13. GIẢI THÍCH CHƯƠNG MỘT PHÁP (XXIII – Giải Thích Phẩm Một Người)

Xem Tăng Chi Bộ Kinh – Chương 1 pháp – Phẩm 1-14 

(Kệ 170-187)

170. Ekapuggalavaggassa paṭhame ekapuggaloti eko puggalo. Ettha ekoti dutiyādipaṭikkhepattho gaṇanaparicchedo. Puggaloti sammutikathā, na paramatthakathā. Buddhassa hi bhagavato duvidhā desanā – sammutidesanā, paramatthadesanā cāti. Tattha ‘‘puggalo satto itthī puriso khattiyo brāhmaṇo devo māro’’ti evarūpā sammutidesanā, ‘‘aniccaṃ dukkhaṃ anattā khandhā dhātū āyatanāni satipaṭṭhānā’’ti evarūpā paramatthadesanā. Tattha bhagavā ye sammutivasena desanaṃ sutvā atthaṃ paṭivijjhitvā mohaṃ pahāya visesaṃ adhigantuṃ samatthā, tesaṃ sammutidesanaṃ deseti. Ye pana paramatthavasena desanaṃ sutvā atthaṃ paṭivijjhitvā mohaṃ pahāya visesamadhigantuṃ samatthā, tesaṃ paramatthadesanaṃ deseti.

Ở bài Kinh thứ nhất trong Phẩm một người, một cá nhân: chỉ có một người duy nhất. ‘Một’ trong từ ‘một cá nhân’ này là sự xác định số lượng, có ý nghĩa bác bỏ (người) thứ hai, v.v. Người (cá nhân): là lời nói theo quan niệm chung, không phải lời nói theo ý nghĩa tuyệt đối. Thật vậy, sự thuyết giảng của đức Phật có hai là

(1) Sự thuyết giảng theo quan niệm chung (Chế Định), và
(2) sự thuyết pháp theo ý nghĩa tuyệt đối (Chân Đế).

Trong hai sự thuyết giảng ấy, sự thuyết giảng với hình thức như vầy— “Cá nhân, chúng sanh, người nữ, người nam, Sát-đế-lỵ, Bà-la-môn, chư Thiên, Ma vương,” được gọi là sự thuyết giảng theo quan niệm chung. Còn sự thuyết giảng với hình thức như vầy— “Vô thường, khổ não, vô ngã, uẩn, giới, xứ, sự thiết lập niệm,” được gọi là sự thuyết giảng theo ý nghĩa tuyệt đối. Trong hai sự thuyết giản ấy, đối với những người nào sau khi lắng nghe lời thuyết giảng liên quan đến quan niệm chung mà có khả năng thấu triệt được ý nghĩa, dứt bỏ si mê, và chứng đạt các ân đức đặc biệt, đức Thế Tôn sẽ chỉ bảo về bài giảng theo quan niệm chung cho những người ấy. Còn đối với những người nào sau khi lắng nghe lời thuyết giảng liên quan đến ý nghĩa tuyệt đối mà có khả năng thấu triệt được ý nghĩa, dứt bỏ si mê, và chứng đạt các ân đức đặc biệt, đức Thế Tôn sẽ chỉ bảo về bài giảng theo ý nghĩa tuyệt đối cho những người ấy.

Tatrāyaṃ upamā – yathā hi desabhāsākusalo tiṇṇaṃ vedānaṃ atthasaṃvaṇṇanako ācariyo ye damiḷabhāsāya vutte atthaṃ jānanti, tesaṃ damiḷabhāsāya ācikkhati. Ye andhabhāsādīsu aññatarāya bhāsāya, tesaṃ tāya tāya bhāsāya.

Trong trường hợp này, nên hiểu theo ví dụ sau— Giống như một vị thầy thông thạo về ngôn ngữ địa phương, người giảng giải về ý nghĩa của ba-kiến-thức Vệ-Đà. Những người nào hiểu được ý nghĩa khi nói bằng ngôn ngữ Damiḷa, vị ấy sẽ chỉ dạy bằng ngôn ngữ Damiḷa cho họ. Những người nào hiểu ý nghĩa của bất kỳ ngôn ngữ nào trong số các ngôn ngữ của người Andhaka v.v, thì vị ấy sẽ chỉ dạy bằng ngôn ngữ đó cho những người ấy.

Evaṃ te māṇavakā chekaṃ byattaṃ ācariyamāgamma khippameva sippaṃ uggaṇhanti. Tattha ācariyo viya buddho bhagavā, tayo vedā viya kathetabbabhāve ṭhitāni tīṇi piṭakāni, desabhāsākosallamiva sammutiparamatthakosallaṃ, nānādesabhāsā māṇavakā viya sammutiparamatthavasena paṭivijjhanasamatthā veneyyasattā, ācariyassa damiḷabhāsādiācikkhanaṃ viya bhagavato sammutiparamatthavasena desanā veditabbā. Āha cettha –

Như vậy, các thanh niên ấy nương nhờ vị thầy thông thạo, giàu kinh nghiệm, (sẽ) học tập nghề nghiệp một cách nhanh chóng. Trong ví dụ so sánh đó nên được hiểu rằng, đức Phật Thế Tôn ví như vị thầy. Tam Tạng được thiết lập trong trạng thái cần được thuyết giảng ví như ba-kiến-thức Vệ Đà. Bản thể vị thiện xảo cả về quan niệm chung (Tục Đế) và ý nghĩa tuyệt đối (Chân Đế) giống như bản thể vị thông thạo về ngôn ngữ địa phương. Chúng sanh hữu tình người có khả năng thấu triệt theo phương diện quan niệm chung và ý nghĩa tuyệt đối, giống như những thanh niên biết được các ngôn ngữ địa phương khác nhau. Sự thuyết giảng theo phương diện quan niệm chung và ý nghĩa tuyệt đối của đức Thế Tôn ví như việc giảng dạy (ba-kiến-thức Vệ Đà) bằng các loại ngôn ngữ như ngôn ngữ Damiḷa v.v, của vị thầy. Và trong trường hợp này, Ngài đã nói rằng—

‘‘Duve saccāni akkhāsi, sambuddho vadataṃ varo;
Sammutiṃ paramatthañca, tatiyaṃ nupalabbhati.

‘‘Saṅketavacanaṃ saccaṃ, lokasammutikāraṇā;
Paramatthavacanaṃ saccaṃ, dhammānaṃ bhūtakāraṇā.

‘‘Tasmā vohārakusalassa, lokanāthassa satthuno;
 Sammutiṃ voharantassa, musāvādo na jāyatī’’ti.

“Bậc Chánh đẳng Chánh giác vị cao cả hơn tất cả các vị thầy đã chứng ngộ hai sự thật là quan niệm chung (Tục Đế) và ý nghĩa tuyệt đối (Chân Đế), không có sự thật thứ ba.

“Lời dạy của đức Phật liên quan đến các quan niệm chung được gọi là sự thật, bởi vì đó là quan niệm chung của thế gian. Còn những lời dạy của đức Phật thuộc ý nghĩa tuyệt đối gọi là sự thật, bởi vì có bản thể thật của tất cả pháp là lý do.

“Do vậy, đối với bậc Đạo Sư đấng lãnh đạo thế gian,vị thiện xảo trong sự diễn đạt. Trong khi thuyết giảng về quan niệm chung (Tục Đế), thì sự nói dối không sanh khởi nơi Ngài.”

Apica aṭṭhahi kāraṇehi bhagavā puggalakathaṃ katheti – hirottappadīpanatthaṃ, kammassakatādīpanatthaṃ, paccattapurisakāradīpanatthaṃ, ānantariyadīpanatthaṃ, brahmavihāradīpanatthaṃ, pubbenivāsadīpanatthaṃ, dakkhiṇāvisuddhidīpanatthaṃ, lokasammutiyā appahānatthañcāti. ‘‘Khandhadhātuāyatanāni hiriyanti ottappantī’’ti hi vutte mahājano na jānāti, sammohamāpajjati, paṭisattu hoti ‘‘kimidaṃ khandhadhātuāyatanāni hiriyanti ottappanti nāmā’’ti? ‘‘Itthī hiriyati ottappati, puriso khattiyo brāhmaṇo devo māro’’ti vutte pana jānāti, na sammohamāpajjati, na paṭisattu hoti. Tasmā bhagavā hirottappadīpanatthaṃ puggalakathaṃ katheti.

Và hơn nữa, đức Thế Tôn thuyết bài giảng về hạng người với 8 lý do sau:

(1) Nhằm mục đích làm sáng tỏ ý nghĩa sự hổ thẹn và ghê sợ tội lỗi,
(2) nhằm mục đích làm sáng tỏ ý nghĩa tính chất sở hữu chủ của nghiệp,
(3) nhằm mục đích làm sáng tỏ ý nghĩa việc làm của mỗi cá nhân,
(4) nhằm mục đích làm sáng tỏ ý nghĩa vô gián nghiệp,
(5) nhằm mục đích làm sáng tỏ ý nghĩa Pháp Phạm trú,
(6) nhằm mục đích làm sáng tỏ ý nghĩa Túc mạng minh,
(7) nhằm mục đích làm sáng tỏ ý nghĩa sự thanh tịnh của việc cúng dường,
(8) không nhằm mục đích từ bỏ quan niệm chung của thế gian.

Khi đức Thế Tôn nói rằng các uẩn-giới-xứ cảm thấy hổ thẹn và ghê sợ tội lỗi, đại chúng không hiểu, sẽ bối rối, và trở lại phản bác “đây là cái gì? Các uẩn-giới-xứ cảm thấy hổ thẹn và ghê sợ tội lỗi.” Nhưng khi đức Thế Tôn nói rằng: “Người nữ, người nam, Sát-đế-lỵ, Bà-la-môn, chư Thiên, Ma Vương cảm thấy hổ thẹn và ghê sợ tội lỗi, đại chúng hiểu được, sẽ không bối rối, không trở lại phản bác. Vì lý do đó, đức Thế Tôn thuyết bài giảng về hạng người nhằm mục đích làm sáng tỏ ý nghĩa sự hổ thẹn và ghê sợ tội lỗi.

‘‘Khandhā kammassakā, dhātuyo āyatanānī’’ti vuttepi eseva nayo. Tasmā bhagavā kammassakatādīpanatthaṃ puggalakathaṃ katheti.

Ngay cả trong những lời đã nói rằng “các uẩn, các giới, các xứ là sở hữu chủ của nghiệp cũng có cách thức tương tự như thế. Vì lý do đó, đức Thế Tôn thuyết bài giảng về hạng người nhằm mục đích làm sáng tỏ ý nghĩa tính chất sở hữu chủ của nghiệp.

‘‘Veḷuvanādayo mahāvihārā khandhehi kārāpitā, dhātūhi āyatanehī’’ti vuttepi eseva nayo. Tasmā bhagavā paccattapurisakāradīpanatthaṃ puggalakathaṃ katheti.

Kể cả khi nói rằng: “Các Đại Tịnh Xá như Veḷuvana, các uẩn, các giới, các xứ được cho xây dựng” cũng có cách thức tương tự. Vì lý do đó, đức Thế Tôn thuyết bài giảng về hạng người nhằm mục đích làm sáng tỏ ý nghĩa việc làm của mỗi cá nhân.

‘‘Khandhā mātaraṃ jīvitā voropenti, pitaraṃ, arahantaṃ, ruhiruppādakammaṃ, saṅghabhedakammaṃ karonti, dhātuyo āyatanānī’’ti vuttepi eseva nayo. Tasmā bhagavā ānantariyadīpanatthaṃ puggalakathaṃ katheti.

Ngay cả khi nói rằng: “Các uẩn, các giới, các xứ tước đoạt lấy mạng sống của mẹ, cha, bậc A-ra-hán, thực hiện hành động làm chảy máu thân Phật, thực hiện hành động chia rẽ Tăng Chúng,” cũng có cách thức tương tự. Vì lý do đó, đức Thế Tôn thuyết bài giảng về hạng người nhằm mục đích làm sáng tỏ ý nghĩa vô gián nghiệp.

‘‘Khandhā mettāyanti, dhātuyo āyatanānī’’ti vuttepi eseva nayo. Tasmā bhagavā brahmavihāradīpanatthaṃ puggalakathaṃ katheti.

Ngay cả khi nói rằng: “Các uẩn, các giới, các xứ có Tâm Từ” cũng có cách thức tương tự. Vì lý do đó, đức Thế Tôn thuyết bài giảng về hạng người nhằm mục đích làm sáng tỏ ý nghĩa Pháp Phạm trú.

‘‘Khandhā pubbenivāsamanussaranti, dhātuyo āyatanānī’’ti vuttepi eseva nayo. Tasmā bhagavā pubbenivāsadīpanatthaṃ puggalakathaṃ katheti.

Ngay cả khi nói rằng: “Các uẩn-xứ-giới nhớ lại được các kiếp sống quá khứ” cũng có cách thức tương tự. Vì lý do đó, đức Thế Tôn thuyết bài giảng về hạng người nhằm mục đích làm sáng tỏ ý nghĩa túc mạng minh.

‘‘Khandhā dānaṃ paṭiggaṇhanti, dhātuyo āyatanānī’’ti vuttepi mahājano na jānāti, sammohaṃ āpajjati, paṭisattu hoti ‘‘kimidaṃ khandhadhātuāyatanāni paṭiggaṇhanti nāmā’’ti? ‘‘Puggalā paṭiggaṇhanti sīlavanto kalyāṇadhammo’’ti vutte pana jānāti, na sammohaṃ āpajjati, na paṭisattu hoti. Tasmā bhagavā dakkhiṇāvisuddhidīpanatthaṃ puggalakathaṃ katheti.

Ngày cả khi nói rằng: “Các uẩn, các giới, các xứ thọ nhận vật phẩm bố thí, đại chúng không hiểu, sẽ bối rối, trở lại phản bác (tranh luận) “đây là gì? các uẩn, các giới, các xứ thọ nhận vật phẩm bố thí.” Nhưng khi thuyết rằng: “Hạng người có giới hạnh, có tư cách tốt đẹp thọ nhận vật thí, đại chúng hiểu được, không bối rối, không trở lại phản bác (không tranh luận). Vì lý do đó, đức Thế Tôn thuyết bài giảng về hạng người nhằm mục đích làm sáng tỏ ý nghĩa sự thanh tịnh của việc cúng dường.

Lokasammutiñca buddhā bhagavanto nappajahanti, lokasamaññāya lokaniruttiyā lokābhilāpe ṭhitāyeva dhammaṃ desenti. Tasmā bhagavā lokasammutiyā appahānatthampi puggalakathaṃ katheti.

Và, chư Phật không từ bỏ quan niệm chung của thế gian, an trú vào sự chỉ định của thế gian, trong từ ngữ mô tả của thế gian, trong từ ngữ kêu gọi của thế gian, để  thuyết giảng về Giáo Pháp. Vì lý do đó, đức Thế Tôn thuyết bài giảng về hạng người không nhằm mục đích từ bỏ quan niệm chung của thế gian.

Iti eko ca so puggalo cāti ekapuggalo. Kenaṭṭhena ekapuggalo? Asadisaṭṭhena guṇavisiṭṭhaṭṭhena asamasamaṭṭhenāti. So hi dasannaṃ pāramīnaṃ paṭipāṭiyā āvajjanaṃ ādiṃ katvā bodhisambhāraguṇehi ceva buddhaguṇehi ca sesamahājanena asadisoti asadisaṭṭhenapi ekapuggalo. Ye cassa te guṇā, te sesasattānaṃ guṇehi visiṭṭhāti guṇavisiṭṭhaṭṭhenapi ekapuggalo. Purimakā sammāsambuddhā sabbasattehi asamā, tehi saddhiṃ ayameva eko rūpakāyaguṇehi ceva nāmakāyaguṇehi ca samoti asamasamaṭṭhenapi ekapuggalo.

Như thế, gọi là cá nhân độc nhất bởi vì vừa là một cá nhân và vừa là duy nhất. Một hạng người với ý nghĩa như thế nào?

(1) Với ý nghĩa (bậc) không thể so sánh được.
(2) với ý nghĩa đặc biệt về đức hạnh,
(3) với ý nghĩa bậc sánh bằng những vị không thể sánh bằng.

Thật vậy, đức Thế Tôn ấy không giống với đại chúng nói chung, bởi các đức hạnh là việc tích lũy sự giác ngộ cao cả kể tử khi hướng tâm đến mười Ba-la-mật theo thứ tự và bởi các đức hạnh của đức Phật. Vì lý do đó, Ngài được gọi là cá nhân độc nhất với ý nghĩa không thể so sánh được. Hơn nữa, đức Thế Tôn ấy có đức hạnh đặc biệt hơn đức hạnh của tất cả chúng sinh thông thường. Vì lý do đó, Ngài được gọi là cá nhân độc nhất với ý nghĩa đặc biệt về đức hạnh. Chư Phật Toàn Giác trước đây không ngang bằng với tất cả các chúng sanh. Nhưng đức Thế Tôn này, chỉ một mình Ngài, là vị ngang bằng với Chư Phật Toàn Giác đó, bởi ưu điểm về sắc thân và ưu điểm về danh thân. Vì lý do đó, Ngài được gọi là cá nhân độc nhất với ý nghĩa bậc sánh bằng những vị không thể sánh bằng.

Loketi tayo lokā – sattaloko, okāsaloko, saṅkhāralokoti. Tesaṃ vitthārakathā visuddhimagge (visuddhi. 1.135-136) vuttā. Tesu idha sattaloko adhippeto. Sattaloke uppajjamānopi cesa na devaloke, na brahmaloke, manussalokeyeva uppajjati. Manussalokepi na aññasmiṃ cakkavāḷe, imasmiṃyeva cakkavāḷe uppajjati. Tatrāpi na sabbaṭṭhānesu.

Thế gian: thế gian có ba là:

(1) Chúng sanh thế giới,
(2) không gian thế giới, và
(3) Hữu vi thế giới.

Bài giảng chi tiết về cả ba thế gian ấy đã được ngài nói trong Bộ Thanh Tịnh Đạo (visuddhi. 1.135-136). Trong số ba thế gian ấy, trong trường hợp này ngài có ý muốn đề cập đến chúng sanh thế gian. Thật vậy, Như Lai ngay cả khi sanh ra ở thế giới chúng sanh, Ngài không sanh ra ở thế giới chư Thiên và cũng không sanh ra ở thế giới Phạm Thiên, mà chỉ sanh ra ở thế giới nhân loại mà thôi. Thậm chí ở thế giới nhân loại thì Ngài cũng không sanh ra ở thế giới khác, mà chỉ sanh ra ở thế giới này. Ngay cả trong thế giới ấy, Ngài cũng không sanh ra ở tất cả mọi nơi.

‘‘Puratthimāya disāya gajaṅgalaṃ nāma nigamo, tassa parena mahāsālā, tato parā paccantimā janapadā, orato majjhe. Puratthimadakkhiṇāya disāya sallavatī nāma nadī, tato parā paccantimā janapadā, orato majjhe. Dakkhiṇāya disāya setakaṇṇikaṃ nāma nigamo, tato parā paccantimā janapadā, orato majjhe. Pacchimāya disāya thūṇaṃ nāma brāhmaṇagāmo, tato parā paccantimā janapadā, orato majjhe. Uttarāya disāya usīraddhajo nāma pabbato, tato parā paccantimā janapadā, orato majjhe’’ti (mahāva. 259) evaṃ paricchinne āyāmato tiyojanasate vitthārato aḍḍhateyyayojanasate parikkhepato navayojanasate majjhimadese uppajjati. Na kevalañca tathāgatova, paccekabuddhā aggasāvakā asīti mahātherā buddhamātā buddhapitā cakkavattī rājā aññe ca sārappattā brāhmaṇagahapatikā ettheva uppajjanti.

Ở hướng đông có thị trấn tên là Gajaṅgala (Kajaṅgala), xa hơn chỗ đó là Mahāsālā, từ đó trở đi là các xứ thuộc vùng biên địa, từ đó trở lại là thuộc trung tâm. Ở hướng đông nam, có con sông tên là Salalavatī, từ đó trở đi là các xứ thuộc vùng biên địa, từ đó trở lại là thuộc trung tâm. Ở hướng nam, có thị trấn tên là Setakaṇṇika, từ đó trở đi là các xứ thuộc vùng biên địa, từ đó trở lại là thuộc trung tâm. Ở hướng tây, có làng Bà-la-môn tên là Thūṇa, từ đó trở đi là các xứ thuộc vùng biên địa, từ đó trở lại là thuộc trung tâm. Ở hướng bắc, có ngọn núi tên là Usīraddhaja, từ đó trở đi là các xứ thuộc vùng biên địa, từ đó trở lại là thuộc trung tâm.” (mahāva. 259); Như Lai sanh ra ở khu vực trung tâm quốc độ mà Ngài xác định như đã được đề cập trước đó với chiều dài là 300 do-tuần, chiều rộng là 150 do-tuần, và chu vi là 900 do-tuần. Và không chỉ riêng một mình Như Lai, mà chư Phật Độc Giác, hai vị Thinh văn hàng đầu, tám mươi vị Đại Trưởng lão, mẹ của đức Phật, cha của đức Phật, các vị vua Chuyển Luân, các Bà-la-môn và các gia chủ là những vị đạt đến cốt lõi khác cũng đều sanh ra ở đây (trung tâm quốc độ).

Uppajjamāno uppajjatīti idaṃ pana ubhayampi vippakatavacanameva. Uppajjamāno bahujanahitāya uppajjati, na aññena kāraṇenāti evaṃ panettha attho veditabbo. Evarūpañcettha lakkhaṇaṃ na sakkā etaṃ aññena saddalakkhaṇena paṭibāhituṃ.

Trong khi xuất hiện (ở thế gian), sự xuất hiện…: cả hai từ này chỉ là lời nói bỏ nửa chừng. Hơn nữa, trong lời nói này, nên hiểu ý nghĩa như sau: Như Lai khi xuất hiện, thì sự xuất hiện vì sự lợi ích cho nhiều người, chứ không xuất hiện vì một lý do nào khác. Và trong trường hợp này, trạng thái có hình thức như vậy bất cứ ai cũng không thể phản đối hai từ ấy với trạng thái của từ khác.

Apica uppajjamāno nāma, uppajjati nāma, uppanno nāmāti ayamettha bhedo veditabbo. Esa hi dīpaṅkarapādamūlato paṭṭhāya laddhabyākaraṇo buddhakārake dhamme pariyesanto dasa pāramiyo disvā ‘‘ime dhammā mayā pūretabbā’’ti katasanniṭṭhāno dānapāramiṃ pūrentopi uppajjamāno nāma. Sīlapāramī…pe… upekkhāpāramīti imā dasa pāramiyo pūrentopi, dasa upapāramiyo pūrentopi uppajjamāno nāma. Dasa paramatthapāramiyo pūrentopi uppajjamānova nāma. Pañca mahāpariccāge pariccajantopi uppajjamāno nāma. Attatthacariyaṃ ñātatthacariyaṃ lokatthacariyaṃ pūrayamānopi uppajjamāno nāma. Kappasatasahassādhikāni cattāri asaṅkhyeyyāni buddhakārake dhamme matthakaṃ pāpentopi uppajjamāno nāma. Vessantarattabhāvaṃ pahāya tusitapure paṭisandhiṃ gahetvā saṭṭhivassasatasahassādhikā sattapaṇṇāsavassakoṭiyo tiṭṭhantopi uppajjamāno nāma. Devatāhi yācito pañcamahāvilokitaṃ viloketvā mahāmāyādeviyā kucchimhi paṭisandhiṃ gaṇhantopi, anūnādhike dasa māse gabbhavāsaṃ vasantopi uppajjamāno nāma.

Hơn nữa, nên hiểu sự khác biệt trong lời nói này như sau— gọi là trong khi xuất hiện (hiện khởi), gọi là đang xuất hiện, gọi là đã xuất hiện. Thật vậy, kể từ khi Đức Phật được thọ ký ở dưới bàn chân của đức Phật Dīpaṅkara, khi tầm cầu đến các điều kiện để trở thành Phật đã nhìn thấy mười Ba-la-mật, Ngài đã quyết định rằng: “Ta nên làm tròn đủ các điều kiện này.” Ngay cả khi đang bồi đắp hạnh nguyện bố thí Ba-la-mật được gọi là trong khi xuất hiện. Kể cả trong khi đang bồi đắp mười hạnh nguyện Ba-la-mật (bậc hạ) này là giới Ba-la-mật …nt… hành xả Ba-la-mật, và cả trong khi đang bồi đắp mười hạnh nguyện Ba-la-mật bậc trung cũng được gọi là trong khi xuất hiện. Thậm chí trong khi đang bồi đắp mười hạnh nguyện Ba-la-mật bậc thượng cũng được gọi là trong khi xuất hiện. Khi (thực hành) xả thí năm pháp đại thí cũng được gọi là trong khi xuất hiện. Trong khi thực hành lợi ích cho bản thân, thực hành lợi ích cho thân bằng quyến thuộc, thực hành lợi ích cho bản thân, thực hành lợi ích cho thế gian cũng được gọi là trong khi xuất hiện. Ngay cả khi thực hành các điều kiện để trở thành Phật trong suốt bốn a-tăng-kỳ và một trăm ngàn đại kiếp, cũng được gọi là trong khi xuất hiện. Ngay cả khi Ngài từ bỏ bản ngã Vessantara và tái sanh vào cõi Trời Tusita (Đâu-suất), an trú suốt 57 koṭi năm và thêm sáu mươi ngàn năm nữa, cũng được gọi là trong khi xuất hiện. Ngay cả khi được chư Thiên thỉnh cầu, Ngài đã xem xét năm điều kiện quan trọng và giáng sanh vào bụng của Hoàng hậu Mahāmāyā, ngay cả an trú trong thai bào đủ mười tháng, cũng được gọi là trong khi xuất hiện.

Ekūnatiṃsa vassāni agāramajjhe tiṭṭhantopi uppajjamāno nāma. Kāmesu ādīnavaṃ nekkhamme ca ānisaṃsaṃ disvā rāhulabhaddassa jātadivase channasahāyo kaṇḍakaṃ vāhanavaraṃ āruyha nikkhamantopi uppajjamānova nāma. Tīṇi rajjāni atikkamantopi anomānadītīre pabbajantopi uppajjamāno nāma. Chabbassāni mahāpadhānaṃ karontopi uppajjamāno nāma. Paripakkagate ñāṇe oḷārikāhāraṃ āharantopi uppajjamānova nāma.

Ngay cả khi sống đời sống tại gia suốt 29 năm cũng được gọi là trong khi xuất hiện. Ngay cả khi Ngài thấy sự tai hại của các dục, sự lợi ích của việc xuất ly, có Channa làm bạn đồng hành, cưỡi ngựa Kaṇḍaka cao quý ra đi xuất gia vào đúng ngày Hoàng tử Rāhula hạ sanh cũng được gọi là trong khi xuất hiện. Ngay cả khi đã vượt qua ba vương quốc và xuất gia ở bờ sông Anomā cũng được gọi là trong khi xuất hiện. Ngay cả khi thực hiện sự nỗ lực lớn lao suốt sáu năm cũng được gọi là trong khi xuất hiện. Ngay cả khi trí tuệ đã chín muồi rồi thọ nhận vật thực thô cũng được gọi là trong khi xuất hiện.

Sāyanhasamaye visākhapuṇṇamāya mahābodhimaṇḍaṃ āruyha mārabalaṃ vidhametvā paṭhamayāme pubbenivāsaṃ anussaritvā majjhimayāme dibbacakkhuṃ parisodhetvā pacchimayāmasamanantare dvādasaṅgaṃ paṭiccasamuppādaṃ anulomapaṭilomato sammasitvā sotāpattimaggaṃ paṭivijjhantopi uppajjamānova nāma. Sotāpattiphalakkhaṇepi sakadāgāmimaggakkhaṇepi sakadāgāmiphalakkhaṇepi anāgāmimaggakkhaṇepi anāgāmiphalakkhaṇepi uppajjamānova nāma. Arahattamaggakkhaṇe pana uppajjati nāma. Arahattaphalakkhaṇe uppanno nāma. Buddhānaṃ hi sāvakānaṃ viya na paṭipāṭiyā iddhividhañāṇādīni uppajjanti, saheva pana arahattamaggena sakalopi sabbaññutaññāṇādi guṇarāsi āgatova nāma hoti. Tasmā te nipphattasabbakiccattā arahattaphalakkhaṇe uppannā nāma honti. Imasmimpi sutte arahattaphalakkhaṇaṃyeva sandhāya ‘‘uppajjatī’’ti veditabbo, uppanno hotīti ayañhettha attho.

Ngay cả khi bước lên bảo tọa đại Bồ Đề vào ngày trăng tròn tháng Visākha, Ngài đã chế ngự được lực lượng của Ma Vương, đã nhớ đến các kiếp sống quá khứ vào canh đầu, đã làm tịnh khiết thiên nhãn vào canh giữa, đã quán xét mười hai yếu tố của sự sanh khởi tùy thuộc vào điều kiện (Thập Nhị Nhân Duyên) theo chiều thuận và chiều nghịch vào lúc tàn canh cuối, rồi thấu triệt Nhập Lưu Đạo, v.v, cũng được gọi là trong khi xuất hiện. Hơn nữa, ở sát-na Nhập Lưu Quả, ở sát-na Nhất Lai Đạo, ở sát-na Nhất Lai Quả, ở sát-na Bất Lai Đạo, hoặc ở sát-na Bất Lai Quả, cũng được gọi là trong khi xuất hiện tương tự. Còn ở sát-na của A-ra-hán Đạo được gọi là đang xuất hiện. Ở sát-na của A-ra-hán Quả được gọi là đã xuất hiện. Thật vậy, trí về thể loại của thần thông của chư Phật v.v… không sanh khởi theo tuần tự như của các vị Thinh Văn. Hơn nữa, khối đức hạnh có trí toàn tri, v.v… đều xuất hiện đồng thời với A-ra-hán Đạo. Vì lý do đó, chư Phật được gọi là đã xuất hiện ở sát-na A-ra-hán Quả, bởi vì có tất cả mọi phận sự đều đã thành tựu. Ở bài Kinh này nên hiểu rằng— “đang xuất hiện” ý muốn đề cập đến sát-na A-ra-hán Quả. Thật vậy, ở đây điều này có ý nghĩa rằng: “là vị đã xuất hiện”.

Bahujanahitāyāti mahājanassa hitatthāya uppajjati. Bahujanasukhāyāti mahājanassa sukhatthāya uppajjati. Lokānukampāyāti sattalokassa anukampaṃ paṭicca uppajjati. Katarasattalokassāti? Yo tathāgatassa dhammadesanaṃ sutvā amatapānaṃ pivitvā dhammaṃ paṭivijjhi, tassa. Bhagavatā hi mahābodhimaṇḍe sattasattāhaṃ vītināmetvā bodhimaṇḍā isipatanaṃ āgamma ‘‘dveme, bhikkhave, antā pabbajitena na sevitabbā’’ti dhammacakkappavattanasutte (mahāva. 13; saṃ. ni. 5.1081) desite āyasmatā aññāsikoṇḍaññattherena saddhiṃ aṭṭhārasakoṭisaṅkhā brahmāno amatapānaṃ piviṃsu, etassa sattalokassa anukampāya uppanno. Pañcamadivase anattalakkhaṇasuttantapariyosāne (mahāva. 20; saṃ. ni. 3.59) pañcavaggiyā therā arahatte patiṭṭhahiṃsu, etassapi sattalokassa anukampāya uppanno. Tato yasadārakappamukhe pañcapaṇṇāsa purise arahatte patiṭṭhāpesi, tato kappāsikavanasaṇḍe tiṃsa bhaddavaggiye tayo magge ca tīṇi phalāni ca sampāpesi, etassapi sattalokassa anukampāya uppanno.

Vì sự lợi ích cho nhiều người: Ngài xuất hiện nhằm đem lại lợi ích cho đại chúng. Vì sự an lạc cho nhiều người: Ngài xuất hiện nhằm mục đích đem lại sự an lạc cho đại chúng. Vì lòng bi mẫn đối với thế gian: Ngài xuất hiện vì lòng thương tưởng đối với chúng sanh ở thế gian. Đối với chúng sanh nào? Vì lòng thương tưởng đối với chúng sanh ở thế gian sau khi lắng nghe bài thuyết Pháp của Như Lai, đã được uống nước Bất Tử rồi thấu hiểu Giáo Pháp. Đức Thế Tôn đã trải qua bảy tuần lễ ở tại bảo tọa Đại Bồ Đề, rồi Ngài từ bảo tọa Bồ Đề đến Vườn Nai tại Isipatana và thuyết giảng bài Kinh Chuyển Pháp Luân rằng: “Này các Tỳ-khưu, đây là hai cực đoan mà bậc xuất gia không nên thực hành…” (mahāva. 13; saṃ. ni. 5.1081); Mười tám koṭi Phạm Thiên cùng với Trưởng lão Aññāsikoṇḍañña đã được uống nước Bất Tử, Ngài xuất hiện vì lòng thương tưởng đối với chúng sanh ở thế gian này. Vào ngày thứ năm, khi kết thúc bài Kinh Vô Ngã Tướng, (mahāva. 20; saṃ. ni. 3.59); các Tỳ-khưu nhóm năm vị đã an trú trong quả vị A-ra-hán, Ngài xuất hiện vì lòng thương tưởng đối với chúng sanh ở thế gian này. Sau đó, Ngài đã tiếp độ 55 nam nhân có Thiện Nam Tử Yasa là người đứng đầu an trú vào quả vị A-ra-hán. Tiếp đó, Ngài đã tiếp độ 30 thanh niên nhóm Bhadda ở tại khu rừng rậm Kappāsika đạt được ba Đạo và ba Quả, Ngài xuất hiện vì lòng thương tưởng đối với chúng sanh ở thế gian này.

Gayāsīse ādittapariyāyasuttapariyosāne (mahāva. 54) jaṭilasahassaṃ arahatte patiṭṭhāpesi, tālaṭṭhivane bimbisārappamukhā ekādasa nahutā brāhmaṇagahapatikā satthu dhammadesanaṃ sutvā sotāpattiphale patiṭṭhahiṃsu, ekaṃ nahutaṃ saraṇesu patiṭṭhitaṃ. Tirokuṭṭaanumodanāvasāne caturāsītiyā pāṇasahassehi amatapānaṃ pītaṃ. Sumanamālākārasamāgame caturāsītiyā ca. Dhanapālakasamāgame dasahi pāṇasahassehi, khadiraṅgārajātakasamāgame caturāsītiyā pāṇasahassehi, jambukaājīvakasamāgame caturāsītiyā ca. Ānandaseṭṭhisamāgame caturāsītiyā ca pāṇasahassehi amatapānaṃ pītaṃ. Pāsāṇakacetiye pārāyanasuttantakathādivase cuddasa koṭiyo amatapānaṃ piviṃsu. Yamakapāṭihāriyadivase vīsati pāṇakoṭiyo, tāvatiṃsabhavane paṇḍukambalasilāya nisīditvā mātaraṃ kāyasakkhiṃ katvā sattappakaraṇaṃ abhidhammaṃ desentassa asīti pāṇakoṭiyo, devorohane tiṃsa pāṇakoṭiyo, sakkapañhasuttante asīti devatāsahassāni amatapānaṃ piviṃsu. Mahāsamayasuttante maṅgalasuttante cūḷarāhulovāde samacittapaṭipadāyāti imesu catūsu ṭhānesu abhisamayaṃ pattasattānaṃ paricchedo natthi. Etassapi sattalokassa anukampāya uppannoti. Yāvajjadivasā ito paraṃ anāgate ca sāsanaṃ nissāya saggamokkhamagge patiṭṭhahantānaṃ vasenāpi ayamattho veditabbo.

Vào lúc kết thúc bài Kinh Lửa Cháy (Ādittapariyāya, mahāva. 54) đã làm cho một ngàn vị đạo sĩ tóc bện an trú vào quả vị A-ra-hán ở tại Gayāsīsa. Hơn nữa, 11 vạn (110.000) Bà-la-môn và gia chủ có đức vua Bimbisāra là vị đứng đầu, sau khi lắng nghe Giáo Pháp của bậc Đạo Sư, đã an trú vào quả vị Nhập Lưu ở tại vườn cây Tāla. Thêm mười ngàn người khác đã an trú vào ba sự nương nhờ. Vào lúc hoàn tất việc tùy hỷ phước báu và kết thúc bài Kinh Ngoài Bức Tường – Tirokuṭṭa thì tám mươi bốn ngàn (84.000) chúng sanh đã được uống nước Bất Tử, và tám mươi bốn ngàn (84.000) chúng sanh trong tập thể của người làm tràng hoa Sumana (đã được uống nước Bất Tử). Mười ngàn (10.000) chúng sanh đã được uống nước Bất Tử ở tập thể voi Dhanapāla. Tám mươi bốn ngàn (84.000) chúng sanh đã được uống nước Bất Tử ở tập thể của Khadiraṅgārajātaka, và tám mươi bốn ngàn (84.000) chúng sanh (đã được uống nước Bất Tử) ở tập thể của đạo sĩ lõa thể Jambuka. Và tám mươi bốn ngàn (84.000) chúng sanh đã được uống nước Bất Tử ở tập thể của trưởng giả Ānanda. Mười bốn koṭi chúng sanh đã được uống nước Bất Tử vào ngày thuyết giảng Kinh Trên Đường Đến Bờ Kia (Pārāyana) tại Bảo tháp Pāsāṇaka. Hai mươi koṭi chúng sanh đã được uống nước Bất Tử vào ngày thị hiện Song Thông. Sau khi bậc Đạo Sư ngự trên tảng đá được phủ tấm mền màu đỏ tại cung trời Đạo Lợi (Tāvatiṃsa), Ngài đã làm cho mẹ (Hoàng hậu Māyā kiếp sống trước) trở thành bậc thân chứng rồi thuyết giảng Bảy Bộ Vi Diệu Pháp (Abhidhamma), có tám mươi koṭi chúng sanh đã được uống nước Bất Tử. Ba mươi koṭi chúng sanh đã được uống nước Bất Tử vào ngày Ngài từ Thiên giới về lại trần gian. Tám mươi ngàn chư Thiên đã được uống nước Bất Tử trong bài Kinh Sakkapañhā (Đế Thích Vấn Đạo). Trong bốn trường hợp này là trong bài Kinh Mahāsamaya, trong bài Kinh Maṅgala, trong bài Kinh Cūḷarāhula, trong bài Kinh Samacittapaṭipadā chúng sanh đạt được sự lãnh hội (Giáo Pháp) không thể xác định được. Ngài xuất hiện vì lòng thương tưởng đối với chúng sanh ở thế gian này. Kể từ hôm nay và trong tương lai, nên hiểu ý nghĩa trong ngữ cảnh này như đã nói ở trên, ngay cả về phương diện những chúng sanh nương nhờ vào Giáo Pháp rồi an trú trong con đường đưa đến cõi Trời và giải thoát (Niết Bàn).

Devamanussānanti na kevalaṃ devamanussānaṃyeva, avasesānaṃ nāgasupaṇṇādīnampi atthāya hitāya sukhāyeva uppanno. Sahetukapaṭisandhike pana maggaphalasacchikiriyāya bhabbe puggale dassetuṃ etaṃ vuttaṃ. Tasmā etesampi atthāya hitāya sukhāyeva uppannoti veditabbo.

Vì sự an lạc của chư Thiên và nhân loại: Ngài xuất hiện vì sự tấn hóa, vì sự lợi ích, vì sự an lạc không chỉ riêng đối với chư Thiên và nhân loại, mà còn (xuất hiện vì sự tấn hóa, vì sự lợi ích, vì sự an lạc) đối với các chúng sanh khác có loài Nāga và loài Supaṇṇa, v.v. Tuy nhiên, để thuyết về hạng người liên quan đến việc nối liền tái sanh là nguyên nhân, vị xứng đáng tác chứng Đạo và Quả, nên mới nói như thế. Vì lý do đó, nên hiểu rằng Ngài chỉ xuất hiện vì sự tấn hóa, vì sự lợi ích, vì sự an lạc đối với các chúng sanh ấy.

Katamo ekapuggaloti ayaṃ pucchā. Pucchā ca nāmesā pañcavidhā hoti – adiṭṭhajotanā pucchā, diṭṭhasaṃsandanā pucchā, vimaticchedanā pucchā, anumatipucchā, kathetukamyatāpucchāti.

Thế nào là một hạng người: đây là câu hỏi— Được gọi là câu hỏi này có năm loại là—

(1) Câu hỏi để làm sáng tỏ điều chưa thấy,
(2) câu hỏi để trao đổi điều đã thấy,
(3) câu hỏi để cắt đứt sự nhầm lẫn,
(4) câu hỏi để xác nhận,
(5) câu hỏi nhằm ý định tự trả lời.

Tāsaṃ idaṃ nānattaṃ – katamā adiṭṭhajotanā pucchā? Pakatiyā lakkhaṇaṃ aññātaṃ hoti adiṭṭhaṃ atulitaṃ atīritaṃ avibhūtaṃ abhāvitaṃ. Tassa ñāṇāya dassanāya tulanāya tīraṇāya vibhūtatthāya vibhāvanatthāya pañhaṃ pucchati, ayaṃ adiṭṭhajotanā pucchā.

Trong số năm loại câu hỏi đó có sự khác biệt như sau— (1) câu hỏi để làm sáng tỏ điều chưa thấy là thế nào? Thông thường, đối với tướng trạng chưa được biết, chưa được thấy, chưa được cân nhắc, chưa được xác định, chưa được rõ rệt, chưa được minh định, thì người ta hỏi câu hỏi để biết, để thấy, để cân nhắc, để xác định, để phân biệt về tướng trạng ấy. Đây là câu hỏi để làm sáng tỏ điều chưa thấy.

Katamā diṭṭhasaṃsandanā pucchā? Pakatiyā lakkhaṇaṃ ñātaṃ hoti diṭṭhaṃ tulitaṃ tīritaṃ vibhūtaṃ vibhāvitaṃ. So aññehi paṇḍitehi saddhiṃ saṃsandanatthāya pañhaṃ pucchati, ayaṃ diṭṭhasaṃsandanā pucchā.

(2) Câu hỏi để trao đổi điều đã thấy là thế nào? Thông thường, đối với tướng trạng đã được biết, đã được thấy, đã được cân nhắc, đã được xác định, đã được rõ rệt, đã được minh định, thì người ta hỏi câu hỏi nhằm mục đích trao đổi cùng với các vị sáng suốt khác. Đây là câu hỏi để trao đổi điều đã thấy.

Katamā vimaticchedanā pucchā? Pakatiyā saṃsayapakkhanto hoti vimatipakkhanto dveḷhakajāto ‘‘evaṃ nu kho, na nu kho, kiṃ nu kho, kathaṃ nu kho’’ti. So vimaticchedanatthāya pañhaṃ pucchati, ayaṃ vimaticchedanā pucchā.

(3) Câu hỏi để cắt đứt sự nghi hoặc là thế nào? Thông thường, người bị rơi vào sự nghi hoặc, bị rơi vào sự nhầm lẫn, khởi lên sự lưỡng lự rằng: “Phải chăng như vầy là đúng, phải chăng là không đúng, là cái gì đây, là thế nào đây?” người ấy hỏi câu hỏi nhằm mục đích cắt đứt sự nhầm lẫn. Đây là câu hỏi để cắt đứt sự nghi hoặc.

Katamā anumatipucchā? Bhagavā hi bhikkhūnaṃ anumatiyā pañhaṃ pucchati – ‘‘taṃ kiṃ maññatha, bhikkhave, rūpaṃ niccaṃ vā aniccaṃ vā’’ti? ‘‘Aniccaṃ, bhante’’. ‘‘Yaṃ panāniccaṃ, dukkhaṃ vā taṃ sukhaṃ vā’’ti? ‘‘Dukkhaṃ, bhante’’.‘‘Yaṃ panāniccaṃ dukkhaṃ vipariṇāmadhammaṃ, kallaṃ nu kho taṃ samanupassituṃ etaṃ mama, esohamasmi, eso me attā’’ti? ‘‘No hetaṃ, bhante’’ti, ayaṃ anumatipucchā.

(4) Câu hỏi để xác nhận là thế nào? Đức Thế Tôn hỏi câu hỏi để xác nhận để cho chư Tỳ-khưu xác nhận rằng: – “Này chư Tỳ-khưu, các ông nghĩ như thế nào về sắc ấy? là thường hay vô thường? – ‘Bạch ngài, là vô thường.’ – Vậy cái gì (đã) là vô thường, cái ấy là khổ hay lạc? – ‘‘Bạch ngài, là khổ.’ Hơn nữa, sắc nào là vô thường, là khổ não, có trạng thái thay đổi, có phải là hợp lý khi quán xét về cái ấy rằng: ‘Cái này là của ta, cái này là ta, cái này là tự ngã của ta’?” – “Bạch ngài, điều ấy không (hợp lý).” Đây là câu hỏi để xác nhận.

Katamā kathetukamyatāpucchā? Bhagavā bhikkhūnaṃ kathetukamyatāya pañhaṃ pucchati – ‘‘cattārome, bhikkhave, satipaṭṭhānā. Katame cattāro’’ti? Ayaṃ kathetukamyatāpucchāti.

(5) Câu hỏi nhằm ý định tự trả lời là thế nào? Đức Thế Tôn hỏi câu hỏi với ý định trả lời cho chư Tỳ khưu rằng: “Này chư Tỳ khưu, đây là bốn sự thiết lập niệm. Bốn là gì?” Đây là câu hỏi nhằm ý định tự trả lời.

Tattha buddhānaṃ purimā tisso pucchā natthi. Kasmā? Buddhānaṃ hi tīsu addhāsu kiñci saṅkhataṃ addhāvimuttaṃ vā asaṅkhataṃ adiṭṭhaṃ ajānitaṃ atulitaṃ atīritaṃ avibhūtaṃ avibhāvitaṃ nāma natthi, tasmā tesaṃ adiṭṭhajotanāpucchā natthi. Yaṃ pana bhagavatā attano ñāṇena paṭividdhaṃ, tassa aññena samaṇena vā brāhmaṇena vā devena vā mārena vā brahmunā vā saddhiṃ saṃsandanakiccaṃ natthi. Tenassa diṭṭhasaṃsandanāpucchā natthi. Yasmā panesa akathaṃkathī tiṇṇavicikiccho sabbadhammesu vihatasaṃsayo, tenassa vimaticchedanāpucchā natthi. Itarā pana dve pucchā bhagavato atthi, tāsu ayaṃ kathetukamyatāpucchāti veditabbā.

Trong năm loại câu hỏi đó, ba loại câu hỏi đầu tiên không hề có đối với chư Phật. Vì sao? Bởi vì bất kỳ điều gì trong cả ba thời mà duyên tạo tác (Pháp hữu vi), hoặc vượt khởi ba thời mà duyên không tạo tác (Pháp vô vi)– gọi là người chưa thấy, chưa biết, chưa được cân nhắc, chưa được xác định, chưa được rõ rệt, chưa được minh định là không có đối với chư Phật. Do đó, câu hỏi để làm sáng tỏ điều chưa thấy là không có đối với chư Phật ấy. Hơn nữa, điều gì đã được đức Thế Tôn thấu triệt bằng Trí tuệ của Ngài, công việc là sự so sánh điều đó với người khác— dù là Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên, Ma vương hay Phạm Thiên—là điều không có. Vì lý do đó, câu hỏi để trao đổi điều đã thấy không có đối với Ngài. Cũng bởi vì Ngài không phân vân lưỡng lự, là vị thoát khỏi nghi ngờ, đã phá tan sự ngờ vực trong tất cả các Pháp. Vì lý do thế, câu hỏi để cắt đứt sự nghi hoặc không có đối với Ngài. Tuy nhiên, hai loại câu hỏi còn lại có nơi đức Thế Tôn. Trong đó, câu hỏi này nên được biết là câu hỏi nhằm ý định tự trả lời.

Idāni tāya pucchāya puṭṭhaṃ ekapuggalaṃ vibhāvento tathāgato arahaṃ sammāsambuddhoti āha. Tattha tathāgatoti aṭṭhahi kāraṇehi bhagavā tathāgato – tathā āgatoti tathāgato, tathā gatoti tathāgato, tathalakkhaṇaṃ āgatoti tathāgato, tathadhamme yāthāvato abhisambuddhoti tathāgato, tathadassitāya tathāgato, tathavāditāya tathāgato, tathākāritāya tathāgato, abhibhavanaṭṭhena tathāgatoti.

Bây giờ, đức Thế Tôn khi chỉ ra ‘cá nhân độc nhất’ mà người ấy hỏi với câu hỏi ấy để làm cho sáng tỏ nên mới nói rằng: Như Lai, bậc A-ra-hán, Chánh đẳng Chánh giác. Ở đây, Như Lai: đức Thế Tôn có hồng danh Như Lai với tám lý do sau—

(1) ‘vì ngài đã đến như vậy’ là Như Lai,
(2) ‘vì ngài đã đi như vậy’ là Như Lai,
(3) ‘vì ngài đã đến bằng tướng trạng thật sự’ là Như Lai,
(4) ‘vì ngài đã hoàn toàn giác ngộ sự thật các Pháp theo đúng thực thể’ là Như Lai,
(5) ‘vì ngài đã nhìn thấy đối tượng như thật’ là Như Lai,
(6) ‘vì có lời nói thật’ là Như Lai,
(7) ‘vì thực hành thật’ là Như Lai,
(8) ‘với ý nghĩa chinh phục’ là Như Lai.

Kathaṃ bhagavā tathā āgatoti tathāgato? Yathā sabbalokahitāya ussukkamāpannā purimakā sammāsambuddhā āgatā, yathā vipassī bhagavā āgato, yathā sikhī bhagavā, yathā vessabhū bhagavā, yathā kakusandho bhagavā, yathā koṇāgamano bhagavā, yathā kassapo bhagavā āgatoti. Kiṃ vuttaṃ hoti? Yena abhinīhārena ete bhagavanto āgatā, teneva amhākampi bhagavā āgato.

(1) Đức Thế Tôn có hồng danh Như Lai ‘vì ngài đã đến như vậy’ là (có ý nghĩa) như thế nào? Như bậc Chánh đẳng Chánh giác quá khứ thể hiện sự nỗ lực vì lợi ích cho tất cả chúng sanh, ngài đã đến; như đức Thế Tôn Vipassī đã đến, như đức Thế Tôn Sikhī, như đức Thế Tôn Vessabhū, như đức Thế Tôn Kakusandha, như đức Thế Tôn Koṇāgamana, như đức Thế Tôn Kassapa đã đến. (vì lợi ích của tất cả chúng sanh thế nào, đức Thế Tôn của chúng ta Ngài cũng đến vì lợi ích của tất cả chúng sanh tương tự như thế đó). Điều này giải thích thế nào? Các đức Thế Tôn đó đã đến vì đại nguyện nào, đức Thế Tôn của tất cả chúng ta cũng đã đến vì đại nguyện đó.

Atha vā yathā vipassī bhagavā…pe… yathā kassapo bhagavā dānapāramiṃ pūretvā, sīlanekkhammapaññāvīriyakhantisaccādhiṭṭhānamettāupekkhāpāramiṃ pūretvā imā dasa pāramiyo, dasa upapāramiyo, dasa paramatthapāramiyoti samatiṃsa pāramiyo pūretvā, aṅgapariccāgaṃ nayanadhanarajjaputtadārapariccāganti ime pañca mahāpariccāge pariccajitvā, pubbayogapubbacariyadhammakkhānañātatthacariyādayo pūretvā buddhicariyāya koṭiṃ patvā āgato, tathā amhākampi bhagavā āgato.

Hoặc hơn nữa, đức Thế Tôn Vipassī…đức Thế Tôn Kassapa đã thực hành bố thí Ba-la-mật, đã thực hành giới Ba-la-mật, xuất ly Ba-la-mật, trí tuệ Ba-la-mật, tinh tấn Ba-la-mật, kham nhẫn Ba-la-mật, chân thật Ba-la-mật, quyết định Ba-la-mật, tâm từ Ba-la-mật, tâm xả Ba-la-mật; Ngài đã thực hành ba mươi pháp Ba-la-mật là mười pháp Ba-la-mật bậc hạ, mười pháp Ba-la-mật bậc trung và mười pháp Ba-la-mật bậc thượng; Ngài đã thực hành năm pháp đại thí là bố thí các chi phần trên cơ thể, bố thí mạng sống bố thí tài sản, bố thí ngai vàng, bố thí con và bố thí vợ, đã thực hành sự siêng năng chăm chỉ ban đầu [pubbayoga], sự thực hành liên tục từ đầu [pubbacariya], việc giảng dạy giáo pháp và thực hành lợi ích cho quyến thuộc v.v, đã đạt đến tận cùng của việc thực hành lợi ích ở địa vị đức Phật [buddhicariyā] ngài đã đến thế nào, đức Thế Tôn của chúng ta Ngài cũng đã đến như thế đó.

Yathā ca vipassī bhagavā …pe… kassapo bhagavā cattāro satipaṭṭhāne cattāro sammappadhāne cattāro iddhipāde pañcindriyāni pañca balāni satta bojjhaṅge ariyaṃ aṭṭhaṅgikaṃ maggaṃ bhāvetvā brūhetvā āgato, tathā amhākampi bhagavā āgatoti tathāgato.

Hoặc hơn nữa, như đức Thế Tôn Vipassī…như đức Thế Tôn Kassapa đã tu tập, đã làm tăng trưởng bốn sự thiết lập niệm, bốn chánh cần, bốn nền tảng của thần thông, ngũ quyền, ngũ lực, bảy yếu tố đưa đến giác ngộ, thánh đạo tám chi phần các ngài đã đến như thế nào, thì đức Thế Tôn của chúng ta ngài cũng đã đến như thế đó.

‘‘Yatheva lokamhi vipassiādayo, Sabbaññubhāvaṃ munayo idhāgatā;

Tathā ayaṃ sakyamunīpi āgato, Tathāgato vuccati tena cakkhumā’’ti.

Evaṃ tathā āgatoti tathāgato.

“Các bậc Hiền Trí có đức Phật Vipassī v.v, Ngài đã đến bản thể  Toàn Giác ở đời này thế nào; thì bậc Hiền Trí dòng Sakya này, cũng đến thế đó. Với lý do ấy, đức Thế Tôn vị Hữu Nhãn được gọi là Như Lai.”

Đức Thế Tôn có hồng danh là Như Lai– ‘vì đã đến như thế’ (có ý nghĩa) là như vậy.

Kathaṃ tathā gatoti tathāgato? Yathā sampatijāto vipassī bhagavā gato…pe… kassapo bhagavā gato. Kathañca so gatoti? So hi sampatijātova samehi pādehi pathaviyaṃ patiṭṭhāya uttarābhimukho sattapadavītihārena gato. Yathāha – ‘‘sampatijāto, ānanda, bodhisatto samehi pādehi pathaviyaṃ patiṭṭhahitvā uttarābhimukho sattapadavītihārena gacchati setamhi chatte anudhāriyamāne, sabbā ca disā anuviloketi, āsabhiñca vācaṃ bhāsati ‘aggohamasmi lokassa, jeṭṭhohamasmi lokassa, seṭṭhohamasmi lokassa, ayamantimā jāti, natthi dāni punabbhavo’’’ti (ma. ni. 3.207).

(2) Đức Thế Tôn có hồng danh là Như Lai ‘vì ngài đã đi như vậy’ là (có ý nghĩa) như thế nào? Như đức Thế Tôn Vipassī khi sanh ra (tức khắc) đã bước đi…nt… đức Thế Tôn Kassapa (tức khắc) đã bước đi. Và đức Thế Tôn ấy đã đi như thế nào? Thật vậy, đức Thế Tôn ấy khi vừa mới sanh ra ngay trong khoảnh khắc đó Ngài đứng vững chãi trên bề mặt địa đại bằng hai chân đều nhau, mặt hướng phía Bắc, rồi bước đi bảy bước. Như ngài đã nói: “Này Ānanda, vị Bồ-tát khi vừa mới sanh ra, ngài đứng vững chãi trên bề mặt địa đại bằng hai chân đều nhau, mặt hướng phía Bắc, rồi bước đi bảy bước, có chư Thiên cầm lọng trắng che bên trên. Ngài nhìn khắp mọi phương hướng, nói ra lời nói tối thượng (lời nói có âm thanh như con bò đực) như sau: “Ta là bậc đứng đầu ở thế gian, Ta là bậc cao cả ở thế gian, Ta là bậc tối thượng ở thế gian, đây là kiếp sống cuối cùng, giờ đây không còn phải tái sanh nữa.” (ma. ni. 3.207);

Tañcassa gamanaṃ tathaṃ ahosi avitathaṃ anekesaṃ visesādhigamānaṃ pubbanimittabhāvena. Yañhi so sampatijātova samehi pādehi patiṭṭhahi, idamassa caturiddhipādapaṭilābhassa pubbanimittaṃ, uttarābhimukhabhāvo pana sabbalokuttarabhāvassa pubbanimittaṃ, sattapadavītihāro sattabojjhaṅgaratanapaṭilābhassa, ‘‘suvaṇṇadaṇḍā vītipatanti cāmarā’’ti (su. ni. 693) ettha vuttacāmarukkhepo pana sabbatitthiyanimmathanassa pubbanimittaṃ, setacchattadhāraṇaṃ arahattaphalavimuttivaravimalasetacchattapaṭilābhassa pubbanimittaṃ, sabbadisānuvilokanaṃ sabbaññutānāvaraṇañāṇapaṭilābhassa pubbanimittaṃ, āsabhivācābhāsanaṃ appaṭivattiyavaradhammacakkappavattanassa pubbanimittaṃ. Tathā ayaṃ bhagavāpi gato. Tañcassa gamanaṃ kathaṃ ahosi avitathaṃ tesaṃyeva visesādhigamānaṃ pubbanimittabhāvena. Tenāhu porāṇā –

Và việc đi như vậy của đức Thế Tôn ấy đã trở thành biểu hiện thật sự không bị biến đổi với điềm báo trước của việc chứng đạt nhiều ân đức cao thượng. Thật vậy, khi Ngài vừa mới sanh ra (ngay lập tức) đứng vững chãi trên bề mặt địa đại bằng hai chân đều nhau, đây là điềm báo trước của sự chứng đạt Tứ Như Ý Túc. – Lại nữa, ngài quay mặt về hướng Bắc là điềm báo trước của (sự chứng đạt) toàn bộ pháp xuất thế gian. – Ngài bước đi bảy bước là điềm báo trước của sự chứng đạt Thất Giác Chi. – Hơn nữa, ở đây việc cầm cây phất trần được nói như sau: “Phe phẩy tới lui những cây phất trần có tay cầm bằng vàng,” (su. ni. 693); đây là điềm báo trước của việc đánh bại tất cả bọn ngoại đạo. – Việc che cây lọng trắng là điềm báo trước của việc đạt được cây lộng trắng thanh tịnh, tối thượng, là sự giải thoát bởi sức mạnh quả vị A-ra-hán. – Việc đứng (lại) vào bước thứ 7 rồi  nhìn khắp mọi phương hướng là điềm báo trước của việc chứng đạt Trí Toàn Giác không bị chướng ngại. – Việc nói ra lời nói tối thượng (lời nói có âm thanh như con bò đực) là điềm báo trước của việc tuyên thuyết Chuyển Vận Bánh Xe Pháp cao thượng mà không ai (có thể) làm thay đổi. Ngay cả đức Thế Tôn này ngài cũng đã đi tương tự y như thế, và việc đi của vị ấy cũng đã trở thành biểu hiện thực sự, không bị thay đổi bởi tính chất điềm báo trước của việc chứng đạt những ân đức cao thượng ấy. Vì thế, các tài liệu cổ Porāṇā đã nói rằng:

“Muhuttajātova gavampatī yathā, samehi pādehi phusī vasundharaṃ.
So vikkamī satta padāni Gotamo, setañca chattaṃ anudhārayuṃ marū.

Gantvāna so satta padāni Gotamo, disā vilokesi samā samantato.
Aṭṭhaṅgupetaṃ giramabbhudīrayi, sīho yathā pabbatamuddhaniṭṭhito”ti.

Evaṃ tathā gatoti tathāgato.

“Ngài Gotama vừa mới sinh chỉ trong phút chốc, đã chạm vào bề mặt quả địa cầu bằng hai chân đều nhau, rồi bước đi bảy bước. Như bò chúa vừa mới sinh ngay lập tức, khi chân tiếp xúc mặt đất cũng đã bước đi, và chư thiên đã che cây lọng trắng bên trên cúng dường;

 Ngài Gotama, vị ấy sau khi bước bảy bước; đã nhìn khắp các phương hướng. Thốt lên với âm giọng kết hợp với tám phẩm chất; như thể sư tử chúa đứng trên đỉnh núi gầm lên tiếng gầm sư tử.”

‘Đã đi như vậy’ là Như Lai (có ý nghĩa) là như thế.

Atha vā yathā vipassī bhagavā…pe… yathā kassapo bhagavā, ayampi bhagavā tatheva nekkhammena kāmacchandaṃ pahāya gato, abyāpādena byāpādaṃ, ālokasaññāya thinamiddhaṃ, avikkhepena uddhaccakukkuccaṃ, dhammavavatthānena vicikicchaṃ pahāya gato, ñāṇena avijjaṃ padāletvā gato, pāmojjena aratiṃ vinodetvā, paṭhamajjhānena nīvaraṇakavāṭaṃ ugghāṭetvā, dutiyajjhānena vitakkavicāraṃ vūpasametvā, tatiyajjhānena pītiṃ virājetvā, catutthajjhānena sukhadukkhaṃ pahāya, ākāsānañcāyatanasamāpattiyā rūpasaññāpaṭighasaññānānattasaññāyo samatikkamitvā, viññāṇañcāyatanasamāpattiyā ākāsānañcāyatanasaññaṃ, ākiñcaññāyatanasamāpattiyā viññāṇañcāyatanasaññaṃ, nevasaññānāsaññāyatanasamāpattiyā ākiñcaññāyatanasaññaṃ samatikkamitvā gato.

Hoặc là, như đức Thế Tôn Vipassī …nt… như đức Thế Tôn Kassapa đã đi như thế nào, đức Thế Tôn của chúng ta đã đi tương tự y như thế. Đức Thế Tôn đã đi nhờ sự xuất ly đã đoạn trừ sự ước muốn trong các dục; đã đoạn trừ sân hận bằng sự không sân hận; đã đoạn trừ hôn trầm thụy miên bằng sự nghĩ tưởng đến ánh sáng, đã đoạn trừ phóng dật bằng sự không xao lãng, đã đoạn trừ hoài nghi do xác định pháp, đã đoạn trừ vô minh bằng trí tuệ, đã làm tiêu tan sự không hoan hỷ với sự hân hoan; đã mở cửa các pháp ngăn che do Sơ thiền; tầm và tứ đã được tĩnh lặng do Nhị thiền; đã lìa khỏi hỷ do Tam thiền; đã đoạn trừ sự an lạc và sự khổ đau do Tứ thiền; đã vượt khỏi sắc tưởng, bất bình tưởng, dị biệt tưởng bằng sự thể nhập Không Vô Biên Xứ; đã vượt khỏi tưởng Không Vô Biên Xứ bằng sự thể nhập Thức Vô Biên Xứ; đã vượt khởi tưởng Thức Vô Biên Xứ bằng sự thể nhập Vô Sở Hữu Xứ; đã vượt khỏi tưởng Vô Sở Hữu Xứ bằng sự thể nhập Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ, ngài đã đi.

Aniccānupassanāya niccasaññaṃ pahāya, dukkhānupassanāya sukhasaññaṃ, anattānupassanāya attasaññaṃ, nibbidānupassanāya nandiṃ, virāgānupassanāya rāgaṃ, nirodhānupassanāya samudayaṃ, paṭinissaggānupassanāya ādānaṃ, khayānupassanāya ghanasaññaṃ, vayānupassanāya āyūhanaṃ, vipariṇāmānupassanāya dhuvasaññaṃ, animittānupassanāya nimittasaññaṃ, appaṇihitānupassanāya paṇidhiṃ, suññatānupassanāya abhinivesaṃ, adhipaññādhammavipassanāya sārādānābhinivesaṃ, yathābhūtañāṇadassanena sammohābhinivesaṃ, ādīnavānupassanāya ālayābhinivesaṃ, paṭisaṅkhānupassanāya appaṭisaṅkhaṃ, vivaṭṭānupassanāya saṃyogābhinivesaṃ, sotāpattimaggena diṭṭhekaṭṭhe kilese bhañjitvā, sakadāgāmimaggena oḷārike kilese pahāya, anāgāmimaggena aṇusahagate kilese samugghātetvā, arahattamaggena sabbakilese samucchinditvā gato. Evampi tathā gatoti tathāgato.

Đã đoạn trừ tưởng về sự thường tồn bằng việc quán xét về vô thường; đã đoạn trừ tưởng về an lạc bằng việc quán chiếu về khổ não; đã đoạn trừ tưởng về tự ngã bằng việc quán chiếu về vô ngã; đoạn trừ sự vui thích bằng việc quán chiếu về nhàm chán; đã đoạn trừ tham ái do quan chiếu về ly tham; đoạn trừ nhân sanh khởi bằng việc quán chiếu về diệt tận; đã đoạn trừ sự nắm giữ bằng việc quán chiếu về từ bỏ; đã đoạn trừ sự nghĩ tưởng về sự tiếp nối bằng việc quán chiếu về đoạn tận; đã đoạn trừ sự tích lũy bằng việc quán chiếu về biến hoại; đã đoạn trừ sự nghĩ tưởng về vững chắc bằng việc quán chiếu về chuyển biến; đã đoạn trừ hiện tướng bằng việc quán chiếu về vô tướng; đã đoạn trừ sự nguyện ước bằng việc quán chiếu về vô nguyện; đã đoạn trừ sự cố chấp do quán xét về không tánh; đã đoạn trừ sự cố chấp trong việc chấp giữ bằng việc minh sát các pháp bằng thắng tuệ; đã đoạn trừ sự cố chấp vào sự lầm lẫn bằng việc quán chiếu về sự biết và thấy đúng theo thực thể; đã đoạn trừ sự cố chấp vào sự nương tựa bằng việc quán chiếu về tai hại; đã đoạn trừ sự không phân biệt rõ bằng việc quán chiếu về phân biệt rõ; đã đoạn trừ sự cố chấp vào sự ràng buộc bằng việc quán chiếu về ly khai; đã bẽ gãy các phiền não thuần về tà kiến bằng Tu-đà-hoàn đạo; đã đoạn trừ các phiền não thô thiển bằng Tư-đà-hàm đạo; đã bứng tận gốc các phiền não có tính chất vi tế bằng A-na-hàm đạo; đã đoạn tận toàn bộ phiền não theo ý nghĩa thu thúc bằng A-ra-hán đạo, rồi ngài đã đi. Đức Thế Tôn đã đi như vậy với biểu hiện như đã giải thích. ‘Vị đã đi như vậy’ là Như Lai là (có ý nghĩa) như vậy.

Kathaṃ tathalakkhaṇaṃ āgatoti tathāgato? Pathavīdhātuyā kakkhaḷattalakkhaṇaṃ tathaṃ avitathaṃ, āpodhātuyā paggharaṇalakkhaṇaṃ, tejodhātuyā uṇhattalakkhaṇaṃ, vāyodhātuyā vitthambhanalakkhaṇaṃ, ākāsadhātuyā asamphuṭṭhalakkhaṇaṃ, viññāṇadhātuyā vijānanalakkhaṇaṃ.

(3) Đức Thế Tôn có hồng danh là Như Lai ‘vì ngài đã đến bằng tướng trạng thật sự’ (có ý nghĩa) như thế nào? Địa giới có trạng thái cứng rắn, là trạng thái thật không biến đổi. Thủy giới có trạng thái chảy ra; Hỏa giới có trạng thái nóng; Phong giới có trạng thái căng phòng; Hư không giới có trạng thái không xúc chạm được; Thức giới có trạng thái nhận biết đối tượng.

Rūpassa ruppanalakkhaṇaṃ, vedanāya vedayitalakkhaṇaṃ, saññāya sañjānanalakkhaṇaṃ, saṅkhārānaṃ abhisaṅkharaṇalakkhaṇaṃ, viññāṇassa vijānanalakkhaṇaṃ.

Sắc có trạng thái thay đổi liên tục. Thọ có trạng thái sự cảm thọ đối tượng. Tưởng có trạng thái ghi nhớ đối tượng. Hành có trạng thái tạo tác đối tượng. Thức có trạng thái nhận biết đối tượng.

Vitakkassa abhiniropanalakkhaṇaṃ, vicārassa anumajjanalakkhaṇaṃ, pītiyā pharaṇalakkhaṇaṃ, sukhassa sātalakkhaṇaṃ, cittekaggatāya avikkhepalakkhaṇaṃ, phassassa phusanalakkhaṇaṃ.

Tầm có trạng thái đưa tâm vào đối tượng. Tứ có trạng thái theo chăm nom đối tượng; Hỷ có trạng thái lan tỏa. Lạc có trạng thái dễ chịu. Nhất hành (sự chuyên nhất của tâm) có trạng thái yên tĩnh (không xao lãng). Xúc có trạng thái đụng chạm đối tượng.

Saddhindriyassa adhimokkhalakkhaṇaṃ, vīriyindriyassa paggahalakkhaṇaṃ, satindriyassa upaṭṭhānalakkhaṇaṃ, samādhindriyassa avikkhepalakkhaṇaṃ, paññindriyassa pajānanalakkhaṇaṃ.

Tín quyền có trạng thái quyết định chắc chắn, Tấn quyền có trạng thái ra sức. Niệm quyền có trạng thái chăm nom. Định quyền có trạng thái không phóng dật. Tuệ quyền trạng thái nhận biết rõ.

Saddhābalassa assaddhiye akampiyalakkhaṇaṃ, vīriyabalassa kosajje, satibalassa muṭṭhassacce, samādhibalassa uddhacce, paññābalassa avijjāya akampiyalakkhaṇaṃ.

Tín lực có trạng thái không lay động đối với những thứ không đáng tin; Tấn lực có trạng thái không lay động trong sự lười biếng; Niệm lực có trạng thái không lay động trong sự thất niệm; Định lực có trạng thái không lay động trong sự xao lãng; Tuệ lực có trạng thái không bị lay động trong vô minh.

Satisambojjhaṅgassa upaṭṭhānalakkhaṇaṃ, dhammavicayasambojjhaṅgassa pavicayalakkhaṇaṃ, vīriyasambojjhaṅgassa paggahalakkhaṇaṃ, pītisambojjhaṅgassa pharaṇalakkhaṇaṃ, passaddhisambojjhaṅgassa vūpasamalakkhaṇaṃ , samādhisambojjhaṅgassa avikkhepalakkhaṇaṃ, upekkhāsambojjhaṅgassa paṭisaṅkhānalakkhaṇaṃ.

Niệm giác chi có trạng thái chăm nom. Trạch pháp giác chi có trạng thái nghiên cứu. Tinh tấn giác chi có trạng thái ra sức; Hỷ giác chi trạng thái lan tỏa; An tịnh giác chi có trạng thái tĩnh lặng; Định giác chi có trạng thái không phóng dật; Xả giác chi có trạng thái phân biệt rõ.

Sammādiṭṭhiyā dassanalakkhaṇaṃ, sammāsaṅkappassa abhiniropanalakkhaṇaṃ, sammāvācāya pariggahalakkhaṇaṃ, sammākammantassa samuṭṭhānalakkhaṇaṃ, sammāājīvassa vodānalakkhaṇaṃ, sammāvāyāmassa paggahalakkhaṇaṃ, sammāsatiyā upaṭṭhānalakkhaṇaṃ, sammāsamādhissa avikkhepalakkhaṇaṃ.

Chánh kiến có trạng thái thấy; Chánh tư duy có trạng thái đưa tâm vào đối tượng; Chánh ngữ có trạng thái nắm giữ; Chánh nghiệp có trạng thái làm nhân trợ sanh – samuṭṭhāna; Chánh mạng có trạng thái trong sạch; Chánh tinh tấn có trạng thái ra sức; Chánh niệm có trạng thái chăm nom; Chánh định có trạng thái không phóng dật.

Avijjāya aññāṇalakkhaṇaṃ, saṅkhārānaṃ cetanālakkhaṇaṃ, viññāṇassa vijānanalakkhaṇaṃ, nāmassa namanalakkhaṇaṃ, rūpassa ruppanalakkhaṇaṃ, saḷāyatanassa āyatanalakkhaṇaṃ, phassassa phusanalakkhaṇaṃ, vedanāya vedayitalakkhaṇaṃ, taṇhāya hetulakkhaṇaṃ, upādānassa gahaṇalakkhaṇaṃ, bhavassa āyūhanalakkhaṇaṃ, jātiyā nibbattilakkhaṇaṃ, jarāya jīraṇalakkhaṇaṃ, maraṇassa cutilakkhaṇaṃ.

Vô minh có trạng thái không hiểu biết; Hành có trạng thái suy tính; Thức có trạng thái nhận biết đối tượng; Danh có trạng thái hướng tâm đến; Sắc có trạng thái luôn biến hoại; 6 Xứ có trạng thái làm chỗ tiếp nối; Xúc có trạng thái đụng chạm đối tượng; Thọ có trạng thái cảm thọ đối tượng; Tham ái có trạng thái làm nhân của khổ đau; Thủ có trạng thái chấp chặt; Hữu có trạng thái chồng chất; Sự sanh có trạng thái sanh ra; Sự già có trạng thái hao mòn; Sự chết có trạng thái chấm dứt sự sống.

Dhātūnaṃ suññatālakkhaṇaṃ, āyatanānaṃ āyatanalakkhaṇaṃ, satipaṭṭhānānaṃ upaṭṭhānalakkhaṇaṃ, sammappadhānānaṃ padahanalakkhaṇaṃ, iddhipādānaṃ ijjhanalakkhaṇaṃ, indriyānaṃ adhipatilakkhaṇaṃ, balānaṃ akampiyalakkhaṇaṃ, bojjhaṅgānaṃ niyyānalakkhaṇaṃ, maggassa hetulakkhaṇaṃ.

Giới dhātu có trạng thái rỗng không – suññatā; Xứ āyatana có trạng thái làm chỗ tiếp nối; Niệm Xứ có trạng thái chăm nom; Chánh Cần có trạng thái bắt đầu thiết lập sự cố gắng; Thần Túc có trạng thái thành tựu. Quyền indriya có trạng thái to lớn; Lực có trạng thái không lay động; Giác Chi có trạng thái dẫn dắt thoát khỏi khổ; Đạo có trạng thái làm nhân đưa đến sự diệt khổ;

Saccānaṃ tathalakkhaṇaṃ, samathassa avikkhepalakkhaṇaṃ, vipassanāya anupassanālakkhaṇaṃ, samathavipassanānaṃ ekarasalakkhaṇaṃ, yuganaddhānaṃ anativattanalakkhaṇaṃ.

Chân lý có trạng thái thật; Chỉ Tịnh có trạng thái không phóng dật. Minh Sát có trạng thái tùy quán. Chi Tịnh và Minh Sát có trạng trái có phận sự thuần nhất – ekarasa. Pháp liên kết thành đôi, thành cặp có trạng thái không thể chuyển đổi.

Sīlavisuddhiyā saṃvaraṇalakkhaṇaṃ, cittavisuddhiyā avikkhepalakkhaṇaṃ, diṭṭhivisuddhiyā dassanalakkhaṇaṃ.

Giới thanh tịnh có trạng thái thu thúc; Tâm thanh tịnh có trạng thái không phóng dật. Kiến thanh tịnh có trạng thái thấy;

Khaye ñāṇassa samucchedalakkhaṇaṃ, anuppāde ñāṇassa passaddhilakkhaṇaṃ.

 Ðoạn tận trí khaya-ñāṇa có trạng thái đoạn trừ; Vô sanh trí anuppāda-ñāṇa có trạng thái an tịnh;

Chandassa mūlalakkhaṇaṃ, manasikārassa samuṭṭhānalakkhaṇaṃ, phassassa samodhānalakkhaṇaṃ, vedanāya samosaraṇalakkhaṇaṃ, samādhissa pamukhalakkhaṇaṃ, satiyā ādhipateyyalakkhaṇaṃ, paññāya tatuttariyalakkhaṇaṃ , vimuttiyā sāralakkhaṇaṃ, amatogadhassa nibbānassa pariyosānalakkhaṇaṃ tathaṃ avitathaṃ. Evaṃ tathalakkhaṇaṃ ñāṇagatiyā āgato avirajjhitvā patto anuppattoti tathāgato. Evaṃ tathalakkhaṇaṃ āgatoti tathāgato.

Ước muốn có trạng thái làm gốc rễ; Tác ý có trạng thái làm nhân trợ sanh – samuṭṭhāna; Xúc có trạng thái làm chỗ hội họp; Thọ có trạng thái làm nơi gặp gỡ; Định có trạng thái dẫn đầu; Niệm có trạng thái làm chủ quyền; Tuệ có trạng thái vượt trội. Giải thoát có trạng thái làm cốt lõi … Nibbāna nơi thâm nhập vào bất tử có trạng thái chấm dứt, mỗi một Pháp đều có trạng thái thật, không biến đổi. Đức Thế Tôn, ngài đã đi đến bằng tướng trạng thật sự bằng ñāṇagati, tức là chứng đắc, chứng đạt theo tuần tự, không bị biến đổi như thế gọi là Như Lai. (Vì lý do đó), đức Thế Tôn có hồng danh là Như Lai: ‘vì đã đến bằng tướng trạng thật’ (có ý nghĩa) như vậy.

Kathaṃ tathadhamme yāthāvato abhisambuddhoti tathāgato? Tathadhammā nāma cattāri ariyasaccāni. Yathāha – ‘‘cattārimāni, bhikkhave, tathāni avitathāni anaññathāni. Katamāni cattāri? ‘Idaṃ dukkha’nti, bhikkhave, tathametaṃ avitathametaṃ anaññathameta’’nti (saṃ. ni. 5.1090) vitthāro. Tāni ca bhagavā abhisambuddho, tasmā tathānaṃ abhisambuddhattā tathāgatoti vuccati. Abhisambodhattho hi ettha gatasaddo.

(4) Đức Thế Tôn có hồng danh là Như Lai ‘vì ngài đã hoàn toàn giác ngộ theo đúng thực tính các Pháp thực thể’ (có ý nghĩa) như thế nào? Bốn Thánh Đế gọi là Pháp thực thể. Như đức Thế Tôn đã nói rằng: “Này các Tỳ khưu, Bốn Thánh đế này là thực thể, là không biến hoại, không sai khác. Thế nào là Bốn? Này các Tỳ khưu, ‘Đây là Khổ,’ điều này là thực thể, điều này là không biến hoại, điều này là không sai khác”, đọc giả nên tự mình tìm hiểu chi tiết. Đức Thế Tôn giác ngộ hoàn toàn bộ Bốn Thánh Đế ấy, vì thế ngài được gọi là Như Lai do đã giác ngộ hoàn toàn các Pháp thực thể. Từ ‘gata’ trong từ ‘tathāgata’ này có nghĩa là ‘giác ngộ tối thượng’.

Api ca jarāmaraṇassa jātipaccayasambhūtasamudāgataṭṭho tatho avitatho anaññatho … pe …, saṅkhārānaṃ avijjāpaccayasambhūtasamudāgataṭṭho tatho avitatho anaññatho … pe …, tathā avijjāya saṅkhārānaṃ paccayaṭṭho, saṅkhārānaṃ viññāṇassa paccayaṭṭho … pe …, jātiyā jarāmaraṇassa paccayaṭṭho tatho avitatho anaññatho. Taṃ sabbaṃ bhagavā abhisambuddho, tasmāpi tathānaṃ dhammānaṃ abhisambuddhattā tathāgatoti vuccati. Evaṃ tathadhamme yāthāvato abhisambuddhoti tathāgato.

Và hơn nữa, sự Già và sự Chết sanh khởi từ sự Sanh làm duyên, có ý nghĩa hiện hữu là thực thể, là không biến hoại, là không sai khác …nt… thực tính các Hành sanh khởi từ Vô Minh làm duyên có ý nghĩa hiện hữu là thực thể, là không biến hoại, là không sai khác …nt… Vô Minh có ý nghĩa làm duyên cho Hành, Hành có ý nghĩa làm duyên cho thức …nt… sự Sanh có ý nghĩa làm duyên cho sự Già và sự Chết (đây là) thực thể, là không biến hoại, là không sai khác. Đức Thế Tôn đã hoàn toàn giác ngộ tất cả thực tính đó, chính nhân đó Ngài được gọi là Như Lai. Đức Thế Tôn có hồng danh Tathāgata bởi giác ngộ toàn bộ thực thể theo đúng thực tính pháp như đã giải thích. Đức Thế Tôn hoàn toàn giác ngộ các Pháp đó, chính vì thế ngài được gọi là Như Lai do đã hoàn toàn giác ngộ theo đúng thực tính các Pháp thực thể. Như vậy, ‘do đã hoàn toàn giác ngộ thực tính các Pháp theo đúng thực thể’ là Như Lai.

Kathaṃ tathadassitāya tathāgato? Bhagavā yaṃ sadevake loke…pe… sadevamanussāya aparimāṇāsu lokadhātūsu aparimāṇānaṃ sattānaṃ cakkhudvāre āpāthaṃ āgacchantaṃ rūpārammaṇaṃ nāma atthi, taṃ sabbākārato jānāti passati. Evaṃ jānatā passatā ca tena taṃ iṭṭhāniṭṭhādivasena vā diṭṭhasutamutaviññātesu labbhamānakapadavasena vā ‘‘katamaṃ taṃ rūpaṃ rūpāyatanaṃ? Yaṃ rūpaṃ catunnaṃ mahābhūtānaṃ upādāya vaṇṇanibhā sanidassanaṃ sappaṭighaṃ nīlaṃ pītaka’’ntiādinā (dha. sa. 616) nayena anekehi nāmehi terasahi vārehi dvepaññāsāya nayehi vibhajjamānaṃ tathameva hoti, vitathaṃ natthi. Esa nayo sotadvārādīsupi āpāthamāgacchantesu saddādīsu. Vuttañhetaṃ bhagavatā – ‘‘yaṃ, bhikkhave, sadevakassa lokassa…pe… sadevamanussāya diṭṭhaṃ sutaṃ mutaṃ viññātaṃ pattaṃ pariyesitaṃ anuvicaritaṃ manasā, tamahaṃ jānāmi, tamahaṃ abbhaññāsiṃ, taṃ tathāgatassa viditaṃ, taṃ tathāgato na upaṭṭhāsī’’ti (a. ni. 4.24). Evaṃ tathadassitāya tathāgato. Tattha tathadassīatthe tathāgatoti padasambhavo veditabbo.

(5) Đức Thế Tôn có hồng danh là Như Lai ‘vì ngài đã nhìn thấy đối tượng như thật’ (có ý nghĩa) như thế nào? đối tượng nào gọi là đối tượng sắc đang đi đến phạm vi trong tầm Nhãn Môn của tất cả chúng sanh không thể ước lường được có trong thế gian cùng với chư thiên …nt… trong nhóm chúng sanh cùng với chư thiên và loài người (và) trong thế giới [lokadhātu] không thể ước lường được đối tượng đó, đức Thế Tôn nhìn thấy, nhận biết được tất cả mọi khía cạnh. Đối tượng đó ngài nhận biết và nhìn thấy như vậy, được phân ra do tác động đối tượng tốt và đối tượng không tốt hoặc do tác động pada có thể đạt được trong sắc đã thấy, âm thanh đã nghe, mùi, vị, đối tượng xúc đã biết và đối tượng pháp đã được biết rõ, và nhận biết 13 phần, (hoặc) 52 cách thức có nhiều tên gọi với những phương cách sau: “Sắc là (có ý nghĩa) như thế nào? Sắc nào y cứ bốn Sắc Đại Hiển thuộc về màu sắc là Sắc nhìn thấy được, là Sắc xúc chạm được, là sắc màu xanh, sắc màu vàng, Sắc đó được gọi là Sắc Xứ”, (dha. sa. 616); đây chính là đối tượng được xem thực thể, không bị biến hoại. Luôn cả trong đối tượng có âm thanh v.v, đang đi đến phạm vi trong tầm Nhĩ Môn v.v, cũng theo phương cách này. Đức Thế Tôn đã nói như vầy: “Này các Tỳ khưu, đối tượng nào trong toàn thế giới với Thiên giới, Ma giới, Phạm thiên giới, cùng với quần chúng Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người, được thấy, được nghe, được cảm giác, được thức tri, được đạt đến, được tầm cầu, được ý tư sát, ta đều biết các đối tượng đó. Ta đã được biết rõ các đối tượng đó, các đối tượng đó đều được Như Lai biết đến. các đối tượng đó không xuất hiện trong Như Lai.” (a. ni. 4.24); Như vậy, ‘do nhìn thấy đối tượng thực thể’ là Như Lai. Ở đó, nên biết rằng sự thành tựu nghĩa của từ ‘Như Lai’ có ý nghĩa ‘một người nhìn thấy đối tượng thực thể’.

Kathaṃ tathavāditāya tathāgato? Yaṃ rattiṃ bhagavā bodhimaṇḍe aparājitapallaṅke nisinno tiṇṇaṃ mārānaṃ matthakaṃ madditvā anuttaraṃ sammāsambodhiṃ abhisambuddho, yañca rattiṃ yamakasālānaṃ antare anupādisesāya nibbānadhātuyā parinibbāyi, etthantare pañcacattālīsavassaparimāṇe kāle paṭhamabodhiyāpi majjhimabodhiyāpi pacchimabodhiyāpi yaṃ bhagavatā bhāsitaṃ suttaṃ geyyaṃ…pe… vedallaṃ, sabbaṃ taṃ atthato ca byañjanato ca anupavajjaṃ anūnaṃ anadhikaṃ sabbākāraparipuṇṇaṃ rāgamadanimmadanaṃ dosamohamadanimmadanaṃ, natthi tattha vālaggamattampi avakkhalitaṃ, sabbaṃ taṃ ekamuddikāya lañchitaṃ viya ekanāḷikāya mitaṃ viya ekatulāya tulitaṃ viya ca tathameva hoti avitathaṃ. Tenāha – ‘‘yañca, cunda, rattiṃ tathāgato anuttaraṃ sammāsambodhiṃ abhisambujjhati, yañca rattiṃ anupādisesāya nibbānadhātuyā parinibbāyati, yaṃ etasmiṃ antare bhāsati lapati niddisati, sabbaṃ taṃ tatheva hoti no aññathā. Tasmā tathāgatoti vuccatī’’ti (dī. ni. 3.188). Gadattho hi ettha gatasaddo. Evaṃ tathavāditāya tathāgato.

(6) Đức Thế Tôn có hồng danh là Như Lai ‘vì có lời nói như thật’ là (có ý nghĩa) thế nào? Đêm nào đức Thế Tôn đã ngồi trên bảo tọa Aparājita [bảo tọa mà Ma Vương không thể phá vỡ được, bảo tọa của người chiến thắng] ở tại cội cây Bồ-đề. Ngài tiêu diệt cả 3 loại dục vọng – Ma Vương rồi chứng đắc viên mãn vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, và đêm nào đức Thế Tôn tịch diệt Niết Bàn trong cảnh giới Niết Bàn không còn dư sót giữa hai cây sāla, trong suốt khoảng thời gian 45 năm (sau khi thành đạo và trước khi Viên Tịch Niết Bàn) lời nói nào mà đức Thế Tôn thuyết trong khoảng thời gian paṭhamabodhiyā, thời gian majjhimabodhiyā và luôn cả thời gian pacchimabodhiyāSutta, Geyya…Vedalla, toàn bộ những lời nói đó người trí thức không ai có thể chê bai về ý nghĩa và cả văn tự, không hơn không kém, trọn vẹn với mọi phương diện trừ diệt sự say mê bởi ái luyến, trừ diệt sự say mê bởi sân hận và trừ diệt sự say mê bởi si mê, sự lầm lẫn trong lời nói đó dù chỉ là đỉnh của ngọn tóc cũng không có, tất cả điều đó đều là thực thể, không bị biến đổi, không bị sai khác, giống như được đóng cùng một ấn triện hoàng gia, giống như đo lường với cùng một dụng cụ đo lường, và giống như được cân bằng một chiếc cân. Với lý do đó ngài đã nói rằng: “Này Cunda, vào đêm đức Như Lai giác ngộ quả vị vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, và vào đêm Như Lai viên tịch Niết-bàn ở cảnh giới Niết-bàn không còn dư sót, điều nào đức Như Lai thuyết giảng, nói ra, chỉ dạy trong suốt khoảng thời gian này, toàn bộ những lời ấy hoàn toàn đều là thật, không sai khác; vì thế, ‘được gọi là Như Lai’”. (dī. ni. 3.188); Từ ‘gata’ trong từ Như Lai đồng nghĩa với ‘gada’ là ‘lời nói’. Đức Thế Tôn có hồng danh Như Lai ‘do có lời nói thật’ là như thế.

Apica āgadanaṃ āgado, vacananti attho. Tatho aviparīto āgado assāti dakārassa takāraṃ katvā tathāgatoti evampetasmiṃ atthe padasiddhi veditabbā.

Và hơn nữa, việc nói gọi là ‘āgadanaṃ’ dịch là lời nói, có nghĩa là lời nói. Việc thuyết giảng của đức Như Lai ấy đều là thật, không biến đổi, vì thế được gọi là Như Lai do đổi phụ âm ‘da’ thành phụ âm ‘ta’ và trong trường hợp này nên biết sự hình thành nghĩa của từ là như thế.

Kathaṃ tathākāritāya tathāgato? Bhagavato hi vācāya kāyo anulometi kāyassapi vācā, tasmā yathāvādī tathākārī yathākārī tathāvādī ca hoti. Evaṃ bhūtassa cassa yathā vācā, kāyopi tathā gato, pavattoti attho. Yathā ca kāyo, vācāpi tathā gatāti tathāgato. Tenevāha – ‘‘yathāvādī, bhikkhave, tathāgato tathākārī, yathākārī tathāvādī. Iti yathāvādī tathākārī, yathākārī tathāvādī. Tasmā ‘tathāgato’ti vuccatī’’ti (a. ni. 4.23). Evaṃ tathākāritāya tathāgato.

(7) Đức Thế Tôn có hồng danh là Như Lai ‘do thực hành thật’ (có ý nghĩa) như thế nào? Bởi vì thân nghiệp của đức Thế Tôn thuận theo khẩu nghiệp, cả khẩu nghiệp thuận theo thân nghiệp. Vì thế đức Thế Tôn nói như thế nào (sẽ) thực hành như thế đó, và làm như thế nào (sẽ) nói như thế đó. Có nghĩa là vị có bản thể như vậy lời nói như thế nào, thì cả thân nghiệp cũng được vận hành đi đến như thế đó; và thân nghiệp như thế nào thì luôn cả khẩu nghiệp cũng vận hành đi đến như thế đó. Do đó mới nói rằng: “Này chư Tỳ khưu, Như Lai nói như thế nào thì làm như thế đó, làm như thế nào thì nói như thế đó. Vị nói như thế nào thì làm như thế ấy, làm như thế nào thì nói như thế ấy là như thế. Cho nên ‘được gọi là Như Lai’”. (a. ni. 4.23); Như vậy, đức Thế Tôn có hồng danh là Như Lai ‘do thực hành thật’.

Kathaṃ abhibhavanaṭṭhena tathāgato? Upari bhavaggaṃ heṭṭhā avīciṃ pariyantaṃ katvā tiriyaṃ aparimāṇāsu lokadhātūsu sabbasatte abhibhavati sīlenapi samādhināpi paññāyapi vimuttiyāpi, na tassa tulā vā pamāṇaṃ vā atthi, atulo appameyyo anuttaro rājarājo devadevo sakkānamatisakko brahmānamatibrahmā. Tenāha – ‘‘sadevake loke, bhikkhave…pe… sadevamanussāya tathāgato abhibhū anabhibhūto aññadatthu daso vasavattī. Tasmā ‘tathāgato’ti vuccatī’’ti (a. ni. 4.23).

(8) Đức Thế Tôn có hồng danh là Như Lai ‘với ý nghĩa chinh phục’ (có ý nghĩa) như thế nào? Đức Thế Tôn chinh phục tất cả chúng sanh từ phía trên là cõi cao nhất[1] cho đến tận cùng phía dưới là địa ngục Vô Gián, về bề ngang chinh phục toàn bộ chúng sanh trong thế giới vũ trụ không thể ước lượng được bằng Giới, Định, Tuệ, Giải Thoát,  Trí và sự nhận thức về giải thoát giới, việc đo lường và ước lượng [các ân đức có giới v.v,] của ngài là không thể, Ngài có đức hạnh không thể đo lường được, không thể ước lượng được, không ai có thể hơn Ngài, là vua của vua, là chư thiên của chư thiên, là Đế Thích của các Đế Thích, là Phạm thiên trên các Phạm thiên. Bởi thế đức Thế Tôn đã nói rằng: “này chư Tỳ khưu, ở thế gian tính luôn cõi chư thiên…chư thiên và loài người, đức Như Lai là đấng chiến thắng, bậc không bị thống trị, bậc nhìn thấy tất cả, bậc vận hành quyền lực; Vì thế, ‘được gọi là Như Lai’”. (a. ni. 4.23);

Tatrevaṃ padasiddhi veditabbā – agado viya agado. Ko panesa? Desanāvilāso ceva puññussayo ca. Tena hesa mahānubhāvo bhisakko dibbāgadena sappe viya sabbaparappavādino sadevakañca lokaṃ abhibhavati. Iti sabbalokābhibhavane tatho aviparīto desanāvilāso ceva puññussayo ca agado assāti dakārassa takāraṃ katvā tathāgatoti veditabbo. Evaṃ abhibhavanaṭṭhena tathāgato.

Trong trường hợp đó nên biết sự hình thành nghĩa của từ như vầy ‘agada’ dịch là ‘thuốc men’, tương tự từ ‘agada’ dịch là ‘nói’. Thuốc men này là gì? Nét đẹp của bài giảng [desanāvilāsa] và phước báu đặc biệt [puññussayo]. Bởi vì đức Thế Tôn chinh phục tất cả những người học thuyết đối nghịch và thế gian cùng với chư Thiên giống như vị thầy thuốc có đại oai lực bắt rắn độc bằng thần dược. Đức Thế Tôn, bậc trí nên biết rằng: Hồng danh ‘Như Lai’ bởi vì có thuốc men là nét đẹp của bài giảng [desanāvilāsa] và phước báu đặc biệt [puññussayo] là thật, không bị biến đổi với việc chinh phục toàn bộ thế giới, do đã biến đổi phụ âm ‘da’ thành phụ âm ‘ta’. Như Lai ‘với ý nghĩa chinh phục’ là như vậy.

Apica tathāya gatotipi tathāgato, tathaṃ gatotipi tathāgato, gatoti avagato atīto patto paṭipannoti attho. Tattha sakalalokaṃ tīraṇapariññāya tathāya gato avagatoti tathāgato. Lokasamudayaṃ pahānapariññāya tathāya gato atītoti tathāgato, lokanirodhaṃ sacchikiriyāya tathāya gato pattoti tathāgato, lokanirodhagāminiṃ paṭipadaṃ tathāya gato paṭipannoti tathāgato. Tena yaṃ vuttaṃ bhagavatā –

Và hơn nữa, ‘đã đi đến với bản thể thật’ là Như Lai, ‘đạt đến bản thể thật’ là Như Lai. ‘Đã đi’ có ý nghĩa như sau – đoán biết, đã vượt khỏi, đã chứng đạt, đã thực hành. Trong bốn ý nghĩa đó, gọi là Như Lai ‘do đã đi với cử chỉ thật’ (tức là) do xét đoán toàn bộ thế giới nhờ biết toàn diện về sự xét đoán. Là Như Lai ‘do ngài đã đi với cử chỉ thật’ (tức là) vận hành vượt khỏi tập khởi của thế gian nhờ biết toàn diện về sự dứt bỏ. Là Như Lai ‘do ngài đã đi với cử chỉ thật’, (tức là) đã chứng đạt sự diệt tận của thế gian nhờ tác chứng. Là Như Lai ‘do đã đi với cử chỉ thật’, (tức là) con đường thực hành đạt đến sự diệt tận của thế gian. Bởi thế lời nào được đức Thế Tôn thuyết rằng: –

‘‘Loko, bhikkhave, tathāgatena abhisambuddho, lokasmā tathāgato visaṃyutto. Lokasamudayo, bhikkhave, tathāgatena abhisambuddho, lokasamudayo tathāgatassa pahīno. Lokanirodho, bhikkhave, tathāgatena abhisambuddho, lokanirodho tathāgatassa sacchikato. Lokanirodhagāminī paṭipadā, bhikkhave, tathāgatena abhisambuddhā, lokanirodhagāminī paṭipadā tathāgatassa bhāvitā. Yaṃ, bhikkhave, sadevakassa lokassa…pe… sabbaṃ taṃ tathāgatena abhisambuddhaṃ. Tasmā ‘tathāgato’ti vuccatī’’ti (a. ni. 4.23).

Này các Tỳ khưu, thế giới đã được Như Lai hoàn toàn giác ngộ, Như Lai không bị ràng buộc với đời. Này các Tỳ khưu, tập khởi của thế giới đã được Như Lai hoàn toàn giác ngộ, tập khởi của thế giới đã được Như Lai đoạn tận; Này các Tỳ khưu, sự đoạn diệt của thế giới đã được Như Lai hoàn toàn giác ngộ, sự đoạn diệt của thế giới đã được Như Lai tác chứng. Này các Tỳ khưu, con đường đưa đến sự đoạn diệt của thế giới đã được Như Lai hoàn toàn giác ngộ. Con đường đưa đến sự đoạn diệt của thế giới đã được Như Lai tu tập. Này chư tỳ khưu, điều nào [tồn tại] ở thế gian tính luôn cõi chư Thiên, tất cả điều đó đã được Như Lai hoàn toàn giác ngộ. Vì vậy, ‘được gọi là Như Lai’”. (a. ni. 4.23);

Tassapi evaṃ attho veditabbo. Idampi ca tathāgatassa tathāgatabhāvadīpane mukhamattameva. Sabbākārena pana tathāgatova tathāgatassa tathāgatabhāvaṃ vaṇṇeyya.

Nên hiểu ý nghĩa của lời nói đó như vậy. Và luôn cả câu này cũng chỉ là chủ đề  giải thích bản thể Như Lai của ‘Như Lai’ mà thôi. Hơn nữa, chỉ có Như Lai mới có thể giải thích về bản thể Như Lai của ‘Như Lai’ với tất cả mọi biểu hiện.

Arahaṃ sammāsambuddhoti padadvaye pana ārakattā, arīnaṃ arānañca hatattā, paccayādīnaṃ arahattā, pāpakaraṇe rahābhāvāti imehi tāva kāraṇehi arahanti veditabbo. Sammā sāmañca sabbadhammānaṃ buddhattā pana sammāsambuddhoti ayamettha saṅkhepo, vitthārato panetaṃ padadvayaṃ visuddhimagge (visuddhi. 1.123 ādayo) buddhānussativaṇṇanāyaṃ pakāsitanti.

Hơn nữa, hai từ này— ‘Bậc A-ra-hán, Chánh đẳng Chánh giác,’ trước tiên, nên hiểu là ‘bậc A-ra-hán’ với những lý do này—

(1) Bởi vì đã tránh xa kẻ thù (phiền não);
(2) bởi vì tiêu diệt kẻ thù và đã bẻ gãy các căm xe (của vòng luân hồi);
(3) bởi vì Ngài xứng đáng nhận các vật cúng dường;
(4) bởi vì không làm điều ác ở nơi khuất lấp.

Và gọi là bậc Chánh đẳng Chánh giác bởi vì Ngài giác ngộ tất cả Pháp hoàn toàn chân chánh và tự mình (tự mình hoàn toàn giác ngộ). Ở đây điều này là phần tóm tắt; còn phần chi tiết của hai từ này, đã được trình bày trong phần giải thích về ‘Tùy Niệm Ân Đức Phật’ trong bộ Visuddhimagga. (visuddhi. 1.123 ādayo);

171. Dutiye pātubhāvoti uppatti nipphatti. Dullabho lokasminti imasmiṃ sattaloke dullabho sudullabho paramadullabho. Kasmā dullabhoti? Ekavāraṃ dānapāramiṃ pūretvā buddhena bhavituṃ na sakkā, dve vāre dasa vāre vīsati vāre paññāsa vāre vārasataṃ vārasahassaṃ vārasatasahassaṃ vārakoṭisatasahassampi dānapāramiṃ pūretvā buddhena bhavituṃ na sakkā, tathā ekadivasaṃ dve divase dasa divase vīsati divase paññāsa divase divasasataṃ divasasahassaṃ divasasatasahassaṃ divasakoṭisatasahassaṃ. Ekamāsaṃ dve māse…pe… māsakoṭisatasahassaṃ. Ekasaṃvaccharaṃ dve saṃvacchare…pe… saṃvaccharakoṭisatasahassaṃ. Ekakappaṃ dve kappe…pe… kappakoṭisatasahassaṃ. Kappānaṃ ekaṃ asaṅkhyeyyaṃ dve asaṅkhyeyyāni tīṇi asaṅkhyeyyāni dānapāramiṃ pūretvā buddhena bhavituṃ na sakkā. Sīlapāramīnekkhammapāramī…pe… upekkhāpāramīsupi eseva nayo. Pacchimakoṭiyā pana kappasatasahassādhikāni cattāri asaṅkhyeyyāni dasa pāramiyo pūretvā buddhena bhavituṃ sakkāti iminā kāraṇena dullabho.

Trong bài Kinh thứ hai, sự xuất hiện: sự sanh khởi, sự thành tựu. Khó gặp được ở thế gian: khó gặp được, rất khó gặp, vô cùng khó gặp ở thế giới chúng sanh này. Tại sao gọi là khó gặp? Bởi vì Ngài không thể làm viên mãn về bố thí Ba-la-mật ngay tức khắc rồi trở thành đức Phật. Hơn nữa, Ngài không thể làm viên mãn bố thí Ba-la-mật trong 2 lần, 10 lần, 20 lần, 50 lần, 100 lần, 1.000 lần, 1 koṭi lần, 100.000 koṭi lần; Ngài cũng không thể làm viên mãn sự toàn hảo về bố thí trong 1 ngày, 2 ngày, 10 ngày, 20 ngày, 50 ngày, 100 ngày, 1.000 ngày, 100.000 ngày, 100.000 koṭi ngày, v.v… 1 tháng, 1 năm, 2 năm, v.v… 100.000 koṭi năm, 1 kiếp, 2 kiếp, v.v… 100.000 koṭi kiếp; trong 1 a-tăng-kỳ, 2 a-tăng-kỳ, 3 a-tăng-kỳ của kiếp rồi trở thành đức Phật. Ngay cả, về giới Ba-la-mật –nt– về hành xả cũng có phương thức tương tự. Tuy nhiên, cuối cùng Ngài đã làm viên mãn mười pháp Ba-la-mật suốt bốn a-tăng-kỳ và 100.000 kiếp mới có thể trở thành Phật. Với những lý do đã nói, Ngài mới được gọi là ‘khó gặp được.’

Tatiye acchariyamanussoti acchariyo manusso. Acchariyoti andhassa pabbatārohaṇaṃ viya niccaṃ na hotīti attho. Ayaṃ tāva saddanayo. Ayaṃ pana aṭṭhakathānayo – accharāyoggoti acchariyo, accharaṃ paharitvā passitabboti attho. Apica ‘‘tathāgatassa, bhikkhave, arahato sammāsambuddhassa pātubhāvā cattāro acchariyā abbhutā dhammā pātubhavantī’’ti (a. ni. 4.127) evamādīhi anekehi acchariyabbhutadhammehi samannāgatattāpi acchariyamanusso. Āciṇṇamanussotipi acchariyamanusso.

Trong bài Kinh thứ ba, một người vi diệu: một người phi thường. Vi diệu— có nghĩa là không thường (việc không tưởng, khó xảy ra) giống như người mù leo núi. Trước hết, theo cách thức của từ ngữ. Còn theo cách thức của Chú giải như sau— Vi diệu bởi vì xứng đáng được vỗ tay (tán thán), có nghĩa là xứng đáng được vỗ tay (tán thán) rồi chiêm ngưỡng. Và hơn nữa, được gọi là một người vi diệu, vì có tính chất hội đủ với nhiều Pháp kỳ diệu, chưa từng có được bắt đầu như vầy: “Này chư Tỳ-khưu, có bốn Pháp kỳ diệu, chưa từng có được xuất hiện, do sự hiện khởi của Như Lai, bậc A-ra-hán, Chánh đẳng Chánh giác.” Một người vi diệu bởi là người đã từng tích lũy (phước báu Ba-la-mật).

Abhinīhārassa hi sampādake aṭṭha dhamme samodhānetvā ekabuddhassa sammukhe mahābodhimaṇḍe mānasaṃ bandhitvā nisajjanaṃ nāma na aññassa kassaci āciṇṇaṃ, sabbaññubodhisattasseva āciṇṇaṃ. Tathā buddhānaṃ santike byākaraṇaṃ labhitvā anivattakena hutvā vīriyādhiṭṭhānaṃ adhiṭṭhāya buddhakārakadhammānaṃ pūraṇampi na aññassa kassaci āciṇṇaṃ, sabbaññubodhisattasseva āciṇṇaṃ. Tathā pāramiyo gabbhaṃ gaṇhāpetvā vessantarattabhāvasadise attabhāve ṭhatvā sabbālaṅkārapaṭimaṇḍitānaṃ hatthīnaṃ sattasatāni assānaṃ sattasatānīti evaṃ sattasatakamahādānaṃ datvā jālikumārasadisaṃ puttaṃ, kaṇhājināsadisaṃ dhītaraṃ, maddīdevisadisaṃ bhariyañca dānamukhe niyyātetvā yāvatāyukaṃ ṭhatvā dutiye attabhāve tusitabhavane paṭisandhiggahaṇampi na aññassa kassaci āciṇṇaṃ, sabbaññubodhisattasseva āciṇṇaṃ.

Thật vậy, sau khi thu thập Tám Pháp làm cho hoàn hảo lời phát nguyện, (Ngài) đã buộc chặt tâm ý ở tại khuôn viên của cội Đại Bồ Đề trước mặt một vị Phật (như Đức Phật Dīpaṅkara) — Không một ai khác đã từng tích lũy, chỉ có đức Bồ-tát Toàn Giác là người duy nhất đã tích lũy. Hơn nữa, sau khi nhận được lời thọ ký trong sự hiện diện của chư Phật, trở thành bậc không thoái chuyển, đã phát nguyện tinh tấn để thực hành các điều kiện để trở thành Phật— Không một ai khác đã từng tích lũy, chỉ có đức Bồ-tát Toàn Giác là người duy nhất đã tích lũy. Hơn nữa, sau khi làm tròn đủ các Ba-la-mật được chín muồi, đã vững trú trong bản ngã như ở bản ngã (Đại Vương) Vessantara; Sau khi ban phát bảy cuộc bố thí lớn (bảy) loại mỗi loại bảy trăm bắt đầu như sau— 700 con voi, 700 con ngựa đã được tô điểm với tất cả các loại đồ trang sức, v.v, rồi trao cho Hoàng tử như Hoàng tử Jāli; công chúa như công chúa Kaṇhājinā, và Hoàng hậu như Hoàng hậu Maddī đặt ở cánh cửa bố thí, rồi sống đến hết tuổi thọ (và) tái sanh tại cung trời Đâu Suất ở bản ngã thứ hai— Không một ai khác đã từng tích lũy, chỉ có đức Bồ-tát Toàn Giác là người duy nhất đã tích lũy.

Tusitapure yāvatāyukaṃ ṭhatvā devatānaṃ āyācanaṃ sampaṭicchitvā pañcamahāvilokanaṃ viloketvā satassa sampajānassa tusitapurā cavitvā mahābhogakule paṭisandhiggahaṇampi na aññassa kassaci āciṇṇaṃ, sabbaññubodhisattasseva āciṇṇaṃ. Tathā paṭisandhiggahaṇadivase dasasahassilokadhātukampanampi, satassa sampajānassa mātukucchiyaṃ nivāsopi, satassa sampajānassa mātukucchito nikkhamanadivase dasasahassilokadhātukampanampi, sampatijātassa sattapadavītihāragamanampi, dibbasetacchatta dhāraṇampi, dibbavāḷabījanukkhepopi, sabbadisāsu sīhavilokanaṃ viloketvā attanā paṭisamaṃ kañci sattaṃ adisvā ‘‘aggohamasmi lokassā’’ti evaṃ sīhanādanadanampi, paripākagate ñāṇe mahāsampattiṃ pahāya mahābhinikkhamanampi, mahābodhimaṇḍe pallaṅkena nisinnassa māravijayaṃ ādiṃ katvā pubbenivāsānussatidibbacakkhuvisodhanāni katvā paccūsasamaye sabbaññutaññāṇaguṇarāsipaṭividdhakkhaṇe dasasahassilokadhātukampanampi, paṭhamadhammadesanāya anuttaraṃ tiparivaṭṭaṃ dhammacakkappavattanampīti evamādi sabbaṃ na aññassa kassaci āciṇṇaṃ, sabbaññubuddhasseva āciṇṇaṃ. Evaṃ āciṇṇamanussotipi acchariyamanusso.

Ngay cả việc an trú ở cung trời Đâu Suất cho đến khi đến hết tuổi thọ, sau khi chấp nhận lời thỉnh cầu của chư Thiên, Ngài đã xem xét năm điều kiện quan trọng, có niệm, có sự nhận biết rõ rệt, đã chết đi từ cung trời Đâu Suất và tái sanh vào gia đình có tài sản lớn lao— Không một ai khác đã từng tích lũy, chỉ có đức Bồ-tát Toàn Giác là người duy nhất đã tích lũy. Hơn nữa, mười ngàn thế giới rúng động vào ngày (đức Bồ Tát) hạ sanh, Ngài có niệm, có sự nhận biết rõ rệt ngay cả khi ở trong bụng người mẹ; mười ngàn thế giới rúng động vào ngày Ngài rời khỏi bụng người mẹ trong khi có niệm, có sự nhận biết rõ rệt; việc ngài vừa sanh ra rồi bước đi bảy bước, việc che cây lọng trắng thuộc cõi Trời, việc phe phẩy quạt phất trần thuộc cõi Trời, việc quan sát như loài sư tử ở bốn phương đã không thấy bất kỳ chúng sanh nào ngang bằng với Ngài (và) rống lên tiếng rống sư tử như vầy— “Ta là bậc tối cao của thế gian.”  Việc mười ngàn thế giới rúng động trong khoảnh khắc Ngài từ bỏ vương quyền, khi trí tuệ đã đi đến sự chín muồi rồi thực hiện sự ra đi vĩ đại; trong khi ngồi với tư thế kiết già ở tại khuôn viên Đại Bồ-đề, chiến thắng Ma Vương, v.v, (Ngài) đã làm trong sạch trí nhớ lại các kiếp sống quá khứ (Túc Mạng Minh) và trí về Thiên Nhãn; Việc mười ngàn thế giới rúng động trong khoảnh khắc (Ngài) thấu triệt một khối đức hạnh là Trí Toàn Tri vào lúc trời hừng sáng; Việc chuyển vận bánh xe Pháp tối thượng có ba Luân (vòng xoay) với bài Pháp thoại đầu tiên. Tất cả những sự vi diệu đã được nói trên, v.v., không một ai khác đã từng tích lũy, chỉ có đức Bồ-tát Toàn Giác là người duy nhất đã tích lũy. Cũng vì lẽ đó, gọi là một người vi diệu vì là người đã từng tích lũy như vậy.

173. Catutthe kālakiriyāti ekasmiṃ kāle pākaṭā kiriyāti kālakiriyā. Tathāgato hi pañcacattālīsa vassāni ṭhatvā tīṇi piṭakāni pañca nikāye navaṅgaṃ satthusāsanaṃ caturāsīti dhammakkhandhasahassāni pakāsetvā mahājanaṃ nibbānaninnaṃ nibbānapoṇaṃ katvā yamakasālānamantare nipanno bhikkhusaṅghaṃ āmantetvā appamādena ovaditvā sato sampajāno anupādisesāya nibbānadhātuyā parinibbāyi. Ayamassa kiriyā yāvajjatanā pākaṭāti ekasmiṃ kāle pākaṭā kiriyāti kālakiriyā. Anutappā hotīti anutāpakarā hoti. Tattha cakkavattirañño kālakiriyā ekacakkavāḷe devamanussānaṃ anutāpakarā hoti. Buddhānaṃ kālakiriyā dasasahassacakkavāḷesu devamanussānaṃ anutāpakarā hoti. Tena vuttaṃ – ‘‘bahuno janassa anutappā hotī’’ti.

Trong bài Kinh thứ tư, sự mệnh chung: gọi là sự mệnh chung (qua đời) bởi vì hành động xuất hiện vào một thời điểm. Thật vậy, Như Lai đã an trú suốt 45 năm để tuyên thuyết về Tam Tạng, năm bộ Kinh, Giáo Pháp của đấng Đạo Sư gồm chín thể loại có tám mươi bốn ngàn Pháp Uẩn, Ngài hướng dẫn đại chúng hướng đến Niết Bàn, xuôi theo Niết Bàn, khi nằm xuống giữa ở khoảng giữa hai cây Sālā, sau khi gọi Hội chúng Tỳ-khưu đến đã nhắc nhở với sự không xao lãng, có niệm, có sự nhận biết rõ rệt, rồi (Ngài) viên tịch Niết Bàn trong cảnh giới Niết Bàn không còn dư sót. Sự mệnh chung này của Như Lai ấy đã xuất hiện cho đến tận ngày nay. Vì lý do đó, nên gọi là sự mệnh chung bởi vì hành động xuất hiện vào một thời điểm. Được đa số thương tiếc: gây ra sự đau buồn theo sau. Ở đấy, sự mệnh chung của một vị Chuyển Luân Thánh Vương gây ra sự thương tiếc cho chư Thiên và loài Người trong một cõi thế giới. Nhưng sự mệnh chung của chư Phật lại gây ra sự thương tiếc cho chư Thiên và loài Người trong mười ngàn thế giới. Do đó, nên mới nói rằng: “gây ra sự thương tiếc theo sau cho số đông người.”

174. Pañcame adutiyoti dutiyassa buddhassa abhāvā adutiyo. Cattāro hi buddhā sutabuddho, catusaccabuddho, paccekabuddho, sabbaññubuddhoti. Tattha bahussuto bhikkhu sutabuddho nāma. Khīṇāsavo catusaccabuddho nāma. Kappasatasahassādhikāni dve asaṅkhyeyyāni pāramiyo pūretvā sāmaṃ paṭividdhapaccekabodhiñāṇo paccekabuddho nāma. Kappasatasahassādhikāni cattāri vā aṭṭha vā soḷasa vā asaṅkhyeyyāni pāramiyo pūretvā tiṇṇaṃ mārānaṃ matthakaṃ madditvā paṭividdhasabbaññutaññāṇo sabbaññubuddho nāma. Imesu catūsu buddhesu sabbaññubuddhova adutiyo nāma. Na hi tena saddhiṃ añño sabbaññubuddho nāma uppajjati.

Trong bài Kinh thứ năm, không người thứ hai: gọi là không có đức Phật thứ hai. Thật vậy, có bốn sự giác ngộ là sự giác ngộ do đã được nghe, sự giác ngộ về bốn sự thật, sự giác ngộ đơn độc, sự giác ngộ Toàn Tri. Trong cả bốn sự giác ngộ đó, vị Tỳ-khưu là bậc đa văn (đã được nghe nhiều về những lời Phật dạy) được gọi là sự giác ngộ do đã được nghe. Vị Tỳ-khưu là bậc đã cạn kiệt các lậu hoặc được gọi là sự giác ngộ về bốn chân lý. Sau khi làm tròn đủ Ba-la-mật suốt 2 a-tăng-kỳ và một trăm ngàn đại kiếp, rồi thấu triệt trí tuệ về sự giác ngộ một cách riêng biệt được gọi là sự giác ngộ đơn độc. Sau khi làm tròn đủ Ba-la-mật suốt 4-8-16 a-tăng-kỳ và một trăm ngàn đại kiếp, rồi tiêu diệt cả ba đội binh của Ma Vương, thấu triệt Trí Toàn Tri được gọi là sự giác ngộ Toàn Tri. Trong số bốn sự giác ngộ này, thì sự giác ngộ Toàn Tri được gọi là không có người thứ hai. Không có một vị Toàn Giác Phật nào khác xuất hiện đồng thời với vị Toàn Giác Phật đó.

Asahāyoti attabhāvena vā paṭividdhadhammehi vā sadiso sahāyo nāma assa natthīti asahāyo. ‘‘Laddhasahāyo kho pana so bhagavā sekhānañceva paṭipadāna’’nti iminā pana pariyāyena sekhāsekhā buddhānaṃ sahāyā nāma honti. Appaṭimoti paṭimā vuccati attabhāvo, tassa attabhāvasadisā aññā paṭimā natthīti appaṭimo. Yāpi ca manussā suvaṇṇarajatādimayā paṭimā karonti, tāsu vālaggamattampi okāsaṃ tathāgatassa attabhāvasadisaṃ kātuṃ samattho nāma natthīti sabbathāpi appaṭimo.

Không bạn đồng hành: Ngài được gọi là không bạn đồng hành vì Ngài không có ai sánh với tự ngã hoặc với Pháp mà Ngài đã thấu triệt. Hơn nữa, bậc Hữu Học và bậc Vô Học được gọi là bạn đồng hành của chư Phật theo một cách gián tiếp rằng— “Đức Thế Tôn ấy đã có được bạn đồng hành là lối thực hành của bậc Hữu Học và lối thực hành của bậc Vô Học. Không người sánh bằng: Tự ngã được gọi là hình mẫu so sánh, được gọi là không người sánh bằng vì không có hình mẫu nào khác có thể giống như tự ngã của Ngài. Mặt khác, đối với bất kỳ hình mẫu nào được con người tạo ra hoàn toàn bằng vàng, bạc, v.v., trong số những hình mẫu so sánh đó thì không ai có thể tạo ra cơ hội dù một chi tiết nhỏ như đầu sợi lông giống như tự ngã của Như Lai. Vì lý do đó, nên mới gọi là không người sánh bằng về mọi mặt.

Appaṭisamoti attabhāvenevassa paṭisamo nāma koci natthīti appaṭisamo. Appaṭibhāgoti ye tathāgatena ‘‘cattāro satipaṭṭhānā’’tiādinā nayena dhammā desitā, tesu ‘‘na cattāro satipaṭṭhānā, tayo vā pañca vā’’tiādinā nayena paṭibhāgaṃ kātuṃ samattho nāma natthīti appaṭibhāgo. Appaṭipuggaloti añño koci ‘‘ahaṃ buddho’’ti evaṃ paṭiññaṃ kātuṃ samattho puggalo natthīti appaṭipuggalo. Asamoti appaṭipuggalattāva sabbasattehi asamo. Asamasamoti asamā vuccanti atītānāgatā sabbaññubuddhā, tehi asamehi samoti asamasamo.

Không người tương đương: Ngài được gọi là không có người tương đương vì không có ai có thể được gọi là người tương đương với tự ngã của Như Lai ấy. Không người đối xứng: được gọi là không người đối xứng vì đối với những Pháp nào mà Như Lai đã tuyên thuyết theo phương thức sau— “bốn sự thiết lập niệm, v.v,” không ai có thể làm tương tự những Pháp đó theo phương thức sau: “Sự thiết lập niệm không phải là bốn, mà sự thiết lập niệm là ba hoặc năm.” Không người đối thủ: Ngài được gọi là không người đối thủ vì không có bất kỳ cá nhân nào khác có thể tuyên bố như vầy rằng: “Tôi là Phật.” Không người sánh bằng: Bậc không sánh bằng với tất cả chúng sanh bởi vì không người đối thủ. Bậc sánh bằng những vị không thể sánh bằng: chư Phật Toàn Giác trong quá khứ và vị lai được gọi là không người sánh bằng, bậc sánh bằng với các vị không sánh bằng ấy, (đó đó), Ngài được gọi là Bậc sánh bằng những vị không thể sánh bằng.

Dvipadānaṃ aggoti sammāsambuddho apadānaṃ dvipadānaṃ catuppadānaṃ bahuppadānaṃ rūpīnaṃ arūpīnaṃ saññīnaṃ asaññīnaṃ nevasaññīnāsaññīnaṃ sattānaṃ aggova. Kasmā idha dvipadānaṃ aggoti vutto? Seṭṭhataravasena. Imasmiñhi loke seṭṭho nāma uppajjamāno apadacatuppadabahuppadesu na uppajjati, dvipadesuyeva uppajjati. Kataradvipadvesūti? Manussesu ceva devesu ca. Manussesu uppajjamāno tisahassimahāsahassilokadhātuṃ vase vattetuṃ samattho buddho hutvā uppajjati. Devesu uppajjamāno dasasahassilokadhātuṃ vasavattī mahābrahmā hutvā uppajjati. So tassa kappiyakārako vā ārāmiko vā sampajjati. Iti tatopi seṭṭhataravasenesa dvipadānaṃ aggoti vutto.

Trong số các loài hai chân đức Như Lai là hạng nhất: Bậc Chánh đẳng Chánh giác là tối cao (hạng nhất) của các loài chúng sanh– không chân, hai chân, bốn chân, nhiều chân, chúng sanh hữu sắc, vô sắc, chúng sanh hữu tưởng, vô tưởng, chúng sanh phi tưởng phi phi tưởng. Vì sao ở đây, Ngài nói rằng: “Trong số các loài hai chân (đức Như Lai) là hạng nhất?” Do bởi sự vượt trội hơn của Ngài. Thật vậy, là bậc tối thượng khi xuất hiện ở thế gian này, (Ngài) không xuất hiện trong loài không chân, bốn chân hay nhiều chân, mà chỉ xuất hiện trong loài hai chân. Trong loài hai chân thuộc loại nào? Đó là loài người và chư Thiên. Khi xuất hiện ở tập thể loài người, thì xuất hiện là Đức Phật có khả năng làm cho ba ngàn thế giới và nhiều ngàn thế giới nằm dưới quyền lực của Ngài. Khi xuất hiện ở tập thể chư Thiên, thì xuất hiện là vị Đại Phạm Thiên có khả năng làm cho mười ngàn thế giới nằm dưới quyền lực của Ngài. Vị Đại Phạm Thiên đó sẵn sàng là người làm thành được phép hoặc người phụ việc chùa cho Ngài. Do đó, Ngài được gọi là bậc tối cao của các loài hai chân do bởi sự vượt trội hơn cả loài người và cả chư Thiên đó.

175-186. Chaṭṭhādīsu ekapuggalassa, bhikkhave, pātubhāvā mahato cakkhussa pātubhāvo hotīti, bhikkhave, ekapuggalassa tathāgatassa arahato sammāsambuddhassa pātubhāvena mahantassa cakkhussa pātubhāvo hoti. Tasmiṃ puggale pātubhūte taṃ pātubhūtameva hoti, na vinā tassa pātubhāvena pātubhavati. Pātubhāvoti uppatti nipphatti. Katamassa cakkhussāti? Paññācakkhussa. Kīvarūpassāti? Sāriputtattherassa vipassanāpaññāsadisassa mahāmoggallānattherassa samādhipaññāsadisassāti. Ālokādīsupi eseva nayo. Ubhinnaṃ aggasāvakānaṃ paññāālokasadisoyeva hi ettha āloko, paññāobhāsasadisoyeva obhāso adhippeto. ‘‘Mahato cakkhussa, mahato ālokassa, mahato obhāsassā’’ti imāni ca pana tīṇipi lokiyalokuttaramissakāni kathitānīti veditabbāni.

175-186. Trong bài Kinh thứ sáu, “Này các Tỳ-khưu, sự xuất hiện của một cá nhân, là có sự xuất hiện của mắt lớn, v.v,” Này chư Tỳ-khưu, là có sự xuất hiện của mắt lớn bởi sự xuất hiện của một cá nhân là đức Như Lai, bậc A-ra-hán, Chánh đẳng Chánh giác. Khi cá nhân ấy xuất hiện thì mắt cũng xuất hiện tương tự, bởi vì nếu không có sự xuất hiện của cá nhân đó, thì con mắt cũng không thể xuất hiện. Có sự xuất hiện: sự sanh khởi, sự thành tựu. Con mắt loại nào? là của con mắt trí tuệ (Tuệ Nhãn). Tương tự như thế nào? Tương tự như Tuệ Minh sát của Trưởng lão Sārīputta, và Tuệ Thiền Định của Trưởng lão Mahāmoggallāna. Luôn cả trong ‘ánh sáng, v.v,’ cũng áp dụng cách thức tương tự. Thật vậy, ở đây ‘ánh sáng, v.v,’ (Ngài) có ý muốn nói đến ánh sáng chẳng hạn như ánh sáng của tuệ và hào quang chẳng hạn như hào quang của tuệ của hai vị Thinh Văn hàng đầu. Và hơn nữa, cả ba từ này nên được hiểu rằng— được Ngài nói trộn lẫn cả Hiệp Thế và Siêu Thế.

Channaṃ anuttariyānanti uttaritaravirahitānaṃ channaṃ uttamadhammānaṃ. Tattha dassanānuttariyaṃ, savanānuttariyaṃ, lābhānuttariyaṃ, sikkhānuttariyaṃ, pāricariyānuttariyaṃ, anussatānuttariyanti imāni cha anuttariyāni. Imesaṃ pātubhāvo hotīti attho. Āyasmā hi ānandatthero sāyaṃpātaṃ tathāgataṃ cakkhuviññāṇena daṭṭhuṃ labhati, idaṃ dassanānuttariyaṃ. Aññopi sotāpanno vā sakadāgāmī vā anāgāmī vā ānandatthero viya tathāgataṃ dassanāya labhati, idampi dassanānuttariyaṃ. Aparo pana puthujjanakalyāṇako ānandatthero viya dasabalaṃ dassanāya labhitvā taṃ dassanaṃ vaḍḍhetvā sotāpattimaggaṃ pāpeti. Idaṃ dassanameva nāma, mūladassanaṃ pana dassanānuttariyaṃ nāma.

Là sự xuất hiện của sáu vô thượng: Sáu Pháp vô thượng mà không có Pháp nào khác vượt lên trên (Pháp ấy). Ở đấy, Sáu Pháp vô thượng này là—

(1) Vô thượng trong các việc thấy,
          (2) Vô thượng trong các việc nghe,
          (3) Vô thượng trong các thứ đạt được,
          (4) Vô thượng trong các việc học tập,
          (5) Vô thượng trong các việc phục vụ, (và)
          (6) Vô thượng trong các việc tùy niệm.

Sự xuất hiện của sáu vô thượng này là ý nghĩa. Thật vậy, Trưởng lão Ānanda được thấy đức Như Lai bằng nhãn thức cả ngày lẫn đêm. Điều này được gọi là vô thượng trong các việc thấy. Ngay cả những vị khác, dù là bậc Thánh Nhập Lưu, bậc Thánh Nhất Lai hay bậc Thánh Bất Lai, cũng thấy đức Như Lai như Trưởng Lão Ānanda. Cả điều này cũng được gọi là vô thượng trong các việc thấy. Hơn nữa, cá nhân khác là phàm phu thiện lành cũng được thấy đấng Thập Lực như Trưởng lão Ānanda, làm cho sự thấy đó tăng trưởng và đã đạt được quả vị Nhập Lưu Đạo. Điều này chỉ được gọi là việc thấy, Còn việc thấy ban đầu đó được gọi là vô thượng trong các việc thấy.

Ānandattheroyeva ca abhikkhaṇaṃ dasabalassa vacanaṃ sotaviññāṇena sotuṃ labhati, idaṃ savanānuttariyaṃ. Aññepi sotāpannādayo ānandatthero viya tathāgatassa vacanaṃ savanāya labhanti, idampi savanānuttariyaṃ. Aparo pana puthujjanakalyāṇako ānandatthero viya tathāgatassa vacanaṃ sotuṃ labhitvā taṃ savanaṃ vaḍḍhetvā sotāpattimaggaṃ pāpeti. Idaṃ savanameva nāma, mūlasavanaṃ pana savanānuttariyaṃ nāma.

Và một người thường xuyên lắng nghe lời dạy của đấng Thập Lực bằng nhĩ thức giống như Trưởng lão Ānanda, điều này được gọi là vô thượng trong các việc nghe. Ngay cả các bậc Thánh nhân khác, như vị Nhập Lưu, v.v., cũng nghe lời dạy của Đức Như Lai giống như Trưởng Lão Ānanda, cả điều này cũng được gọi là vô thượng trong các việc nghe. Tuy nhiên, hạng người khác là phàm phu thiện lành nghe lời dạy của đức Như Lai giống như Trưởng lão Ānanda, làm cho sự nghe đó tăng trưởng và đã đạt đươc quả vị  Nhập Lưu Đạo. Điều này chỉ được gọi là việc nghe. Còn việc nghe ban đầu đó được gọi là vô thượng trong các việc nghe.

Ānandattheroyeva ca dasabale saddhaṃ paṭilabhati, idaṃ lābhānuttariyaṃ. Aññepi sotāpannādayo ānandatthero viya dasabale saddhāpaṭilābhaṃ labhanti, idampi lābhānuttariyaṃ. Aparo pana puthujjanakalyāṇako ānandatthero viya dasabale saddhāpaṭilābhaṃ labhitvā taṃ lābhaṃ vaḍḍhetvā sotāpattimaggaṃ pāpeti, ayaṃ lābhoyeva nāma, mūlalābho pana lābhānuttariyaṃ nāma.

Và hạng người đạt được đức tin đối với đấng Thập Lực giống như Trưởng lão Ānanda. Điều này được gọi là vô thượng trong các thứ đạt được. Ngay cả những vị khác, như vị Nhập Lưu, v.v., đạt được lợi đắc là đức tin đối với đấng Thập Lực giống như Trưởng lão Ānanda, cả điều này cũng được gọi là vô thượng trong các thứ đạt được. Tuy nhiên, hạng người khác là phàm phu thiện lành đạt được lợi đắc là đức tin đối với đấng Thập Lực giống như Trưởng lão Ānanda, làm cho lợi đắc đó tăng trưởng và đã đạt được quả vị Nhập Lưu Đạo, điều này chỉ được gọi là sự đạt được. Còn sự đạt được ban đầu đó được gọi là vô thượng trong các thứ đạt được.

Ānandattheroyeva ca dasabalassa sāsane tisso sikkhā sikkhati, idaṃ sikkhānuttariyaṃ. Aññepi sotāpannādayo ānandatthero viya dasabalassa sāsane tisso sikkhā sikkhanti, idampi sikkhānuttariyaṃ. Aparo pana puthujjanakalyāṇako ānandatthero viya dasabalassa sāsane tisso sikkhā sikkhitvā tā sikkhā vaḍḍhetvā sotāpattimaggaṃ pāpeti. Ayaṃ sikkhāyeva nāma, mūlasikkhā pana sikkhānuttariyaṃ nāma.

Và hạng người học tập ba điều học trong Giáo Pháp của đấng Thập Lực giống như Trưởng lão Ānanda, điều này được gọi là vô thượng trong các việc học tập. Ngay cả các bậc Thánh nhân khác, như vị Nhập Lưu v.v., cũng học tập ba điều học trong Giáo Pháp của đấng Thập Lực giống như Trưởng lão Ānanda, cả điều này cũng được gọi là vô thượng trong các việc học tập. Tuy nhiên, hạng người khác là phàm phu thiện lành học tập ba điều học trong Giáo Pháp của đấng Thập Lực giống như Trưởng Lão Ānanda, phát triển ba điều học đó và đã đạt được quả vị Tu-đà-hoàn Đạo. Điều này chỉ được gọi là việc học tập. Còn sự học tập ban đầu đó được gọi là vô thượng trong các việc học tập.

Ānandattheroyeva ca abhiṇhaṃ dasabalaṃ paricarati, idaṃ pāricariyānuttariyaṃ. Aññepi sotāpannādayo ānandatthero viya abhiṇhaṃ dasabalaṃ paricaranti, idampi pāricariyānuttariyaṃ. Aparo pana puthujjanakalyāṇako ānandatthero viya dasabalaṃ paricaritvā taṃ pāricariyaṃ vaḍḍhetvā sotāpattimaggaṃ pāpeti, ayaṃ pāricariyāyeva nāma, mūlapāricariyā pana pāricariyānuttariyaṃ nāma.

Và hạng người thường xuyên phục vụ (hầu hạ) đấng Thập Lực giống như Trưởng lão Ānanda, điều này được gọi là vô thượng trong các việc phục vụ. Ngay cả các bậc Thánh nhân khác, như vị Nhập Lưu v.v., cũng thường xuyên phục vụ đức Thập Lực, cả điều này cũng được gọi là vô thượng trong các việc phục vụ. Tuy nhiên, hạng người khác là phàm phu thiện lành phục vụ đấng Thập Lực giống như Trưởng lão Ānanda, phát triển việc phục vụ đó và đã đạt được quả vị Nhập Lưu Đạo, điều này chỉ được gọi là việc phục vụ, còn việc phục vụ ban đầu đó được gọi là vô thượng trong các việc phục vụ.

Ānandattheroyeva ca dasabalassa lokiyalokuttare guṇe anussarati, idaṃ anussatānuttariyaṃ. Aññepi sotāpannādayo ānandatthero viya dasabalassa lokiyalokuttare guṇe anussaranti, idampi anussatānuttariyaṃ. Aparo pana puthujjanakalyāṇako ānandatthero viya dasabalassa lokiyalokuttare guṇe anussaritvā taṃ anussatiṃ vaḍḍhetvā sotāpattimaggaṃ pāpeti, ayaṃ anussatiyeva nāma, mūlānussati pana anussatānuttariyaṃ nāma. Imāni cha anuttariyāni, imesaṃ pātubhāvo hoti. Imāni ca pana cha anuttariyāni lokiyalokuttaramissakāni kathitānīti veditabbāni.

Và hạng người thường xuyên tùy niệm đến các ân đức thuộc Hiệp Thế và Siêu Thế của đấng Thập Lực giống như Trưởng lão Ānanda, điều này được gọi là vô thượng trong các việc tùy niệm. Ngay cả các bậc Thánh nhân khác, như vị Nhập Lưu, v.v., cũng thường xuyên tùy niệm đến các ân đức thuộc Hiệp Thế và Siêu Thế của đấng Thập Lực giống như Trưởng lão Ānanda, điều này được gọi là vô thượng trong các việc tùy niệm. Tuy nhiên, hạng người khác là phàm phu thiện lành thường xuyên tùy niệm đến các ân đức thuộc Hiệp Thế và Siêu Thế của đấng Thập Lực giống như Trưởng lão Ānanda, liên tục phát triển tùy niệm đó và đã đạt được quả vị Nhập Lưu Đạo. Điều này chỉ được gọi là việc tùy niệm. Còn việc tùy niệm ban đầu đó được gọi là vô thượng trong các việc tùy niệm. Như đã giải thích là sáu vô thượng, sáu vô thượng này là có sự xuất hiện. Và hơn nữa, sáu vô thượng này nên được hiểu rằng được Ngài nói trộn lẫn cả Hiệp Thế và Siêu Thế.

Catunnaṃ paṭisambhidānaṃ sacchikiriyā hotīti catasso hi paṭisambhidāyo atthapaṭisambhidā, dhammapaṭisambhidā, niruttipaṭisambhidā, paṭibhānapaṭisambhidāti. Tattha atthesu ñāṇaṃ atthapaṭisambhidā, dhammesu ñāṇaṃ dhammapaṭisambhidā, atthadhammaniruttābhilāpe ñāṇaṃ niruttipaṭisambhidā , ñāṇesu ñāṇaṃ paṭibhānapaṭisambhidā. Ayamettha saṅkhepo, vitthāro panetāsaṃ abhidhamme (vibha. 718 ādayo) āgatoyeva. Imāsaṃ catassannaṃ paṭisambhidānaṃ buddhuppāde paccakkhakiriyā hoti, na vinā buddhuppādā. Etāsaṃ sacchikiriyāti attho. Imāpi lokiyalokuttarāva kathitāti veditabbā.

Là sự chứng ngộ về bốn tuệ phân tích: Thật vậy, bốn tuệ phân tích là—

(1) Sự phân tích về ý nghĩa,
(2) sự phân tích về pháp,
(3) sự phân tích về ngôn từ,
(4) sự phân tích về phép biện giải.

Trong số bốn sự phân tích ấy, trí về các ý nghĩa gọi là sự phân tích về ý nghĩa, trí về các pháp gọi là sự phân tích về pháp, trí về sự diễn đạt ngôn từ về ý nghĩa và pháp gọi là sự phân tích về ngôn từ, trí ở các sự nhận biết gọi là sự phân tích về phép biện giải. Ở đây điều này là phần tóm tắt, còn sự giải thích chi tiết của các sự phân tích ấy đã được đề cập trong Tạng Vi Diệu Pháp. (vibha. 718 ādayo); Giải thích rằng: Việc thực hiện làm cho thấy rõ cả bốn ‘sự phân tích’ này chỉ có vào thời kỳ đức Phật hiện khởi, ngoài thời kỳ đức Phật hiện khởi thì không có. Có sự chứng ngộ các sự phân tích đó là ý nghĩa. Các sự phân tích này nên được hiểu rằng được Ngài nói bao gồm cả Hiệp Thế và Siêu Thế.

Anekadhātupaṭivedhoti ‘‘cakkhudhātu rūpadhātū’’tiādīnaṃ aṭṭhārasannaṃ dhātūnaṃ buddhuppādeyeva paṭivedho hoti, na vinā buddhuppādenāti attho. Nānādhātupaṭivedhoti ettha imāva aṭṭhārasa dhātuyo nānāsabhāvato nānādhātuyoti veditabbā. Yo panetāsaṃ ‘‘nānāsabhāvā etā’’ti evaṃ nānākaraṇato paṭivedho, ayaṃ nānādhātupaṭivedho nāma. Vijjāvimuttiphalasacchikiriyāti ettha vijjāti phale ñāṇaṃ, vimuttīti tadavasesā phalasampayuttā dhammā. Sotāpattiphalasacchikiriyāti sototi paṭhamamaggo, tena sotena pattabbaṃ phalanti sotāpattiphalaṃ. Sakadāgāmiphalādīni pākaṭāneva.

Có sự thấu triệt vô số giới (dhātu, bản chất): Có nghĩa là— có sự thấu triệt mười tám giới như sau: “nhãn giới, sắc giới, v.v,” chỉ có vào thời kỳ đức Phật hiện khởi, ngoài thời kỳ đức Phật hiện khởi thì không có. Có sự thấu triệt các giới sai biệt: Ở đây, sự thấu triệt các giới sai biệt có mười tám giới này nên được hiểu rằng— các giới sai biệt bởi vì có bản chất khác biệt. Hơn nữa, trong trường hợp thì sự thấu triệt nào ở các giới ấy với những nguyên nhân sai khác như vầy rằng: “Các giới này có bản chất khác biệt,” đây gọi là có sự thấu triệt các giới sai biệt. Có sự chứng ngộ quả là minh và sự giải thoát— Ở đây, Minh bao gồm trí về Quả; sự giải thoát bao gồm các Pháp tương ưng với Quả (Nhập Lưu Quả), ngoại trừ ‘minh’ ấy. Có sự chứng ngộ Nhập Lưu Quả— Sơ Đạo được gọi là dòng chảy. Được gọi là Nhập Lưu Quả bởi vì kết quả mà cá nhân cần phải đạt được với dòng chảy ấy. Nhất Lai Quả, v.v, đã rõ ràng rồi.

187. Anuttaranti niruttaraṃ. Dhammacakkanti seṭṭhacakkaṃ. Cakkasaddo hesa –

‘‘Catubbhi aṭṭhajjhagamā, aṭṭhāhipi ca soḷasa;
Soḷasāhi ca bāttiṃsa, atricchaṃ cakkamāsado;
Icchāhatassa posassa, cakkaṃ bhamati matthake’’ti. (jā. 1.1.104; 1.5.103) –

Ettha uracakke āgato.

Vô thượng: Cao quý. Bánh xe Pháp bảo: bánh xe cao quý. Thật vậy, từ ‘bánh xe’ này được đề cập với ý nghĩa ‘bánh xe sắt để trên ngực đặng tra khảo’ trong kệ ngôn này—

Với bốn, gã đã đi đến tám, và với tám rồi mười sáu, và với mười sáu rồi ba mươi hai, trong khi ước muốn quá lố, gã nhận lấy bánh xe. Bánh xe quay tròn ở trên đầu của kẻ bị hành hạ bởi ước muốn. (jā. 1.1.104; 1.5.103) —

‘‘Cakkasamāruḷhā jānapadā pariyāyantī’’ti (a. ni. 3.63; 5.54) ettha iriyāpathacakke. ‘‘Atha kho so, bhikkhave, rathakāro yaṃ taṃ cakkaṃ chahi māsehi niṭṭhitaṃ, taṃ pavattesī’’ti (a. ni. 3.15) ettha dārucakke. ‘‘Addasā kho doṇo brāhmaṇo bhagavato pādesu cakkāni sahassārānī’’ti (a. ni. 4.36) ettha lakkhaṇacakke. ‘‘Cattārimāni, bhikkhave, cakkāni, yehi samannāgatānaṃ devamanussānaṃ catucakkaṃ vattatī’’ti (a. ni. 4.31) ettha sampatticakke. ‘‘Dibbaṃ cakkaratanaṃ pātubhavatī’’ti (dī. ni. 2.243; ma. ni. 3.256) ettha ratanacakke. Idha pana dhammacakke āgato.

Ở đây, (trong ý nghĩa) bánh xe là các oai nghi— “dân bản xứ thay đổi oai nghi bước đi xung quanh.” (a. ni. 3.63; 5.54); Ở đây, (trong ý nghĩa) bánh xe gỗ— “Này các Tỳ-khưu, khi ấy, người thợ đóng xe đã quay bánh xe gỗ được hoàn thành với thời gian sáu tháng.” (a. ni. 3.15); Ở đây, (trong ý nghĩa) bánh xe tướng trạng— “Bà-la-môn Doṇa đã nhìn thấy tướng trạng bánh xe có ngàn nan hoa xuất hiện dưới lòng bàn chân của đức Thế Tôn.” (a. ni. 4.36); Ở đây, (trong ý nghĩa) bánh xe là sự thành tựu— “Này các Tỳ-khưu, có bốn thành tựu này được luân chuyển giữa chư Thiên và loài Người, những người có được những thành tựu nào, thì những sự thành tựu này có bốn.” Ở đây, (trong ý nghĩa) bánh xe báu— “Bánh xe báu thuộc cõi Trời đang hiện ra.” (dī. ni. 2.243; ma. ni. 3.256); Nhưng trong trường hợp này, được đề cập với ý nghĩa là ‘bánh xe Pháp.’

Pavattitanti ettha dhammacakkaṃ abhinīharati nāma, abhinīhaṭaṃ nāma, uppādeti nāma, uppāditaṃ nāma, pavatteti nāma, pavattitaṃ nāmāti ayaṃ pabhedo veditabbo. Kuto paṭṭhāya dhammacakkaṃ abhinīharati nāmāti? Yadā sumedhabrāhmaṇo hutvā kāmesu ādīnavaṃ nekkhamme ca ānisaṃsaṃ disvā sattasatakamahādānaṃ datvā isipabbajjaṃ pabbajitvā pañca abhiññā aṭṭha samāpattiyo nibbatteti, tato paṭṭhāya dhammacakkaṃ abhinīharati nāma.

Chuyển vận (bánh xe Pháp): Ở đây, nên được hiểu theo thứ tự này rằng— gọi là đang mong mỏi về bánh xe pháp, gọi là đã mong mỏi, gọi là đang làm cho sanh khởi, gọi là đã làm cho sanh khởi, gọi là đang chuyển vận, gọi là đã chuyển vận. Gọi là đang mong mỏi bánh xe Pháp bắt đầu từ khi nào? Kể từ khi Ngài còn là Bà-la-môn Sumedha, sau khi nhìn thấy sự nguy hiểm trong các loại dục và lợi ích của việc xuất ly, Ngài đã ban phát bảy cuộc bố thí lớn (bảy) loại mỗi loại bảy trăm rồi xuất gia theo đời sống xuất gia của vị ẩn sĩ, làm sanh khởi năm thần thông và tám thiền chứng. Kể từ đó trở đi, Ngài được gọi là đang mong mỏi (chuyển vận) bánh xe Pháp.

Kuto paṭṭhāya abhinīhaṭaṃ nāmāti? Yadā aṭṭha dhamme samodhānetvā dīpaṅkarapādamūle mahābodhimaṇḍatthāya mānasaṃ bandhitvā ‘‘byākaraṇaṃ aladdhā na vuṭṭhahissāmī’’ti vīriyādhiṭṭhānaṃ adhiṭṭhāya nipanno dasabalassa santikā byākaraṇaṃ labhi, tato paṭṭhāya dhammacakkaṃ abhinīhaṭaṃ nāma.

Được gọi là đã mong mỏi kể từ khi nào? Khi nào, Ngài thu thập tám Pháp, và đã buộc chặt tâm ý vì lợi ích đối với việc làm cho trí về sự giác ngộ vĩ đại được trong sáng dưới đôi bàn chân của đức Phật Dīpaṅkara, sự quyết định tinh tấn rằng: “Nếu Ta không được thọ ký, Ta sẽ không đứng dậy.” Và rồi, sau khi nằm xuống, (Ngài) đã nhận được lời thọ ký trong sự hiện diện của đấng Thập Lực; kể từ đó trở đi, Giáo Pháp được gọi là đã mong mỏi (chuyển vận) bánh xe Pháp.

Kuto paṭṭhāya uppādeti nāmāti? Tato paṭṭhāya dānapāramiṃ pūrentopi dhammacakkaṃ uppādeti nāma. Sīlapāramiṃ pūrentopi…pe… upekkhāpāramiṃ pūrentopi dhammacakkaṃ uppādeti nāma. Dasa pāramiyo dasa upapāramiyo dasa paramatthapāramiyo pūrentopi, pañca mahāpariccāge pariccajantopi, ñātatthacariyaṃ pūrentopi dhammacakkaṃ uppādeti nāma. Vessantarattabhāve ṭhatvā sattasatakamahādānaṃ datvā puttadāraṃ dānamukhe niyyātetvā pāramikūṭaṃ gahetvā tusitapure nibbattitvā tattha yāvatāyukaṃ ṭhatvā devatāhi āyācito paṭiññaṃ datvā pañcamahāvilokanaṃ vilokentopi dhammacakkaṃ uppādetiyeva nāma.

Được gọi là đang làm cho sanh khởi bánh xe Pháp từ khi nào? Kể từ khi Ngài làm tròn đủ bố thí Ba-la-mật, v.v, được gọi là đang làm sanh khởi bánh xe Pháp. Khi làm tròn đủ giới Ba-la-mật –nt– kể cả khi làm tròn đủ hành xả Ba-la-mật cũng được gọi là đang làm sanh khởi bánh xe Pháp. Ngay cả khi làm tròn đủ mười pháp Ba-la-mật bậc hạ, mười pháp Ba-la-mật bậc trung, mười pháp Ba-la-mật bậc thượng, trong khi (thực hành) xả thí năm pháp đại, trong khi thực hành lợi ích cho thân bằng quyến thuộc, cũng được gọi là đang làm sanh khởi bánh xe Pháp. Sau khi an trú vào bản thể Đại Vương Vessantara đã ban phát bảy cuộc bố thí lớn (bảy) loại mỗi loại bảy trăm, đã dâng hiến vợ và các con lấy việc bố thí làm đầu, sau khi nắm lấy đỉnh cao Ba-la-mật, (Ngài) đã hóa sanh vào cung trời Đâu Suất, và đã an trú ở tại nơi đó cho đến hết tuổi thọ. Sau khi chư Thiên thỉnh cầu, (Ngài) đã ban lời chấp thuận, trong khi xem xét năm điều kiện quan trọng, cũng được gọi là đang làm sanh khởi bánh xe Pháp.

Mātukucchiyaṃ paṭisandhiṃ gaṇhantopi, paṭisandhikkhaṇe dasasahassacakkavāḷaṃ kampentopi, mātukucchito nikkhantadivase tatheva lokaṃ kampentopi, sampatijāto satta padāni gantvā ‘‘aggomahasmī’’ti sīhanādaṃ nadantopi, ekūnatiṃsa saṃvaccharāni agāramajjhe vasantopi, mahābhinikkhamanaṃ nikkhamantopi, anomānadītīre pabbajantopi, mahāpadhāne chabbassāni vīriyaṃ karontopi, sujātāya dinnaṃ madhupāyāsaṃ bhuñjitvā suvaṇṇapātiṃ nadiyā pavāhetvā sāyanhasamaye bodhimaṇḍavaragato puratthimaṃ lokadhātuṃ olokento nisīditvā sūriye dharamāneyeva mārabalaṃ vidhametvā paṭhamayāme pubbenivāsaṃ anussarantopi, majjhimayāme dibbacakkhuṃ visodhentopi, paccūsakālasamanantare paccayākāraṃ sammasitvā sotāpattimaggaṃ paṭivijjhantopi, sotāpattiphalaṃ sacchikarontopi, sakadāgāmimaggaṃ sakadāgāmiphalaṃ anāgāmimaggaṃ anāgāmiphalaṃ sacchikarontopi, arahattamaggaṃ paṭivijjhantopi dhammacakkaṃ uppādetiyeva nāma.

Trong khi giáng sanh vào bụng người mẹ, trong khi làm cho mười ngàn thế giới rúng động ở sát-na tục sanh, trong khi làm cho thế giới rúng động tương tự như thế vào ngày đản sanh từ bụng mẹ, trong khi vừa sanh ra Ngài đã bước đi bảy bước, và rống lên tiếng rống sư tử “Ta là bậc tối cao của thế gian.” Trong khi Ngài sống đời sống gia đình suốt 29 năm, trong khi rời khỏi (Hoàng cung) thực hiện cuộc ra đi vĩ đại, trong khi xuất gia ở tại bờ sông Anomā, trong khi thực hiện sự nỗ lực lớn lao suốt sáu năm, trong khi thọ dụng món cơm sữa được nàng Sujāta dâng cúng, rồi thả bát vàng xuống sông và đi đến khuôn viên cội Bồ Đề vào buổi chiều. Sau khi an tọa, Ngài quán xét thế giới từ phương Đông và đã chế ngự được lực lượng của Ma Vương vào lúc mặt trời vẫn chưa lặn. Trong khi nhớ đến các kiếp sống ở quá khứ vào canh đầu; trong khi tịnh khiết Thiên Nhãn vào canh giữa, trong khi quán xét về lý duyên khởi vào thời gian kế liền sau đó lúc hừng sáng, rồi thấu triệt Nhập Lưu Đạo, tác chứng Nhập Lưu Quả, Ngài lần lượt tác chứng Nhất Lai Đạo, Nhất Lai Quả, Bất Lai Đạo, và Bất Lai Quả, luôn cả thấu triệt quả vị A-ra-hán Đạo cũng được gọi là đang làm sanh khởi bánh xe Pháp tương tự.

Arahattaphalakkhaṇe pana tena dhammacakkaṃ uppāditaṃ nāma. Buddhānañhi sakalalokiyalokuttaraguṇarāsi arahattaphaleneva saddhiṃ ijjhati. Tasmā tena tasmiṃ khaṇe dhammacakkaṃ uppāditaṃ nāma hoti.

Hơn nữa, bánh xe Pháp cũng được gọi là đang làm sanh khởi ở sát-na A-ra-hán Quả. Thật vậy, toàn bộ khối đức hạnh thuộc Hiệp Thế và Siêu Thế của chư Phật được thành tựu cùng với chính A-ra-hán Quả ấy. Do đó, bánh xe pháp được gọi là đang làm sanh khởi ở sát-na đó.

Kadā pavatteti nāma? Bodhimaṇḍe sattasattāhaṃ vītināmetvā isipatane migadāye aññākoṇḍaññattheraṃ kāyasakkhiṃ katvā dhammacakkappavattanasuttantaṃ desento dhammacakkaṃ pavatteti nāma.

Ngài chuyển vận bánh xe Pháp khi nào? Sau khi đã trải qua bảy tuần lễ tại khuôn viên cội Bồ Đề, đã thuyết giảng bài Kinh Vận Chuyển Bánh Xe Pháp và đã làm cho Trưởng lão Aññā Koṇḍañña trở thành bậc thân chứng tại Vườn Lộc Uyển Isipatane, được gọi là đang chuyển vận bánh xe pháp.

Yadā pana aññākoṇḍaññattherena dasabalassa desanāñāṇānubhāvanibbattaṃ savanaṃ labhitvā sabbapaṭhamaṃ dhammo adhigato, tato paṭṭhāya dhammacakkaṃ pavattitaṃ nāma hotīti veditabbaṃ. Dhammacakkanti cetaṃ desanāñāṇassapi nāmaṃ paṭivedhañāṇassapi. Tesu desanāñāṇaṃ lokiyaṃ, paṭivedhañāṇaṃ lokuttaraṃ. Kassa desanāpaṭivedhañāṇanti? Na aññassa kassaci, sammāsambuddhasseva desanāñāṇañca paṭivedhañāṇañcāti veditabbaṃ.

Hơn nữa, vào lúc nào Trưởng lão Aññā Koṇḍañña đạt được việc nghe được khởi lên nhờ oai lực của trí về thuyết giảng của đức Thập Lực và đã chứng đạt Pháp trước hết tất cả, kể từ thời điểm đó trở đi nên được biết rằng ‘bánh xe Pháp được gọi là đã được chuyển vận.” Và ‘bánh xe Pháp’ này là tên gọi của trí về thuyết giảng, hoặc của trí về sự thấu triệt. Trong số hai từ ấy, trí về thuyết giảng thuộc Hiệp Thế và Siêu Thế, còn trí về sự thấu triệt thuộc Siêu Thế. Trí về thuyết giảng (và)  trí về sự thấu triệt là của ai? Không phải của ai khác, nên hiểu rằng Trí về thuyết giảng (và) trí về sự thấu triệt chỉ là của đức Phật Toàn Giác mà thôi.

Sammadevāti hetunā nayena kāraṇeneva. Anuppavattetīti yathā purato gacchantassa pacchato gacchanto taṃ anugacchati nāma, evaṃ paṭhamataraṃ satthārā pavattitaṃ thero anuppavatteti nāma. Kathaṃ? Satthā hi ‘‘cattārome, bhikkhave, satipaṭṭhānā. Katame cattāro’’ti kathento dhammacakkaṃ pavatteti nāma, dhammasenāpati sāriputtattheropi ‘‘cattārome, āvuso, satipaṭṭhānā’’ti kathento dhammacakkaṃ anuppavatteti nāma. Sammappadhānādīsupi eseva nayo. Na kevalañca bodhipakkhiyadhammesu, ‘‘cattārimāni, bhikkhave, ariyasaccāni. Cattārome, bhikkhave, ariyavaṃsā’’tiādīsupi ayaṃ nayo netabbova. Evaṃ sammāsambuddho dhammacakkaṃ pavatteti nāma, thero dasabalena pavattitaṃ dhammacakkaṃ anuppavatteti nāma.

Chân chánh: Bằng nguyên nhân, bằng suy luận, (hoặc) chính bằng lý lẽ. Chuyển vận theo: Trưởng lão chuyển vận theo bánh xe Pháp đã được bậc Đạo Sư chuyển vận trước, giống như khi bậc Đạo Sư đang đi phía trước, Trưởng lão đi theo sau, được gọi là đi theo bậc Đạo Sư ấy. Chuyển vận theo như thế nào? Thât vậy, bậc Đạo Sư khi thuyết rằng: “Này các Tỳ-khưu, đây là bốn sự thiết lập niệm, thế nào là bốn?” được gọi là đang chuyển vận bánh xe Pháp. Ngay cả Trưởng lão Sāriputta, vị Tướng quân Chánh Pháp trong khi thuyết rằng: “Này các Đại đức, bốn sự thiết lập niệm này,” được gọi là chuyển vận theo bánh xe Pháp. Luôn cả (bốn) chánh cần cũng có cách thức tương tự. Và không chỉ riêng trong các Pháp Trợ Đạo, mà ngay cả trong các lời dạy như: “Này các Tỳ-khưu, bốn chân lý cao thượng này, bốn truyền thống của bậc Thánh này, v.v, cũng nên biết áp dụng cách thức này. Như vậy, bậc Chánh đẳng Chánh giác được gọi là chuyển vận bánh xe Pháp, Trưởng lão được gọi là chuyển vận theo bánh xe Pháp do đấng Thập Lực đã chuyển vận.

Evaṃ dhammacakkaṃ anuppavattentena pana therena dhammo desitopi pakāsitopi satthārāva desito pakāsito hoti. Yo hi koci bhikkhu vā bhikkhunī vā upāsako vā upāsikā vā devo vā sakko vā māro vā brahmā vā dhammaṃ desetu pakāsetu, sabbo so satthārā desito pakāsitova nāma hoti, sesajano pana lekhahārakapakkhe ṭhitova nāma hoti.

Hơn nữa, Giáo Pháp được Trưởng lão chuyển vận theo bánh xe Pháp như thế đã được chỉ bảo, hay đã được tuyên thuyết đều được gọi là do chính bậc Đạo Sư đã chỉ bảo và đã tuyên thuyết. Thật vậy, bất kỳ ai– dù là Tỳ-khưu, Tỳ-khưu-ni, cận sự nam, cận sự nữ, chư Thiên, vua trời Sakka, Ma Vương, hay Phạm Thiên – thuyết giảng Giáo Pháp, thì tất cả Giáo Pháp đó đều được gọi là do chính bậc Đạo Sư đã chỉ bảo và tuyên thuyết. Còn những người khác gọi là được thiết lập ở phía những người đi theo dấu chân.

Kathaṃ? Yathā hi raññā dinnaṃ paṇṇaṃ vācetvā yaṃ yaṃ kammaṃ karonti, taṃ taṃ kammaṃ yena kenaci katampi kāritampi raññā kāritanteva vuccati. Mahārājā viya hi sammāsambuddho. Rājapaṇṇaṃ viya tepiṭakaṃ buddhavacanaṃ. Paṇṇadānaṃ viya tepiṭake nayamukhadānaṃ paṇṇaṃ vācetvā taṃtaṃkammānaṃ karaṇaṃ viya catunnaṃ parisānaṃ attano balena buddhavacanaṃ uggaṇhitvā paresaṃ desanā pakāsanā. Tattha yathā paṇṇaṃ vācetvā yena kenaci katampi kāritampi taṃ kammaṃ raññā kāritameva hoti, evameva yena kenaci desitopi pakāsitopi dhammo satthārā desito pakāsitova nāma hotīti veditabbo. Sesaṃ sabbattha uttānatthamevāti.

Như thế nào? Cũng giống như những người sau khi đọc chiếu thư của nhà vua đã ban hành, rồi làm việc này, việc nọ; bất kỳ ai tự mình làm hay để người khác làm, thì đều được gọi là do nhà vua sai khiến làm. Thật vậy, bậc Chánh đẳng Chánh giác giống như Đại Vương. Phật ngôn là Tam Tạng giống như chiếu thư. Sự ban hành trực tiếp theo các cách thức trong Tam Tạng giống như việc nhà vua ban hành chiếu thư. Việc bốn hội chúng học tập Phật ngôn theo năng lực của bản thân rồi tuyên thuyết cho những người khác giống như việc đọc chiếu thư rồi làm việc. Trong số các Pháp ấy, bất kỳ Pháp nào được một ai đó chỉ bảo hay tuyên thuyết, thì nên biết rằng— (Pháp đó) được gọi là Pháp đã được bậc Đạo Sư chỉ bảo, và tuyên bố; Tương tự y như thế, bất cứ ai sau khi đọc chiếu thư rồi tự mình làm một công việc nào đó, hay để người khác làm, thì những việc đó đều được gọi là do nhà vua sai khiến làm. Các từ còn lại trong tất cả các đoạn đều có ý nghĩa dễ hiểu.

Giải Thích Phẩm Một Người được kết thúc

Phẩm thứ mười ba được kết thúc

[1] Bhavagga: sanh hữu tột cùng, cao tột sanh hữu (HT Tịnh Sự)