ,
(4) có tánh viễn ly,
(5) bản thể vị có điều này.

Gọi là pháp làm duyên từ khước do lời nói sau: “Chỉ để nương vào sự ít ham muốn, v.v,” (a. ni. 5.181; pari. 325); Ở đó, có tánh ít muốn và có tánh tự biết đủ là vô tham. Có tánh khắc khổ và có tánh viễn ly được xếp vào hai pháp là vô tham và vô si. Bản thể vị có điều này chính là trí. Trong vô tham và vô si ấy— Diệt trừ tham đối với các đối tượng đối lập bằng vô tham. Diệt trừ si mê che đậy các lỗi lầm nơi những đối tượng cần ngăn chặn ấy bằng vô si. Và diệt trừ sự gắn bó với việc say đắm về dục lạc được vận hành do thân cận trực tiếp (các đối tượng) đã được chấp nhận bằng vô tham. Diệt trừ sự gắn bó với việc hành hạ bản thân được vận hành do sự đoạn giảm quá mức ở các pháp từ khước bằng vô si. Vì lý do đó, các pháp này nên được biết là: “Pháp làm duyên từ khước.”

Dhutaṅgāni veditabbānīti terasa dhutaṅgāni veditabbāni paṃsukūlikaṅgaṃ…pe… nesajjikaṅganti.

Nên biết về các hạnh từ khước: nên biết về mười ba hạnh từ khước (hay mười ba hạnh đầu-đà) —

(1) hạnh mặc y paṃsukūla,
(2) hạnh chỉ sử dụng ba y,
(3) hạnh đi khất thực,

(4) hạnh đi khất thực theo từng nhà,
(5) hạnh một chỗ ngồi (khi thọ thực),
(6) hạnh thọ thực trong bình bát,
(7) hạnh không ăn vật thực dâng sau,
(8) hạnh sống ở rừng
(9) hạnh ngụ ở gốc cây,
(10) hạnh ngụ ở ngoài trời,
(11) hạnh ngụ ở mộ địa,
(12) hạnh ngụ chỗ ở theo chỉ định,
(13) hạnh oai nghi ngồi (không nằm)

Dhutavādānaṃ yadidaṃ mahākassapoti yattakā dhutavādaṃ vadanti, tesaṃ sabbesampi antare ayaṃ mahākassapatthero aggoti aggaṭṭhāne ṭhapesi. Mahākassapoti uruveḷakassapo nadīkassapo gayākassapo kumārakassapoti ime khuddānukhuddake there upādāya ayaṃ mahā, tasmā mahākassapoti vutto.

Trong số các vị Thinh Văn của Ta, những vị đã từ khước và thuyết về hạnh từ khước, tối thắng là Mahākassapa: Đức Thế Tôn đã thiết lập vào vị thế tối thắng như sau: “Trưởng lão Mahākassapa là tối thắng, trong số tất cả toàn bộ các vị Thinh Văn, những vị thuyết về hạnh từ khước.” Mahākassapa: Trưởng lão này là vị Trưởng lão lớn vì Ngài được so sánh với các vị Trưởng lão có cùng tên Kassapa lớn nhỏ khác nữa, đó là: Uruveḷakassapa, Nadīkassapa, Gayākassapa và Kumārakassapa. Cho nên, Ngài mới rằng: “Trưởng lão Mahākassapa.”

Imassāpi pañhakamme ayamanupubbikathā – atīte kira kappasatasahassamatthake padumuttaro nāma satthā loke udapādi, tasmiṃ haṃsavatīnagaraṃ upanissāya kheme migadāye viharante vedeho nāma kuṭumbiko asītikoṭidhanavibhavo pātova subhojanaṃ bhuñjitvā uposathaṅgāni adhiṭṭhāya gandhapupphādīni gahetvā vihāraṃ gantvā satthāraṃ pūjetvā vanditvā ekamantaṃ nisīdi. Tasmiñca khaṇe satthā mahānisabhattheraṃ nāma tatiyasāvakaṃ ‘‘etadaggaṃ, bhikkhave, mama sāvakānaṃ bhikkhūnaṃ dhutavādānaṃ, yadidaṃ nisabho’’ti etadagge ṭhapesi. Upāsako taṃ sutvā pasanno dhammakathāvasāne mahājane uṭṭhāya gate satthāraṃ vanditvā, ‘‘bhante, sve mayhaṃ bhikkhaṃ adhivāsethā’’ti āha. Mahā kho, upāsaka, bhikkhusaṅghoti. Kittako bhagavāti? Aṭṭhasaṭṭhibhikkhusatasahassanti. Bhante, ekaṃ sāmaṇerampi vihāre asesetvā bhikkhaṃ adhivāsethāti. Adhivāsesi bhagavā tuṇhībhāvena. Upāsako satthu adhivāsanaṃ viditvā gehaṃ gantvā mahādānaṃ sajjetvā punadivase satthu kālaṃ ārocāpesi. Satthā pattacīvaramādāya bhikkhusaṅghaparivuto upāsakassa gharaṃ gantvā paññatte āsane nisinno dakkhiṇodakāvasāne yāguādīni sampaṭicchanto bhattavissaggaṃ akāsi. Upāsakopi satthu santike nisīdi.

Về các vấn đề liên quan đến nghiệp lực của Trưởng lão Mahākassapa này, cũng có câu chuyện được thuật lại theo trình tự như sau— Nghe rằng: trong thời quá khứ, cách đây một trăm ngàn kiếp, bậc Đạo Sư tên là Padumuttara đã xuất hiện trên thế gian. Trong khi trú ngụ tại Vườn Lộc Uyển Khema gần thành Haṃsavatī. Lúc đó, có một Gia chủ tên là Vedeha với khối tài sản là tám mươi koṭi, sau khi thọ dụng thức ăn hảo hạng vào sáng sớm, đã phát nguyện thọ trì Bát quan trai giới, rồi mang theo các vật thơm và bông hoa, v.v. đi đến Tịnh xá để cúng dường bậc Đạo Sư, sau khi đảnh lễ rồi đã ngồi xuống một bên. Và vào thời khắc ấy, bậc Đạo Sư đã thiết lập vị Thinh Văn thứ ba tên là Trưởng lão Mahā Nisabha vào vị thế Tối Thắng và nói: “Này các Tỳ-khưu, trong số các vị Tỳ-khưu Thinh Văn của Ta, vị thuyết về hạnh từ khước (pháp đầu-đà), Nisabha là vị đứng đầu.” Cận sự nam đã có tâm tịnh tín sau khi nghe điều đó, vào lúc kết thúc bài thuyết Pháp, khi đại đứng dậy và rời đi, vị ấy liền đảnh lễ bậc Đạo Sư, rồi thưa rằng: “Kính bạch đức Thế Tôn, xin Ngài hãy nhận lời thọ thực của con vào ngày mai.” – Bậc Đạo Sư nói: “Này cận sự nam, Hội chúng Tỳ-khưu rất đông.” – Cận sự nam thưa: “Bạch Ngài, Hội chúng Tỳ-khưu có khoảng bao nhiêu vị?” – Đức Phật đáp: “Có khoảng 6,800,000 vị (sáu triệu tám trăm ngàn).” – Cận sự nam thưa: “Bạch Ngài, xin Ngài hãy nhận lời thọ thực. Xin đừng để sót một vị Sa-di nào trong Tịnh xá.” – Đức Thế Tôn đã nhận lời với trạng thái im lặng. – Cận sự nam biết rằng bậc Đạo Sư đã chấp nhận lời thỉnh mời nên đã trở về nhà và chuẩn bị cuộc đại thí cho ngày hôm sau, rồi cho người thông báo thời giờ (thọ thực) đến bậc Đạo Sư. Bậc Đạo Sư đã mang bình bát và y phục, cùng với Hội chúng Tỳ-khưu đông đảo tháp tùng đi đến tư gia của vị cận sự nam và ngồi trên chỗ ngồi đã được soạn sẵn. Vào lúc việc rưới nước cúng dường chấm dứt, đã dâng phần phân phát bữa ăn trong khi thọ nhận cháo, v.v. Cả cận sự nam cũng ngồi gần bậc Đạo Sư.

Tasmiṃ antare mahānisabhatthero piṇḍāya caranto tameva vīthi paṭipajji. Upāsako disvā uṭṭhāya gantvā theraṃ vanditvā ‘‘pattaṃ, bhante, dethā’’ti āha. Thero pattaṃ adāsi. ‘‘Bhante, idheva pavisatha, satthāpi gehe nisinno’’ti. Na vaṭṭissati upāsakāti. Upāsako therassa pattaṃ gahetvā piṇḍapātassa pūretvā nīharitvā adāsi. Tato theraṃ anugantvā nivatto satthu santike nisīditvā evamāha – ‘‘bhante, mahānisabhatthero ‘satthā gehe nisinno’ti vuttepi pavisituṃ na icchi, atthi nu kho etassa tumhākaṃ guṇehi atireko guṇo’’ti. Buddhānañca vaṇṇamaccheraṃ nāma natthi. Atha satthā evamāha – ‘‘upāsaka, mayaṃ bhikkhaṃ āgamayamānā gehe nisīdāma, so bhikkhu na evaṃ nisīditvā bhikkhaṃ udikkhati. Mayaṃ gāmantasenāsane vasāma, so araññasmiṃyeva vasati. Mayaṃ channe vasāma, so abbhokāsamhiyeva vasati. Iti tassa ayañca ayañca guṇo’’ti mahāsamuddaṃ pūrayamāno viya kathesi. Upāsako pakatiyāpi jalamānadīpo telena āsitto viya suṭṭhutaraṃ pasanno hutvā cintesi – ‘‘kiṃ mayhaṃ aññāya sampattiyā, anāgate ekassa buddhassa santike dhutavādānaṃ aggabhāvatthāya patthanaṃ karissāmī’’ti?

Trong lúc đó, Trưởng lão Mahā Nisabha đang đi khất thực trên chính con đường đó. Vị cận sự nam, sau khi nhìn thấy, đã đứng dậy, đảnh lễ Trưởng lão, rồi thưa: “Bạch Ngài, xin Ngài hãy cho con bình bát.” – Trưởng lão đã trao bình bát. – Vị cận sự nam lại thưa: “Bạch Ngài, xin thỉnh Ngài vào nhà, bậc Đạo Sư cũng đang ngự bên trong.” – Trưởng lão đáp: “Không nên đâu! Này cận sự nam.” – Cận sự nam đã tiếp nhận bình bát của Trưởng lão, bỏ đầy vật thực rồi mang ra cúng dường. Liền sau đó, đã theo tiễn chân Trưởng lão, quay trở lại ngồi gần bậc Đạo Sư, và đã nói như vầy: “Bạch Ngài, Trưởng lão Mahā Nisabha không mong muốn vào nhà dù con đã thưa rằng: ‘Bậc Đạo Sư đang ngự trong nhà,’ phải chăng vị ấy có ưu điểm vượt trội hơn các ưu điểm của Ngài?’” Và chư Phật vốn không bao giờ bỏn xẻn về ưu điểm của người khác. Sau đó, bậc Đạo Sư đã nói như vầy: Này cận sự nam, Ta ngồi đợi vật thực trong nhà như thế này, nhưng vị Tỳ-khưu ấy không ngồi đợi vật thực trong nhà như vậy.” Ta ngự tại trú xứ gần làng, nhưng vị ấy chỉ ngự trong rừng. Ta  ngự ở nơi có mái che, nhưng vị ấy chỉ ngự ở ngoài trời (chỗ không có mái che). Như thế, vị Tỳ-khưu đó có ưu điểm này và ưu điểm này,’” Ngài nói như thể làm cho đại dương thêm tràn đầy. Vốn dĩ cận sự nam đã có niềm tịnh tín rất mạnh mẽ, tựa như ngọn đèn đang bùng cháy được đổ thêm dầu, mới nghĩ rằng— “Đối với ta cần gì đến những thứ tài sản khác nữa! Ta sẽ phát tâm thệ nguyện nhằm mục đích đạt được vị thế tối thắng trong số các Tỳ-khưu thuyết về hạnh từ khước (hạnh đầu đà) trong sự chứng minh của một vị Phật trong tương lai.

So punapi satthāraṃ nimantetvā teneva niyāmena satta divasāni mahādānaṃ datvā sattame divase buddhappamukhassa mahābhikkhusaṅghassa ticīvarāni datvā satthu pādamūle nipajjitvā evamāha – ‘‘yaṃ me, bhante, satta divasāni dānaṃ dentassa mettaṃ kāyakammaṃ mettaṃ vacīkammaṃ mettaṃ manokammaṃ paccupaṭṭhitaṃ, imināhaṃ na aññaṃ devasampattiṃ vā sakkamārabrahmasampattiṃ vā patthemi, idaṃ pana me kammaṃ anāgate ekassa buddhassa santike etassa mahānisabhattherena pattaṭhānantaraṃ pāpuṇanatthāya terasadhutaṅgadharānaṃ aggabhāvassa saccakāro hotū’’ti. Satthā ‘‘mahantaṃ ṭhānaṃ iminā patthitaṃ, samijjhissati nu kho, no’’ti olokento samijjhanabhāvaṃ disvā āha – ‘‘manāpaṃ te ṭhānaṃ patthitaṃ, anāgate satasahassakappāvasāne gotamo nāma buddho uppajjissati, tassa tvaṃ tatiyasāvako mahākassapatthero nāma bhavissasī’’ti. Taṃ sutvā upāsako ‘‘buddhānaṃ dve kathā nāma natthī’’ti punadivase pattabbaṃ viya taṃ sampattiṃ amaññittha. So yāvatāyukaṃ nānappakāraṃ dānaṃ datvā sīlaṃ rakkhitvā nānappakāraṃ kalyāṇakammaṃ katvā tattha kālaṃ kato sagge nibbatti.

Cận sự nam ấy liền thỉnh mời bậc Đạo Sư thêm lần nữa, và cúng dường lễ đại thí theo chính cách thức đó suốt 7 ngày. Đến ngày thứ bảy, sau khi cúng dường ba y đến đại chúng Tỳ-khưu có Đức Phật là vị đứng đầu, vị ấy đã quỳ dưới chân của bậc Đạo Sư, và nói như sau— “Bạch Ngài, với tâm từ qua thân nghiệp, tâm từ qua khẩu nghiệp, tâm từ qua ý nghiệp của con, người đã bố thí suốt bảy ngày, con không mong cầu sự thành tựu của chư Thiên, sự thành tựu của Đế Thích, sự thành tựu của Ma Vương, hay sự thành tựu của Phạm Thiên nào khác. Hơn nữa, nguyện nghiệp (thiện) này của con hãy làm duyên cho sự thành tựu trạng thái tối thắng của Tỳ-khưu thọ trì mười ba hạnh từ khước nhằm mục đích đạt đến vị thế mà Trưởng lão Mahā Nisabha đã đạt được trong sự chứng minh của một vị Phật trong thời tương lai. Bậc Đạo Sư trong khi quán xét: “Ước nguyện vị thế vĩ đại này (của cận sự nam), liệu sẽ được thành tựu hay không?” Ngài đã thấy rằng: “sẽ thành tựu,” nên nói: “Ngươi đã ước nguyện vị thế tối thắng vĩ đại, sau một trăm ngàn kiếp trong thời vị lai, có một vị Phật tên là Gotama sẽ xuất hiện, ngươi sẽ trở thành vị Thinh Văn thứ ba của vị ấy tên là Trưởng lão Mahā Kassapa. Sau khi nghe điều đó, cận sự nam nghĩ: “Chư Phật không nói hai lời,” nên ngỡ sự thành tựu ấy như thể đã đạt được vào ngày mai. Vị ấy sống cho đến khi hết tuổi thọ, ban phát vật thí bằng nhiều hình thức khác nhau, gìn giữ giới hạnh, tạo các nghiệp tốt lành bằng nhiều cách, sau khi mệnh chung ở bản thể ấy (tức là bản thể loài người) đã tái sanh vào cõi Trời.

Tato paṭṭhāya devamanussesu sampattiṃ anubhavanto ito ekanavutikappe vipassisammāsambuddhe bandhumatiṃ nissāya kheme migadāye viharante devalokā cavitvā aññatarasmiṃ parijiṇṇe brāhmaṇakule nibbatti. Tasmiñca kāle vipassī bhagavā sattame sattame saṃvacchare dhammaṃ katheti, mahantaṃ kolāhalaṃ ahosi. Sakalajambudīpe devatā ‘‘satthā dhammaṃ kathessatī’’ti ārocenti. Brāhmaṇo taṃ sāsanaṃ assosi. Tassa ca nivāsanasāṭako ekova hoti, tathā brāhmaṇiyā. Pārupanaṃ pana dvinnampi ekameva. Sakalanagare ekasāṭakabrāhmaṇoti paññāyati. Brāhmaṇānaṃ kenacideva kiccena sannipāte sati brāhmaṇiṃ gehe ṭhapetvā sayaṃ gacchati. Brāhmaṇīnaṃ sannipāte sati sayaṃ gehe tiṭṭhati, brāhmaṇī taṃ vatthaṃ pārupitvā gacchati. Tasmiṃ pana divase brāhmaṇo brāhmaṇiṃ āha – ‘‘bhoti, kiṃ rattiṃ dhammassavanaṃ suṇissasi, divā’’ti. ‘‘Mayaṃ mātugāmajātikā nāma rattiṃ sotuṃ na sakkoma, divā sossāmī’’ti brāhmaṇaṃ gehe ṭhapetvā taṃ vatthaṃ pārupitvā upāsikāhi saddhiṃ divā gantvā satthāraṃ vanditvā ekamante nisinnā dhammaṃ sutvā upāsikāhiyeva saddhiṃ āgamāsi. Atha brāhmaṇo brāhmaṇiṃ gehe ṭhapetvā taṃ vatthaṃ pārupitvā vihāraṃ gato.

Kể từ đó, vị ấy thọ hưởng sự thành tựu ở cả cõi người và cõi Trời. Trong kiếp thứ 91 tính từ kiếp này (bhadda-kappa), khi Đức Phật Chánh đẳng Chánh giác Vipassī đang ngự tại Vườn Lộc Uyển Khema gần thành Bandhumatī, sau khi mệnh chung từ thế giới chư Thiên, vị ấy đã tái sanh vào một gia đình Bà-la-môn sa sút nọ. Cũng vào thời điểm đó, đức Thế Tôn Vipassī thuyết giảng Giáo Pháp cứ mỗi 7 năm một lần, điều này đã gây ra cảnh náo động dữ dội. Chư Thiên trên khắp toàn cõi Jambudīpa đã thông báo cho vị Bà-la-môn biết rằng: “Bậc Đạo Sư sẽ thuyết giảng Giáo Pháp.” Bà-la-môn đã nghe được thông điệp đó. Vị ấy chỉ có một tấm vải để khoác và nữ Bà-la-môn (vợ của vị ấy) cũng như thế. Nhưng cả hai chỉ có một tấm vải để khoác mà thôi. Vì vậy, (câu chuyện của họ) đã nổi tiếng khắp thành là Bà-la-môn chỉ có một tấm vải. Khi các Bà-la-môn hội họp vì một công việc nào đó, (vị Bà-la-môn) phải để nữ Bà-la-môn ở nhà, và tự mình đi. Tương tự, khi các nữ Bà-la-môn hội họp, (vị Bà-la-môn) tự mình ở nhà, còn nữ Bà-la-môn sẽ khoác tấm vải đó đi. Cũng trong ngày hôm đó, vị Bà-la-môn nói với nữ Bà-la-môn: “Này phu nhân, nàng sẽ nghe Pháp vào ban đêm hay ban ngày?” – Nữ Bà-la-môn đáp: “Chúng tôi là những người phụ nữ truyền thống, không thể nghe Pháp vào ban đêm được. Xin cho tôi được nghe Pháp vào ban ngày.” Thế rồi, để Bà-la-môn ở nhà, (nữ Bà-la-môn) tự mình khoác tấm vải ấy cùng với các nữ cư sĩ đi vào ban ngày, đã đảnh lễ bậc Đạo Sư rồi ngồi xuống một bên, sau khi nghe Pháp liền quay trở về nhà cùng với các nữ cư sĩ. Khi ấy, Bà-la-môn để nữ Bà-la-môn ở nhà, tự mình khoác tấm vải đó và đi đến Tịnh xá.

Tasmiñca samaye satthā parisamajjhe alaṅkatadhammāsane nisinno cittabījaniṃ ādāya ākāsagaṅgaṃ otārento viya sineruṃ matthaṃ katvā sāgaraṃ nimmathento viya dhammakathaṃ kathesi. Brāhmaṇassa parisante nisinnassa dhammaṃ suṇantassa paṭhamayāmasmiṃyeva sakalasarīraṃ pūrayamānā pañcavaṇṇā pīti uppajji. So pārutavatthaṃ saṅgharitvā ‘‘dasabalassa dassāmī’’ti cintesi. Atthassa ādīnavasahassaṃ dassayamānaṃ maccheraṃ uppajji. So ‘‘brāhmaṇiyā ca mayhañca ekameva vatthaṃ, aññaṃ kiñci pārupanaṃ natthi, apārupitvā ca nāma bahi carituṃ na sakkā’’ti sabbathāpi adātukāmo ahosi. Athassa nikkhante paṭhamayāme majjhimayāmepi tatheva pīti uppajji. So tatheva cintetvā tatheva adātukāmo ahosi. Athassa majjhimayāme nikkhante pacchimayāmepi tatheva pīti uppajji. So ‘‘taraṇaṃ vā hotu maraṇaṃ vā, pacchāpi jānissāmī’’ti vatthaṃ saṅgharitvā satthu pādamūle ṭhapesi. Tato vāmahatthaṃ ābhujitvā dakkhiṇena hatthena tikkhattuṃ apphoṭetvā ‘‘jitaṃ me, jitaṃ me’’ti tayo vāre nadi.

Và vào lúc bấy giờ, bậc Đạo Sư đang ngồi trên Pháp tòa đã được trang hoàng ở giữa đại chúng, tay cầm chiếc quạt tuyệt đẹp, thuyết giảng bài Pháp thoại như thể làm cho chúng sanh vượt qua khoảng không con sông Hằng, và như thể đã làm cho cả ngọn núi Sineru trở thành cối giã để khuấy đảo biển cả. Trong khi Bà-la-môn ngồi nghe Pháp ở cuối đại chúng, năm loại phỉ lạc đã sanh khởi và lan tỏa khắp châu thân ngay trong canh đầu. Vị ấy đã kéo tấm vải mà mình đang khoác ra, nghĩ rằng: “Ta sẽ cúng dường cho đấng Thập Lực.” Ngay lúc đó, sự bỏn xẻn đã khởi lên với hàng ngàn lý do để chỉ ra sự bất lợi cho vị ấy. Bà-la-môn nghĩ rằng: “Nữ Bà-la-môn với ta chỉ có một tấm vải này để khoác. Không còn bất kỳ một tấm áo nào khác nữa. Thông thường, không thể bước ra ngoài khi không mặc gì!” (vì thế) đã không có ý định cúng dường trong mọi tình huống. Khi canh đầu trôi qua, phỉ lạc tương tự y như thế lại sanh khởi nơi vị Bà-la-môn ngay cả trong canh giữa. Vị ấy lại nghĩ y hệt như vậy, và đã không có ý định cúng dường tương tự như trước. Khi canh giữa trôi qua, phỉ lạc tương tự y như thế lại tiếp tục sanh khởi nơi vị Bà-la-môn luôn cả trong canh cuối. Lúc đó, vị ấy nghĩ: “’Thôi kệ, chuyện gì đến cứ đến, hãy để sau này tính,” rồi kéo tấm vải ra, đặt dưới chân của bậc Đạo Sư. Sau đó, vị ấy co bàn tay trái, dùng bàn tay phải vỗ xuống 3 lần rồi hét vang 3 lần rằng: “Ta đã chiến thắng! ta đã chiến thắng!”

Tasmiñca samaye bandhumarājā dhammāsanassa pacchato antosāṇiyaṃ nisinno dhammaṃ suṇāti. Rañño ca nāma ‘‘jitaṃ me’’ti saddo amanāpo hoti. So purisaṃ pesesi – ‘‘gaccha etaṃ puccha kiṃ vadasī’’ti. So tena gantvā pucchito āha – ‘‘avasesā hatthiyānādīni āruyha asicammādīni gahetvā parasenaṃ jinanti, na taṃ jitaṃ acchariyaṃ, ahaṃ pana pacchato āgacchantassa duṭṭhagoṇassa muggarena sīsaṃ bhinditvā taṃ palāpento viya maccheracittaṃ madditvā pārutavatthaṃ dasabalassa adāsiṃ, taṃ me macchariyaṃ jita’’nti āha. So puriso āgantvā taṃ pavattiṃ rañño ārocesi. Rājā āha – ‘‘amhe bhaṇe dasabalassa anurūpaṃ na jānimha, brāhmaṇo jānī’’ti vatthayugaṃ pesesi. Taṃ disvā brāhmaṇo cintesi – ‘‘ayaṃ mayhaṃ tuṇhī nisinnassa paṭhamaṃ kiñci adatvā satthu guṇe kathentassa adāsi, satthu guṇe paṭicca uppannena mayhaṃ ko attho’’ti? Tampi vatthayugaṃ dasabalasseva adāsi. Rājāpi ‘‘kiṃ brāhmaṇena kata’’nti pucchitvā ‘‘tampi tena vatthayugaṃ tathāgatasseva dinna’’nti sutvā aññānipi dve vatthayugāni pesesi. So tānipi adāsi. Rājā aññānipi cattārīti evaṃ yāva dvattiṃsavatthayugāni pesesi. Atha brāhmaṇo ‘‘idaṃ vaḍḍhetvā gahaṇaṃ viya hotī’’ti attano atthāya ekaṃ, brāhmaṇiyā ekanti dve vatthayugāni gahetvā tiṃsa yugāni tathāgatasseva adāsi. Tato paṭṭhāya cassa satthu vissāsiko jāto.

Và vào lúc bấy giờ, Đức Vua Bandhuma trong khi ngồi lắng nghe Pháp ở bên trong bức rèm đằng sau Pháp tòa. Thông thường, Đức Vua không ưa thích âm thanh “Ta đã chiến thắng!” Vì vậy, Ngài đã phái một cận thần đi với lời căn dặn: “Khanh hãy đi hỏi vị Bà-la-môn ấy đó rằng: ‘Kẻ ấy đã nói về điều gì ?’” Bà-la-môn ấy bị vị quan cận thần đến hỏi, liền nói rằng: “Những người khác ngoài Ta, sau khi cầm lấy thanh gươm, khiên, v.v, rồi bước lên cỗ xe voi, v.v, chiến thắng đạo binh đối địch, chiến thắng đó chẳng có gì đáng ngạc nhiên. Còn đối với ta đã dẫm đạp tâm bỏn xẻn rồi cúng dường tấm vải đang mặc cho đấng Thập Lực giống như dùng búa đập vào đầu con trâu ngoan cố đi theo phía sau để đuổi nó đi. Ta đã chiến thắng tâm bỏn xẻn đó.” Quan cận thần đã đi bẩm tâu lại chuyện ấy cho Đức Vua. Đức Vua nói– “Này khanh, chúng ta không biết được điều gì xứng đáng cho đấng Thập Lực, nhưng vị Bà-la-môn lại biết,” nên đã gửi hai tấm vải đến để ban tặng. Vị Bà-la-môn, sau khi nhìn thấy hai tấm vải đó, nghĩ rằng– ‘Vị Vua này đã không ban tặng cho ta bất cứ thứ gì ngay từ đầu khi ta ngồi im lặng, mà đã ban tặng khi ta tán thán về các ân đức của bậc Đạo Sư. Vậy thì có lợi ích gì cho ta với hai tấm vải phát sanh do nương nhờ ân đức của bậc Đạo Sư, nên đã cúng dường luôn cả hai tấm vải đó cho đấng Thập Lực. Đức Vua hỏi: “Bà-la-môn đã làm gì?” Ngài nghe rằng: “Vị Bà-la-môn đã cúng dường cả hai tấm vải ấy cho đức Như Lai.” Vì vậy, Ngài lại phái người ban tặng hai cặp vải khác. Vị ấy cũng đã cúng dường cả hai cặp vải đó. Đức Vua tiếp tục phái người ban tặng bốn cặp vải khác, và cứ như thế, Ngài đã phái người ban tặng đến ba mươi hai cặp vải. Sau đó, vị Bà-la-môn nghĩ rằng: “Việc này giống như làm cho tăng thêm rồi nhận lấy,” mới lấy hai cặp vải– một cặp vì ích lợi bản thân, và cặp còn lại vì ích lợi cho nữ Bà-la-môn, rồi cúng dường ba mươi cặp vải còn lại cho đức Như Lai. Và kể từ lúc ấy, vị Bà-la-môn đã trở nên gần gũi với bậc Đạo Sư.

Atha naṃ rājā ekadivasaṃ sītasamaye satthu santike dhammaṃ suṇantaṃ disvā satasahassagghanakaṃ attano pārutarattakambalaṃ datvā āha – ‘‘ito patthāya imaṃ pārupitvā dhammaṃ suṇāhī’’ti. So ‘‘kiṃ me iminā kambalena imasmiṃ pūtikāye upanītenā’’ti cintetvā antogandhakuṭiyaṃ tathāgatassa mañcassa upari vitānaṃ katvā agamāsi. Athekadivasaṃ rājā pātova vihāraṃ gantvā antogandhakuṭiyaṃ satthu santike nisīdi. Tasmiñca samaye chabbaṇṇā buddharasmiyo kambale paṭihaññanti, kambalo ativiya virocati. Rājā olokento sañjānitvā āha – ‘‘bhante, amhākaṃ esa kambalo, amhehi ekasāṭakabrāhmaṇassa dinno’’ti. Tumhehi, mahārāja, brāhmaṇo pūjito, brāhmaṇena mayaṃ pūjitāti. Rājā ‘‘brāhmaṇo yuttaṃ aññāsi, na maya’’nti pasīditvā yaṃ manussānaṃ upakārabhūtaṃ, taṃ sabbaṃ aṭṭhaṭṭhakaṃ katvā sabbaaṭṭhakaṃ nāma dānaṃ datvā purohitaṭṭhāne ṭhapesi. Sopi ‘‘aṭṭhaṭṭhakaṃ nāma catusaṭṭhi hotī’’ti catusaṭṭhi salākābhattāni upanibandhāpetvā yāvajīvaṃ dānaṃ datvā sīlaṃ rakkhitvā tato cuto sagge nibbatti.

Một ngày nọ, Đức Vua đang nghe Pháp trong sự hiện diện của đức Thế Tôn vào mùa đông. Ngài đã ban tặng một tấm mền len nhuộm đỏ để choàng của Ngài có giá trị một ngàn đồng cho vị Bà-la-môn, rồi nói rằng: “Kể từ nay, ông hãy khoác tấm mền len nhuộm đỏ này để nghe Pháp.” Vị Bà-la-môn ấy nghĩ rằng: “Ta sẽ ích lợi gì với chiếc mền len nhuộm đỏ này mà mang vào tấm thân hôi thối này?” nên đã biến tấm mền len nhuộm đỏ đó thành tấm màn che phía trên chiếc giường của đức Như Lai ở bên trong Hương Thất rồi rời đi. Một ngày nọ, Đức Vua ngự đến Tịnh xá vào sáng sớm, ngồi gần bậc Đạo Sư trong Hương Thất. Cũng vào lúc ấy, hào quang của Đức Phật có sáu màu đã chiếu vào tấm mền len, khiến cho tấm mền len trở nên vô cùng chói sáng. Đức Vua nhìn thấy đã nhận ra mới hỏi rằng: “Bạch Ngài, tấm mền len này là của trẫm, trẫm đã ban tặng đến Bà-la-môn Ekasāṭaka.” – Đức Phật đáp: Này Đại Vương, Bà-la-môn được cúng dường bởi Đại Vương, còn Như Lai được cúng dường bởi Bà-la-môn. Đức Vua cảm phục: “Vị Bà-la-môn biết những điều phù hợp, còn chúng ta không biết,” vì thế Ngài đã ban tặng vật thí thiết yếu cho tập thể loài người – tất cả mọi thứ mỗi loại 8 món 8 lần, việc ban phát vật thí đó được gọi là Tất Bát Chủng Thí[5], rồi bố trí (vị Bà-la-môn) vào địa vị viên quan tế tự. Vị Bà-la-môn ấy nghĩ rằng: “Tám món tám lần tức là sáu mươi bốn loại,” nên đã đặt sáu mươi bốn phần vật thực được phân phối theo thẻ, rồi thực hiện việc ban phát vật thí, giữ giới cho đến trọn đời, từ nơi ấy chết đi, và tái sanh vào cõi Trời.

Puna tato cuto imasmiṃ kappe koṇāgamanassa ca bhagavato kassapadasabalassa cāti dvinnaṃ buddhānaṃ antare bārāṇasiyaṃ kuṭumbiyaghare nibbatto. So vuddhimanvāya gharāvāsaṃ vasanto ekadivasaṃ araññe jaṅghavihāraṃ carati, tasmiṃ ca samaye paccekabuddho nadītīre cīvarakammaṃ karonto anuvāte appahonte saṅgharitvā ṭhapetuṃ āraddho. So disvā ‘‘kasmā, bhante, saṅgharitvā ṭhapethā’’ti āha. Anuvāto nappahotīti . ‘‘Iminā, bhante, karothā’’ti sāṭakaṃ datvā ‘‘nibbattanibbattaṭṭhāne me kenaci parihāni mā hotū’’ti patthanaṃ paṭṭhapesi.

Sau khi mệnh chung từ nơi ấy (cõi Trời), và trở lại tái sanh vào gia đình người gia chủ giàu có tại thành Bārāṇasī— trong khoảng thời gian giữa hai vị Phật: Đức Thế Tôn Koṇāgamana và đấng Thập Lực Kassapa— trong kiếp này (bhadda-kappa). Khi đến tuổi trưởng thành, vị ấy kết hôn và lập gia đình. Một ngày nọ, trong lúc đi dạo, thư giãn trong rừng. Và lúc ấy, Đức Phật Độc Giác đang thực hiện việc may y (tức là việc khâu y) ở tại bờ sông, một tấm vải lót mỏng (được may xuôi theo chiều dọc của lá y) không đủ nên Ngài bắt đầu xếp cất. Vị ấy – [Mahā Kassapa tương lai] sau khi nhìn thấy liền hỏi: “Bạch Ngài, vì lý do gì mà Ngài lại xếp cất đi?” – Đức Phật Độc Giác nói: “Tấm vải lót không đủ.” – Cậu gia chủ nói: “Bạch Ngài, xin Ngài hãy dùng tấm vải này của con để may, ” nên đã cúng dường tấm vải đó rồi lập lời thệ nguyện: “Ở bất cứ nơi nào tại mỗi nơi con được lần lượt sanh ra, xin hãy đừng có sự suy thoái (hư hỏng).”

Atha gharepissa bhaginiyā saddhiṃ bhariyāya kalahaṃ karontiyā paccekabuddho piṇḍāya pāvisi. Athassa bhaginī paccekabuddhassa piṇḍapātaṃ datvā tassa bhariyaṃ sandhāya, ‘‘evarūpaṃ bālaṃ yojanasatena parivajjeyya’’nti patthanaṃ paṭṭhapesi. Sā gehadvāre ṭhitā sutvā ‘‘imāya dinnaṃ bhattaṃ mā esa bhuñjatū’’ti pattaṃ gahetvā piṇḍapātaṃ chaḍḍetvā kalalassa pūretvā adāsi. Itarā disvā ‘‘bāle maṃ tāva akkosa vā pahara vā, evarūpassa pana dve asaṅkhyeyyāni pūritapāramissa pattato bhattaṃ chaḍḍetvā kalalaṃ dātuṃ na yutta’’nti āha. Athassa bhariyāya paṭisaṅkhānaṃ uppajji. Sā ‘‘tiṭṭhatha, bhante’’ti kalalaṃ chaḍḍetvā pattaṃ dhovitvā gandhacuṇṇena ubbaṭṭetvā catumadhurassa pūretvā upari āsittena padumagabbhavaṇṇena sappinā vijjotamānaṃ paccekabuddhassa hatthe ṭhapetvā ‘‘yathā ayaṃ piṇḍapāto obhāsajāto, evaṃ obhāsajātaṃ me sarīraṃ hotū’’ti patthanaṃ paṭṭhapesi. Paccekabuddho anumoditvā ākāsaṃ pakkhandi. Tepi dve jāyampatikā yāvatāyukaṃ kusalaṃ katvā sagge nibbattitvā puna tato cavitvā upāsako kassapasammāsambuddhakāle bārāṇasiyaṃ asītikoṭivibhavassa seṭṭhino putto hutvā nibbatti, itarāpi tādisasseva seṭṭhino dhītā hutvā nibbatti.

Lần đó, Đức Phật Độc Giác đi khất thực cả ở nhà của vị ấy, đúng lúc vợ và em gái của ông đang cãi nhau. Khi đó, cô em chồng đã cúng dường đồ ăn khất thực cho Đức Phật Độc Giác rồi hướng tâm đến chị dâu: Đã lập nên lời phát nguyện “Xin cho con tránh xa người phụ nữ ngu si như thế này hàng trăm do-tuần.” Vợ của vị ấy đang đứng ở cửa nhà, nghe thấy liền nghĩ: “Vị Tỳ-khưu hãy đừng thọ dụng vật thực  mà cô ta cúng dường,” nên đã chộp lấy bình bát, đổ hết đồ ăn khất thực ra, và đổ đầy bùn non vào trong đó. Thấy vậy em chồng liền nói: “Này người phụ nữ ngu si, hãy mắng chửi, hoặc hãy đánh đập tôi trước đi! Việc đổ đồ ăn khất thực từ bình bát của vị đã làm tròn đủ các Ba-la-mật suốt hai a-tăng-kỳ có hình thức như vậy, rồi đổ bùn non vào thay thế, thật không thích hợp.” Ngay lúc đó, vợ của vị ấy khởi lên sự nhận thức rõ, đã nói rằng: “Bạch Ngài, xin hãy dừng lại,” bà đổ hết bùn non ra, sau khi rửa sạch bình bát, đã chà xát với bột hương tự nhiên, rồi đổ đầy bốn món vật thực ngon ngọt vào đầy bình bát, và đã đặt bình bát sáng bóng với bơ lỏng có màu sắc tựa như cánh hoa sen được rưới lên trên vào bàn tay của Đức Phật Độc Giác, (bà) thiết lập lời phát nguyện rằng: “Cũng như đồ ăn khất thực này phát ra luồng sáng, mong cho thân thể của con cũng phát ra luồng sáng như vậy.” Đức Phật Độc Giác sau khi đã tùy hỷ (phước báu) rồi bay vào hư không. Cả hai vợ chồng sau khi làm việc thiện cho đến khi hết tuổi thọ rồi tái sinh vào cõi Trời. Sau khi mệnh chung từ cõi đó thêm một lần nữa, cận sự nam [tức Mahā Kassapa tương lai] tái sinh làm con trai của một Trưởng giả với khối tài sản 80 Koṭi tại thành Bārāṇasī– vào thời kỳ đấng Chánh đẳng Chánh giác Kassapa.” Còn người vợ [tức Bhaddā Kapilānī tương lai] cũng tái sanh làm con gái của một Trưởng giả tương tự.

Tassa vuddhippattassa tameva seṭṭhidhītaraṃ ānayiṃsu. Tassā pubbe adinnavipākassa tassa kammassa ānubhāvena patikūlaṃ paviṭṭhamattāya ummārabbhantare sakalasarīraṃ ugghāṭitavaccakuṭi viya duggandhaṃ jātaṃ. Seṭṭhikumāro ‘‘kassāyaṃ gandho’’ti pucchitvā ‘‘seṭṭhikaññāyā’’ti sutvā ‘‘nīharathā’’ti ābhataniyāmeneva kulagharaṃ pesesi. Sā eteneva nīhārena sattasu ṭhānesu paṭinivattitā.

Khi cậu đến tuổi trưởng thành, thân bằng quyến thuộc đưa con gái Trưởng giả ấy đến (để kết hôn). Do oai lực của (ác) nghiệp có quả báo không đáng mong muốn ở kiếp trước, khi nàng bước vào gia đình chồng, toàn thân liền bốc mùi hôi thối giống như mùi hố xí vừa được mở nắp (từ lúc bước vào) bên trong ngạch cửa. Con trai Trưởng giả [tức Mahā Kassapa tương lai] hỏi: “Đây là mùi của ai?” Sau khi nghe [trả lời]: “Con gái Trưởng giả”, liền nói: “Đưa nàng ta ra ngoài!” Rồi đưa nàng về nhà theo cách nàng đã đến. Theo chính cách thức đó, nàng đã bị trả về đến 7 lần.”

Tena ca samayena kassapadasabalo parinibbāyi, tassa ghanakoṭṭimāhi satasahassagghanikāhi rattasuvaṇṇaiṭṭhakāhi yojanubbedhaṃ cetiyaṃ ārabhiṃsu. Tasmiṃ cetiye kariyamāne sā seṭṭhidhītā cintesi – ‘‘ahaṃ sattasu ṭhānesu paṭinivattitā, kiṃ me jīvitenā’’ti attano sarīrābharaṇabhaṇḍakaṃ bhañjāpetvā suvaṇṇaiṭṭhakaṃ kāresi ratanāyataṃ vidatthivitthinnaṃ caturaṅgulubbedhaṃ. Tato haritālamanosilāpiṇḍaṃ gahetvā aṭṭha uppalahatthake ādāya cetiyakaraṇaṭṭhānaṃ gatā. Tasmiñca khaṇe ekā iṭṭhakāpanti parikkhipitvā āgacchamānā ghaṭaniṭṭhakāya ūnā hoti. Seṭṭhidhītā vaḍḍhakiṃ āha – ‘‘imaṃ iṭṭhakaṃ ettha ṭhapethā’’ti. Amma, bhaddake kāle āgatāsi, sayameva ṭhapehīti. Sā āruyha telena haritālamanosilaṃ yojetvā tena bandhanena iṭṭhakaṃ patiṭṭhapetvā upari aṭṭhahi uppalahatthakehi pūjaṃ katvā vanditvā ‘‘nibbattanibbattaṭṭhāne me kāyato candanagandho vāyatu, mukhato uppalagandho’’ti patthanaṃ katvā cetiyaṃ vanditvā padakkhiṇaṃ katvā agamāsi.

Và lúc bấy giờ, đấng Thập Lực Kassapa đã viên tịch Niết Bàn. Phật tử bắt đầu xây dựng một Bảo điện cao một do-tuần bằng gạch vàng màu đỏ sậm vừa dày và vừa chắc, với giá trị mỗi viên một trăm ngàn. Trong khi họ đang xây dựng Bảo điện, con gái Trưởng giả ấy nghĩ rằng: “Ta bị trả về (bảy lần) ở bảy nơi, có lợi gì với cuộc sống của ta nữa?” Vì vậy, nàng đã cho nấu chảy các món đồ trang sức được tô điểm trên cơ thế của mình, làm thành một viên gạch vàng dài một ratana, rộng một gang tay và dày bốn ngón tay. Sau đó, nàng cầm hùng hoàng và thạch tín [để trang trí/vẽ], và bó tám bó hoa sen đi đến nơi xây dựng Bảo điện. Đúng lúc đó, một hàng gạch đang được xây bị thiếu một viên gạch nối, nàng đã nói với người thợ rằng – “Xin ông đặt viên gạch này vào đây.” – Người thợ nói rằng: “Này cô, cô đã đến thật đúng lúc, cô hãy tự mình đặt vào,” – nàng liền bước lên dùng dầu trộn với hùng hoàng và thạch tín (dùng hỗn hợp ấy) làm chất kết dính để gắn viên gạch cho nó dính chặt lại, thực hiện việc lễ bái với tám bó sen ở phía trên (viên gạch), đảnh lễ, rồi lập nên lời phát nguyện rằng: ‘Tại mỗi nơi tôi được lần lượt sanh ra thì hương thơm chiên đàn hãy tỏa ra từ cơ thể, và mùi hương sen xanh hãy tỏa ra từ miệng,’” sau khi đảnh lễ Bảo điện, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi trở về.

Atha tasmiṃyeva khaṇe yassa seṭṭhiputtassa paṭhamaṃ gehaṃ nītā, tassa taṃ ārabbha sati udapādi. Nagarepi nakkhattaṃ saṅghuṭṭhaṃ hoti. So upaṭṭhāke āha – ‘‘tadā idha ānītā seṭṭhidhītā atthi, kahaṃ sā’’ti? Kulagehe sāmīti. Ānetha naṃ, nakkhattaṃ kīḷissāmāti. Te gantvā taṃ vanditvā ṭhitā ‘‘kiṃ, tātā, āgatatthā’’ti tāya puṭṭhā taṃ pavattiṃ ācikkhiṃsu. Tātā, mayā ābharaṇabhaṇḍena cetiyaṃ pūjitaṃ, ābharaṇaṃ me natthīti. Te gantvā seṭṭhiputtassa ārocesuṃ. Ānetha naṃ, piḷandhanaṃ labhissāmāti. Te ānayiṃsu. Tassā saha gharappavesanena sakalagehaṃ candanagandhañceva nīluppalagandhañca vāyi.

Lúc đó, vào chính thời điểm ấy, con trai Trưởng giả [tức Mahā Kassapa tương lai] đã khởi lên sự nhớ nhung liên quan đến con gái Trưởng giả mà họ đã đưa về nhà lần đầu tiên. Trong thành phố có âm thanh vang dội của lễ hội, cậu ta mới nói với người hầu: “Lần trước, họ đã đưa con gái Trưởng giả đến đây, giờ nàng ấy đang ở đâu?” – Người hầu đáp: “Thưa công tử, cô ấy đang ở trong nhà (của cô ấy).” – Con trai Trưởng giả nói: “Các ngươi hãy đưa nàng đến đây, ta sẽ vui chơi lễ hội với nàng.” Sau khi đi đến họ đã cúi chào nàng, đang đứng thì bị nàng hỏi: “Các ngươi, đến đây làm gì?” Họ liền thuật lại câu chuyện đó. – Nàng nói: “Này các ông, tôi đã cúng dường đồ trang sức cho Bảo điện, tôi không có đồ trang sức.” Những người hầu liền đi nói với con trai Trưởng giả. Con trai Trưởng giả nói: “Hãy đưa nàng đến đi, nàng sẽ có được đồ trang sức.” – Họ liền đi đưa nàng đến. Hương chiên đàn và hương sen xanh lan tỏa khắp nhà cùng lúc nàng bước vào trong nhà.

Seṭṭhiputto taṃ pucchi ‘‘paṭhamaṃ tava sarīrato duggandho vāyi, idāni pana te sarīrato candanagandho, mukhato uppalagandho vāyati, kiṃ eta’’nti? Sā ādito paṭṭhāya attanā katakammaṃ ārocesi. Seṭṭhiputto ‘‘niyyānikaṃ vata buddhasāsana’’nti pasīditvā yojanikaṃ suvaṇṇacetiyaṃ kambalakañcukena parikkhipitvā tattha tattha rathacakkappamāṇehi suvaṇṇapadumehi alaṅkari. Tesaṃ dvādasahatthā olambakā honti. So tattha yāvatāyukaṃ ṭhatvā sagge nibbattitvā tato cuto bārāṇasito yojanamatte ṭhāne aññatarasmiṃ amaccakule nibbatti. Seṭṭhikaññāpi devalokato cavitvā rājakule jeṭṭhadhītā hutvā nibbatti.

Con trai Trưởng giả mới hỏi: “Lần đầu tiên, mùi hôi thối phát ra từ thân thể (của nàng), nhưng bây giờ, hương chiên đàn tỏa ra từ thân, và hương sen xanh tỏa ra từ miệng của nàng. Đây là chuyện gì vậy?” Con gái Trưởng giả đã nói đến ác nghiệp mà mình đã tạo ra từ ban đầu. Con trai Trưởng giả đã khởi niềm tịnh tín: “Lời dạy của chư Phật quả là Pháp dẫn xuất ra khỏi (luân hồi)!” (Sau đó) cậu mới lấy tấm áo choàng bằng len nhuộm đỏ quấn quanh Bảo điện vàng cao một do-tuần, rồi lấy bông sen vàng lớn bằng bánh xe trang trí trên Bảo điện vàng ấy, những bông sen vàng được treo có kích thước 12 cánh tay. Con trai Trưởng giả đã sống đến hết tuổi thọ ở thế giới nhân loại rồi tái sanh vào cõi Trời. Từ trần tại nơi ấy, tái sanh vào gia đình viên quan đại thần cố vấn (chỗ cư ngụ) ở vị trí khoảng một do-tuần từ thành Bārāṇasī. Còn con gái Trưởng giả, sau khi mệnh chung từ cõi Trời và tái sanh làm Trưởng công chúa trong gia đình vua chúa.

Tesu vayapattesu kumārassa vasanagāme nakkhattaṃ saṅghuṭṭhaṃ. So mātaraṃ āha – ‘‘sāṭakaṃ me , amma, dehi, nakkhattaṃ kīḷissāmī’’ti. Sā dhotavatthaṃ nīharitvā adāsi. Amma, thūlaṃ idaṃ, aññaṃ dehīti. Aññaṃ nīharitvā adāsi, tampi paṭikkhipi. Aññaṃ nīharitvā adāsi, tampi paṭikkhipi.

Khi cả hai đến tuổi trưởng thành, (thân bằng quyến thuộc) thông báo về lễ hội trong làng nơi công tử [tức Mahā Kassapa tương lai] cư ngụ. Cậu ấy đã nói với mẹ: “Mẹ ơi, mẹ hãy cho con tấm vải choàng để con đi chơi lễ hội.” – Người mẹ đã mang tấm áo đã dùng đến cho. – Cậu từ chối: “Thưa mẹ, tấm áo này thật thô cứng.” – Bà lại mang tấm vải khác đến, nhưng những tấm vải đó cậu cũng từ chối.”

Atha naṃ mātā āha – ‘‘tāta, yādise gehe mayaṃ jātā, natthi no ito sukhumatarassa paṭilābhāya puñña’’nti. Tena hi labhanaṭṭhānaṃ gacchāmi, ammāti. Putta ahaṃ ajjeva tuyhaṃ bārāṇasinagare rajjapaṭilābhaṃ icchāmīti. So mātaraṃ vanditvā āha – ‘‘gacchāmi, ammā’’ti. Gaccha, tātāti. Evaṃ kirassā cittaṃ ahosi – ‘‘kahaṃ gamissati, idha vā ettha vā gehe nisīdissatī’’ti? So pana puññaniyāmena nikkhamitvā bārāṇasiṃ gantvā uyyāne maṅgalasilāpaṭṭe sasīsaṃ pārupitvā nipajji. So ca bārāṇasirañño kālakatassa sattamo divaso hoti.

Lúc đó, người mẹ mới nói: “Con ơi, chúng ta sinh ra trong gia đình như thế này, chúng ta không có phước báu để nhận được tấm vải choàng mềm mịn.” – Cậu nói rằng: “Mẹ ơi, nếu đã vậy, con sẽ đi đến nơi con nhận được.” – Người mẹ nói: “Con yêu, mẹ mong muốn con đạt được vương vị trong thành Bārāṇasī ngay hôm nay.” – Cậu cúi chào mẹ và nói: “Thưa mẹ, con đi đây.” – Người mẹ: “Con đi đi.” Được biết, người mẹ của cậu đã có suy nghĩ như vầy: “Nó đi đâu? Chắc là ngồi ở chỗ này hoặc ở chỗ kia trong ngôi nhà này mà thôi.” Cậu đã rời khỏi (nhà) theo định luật của phước báu và đến thành Bārāṇasī. Cậu  nằm trùm đầu trên phiến đá Maṅgala trong vườn thượng uyển. Bấy giờ, Đức Vua Bārāṇasī ấy đã băng hà được 7 ngày.

Amaccā rañño sarīrakiccaṃ katvā rājaṅgaṇe nisīditvā mantayiṃsu – ‘‘rañño ekā dhītāva atthi, putto natthi, arājakaṃ rajjaṃ na vaṭṭati, ko rājā hotī’’ti mantetvā ‘‘tvaṃ hohi, tvaṃ hohī’’ti āhaṃsu. Purohito āha – ‘‘bahuṃ oloketuṃ na vaṭṭati, phussarathaṃ vissajjemā’’ti. Te kumudavaṇṇe cattāro sindhave yojetvā pañcavidhaṃ rājakakudhabhaṇḍaṃ setacchattañca rathasmiṃyeva ṭhapetvā rathaṃ vissajjetvā pacchato tūriyāni paggaṇhāpesuṃ. Ratho pācīnadvārena nikkhamitvā uyyānābhimukho ahosi. ‘‘Paricayena uyyānābhimukho gacchati, nivattemā’’ti keci āhaṃsu. Purohito ‘‘mā nivattayitthā’’ti āha. Ratho kumāraṃ padakkhiṇaṃ katvā ārohanasajjo hutvā aṭṭhāsi. Purohito pārupanakaṇṇaṃ apanetvā pādatalāni olokento ‘‘tiṭṭhatu ayaṃ dīpo, dvisahassadīpaparivāresu catūsu dīpesu eso rajjaṃ kāretuṃ yutto’’ti vatvā ‘‘punapi tūriyāni paggaṇhatha, punapi tūriyāni paggaṇhathā’’ti tikkhattuṃ tūriyāni paggaṇhāpesi.

Các viên quan đại thần, sau khi thực hiện phận sự đối với cơ thể (Lễ Hỏa Táng) và đang ngồi thảo luận tại khuôn viên hoàng cung rằng: ‘Đức Vua chỉ có Công chúa mà không có Hoàng Tử. Vương quốc không thể không có Vua. Ai sẽ là Vua? Ai cũng nói rằng: “Ông được đó, Ông được đó!” Vị quân sư nói rằng: “Không nên chọn lựa lâu hơn nữa. Như thế này, chúng ta sẽ thỉnh cầu chư Thiên rồi thả xe của nhà vua (cỗ xe tự vận hành tìm người xứng đáng làm vua khi không có người kế vị) đi.” Các vị ấy, sau khi buộc bốn con ngựa Sindhava có màu sắc tựa như màu hoa Kumuda vào xe, đã đặt năm vật biểu trưng của hoàng gia cùng với lọng trắng lên trên chiếc xe đó, rồi thả chiếc xe của nhà vua đi, đồng thời tấu nhạc ở phía sau. Chiếc xe chạy ra qua cổng thành ở phía Đông, hướng về vườn thượng uyển. Một số viên quan nói rằng: “Chiếc xe hướng về phía vườn thượng uyển là do sự quen thuộc [với đường đi]. Các ông hãy ra lệnh cho quay lại. Vị quốc sư nói: “Đừng để nó quay lại.” Chiếc xe đã thực hiện nhiễu quanh cậu công tử rồi dừng lại trong tư thế sẵn sàng để cho Ngài bước lên. Vị quốc sư vén vạt áo xem xét lòng bàn chân (của vị công tử) và nói: “Châu lục này xin hãy bỏ qua, vị này xứng đáng trị vì vương quốc ở cả bốn châu cùng với hai ngàn châu lục nhỏ bao quanh, rồi ra lệnh tấu nhạc lên ba lần rằng: “Các ngươi hãy tấu nhạc lên nữa. Các ngươi hãy tấu nhạc lên nữa.

Atha kumāro mukhaṃ vivaritvā oloketvā ‘‘kena kammena āgatatthā’’ti āha. Deva tumhākaṃ rajjaṃ pāpuṇātīti. Rājā kahanti? Devattaṃ gato sāmīti. Kati divasā atikkantāti? Ajja sattamo divasoti. Putto vā dhītā vā natthīti? Dhītā atthi deva, putto natthīti. Karissāmi rajjanti. Te tāvadeva abhisekamaṇḍapaṃ kāretvā rājadhītaraṃ sabbālaṅkārehi alaṅkaritvā uyyānaṃ ānetvā kumārassa abhisekaṃ akaṃsu.

Lúc đó, vị công mở tấm che mặt, nhìn và nói rằng: “Này các ông, các ông đến đây vì việc gì?” – Các viên quan thưa: “Thưa bệ hạ, vương quốc đã đến cho Ngài.” – Cậu công tử: “Đức Vua đi đâu?” – Các viên quan đáp: “Đức Vua đã băng hà.” – Đã mấy ngày rồi? – Ngày hôm nay là ngày thứ bảy. – (Đức Vua) không có Hoàng Tử hay Công chúa sao? – Kính bạch Ngài, Hoàng thượng, có Công chúa nhưng không có Hoàng Tử. – Vậy thì, ta sẽ trị vì Vương quốc. Các viên quan xây đại sảnh cho lễ phong vương ngay lập tức. (Họ) trang điểm cho Công chúa bằng tất cả đồ trang sức, đưa nàng đến vườn thượng uyển, và thực hiện lễ phong vương cùng công tử.

Athassa katābhisekassa sahassagghanakaṃ vatthaṃ upahariṃsu. So ‘‘kimidaṃ, tātā’’ti āha. Nivāsanavatthaṃ devāti. Nanu, tātā, thūlaṃ, aññaṃ sukhumataraṃ natthīti? Manussānaṃ paribhogavatthesu ito sukhumataraṃ natthi devāti. Tumhākaṃ rājā evarūpaṃ nivāsesīti? Āma, devāti. Na maññe puññavā tumhākaṃ rājā, suvaṇṇabhiṅgāraṃ āharatha, labhissāma vatthanti. Te suvaṇṇabhiṅgāraṃ āhariṃsu. So uṭṭhāya hatthe dhovitvā mukhaṃ vikkhāletvā hatthena udakaṃ ādāya puratthimāya disāya abbhukkiri, tāvadeva ghanapathaviṃ bhinditvā aṭṭha kapparukkhā uṭṭhahiṃsu. Puna udakaṃ gahetvā dakkhiṇaṃ pacchimaṃ uttaranti evaṃ catassopi disā abbhukkiri, sabbadisāsu aṭṭhaṭṭha katvā dvattiṃsa kapparukkhā uṭṭhahiṃsu. So ekaṃ dibbadussaṃ nivāsetvā ekaṃ pārupitvā ‘‘nandarañño vijite suttakantikā itthiyo mā suttaṃ kantiṃsūti evaṃ bheriṃ carāpethā’’ti vatvā chattaṃ ussāpetvā alaṅkatapaṭiyatto hatthikkhandhavaragato nagaraṃ pavisitvā pāsādaṃ āruyha mahāsampattiṃ anubhavi.

Lúc ấy, khi vị công tử đã hoàn thành lễ phong vương, quần chúng mang tấm vải có giá trị một trăm ngàn đến dâng nạp. Đức Vua (vị công tử) hỏi: “Này các khanh, đây là gì vậy?” – Các viên quan tâu: “Tâu bệ hạ, đây là y phục để mặc.” – Đức Vua nói: “Này các khanh, tấm vải này chất liệu thô cứng, không có tấm vải nào khác mềm mịn hơn hay sao?” – Các viên quan tâu: “Tâu bệ hạ, trong số các tấm vải mà quần chúng sử dụng, không có tấm vải nào mềm mịn hơn tấm vải này.” – Các Đức Vua của các khanh mặc loại vải như thế này hay sao? – Đúng rồi, thưa bệ hạ. – Các Đức Vua của các khanh hẳn là không có phước báu. – Các khanh hãy mang bình nước làm bằng vàng đến. Ta sẽ có được tấm vải. – Họ liền mang bình nước làm bằng vàng đến. – Đức Vua đứng dậy, rửa tay, súc miệng, vốc nước bằng tay và vẩy nước về phía Đông. Ngay lúc đó, tám cây Kappa xuyên thủng mặt đất rắn chắc mà mọc lên, (Ngài) tiếp tục vốc nước và vẩy nước xuống ba hướng khác là— hướng Nam, hướng Tây và hướng Bắc. Cây Kappa mọc lên ở cả bốn hướng, mỗi hướng tám cây, tổng cộng là ba mươi hai cây. Đức Vua đã mặc một tấm vải thuộc cõi Trời và khoác thêm một tấm vải rồi ra lệnh rằng: “Các khanh hãy đi đánh trống loan báo như thế này rằng: “Trong vương quốc của Đức Vua Nanda như vầy: ‘Các nữ nhân làm nghề xe sợi chỉ hãy dừng xe chỉ,’” rồi cho giương cây lọng trắng lên, trang điểm bản thân, cưỡi lên mình con voi cao quý và tiến vào kinh thành, bước lên cung điện thọ hưởng sự thành tựu to lớn.

Evaṃ kāle gacchante ekadivasaṃ devī rañño mahāsampattiṃ disvā ‘‘aho tapassī’’ti kāruññākāraṃ dassesi. ‘‘Kimidaṃ devī’’ti ca puṭṭhā ‘‘atimahatī te deva sampatti, atīte buddhānaṃ saddahitvā kalyāṇaṃ akattha, idāni anāgatassa paccayaṃ kusalaṃ na karothā’’ti āha. Kassa dassāmi, sīlavanto natthīti. ‘‘Asuñño, deva, jambudīpo arahantehi, tumhe dānameva sajjetha, ahaṃ arahante lacchāmī’’ti āha. Rājā punadivase pācīnadvāre dānaṃ sajjāpesi. Devī pātova uposathaṅgāni adhiṭṭhāya uparipāsāde puratthābhimukhā urena nipajjitvā ‘‘sace etissā disāya arahanto atthi, sve āgantvā amhākaṃ bhikkhaṃ gaṇhantū’’ti āha. Tassaṃ disāyaṃ arahanto nāhesuṃ, taṃ sakkāraṃ kapaṇayācakānaṃ adaṃsu.

Thế rồi thời gian trôi qua, vào một ngày nọ, Hoàng Hậu nhìn thấy sự thành tựu to lớn của Đức Vua đã bày tỏ nỗi niềm thương tiếc rằng: “Ôi! Ngài là người thiêu đốt.” Và (Hoàng Hậu) bị Đức Vua hỏi: “Này Hoàng Hậu, việc này là gì?” Nên đã nói: “Thưa bệ hạ, sự thành tựu vô cùng to lớn trong thời quá khứ, Ngài đã có niềm tin vào chư Phật và đã tạo các hành động tốt đẹp. Bây giờ, bệ hạ đã không tạo các việc thiện làm duyên cho thời vị lai.” Trẫm sẽ ban tặng cho ai, vị có giới thì không có. Hoàng Hậu đáp rằng: “Tâu bệ hạ, cõi Jambudīpa (Diêm Phù Đề) không hề trống vắng các bậc A-ra-hán đâu. Bệ hạ xin hãy chuẩn bị vật phẩm bố thí mà thôi, vào ngày mai thần thiếp sẽ thỉnh mời các vị ấy đến.” – Đức Vua đã ra lệnh chuẩn bị vật phẩm bố thí tại cổng phía Đông vào ngày hôm sau. – Hoàng Hậu đã phát nguyện thọ trì tám chi phần của ngày Uposatha (bát quan trai giới) vào buổi sáng, hướng mặt về phía Đông (bà) quỳ xuống trên tầng trên của cung điện rồi nói rằng: “Nếu các bậc A-ra-hán có tồn tại ở phương này, vào ngày mai xin cung thỉnh các Ngài hãy đến thọ nhận đồ ăn khất thực của chúng con.” Ở phương ấy, không có các bậc A-ra-hán, đã bố thí các lễ vật đã chuẩn bị đó đến người không nơi nương tựa và những người ăn xin.

Punadivase dakkhiṇadvāre dānaṃ sajjetvā tatheva akāsi, punadivase pacchimadvāre. Uttaradvāre sajjanadivase pana deviyā tatheva nimantite himavante vasantānaṃ padumavatiyā puttānaṃ pañcasatānaṃ paccekabuddhānaṃ jeṭṭhako mahāpadumapaccekabuddho bhātike āmantesi – ‘‘mārisā, nandarājā tumhe nimanteti, adhivāsetha tassā’’ti. Te adhivāsetvā punadivase anotattadahe mukhaṃ dhovitvā ākāsena āgantvā uttaradvāre otariṃsu. Manussā gantvā ‘‘pañcasatā, deva, paccekabuddhā āgatā’’ti rañño ārocesuṃ. Rājā saddhiṃ deviyā gantvā vanditvā pattaṃ gahetvā paccekabuddhe pāsādaṃ āropetvā tatra tesaṃ dānaṃ datvā bhattakiccāvasāne rājā saṅghattherassa, devī saṅghanavakassa pādamūle nipajjitvā, ‘‘ayyā, paccayehi na kilamissanti, mayaṃ puññena na hāyissāma, amhākaṃ yāvajīvaṃ idha nivāsāya paṭiññaṃ dethā’’ti. Paṭiññaṃ kāretvā uyyāne pañca paṇṇasālāsatāni pañca caṅkamanasatānīti sabbākārena nivāsaṭṭhānaṃ sampādetvā tattha vasāpesuṃ.

Ngày hôm sau (ngày thứ hai), (Đức Vua) chuẩn bị vật phẩm bố thí tại cổng phía Nam, rồi (Hoàng Hậu) cũng làm như vậy. Ngày tiếp theo (ngày thứ ba), tại cổng phía Tây (cũng được thực hiện tương tự). Đến ngày chuẩn bị (vật phẩm bố thí) tại cổng phía Bắc, khi được thỉnh mời tương tự y như thế bởi Hoàng Hậu, Đức Phật Độc Giác Mahā Paduma là huynh trưởng của năm trăm vị Phật Độc Giác, là con trai của Hoàng Hậu Padumavatī, đang an trú trong rừng Hy-mã-lạp, đã bảo chư Phật Độc Giác là em trai rằng: “Này các đệ, Đức Vua Nanda thỉnh mời các đệ, hãy đến thọ nhận đồ ăn khất thực của Đức Vua.” Chư Phật Độc Giác đã nhận lời thỉnh mời. Ngày hôm sau, sau khi rửa mặt ở hồ Anotatta, các Ngài đã bay lên rồi hạ xuống tại cổng phía Bắc. Rất nhiều người đến tâu với Đức Vua rằng: “Tâu bệ hạ, 500 vị Phật Độc Giác đã đến.” Đức Vua đã đi cùng với Hoàng Hậu đến (cổng thành), đảnh lễ và nhận lấy bình bát, rồi thỉnh mời chư Phật Độc Giác bước lên cung điện, cúng dường vật thí cho các vị ở tại đó, khi hoàn tất phận sự về thọ thực Đức Vua đã quỳ ở chân vị Trưởng lão của Hội chúng, còn Hoàng Hậu quỳ ở chân vị mới tu của Hội chúng, rồi nói rằng: “Kính thưa chư Tôn đức, các Ngài sẽ không khó khăn với các món vật dụng, và chúng con cũng sẽ không làm phước báu bị thối giảm. Xin các Ngài hãy chấp thuận cư ngụ ở đây đến trọn đời của chúng con.” Sau khi các Ngài chấp thuận, Đức Vua liền cho xây dựng chỗ cư ngụ cho chư Phật Độc Giác trong vườn thượng uyển bằng tất cả mọi tiện nghi, bao gồm: 500 gian nhà lá và 500 lối đi kinh hành, rồi thỉnh các Ngài cư ngụ tại đó.

Evaṃ kāle gacchante rañño paccanto kupito. So ‘‘ahaṃ paccantaṃ vūpasametuṃ gacchāmi, tvaṃ paccekabuddhesu mā pamajjī’’ti deviṃ ovaditvā gato. Tasmiṃ anāgateyeva paccekabuddhānaṃ āyusaṅkhārā khīṇā. Mahāpadumapaccekabuddho tiyāmarattiṃ jhānakīḷaṃ kīḷitvā aruṇuggamane ālambanaphalakaṃ ālambitvā ṭhitakova anupādisesāya nibbānadhātuyā parinibbāyi. Etenupāyena sesāpīti sabbeva parinibbutā. Punadivase devī paccekabuddhānaṃ nisīdanaṭṭhānaṃ haritupalittaṃ kāretvā pupphāni vikiritvā dhūmaṃ datvā tesaṃ āgamanaṃ olokentī nisinnā; āgamanaṃ apassantī purisaṃ pesesi ‘‘gaccha, tāta, jānāhi, kiṃ ayyānaṃ kiñci aphāsuka’’nti. So gantvā mahāpadumassa paṇṇasālādvāraṃ vivaritvā tattha apassanto caṅkamanaṃ gantvā ālambanaphalakaṃ nissāya ṭhitaṃ disvā vanditvā ‘‘kālo, bhante’’ti āha. Parinibbutasarīraṃ kiṃ kathessati? So ‘‘niddāyati maññe’’ti gantvā piṭṭhipāde hatthena parāmasitvā pādānaṃ sītalatāya ceva thaddhatāya ca parinibbutabhāvaṃ ñatvā dutiyassa santikaṃ agamāsi, evaṃ tatiyassāti sabbesaṃ parinibbutabhāvaṃ ñatvā rājakulaṃ gato. ‘‘Kahaṃ, tāta, paccekabuddhā’’ti puṭṭho ‘‘parinibbutā devī’’ti āha . Devī kandantī rodantī nikkhamitvā nāgarehi saddhiṃ tattha gantvā sādhukīḷitaṃ kāretvā paccekabuddhānaṃ sarīrakiccaṃ katvā dhātuyo gahetvā cetiyaṃ patiṭṭhāpesi.

Thế rồi thời gian trôi qua, vùng biên địa của Đức Vua xảy ra cuộc bạo loạn. Ngài nhắc nhở Hoàng Hậu: “Trẫm sẽ đi trấn áp (cuộc bạo loạn) ở vùng biên địa. Nàng chớ xao lãng việc phụng sự đối với chư Phật Độc Giác,” rồi Ngài xuất chinh. Trong khi Đức Vua vẫn chưa trở về, chư Phật Độc Giác đã chấm dứt thọ hành. Đức Phật Độc Giác Mahā Paduma đã tiêu khiển trong Thiền trọn ba canh của đêm. Vào lúc mặt trời mọc, trong lúc đứng vịn vào tấm ván để tựa lưng Ngài đã viên tịch Niết Bàn trong cảnh giới Niết Bàn không còn dư sót. Tất cả chư Phật Độc Giác còn lại cũng viên tịch Niết Bàn với phương thức ấy. Ngày hôm sau, Hoàng Hậu cho thực hiện chỗ ngồi của chư Phật Độc Giác, trải cỏ tươi, rải bông hoa, đốt hương thơm, rồi ngồi chờ đợi chư Phật Độc Giác đến; Khi không thấy các Ngài đến, (bà) sai người hầu đi thỉnh mời: “Này khanh, khanh hãy đi, hãy tìm hiểu xem: ‘Các vị Tôn đức đau yếu như thế nào?” Người hầu đi đến, mở cửa gian nhà lá của Đức Phật Độc Giác Mahā Paduma, khi không thấy Ngài ở đó, liền đến chỗ đi kinh hành, nhìn thấy Ngài đứng vịn vào tấm ván để tựa lưng, đảnh lễ rồi thưa rằng: “Bạch Ngài, đã đến thời rồi.” Thân thể của vị đã viên tịch Niết Bàn sẽ nói được gì nữa. Người hầu nghĩ rằng: “Có lẽ Ngài đang ngủ,” nên đã đi đến và dùng tay xoa vào mu bàn chân, sau khi biết rằng: “Ngài đã viên tịch Niết Bàn vì hai bàn chân lạnh và cứng,” Người ấy đã đi đến trú xứ của vị Phật Độc Giác thứ hai, sau khi biết về trạng thái viên tịch Niết Bàn như vậy, đã đi đến trú xứ của vị Phật Độc Giác thứ ba, sau khi biết rằng: “Tất cả chư Phật Độc Giác đều đã viên tịch Niết Bàn như thế. Người ấy mới trở về Hoàng cung.” Hoàng Hậu hỏi rằng: “Này khanh, chư Phật Độc Giác đi đâu?” – Người hầu liền tâu: “Tâu Hoàng Hậu, chư Phật Độc Giác đã viên tịch Niết Bàn.” – Hoàng Hậu xót xa và than khóc, Hoàng Hậu rời khỏi nơi ấy cùng với dân chúng, rồi ra lệnh tổ chức lễ hội thánh thiện (lễ hội liên quan đến sự Vô Thường, Khổ và Vô Ngã), thực hiện phận sự đối với cơ thể của chư Phật Độc Giác (Lễ Trà Tỳ), sau khi nhận lấy các Xá Lợi, rồi đã cho xây dựng ngôi Bảo điện (để tôn trí và tôn thờ).

Rājā paccantaṃ vūpasametvā āgato paccuggamanaṃ āgataṃ deviṃ pucchi – ‘‘kiṃ, bhadde, paccekabuddhesu nappamajji, nirogā ayyā’’ti? Parinibbutā devāti. Rājā cintesi – ‘‘evarūpānampi paṇḍitānaṃ maraṇaṃ uppajjati, amhākaṃ kuto mokkho’’ti? So nagaraṃ agantvā uyyānameva pavisitvā jeṭṭhaputtaṃ pakkosāpetvā tassa rajjaṃ paṭiyādetvā sayaṃ samaṇakapabbajjaṃ pabbaji. Devīpi ‘‘imasmiṃ pabbajite ahaṃ kiṃ karissāmī’’ti tattheva uyyāne pabbajitā. Dvepi jhānaṃ bhāvetvā tato cutā brahmaloke nibbattiṃsu.

Đức Vua trở về sau khi dẹp yên vùng biên địa, Ngài đã hỏi Hoàng Hậu, người đã ra nghênh đón rằng: “Này Hoàng Hậu hiền thục, nàng không xao lãng (không bỏ mặc) chư Phật Độc Giác chứ? Chư Tôn đức vẫn mạnh khỏe chứ?” – Thưa bệ hạ, quý Ngài đã viên tịch Niết Bàn rồi. – Đức Vua khởi lên suy nghĩ rằng: “Sự chết vẫn xảy ra đối với các bậc Hiền Trí có hình tướng như thế, vậy chúng ta sẽ thoát khỏi sự chết ấy ở đâu?” Ngài đã không vào thành, mà đi thẳng vào vườn thượng uyển, sau khi cho mời Đại Hoàng Tử đến, Ngài đã trao lại Vương Vị cho Hoàng Tử rồi khuyên dạy. Còn bản thân Ngài sẽ xuất gia sống đời sống của vị Sa-môn. Về phần Hoàng Hậu, khi Đức Vua đã xuất gia, (bà) nghĩ rằng: “Ta sẽ làm gì?” nên cũng xuất gia ở tại ngay vườn thượng uyển. Cả hai (Đức Vua và Hoàng Hậu) tu tập Thiền Định; từ nơi ấy, sau khi mệnh chung, họ đã tái sanh vào thế giới Phạm Thiên.

Tesu tattheva vasantesu amhākaṃ satthā loke uppajjitvā pavattitavaradhammacakko anupubbena rājagahaṃ pāvisi. Satthari tattha vasante ayaṃ pippalimāṇavo magadharaṭṭhe mahātitthabrāhmaṇagāme kapilabrāhmaṇassa aggamahesiyā kucchimhi nibbatto, ayaṃ bhaddā kāpilānī maddaraṭṭhe sāgalanagare kosiyagottabrāhmaṇassa aggamahesiyā kucchimhi nibbattā. Tesaṃ anukkamena vaḍḍhamānānaṃ pippalimāṇavassa vīsatime vasse bhaddāya soḷasame vasse sampatte mātāpitaro puttaṃ oloketvā, ‘‘tāta, tvaṃ vayapatto, kulavaṃso nāma patiṭṭhāpetabbo’’ti ativiya nippīḷayiṃsu. Māṇavo āha – ‘‘mayhaṃ sotapathe evarūpaṃ kathaṃ mā kathetha, ahaṃ yāva tumhe dharatha, tāva paṭijaggissāmi, tumhākaṃ accayena nikkhamitvā pabbajissāmī’’ti. Te katipāhaṃ atikkamitvā puna kathayiṃsu, sopi tatheva paṭikkhipi. Punapi kathayiṃsu, punapi paṭikkhipi. Tato paṭṭhāya mātā nirantaraṃ kathesiyeva.

Trong khi hai người an trú ở tại nơi đó (thế giới Phạm Thiên), bậc Đạo Sư của chúng ta đã xuất hiện ở thế gian, vận chuyển Bánh Xe Pháp Bảo vô thượng, rồi đi vào thành Rājagaha theo tuần tự. Trong khi bậc Đạo Sư an trú ở đó, thanh niên Pippali này tái sanh vào bào thai của người vợ cả của Bà-la-môn Kapila tại làng Bà-la-môn tên là Mahātittha ở xứ sở Magadha. Nàng Bhaddā Kāpilānī này tái sanh vào bào thai của người vợ cả của Bà-la-môn thuộc tộc Koliya tại thành Sāgala ở xứ sở Madda. Khi cả hai đến tuổi trưởng thành qua năm tháng: Khi thanh niên Pippali được hai mươi tuổi, thì nàng Bhaddā được mười sáu tuổi, cha mẹ quan sát con trai và cảm thấy rất nặng lòng: “Con ơi, con đã trưởng thành rồi, gia tộc cần phải duy trì (nòi giống).” Thanh niên Pippali nói rằng: “Xin cha mẹ đừng nói những lời nói có hình thức như vậy vào tai con nữa. Con sẽ phụng dưỡng cho đến khi nào hai người còn tại tiền. Sau khi hai người qua đời, con sẽ xuất gia.” Cha mẹ để cho thời gian trôi qua hai ba ngày rồi lại nói tiếp. Thanh niên ấy cũng từ chối tương tự như lần trước. Kể từ đó, người mẹ liên tục nhắc đến (việc cưới vợ).

Māṇavo ‘‘mama mātaraṃ saññāpessāmī’’ti rattasuvaṇṇassa nikkhasahassaṃ datvā suvaṇṇakārehi ekaṃ itthirūpaṃ kārāpetvā tassa majjanaghaṭṭanādikammapariyosāne taṃ rattavatthaṃ nivāsāpetvā vaṇṇasampannehi pupphehi ceva nānāalaṅkārehi ca alaṅkārāpetvā mātaraṃ pakkosāpetvā āha – ‘‘amma, evarūpaṃ ārammaṇaṃ labhanto gehe vasissāmi, alabhanto na vasissāmī’’ti . Paṇḍitā brāhmaṇī cintesi – ‘‘mayhaṃ putto puññavā dinnadāno katābhinīhāro, puññaṃ karonto na ekakova akāsi, addhā etena saha katapuññā suvaṇṇarūpakapaṭibhāgāva bhavissatī’’ti aṭṭha brāhmaṇe pakkosāpetvā sabbakāmehi santappetvā suvaṇṇarūpakaṃ rathaṃ āropetvā ‘‘gacchatha, tātā, yattha amhākaṃ jātigottabhogehi samānakule evarūpaṃ dārikaṃ passatha, imameva suvaṇṇarūpakaṃ paṇṇākāraṃ katvā dethā’’ti uyyojesi.

Thanh niên nghĩ rằng: “Ta sẽ thuyết phục mẹ” mới lấy một ngàn đồng tiền vàng ròng sáng bóng và cho thợ kim hoàn làm bức tượng của một người phụ nữ. Khi hoàn tất việc đánh bóng và chạm trổ bức tượng ấy, mới cho bức tượng người nữ ấy mặc chiếc vải đỏ, trang điểm với các bông hoa đầy đủ màu sắc và trang điểm với nhiều loại trang sức khác nhau, rồi cho mời mẹ đến và nói: “Thưa mẹ, khi con được đối tượng có hình tướng như thế này thì con sẽ kết hôn. Nếu không được, con sẽ không kết hôn.” Nữ Bà-la-môn là người có trí tuệ nên mới nghĩ rằng: “Con trai của ta là người có phước báu, có việc bố thí đã được làm và có lời phát nguyện đã được thực hiện, khi tạo phước chắc chắn không làm một mình. Người phụ nữ cùng tạo phước báu với con trai của ta đây chắc chắn sẽ có vẻ đẹp ngang bằng với bức tượng vàng.” Bà liền đã mời tám vị Bà-la-môn đến, làm hài lòng bằng mọi thứ, cho đặt bức tượng vàng lên cỗ xe rồi đưa đi (nói rằng): “Thưa quý Ngài, hãy đi, ở bất luận nơi nào các Ngài gặp một cô gái giống như bức tượng vàng này trong gia đình tương đương với chúng tôi về chủng tộc, dòng họ và tài sản, hãy ban tặng chính bức tượng vàng này làm sính lễ tại nơi đó.”

Te ‘‘amhākaṃ nāma etaṃ kamma’’nti nikkhamitvā ‘‘kattha gamissāmā’’ti cintetvā ‘‘maddaraṭṭhaṃ nāma itthākaro, maddaraṭṭhaṃ gamissāmā’’ti maddaraṭṭhe sāgalanagaraṃ agamaṃsu. Tattha taṃ suvaṇṇarūpakaṃ nhānatitthe ṭhapetvā ekamante nisīdiṃsu. Atha bhaddāya dhātī bhaddaṃ nhāpetvā alaṅkaritvā sirigabbhe nisīdāpetvā nhāyituṃ āgacchantī taṃ rūpakaṃ disvā ‘‘ayyadhītā me idhāgatā’’ti saññāya santajjetvā ‘‘dubbinīte kiṃ tvaṃ idhāgatā’’ti talasattikaṃ uggiritvā ‘‘gaccha sīgha’’nti gaṇḍapasse pahari. Hattho pāsāṇe paṭihato viya kampittha. Sā paṭikkamitvā ‘‘evaṃ thaddhaṃ nāma mahāgīvaṃ disvā ‘ayyadhītā me’ti saññaṃ uppādesiṃ, ayyadhītāya hi me nivāsanapaṭiggāhikāyapi ayuttā’’ti āha. Atha naṃ te manussā parivāretvā ‘‘evarūpā te sāmidhītā’’ti pucchiṃsu. Kiṃ esā, imāya sataguṇena sahassaguṇena mayhaṃ ayyādhītā abhirūpatarā, dvādasahatthe gabbhe nisinnāya padīpakiccaṃ natthi, sarīrobhāseneva tamaṃ vidhamatīti. ‘‘Tena hi āgacchā’’ti khujjaṃ gahetvā suvaṇṇarūpakaṃ rathaṃ āropetvā kosiyagottassa brāhmaṇassa gharadvāre ṭhatvā āgamanaṃ nivedayiṃsu.

Các vị ấy đã cùng nhau rời đi với nhận thức rõ: “Đây là công việc của chúng ta,” rồi nghĩ rằng: “Chúng ta sẽ đi đâu?” Họ đồng thuận: “Thường thì xứ sở Madda là nơi sinh ra nhiều thiếu nữ xinh đẹp. Chúng ta sẽ đi đến xứ sở Madda,” thế là họ đi đến thành Sāgala thuộc xứ sở Madda. Lúc ấy, dưỡng mẫu của Bhaddā, sau khi cho nàng tắm gội, trang điểm, và để nàng ngồi trong căn phòng xa hoa, còn bà sẽ đi tắm. Ngay khi nhìn thấy bức tượng ấy liền hăm dọa vì lầm tưởng đó là tiểu thư mình đến đây, nên đã nói rằng: “Này con bé bướng bỉnh, con đến đây làm gì?” Rồi giơ tay đánh vào má (của bức tượng) đồng thời nói rằng: “Hãy đi mau.” Bàn tay bị bật lại như đánh vào tảng đá. Dưỡng mẫu biết rằng “Đây là một bức tượng rắn chắc bởi tính chất như thế.” Bà liền tránh sang (một bên) và nói: “Ta thấy bức tượng vàng liền lầm tưởng là tiểu thư của mình. Nhưng cô gái này, ngay cả người tiếp nhận chiếc hạ y của tiểu thư mình cũng không xứng.” Sau đó, những người ấy liền vây quanh bà rồi hỏi rằng: “Tiểu thư của bà có hình tướng giống như thế này không?” – Người dưỡng mẫu nói rằng: “Cô gái này ư? Tiểu thư của tôi đẹp hơn cô gái này gấp trăm, gấp ngàn lần. Khi nàng ngồi trong căn phòng khoảng 12 cánh tay, thì việc thắp lên ngọn đèn là không có. Nàng ấy tự mình xua tan bóng tối bằng ánh sáng phát ra từ cơ thể.” Những người ấy nói rằng: “Nếu đã như vậy, hãy cùng đi.” [Họ] liền mang lễ vật, đặt bức tượng vàng lên cỗ xe và dừng lại tại cổng nhà của gia tộc Bà-la-môn Koliya, và đã thông báo về sự viếng thăm.

Brāhmaṇo paṭisanthāraṃ katvā ‘‘kuto āgatatthā’’ti pucchi. Magadharaṭṭhe mahātitthagāme kapilabrāhmaṇassa gharatoti. Kiṃ kāraṇā āgatāti? Iminā nāma kāraṇenāti. ‘‘Kalyāṇaṃ, tātā, samajātigottavibhavo amhākaṃ brāhmaṇo, dassāmi dārika’’nti paṇṇākāraṃ gaṇhi. Te kapilabrāhmaṇassa sāsanaṃ pahiṇiṃsu ‘‘laddhā dārikā, kattabbaṃ karothā’’ti. Taṃ sāsanaṃ sutvā pippalimāṇavassa ārocayiṃsu ‘‘laddhā kira dārikā’’ti. Māṇavo ‘‘ahaṃ ‘na labhissantī’ti cintesiṃ, ‘ime laddhāti vadanti’, anatthiko hutvā paṇṇaṃ pesessāmī’’ti rahogato paṇṇaṃ likhi ‘‘bhaddā attano jātigottabhogānurūpaṃ gharāvāsaṃ labhatu, ahaṃ nikkhamitvā pabbajissāmi, mā pacchā vippaṭisārinī ahosī’’ti. Bhaddāpi ‘‘asukassa kira maṃ dātukāmo’’ti sutvā rahogatā paṇṇaṃ likhi ‘‘ayyaputto attano jātigottabhogānurūpaṃ gharāvāsaṃ labhatu, ahaṃ nikkhamitvā pabbajissāmi, mā pacchā vippaṭisārī ahosī’’ti. Dve paṇṇāni antarāmagge samāgacchiṃsu. Idaṃ kassa paṇṇanti? Pippalimāṇavena bhaddāya pahitanti. Idaṃ kassāti? Bhaddāya pippalimāṇavassa pahitanti ca vutte dvepi vācetvā ‘‘passatha dārakānaṃ kamma’’nti phāletvā araññe chaḍḍetvā samānapaṇṇaṃ likhitvā ito ca etto ca pesesuṃ. Iti tesaṃ anicchamānānaṃyeva samāgamo ahosi.

Bà-la-môn (cha của Bhaddā), sau khi tỏ vẻ thân thiện đã hỏi rằng: “Các ông từ đâu đến?” Họ đáp: “Chúng tôi đến từ tư gia của Bà-la-môn Kapila tại làng Mahātittha thuộc xứ sở Magadha.” – Bà-la-môn hỏi: “Các ông đến vì lý do gì?” – Họ đáp: “Vì lý do này.” – Bà-la-môn nói rằng: “Tốt lắm các ông! Gia đình Bà-la-môn của chúng ta có chủng tộc, dòng họ và tài sản tương đương. Tôi sẽ gả con gái,” rồi nhận lấy sính lễ. Họ đã chuyển thông điệp đến Bà-la-môn Kapila rằng: “Đã tìm được cô gái rồi. Ông hãy làm những điều cần làm.” Sau khi nghe được thông điệp đó (Bà-la-môn Kapila) đã nói lại với thanh niên Pipphali rằng: “Họ nói đã tìm được cô gái ấy rồi.” Thanh niên Pipphali nghĩ rằng: “Ta vốn nghĩ sẽ không tìm được,” nhưng những người này lại nói rằng: ‘đã tìm được.’ Ta không có mong muốn, ta sẽ gửi một bức thư cho (nàng ấy biết), rồi đi đến một chỗ kín đáo viết một bức thư như sau: “Này Bhaddā, mong nàng tìm được đời sống gia đình tương xứng với chủng tộc, dòng họ và tài sản của mình. Ta sẽ đi xuất gia, chớ để hối tiếc về sau.” Ngay cả nàng Bhaddā sau khi nghe tin: “Họ muốn gả ta cho người kia.” Nàng cũng đi đến nơi kín đáo và viết một bức thư như sau: “Này công tử, mong chàng tìm được đời sống gia đình tương xứng với chủng tộc, dòng họ và tài sản của mình. Thiếp sẽ đi xuất gia, chớ để hối tiếc về sau.” Cả hai bức thư chạm nhau trên đường đi, những người ấy khi bị phía nàng Bhaddā hỏi: “Đây là bức thư của ai?” những người đó trả lời: “Đây là bức thư của thanh niên Pipphali gửi cho nàng Bhaddā.” Và khi bị phía thanh niên Pipphali hỏi: “Còn đây là bức thư của ai?” Họ trả lời: “Đây là bức thư của nàng Bhaddā gửi cho thanh niên Pipphali.” Họ liền đọc cả hai bức thư rồi nói: “Các ông hãy xem hành động của những đứa trẻ!” Họ đã xé cả [hai bức thư] và vứt bỏ trong rừng. Họ viết thư có nội dung tương tự gửi cho cả hai bên này lẫn bên kia (cả hai bên). Như thế, cả hai người ấy dầu không mong muốn nhưng cũng đã về sống chung với nhau.

Taṃdivasameva māṇavo ekaṃ pupphadāmaṃ gahetvā ṭhapesi. Bhaddāpi, tāni sayanamajjhe ṭhapesi. Bhuttasāyamāsā ubhopi ‘‘sayanaṃ abhiruhissāmā’’ti samāgantvā māṇavo dakkhiṇapassena sayanaṃ abhiruhi. Bhaddā vāmapassena abhiruhitvā āha – ‘‘yassa passe pupphāni milāyanti, tassa rāgacittaṃ uppannanti vijānissāma, imaṃ pupphadāmaṃ na allīyitabba’’nti. Te pana aññamaññaṃ sarīrasamphassabhayena tiyāmarattiṃ niddaṃ anokkamantāva vītināmenti, divā pana hāsamattampi nāhosi. Te lokāmisena asaṃsaṭṭhā yāva mātāpitaro dharanti, tāva kuṭumbaṃ avicāretvā tesu kālaṅkatesu vicārayiṃsu. Mahatī māṇavassa sampatti sattāsītikoṭidhanaṃ, ekadivasaṃ sarīraṃ ubbaṭṭetvā chaḍḍetabbaṃ suvaṇṇacuṇṇameva magadhanāḷiyā dvādasanāḷimattaṃ laddhuṃ vaṭṭati. Yantabaddhāni saṭṭhi mahātaḷākāni, kammanto dvādasayojaniko, anurādhapurappamāṇā cuddasa gāmā, cuddasa hatthānīkā, cuddasa assānīkā, cuddasa rathānīkā.

Vào chính ngày hôm ấy, chàng thanh niên sau khi nhận được một vòng hoa đã đặt xuống, và nàng Bhaddā Kapilānī cũng đã đặt một vòng hoa ở giữa chiếc giường. Cả hai dùng bữa tối rồi đi đến cùng nhau với ý định “chúng ta sẽ bước lên giường,” chàng thanh niên bước lên giường ở phía bên phải, nàng Bhaddā bước lên giường ở phía bên trái rồi nói rằng: Vòng hoa ở phía của người nào bị héo, chúng ta sẽ biết rằng: Tâm luyến ái đã sanh khởi nơi người đó; Vì thế, chúng ta không nên chạm vào vòng hoa này.” Do đó, cả hai đã không ngủ trọn ba canh của đêm vì sợ chạm vào thân thể của nhau, cho đến khi đêm trôi qua. Hơn nữa, đã không có dầu chỉ một nụ cười vào ban ngày. Họ không quyến luyến với vật chất thế gian, khi nào cha mẹ còn tại tiền, khi ấy họ không quản lý tài sản; chỉ sau khi cha mẹ qua đời, họ mới quản lý. Thanh niên Pipphali có tài sản (tính bằng tiền) là 870 koṭi, chỉ riêng bột vàng được dùng để đánh bóng thân thể rồi vứt đi mỗi ngày cũng thu được khoảng 12 nāḷī[6] theo nāḷī của xứ Magadha, có 60 khu vực thủy lợi được gắn máy móc, có chỗ làm việc (tức là đất đai canh tác) rộng 12 do-tuần, có 14 ngôi làng của người nô lệ diện tích bằng thành Anurādhapura, có 14 đội voi binh, có 14 đội mã binh, có mười bốn đội xa binh.

So ekadivasaṃ alaṅkataassaṃ āruyha mahājanaparivuto kammantaṃ gantvā khettakoṭiyaṃ ṭhito naṅgalehi bhinnaṭṭhānato kākādayo sakuṇe gaṇḍuppādādipāṇake uddharitvā khādante disvā, ‘‘tātā, ime kiṃ khādantī’’ti pucchi. Gaṇḍuppāde, ayyāti. Etehi kataṃ pāpaṃ kassa hotīti? Tumhākaṃ, ayyāti. So cintesi – ‘‘sace etehi kataṃ pāpaṃ mayhaṃ hoti, kiṃ me karissati sattāsītikoṭidhanaṃ, kiṃ dvādasayojaniko kammanto, kiṃ saṭṭhiyantabaddhāni taḷākāni, kiṃ cuddasa gāmā? Sabbametaṃ bhaddāya kāpilāniyā niyyātetvā nikkhamma pabbajissāmī’’ti.

Vào một ngày nọ, thanh niên Pipphali cưỡi ngựa đã được trang trí, được tháp tùng bởi đám đông người đi đến chỗ làm việc, trong khi đứng ở cuối cánh đồng thì nhìn thấy những loài chim như loài quạ, v.v, đang bới móc các loài côn trùng như giun đất, v.v, từ vết cày đem ra ăn, chàng mới hỏi: “Này các anh, những con vật này ăn gì vậy?” – Đám đông đáp: “Thưa cậu chủ, nó ăn con giun đất.” – Chàng thanh niên hỏi: “Tội lỗi mà những con vật này gây ra là của ai?” – Đám đông đáp: “Thưa cậu chủ, tội lỗi ấy là của cậu.” – Chàng thanh niên nghĩ rằng: “Nếu tội lỗi mà những con vật này gây ra rơi vào ta, thì 870 triệu tài sản sẽ làm được gì? chỗ làm việc rộng 12 do-tuần sẽ làm được gì? 60 khu vực thủy lợi được gắn máy móc sẽ làm được gì? Ta sẽ trao lại toàn bộ tài sản này cho Bhaddā Kapilānī rồi sẽ đi xuất gia.

Bhaddāpi kāpilānī tasmiṃ khaṇe antaravatthumhi tayo tilakumbhe pattharāpetvā dhātīhi parivutā nisinnā kāke tilapāṇake khādante disvā, ‘‘ammā, kiṃ ime khādantī’’ti pucchi. Pāṇake, ayyeti. Akusalaṃ kassa hotīti? Tumhākaṃ, ayyeti. Sā cintesi – ‘‘mayhaṃ catuhatthavatthaṃ nāḷikodanamattañca laddhuṃ vaṭṭati, yadi panetaṃ ettakena janena kataṃ akusalaṃ mayhaṃ hoti, addhā bhavasahassenapi vaṭṭato sīsaṃ ukkhipituṃ na sakkā, ayyaputte āgatamatteyeva sabbaṃ tassa niyyātetvā nikkhamma pabbajissāmī’’ti.

Vào thời khắc ấy, nàng Bhaddā Kapilānī cho gieo 3 chậu hạt vừng vào giữa ruộng. Những người giữ trẻ vây quanh và ngồi ở đó, nàng thấy các loài quạ ăn các loài côn trùng trong đóng hạt vừng nên mới hỏi rằng: “Này các chị, những con vật này đang ăn gì?” – “Thưa cô chủ, chúng ăn các loài côn trùng.” – “Bất thiện đó là của ai?” – “Bất thiện ấy là của cô chủ.” – Nàng nghĩ rằng: “Ta có được bốn khuỷu tay tấm vải và chừng một đấu cơm là đủ. Nếu nghiệp bất thiện đã tạo bởi chừng ấy người là của ta, thì ta không thể ngẩng đầu ra khỏi luân hồi đến một ngàn kiếp, khi phu quân ta đến, ta sẽ trao lại toàn bộ tài sản cho chàng rồi đi xuất gia.

Māṇavo āgantvā nhāyitvā pāsādaṃ āruyha mahārahe pallaṅke nisīdi. Athassa cakkavattino anucchavikaṃ bhojanaṃ sajjayiṃsu. Dvepi bhuñjitvā parijane nikkhante rahogatā phāsukaṭṭhāne nisīdiṃsu. Tato māṇavo bhaddaṃ āha – ‘‘bhadde imaṃ gharaṃ āgacchantī kittakaṃ dhanaṃ āharī’’ti? Pañcapaṇṇāsa sakaṭasahassāni, ayyāti. Etaṃ sabbaṃ, yā ca imasmiṃ ghare sattāsīti koṭiyo yantabaddhā saṭṭhitaḷākādibhedā sampatti atthi, sabbaṃ tuyhaṃyeva niyyātemīti. Tumhe pana kahaṃ gacchatha, ayyāti? Ahaṃ pabbajissāmīti. Ayya, ahampi tumhākaṃyeva āgamanaṃ olokayamānā nisinnā, ahampi pabbajissāmīti. Tesaṃ ādittapaṇṇakuṭi viya tayo bhavā upaṭṭhahiṃsu. Te antarāpaṇato kasāvarasapītāni vatthāni mattikāpatte ca āharāpetvā aññamaññaṃ kese ohārāpetvā ‘‘ye loke arahanto, te uddissa amhākaṃ pabbajjā’’ti vatvā thavikāya patte osāretvā aṃse laggetvā pāsādato otariṃsu. Gehe dāsesu vā kammakāresu vā na koci sañjāni.

Chàng thanh niên, sau khi tắm gội, đã bước lên tòa lâu đài rồi ngồi trên ghế dài vô cùng quý báu. Lúc ấy, các đầu bếp đang chuẩn bị bữa ăn xứng đáng đối với vị Chuyển Luân Vương. Sau khi cả hai thọ dụng vật thực, và khi những người hầu đã lui ra ngoài, họ đã đi đến một nơi thanh vắng và ngồi ở chỗ dễ chịu. Khi ấy, chàng thanh niên nói với nàng Bhaddā rằng: “Này Bhaddā, khi nàng đến nhà này, nàng đã mang theo bao nhiêu tài sản?” Nàng Bhaddā đáp: “Này phu quân, thiếp mang theo năm mươi lăm nghìn cỗ xe đầy.” Chàng thanh niên nói: “Tất cả tài sản đó cùng với tám trăm bảy mươi koṭi tài sản trong nhà này, và những tài sản khác, gồm 60 khu thủy lợi được gắn máy móc, v.v, toàn bộ tài sản này ta xin trao lại cho nàng.” – Nàng Bhaddā hỏi: “Này phu quân, vậy chàng sẽ đi đâu?” – Chàng thanh niên đáp: “Ta sẽ đi xuất gia.” – Nàng Bhaddā: “Thưa phu quân, ngay cả thiếp cũng đã ngồi chờ đợi việc đi đến của chàng (để nói điều này), thiếp cũng sẽ xuất gia.” Ba cõi hiện ra (trước mắt) hai người giống như một túp lều lá đang bốc cháy. Họ cho mang đến tấm vải màu ca-sa và bình bát từ chợ, rồi cạo tóc cho nhau và đã nói rằng: “Sự xuất gia của hai chúng ta liên quan đến phẩm vị A-ra-hán ở thế gian,” sau đó họ bỏ bình bát vào túi đựng, đeo lên vai, rồi bước xuống tòa lâu đài. Trong số các nô lệ và những người làm ở trong nhà không ai nhận ra (họ).

Atha ne brāhmaṇagāmato nikkhamma dāsagāmadvārena gacchante ākappakuttavasena dāsagāmavāsino sañjāniṃsu. Te rodantā pādesu nipatitvā ‘‘kiṃ amhe anāthe karotha, ayyā’’ti āhaṃsu. ‘‘Mayaṃ bhaṇe ādittapaṇṇasālā viya tayo bhavāti pabbajimhā, sace tumhesu ekekaṃ bhujissaṃ karoma, vassasatampi nappahoti. Tumheva tumhākaṃ sīsaṃ dhovitvā bhujissā hutvā jīvathā’’ti vatvā tesaṃ rodantānaṃyeva pakkamiṃsu. Thero purato gacchanto nivattitvā olokento cintesi – ‘‘ayaṃ bhaddā kāpilānī sakalajambudīpagghanikā itthī mayhaṃ pacchato āgacchati. Ṭhānaṃ kho panetaṃ vijjati, yaṃ kocideva evaṃ cinteyya ‘ime pabbajitvāpi vinā bhavituṃ na sakkonti, ananucchavikaṃ karontī’ti. Koci vā pana amhesu manaṃ padūsetvā apāyapūrako bhaveyya. Imaṃ pahāya mayā gantuṃ vaṭṭatī’’ti cittaṃ uppādesi.

Lúc ấy, sau khi rời khỏi làng Bà-la-môn, trong khi đang đi qua cổng vào làng của người nô lệ, họ được những người sống trong làng của người nô lệ nhận ra do nhờ cử chỉ và dáng vẻ của hai vị. Họ khóc lóc, quỳ lạy dưới chân (hai vị) và nói: “Thưa chủ nhân, Ngài sẽ làm cho chúng tôi mất nơi nương tựa sao?” Hai người nói rằng: “Này các anh, chúng tôi thấy rằng: Ba cõi giống như một túp lều lá bị bốc cháy nên mới đi xuất gia. Nếu chúng tôi cho mỗi người trong số các anh trở thành người tự do, dù một trăm năm cũng không đủ, chính các anh hãy tự gội đầu để trở thành người tự do, và hãy tự nuôi sống bản thân. Trong khi dân chúng ở làng nô lệ than khóc (hai vị) đã rời khỏi.” Trưởng lão [Mahā Kassapa tương lai] đi phía trước, quay người lại quan sát và suy nghĩ: “Bhaddā Kapilānī này là người nữ có giá trị trong toàn cõi Jambudīpa, đi ở phía sau ta. Sự kiện này xảy ra, bất cứ ai cũng có thể nghĩ như vầy: “Những người này dù đã xuất gia cũng không thể tách rời nhau và làm việc không đúng đắn,” mới khởi lên suy nghĩ rằng: “Bất kỳ ai có tâm ý xấu xa đối với chúng ta, cũng có thể là người phải lãnh chịu đầy đủ quả báo trong địa ngục. Ta nên rời bỏ nàng để tự mình ra đi.’”

So purato gacchanto dvedhāpathaṃ disvā tassa matthake aṭṭhāsi. Bhaddāpi āgantvā vanditvā aṭṭhāsi. Atha naṃ āha – ‘‘bhadde tādisiṃ itthiṃ mama pacchato āgacchantiṃ disvā ‘ime pabbajitvāpi vinā bhavituṃ na sakkontī’ti cintetvā amhesu paduṭṭhacitto mahājano apāyapūrako bhaveyya. Imasmiṃ dvedhāpathe tvaṃ ekaṃ gaṇha, ahaṃ ekena gamissāmī’’ti. ‘‘Āma, ayya, pabbajitānaṃ mātugāmo nāma malaṃ, ‘pabbajitvāpi vinā na bhavantī’ti amhākaṃ dosaṃ dassanti, tumhe ekaṃ maggaṃ gaṇhatha, ahaṃ ekaṃ gaṇhitvā vinā bhavissāmā’’ti tikkhattuṃ padakkhiṇaṃ katvā catūsu ṭhānesu pañcapatiṭṭhitena vanditvā dasanakhasamodhānasamujjalaṃ añjaliṃ paggayha ‘‘satasahassakappappamāṇe addhāne kato mittasanthavo ajja bhijjatī’’ti vatvā ‘‘tumhe dakkhiṇajātikā nāma, tumhākaṃ dakkhiṇamaggo vaṭṭati. Mayaṃ mātugāmā nāma vāmajātikā, amhākaṃ vāmamaggo vaṭṭatī’’ti vanditvā maggaṃ paṭipannā. Tesaṃ dvedhābhūtakāle ayaṃ mahāpathavī ‘‘ahaṃ cakkavāḷagirisinerupabbate dhāretuṃ sakkontīpi tumhākaṃ guṇe dhāretuṃ na sakkomī’’ti vadantī viya viravamānā akampi, ākāse asanisaddo viya pavatti, cakkavāḷapabbato unnadi.

Trưởng lão đi phía trước nhìn thấy con đường hai ngã liền dừng lại tại đầu ngã đường. Còn nàng Bhaddā đi tới, đảnh lễ rồi đứng lại. Lúc ấy, Trưởng lão nói với nàng Bhaddā rằng: “Này cô, đông đảo người nhìn thấy một người nữ như cô đi theo phía sau tôi, (họ) sẽ nghĩ rằng: ‘Những người này dù đã xuất gia cũng không thể tách rời nhau,’” rồi có tâm ý xấu xa đối với chúng ta, họ có thể là người phải lãnh chịu đầy đủ quả báo trong địa ngục. Chúng ta đang đứng ở con đường hai ngã này, cô hãy chọn lấy một con đường và tôi sẽ đi con đường còn lại. Nàng Bhaddā nói rằng: “Thật vậy, thưa Ngài. Thường nữ nhân là sự ô uế của các bậc xuất gia,” mọi người sẽ chỉ ra lỗi lầm của chúng ta rằng: “Những người này dù đã xuất gia cũng vẫn không tách rời nhau. Ngài hãy chọn một con đường, tôi sẽ chọn một con đường. Chúng ta sẽ tách rời nhau,” (nói rồi) nàng hướng vai phải nhiễu quanh ba lần, đảnh lễ với năm phần thân thể chạm xuống đất tại bốn hướng (tức là phía trước, phía sau, bên trái và bên phải), nàng chắp hai bàn tay tuyệt đẹp với mười ngón tay chụm lại rồi nói rằng: “Sự kết giao với một người bạn hữu đã được tạo trong suốt thời gian dài trải qua một trăm ngàn kiếp sẽ bị phá tan trong ngày hôm nay,” rồi nói tiếp: “Ngài gọi là có chủng tộc bên phải, con đường bên phải thích hợp với Ngài. Tôi là người nữ có chủng tộc bên trái, con đường bên trái thích hợp với tôi,” (nói xong) nàng đảnh lễ Ngài rồi bước theo con đường đã chọn. Trong lúc hai vị mỗi người một ngả, đại địa này cũng đã rúng động với tiếng gầm thét, như thể muốn nói rằng: “Ta có thể nâng đỡ ngọn núi Cakkavāḷa và ngọn núi Sineru, nhưng không thể nâng đỡ được phẩm hạnh của hai vị.” Trong không trung âm thanh vang dội như tiếng sấm sét, ngọn núi Cakkavāḷa cũng đã gầm lên.

Sammāsambuddho veḷuvanamahāvihāre gandhakuṭiyaṃ nisinno pathavīkampanasaddaṃ sutvā ‘‘kassa nu kho pathavī kampatī’’ti āvajjento ‘‘pippalimāṇavo ca bhaddā ca kāpilānī maṃ uddissa appameyyaṃ sampattiṃ pahāya pabbajitā, tesaṃ viyogaṭṭhāne ubhinnampi guṇabalena ayaṃ pathavīkampo jāto, mayāpi etesaṃ saṅgahaṃ kātuṃ vaṭṭatī’’ti gandhakuṭito nikkhamma sayameva pattacīvaramādāya asītimahātheresu kañci anāmantetvā tigāvutaṃ maggaṃ paccuggamanaṃ katvā rājagahassa ca nālandāya ca antare bahuputtakanigrodharukkhamūle pallaṅkaṃ ābhujitvā nisīdi. Nisīdanto pana aññatarapaṃsukūliko viya anisīditvā buddhavesaṃ gahetvā asītihatthā ghanabuddharasmiyo vissajjento nisīdi. Iti tasmiṃ khaṇe paṇṇacchatta-sakaṭacakka-kūṭāgārādippamāṇā buddharasmiyo ito cito ca vipphandantiyo vidhāvantiyo candasahassa-sūriyasahassa-uggamanakālo viya kurumānā taṃ vanantaṃ ekobhāsaṃ akaṃsu. Dvattiṃsamahāpurisalakkhaṇasiriyā samujjalatārāgaṇaṃ viya gaganaṃ, supupphitakamalakuvalayaṃ viya salilaṃ vanantaṃ virocittha. Nigrodharukkhassa khandho nāma seto hoti, pattāni nāma nīlāni, pakkāni rattāni. Tasmiṃ pana divase satasākho nigrodho suvaṇṇavaṇṇova ahosi.

Đức Phật Chánh đẳng Chánh giác khi đang ngồi tại Hương Thất ở Đại Tịnh xá Veḷuvana đã nghe âm thanh quả địa cầu rúng động, liền quan sát: “Quả địa cầu rúng động là vì ai vậy?” Ngài biết rằng: “Thanh niên Pipphali và cô Bhaddā Kapilānī đã dứt bỏ tài sản không đếm xuể và xuất gia hướng về Ta. Quả địa cầu rúng động này xảy ra bởi sức mạnh của phẩm hạnh của hai người trong khoảnh khắc họ chia tay (mỗi người đi mỗi ngả), ngay cả Ta cũng nên thực hiện sự trợ giúp cho cả hai người này,” nên đã tự mình bước ra khỏi Hương Thất, cầm bình bát và y phục, không gọi bất kỳ vị nào trong số tám mươi vị Đại Thinh Văn. Ngài đã đi tiếp đón họ ở cuối con đường cách khoảng ba gāvuta, ngồi xuống, xếp chân thế kiết già dưới gốc cây Bahuputtaka Nigrodha giữa thành Rājagaha và thành Nālandā. Hơn nữa, khi ngồi Ngài đã không ngồi giống như một vị thọ trì hạnh y phấn tảo, mà Ngài giữ hình tướng của Đức Phật, ngồi phát ra khối hào quang của đấng Giác Ngộ rộng khoảng tám mươi cánh tay. Vào thời điểm ấy, ánh hào quang của đấng Giác Ngộ có kích thước như chiếc dù được làm bằng lá, như bánh xe vật kéo, và như ngôi nhà mái nhọn, v.v, lượn vòng bao quanh khắp mọi phía giống như vào lúc hàng ngàn mặt trăng và hàng ngàn mặt trời mọc lên đã làm cho khu rừng đó có một luồng ánh sáng đồng nhất. (Thân thể) chói lọi bởi hào quang của ba mươi hai tướng trạng của bậc Đại Nhân, ví như bầu trời lấp lánh bởi các vì tinh tú. Cả khu rừng sáng rực tựa như mặt nước có đầy hoa sen đang nở rộ. Cây Nigrodha thông thường có thân màu trắng, có lá màu xanh và quả chín đỏ; nhưng ngày hôm nay, cây Nigrodha lại có cành màu trắng, ánh lên sắc vàng rực rỡ.

Mahākassapatthero ‘‘ayaṃ mayhaṃ satthā bhavissati, imāhaṃ uddissa pabbajito’’ti diṭṭhaṭṭhānato paṭṭhāya oṇatoṇato gantvā tīsu ṭhānesu vanditvā ‘‘satthā me, bhante bhagavā, sāvakohamasmi, satthā me, bhante bhagavā, sāvakohamasmī’’ti āha. Atha naṃ bhagavā avoca – ‘‘kassapa, sace tvaṃ imaṃ nipaccakāraṃ mahāpathaviyā kareyyāsi, sāpi dhāretuṃ na sakkuṇeyya. Tathāgatassa evaṃ guṇamahantataṃ jānatā tayā kato nipaccakāro mayhaṃ lomampi cāletuṃ na sakkoti. Nisīda, kassapa, dāyajjaṃ te dassāmī’’ti. Athassa bhagavā tīhi ovādehi upasampadaṃ adāsi. Datvā bahuputtakanigrodhamūlato nikkhamitvā theraṃ pacchāsamaṇaṃ katvā maggaṃ paṭipajji. Satthu sarīraṃ dvattiṃsamahāpurisalakkhaṇavicittaṃ, mahākassapassa sattamahāpurisalakkhaṇapaṭimaṇḍitaṃ. So kañcanamahānāvāya pacchābandho viya satthu padānupadikaṃ anugañchi. Satthā thokaṃ maggaṃ gantvā maggā okkamma aññatarasmiṃ rukkhamūle nisajjākāraṃ dassesi, thero ‘‘nisīditukāmo satthā’’ti ñatvā attano pārupanapilotikasaṅghāṭiṃ catugguṇaṃ katvā paññāpesi.

Trưởng lão Mahā Kassapa suy nghĩ: “Vị này chắc chắn sẽ là bậc Đạo Sư của ta. Ta xuất gia liên quan đến vị này,” vốn dĩ ngay từ nơi có thể nhìn thấy, Ngài cúi mình bước đi đảnh lễ tại 3 nơi (đảnh lễ từ xa, đảnh lễ ở giữa, và đảnh lễ ở gần) rồi nói rằng: “Bạch Đức Thế Tôn, Ngài là bậc Đạo Sư của con, con là đệ tử. Bạch Đức Thế Tôn, Ngài là bậc Đạo Sư của con, con là đệ tử.” Sau đó, Đức Thế Tôn đã nói với Trưởng lão Mahā Kassapa rằng— “Này Kassapa, nếu ông có thể thực hiện sự cung kính này đối với Đại địa cầu, (thì) Đại địa cầu ấy không thể nâng đỡ được (sự cung kính ấy). (Tuy nhiên) sự cung kính mà ông thực hiện không thể nào khiến cho (Ta) dù chỉ một sợi lông của Ta bị lung lay, bởi vì Như Lai có đức hạnh vĩ đại như thế. Này Kassapa, hãy ngồi xuống, Ta sẽ trao tặng tài sản thừa kế cho ông.” Sau đó, Đức Thế Tôn đã cho Trưởng lão Mahā Kassapa tu lên bậc trên thông qua ba lời giáo huấn. Sau khi cho tu lên bậc trên, Ngài đã rời khỏi gốc cây Bahuputtaka Nigrodha và bước lên con đường có Trưởng lão là vị Sa-môn đi sau. Thân thể của bậc Đạo Sư được tô điểm với ba mươi hai tướng trạng của bậc Đại Nhân. Thân thể của Mahā Kassapa được tô điểm với bảy tướng trạng của bậc Đại Nhân. Vị ấy đi theo sau bậc Đạo Sư giống như một chiếc thuyền nhỏ đi theo một chiếc thuyền to lớn bằng vàng. Bậc Đạo Sư đi được một quãng liền ghé xuống bên vệ đường ra dấu sẽ ngồi tại một gốc cây nọ. Trưởng lão biết rằng “bậc Đạo Sư có ý muốn ngồi” đã lấy y hai lớp cũ mà bản thân đang mặc gấp thành bốn lớp trải xuống cúng dường.

Satthā tasmiṃ nisīditvā hatthena cīvaraṃ parāmasitvā ‘‘mudukā kho tyāyaṃ, kassapa, pilotikasaṅghāṭī’’ti āha. Thero ‘‘satthā me saṅghāṭiyā mudukabhāvaṃ katheti, pārupitukāmo bhavissatī’’ti ñatvā ‘‘pārupatu, bhante, bhagavā saṅghāṭi’’nti āha. Kiṃ tvaṃ pārupissasi kassapāti? Tumhākaṃ nivāsanaṃ labhanto pārupissāmi, bhanteti. ‘‘Kiṃ pana tvaṃ, kassapa, imaṃ paribhogajiṇṇaṃ paṃsukūlaṃ dhāretuṃ sakkhissasi? Mayā hi imassa paṃsukūlassa gahitadivase udakapariyantaṃ katvā mahāpathavī kampi, imaṃ buddhānaṃ paribhogajiṇṇaṃ cīvaraṃ nāma na sakkā parittaguṇena dhāretuṃ, paṭibalenevidaṃ paṭipattipūraṇasamatthena jātipaṃsukūlikena gahetuṃ vaṭṭatī’’ti vatvā therena saddhiṃ cīvaraṃ parivattesi.

Bậc Đạo Sư, sau khi ngồi trên Tăng-già-lê đó, Ngài đã dùng tay sờ vào tấm y rồi nói rằng: “Này Kassapa, tấm y hai lớp làm bằng vải cũ của ông mềm mại đấy.” Trưởng lão biết rằng: “Bậc Đạo Sư nói đến tính chất mềm mại của tấm y hai lớp của ta, chắc chắn có ý muốn mặc (chiếc y ấy),” liền thưa: “Kính bạch Ngài, xin Đức Thế Tôn hãy mặc y hai lớp này.” – Bậc Đạo Sư nói rằng: “Này Kassapa, vậy ông sẽ mặc cái gì?” – Trưởng lão đáp rằng: “Khi con có được tấm y của Ngài, (con) sẽ mặc (tấm y ấy).” – Bậc Đạo Sư nói: “Này Kassapa, ông sẽ có thể mặc tấm y phấn tảo (y được may bằng vải bị quăng bỏ) đã được sử dụng đến cũ kỹ này như thế được sao? Bởi vì Đại địa cầu đã tạo thành vành đai nước và đã rúng động vào ngày Ta giặt tấm y phấn tảo này.” Y phục đã cũ vì sử dụng của chư Phật này, dù đã cũ (nhưng) người có đức hạnh ít ỏi không thể mặc được. Tấm y này chỉ vị có năng lực, có khả năng thực hành lối thực hành, vị vốn đã thọ trì hạnh y phấn tảo từ trước mới thích hợp thọ nhận.” Nói xong, Ngài đổi y phục với Trưởng lão.

Evaṃ pana cīvaraparivattaṃ katvā therena pārutacīvaraṃ bhagavā pārupi, satthu cīvaraṃ thero pārupi. Tasmiṃ samaye acetanāpi ayaṃ mahāpathavī ‘‘dukkaraṃ, bhante, akattha, attanā pārutacīvaraṃ sāvakassa dinnapubbaṃ nāma natthi, ahaṃ tumhākaṃ guṇaṃ dhāretuṃ na sakkomī’’ti vadantī viya udakapariyantaṃ katvā kampi. Theropi ‘‘laddhaṃ dāni mayā buddhānaṃ paribhogacīvaraṃ, kiṃ me idāni uttari kattabbaṃ atthī’’ti unnatiṃ akatvā buddhānaṃ santikeyeva terasa dhutaguṇe samādāya sattadivasamattaṃ puthujjano hutvā aṭṭhame aruṇe saha paṭisambhidāhi arahattaṃ pāpuṇi. Satthāpi ‘‘kassapo, bhikkhave, candūpamo kulāni upasaṅkamati, apakasseva kāyaṃ apakassa cittaṃ niccanavako kulesu appagabbho’’ti (saṃ. ni. 2.146) evamādīhi suttehi theraṃ thometvā aparabhāge etadeva kassapasaṃyuttaṃ aṭṭhuppattiṃ katvā ‘‘mama sāsane dhutavādānaṃ bhikkhūnaṃ mahākassapo aggo’’ti theraṃ ṭhānantare ṭhapesīti.

Hơn nữa, sau khi trao đổi y phục như vậy, đức Thế Tôn đã mặc tấm y cũ mã Trưởng lão đã mặc, và Trưởng lão mặc tấm y của bậc Đạo Sư. Vào lúc đó, Đại địa cầu này đã được bao bọc quanh bởi nước, dù không có tâm thức cũng đã rúng động như muốn nói rằng: “Bạch Ngài, Ngài đã làm điều khó làm, y phục mà Ngài đã mặc là chưa từng được ban cho các đệ tử trước kia (tức là chưa từng có việc ban tặng y phục đã mặc cho đệ tử). Con không thể nâng đỡ nổi đức hạnh của Ngài.” Trưởng lão đã không tự mãn rằng: “Bây giờ, ta có được y phục sử dụng của chư Phật, điều nên được làm cao hơn nữa bởi ta vào lúc này vẫn còn hay không?” Vì vậy, Ngài đã thọ trì mười ba hạnh đầu đà ngay trong sự chứng minh của Đức Phật, Ngài chỉ là một (Tỳ-khưu) phàm nhân trong bảy ngày; đến rạng sáng ngày thứ tám Ngài đã chứng đắc quả vị A-ra-hán, cùng với các tuệ phân tích.” Ngay cả bậc Đạo Sư cũng đã tán thán Trưởng lão bằng các bài Kinh được bắt đầu như sau: “Này các Tỳ-khưu, Kassapa giống như mặt trăng đi vào các gia đình, viễn ly thân, viễn ly tâm (khỏi các pháp bất thiện), luôn luôn là người mới, không thô tháo ở các gia đình.’” (saṃ. ni. 2.146); Về sau, (Đức Phật) đã lấy Tương Ưng Kassapa này làm nguyên nhân sanh khởi của câu chuyện, rồi thiết lập Trưởng lão vào vị thế tối thắng bằng lời tuyên bố rằng: “Mahā Kassapa là vị tối thắng trong số các Tỳ-khưu thọ trì hạnh đầu đà và giảng dạy về hạnh đầu đà trong Giáo pháp của Ta.”

Câu chuyện về Trưởng lão Anuruddha

192. Pañcame dibbacakkhukānaṃ yadidaṃ anuruddhoti dibbacakkhukabhikkhūnaṃ anuruddhatthero aggoti vadati. Tassa ciṇṇavasitāya aggabhāvo veditabbo. Thero kira bhojanapapañcamattaṃ ṭhapetvā sesakālaṃ ālokaṃ vaḍḍhetvā dibbacakkhunā satte olokentova viharati. Iti ahorattaṃ ciṇṇavasitāya esa dibbacakkhukānaṃ aggo nāma jāto. Apica kappasatasahassaṃ patthitabhāvenapesa dibbacakkhukānaṃ aggova jāto.

Trong bài Kinh thứ năm, Anuruddha là vị tối thắng trong số các Tỳ-khưu đệ tử có thiên nhãn– Đức Thế Tôn tuyên bố rằng: “Trưởng lão Anuruddha là vị tối thắng trong số các Tỳ-khưu có thiên nhãn.” Nên biết rằng: trạng thái tối thắng của vị ấy do có sự thiện xảo đã được tích lũy. Được biết, Trưởng lão ngoại trừ thời gian thọ thực, thời gian còn lại Ngài sống thực hành đề mục ánh sáng và xem xét các loài hữu tình bằng Thiên Nhãn. Vì vậy, Trưởng lão này được gọi là tối thắng trong số các Tỳ-khưu có Thiên Nhãn bởi Ngài có sự thiện xảo đã được tích lũy cả ngày lẫn đêm. Mặt khác, Ngài là tối thắng hơn các Tỳ-khưu có Thiên Nhãn khác vì đã thệ nguyện suốt một trăm ngàn kiếp.

Tatrassa pañhakamme ayamanupubbikathā – ayampi hi kulaputto padumuttarasseva bhagavato kāle pacchābhattaṃ dhammassavanatthaṃ vihāraṃ gacchantena mahājanena saddhiṃ agamāsi. Ayaṃ hi tadā aññataro apākaṭanāmo issarakuṭumbiko ahosi. So dasabalaṃ vanditvā parisapariyante ṭhito dhammakathaṃ suṇāti. Satthā desanaṃ yathānusandhikaṃ ghaṭetvā ekaṃ dibbacakkhukaṃ bhikkhuṃ etadaggaṭṭhāne ṭhapesi.

Ở đó, về các vấn đề liên quan đến nghiệp lực của Ngài có câu chuyện được thuật lại theo trình tự (chi tiết như sau) — vào thời Đức Thế Tôn có tên Padumuttara đó, thiện nam tử này cũng đã đi cùng với đám đông người đến Tịnh xá để nghe Pháp sau bữa ăn. Lúc ấy, thiện nam tử này là một đại Gia Chủ (nhưng) không xuất hiện tên. Vị ấy đảnh lễ đấng Thập Lực, rồi đứng ở cuối hội chúng để lắng nghe Pháp thoại. Bậc Đạo Sư nối tiếp bài giảng theo sự liên kết rồi thiết lập một vị Tỳ-khưu có Thiên Nhãn vào vị thế tối thắng.

Tato kuṭumbikassa etadahosi – ‘‘mahā vatāyaṃ bhikkhu, yaṃ evaṃ satthā sayaṃ dibbacakkhukānaṃ aggaṭṭhāne ṭhapesi. Aho vatāhampi anāgate uppajjanakabuddhassa sāsane dibbacakkhukānaṃ aggo bhaveyya’’nti cittaṃ uppādetvā parisantarena gantvā svātanāya bhagavantaṃ bhikkhusaṅghena saddhiṃ nimantetvā punadivase buddhappamukhassa bhikkhusaṅghassa mahādānaṃ datvā ‘‘mahantaṃ ṭhānantaraṃ mayā patthita’’nti teneva niyāmena ajjatanāya svātanāyāti nimantetvā satta divasāni mahādānaṃ pavattetvā saparivārassa bhagavato uttamavatthāni datvā ‘‘bhagavā nāhaṃ imaṃ sakkāraṃ dibbasampattiyā na manussasampattiyā atthāya karomi. Yaṃ pana tumhe ito sattadivasamatthake bhikkhuṃ dibbacakkhukānaṃ aggaṭṭhāne ṭhapayittha, ahampi anāgate ekassa buddhassa sāsane so bhikkhu viya dibbacakkhukānaṃ aggo bhaveyya’’nti patthanaṃ katvā pādamūle nipajji. Satthā anāgataṃ oloketvā tassa patthanāya samijjhanabhāvaṃ ñatvā evamāha – ‘‘ambho purisa, anāgate kappasatasahassapariyosāne gotamo nāma buddho uppajjissati, tassa sāsane tvaṃ dibbacakkhukānaṃ aggo anuruddho nāma bhavissasī’’ti. Evañca pana vatvā bhattānumodanaṃ katvā vihārameva agamāsi.

Lúc đó, vị Gia Chủ đã có suy nghĩ rằng — “Vị Tỳ-khưu này thật vĩ đại! Bậc Đạo Sư tự mình thiết lập (vị ấy) vào vị thế tối thượng của các Tỳ-khưu có Thiên Nhãn như vậy. Ôi! ngay cả ta cũng có thể trở thành vị tối thắng của các Tỳ-khưu có Thiên Nhãn trong Giáo Pháp của một vị Phật sẽ xuất hiện trong tương lai,” (nghĩ vậy), vị ấy liền đi vào giữa hội chúng và thỉnh mời Đức Thế Tôn cùng với một trăm ngàn vị Tỳ-khưu đến thọ thực vào ngày mai. Vào ngày hôm sau, vị ấy đã cúng dường cuộc đại thí cho hội chúng Tỳ-khưu có Đức Phật là vị đứng đầu. Vị ấy nghĩ rằng: “Ta sẽ phát nguyện vị thế vĩ đại,” nên trong ngày hôm nay đã thỉnh mời để thọ thực vào ngày mai, rồi đã thực hiện cuộc đại  thí liên tục đến 7 ngày theo cách thức đó, đã cúng dường y phục thượng hạng đến cho Đức Thế Tôn cùng với Hội chúng Tỳ-khưu tháp tùng rồi thực hiện lời phát nguyện rằng: “Bạch Đức Thế Tôn, con thực hiện sự tôn kính này không phải vì sự thành tựu ở cõi Trời hay sự thành tựu ở cõi Người.” Vị Tỳ-khưu mà Ngài đã thiết lập vào vị thế tối thắng của các Tỳ-khưu vào 7 ngày trước từ hôm nay, ngay cả con cũng có thể trở thành tối thắng của các Tỳ-khưu có Thiên Nhãn giống như vị Tỳ-khưu đó trong Giáo Pháp của một vị Phật vào thời vị lai,” rồi quỳ xuống ở chân của bậc Đạo Sư. Bậc Đạo Sư đã quán xét về tương lai, biết rằng lời phát nguyện của vị ấy sẽ thành tựu nên mới nói như vầy rằng: “Này thiện nam tử, Đức Phật tên là Gotama sẽ xuất hiện khi chấm dứt một trăm ngàn kiếp vào thời vị lai. Ngươi sẽ tên là Anuruddha và là vị tối thắng của các Tỳ-khưu có Thiên Nhãn trong Giáo Pháp của Đức Phật Gotama ấy.” Và sau khi nói như vậy, Ngài thực hiện tùy hỷ (phước báu) và trở về Tịnh xá.

Kuṭumbikopi yāva buddho dharati, tāva avijahitameva kalyāṇakammaṃ katvā parinibbute satthari niṭṭhite sattayojanike suvaṇṇacetiye bhikkhusaṅghaṃ upasaṅkamitvā, ‘‘bhante, kiṃ dibbacakkhussa parikamma’’nti pucchi. Padīpadānaṃ nāma dātuṃ vaṭṭati upāsakāti. Sādhu, bhante, karissāmīti sahassadīpānaṃyeva tāva dīparukkhānaṃ sahassaṃ kāresi, tadanantaraṃ tato parittatare, tadanantaraṃ tato pariyattatareti anekasahasse dīparukkhe kāresi. Sesapadīpā pana aparimāṇā ahesuṃ.

Còn phía vị Gia Chủ [Anuruddha tương lai] đã tạo các hành động thiện lành không ngắt quãng cho đến khi Đức Phật còn tại thế. Khi bậc Đạo Sư viên tịch Niết Bàn, khi việc xây dựng Bảo điện bằng vàng khoảng bảy do-tuần đã được hoàn tất, rồi mới đi đến gặp Hội chúng Tỳ-khưu, hỏi rằng: “Bạch các Ngài, việc chuẩn bị của vị có Thiên Nhãn là gì?” – Hội chúng Tỳ-khưu nói rằng: “Này cận sự nam, nên cúng dường đèn.” – “Lành thay, thưa Ngài, con sẽ làm,” vị ấy liền cho làm một ngàn cây đèn tương đương với một ngàn cây đèn trước đó; tiếp đó, cho làm cây đèn nhỏ hơn; kế đên, cho làm cây đèn nhỏ hơn nữa. Tóm lại, vị ấy đã cho làm hàng ngàn cây đèn, số lượng đèn còn lại thì không thể đếm xuể.

Evaṃ yāvajīvaṃ kalyāṇakammaṃ katvā devesu ca manussesu ca saṃsaranto kappasatasahassaṃ atikkamitvā kassapasammāsambuddhassa kāle bārāṇasiyaṃ kuṭumbiyagehe nibbattitvā parinibbute satthari niṭṭhite yojanike cetiye bahu kaṃsapātiyo kārāpetvā sappimaṇḍassa pūretvā majjhe ekekaṃ guḷapiṇḍaṃ ṭhapetvā ujjāletvā mukhavaṭṭiyā mukhavaṭṭiṃ phusāpento cetiyaṃ parikkhipāpetvā attano sabbamahantaṃ kaṃsapātiṃ kāretvā sappimaṇḍassa pūretvā tassā mukhavaṭṭiyaṃ samantato vaṭṭisahassaṃ jālāpetvā majjhaṭṭhāne thūpikaṃ pilotikāya veṭhetvā jālāpetvā kaṃsapātiṃ sīsenādāya sabbarattiṃ yojanikaṃ cetiyaṃ anupariyāyi. Evaṃ tenāpi attabhāvena yāvajīvaṃ kalyāṇakammaṃ katvā devaloke nibbatto.

Sau khi đã tạo các hành động thiện lành cho đến trọn đời như vậy, (vị ấy) đã luân chuyển giữa cõi Trời và cõi Người. Trải qua một trăm ngàn kiếp, vào thời kỳ đấng Chánh đẳng Chánh giác Kassapa, vị ấy tái sanh vào nhà của Gia Chủ gần thành Bārāṇasī, khi bậc Đạo Sư viên tịch Niết Bàn, khi việc xây dựng Bảo điện rộng một do-tuần đã được hoàn tất, đã cho tạo rất nhiều bình chứa kim loại, đổ đầy bơ lỏng vào (các bình), cho đặt các tim đèn cách nhau mỗi một đốt ngón tay ở giữa, thắp lên ngọn lửa, rồi đặt xung quanh Bảo điện, cho các vành miệng chạm sát vào các vành miệng. Cho làm bình kim loại lớn hơn tất cả dành cho bản thân, đổ đầy bơ lỏng, thắp lên một ngàn tim đèn xung quanh vành miệng bình kim loại đó, quấn quanh bằng tấm vải cũ ở vị trí chính giữa, cho thắp lên ngọn lửa, đội bình kim loại đó và đi nhiễu quanh Bảo điện cao một do-tuần suốt đêm cho đến lúc trời sáng. Vị ấy đã tạo các hành động tốt lành cho đến hết đời bởi tự thân thế đó như vậy, rồi tái sanh vào thế giới cõi Trời.

Puna anuppanne buddhe tasmiṃyeva nagare duggatakulassa gehe paṭisandhiṃ gaṇhitvā sumanaseṭṭhiṃ nāma nissāya vasi, annabhārotissa nāmaṃ ahosi. So pana sumanaseṭṭhi devasikaṃ kapaṇaddhikavaṇibbakayācakānaṃ gehadvāre mahādānaṃ deti. Athekadivasaṃ upariṭṭho nāma paccekabuddho gandhamādanapabbate nirodhasamāpattiṃ samāpanno. Tato vuṭṭhāya ‘‘ajja kassa anuggahaṃ kātuṃ vaṭṭatī’’ti vīmaṃsi. Paccekabuddhā ca nāma duggatānukampakā honti. So ‘‘ajja mayā annabhārassa anuggahaṃ kātuṃ vaṭṭatī’’ti cintetvā ‘‘idāni annabhāro aṭavito attano gehaṃ āgamissatī’’ti ñatvā pattacīvaramādāya gandhamādanapabbatā vehāsaṃ abbhuggantvā gāmadvāre annabhārassa sammukhe paccuṭṭhāsi.

Trong khi Đức Phật vẫn chưa xuất hiện, vị ấy tái sanh vào gia đình nghèo khổ tại thành phố đó lần nữa, là một người mang vác cỏ khô (cho gia súc ăn), sống nương nhờ nhà của Trưởng giả Sumana, (và) Annabhāra (người mang vác cỏ khô) đã trở thành tên gọi của vị ấy. Còn Trưởng giả Sumana ấy bố thí lễ đại thí tại cổng nhà cho những người nghèo khổ, những người đi đường xa, những người hành khất và những người ăn xin mỗi ngày. Sau đó, vào một ngày nọ, một vị Phật Độc Giác tên là Upariṭṭha, sau khi xuất khỏi sự thể nhập thiền Diệt ở núi Gandhamādana đã quán xét rằng: “Hôm nay ta nên thực hiện sự trợ giúp cho ai?” Và chư Phật Độc Giác vốn luôn trợ giúp những người nghèo khổ. Ngài nghĩ rằng: “Hôm nay Ta nên trợ giúp cho Annabhāra.” Ngài biết rằng: “Annabhāra sẽ từ rừng trở về nhà của mình” nên đã mang theo bình bát và y phục từ núi Gandhamādana, bay lên không trung rồi xuất hiện ở cổng nhà ngay trước mặt của Annabhāra.”

Annabhāro paccekabuddhaṃ tucchapattahatthaṃ disvā paccekabuddhaṃ abhivādetvā ‘‘api, bhante, bhikkhaṃ labhitthā’’ti pucchi. Labhissāma mahāpuññāti. ‘‘Bhante, thokaṃ idheva hothā’’ti vegena gantvā attano gehe mātugāmaṃ pucchi – ‘‘bhadde, mayhaṃ ṭhapitaṃ bhāgabhattaṃ atthi, natthī’’ti? Atthi sāmīti. So tatova gantvā paccekabuddhassa hatthato pattamādāya āgantvā ‘‘bhadde, mayaṃ purimabhave kalyāṇakammassa akatattā bhattaṃ paccāsīsamānā viharāma, amhākaṃ dātukāmatāya sati deyyadhammo na hoti, deyyadhamme sati paṭiggāhakaṃ na labhāma, ajja me upariṭṭhapaccekabuddho diṭṭho, bhāgabhattañca atthi, mayhaṃ bhāgabhattaṃ imasmiṃ patte pakkhipāhī’’ti.

Annabhāra thấy vị Phật Độc Giác cầm bình bát rỗng không đã đến đảnh lễ vị Phật Độc Giác rồi hỏi rằng: “Bạch Ngài, Ngài đã nhận được đồ ăn khất thực chưa ạ?” – Đức Phật Độc Giác đáp rằng: “Này người đại phước, Ta sẽ nhận được.” – Annabhāra thưa rằng: “Thưa Ngài, xin Ngài hãy chờ ở đây một chút ạ,” rồi vị ấy vội vào hỏi người vợ ở trong nhà mình rằng: “Này hiền thê, phần thức ăn để dành cho anh có không?” Nàng đáp: “Có, thưa chàng, ” đi từ nơi đó tiếp nhận bình bát từ tay Đức Phật Độc Giác và đến nói: “Này hiền thê, chính vì cả hai chúng ta đã không tạo các hành động thiện lành ở các kiếp sống quá khứ nên chúng ta chỉ có thể hy vọng việc làm thuê mà thôi. Khi chúng ta có mong muốn bố thí, nhưng lại không có phẩm vật bố thí. Khi có phẩm vật cúng dường, thì lại gặp được người thọ nhận. Hôm nay ta vừa gặp đúng vị Phật Độc Giác Upariṭṭha và có được phần thức ăn, nàng hãy đặt phần thức ăn của ta vào bình bát này.”

Byattā itthī ‘‘yato mayhaṃ sāmiko bhāgabhattaṃ deti, mayāpi imasmiṃ dāne bhāginiyā bhavitabba’’nti attano bhāgabhattampi upariṭṭhassa paccekabuddhassa patte patiṭṭhapetvā adāsi. Annabhāro pattaṃ āharitvā paccekabuddhassa hatthe ṭhapetvā, ‘‘bhante, evarūpā dujjīvitā muccāmā’’ti āha. Evaṃ hotu, mahāpuññāti. So attano uttarasāṭakaṃ ekasmiṃ padese attharitvā , ‘‘bhante, idha nisīditvā paribhuñjathā’’ti āha. Paccekabuddho tattha nisīditvā navavidhaṃ pāṭikūlyaṃ paccavekkhanto paribhuñji. Paribhuttakāle annabhāro pattadhovanaudakaṃ adāsi. Paccekabuddho niṭṭhitabhattakicco –

‘‘Icchitaṃ patthitaṃ tuyhaṃ, sabbameva samijjhatu;
Sabbe pūrentu saṅkappā, cando pannaraso yathā’’ti. –

Anumodanaṃ katvā maggaṃ paṭipajji. Sumanaseṭṭhissa chatte adhivatthā devatā ‘‘aho dānaṃ paramadānaṃ upariṭṭhe suppatiṭṭhita’’nti tikkhattuṃ vatvā sādhukāraṃ adāsi. Sumanaseṭṭhi ‘‘kiṃ tvaṃ maṃ ettakaṃ kālaṃ dānaṃ dadamānaṃ na passasī’’ti āha. Nāhaṃ tava dāne sādhukāraṃ demi, annabhārena upariṭṭhapaccekabuddhassa dinnapiṇḍapāte pasīditvā sādhukāraṃ demīti.

Người phụ nữ thông minh nghĩ rằng: “Khi nào phu quân của ta dâng phần thức ăn (của chàng), khi đó thì ngay cả ta cũng cần phải có phần trong sự dâng cúng này,” nên đã đặt cả phần thức ăn của mình vào trong bình bát để cúng dường cho vị Phật Độc Giác Upariṭṭha. Annabhāra mang bình bát đã được đựng thức ăn đến đặt vào tay của vị Phật Độc Giác rồi nói: “Bạch Ngài, nguyện cho chúng con thoát khỏi cuộc sống tồi tệ như thế này.” – Đức Phật Độc Giác đã tùy hỷ (phước báu): “Hãy là như vậy, này người đại phước.” – Vị ấy trải tấm áo choàng của mình xuống tại một nơi rồi nói rằng: “Bạch Ngài, xin Ngài hãy ngồi thọ thực tại đây.” – Đức Phật Độc Giác, sau khi ngồi xuống ở tại nơi đó đã quán xét chín thể loại về tính bất tịnh rồi mới thọ dụng vật thực. Khi thọ thực xong, Annabhāro đã dâng nước để rửa bình bát. Đức Phật Độc Giác hoàn tất việc thọ thực đã thực hiện sự tùy hỷ (phước báu) như sau—

“Điều đã được ước muốn, điều đã được nguyện ước của người, tất cả những điều ấy hãy thành tựu ngay lập tức. Những sự suy xét chơn chánh, tất cả hãy được tròn đủ. Giống như mặt trăng ngày rằm.” Rồi Ngài rời đi

Chư Thiên ngự ở cây dù của Trưởng giả Sumana nói đến ba lần như sau: “Ôi sự dâng cúng! Sự dâng cúng tối thượng đã khéo được thiết lập ở Đức Phật Độc Giác Upariṭṭha!” rồi đã ban lời tán thán. Trưởng giả Sumana nói rằng: “Ngài không thấy tôi đã ban bố vật thí suốt khoảng thời gian chừng ấy hay sao?” Chư Thiên đáp rằng: “Tôi không ban lời tán thán trong việc bố thí của ông. Tôi đã tịnh tín đối với phần đồ ăn khất thực đã được dâng cúng cho vị Phật Độc Giác Upariṭṭha bởi Annabhāra nên mới ban lời thán thán.”

Sumanaseṭṭhi cintesi – ‘‘acchariyaṃ vatidaṃ, ahaṃ ettakaṃ kālaṃ dānaṃ dento devataṃ sādhukāraṃ dāpetuṃ nāsakkhiṃ. Ayaṃ annabhāro maṃ nissāya vasanto anurūpassa paṭiggāhakapuggalassa laddhattā ekapiṇḍapātadāneneva sādhukāraṃ dāpesi, etassa anucchavikaṃ datvā etaṃ piṇḍapātaṃ mama santakaṃ kātuṃ vaṭṭatī’’ti annabhāraṃ pakkosāpetvā ‘‘ajja tayā kassaci kiñci dānaṃ dinna’’nti pucchi. Āma, ayya, upariṭṭhapaccekabuddhassa me attano bhāgabhattaṃ dinnanti. Handa, bho, kahāpaṇaṃ gaṇhitvā etaṃ piṇḍapātaṃ mayhaṃ dehīti. Na demi ayyāti. So yāva sahassaṃ vaḍḍhesi, annabhāro ‘‘sahassenāpi na demī’’ti āha. Hotu, bho, yadi piṇḍapātaṃ na desi, sahassaṃ gaṇhitvā pattiṃ me dehīti.‘‘Etampi dātuṃ yuttaṃ vā ayuttaṃ vā na jānāmi, ayyaṃ pana upariṭṭhapaccekabuddhaṃ pucchitvā sace dātuṃ yuttaṃ bhavissati, dassāmī’’ti gantvā paccekabuddhaṃ sampāpuṇitvā, ‘‘bhante, sumanaseṭṭhi mayhaṃ sahassaṃ datvā tumhākaṃ dinnapiṇḍapāte pattiṃ yācati, dammi vā na dammi vā’’ti. Upamaṃ te paṇḍita karissāmi. Seyyathāpi kulasatike gāme ekasmiṃyeva ghare dīpaṃ jāleyya, sesā attano attano telena vaṭṭiṃ temetvā jālāpetvā gaṇheyyuṃ, purimadīpassa pabhā atthi, natthīti. Atirekatarā, bhante, pabhā hotīti. Evameva paṇḍita uḷuṅkayāgu vā hotu kaṭacchubhikkhā vā, attano piṇḍapāte paresaṃ pattiṃ dentassa satassa vā detu sahassassa vā, yattakānaṃ deti, tattakānaṃ puññaṃ vaḍḍhati. Tvaṃ dento ekameva piṇḍapātaṃ adāsi, sumanaseṭṭhissa pana pattiyā dinnāya dve piṇḍapātā honti eko tava, eko ca tassāti.

Trưởng giả Sumana suy nghĩ: “Chuyện này thật kỳ diệu! Ta ban bố vật thí suốt khoảng thời gian chừng ấy cũng không thể khiến chư Thiên ban lời tán thán. Annabhāra này sống nương nhờ ta, bởi vì có được người thọ nhận xứng đáng (mà) chỉ với một lần dâng cúng phần thí thực lại có thể khiến chư Thiên ban lời tán thán. Ta nên cho vật xứng đáng đến Annabhāra, rồi làm cho phần thí thực ấy trở thành của ta (như vậy) sẽ thích hợp.” (Nghĩ vậy) vị ấy đã mời Annabhāra đến rồi hỏi rằng: “Hôm nay, cậu dâng cúng vật thí gì? (và dâng cúng) cho ai vậy?” – Annabhāra thưa: “Thưa ông, con dâng cúng phần vật thực của bản thân cho Đức Phật Độc Giác Upariṭṭha.” – Trưởng giả nói rằng: “Thôi được rồi, cậu hãy nhận lấy một đồng tiền vàng rồi nhường phần thí thực đó cho ta.” – Annabhāra nói: “Không được đâu, thưa ông.” – Trưởng giả tăng số tiền lên đến một ngàn đồng tiền vàng. Annabhāra vẫn nói: “Dù một ngàn đồng tiền vàng con cũng không thể cho được.” – Trưởng giả nói rằng: “Thôi được, nếu cậu không cho phần thí thực thì cũng hãy nhận lấy số tiền một ngàn đồng tiền vàng rồi chia phần phước báu đến ta.” Annabhāra nói rằng: “Con không biết rằng phần phước báu đó nên chia hay không nên chia. Nhưng con sẽ hỏi Đức Phật Độc Giác Upariṭṭha xem. Nếu nên chia thì con sẽ chia, nếu không nên chia thì con sẽ không chia.” Annabhāra đã đi và theo kịp Đức Phật Độc Giác rồi hỏi rằng: “Bạch Ngài, Trưởng giả Sumana cho con một ngàn đồng tiền vàng và xin phần phước báu trong phần thí thực mà con đã dâng cúng cho Ngài. Con nên chia hay không nên chia?” – Đức Phật Độc Giác nói rằng: “Này bậc trí giả, Ta sẽ làm một ví dụ cho ngươi.” Giống như trong ngôi làng có một trăm gia đình, chỉ thắp lên ngọn đèn ở một nhà, những gia đình còn lại đã thêm dầu cho tim đèn của mình để thấm ướt rồi có thể đến mồi lửa mang đi. Vậy thì ánh sáng của ngọn đèn đầu tiên còn đó hay mất đi? – Annabhāra đáp: “Thưa Ngài, ánh sáng có càng nhiều hơn.” – Cũng tương tự y như thế, này bậc trí giả, dù là một muỗng cháo hay một vá cơm, khi cậu chia phần phước báu của mình trong phần thí thực đến những người khác, (dù) một trăm người hay một ngàn người; (nếu cậu) cho nhiều người bao nhiêu, thì phước báu (tương xứng nơi tự thân nhận được) cũng tăng lên bấy nhiêu. Khi cậu cho cũng chỉ là cho phần thí thực mà thôi, nhưng khi chia phần phước báu đến Trưởng giả Sumana nữa, thì phần thí thực sẽ trở thành hai phần, (tức là) một phần của cậu và một phần của Trưởng giả.

So paccekabuddhaṃ abhivādetvā sumanaseṭṭhissa santikaṃ gantvā ‘‘piṇḍapāte pattiṃ gaṇha sāmī’’ti āha. Handa, kahāpaṇasahassaṃ gaṇhāti. Nāhaṃ piṇḍapātaṃ vikkiṇāmi, saddhāya pana tumhākaṃ pattiṃ demīti. Tāta, tvaṃ mayhaṃ saddhāya pattiṃ desi, ahaṃ pana tuyhaṃ guṇaṃ pūjento sahassaṃ demi, gaṇha, tātāti. So ‘‘evaṃ hotū’’ti sahassaṃ gaṇhi. Tāta, tuyhaṃ sahassaṃ laddhakālato paṭṭhāya sahatthā kammakaraṇakiccaṃ natthi, vīthiyaṃ gharaṃ māpetvā vasa. Yena tuyhaṃ attho, taṃ maṃ āharāpetvā gaṇhāhīti. Nirodhasamāpattito vuṭṭhitapaccekabuddhassa dinnapiṇḍapāto nāma taṃdivasameva vipākaṃ deti. Tasmā sumanaseṭṭhi aññaṃ divasaṃ annabhāraṃ gahetvā rājakulaṃ agacchantopi taṃdivasaṃ gahetvāva gato.

Sau khi đảnh lễ Đức Phật Độc Giác vị ấy đã trở về trú xứ của Trưởng giả Sumana rồi nói rằng: “Thưa ông, xin ông hãy thọ nhận phần phước báu trong việc dâng cúng phần thí thực này.” – Trưởng giả nói rằng: “Được rồi, mời cậu nhận lấy một ngàn đồng tiền vàng.” – Annabhāra nói: “Con không bán việc dâng cúng phần thí thực, mà con chia phần phước báu đến ông bằng lòng tịnh tín.” – Trưởng giả nói: “Này Annabhāra, cậu chia phần phước báu cho ta với lòng tịnh tín, nhưng ta đang lễ bái đức hạnh của cậu, (nên) ta cho một ngàn đồng tiền vàng này; này Annabhāra, hãy nhận lấy (số tiền). – Annabhāra nói: “hãy là như thế” rồi nhận lấy số tiền một ngàn đồng tiền vàng. – Trưởng giả nói: “Này Annabhāra, kể từ lúc cậu có được một ngàn đồng tiền vàng, không cần phải tự tay làm những công việc lao động nặng nhọc. Hãy xây dựng một ngôi nhà ở gần đường lộ. Nếu cậu cần bất cứ thứ gì, tôi sẽ trao tặng thứ đó cho cậu. Cậu hãy đến mà mang đi nhé.” Thông thường phần thí thực mà cá nhân dâng cúng cho vị Phật Độc Giác, vị vừa xuất khỏi sự thể nhập Thiền Diệt (sẽ) cho kết quả ngay trong ngày hôm ấy. Vì lý do đó, Trưởng giả Sumana vào những ngày khác, ngay cả khi đi vào hoàng cung, cũng chưa bao giờ mời Annabhāra đi cùng. Nhưng vào ngày hôm ấy, ông đã mời cậu đi cùng.

Annabhārassa puññaṃ āgamma rājā seṭṭhiṃ anoloketvā annabhārameva olokesi . Kiṃ, deva, imaṃ purisaṃ ativiya olokesīti? Aññaṃ divasaṃ adiṭṭhapubbattā olokemīti. Oloketabbayuttako esa devāti. Ko panassa oloketabbayuttako guṇoti? Ajja attano bhāgabhattaṃ sayaṃ abhuñjitvā upariṭṭhapaccekabuddhassa dinnattā mama hatthato sahassaṃ labhi devāti. Konāmo esoti? Annabhāro nāma devāti. ‘‘Tava hatthato laddhattā mamapi hatthato laddhuṃ arahati, ahampissa pūjaṃ karissāmī’’ti vatvā sahassaṃ adāsi. Etassa vasanagehaṃ jānātha bhaṇeti? Sādhu devāti ekaṃ gehaṭṭhānaṃ sodhentā kuddālena āhatāhataṭṭhāne nidhikumbhiyo gīvāya gīvaṃ āhacca ṭhitā disvā rañño ārocayiṃsu. Rājā ‘‘tena hi gantvā khanathā’’ti āha. Tesaṃ khanantānaṃ khanantānaṃ heṭṭhā gacchanti. Puna gantvā rañño ārocayiṃsu. Rājā ‘‘annabhārassa vacanena khanathā’’ti āha. Te gantvā ‘‘annabhārasseva vacana’’nti khaniṃsu. Kuddālena āhatāhataṭṭhāne ahicchattakamakuḷāni viya kumbhiyo uṭṭhahiṃsu. Te dhanaṃ āharitvā rañño santike rāsiṃ akaṃsu. Rājā amacce sannipātetvā ‘‘imasmiṃ nagare kassa aññassa ettakaṃ dhanaṃ atthī’’ti pucchi. Natthi kassaci devāti. Tena hi ayaṃ annabhāro imasmiṃ nagare dhanaseṭṭhi nāma hotūti. Taṃdivasameva seṭṭhicchattaṃ labhi.

Chính do nương nhờ phước báu của Annabhāra, Đức Vua không hề để ý đến Trưởng giả mà chỉ nhìn Annabhāra mà thôi. Trưởng giả mới hỏi: “Tâu bệ hạ, vì lý do gì mà bệ hạ lại nhìn chầm chầm người này vậy?” – Đức Vua nói: “Trẫm nhìn bởi vì chưa từng gặp cậu ta ở những ngày trước.” Trưởng giả thưa: “Tâu bệ hạ, cậu ta xứng đáng để được Ngài hướng mắt nhìn.” – Đức Vua nói: “Ưu điểm đáng để ngắm nhìn của người ấy là gì?” – Tâu bệ hạ, bởi vì hôm nay cậu ta đã không tự mình thọ dụng phần vật thực của chính mình mà đã dâng cúng (phần vật thực đó) cho Đức Phật Độc Giác Upariṭṭha. Cậu ấy đã nhận được một ngàn đồng tiền vàng từ tay của hạ thần. – Đức Vua hỏi: “Cậu ta tên gì?” – Trưởng giả Sumana thưa: “Thưa bệ hạ, cậu ta tên là Annabhāra.” – Đức Vua nói: “Bởi vì cậu ta đã nhận được (tiền) từ tay của khanh, cũng xứng đáng nhận được từ tay của trẫm. Chính trẫm cũng sẽ thực hiện lễ bái cậu ấy,” nên đã ban cho một ngàn đồng tiền vàng rồi nói: “Này khanh, hãy nhận biết về ngôi nhà mà người này đang sinh sống.” – Lành thay! Thưa bệ hạ. – (Các quan hầu cận) trong lúc khai quang khu đất để xây nhà ấy, đã phát hiện kho báu tên là Piṅgala, ở những vị trí mỗi lần chạm xuống bởi cái cuốc đều được đặt nối tiếp nhau, nên đã bẩm báo lên Đức Vua. Đức Vua nói rằng: “Nếu vậy thì hãy đi đào lên.” – Khi họ đào kho báu lên thì kho báu lại chìm xuống. Họ lại đi bẩm báo cho Đức Vua. – Đức Vua nói rằng: “Hãy đào lên theo lời nói của Annabhāra.” – Họ đã đi đào (kho báu) theo lời nói của Annabhāra. Các kho báu giống như bông nấm mọc lên tại những nơi chạm xuống bằng cái cuốc. Họ đã chở khối tài sản đến trước mặt Đức Vua. Đức Vua triệu tập các quan đại thần rồi hỏi rằng: “Trong kinh thành những ai có  khối tài nhiều đến chừng này không?” Các quan đại thần thưa: “Tâu bại hạ, không có của ai hết.” – Đức Vua nói: “Nếu như vậy thì Annabhāra này hãy có tên là Trưởng giả Dhana trong thành này. Vị ấy đã nhận được cây lọng là vật biểu trưng của địa vị Trưởng giả vào chính ngày hôm ấy.

So tato paṭṭhāya yāvajīvaṃ kalyāṇakammaṃ katvā tato cuto devaloke nibbatto. Dīgharattaṃ devamanussesu saṃsaritvā amhākaṃ satthu uppajjanakāle kapilavatthunagare amittodanasakkassa gehe paṭisandhiṃ gaṇhi. Nāmaggahaṇadivase panassa anuruddhoti nāmaṃ akaṃsu. Mahānāmasakkassa kaniṭṭhabhātā satthu cūḷapituputto paramasukhumālo mahāpuñño ahosi. Suvaṇṇapātiyaṃyevassa bhattaṃ uppajji. Athassa mātā ekadivasaṃ ‘‘mama puttaṃ natthīti padaṃ jānāpessāmī’’ti ekaṃ suvaṇṇapātiṃ aññāya suvaṇṇapātiyā pidahitvā tucchakaṃyeva pesesi. Antarāmagge devatā dibbapūvehi pūresuṃ. Evaṃ mahāpuñño ahosi. Tiṇṇaṃ utūnaṃ anucchavikesu tīsu pāsādesu alaṅkatanāṭakitthīhi parivuto devo viya sampattiṃ anubhavi.

Kể từ ngày hôm đó, vị ấy đã tạo các hành động tốt lành (nghiệp thiện) cho đến trọn đời, chết đi từ nói đó rồi tái sanh vào cõi Trời. Sau khi đã luân chuyển giữa cõi Người và cõi Trời trong một thời gian dài, khi bậc Đạo Sư của chúng ta xuất hiện thì vị ấy tái sanh vào Hoàng tộc Amittoda thuộc tộc Sakya trong kinh thành Kapilavatthu. Vào ngày đặt tên mọi người đã gọi vị ấy là Anuruddha. Ngài là em trai của Mahānāma thuộc tộc Sakya, là con trai của Hoàng thúc (chú) của bậc Đạo Sư. Ngài là người vô cùng mảnh mai, là người có phước báu lớn lao. Thức ăn luôn xuất hiện trong cái đĩa bằng vàng dành riêng cho Ngài. Sau đó, vào một ngày nọ mẹ của Ngài nghĩ rằng: “Sẽ cho con trai của mình biết đến từ ‘không có’”.  Bà lấy một cái đĩa vàng đậy lên cái đĩa vàng khác rồi gửi đi cái đĩa hoàn toàn rỗng không. Giữa đường chư Thiên làm cho đầy bánh trái thuộc cõi Trời (vào cái đĩa). Ngài là người có phước báu lớn lao như thế, được vây quanh bởi các vũ công đã trang điểm, thọ hưởng sự thành tựu ở ba tòa lâu đài tương thích với cả ba mùa tương tự như chư Thiên.

Amhākampi bodhisatto tasmiṃ samaye tusitapurā cavitvā suddhodanamahārājassa aggamahesiyā kucchismiṃ paṭisandhiṃ gahetvā anukkamena vuddhippatto ekūnatiṃsa vassāni agāramajjhe vasitvā mahābhinikkhamanaṃ nikkhamitvā anukkamena paṭividdhasabbaññutaññāṇo bodhimaṇḍe sattasattāhaṃ vītināmetvā isipatane migadāye dhammacakkappattanaṃ pavattetvā lokānuggahaṃ karonto rājagahaṃ āgamma ‘‘putto me rājagahaṃ āgato’’ti sutvā ‘‘gacchatha bhaṇe mama puttaṃ ānethā’’ti pitarā pahite sahassasahassaparivāre dasa amacce ehibhikkhupabbajjāya pabbājetvā kāḷudāyittherena cārikāgamanaṃ āyācito rājagahato vīsatisahassabhikkhuparivāro nikkhamitvā kapilavatthupuraṃ gantvā ñātisamāgame anekehi iddhipāṭihāriyehi sappāṭihāriyaṃ vicitradhammadesanaṃ katvā mahājanaṃ amatapānaṃ pāyetvā dutiyadivase pattacīvaramādāya nagaradvāre ṭhatvā ‘‘kiṃ nu kho kulanagaraṃ āgatānaṃ sabbaññubuddhānaṃ āciṇṇa’’nti āvajjamāno ‘‘sapadānaṃ piṇḍāya caraṇaṃ āciṇṇa’’nti ñatvā sapadānaṃ piṇḍāya caranto ‘‘putto me piṇḍāya caratī’’ti sutvā āgatassa rañño dhammaṃ kathetvā tena sakanivesanaṃ pavesetvā katasakkārasammāno tattha kātabbaṃ ñātijanānuggahaṃ katvā rāhulakumāraṃ pabbājetvā nacirasseva kapilavatthupurato mallaraṭṭhe cārikaṃ caramāno anupiyaambavanaṃ agamāsi.

Còn Đức Bồ Tát của chúng ta, vào lúc bấy giờ, sau khi mệnh chung từ cõi Trời Tusita (Đâu Suất), đã tái sanh vào bào thai của Hoàng hậu chánh cung của Đại Vương Suddhodana. Ngài trưởng thành theo thứ tự, sống đời sống tại gia trong hai mươi chín năm, rồi đã rời khỏi (Hoàng cung) thực hiện cuộc ra đi vĩ đại; (Ngài) đã thấu triệt Toàn Giác Trí theo tuần tự; (Ngài) đã trải qua bảy tuần lễ ở tại khuôn viên cội Bồ Đề; rồi chuyển vận bánh xe Pháp tại vườn Lộc Uyển Isipatana, thực hiện sự trợ giúp thế gian; (Sau đó) cho mười viên quan đại thần, mỗi vị có một ngàn tùy tùng, được Vua Cha (Đại Vương Suddhodana) phái đi với lời căn dặn rằng: “Này các khanh, hãy đưa con trai của trẫm đến,” sau khi nghe tin: “Con trai của trẫm đã đến thành Rājagaha,” xuất gia với việc xuất gia “Hãy đến, này Tỳ-khưu!” Khi được thỉnh cầu đi du hành bởi Trưởng lão Kāludāyī, có hai mươi ngàn vị Tỳ-khưu tháp tùng rời khỏi thành Rājagaha đi đến thành Kapilavatthu, (tại đây) Ngài đã thuyết giảng bài Pháp một cách tỉ mỉ có cả thần thông với nhiều phép kỳ diệu về thần thông trong cuộc hội ngộ của thân quyến, đã làm cho số đông người được uống nước Bất Tử. Vào ngày thứ hai, Ngài cầm lấy bình bát và y, đứng tại cổng thành, suy nghĩ rằng: “Các vị Phật Toàn Giác thực hành việc trở lại thành phố của dòng tộc như thế nào?” (Ngài) biết rằng: “Các Ngài thực hành đi khất thực tuần tự theo từng nhà,” (vì vậy) Ngài đã đi khất thực tuần tự theo từng nhà, rồi thuyết giảng Giáo Pháp cho Đức Vua (Phụ Vương của Ngài), khi nghe tin: “Con trai của trẫm đi khất thực” (Vua Cha) liền đến; có sự tôn trọng và sự cung kính được Vua Cha mời vào cung điện của mình đã làm; ở tại đó, Ngài đã thực hiện sự tế độ các thân quyến nên tế độ, rồi Ngài đã cho Hoàng tử Rāhula xuất gia; chẳng bao lâu sau, từ thành Kapilavatthu, đã bước đi du hành trong xứ Malla, rồi trở về vườn xoài Anupiya.

Tasmiṃ samaye suddhodanamahārājā sākiyajanaṃ sannipātetvā āha – ‘‘sace mama putto agāraṃ ajjhāvasissa, rājā abhavissa cakkavattī sattaratanasamannāgato. Nattāpi me rāhulakumāro khattiyagaṇena saddhiṃ taṃ parivāretvā acarissa, tumhepi etamatthaṃ jānātha. Idāni pana me putto buddho jāto, khattiyāvassa parivārā hontu. Tumhe ekekakulato ekekaṃ dārakaṃ dethā’’ti. Evaṃ vutte ekappahāreneva sahassakhattiyakumārā pabbajiṃsu. Tasmiṃ samaye mahānāmo kuṭumbasāmiko hoti. So anuruddhasakkaṃ upasaṅkamitvā etadavoca – ‘‘etarahi, tāta anuruddha, abhiññātā abhiññātā sakyakumārā bhagavantaṃ pabbajitaṃ anupabbajanti, amhākaṃ kule natthi koci agārasmā anagāriyaṃ pabbajito. Tena hi tvaṃ vā pabbaja, ahaṃ vā pabbajissāmī’’ti. So tassa vacanaṃ sutvā gharāvāse ruciṃ akatvā attasattamo agārasmā anagāriyaṃ pabbajito. Tassa pabbajjānukkamo saṅghabhedakakkhandhake (cūḷava. 330 ādayo) āgatova.

Vào lúc bấy giờ, Đại Vương Suddhodana tập hợp tất cả dòng tộc Sakya rồi nói rằng: “Nếu con trai của trẫm sống đời sống tại gia, thì sẽ trở thành đức Chuyển Luân Thánh Vương hội đủ bảy loại châu báu. Cả Hoàng tôn (cháu nội) của Trẫm cũng được vây quanh vị ấy đi cùng với đoàn thể dòng Sát-đế-lỵ. Hơn nữa, các khanh hãy biết sự việc này rằng– Giờ đây, con trai của trẫm đã là một vị Phật, các Vương tử dòng Sát-đế-lỵ hãy trở thành tùy tùng của vị ấy, các khanh hãy cho một Vương tử từ mỗi một gia đình (xuất gia).” Trong khi Đại Vương Suddhodana nói như vậy, có đến hàng ngàn Vương tử dòng Sát-đế-lỵ đã xuất gia chỉ với một lời nói. Vào lúc bấy giờ, Mahānāma là chủ gia tộc. Vị ấy đã đi đến gặp Anuruddha dòng Sakya rồi nói điều này: “Này Anuruddha yêu dấu, bây giờ nhiều Vương tử thuộc dòng dõi Sakya rất có danh tiếng đều đã xuất gia noi theo Đức Thế Tôn (là người) đã xuất gia. Còn gia tộc của chúng ta thì không có người nào rời nhà xuất gia sống không nhà cả. Chính vì điều ấy, hoặc là em hoặc là anh sẽ xuất gia.” Anuruddha sau khi đã nghe lời nói của anh, không còn hoan hỷ với việc sống đời sống tại gia nữa, và trở thành vị thứ bảy đã rời nhà xuất gia sống không nhà. Trình tự việc xuất gia của Anuruddha đã được đề cập trong Chương Chia Rẽ Hội Chúng (cūḷava. 330).

Evaṃ anupiyaambavanaṃ gantvā pabbajitesu pana tesu tasmiṃyeva antovasse bhaddiyatthero arahattaṃ pāpuṇi. Anuruddhatthero dibbacakkhuṃ nibbattesi, devadatto aṭṭha samāpattiyo nibbattesi, ānandatthero sotāpattiphale patiṭṭhāsi, bhagutthero ca kimilatthero ca pacchā arahattaṃ pāpuṇiṃsu. Tesaṃ pana sabbesampi therānaṃ attano attano āgataṭṭhāne pubbapatthanābhinīhāro āgamissati. Ayaṃ pana anuruddhatthero dhammasenāpatissa santike kammaṭṭhānaṃ gahetvā cetiyaraṭṭhe pācīnavaṃsamigadāyaṃ gantvā samaṇadhammaṃ karonto satta mahāpurisavitakke vitakkesi, aṭṭhame kilamati. Satthā ‘‘anuruddho aṭṭhame mahāpurisavitakke kilamatī’’ti ñatvā ‘‘tassa saṅkappaṃ pūressāmī’’ti tattha gantvā paññattavarabuddhāsane nisinno aṭṭhamaṃ mahāpurisavitakkaṃ pūretvā catupaccayasantosa-bhāvanārāmapaṭimaṇḍitaṃ mahāariyavaṃsapaṭipadaṃ (a. ni. 8.30) kathetvā ākāse uppatitvā bhesakalāvanameva gato.

Anuruddha đã đi đến vườn xoài Anupiya rồi xuất gia như vậy. Trong số các Vương tử thuộc dòng dõi Sākya đó, Trưởng lão Bhaddiya đã chứng đạt được quả vị A-ra-hán ngay trong mùa an cư mưa. Trưởng lão Anuruddha đã làm sanh khởi Thiên Nhãn. Devadatta đã làm sanh khởi tám Thiền chứng. Trưởng lão Ānanda đã an trú trong quả vị Nhập lưu. Trưởng lão Bhaggu và Trưởng lão Kimbila đã chứng đạt được quả vị A-ra-hán sau đó. Hơn nữa, nguyện vọng của lời phát nguyện trước kia của tất cả các vị Trưởng lão ấy sẽ được đề cập trong câu chuyện của mỗi vị. Ngoài ra, Trưởng lão Anuruddha này học tập đề mục thiền định trong sự hiện diện của vị Tướng quân Chánh pháp Sāriputta rồi đi thực hành Sa-môn pháp Ở khu rừng Pācīnavaṃsa Migadāya thuộc xứ Cetiya, (tại đó) vị ấy đã suy tầm đến bảy suy tầm của bậc Đại Nhân, bị khó khăn ở suy tầm thứ tám. Bậc Đạo Sư biết rằng: “Trưởng lão Anuruddha gặp khó khăn trong pháp suy tầm thứ tám của bậc Đại Nhân,” (nghĩ rằng) “Ta sẽ làm cho sự suy tư của vị ấy được viên mãn” rồi Ngài đi đến nơi đó, trong khi an tọa trên Phật tọa cao quý đã được sắp đặt sẵn, đã làm suy tầm thứ tám của bậc Đại Nhân được đầy đủ rồi thuyết giảng Mahāariyavaṃsapaṭipā được tô điểm với sự hài lòng trong bốn món vật dụng và sự vui thích trong việc tu tập, nên mới bay đến tại khu rừng Bhesakalā.

Thero tathāgate gatamatteyeva tevijjo mahākhīṇāsavo hutvā ‘‘satthā mayhaṃ manaṃ jānitvā āgantvā aṭṭhamaṃ mahāpurisavitakkaṃ pūretvā adāsi. So ca me manoratho matthakaṃ patto’’ti buddhānaṃ dhammadesanaṃ attano ca paṭividdhadhammaṃ ārabbha imā gāthā abhāsi –

‘‘Mama saṅkappamaññāya, satthā loke anuttaro;
Manomayena kāyena, iddhiyā upasaṅkami.

‘‘Yathā me ahu saṅkappo, tato uttari desayi;
Nippapañcarato buddho, nippapañcamadesayi.

‘‘Tassāhaṃ dhammamaññāya, vihāsiṃ sāsane rato;
Tisso vijjā anuppatto, kataṃ buddhassa sāsana’’nti. (theragā. 901-903);

Atha naṃ aparabhāge satthā jetavanamahāvihāre viharanto ‘‘mama sāsane dibbacakkhukānaṃ anuruddho aggo’’ti aggaṭṭhāne ṭhapesi.

Ngay khi Đức Như Lai vừa đi, Trưởng lão có Tam Minh (đã được thành tựu), trở thành bậc Đại Lậu Tận rồi nghĩ rằng: “Bậc Đạo Sư, sau khi biết tâm ý của ta, Ngài đã đến ban tặng pháp suy tầm của bậc Đại Nhân thứ tám được viên mãn. Hơn nữa, ước muốn tốt đẹp của ta đã đạt đến tột đỉnh,” bắt đầu bài Pháp thoại du dương của chư Phật và Pháp đã được thấu triệt bởi chính mình, nên đã thốt lên những vần kệ này—

Biết được sự suy tư của tôi, bậc Đạo Sư, đấng Vô Thượng ở thế gian;
đã đến bên tôi bằng thần thông, với cơ thể được tạo thành bởi ý.

Vào lúc sự suy tư đã có ở tôi, do đó Ngài đã thuyết giảng thêm nữa. Được thỏa thích ở các pháp không chướng ngại, đức Phật đã thuyết giảng về các pháp không chướng ngại.

Vì thế, sau khi hiểu được Giáo Pháp, được thích thú ở lời giáo huấn, tôi đã an trú. Ba Minh đã được thành tựu, lời dạy của đức Phật đã được thực hành.

Về sau, bậc Đạo Sư trong khi an trú tại Đại Tịnh Xá Jetavana đã thiết lập (vị ấy) vào vị thế tối thắng rằng: “Anuruddha là tối thắng trong số các vị Tỳ-khưu có Thiên Nhãn trong Giáo Pháp của Ta.”

Câu chuyện về Trưởng Lão Bhaddiya

193. Chaṭṭhe uccākulikānanti ucce kule jātānaṃ. Bhaddiyoti anuruddhattherena saddhiṃ nikkhamanto sakyarājā. Kāḷigodhāya puttoti kāḷavaṇṇā sā devī, godhāti panassā nāmaṃ. Tasmā kāḷigodhāti vuccati, tassā puttoti attho. Kasmā panāyaṃ uccākulikānaṃ aggoti vutto, kiṃ tato uccākulikatarā natthīti? Āma natthi. Tassa hi mātā sākiyānīnaṃ antare vayena sabbajeṭṭhikā, soyeva ca sākiyakule sampattaṃ rajjaṃ pahāya pabbajito. Tasmā uccākulikānaṃ aggoti vutto. Apica pubbapatthanānubhāvena cesa anupaṭipāṭiyā pañca jātisatāni rājakule nibbattitvā rajjaṃ kāresiyeva. Imināpi kāraṇena uccākulikānaṃ aggoti vutto.

Trong bài Kinh thứ sáu, thuộc gia đình thượng lưu: Vị sanh ra trong gia đình cao quý. Bhaddiya: đức vua Bhaddiya dòng Sakya xuất gia cùng với Trưởng lão Anuruddha. Kāḷigodhāyaputta: Hoàng hậu ấy là người có nước da đen. Godhā: là tên của vị Hoàng hậu. Do đó, (vị ấy) được gọi là Kāḷigodhā, là con trai của Hoàng hậu Kāḷigodhā. Vấn: Vậy tại sao Trưởng lão này được Ngài tuyên bố rằng: “là tối thắng của các vị Tỳ-khưu đệ tử thuộc gia đình thượng lưu, há không có vị nào thuộc gia đình thượng lưu mà vượt hơn vị ấy chăng?” Đáp– Vâng, không có. Thật vậy, mẫu thân của Ngài là người có tuổi đời cao nhất trong số các vị thuộc gia tộc Sākiya (Thích Ca). Ngài đã từ bỏ vương quyền trong gia tộc Sākiya để xuất gia. Vì thế, Đức Thế Tôn đã nói rằng: “Là tối thắng hơn các vị Tỳ-khưu có gia đình cao quý.” Mặt khác, nhờ sức mạnh điều thệ nguyện từ trước Trưởng lão Bhaddiya này đã tái sinh vào gia tộc vua chúa rồi trị vì Vương quốc đến năm trăm kiếp liên tục. Với những lý do ấy, (Trưởng lão Bhaddiya) đã được Đức Thế Tôn tuyên bố: “ tối thắng hơn các vị Tỳ-khưu thuộc gia đình thượng lưu.

Pañhakamme panassa ayamanupubbikathā – ayampi hi atīte padumuttarabuddhakāle mahābhogakule nibbatto vuttanayeneva dhammassavanatthāya gato. Taṃdivasaṃ satthāraṃ ekaṃ bhikkhuṃ uccākulikānaṃ bhikkhūnaṃ aggaṭṭhāne ṭhapentaṃ disvā ‘‘mayāpi anāgate ekassa buddhassa sāsane uccākulikānaṃ bhikkhūnaṃ aggena bhavituṃ vaṭṭatī’’ti tathāgataṃ nimantetvā satta divasāni buddhappamukhassa bhikkhusaṅghassa mahādānaṃ datvā, ‘‘bhante, ahaṃ imassa dānassa phalena nāññaṃ sampattiṃ ākaṅkhāmi, anāgate pana ekassa buddhassa sāsane uccākulikānaṃ bhikkhūnaṃ aggo bhaveyya’’nti patthayitvā pādamūle nipajji.

Hơn nữa, về các vấn đề liên quan đến nghiệp lực của Ngài, có câu chuyện được thuật lại theo trình tự như sau— Thật vạy, ngay cả vị này vào thời kỳ Đức Phật Padumuttara trong thời quá khứ, Ngài đã tái sinh vào gia đình có khối tài sản lớn, đi để lắng nghe Pháp theo chính cách thức đã được đề cập. Vào ngày hôm đó, Ngài đã thấy Đức Phật thiết lập một vị Tỳ-khưu vào vị thế tối thắng trong số các Tỳ-khưu thuộc gia đình thượng lưu. (Vị ấy) mới nghĩ rằng: “Ngay cả ta cũng xứng đáng trở thành vị tối thắng trong số các Tỳ-khưu thuộc gia đình thượng lưu trong Giáo Pháp của một vị Phật nào đó trong thời tương lai,” nên đã thỉnh mời Đức Như Lai và đã cúng dường lễ đại thí đến Hội chúng Tỳ-khưu có Đức Phật là vị đứng đầu trong 7 ngày. (Sau đó,) vị ấy quỳ xuống dưới chân đức Phật, thiết lập lời thệ nguyện rằng: “Bạch Đức Thế Tôn, con không mong cầu bất kỳ sự thành tựu nào khác với quả báo của sự bố thí này. Nhưng vào thời vị lai, mong cho con có thể trở thành vị tối thắng trong số các vị Tỳ-khưu thuộc gia đình thượng lưu trong Giáo Pháp của một vị Phật nào đó.”

Satthā anāgataṃ olokento samijjhanabhāvaṃ disvā ‘‘samijjhissati te idaṃ kammaṃ, ito kappasatasahassāvasāne gotamo nāma buddho uppajjissati, tvaṃ tassa sāsane uccākulikānaṃ bhikkhūnaṃ aggo bhavissasī’’ti byākaritvā bhattānumodanaṃ katvā vihāraṃ agamāsi. Sopi taṃ byākaraṇaṃ labhitvā uccākulikasaṃvattanikakammaṃ pucchitvā dhammāsanāni kāretvā tesu paccattharaṇāni santharāpetvā dhammabījaniyo dhammakathikavaṭṭaṃ uposathāgāre padīpateladānanti evaṃ yāvajīvaṃ bahuvidhaṃ kalyāṇakammaṃ katvā tattha kālakato devesu ca manussesu ca saṃsaranto kassapadasabalassa ca amhākañca bhagavato antare bārāṇasiyaṃ kuṭumbiyaghare nibbatto.

Bậc Đạo sư trong khi xem xét đến vị lai, đã thấy được sự thành tựu của lời thệ nguyện, nên đã thọ ký rằng: “Hành động này của ngươi sẽ thành tựu cho đến khi kết thúc một trăm ngàn kiếp kể từ kiếp này, Đức Phật tên là Gotama sẽ xuất hiện, ngươi sẽ là vị tối thắng trong số các Tỳ-khưu thuộc gia đình thượng lưu trong Giáo Pháp của Ngài,” sau khi thực hiện tùy hỷ phước báu về bữa thọ thực, Ngài đã trở về Tịnh xá. Sau khi nhận được lời thọ ký, vị ấy đã hỏi về những hành động đưa đến quả báo cho người được sanh ra trong gia đình thượng lưu, (từ đó) Ngài đã thực hiện nhiều hành động thiện lành cho đến trọn đời như sau: đã xây dựng Pháp Tọa, trải ra tấm thảm trên Pháp Tọa đó, quạt cho vị thuyết giảng Giáo Pháp, cung cấp chi phí cho vị thuyết giảng Giáo Pháp, và xây dựng phòng hành lễ Uposatha. Sau khi mệnh chung ở bản thể ấy, trong khi luân hồi giữa cõi Trời và cõi Người, trong khoảng thời gian giữa đấng Thập Lực Kassapa và Đức Thế Tôn của chúng ta, Ngài tái sanh vào gia đình của một gia chủ giàu có tại kinh thành Bārāṇasī.

Tena ca samayena sambahulā paccekabuddhā gandhamādanapabbatā āgamma bārāṇasiyaṃ gaṅgāya tīre phāsukaṭṭhāne nisīditvā piṇḍapātaṃ paribhuñjanti. So kuṭumbiyo tesaṃ nibaddhameva tasmiṃ ṭhāne bhattavissaggakaraṇaṃ ñatvā aṭṭha pāsāṇaphalakāni attharitvā yāvajīvaṃ paccekabuddhe upaṭṭhahi. Athekaṃ buddhantaraṃ devamanussesu saṃsaritvā imasmiṃ buddhuppāde kapilavatthunagare khattiyakule nibbatti. Nāmaggahaṇadivase cassa bhaddiyakumāroti nāmaṃ akaṃsu. So vayaṃ āgamma heṭṭhā anuruddhasutte vuttanayeneva channaṃ khattiyānaṃ abbhantaro hutvā satthari anupiyaambavane viharante satthu santike pabbajitvā arahattaṃ pāpuṇi. Atha satthā aparabhāge jetavanamahāvihāre viharanto ‘‘mama sāsane uccākulikānaṃ kāḷigodhāya putto bhaddiyatthero aggo’’ti aggaṭṭhāne ṭhapesi.

Và vào lúc bấy giờ, nhiều vị Phật Độc Giác đến từ núi Gandhamādana, ngồi thọ dụng đồ ăn khất thực tại địa điểm thuận lợi gần bờ sông Gaṅgā ở Bārāṇasī. Gia chủ ấy biết rằng các vị Phật Độc Giác đó thường xuyên thực hiện việc chia phần thức ăn ở tại nơi đó, nên đã trải ra tám tấm đá và hộ độ các vị Phật Độc Giác cho đến hết cuộc đời. Khi đó, sau khi luân hồi giữa cõi Trời và cõi Người trải qua một khoảng thời gian giữa hai vị Phật. Vào thời kỳ có Phật ra đời, vị ấy đã sanh ra ở gia tộc Sát-đế-lỵ trong thành Kapilavatthu. Vào ngày đặt tên, thân quyến đã gọi Ngài là Bhaddiyakumāra. Vị ấy, do nương nhờ phước báu, đã là một vị Sát-đế-lỵ trong sáu vị Sát-đế-lỵ như đã được nói trong bài Kinh Anuruddha. Về sau, trong khi bậc Đạo Sư an trú tại vườn xoài Anupiya, vị ấy đã xuất gia trong sự chứng minh của bậc Đạo Sư rồi chứng đạt được quả vị A-ra-hán. Về sau nữa, khi bậc Đạo Sư an trú tại Đại Tịnh xá Jetavana, Ngài đã thiết lập (Trưởng lão Bhaddiya) vào vị thế tối thắng rằng: “Trưởng lão Bhaddiya, con trai của Hoàng hậu Kāḷigōdhā, là vị tối thắng trong số các Tỳ-khưu thuộc gia đình thượng lưu trong Giáo Pháp của Ta.

Câu chuyện về Trưởng lão Lakuṇḍakabhaddiya

Sattame mañjussarānanti madhurassarānaṃ. Lakuṇḍakabhaddiyoti ubbedhena rasso, nāmena bhaddiyo. Tassāpi pañhakamme ayamanupubbikathā – ayampi hi padumuttarabuddhakāle haṃsavatīnagare mahābhogakule nibbatto vuttanayeneva dhammassavanatthāya vihāraṃ gato. Tasmiṃ samaye satthāraṃ ekaṃ mañjussaraṃ bhikkhuṃ etadagge ṭhapentaṃ disvā ‘‘aho vatāhampi anāgate ayaṃ bhikkhu viya ekassa buddhassa sāsane mañjussarānaṃ bhikkhūnaṃ aggo bhaveyya’’nti cittaṃ uppādetvā satthāraṃ nimantetvā satta divasāni buddhappamukhassa bhikkhusaṅghassa mahādānaṃ datvā, ‘‘bhante, ahaṃ imassa dānassa phalena na aññaṃ sampattiṃ ākaṅkhāmi, anāgate pana ekassa buddhassa sāsane mañjussarānaṃ bhikkhūnaṃ aggo bhaveyya’’nti patthayitvā satthupādamūle nipajji. Satthā anāgataṃ olokento samijjhanabhāvaṃ disvā ‘‘samijjhissati te idaṃ kammaṃ, ito kappasatasahassāvasāne gotamo nāma buddho uppajjissati, tvaṃ tassa sāsane mañjussarānaṃ bhikkhūnaṃ aggo bhavissasī’’ti byākaritvā vihāraṃ agamāsi.

Trong bài Kinh thứ bảy, vị có giọng nói êm ái: có giọng nói ngọt ngào. Lakuṇḍakabhaddiya: nói về chiều cao (Ngài) là người thấp, theo tên gọi là Bhaddiya. Về các vấn đề liên quan đến nghiệp lực của Trưởng lão Bhaddiya, có câu chuyện được thuật lại theo trình tự như sau— Thật vậy, Trưởng lão này đã sanh ra trong một gia đình giàu có tại kinh thành Haṃsavatī vào thời Đức Phật Padumuttara, Ngài đã đi đến Tịnh xá để lắng nghe Chánh Pháp theo những phương thức đã được nói trước đó. Vào thời điểm ấy, sau khi thấy một vị Tỳ-khưu có giọng nói ngọt ngào được Đức Thế Tôn thiết lập vào vị thế tối thắng, Ngài đã khởi tâm rằng: “Ôi! ngay cả ta cũng có thể trở thành vị tối thắng của các Tỳ-khưu có giọng nói ngọt ngào trong Giáo Pháp của một vị Phật sẽ xuất hiện trong tương lai giống như vị Tỳ-khưu này vậy.” Vì thế, Ngài đã thỉnh mời Đức Thế Tôn rồi cúng dường lễ đại thí đến Hội chúng Tỳ-khưu có Đức Phật là vị đứng đầu trong suốt bảy ngày, rồi quỳ mọp dưới chân bậc Đạo Sư và thiết lập lời thệ nguyện rằng: “Bạch Ngài, con không mong cầu bất kỳ sự thành tựu nào khác từ kết quả của sự bố thí này; nhưng trong tương lai, cầu xin cho con được trở thành vị tối thắng trong số các Tỳ-khưu có giọng nói ngọt ngào trong Giáo Pháp của một vị Phật.” Bậc Đạo Sư, khi quán xét đến tương lai, thấy được sự thành tựu của vị ấy, nên mới thọ ký rằng: “Hành động này của ngươi sẽ được thành tựu đến khi kết thúc một trăm ngàn kiếp kể từ kiếp này, Đức Phật tên là Gotama sẽ xuất hiện, và ngươi sẽ là vị tối thắng trong số các vị Tỳ-khưu có giọng nói ngọt ngào trong Giáo Pháp của Ngài,” rồi đã trở về Tịnh xá.

Sopi taṃ byākaraṇaṃ labhitvā yāvajīvaṃ kalyāṇakammaṃ katvā tato kālakato devesu ca manussesu ca saṃsaranto vipassīsammāsambuddhakāle cittapattakokilo nāma hutvā kheme migadāye vasanto ekadivasaṃ himavantaṃ gantvā madhuraṃ ambaphalaṃ tuṇḍena gahetvā āgacchanto bhikkhusaṅghaparivutaṃ satthāraṃ disvā cintesi – ‘‘ahaṃ aññesu divasesu rittako tathāgataṃ passāmi, ajja pana me imaṃ ambapakkaṃ puttakānaṃ atthāya āgataṃ. Tesaṃ aññampi āharitvā dassāmi, imaṃ pana dasabalassa dātuṃ vaṭṭatī’’ti otaritvā ākāse carati. Satthā tassa cittaṃ ñatvā asokattheraṃ nāma upaṭṭhākaṃ olokesi. So pattaṃ nīharitvā satthu hatthe ṭhapesi. So kokilo dasabalassa patte ambapakkaṃ patiṭṭhāpesi. Satthā tattheva nisīditvā taṃ paribhuñji. Kokilo pasannacitto punappunaṃ dasabalassa guṇe āvajjetvā dasabalaṃ vanditvā attano kulāvakaṃ gantvā sattāhaṃ pītisukhena vītināmesi. Ettakaṃ tasmiṃ attabhāve kalyāṇakammaṃ, imināssa kammena saro madhuro ahosi.

Sau khi nhận được lời thọ ký đó, vị ấy đã thực hiện các hành động thiện lành cho đến hết đời. Sau khi mệnh chung ở bản thể ấy, (vị ấy) đã luân hồi giữa cõi Trời và cõi Người. Vào thời kỳ đấng Chánh đẳng Chánh giác Vipassī, vị ấy đã tái sanh làm một con chim tu hú, có bộ lông cánh rất đẹp, sống tại vườn Lộc Uyển Khema. Một ngày nọ, nó bay đến vùng núi Hy-mã-lạp, dùng mỏ ngậm một quả xoài chín ngọt mang về, thấy Đức Thế Tôn có Hội chúng Tỳ-khưu vây quanh, nó liền đảnh lễ rồi nghĩ rằng: “Vào những ngày khác ta gặp Đức Như Lai khi trong mình không có gì, nhưng hôm nay ta lại mang theo quả xoài chín này để dành cho con của mình; tuy nhiên, ta có thể đi kiếm quả khác cho con sau, còn quả này ta nên dâng cúng lên đấng Thập Lực,” rồi nó tiếp tục bay lên không trung. Đức Thế Tôn biết được tâm ý của chim tu hú nên đã đưa mắt nhìn vị thị giả tên là Trưởng lão Asoka. Trưởng lão đã cầm bình bát lại đặt vào tay của bậc Đạo Sư, và nó đã đặt quả xoài chín vào trong bát của đấng Thập Lực. Bậc Đạo Sư đã ngồi thọ dụng quả xoài ngay tại nơi đó. Chim tu hú có tâm tịnh tín đã luôn hướng đến ân đức của đấng Thập Lực, sau khi đảnh lễ đấng Thập Lực, chim đã bay về tổ của mình và sống với niềm hỷ lạc suốt bảy ngày. Chính trong bản thể đó, nó đã thực hiện hành động thiện lành chừng ấy, chính nhờ hành động này mà (vị ấy) đã có được giọng nói ngọt ngào.

Kassapasammāsambuddhakāle pana cetiye āraddhe ‘‘kiṃpamāṇaṃ karoma? Sattayojanappamāṇaṃ. Atimahantaṃ etaṃ, chayojanaṃ karoma. Idampi atimahantaṃ, pañcayojanaṃ karoma, catuyojanaṃ, tiyojanaṃ, dviyojana’’nti vutte ayaṃ tadā jeṭṭhavaḍḍhakī hutvā ‘‘etha, bho, anāgate sukhapaṭijaggiyaṃ kātuṃ vaṭṭatī’’ti vatvā rajjuṃ ādāya parikkhipanto gāvutamattake ṭhatvā ‘‘ekekaṃ mukhaṃ gāvutaṃ gāvutaṃ hotu, cetiyaṃ yojanāvaṭṭaṃ yojanubbedhaṃ bhavissatī’’ti āha. Te tassa vacane aṭṭhaṃsu. Iti appamāṇassa buddhassa pamāṇaṃ akāsīti. Tena kammena nibbattanibbattaṭṭhāne aññehi hīnatarappamāṇo ahosi. So amhākaṃ satthu kāle sāvatthiyaṃ mahābhogakule nibbatti. ‘‘Bhaddiyo’’tissa nāmaṃ akaṃsu. So vayappatto satthari jetavanamahāvihāre paṭivasante vihāraṃ gantvā dhammadesanaṃ sutvā paṭiladdhasaddho pabbajitvā satthu santike kammaṭṭhānaṃ gahetvā vipassanāya kammaṃ karonto arahattaṃ pāpuṇi. Atha naṃ satthā aparabhāge ariyavaragaṇamajjhe nisinno mañjussarānaṃ bhikkhūnaṃ aggaṭṭhāne ṭhapesi.

Vào thời kỳ đấng Chánh đẳng Chánh giác Kassapa, khi dân chúng bắt đầu xây dựng Bảo điện tôn thờ xá lợi, họ đã bàn bạc với nhau rằng: “Chúng ta sẽ xây kích thước bao nhiêu?” – Kích thước bảy do-tuần, như thế thì quá lớn; chúng ta sẽ xây khoảng sáu do-tuần, như thế cũng vẫn quá lớn, chúng ta sẽ xây khoảng năm do-tuần, bốn do-tuần, ba do-tuần, hai do-tuần.” Lúc bấy giờ, Bhaddiya này là một người thợ mộc trưởng, vị ấy đã nói rằng: “Thưa các Ngài: “Việc xây dựng cũng nên nghĩ đến việc bảo dưỡng cho được dễ dàng trong tương lai,” rồi vị ấy đề xuất rằng– “Mỗi mặt của Bảo điện nên rộng một gāvuta, phần thân tròn của Bảo điện rộng một do tuần và chiều cao cũng là một do tuần,” những người ấy đồng ý với lời nói của người thợ mộc. Vị ấy đã làm giảm thiểu kích thước của Đức Phật, bậc vô song. Với hành động đó, như đã đề cập, vị ấy đã trở thành người có vóc dáng thấp bé hơn những người khác tại mỗi nơi được lần lượt sanh ra, là như thế. Vào thời Đức Phật của chúng ta, vị ấy tái sinh vào một gia đình giàu sang phú quý tại kinh thành Sāvatthī. Những người thân trong dòng tộc đã đặt tên vị ấy là Bhaddiya. Khi trưởng thành, vào lúc Đức Thế Tôn đang cư ngụ tại Đại Tịnh xá Jetavana, Ngài đã đến Tịnh xá để lắng nghe giáo pháp, đã đạt được niềm tịnh tín, rồi nhận lãnh đề mục thiền định trong sự hiện diện của bậc Đạo Sư, và trong lúc thực hành thiền Minh sát đã đạt đến phẩm vị A-ra-hán. Về sau, bậc Đạo Sư trong khi đang ngồi giữa Hội chúng Thánh Tăng, Ngài đã thiết lập (Trưởng lão Lakuṇḍakabhaddiya) vào vị thế tối thắng trong số các vị Tỳ-khưu có giọng nói ngọt ngào.

Câu chuyện về Trưởng lão Piṇḍolabhāradvāja

195. Aṭṭhame sīhanādikānanti sīhanādaṃ nadantānaṃ. Piṇḍolabhāradvājoti so kira arahattaṃ pattadivase avāpuraṇaṃ ādāya vihārena vihāraṃ pariveṇena pariveṇaṃ gantvā ‘‘yassa magge vā phale vā kaṅkhā atthi, so maṃ pucchatū’’ti sīhanādaṃ nadanto vicari. Buddhānampi purato ṭhatvā ‘‘imasmiṃ , bhante, sāsane katabbakiccaṃ mayhaṃ matthakaṃ patta’’nti sīhanādaṃ nadi. Tasmā sīhanādikānaṃ aggo nāma jāto.

Trong bài Kinh thứ tám, rống tiếng rống con sư tử: người rống lên tiếng rống con sư tử. Piṇḍolabhāradvāja: Kể rằng, vào ngày đạt được phẩm vị A-ra-hán, Ngài đã cầm lấy chìa khóa đi từ Tịnh xá này sang Tịnh xá kia, từ khu vực này sang khu vực khác và đi đi lại lại ‘rống tiếng rống sư tử’ rằng: “Vị nào còn có điều nghi ngờ Vệ-đào hoặc Quả, (thì) vị ấy hãy cứ hỏi ta!” Ngài cũng đứng trước mặt của chư Phật ‘rống lên tiếng rống loài sư tử’ rằng: “Bạch Đức Thế Tôn, phận sự cần làm trong Giáo Pháp này của con đã đạt đến cứu cánh.” Vì lý do đó, Ngài được gọi là vị tối thắng trong số các Tỳ-khưu, vị rống lên tiếng rống sư tử.

Pañhakamme panassa ayamanupubbikathā – ayaṃ kira padumuttarabuddhakāle pabbatapāde sīhayoniyaṃ nibbatto. Satthā paccūsasamaye lokaṃ volokento tassa hetusampattiṃ disvā haṃsavatiyaṃ piṇḍāya caritvā pacchābhattaṃ sīhe gocarāya pakkante tassa vasanaguhaṃ pavisitvā ākāse pallaṅkaṃ ābhujitvā nirodhaṃ samāpajjitvā nisīdi. Sīho gocaraṃ labhitvā nivatto guhādvāre ṭhito antoguhāyaṃ dasabalaṃ nisinnaṃ disvā ‘‘mama vasanaṭṭhānaṃ āgantvā añño satto nisīdituṃ samattho nāma natthi, mahanto vatāyaṃ puriso, yo antoguhāyaṃ pallaṅkaṃ ābhujitvā nisinno. Sarīrappabhāpissa samantā pharitvā gatā, mayā evarūpaṃ acchariyaṃ nadiṭṭhapubbaṃ. Ayaṃ puriso imasmiṃ loke pūjaneyyānaṃ aggo bhavissati, mayāpissa yathāsatti yathābalaṃ sakkāraṃ kātuṃ vaṭṭatī’’ti jalajathalajāni nānākusumāni āharitvā bhūmito yāva nisinnapallaṅkaṭṭhānā pupphāsanaṃ santharitvā sabbarattiṃ sammukhaṭṭhāne tathāgataṃ namassamāno aṭṭhāsi. Punadivase purāṇapupphāni apanetvā navapupphehi āsanaṃ santhari.

Về các vấn đề liên quan đến nghiệp lực của Ngài, có câu chuyện được thuật lại theo trình tự như sau— Được biết rằng: vào thời Đức Phật Padumuttara, Piṇḍola Bhāradvāja này đã tái sanh vào loài sư tử tại chân núi. Bậc Đạo Sư trong khi quán sát thế gian, đã nhìn thấy sự thành tựu các điều kiện của vị ấy, nên sau khi đi khất thực tại Haṃsavatī, sau bữa ăn, vào lúc bình minh khi sư tử ra ngoài tìm mồi, (Đức Phật) mới bước vào hang động nơi ở của sư tử ấy, ngồi xuống, xếp chân thế kiết già trên không trung và đã thể nhập vào Thiền Diệt. Sư tử sau khi săn được mồi trở Vệ-đà dừng lại ở trước cửa hang, nhìn thấy đấng Thập Lực đang ngồi bên trong hang động, nó nghĩ rằng: “Không có loài vật nào khác là có đủ khả năng đến ngồi ở chỗ trú ngụ của ta, người này quả thật vĩ đại, mới có thể ngồi xuống, xếp chân thế kiết già ở trong hang động như vậy. Ánh hào quang từ kim thân của Ngài cũng lan tỏa khắp xung quanh, ta chưa từng nhìn thấy điều kỳ diệu có hình thức như thế. Người này chắc chắn là bậc tối thượng của những bậc xứng đáng được cúng dường ở thế gian, ta nên thực hiện sự tôn kính tùy theo khả năng, tùy theo sức lực để cúng dường Ngài.” Nó liền đi tìm đủ loại hoa cả ở dưới nước lẫn trên cạn để trải thành chỗ ngồi làm bằng bông hoa từ mặt đất lên đến tận chỗ Ngài đang ngồi kiết già, rồi đứng kính lễ Đức Như Lai ngay trước mặt suốt cả đêm cho đến sáng hôm sau. Khi ngày mới bắt đầu, nó dọn bỏ các bông hoa cũ, rồi trải chỗ ngồi bằng những bông hoa mới.

Eteneva niyāmena satta divasāni pupphāsanaṃ paññāpetvā balavapītisomanassaṃ nibbattetvā guhādvāre ārakkhaṃ gaṇhi. Sattame divase satthā nirodhato vuṭṭhāya guhādvāre aṭṭhāsi. Sīhopi migarājā tathāgataṃ tikkhattuṃ padakkhiṇaṃ katvā catūsu ṭhānesu vanditvā paṭikkamitvā aṭṭhāsi. Satthā ‘‘vaṭṭissati ettako upanissayo etassā’’ti vehāsaṃ abbhuggantvā vihārameva gato.

Theo chính cách thức đó, nó đã sắp xếp chỗ ngồi bằng bông hoa liên tục trong suốt bảy ngày, đã làm khởi lên phỉ lạc và sự hoan hỷ mãnh liệt, và đứng bảo vệ ở cửa hang động. Đến ngày thứ bảy, bậc Đạo Sư sau khi xuất khỏi Thiền Diệt, đã đứng ở cửa hang. Sư tử, chúa của muôn thú, hướng vai phải nhiễu quanh Đức Như Lai ba vòng, đảnh lễ cung kính tại bốn phương rồi lùi lại đứng ở một bên. Bậc Đạo Sư nghĩ rằng: “Chừng ấy (phước báu) sẽ đủ điều kiện cho nó về sau”, rồi Ngài bay lên hư không trở về Tịnh xá.”

Sopi sīho buddhaviyogena dukkhito kālaṃ katvā haṃsavatīnagare mahāsālakule paṭisandhiṃ gaṇhitvā vayappatto ekadivasaṃ nagaravāsīhi saddhiṃ vihāraṃ gantvā dhammadesanaṃ suṇanto satthāraṃ ekaṃ bhikkhuṃ sīhanādikānaṃ aggaṭṭhāne ṭhapentaṃ disvā vuttanayeneva sattāhaṃ mahādānaṃ pavattetvā taṃ ṭhānantaraṃ patthetvā satthārā samijjhanabhāvaṃ disvā byākato yāvajīvaṃ kusalaṃ katvā tattha kālakato devesu ca manussesu ca saṃsaranto imasmiṃ buddhuppāde rājagahanagare brāhmaṇamahāsālakule nibbatti. Nāmena bhāradvājo nāma ahosi. So vayappatto tayo vede uggahetvā pañca māṇavasatāni mante vācento vicarati. So attano jeṭṭhakabhāvena nimantanaṭṭhānesu sabbesaṃ bhikkhaṃ sayameva sampaṭicchi. Eso kira īsakaṃ loladhātuko ahosi. So tehi māṇavehi saddhiṃ ‘‘kuhiṃ yāgu kuhiṃ bhatta’’nti yāgubhattakhajjakāneva pariyesamāno carati. So gatagataṭṭhāne piṇḍameva paṭimānento caratīti piṇḍolabhāradvājoteva paññāyi.

Về phần sư tử ấy, bị đau khổ do phải xa cách Đức Phật, nên đã chết và tái sanh vào một gia tộc giàu có trong thành Haṃsavatī. Khi trưởng thành, một ngày nọ cậu cùng với dân chúng trong thành đã đi đến Tịnh xá để lắng nghe thuyết Pháp, thấy bậc Đạo Sư thiết lập một vị Tỳ-khưu vào vị thế tối thắng của các vị Tỳ-khưu rống tiếng rống loài sư tử. Sau khi đã tiến hành cuộc đại thí trong suốt bảy ngày theo cách thức đã được đề cập trước, rồi phát nguyện vào vị thế đó. Bậc Đạo Sư thấy được sự thành tựu và đã thọ ký, tạo các hành động thiên lành cho đến trọn đời. Mệnh chung ở bản thể ấy, trong khi luân hồi giữa cõi trời và cõi người, vào thời kỳ Đức Phật xuất hiện (vị ấy) được tái sanh vào gia tộc Bà-la-môn giàu có tại thành Rājagaha; và đã có tên là Bhāradvāja. Vị ấy, khi đến tuổi trưởng thành đã học tập ba kiến thức Vệ-đà, và đi truyền dạy các chú thuật cho năm trăm thanh niên Bà-la-môn. Đích thân đi đến những nơi được thỉnh mời với tư cách là người đứng đầu. Kể rằng: Thanh niên Bhāradvāja này là người có tính hơi ham ăn một chút, cậu cùng với đám thanh niên ấy thường đi tìm kiếm thức ăn, cháo, và vật thực mềm cứng bất cứ ở nơi đâu. Ở tại địa điểm đã đi đến, người ta chỉ đón tiếp cậu bằng một bát cơm. Vì lý do đó, cậu được biết đến với danh xưng là Piṇḍola Bhāradvāja.

So ekadivasaṃ satthari rājagahamanuppatte dhammakathaṃ sutvā paṭiladdhasaddho pabbajitvā vipassanāya kammaṃ karonto arahattaṃ pāpuṇi. Arahattaṃ pattavelāyameva avāpuraṇaṃ ādāya vihārena vihāraṃ pariveṇena pariveṇaṃ gantvā ‘‘yassa magge vā phale vā kaṅkhā atthi, so maṃ pucchatū’’ti sīhanādaṃ nadanto vicari. So ekadivasaṃ rājagahaseṭṭhinā veḷuparamparāya ussāpetvā ākāse laggitaṃ jayasumanavaṇṇaṃ candanasārapattaṃ iddhiyā ādāya sādhukāraṃ dadantena mahājanena parivuto vihāraṃ āgantvā tathāgatassa hatthe ṭhapesi. Satthā jānantova paṭipucchi – ‘‘kuto te, bhāradvāja, ayaṃ patto laddho’’ti? So laddhakāraṇaṃ kathesi. Satthā ‘‘tvaṃ evarūpaṃ uttarimanussadhammaṃ mahājanassa dassesi, akattabbaṃ tayā kata’’nti anekapariyāyena vigarahitvā ‘‘na, bhikkhave, gihīnaṃ uttarimanussadhammaṃ iddhipāṭihāriyaṃ dassetabbaṃ, yo dasseyya, āpatti dukkaṭassā’’ti (cūḷava. 252) sikkhāpadaṃ paññāpesi.

Một ngày nọ, khi bậc Đạo Sư ngự đến thành Rājagaha, vị ấy (thanh niên Bhāradvāja) sau khi nghe bài thuyết Pháp, đã khởi tâm tịnh tín rồi xuất gia, và trong lúc thực hành thiền Minh sát đã đạt đến phẩm vị A-ra-hán. Ngay tại thời điểm chứng đạt Phẩm vị A-ra-hán, Ngài đã cầm chìa khóa đi từ Tịnh xá này sang Tịnh xá khác, từ khu vực này sang khu vực nọ, đi đi lại lại “rống lên tiếng rống sư tử” rằng: “Vị nào còn điều nghi ngờ gì Vệ-đào hay Quả, xin vị ấy hãy đến hỏi ta!” Cũng vào thời gian đó, có một vị Trưởng giả ở thành Rājagaha đã lấy những cây tre nối lại với nhau thật cao rồi treo một chiếc bát làm từ gỗ chiên đàn đỏ có màu sắc rực rỡ tựa như muồng hoa hồng đào, lơ lửng trên không trung, bằng thần thông (Ngài Piṇḍola Bhāradvāja) đã lấy (chiếc bát ấy), là người được đông đảo quần chúng ban lời tán thán tháp tùng đi trở về Tịnh xá và đã đặt vào lòng bàn tay của Đức Như Lai. Dù đã biết rõ sự việc, nhưng bậc Đạo Sư vẫn hỏi rằng: “Này Bhāradvāja, ông có được chiếc bát này từ đâu?” – Trưởng lão đã nói về nguyên nhân có được. Bậc Đạo Sư liền khiển trách: “Ông đã phô diễn pháp thượng nhân như thế này trước mặt quần chúng; ông đã làm một việc không đáng làm”. Sau khi đã khiển trách vị ấy bằng nhiều phương thức, Ngài đã quy định điều học như sau: “Này các tỳ khưu, không nên phô bày pháp thượng nhân tức là sự kỳ diệu của phép thần thông đến hàng tại gia; vị nào phô bày thì phạm tội dukkaṭa.” (cūḷava. 252);

Atha bhikkhusaṅghamajjhe kathā udapādi – ‘‘sīhanādiyatthero arahattaṃ pattadivase bhikkhusaṅghamajjhe ‘yassa magge vā phale vā kaṅkhā atthi, so maṃ pucchatū’ti kathesi. Buddhānampi sammukhe attano arahattappattiṃ kathesi, aññe sāvakā tuṇhī ahesuṃ. Attano sīhanādiyabhāveneva mahājanassa pasādaṃ janetvā vehāsaṃ abbhuggantvā candanasārapattañca gaṇhī’’ti. Te bhikkhū ime tayopi guṇe ekato katvā satthu kathayiṃsu. Buddhā ca nāma garahitabbayuttakaṃ garahanti, pasaṃsitabbayuttakaṃ pasaṃsantīti imasmiṃ ṭhāne therassa pasaṃsitabbayuttameva aṅgaṃ gahetvā ‘‘tiṇṇaṃ kho pana, bhikkhave, indriyānaṃ bhāvitattā bahulīkatattā bhāradvājo bhikkhu aññaṃ byākāsi – ‘khīṇā jāti, vusitaṃ brahmacariyaṃ, kataṃ karaṇīyaṃ , nāparaṃ itthattāyāti pajānāmī’ti. Katamesaṃ tiṇṇaṃ? Satindriyassa, samādhindriyassa, paññindriyassa. Imesaṃ kho, bhikkhave, tiṇṇaṃ indriyānaṃ bhāvitattā bahulīkatattā bhāradvājo bhikkhu aññaṃ byākāsi – ‘khīṇā jāti, vusitaṃ brahmacariyaṃ, kataṃ karaṇīyaṃ, nāparaṃ itthattāyāti pajānāmī’’’ti (saṃ. ni. 5.519) theraṃ pasaṃsitvā sīhanādikānaṃ bhikkhūnaṃ aggaṭṭhāne ṭhapesi.

Khi ấy, đã khởi lên lời bàn tán giữa Hội chúng Tỳ-khưu rằng: “Trưởng lão này đã rống lên tiếng rống sư tử ngay vào ngày chứng đạt được quả vị A-ra-hán,” (vị ấy) đã nói  giữa Hội chúng Tỳ-khưu: “Vị nào có điều nghi ngờ Vệ-đào hoặc Quả, xin vị ấy hãy đặt câu hỏi.Ngay cả ở trước mặt Đức Phật, Ngài cũng đã tuyên bố về việc chứng đạt quả vị A-ra-hán của bản thân, trong khi các vị đệ tử khác đều giữ im lặng. Chính bởi trạng thái ưa thích rống lên tiếng rống sư tử của bản thân mà Ngài đã khiến quần chúng khởi lên sự ngưỡng mộ khi bay lên không trung để lấy chiếc bát bằng gỗ chiên đàn.” Các vị Tỳ-khưu đã tổng hợp cả ba sự kiện này thành một để bạch lên Đức Thế Tôn. Theo lẽ thường, chư Phật sẽ khiển trách những ai đáng bị khiển trách và tán thán những ai xứng đáng được tán thán. Trong từng trường hợp này, bậc Đạo Sư chỉ nắm lấy bản thể tối thắng của Trưởng lão đáng được tán thán rồi tán thán vị ấy rằng: “Này các Tỳ-khưu, chính nhờ ba quyền ấy đã được tu tập, đã được thực hành nhiều, (mà) Tỳ-khưu Bhāradvāja đã tuyên bố về Thánh Quả A-ra-hán rằng: Ta biết rõ rằng: ‘sự tái sanh đã cạn kiệt, Phạm hạnh đã sống, việc cần làm đã làm, không còn gì khác (phải làm) đối với bản thể (A-ra-hán) này nữa.’” Ba quyền ấy là những quyền nào? là Tín quyền, Định quyền, và Tuệ quyền. (Đức Thế Tôn đã nói rằng): “Này các Tỳ-khưu, chính nhờ ba quyền này đã được tu tập, đã được thực hành nhiều mà Tỳ-khưu Bhāradvāja đã tuyên bố về Thánh Quả A-ra-hán rằng: “Ta biết rõ: ‘sự tái sanh đã cạn kiệt, Phạm hạnh đã sống, việc cần làm đã làm, không còn gì khác (phải làm) đối với bản thể (A-ra-hán) này nữa.’” (saṃ. ni. 5.519); Vì thế, Đức Thế Tôn đã thiết lập (Trưởng lão Bhāradvāja) vào vị thế tối thắng trong số các vị Tỳ-khưu rống lên tiếng rống loài sư tử.

Câu chuyện về Trưởng lão Puṇṇa Mantāṇiputta

Navame puṇṇo mantāṇiputtoti nāmena puṇṇo, mantāṇibrāhmaṇiyā pana so puttoti mantāṇiputto. Tassa pañhakamme ayamanupubbikathā – ayaṃ kira padumuttaradasabalassa uppattito puretarameva haṃsavatīnagare brāhmaṇamahāsālakule nibbatti. Tassa nāmaggahaṇadivase gotamoti nāmaṃ akaṃsu. So vayappatto tayo vede uggaṇhitvā sabbasippesu kovido hutvā pañcamāṇavakasataparivāro vicaranto tayopi vede oloketvā mokkhadhammaṃ adisvā ‘‘idaṃ vedattayaṃ nāma kadalikkhandho viya bahi maṭṭhaṃ anto nissāraṃ, imaṃ gahetvā vicaraṇaṃ thusakoṭṭanasadisaṃ hoti. Kiṃ me iminā’’ti isipabbajjaṃ pabbajitvā brahmavihāre nibbattetvā ‘‘aparihīnajjhāno brahmalokokūpapanno bhavissāmī’’ti pañcahi māṇavakasatehi saddhiṃ pabbatapādaṃ gantvā isipabbajjaṃ pabbaji. Tassa parivārāni aṭṭhārassa jaṭilasahassāni ahesuṃ. So pañca abhiññā aṭṭha samāpattiyo nibbattetvā tesampi kasiṇaparikammaṃ ācikkhi. Te tassa ovāde ṭhatvā sabbepi pañca abhiññā aṭṭha samāpattiyo nibbattesuṃ.

Trong bài Kinh thứ chín, Puṇṇa Mantāṇiputta: Puṇṇa là tên của vị ấy. Hơn nữa, Mantāṇiputta– vị ấy là con trai của nữ Bà-la-môn Mantāṇi (nên gọi là Puṇṇa Mantāṇiputta). Về các vấn đề liên quan đến nghiệp lực của Ngài, có câu chuyện được thuật lại theo trình tự như sau— Được biết rằng: Trước khi đấng Thập Lực Padumuttara xuất hiện, Ngài Puṇṇa được sanh vào gia tộc Bà-la-môn giàu có tại kinh thành Haṃsavatī. Vào ngày lễ đặt tên, thân quyến đã gọi Ngài là Gotama. Đến khi trưởng thành, Ngài đã học tập về ba kiến thức Vệ-đà, là vị rành rẽ tất cả các môn học, có đoàn tùy tùng năm trăm thanh niên rong ruổi khắp nơi. Tuy nhiên, sau khi suy xét về ba kiến thức Vệ-đà, không nhìn thấy được pháp giải thoát. Ngài cho rằng– “Ba kiến thức Vệ-đà giống như thân cây chuối, bên ngoài trông bóng bẩy nhưng bên trong rỗng tuếch chẳng có lõi cốt. Việc ôm giữ ba kiến thức Vệ-đà này rong ruổi khắp nơi cũng chẳng khác gì việc ăn vỏ trấu. Vậy ta còn cần gì những kỹ nghệ này nữa,” nên đã xuất gia theo đời sống xuất gia của vị ẩn sĩ, làm sanh khởi các Phạm Trú, “là vị có Thiền định không bị hư hoại sẽ tiến vào Phạm Thiên giới.” Nghĩ vậy, Ngài cùng với năm trăm thanh niên đã đi đến chân núi xuất gia theo đời sống xuất gia của vị ẩn sĩ. Về sau, Ngài đã có tới mười tám ngàn đạo sĩ tóc bện làm tùy tùng. Ngài đã làm sanh khởi năm thắng trí và tám thiền chứng, đồng thời chỉ dạy đề mục thiền định kasiṇa cho các vị đạo sĩ ấy. Các vị đạo sĩ ấy, sau khi đã an trú vào sự giáo huấn của Ngài, tất cả đều đã làm sanh khởi năm thắng trí và tám thiền chứng.

Addhāne atikkante tassa gotamatāpasassa mahallakakāle padumuttaradasabalo paṭhamābhisambodhiṃ patvā pavattitavaradhammacakko bhikkhusatasahassaparivāro haṃsavatīnagaraṃ upanissāya vihāsi. So ekadivasaṃ paccūsasamaye lokaṃ olokento gotamatāpasassa parisāya arahattūpanissayaṃ gotamatāpasassa ca ‘‘ahaṃ anāgate uppajjamānakabuddhassa sāsane dhammakathikabhikkhūnaṃ aggo bhaveyya’’nti patthanabhāvañca disvā pātova sarīrapaṭijagganaṃ katvā attano pattacīvaraṃ sayameva gahetvā aññātakavesena gotamatāpasassa antevāsikesu vanamūlaphalāphalatthāya gatesu gantvā gotamassa paṇṇasālādvāre aṭṭhāsi. Gotamo buddhānaṃ uppannabhāvaṃ ajānantopi dūratova dasabalaṃ disvā ‘‘ayaṃ puriso lokato mutto hutvā paññāyati, yathā assa sarīranipphatti yehi ca lakkhaṇehi samannāgato agāramajjhe vā tiṭṭhanto cakkavattī rājā hoti, pabbajanto vā vivaṭṭacchado sabbaññubuddho hotī’’ti ñatvā paṭhamadassaneneva dasabalaṃ abhivādetvā ‘‘ito etha bhagavā’’ti buddhāsanaṃ paññāpetvā adāsi. Tathāgato tāpasassa dhammaṃ desayamāno nisīdi.

Khi thời gian dài trôi qua, vào lúc đạo sĩ Gotama đã già, thì đấng Thập Lực Padumuttara đã đạt đến quả vị Toàn Giác tối thượng, vận chuyển bánh xe Pháp cao quý, có hàng trăm ngàn vị Tỳ-khưu tùy tùng và đang sống cư ngụ tại kinh thành Haṃsavatī. Một ngày nọ, đấng Thập Lực quán xét thế gian vào lúc trời hừng sáng, và thấy được nhân duyên chứng đắc quả vị A-ra-hán của tập thể đạo sĩ Gotama, cũng như lời thệ nguyện của vị đạo sĩ này rằng: “Có thể trở thành vị tối thắng trong số các Tỳ-khưu thuyết Pháp trong Giáo Pháp của một vị Phật xuất hiện trong thời vị lai.” Vì vậy, sau khi làm phận sự đối với cơ thể từ sáng sớm, Ngài đã tự mình cầm lấy y bát, đi với hình tướng mà không ai có thể nhận ra, trong lúc các môn đệ của đạo sĩ Gotama đi tìm kiếm hoa quả và củ rễ ở trong rừng, thì (đức Thế Tôn) đã đứng trước cửa chòi lá của vị đạo sĩ Gotama đó. Về phần đạo sĩ Gotama, dù chưa hề biết rằng Đức Phật đã hiện khởi, nhưng ngay khi thấy đấng Thập Lực từ đằng xa, vị ấy đã nhận ra: “Người này xuất hiện, hẳn là bậc đã xuất ly khỏi thế gian, như sự toàn hảo về thân thể của Ngài có sự hội đủ bởi các tướng trạng, nếu người này sống đời sống gia đình sẽ là vị Chuyển Luân Thánh Vương, còn nếu xuất gia thì chắc chắn là Đức Phật Toàn Giác, là vị có màn che đã được vén lên hoàn toàn,” do đó ngay lần gặp đầu tiên, vị ấy đã thành kính đảnh lễ đấng Thập Lực, và thưa rằng: “Bạch Đức Thế Tôn, mời Ngài đi đến lối này,” rồi đã tự tay sắp đặt Phật tọa dâng cúng. Đức Như Lai đã ngồi xuống thuyết giảng Giáo Pháp cho đạo sĩ Gotama.

Tasmiṃ samaye te jaṭilā ‘‘paṇītapaṇītaṃ vanamūlaphalāphalaṃ ācariyassa datvā sesakaṃ paribhuñjissāmā’’ti āgacchantā dasabalaṃ uccāsane, ācariyaṃ pana nīcāsane nisinnaṃ disvā ‘‘passatha, mayaṃ ‘imasmiṃ loke amhākaṃ ācariyena uttaritaro natthī’ti vicarāma. Idāni pana no ācariyaṃ nīcāsane nisīdāpetvā uccāsane nisinnako eko paññāyati, mahanto vatāyaṃ puriso bhavissatī’’ti piṭakāni gahetvā āgacchanti. Gotamatāpaso ‘‘ime maṃ dasabalassa santike vandeyyu’’nti bhīto dūrato āha – ‘‘tātā, mā maṃ vandittha, sadevake loke aggapuggalo sabbesaṃ vandanāraho puriso idha nisinno, etaṃ vandathā’’ti. Tāpasā ‘‘na ajānitvā ācariyo kathessatī’’ti sabbeva tathāgatassa pāde vandiṃsu. ‘‘Tātā, amhākaṃ aññaṃ dasabalassa dātabbayuttakaṃ bhojanaṃ natthi, imaṃ vanamūlaphalāphalaṃ dassāmā’’ti paṇītapaṇītaṃ buddhānaṃ patte patiṭṭhāpesi. Satthā vanamūlaphalāphalaṃ paribhuñji. Tadanantaraṃ tāpasopi saddhiṃ antevāsikehi paribhuñji. Satthā bhattakiccaṃ katvā ‘‘dve aggasāvakā bhikkhusatasahassaṃ gahetvā āgacchantū’’ti cintesi. Tasmiṃ khaṇe aggasāvako mahādevalatthero ‘‘kahaṃ nu kho satthā gato’’ti āvajjento ‘‘satthā amhākaṃ āgamanaṃ paccāsīsatī’’ti bhikkhusatasahassaṃ gahetvā satthu santikaṃ gantvā vanditvā namassamāno aṭṭhāsi.

Khi ấy, các đạo sĩ ấy trở về với ý định rằng: “Sẽ dâng những loại hoa quả và củ rễ ngon nhất trong rừng cho thầy, phần còn lại chúng ta sẽ tự thọ dụng.” Tuy nhiên, khi nhìn thấy đấng Thập Lực đang ngồi trên chỗ ngồi cao, còn thầy của mình lại ngồi ở chỗ ngồi thấp hơn, họ bàn tán xôn xao: “Chúng ta vốn nghĩ rằng trên đời này không ai vĩ đại hơn thầy của mình; nhưng giờ đây xuất hiện, “người này lại khiến thầy của ta phải ngồi ở dưới thấp, còn bản thân thì ngồi ở trên cao. Người này chắc chắn sẽ là bậc vĩ đại!” (Họ) cầm những giỏ (hoa quả và củ rễ) rồi đi đến. Đạo sĩ Gotama lo sợ rằng: “các đệ tử của mình theo thói quen sẽ đảnh lễ ta trong sự hiện diện của đấng Thập Lực (điều này là không phải phép đối với bậc Toàn Giác), nên bảo: “Này các trò, đừng đảnh lễ ta! Đây là bậc Tối Thượng ở thế gian cùng với chư Thiên, là người xứng đáng mà tất cả các trò nên đảnh lễ. Các trò hãy đảnh lễ người này!” Các đạo sĩ nghĩ: “Thầy sẽ không nói nếu không biết rõ,” thế nên tất cả đều cúi đầu đảnh lễ dưới chân Đức Như Lai. Đạo sĩ Gotama nói với các môn đệ: “Này các trò, chúng ta không có thực phẩm nào khác xứng đáng để cúng dường đấng Thập Lực, chúng ta sẽ dâng cúng những hoa quả và củ rễ ở  trong rừng này vậy,” (họ) lựa chọn những loại trái cây ngon nhất đặt vào bình bát của Đức Phật. Sau khi bậc Đạo Sư đã thọ dụng các loại hoa quả và củ rễ ở rừng đó. Kế đó, vị đạo sĩ và các môn đệ mới thọ dụng phần còn lại. Bậc Đạo Sư sau khi làm phận sự về thọ thực, nghĩ rằng: “Hai vị thượng thủ Thinh Văn, hãy dẫn theo một trăm ngàn vị Tỳ-khưu đến đây.” Vào thời khắc ấy, vị Thượng thủ Thinh Văn là Trưởng lão Mahā Devala quán xét: “Bậc Đạo Sư đã đi đâu?” Biết rằng: “Bậc Đạo Sư mong muốn sự đến của ta,” nên Ngài dẫn theo một trăm ngàn vị Tỳ-khưu đến diện kiến, đảnh lễ, và đứng chắp tay cung kính.

Gotamo antevāsike āha – ‘‘tātā, amhākaṃ añño sakkāro natthi, bhikkhusaṅgho dukkhena ṭhito. Buddhappamukhassa bhikkhusaṅghassa pupphāsanaṃ paññāpessāma, jalajathalajapupphāni āharathā’’ti. Te tāvadeva pabbatapādato vaṇṇagandhasampannāni pupphāni iddhiyā āharitvā sāriputtattherassa vatthumhi vuttanayeneva āsanāni paññāpayiṃsu. Nirodhasamāpattisamāpajjanampi chattadhāraṇampi sabbaṃ vuttanayeneva veditabbaṃ.

Đạo sĩ Gotama nói với các môn đệ rằng: “Này các trò, chúng ta không có lễ vật nào khác, Hội chúng Tỳ-khưu đứng mãi cũng vất vả. Chúng ta sẽ sắp đặt những chỗ ngồi làm bằng bông hoa để dâng cúng lên Hội chúng Tỳ-khưu có Đức Phật là vị đứng đầu. Các trò hãy mang các loài hoa nào mọc ở nước hoặc mọc ở đất liền đến đây!” Ngay lập tức, nhờ vào thần thông, các vị đạo sĩ ấy đã mang về từ chân núi đủ sắc màu và hương thơm, họ đã sắp đặt những chỗ ngồi bằng bông hoa theo đúng cách thức đã được đề cập trong câu chuyện của Trưởng lão Sāriputta. Các chi tiết về việc (Đức Phật) thể nhập Thiền Diệt, cũng như việc (các đạo sĩ) che lọng, tất cả nên được hiểu theo cách thức đã được đề cập trước đó.

Satthā sattame divase nirodhato vuṭṭhāya parivāretvā ṭhite tāpase disvā dhammakathikabhāve etadaggappattaṃ sāvakaṃ āmantesi – ‘‘iminā bhikkhu isigaṇena mahāsakkāro kato, etesaṃ pupphāsanānumodanaṃ karohī’’ti. So satthu vacanaṃ sampaṭicchitvā tīṇi piṭakāni sammasitvā anumodanaṃ akāsi. Tassa desanāpariyosāne satthā sayaṃ brahmaghosaṃ nicchāretvā dhammaṃ desesi. Desanāpariyosāne ṭhapetvā gotamatāpasaṃ sesā aṭṭhārasa sahassajaṭilā arahattaṃ pāpuṇiṃsu.

Đến ngày thứ bảy, (Bậc Đạo Sư) sau khi xuất khỏi Thiền Diệt, nhìn thấy các đạo sĩ vẫn đang đứng vây quanh, mới gọi vị Thánh đệ tử đã được thiết lập vào vị thế tối thắng trong bản thể vị Thuyết pháp đến, và bảo rằng— “Này Tỳ-khưu, các đạo sĩ này đã thực hiện sự tôn kính rất long trọng. Ông hãy tùy hỷ (phước báu) về những chỗ ngồi bằng bông hoa cho các vị ấy.” Vị Tỳ-khưu ấy, sau khi tiếp nhận lời của bậc Đạo Sư, đã suy xét kỹ lưỡng toàn bộ Tam Tạng, rồi thực hiện tùy hỷ (phước báu). Khi kết thúc bài thuyết giảng của vị ấy, bậc Đạo Sư cũng đã tự mình thốt lên âm giọng tựa như âm giọng của Phạm Thiên để chỉ bảo Giáo Pháp. Khi bài thuyết giảng kết thúc (ngoại trừ) đạo sĩ Gotama thì mười tám ngàn vị đạo sĩ tóc bện còn lại đã chứng đạt được quả vị A-ra-hán.

Gotamo pana tenattabhāvena paṭivedhaṃ kātuṃ asakkonto bhagavantaṃ āha – ‘‘bhagavā yena bhikkhunā paṭhamaṃ dhammo desito, ko nāma ayaṃ tumhākaṃ sāsane’’ti? Ayaṃ gotama mayhaṃ sāsane dhammakathikānaṃ aggoti. ‘‘Ahampi, bhante, imassa satta divasāni katassa adhikārassa phalena ayaṃ bhikkhu viya anāgate ekassa buddhassa sāsane dhammakathikānaṃ aggo bhaveyya’’nti patthanaṃ katvā pādamūle nipajji.

Còn đạo sĩ Gotama không thể thấu triệt với bản thể đó, nên đã bạch hỏi Đức Thế Tôn rằng: “Bạch Đức Thế Tôn, vị Tỳ-khưu đã thuyết pháp lúc nãy là ai trong Giáo Pháp của Ngài?” – Này đạo sĩ Gotama, vị Tỳ-khưu này là vị tối thắng trong số các Tỳ-khưu thuyết Pháp (Pháp sư – Dhammakathika) trong giáo pháp của Ta. – Nghe vậy, đạo sĩ Gotama liền phủ phục dưới chân Đức Phật và lập lời thệ nguyện rằng: “Bạch Ngài, với kết quả của những phước thiện mà con đã thực hiện suốt bảy ngày qua, nguyện cho con sẽ được trở thành vị tối thắng trong số các Tỳ-khưu thuyết Pháp trong Giáo Pháp của một vị Phật trong thời vị lai, giống như vị Tỳ-khưu này.”

Satthā anāgataṃ oloketvā anantarāyenassa patthanāya samijjhanabhāvaṃ ñatvā ‘‘anāgate kappasatasahassāvasāne gotamo nāma buddho uppajjissati, tvaṃ tassa sāsane dhammakathikānaṃ aggo bhavissasī’’ti byākaritvā te arahattappatte tāpase ‘‘etha bhikkhavo’’ti āha. Sabbe antarahitakesamassū iddhimayapattacīvaradharā vassasaṭṭhikattherasadisā ahesuṃ. Satthā bhikkhusaṅghamādāya vihāraṃ gato.

Bậc Đạo Sư, sau khi quán xét đến vị lai, biết được rằng điều thệ nguyện của đạo sĩ Gotama ấy sẽ được thành tựu mà không gặp bất kỳ chướng ngại nào, rồi thọ ký rằng: “Đến khi kết thúc một trăm ngàn kiếp từ kiếp này, một vị Phật tên là Gotama sẽ xuất hiện trên thế gian. Khi ấy, ông sẽ trở thành vị tối thắng trong số các Tỳ-khưu thuyết Pháp trong Giáo Pháp của Ngài,” rồi nói với các đạo sĩ đã chứng đắc A-ra-hán rằng: “Hãy đến! này các Tỳ-khưu.” Ngay tức khắc, râu và tóc của tất cả các vị đạo sĩ ấy đều biến mất, trên thân tự hiện ra y bát thành tựu bằng thần thông; đã trở nên như những vị Trưởng lão có một trăm hạ lạp. Bậc Đạo Sư đã đưa Hội chúng Tỳ-khưu trở về Tịnh xá.

Gotamopi yāvajīvaṃ tathāgataṃ paricaritvā yathābalaṃ kalyāṇakammaṃ katvā kappasatasahassaṃ devesu ca manussesu ca saṃsaritvā amhākaṃ bhagavato kāle kapilavatthunagarassa avidūre doṇavatthubrāhmaṇagāme brāhmaṇamahāsālakule nibbatti. Tassa nāmaggahaṇadivase puṇṇamāṇavoti nāmaṃ akaṃsu. Satthari abhisambodhiṃ patvā pavattitavaradhammacakke anupubbena āgantvā rājagahaṃ upanissāya viharante aññāsikoṇḍaññatthero kapilavatthuṃ gantvā attano bhāgineyyaṃ puṇṇamāṇavaṃ pabbājetvā punadivase dasabalassa santikaṃ āgantvā bhagavantaṃ vanditvā āpucchitvā nivāsatthāya chaddantadahaṃ gato. Puṇṇopi mantāṇiputto mātulena aññāsikoṇḍaññattherena saddhiṃ dasabalassa santikaṃ agantvā ‘‘mayhaṃ pabbajitakiccaṃ matthakaṃ pāpetvāva dasabalassa santikaṃ gamissāmī’’ti kapilavatthusmiṃyeva ohīno yonisomanasikāre kammaṃ karonto nacirasseva arahattaṃ pāpuṇi. Tassa santike pabbajitakulaputtāpi pañcasatā ahesuṃ. Thero sayaṃ dasakathāvatthulābhitāya tepi dasahi kathāvatthūhi ovadati. Te tassa ovāde ṭhatvā sabbeva arahattaṃ pattā.

Về phần đạo sĩ Gotama, ông đã hết lòng phụng sự Đức Như Lai cho đến hết cuộc đời, thực hiện các hành động tốt đẹp theo sức lực của mình, luân hồi giữa các cõi Trời và cõi Người trong suốt một trăm ngàn kiếp trái đất. Vào thời kỳ Đức Thế Tôn của chúng ta xuất hiện, vị ấy đã tái sanh vào một gia tộc Bà-la-môn giàu có tại làng Doṇavatthu, nằm không xa kinh thành Kapilavatthu. Trong ngày lễ đặt tên, thân quyến đã đặt tên cho cậu là thanh niên Puṇṇa. Vào thời điểm bậc Đạo Sư đã đạt được quả vị giác ngộ tối thượng (Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác) và vận chuyển bánh xe Pháp cao quý, Ngài đã du hành theo tuần tự và sống nương tựa tại thành Rājagaha. Khi đó, Trưởng lão Aññā Koṇḍañña đã trở về kinh thành Kapilavatthu, cho thanh niên Puṇṇa cháu trai của mình xuất gia (người cháu gọi bằng cậu). Ngay ngày hôm sau, (Trưởng lão dẫn vị Tỳ-khưu trẻ) đến gặp Đức Thập Lực, sau khi đảnh lễ, đã xin phép đi đến hồ Chaddanta để nghỉ ngơi vào ban ngày. Còn Ngài Puṇṇa Mantānīputta đến gặp đấng Thập Lực cùng với người cậu là Trưởng lão Aññā Koṇḍañña, Ngài đã tự nhủ rằng: “Ta phải hoàn thành phận sự xuất gia của bản thân đạt đến mục tiêu cứu cánh, rồi sẽ đến yết kiến đấng Thập Lực,” nên bị bỏ lại ở kinh thành Kapilavatthu, chuyên tâm thực hành đề mục thiền định trong tác ý đúng đường lối, không bao lâu Ngài đã đạt được quả vị A-ra-hán. Sau đó, có đến năm trăm thiện nam tử đã đến xin xuất gia trong sự chứng minh của Ngài. Trưởng lão đã tự mình đạt được mười đề tài nói chuyện (kathāvatthu), nên Ngài cũng giảng dạy cho các vị đệ tử đó bằng chính mười đề tài này. Sau khi an trú trong lời giáo huấn của Ngài các vị ấy đều đã đạt được quả vị A-ra-hán.

Te attano pabbajitakiccaṃ matthakaṃ pattaṃ ñatvā upajjhāyaṃ upasaṅkamitvā āhaṃsu – ‘‘bhante, amhākaṃ kiccaṃ matthakaṃ pattaṃ, dasannañca mahākathāvatthūnaṃ lābhino, samayo no dasabalaṃ passitu’’nti. Thero tesaṃ kathaṃ sutvā cintesi – ‘‘mama dasakathāvatthulābhitaṃ satthā jānāti, ahaṃ dhammaṃ desento dasa kathāvatthūni amuñcantova desemi. Mayi gacchante sabbepime bhikkhū parivāretvā gacchissanti, evaṃ gaṇasaṅgaṇikāya gantvā pana ayuttaṃ mayhaṃ dasabalaṃ passituṃ, ime tāva gantvā passantū’’ti te bhikkhū āha – ‘‘āvuso, tumhe purato gantvā tathāgataṃ passatha, mama vacanena dasabalassa pāde vandatha, ahampi tumhākaṃ gatamaggena gamissāmī’’ti.

Các vị Tỳ-khưu ấy biết rằng: phận sự xuất gia của bản thân đã đạt đến cứu cánh, các vị Tỳ-khưu ấy đã đến yết kiến thầy tế độ (Ngài Puṇṇa) và bạch rằng: “Thưa Ngài, phần sự của chúng con và người nhận được mười đề tài nói chuyện lớn– đã đạt đến cứu cánh, là lúc chúng con nên đến yết kiến đấng Thập Lực.” Sau khi nghe lời của các vị ấy, Trưởng lão (Puṇṇa Mantānīputta) nghĩ rằng: “Bậc Đạo Sư vốn biết rõ ta là người đã đạt được mười đề tài nói chuyện, trong khi ta thuyết Pháp cũng không nằm ngoài mười đề tài nói chuyện này. Khi ta đi thì các vị Tỳ-khưu này cũng sẽ đi tháp tùng. Việc chộn rộn với tập thể như thế để vào diện kiến đấng Thập Lực là điều không thích hợp, chi bằng hãy để các vị Tỳ-khưu này đi trước.” (Nghĩ vậy) Ngài đã nói với các vị Tỳ-khưu rằng: “Này các hiền giả, các ông hãy đi trước để diện kiến Đức Như Lai, và nhân danh ta hãy đảnh lễ dưới chân đấng Thập Lực. Phần ta, ta cũng sẽ đi theo con đường mà các ông đã đi.”

Te therā sabbepi dasabalassa jātibhūmiraṭṭhavāsino sabbe khīṇāsavā sabbe dasakathāvatthulābhino attano upajjhāyassa ovādaṃ abhinditvā anupubbena cārikaṃ carantā saṭṭhiyojanamaggaṃ atikkamma rājagahe veḷuvanamahāvihāraṃ gantvā dasabalassa pāde vanditvā ekamantaṃ nisīdiṃsu. Āciṇṇaṃ kho panetaṃ buddhānaṃ bhagavantānaṃ āgantukehi bhikkhūhi saddhiṃ paṭisammoditunti bhagavā tehi saddhiṃ ‘‘kacci, bhikkhave, khamanīya’’ntiādinā nayena madhurapaṭisanthāraṃ katvā ‘‘kuto ca tumhe, bhikkhave, āgacchathā’’ti pucchi. Tehi ‘‘jātibhūmito’’ti vutte ‘‘ko nu kho, bhikkhave, jātibhūmiyaṃ jātibhūmakānaṃ bhikkhūnaṃ sabrahmacārīhi evaṃ sambhāvito attanā ca appiccho appicchakathañca bhikkhūnaṃ kattā’’ti dasakathāvatthulābhiṃ bhikkhuṃ pucchi. Tepi ‘‘puṇṇo nāma, bhante, āyasmā mantāṇiputto’’ti ārocayiṃsu. Taṃ kathaṃ sutvā āyasmā sāriputto therassa dassanakāmo ahosi.

Tất cả các vị Tỳ-khưu ấy đều cư ngụ tại xứ sở là quê hương của Đức Thập Lực, tất cả đều là những bậc đã cạn kiệt các lậu hoặc và đã đạt được mười đề tài nói chuyện (kathāvatthu), họ vô cùng hoan hỷ với lời giáo huấn của thầy tế độ của mình, sau khi đã đảnh lễ Trưởng lão, các vị ra đi du hành theo tuần tự, vượt qua quãng đường dài sáu mươi do-tuần để đến Đại Tịnh xá Veluvana tại thành Rājagaha, sau khi đảnh lễ dưới chân đấng Thập Lực rồi đã ngồi xuống ở một bên. Điều này đã trở thành thông lệ của chư Phật Thế Tôn là luôn niềm nở đối với các Tỳ-khưu đi đến. Vì vậy, Đức Thế Tôn đã thực hiện việc chào hỏi bằng những lời lẽ dịu ngọt với các vị ấy theo cách thức được bắt đầu như sau: “Này các Tỳ-khưu, các ông có thể kham nhẫn được không?” rồi Ngài hỏi tiếp rằng: “Các ông đến từ đâu?” – Khi các vị Tỳ-khưu bạch: “Chúng con từ quê hương (kinh thành Kapilavatthu) đến,” – Ngài liền hỏi các vị Tỳ-khưu đã đạt được mười đề tài nói chuyện (kathāvatthu) rằng: “Này các Tỳ-khưu, ai ở tại địa phương được các vị Tỳ-khưu đồng Phạm hạnh cùng quê tán thán như vầy rằng: “Là người tự mình ít ham muốn và nói về ít ham muốn cho các Tỳ-khưu?” – Các vị Tỳ-khưu đồng thanh bạch rằng: “Bạch Đức Thế Tôn, vị ấy là Tôn giả Puṇṇa Mantānīputta.” Sau khi nghe những lời nói ấy, Tôn giả Sāriputta đã có ý muốn được gặp gỡ vị Trưởng lão đó.

Atha satthā rājagahato sāvatthiṃ agamāsi. Puṇṇatthero dasabalassa tattha āgatabhāvaṃ sutvā ‘‘satthāraṃ passissāmī’’ti gantvā antogandhakuṭiyaṃyeva tathāgataṃ sampāpuṇi. Satthā tassa dhammaṃ desesi. Thero dhammaṃ sutvā dasabalaṃ vanditvā paṭisallānatthāya andhavanaṃ gantvā aññatarasmiṃ rukkhamūle divāvihāraṃ nisīdi. Sāriputtattheropi tassa gamanaṃ sutvā sīsānulokiko gantvā okāsaṃ sallakkhetvā taṃ rukkhamūlaṃ upasaṅkamitvā therena saddhiṃ sammoditvā sattavisuddhikkamaṃ pucchi. Theropissa pucchitaṃ pucchitaṃ byākāsi. Te aññamaññassa subhāsitaṃ samanumodiṃsu. Atha satthā aparabhāge bhikkhusaṅghamajjhe nisinno theraṃ dhammakathikānaṃ aggaṭṭhāne ṭhapesīti.

Sau đó, Đức Thế Tôn rời khỏi kinh thành Rājagaha đi đến thành Sāvatthī. Trưởng lão Puṇṇa nghe tin đấng Thập Lực đã đến thành Sāvatthī, liền nghĩ rằng: “Ta sẽ đi yết kiến bậc Đạo Sư.” Ngài lên đường bộ hành để kịp đến diện kiến Đức Như Lai ngay tại bên trong Hương Thất. Bậc Đạo sự đã thuyết giảng Giáo Pháp cho Ngài, Trưởng lão sau khi nghe Pháp, đảnh lễ Đức Thập Lực rồi đi vào rừng Andha nhằm mục đích độc cư, và đã ngồi nghỉ ngơi vào buổi trưa dưới một gốc cây. Lúc bấy giờ, Trưởng lão Sāriputta biết rằng Ngài Puṇṇa đã đến, hướng mắt nhìn về phía trước, lựa chọn một khoảng trống, sau đó đã tiến lại gần gốc cây đó, đàm luận cùng với Trưởng lão Puṇṇa, rồi hỏi về trình tự của ‘bảy giai đoạn thanh tịnh’. Trưởng lão Puṇṇa đã trả lời cặn kẽ từng câu hỏi đã được hỏi đi hỏi lại của Ngài. Cả hai vị Trưởng lão ấy đã cùng tùy hỷ về việc đã khéo ăn nói với nhau. Về sau, bậc Đạo Sư trong khi ngồi giữa Hội chúng Tỳ-khưu đã thiết lập Trưởng lão vào vị thế tối thắng trong số các Tỳ khưu thuyết Pháp.

Câu chuyện về Trưởng lão Mahākaccāyāna

197. Dasame saṃkhittena bhāsitassāti saṃkhittena kathitadhammassa. Vitthārena atthaṃ vibhajantānanti taṃ desanaṃ vitthāretvā atthaṃ vibhajamānānaṃ. Aññe kira tathāgatassa saṅkhepavacanaṃ atthavasena vā pūretuṃ sakkonti byañjanavasena vā, ayaṃ pana thero ubhayavasenapi sakkoti. Tasmā aggoti vutto. Pubbapatthanāpi cassa evarūpāva.

Trong bài Kinh thứ mười, Pháp đã được nói một cách tóm tắt: Của các Pháp đã được nói một cách vắn tắt. Phân tích về ý nghĩa một cách chi tiết: Sau khi phân tích ý nghĩa đã làm cho bài thuyết pháp đó được chi tiết. Kể rằng các vị Tỳ-khưu khác không thể làm cho lời nói vắn tắt (tóm lược) của Đức Như Lai được đầy đủ về mặt ý nghĩa hoặc về mặt văn tự, nhưng vị Trưởng lão này lại có thể làm cho cả hai phương diện đó (ý nghĩa và văn tự) trở nên đầy đủ. Do đó, Ngài được gọi là tối thắng.

Ayaṃ panassa pañhakamme anupubbikathā – ayaṃ kira padumuttarasammāsambuddhakāle gahapatimahāsālakule nibbattitvā vuddhippatto ekadivasaṃ vuttanayeneva vihāraṃ gantvā parisapariyante ṭhito dhammaṃ suṇanto satthāraṃ attanā saṃkhittena bhāsitassa vitthārena atthaṃ vibhajantānaṃ aggaṭṭhāne ṭhapentaṃ ekaṃ bhikkhuṃ disvā ‘‘mahanto vatāyaṃ bhikkhu, yaṃ satthā evaṃ vaṇṇeti, mayāpi anāgate ekassa buddhassa sāsane evarūpena bhavituṃ vaṭṭatī’’ti satthāraṃ nimantetvā vuttanayeneva sattāhaṃ mahādānaṃ datvā, ‘‘bhante, ahaṃ imassa sakkārassa phalena na aññaṃ sampattiṃ patthemi, anāgate pana ekassa buddhassa sāsane ito sattadivasamatthake tumhehi ṭhānantare ṭhapitabhikkhu viya ahampi taṃ ṭhānantaraṃ labheyya’’nti patthanaṃ katvā pādamūle nipajji. Satthā anāgataṃ olokento ‘‘samijjhissati imassa kulaputtassa patthanā’’ti disvā ‘‘ambho, kulaputta, anāgate kappasatasahassāvasāne gotamo nāma buddho uppajjissati, tvaṃ tassa sāsane saṃkhittena bhāsitassa vitthārena atthaṃ vibhajantānaṃ aggo bhavissasī’’ti byākaritvā anumodanaṃ katvā pakkāmi.

Hơn nữa, về các vấn đề liên quan đến nghiệp lực của Ngài, có câu chuyện được thuật lại theo trình tự như sau— Được biết rằng vào thời kỳ đấng Chánh đẳng Chánh giác Padumuttara, vị Trưởng lão ấy tái sanh vào gia tộc người tại gia giàu có. Khi trưởng thành, một ngày nọ, (vị ấy) đi đến Tịnh xá theo cách thức đã được đề cập, đứng lắng nghe Pháp ở cuối hội chúng. (Tại đó), Ngài thấy một vị Tỳ-khưu được bậc Đạo Sư thiết lập vào vị thế tối thắng trong số các vị Tỳ-khưu phân tích về ý nghĩa một cách chi tiết đối với điều đã được nói một cách tóm tắt, Ngài liền nghĩ rằng: “Vị Tỳ-khưu này thật vĩ đại! Được bậc Đạo Sư tán thán như vậy. Ngay cả ta, trong thời vị lai, ta cũng nên trở thành một vị Tỳ-khưu như vậy trong Giáo Pháp của một vị Phật.” Vì thế, Ngài đã thỉnh mời bậc Đạo Sư và thực hiện cúng dường đại thí suốt bảy ngày liên tục theo cách thức đã trình bày trước. Sau đó, Ngài phủ phục dưới chân (Đức Thế Tôn) và lập lời nguyện: “Bạch Ngài, với quả báu của sự cung kính này, con không mong cầu sự thành tựu nào khác; Con chỉ mong sẽ đạt được vị thế tối thắng trong Giáo Pháp của một vị Phật vào thời vị lai, giống như vị Tỳ-khưu đã được Ngài thiết lập vào vị thế tối thắng ở cuối ngày thứ bảy tình từ ngày hôm nay.” Bậc Đạo Sư, khi quán xét đến tương lai, thấy rằng: “Điều thệ nguyện của thiện nam tử này sẽ được thành tựu,” Ngài thọ ký: “Này người thiện nam tử, đến khi kết thúc một trăm ngàn kiếp trái đất tính từ kiếp nay, một vị Phật tên là Gotama sẽ xuất hiện trên thế gian. Khi ấy, ngươi sẽ trở thành vị tối thắng trong số các Tỳ-kheo phân tích về ý nghĩa một cách chi tiết đối với điều đã được nói một cách tóm tắt,” sau khi thực hiện tùy hỷ phước báu, (Đức Thế Tôn) đã trở về Tịnh xá.

Sopi kulaputto yāvajīvaṃ kusalaṃ katvā kappasatasahassaṃ devamanussesu saṃsaritvā kassapabuddhakāle bārāṇasiyaṃ kulagehe paṭisandhiṃ gahetvā satthari parinibbute suvaṇṇacetiyakaraṇaṭṭhānaṃ gantvā satasahassagghanikāya suvaṇṇiṭṭhakāya pūjaṃ katvā ‘‘bhagavā mayhaṃ nibbattanibbattaṭṭhāne sarīraṃ suvaṇṇavaṇṇaṃ hotū’’ti patthanaṃ akāsi. Tato yāvajīvaṃ kusalakammaṃ katvā ekaṃ buddhantaraṃ devamanussesu saṃsaritvā amhākaṃ dasabalassa uppattikāle ujjeninagare purohitassa gehe nibbatti. Tassa nāmaggahaṇadivase ‘‘mayhaṃ putto suvaṇṇavaṇṇasarīro attanāva attano nāmaṃ gahetvā āgato’’ti kañcanamāṇavotevassa nāmaṃ akaṃsu. So vuddhimanvāya tayo vede uggaṇhitvā pitu accayena purohitaṭṭhānaṃ labhi. So gottavasena kaccāno nāma jāto.

Về phần vị ấy, đã tạo các nghiệp thiện cho đến trọn đời, sau khi đã luân hồi giữa cõi Trời và cõi Người suốt một trăm ngàn kiếp. Vào thời kỳ Đức Phật Kassapa, vị ấy tái sanh vào một gia đình ở tại kinh thành Bārāṇasī. Khi Đức Phật Kassapa viên tịch Niết Bàn, vị ấy đã đi đến chỗ xây dựng ngôi Bảo điện bằng vàng, mới lấy một viên gạch bằng vàng trị giá một trăm ngàn đồng tiền để cúng dường, đồng thời phát nguyện rằng: “Bạch Đức Thế Tôn, tại mỗi nơi con được lần lượt sanh ra, cơ thể của con hãy có màu da vàng chói.” Sau đó, vị ấy đã làm các nghiệp thiện cho đến hết đời, sau khi luân hồi giữa các cõi Trời và cõi Người trải qua một khoảng thời gian giữa hai vị Phật. Đến thời kỳ đấng Thập Lực của chúng ta xuất hiện, vị ấy tái sanh vào gia đình của vị quân sư trong kinh thành Ujjenī. Vào ngày lễ đặt tên, cha mẹ ông bàn bạc với nhau rằng: “Con trai chúng ta có cơ thể có màu da vàng chói, có lẽ nó đã mang theo cái tên của chính mình từ tiền kiếp.” Vì vậy, họ đã đặt tên cho cậu là công tử Kāñcana. Khi trưởng thành, công tử Kāñcana đã học tập ba kiến thức Vệ-đà. Sau khi người cha qua đời, cậu được kế thừa vị trí quân sư. Và vị ấy được gọi theo tên họ là Kaccāna.

Phẩm Thứ Nhất – được kết thúc

[1] karīsa: một khoảnh vuông đất (lối một mẫu) – Từ Điển HT Bửu Chơn

[2] Trí không phổ thông này có sáu là (1) trí biết được khả năng của người khác về các quyền, (2) trí về thiên kiến và xu hướng ngủ ngầm, (3) trí song thông, (5) trí về sự thể nhập đại bi, (6) trí toàn giác không bị ngăn che. (khu. pa. quyền số 31/trang 4)

[3] Mười sáu loại tuệ bao gồm—

(1) Có tuệ vĩ đại: do nắm giữ giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát tri kiến uẩn, v.v.
(2) Có tuệ phổ thông: do có trí vận hành trong các uẩn, các giới, các xứ, các sự sanh khởi tùy thuận, các trường hợp không đạt được không tánh, trí vận hành về các ý nghĩa, các pháp, các ngôn từ, các phép biện giải và trí vận hành về các giới uẩn, các định uẩn, các tuệ uẩn, các giải thoát uẩn, và các giải thoát tri kiến uẩn.
(3) Có tuệ vi tiếu: do tu tập bốn sự thiết lập niệm, bốn chánh cần, tu tập bốn nền tảng thần thông, tu tập các nền tảng thần thông, tu tập năm quyền, tu tập năm lực, tu tập bảy giác chi, và tu tập tám Thánh Đạo.
(4) Có tuệ đổng tốc: do trí trực nhận một cách mau lẹ về các sắc thuộc quá khứ, hiện tại, vị lai, v.v, là vô thường, khổ não, vô ngã – thọ, tưởng, hành, thức, (như trên) – Mắt …(như trên) – sự sanh, sự già, sự chết … Sau khi cân nhắc, xác định, phân biệt, làm rõ rệt rằng: ‘Sắc thuộc quá khứ, hiện tại, vị lai là vô thường theo ý nghĩa đoạn tận, là khổ não theo ý nghĩa kinh hãi, là vô ngã theo ý nghĩa không có cốt lỏi,’ ‘trực nhận một cách mau lẹ về sự diệt tận sắc là Niết Bàn’ (như trên) ‘Thọ … Tưởng … Các hành … Thức … Mắt … Lão tử …như trên… ‘trực nhận một cách mau lẹ về sự diệt tận lão tử là Niết Bàn’.
(5) Có tuệ sắc bén: do không cho dục tầm, sân độc tầm, hãm hại tầm, và mười sáu loại uế nhiễm đã sanh khởi được y cứ và do chứng đắc bốn Thánh Đạo, bốn Quả vị Sa-môn, bốn phân tích, sáu thắng trí.
(6) Có tuệ thông suốt: do có tuệ thông suốt, khám phá tham uẩn, sân uẩn, si uẩn, phiền não uẩn và nghiệp lực đưa đến các hữu, chưa từng thông suốt, khám phá trước đây.
(7-10) Có tuệ trong bốn thiền Sắc giới: Bốn cấp độ thiền định thuộc Sắc giới gồm– Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ Thiền.
(11-14) Có tuệ trong bốn thiền Vô sắc giới: Bốn cấp độ thiền định thuộc Vô sắc giới gồm– Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ, Phi tưởng phi phi tưởng xứ
(15) Có tuệ trong diệt-thọ-tưởng: cả chín pháp này (tức là từ tuệ thứ 7 đến 15) được gọi là tuệ trong sự thể nhập và an trú theo tuần tự.
(16) Có tuệ trong A-ra-hán Đạo. (Ma. U. 14/73-97/210-215; Aṅ. ṭīkā. 1/189-190/186)

[4] Ye dhammā hetuppabhavā tesaṃ hetuṃ tathāgato āha, tesañca yo nirodho

[5] Tất Bát Chủng Thí: Loại bố thí đầy đủ và thù thắng, là sự bố thí đúng pháp, bố thí thanh tịnh, bố thí hợp với đạo lý.

[6] 1 nāḷī = 2 pattha (pattha là lượng chứa của hai bàn tay bụm lại)