08. GIẢI THÍCH CHƯƠNG MỘT PHÁP (VIII – Giải Thích Phẩm Thiện Bạn Hữu)

Xem Tăng Chi Bộ Kinh – Chương 1 pháp – Phẩm 1-14 

(Kệ 71-80)

71. Aṭṭhamassa paṭhame kalyāṇamittatāti kalyāṇā mittā assāti kalyāṇamitto, tassa bhāvo kalyāṇamittatā. Sesaṃ vuttapaṭipakkhanayena veditabbaṃ.

Trong bài Kinh thứ nhất của phẩm thứ tám, Tư cách bạn lành: gọi là có bạn lành bởi vì có bạn tốt. Trạng thái đó gọi là tư cách bạn lành. Các từ còn lạinên được hiểu theo cách đối lập với những từ đã được trình bày (trước đó).

72-73. Dutiye anuyogoti yogo payogo. Ananuyogoti ayogo appayogo. Anuyogāti anuyogena. Ananuyogāti ananuyogena. Kusalānaṃ dhammānanti catubhūmakakusaladhammānaṃ. Tatiyaṃ uttānatthameva.

72-73. Trong bài Kinh thứ hai, sự gắn bó thường xuyên: sự liên hệ, sự liên hệ toàn bộ. Sự gắn bó không thường xuyên: sự không liên hệ, sự không liên hệ toàn bộ. Do sự gắn bó thường xuyên: do sự gắn bó thường xuyên. Do sự gắn bó không thường xuyên: Do sự không gắn bó thường xuyên. Các thiện pháp: các thiện pháp vận hành trong bốn cõi. Trong bài Kinh thứ ba này, có ý nghĩa dễ hiểu.

74. Catutthe bojjhaṅgāti bujjhanakasattassa aṅgabhūtā satta dhammā. Yāya vā dhammasāmaggiyā so bujjhati, sammohaniddāto vā vuṭṭhāti, catusaccadhammaṃ vā sacchikaroti. Tassā bodhiyā aṅgabhūtātipi bojjhaṅgā. ‘‘Bojjhaṅgāti kenaṭṭhena bojjhaṅgā? Bujjhantīti bojjhaṅgā, anubujjhantīti bojjhaṅgā, paṭibujjhantīti bojjhaṅgā, sambujjhantīti bojjhaṅgā, bodhāya saṃvattantīti bojjhaṅgā’’ti (paṭi. ma. 2.17). Evaṃ panetaṃ padaṃ vibhattameva.

Trong bài Kinh thứ tư, các giác chi (yếu tố giác ngộ): Bảy pháp là yếu tố cấu thành của chúng sanh giác ngộ. Hoặc, gọi là các giác chi bởi vì thuộc chi phần của sự hợp nhất các pháp đưa đến giác ngộ, làm nhân xuất khỏi luân hồi, hoặc tác chứng Tứ Thánh Đế của chúng sanh ấy. Bảy pháp là yếu tố giác ngộ của sự hợp nhất các pháp ấy là tuệ giác ngộ, cả lý do ấy bảy pháp đó cũng gọi là yếu tố giác ngộ. “Các giác chi: Các giác chi là với ý nghĩa gì? ‘Đưa đến giác ngộ’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ (Sơ Đạo)’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ (Nhị Đạo)’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ (Tam Đạo)’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ (Tứ Đạo)’ là các giác chi. (paṭi. ma. 2.17); Hơn nữa, cùm từ ‘các giác chi’ này đã được Ngài phân tích theo cách như vậy.

75. Pañcame bhāvanāpāripūriṃ gacchantīti iminā padena bojjhaṅgānaṃ yāthāvasarasabhūmi nāma kathitā. Sā panesā catubbidhā hoti – vipassanā, vipassanāpādakajjhānaṃ, maggo, phalanti. Tattha vipassanāya uppajjanakāle bojjhaṅgā kāmāvacarā honti, vipassanāpādakajjhānamhi uppajjanakāle rūpāvacaraarūpāvacarā, maggaphalesu uppajjanakāle lokuttarā. Iti imasmiṃ sutte bojjhaṅgā catubhūmakā kathitā.

Trong bài Kinh thứ năm, với câu này (các giác chi) được tu tập đi đến viên mãn: Ngài nói đến lãnh vực (Bhūmi) cùng với các phận sự (Kicca) theo bản chất thật của các giác chi. Hơn nữa, lãnh vực có bốn lãnh vực là Minh sát, thiền định làm nền tảng của Minh sát, Đạo và Quả. Trong số bốn lãnh vực ấy, vào lúc sanh khởi trong Minh sát thì các giác chi là Dục giới. Vào lúc sanh khởi trong thiền định làm nền tảng của Minh sát thì các giác chi là Sắc giới và Vô sắc giới. Vào lúc sanh khởi trong Đạo và Quả thì các giác chi là Siêu Thế. Như vậy, trong bài Kinh này Nài nói đến các giác chi là vận hành trong cả bốn lãnh vực (cõi).

Chaṭṭhassa aṭṭhuppattiko nikkhepo. Aṭṭhuppattiyaṃ hetaṃ nikkhittaṃ, sambahulā kira bhikkhū dhammasabhāyaṃ sannisinnā. Tesaṃ antare bandhulamallasenāpatiṃ ārabbha ayaṃ kathā udapādi, ‘‘āvuso, asukaṃ nāma kulaṃ pubbe bahuñātikaṃ ahosi bahupakkhaṃ, idāni appañātikaṃ appapakkhaṃ jāta’’nti. Atha bhagavā tesaṃ cittācāraṃ ñatvā ‘‘mayi gate mahatī desanā bhavissatī’’ti ñatvā gandhakuṭito nikkhamma dhammasabhāyaṃ paññattavarabuddhāsane nisīditvā ‘‘kāya nuttha, bhikkhave, etarahi kathāya sannisinnā’’ti āha. Bhagavā aññā gāmanigamādikathā natthi, asukaṃ nāma kulaṃ pubbe bahuñātikaṃ ahosi bahupakkhaṃ, idāni appañātikaṃ appapakkhaṃ jātanti vadantā nisinnamhāti. Satthā imissā aṭṭhuppattiyā appamattikā esā, bhikkhave, parihānīti idaṃ suttaṃ ārabhi.

Sơ lược về nhân sanh khởi của bài Kinh thứ sáu. Thật vậy, về nhân sanh khởi của bài Kinh Ngài đã thiết lập câu chuyện như sau— Nhiều vị Tỳ-khưu đang ngồi họp tại phòng hội về Giáo Pháp (Dhammasabhā), đã khởi lên cuộc bàn luận liên quan đến vị Tướng quan Bandhulamalla rằng: “Thưa các Hiền giả, gia tộc đó trước kia đã có rất nhiều bà con, nhiều đồng minh, nhưng bây giờ có ít bà con, ít đồng minh.” Sau đó, đức Thế Tôn thấu rõ tâm tư (hành vi tâm) của các vị Tỳ-khưu đó, và Ngài đã biết rằng “Trong khi đi đến (đó), Ta sẽ có một Pháp thoại lớn”. Vì vậy, Ngài đã rời khỏi Hương Thất, đến ngồi trên Phật tọa đã được sắp đặt sẵn trong phòng hội về Giáo Pháp, rồi nói rằng: “Này các Tỳ-khưu, hiện giờ các ông đang ngồi bàn luận về vấn đề gì?” Các Tỳ-khưu trả lời: “Bạch đức Thế Tôn, chúng con không bàn về những chuyện làng xã, thị trấn nào khác, mà là về gia tộc đó, trước kia có nhiều bà con, nhiều đồng minh, nhưng bây giờ có ít bà con, ít đồng minh. Chúng con đang ngồi bàn luận về điều đó.” Bậc Đạo Sư bắt đầu về nhân sanh khởi của bài Kinh này rằng: “Này các Tỳ-khưu, sự mất mát này chỉ là chuyện nhỏ nhoi.”

Tattha appamattikāti parittā parittappamāṇā. Etāya hi parihāniyā saggato vā maggato vā parihāni nāma natthi, diṭṭhadhammikaparihānimattameva etanti āha. Etaṃ patikiṭṭhanti etaṃ pacchimaṃ etaṃ lāmakaṃ. Yadidaṃ paññāparihānīti yā esā mama sāsane kammassakatapaññāya jhānapaññāya vipassanāpaññāya maggapaññāya phalapaññāya ca parihāni, esā pacchimā, esā lāmakā, esā chaḍḍanīyāti attho.

Ở đó, chỉ là chuyện nhỏ nhoi: it ỏi, có mức độ nhỏ. Thật vậy, bằng sự mất mát này (việc mất đi bà con, đồng mình), Ngài đã nói rằng: “Không có sự mất mát từ Thiên giới hay từ Đạo,” đó chỉ là sự mất mát ở hiện tại mà thôi. Cái này là khốn cùng: Đây là điều tồi tệ, đây là điều thấp kém. Sự mất mát trí tuệ này đây: sự mất mát trí tuệ về nghiệp của mình đã tạo, tuệ thiền định, tuệ Minh sát, tuệ về Đạo, tuệ về Quả trong Giáo Pháp của Ta là sự mất mát tồi tệ nhất, là sự mất mát thấp kém nhất, là sự mất mát đáng để từ bỏ.

77. Sattamampi aṭṭhuppattiyameva kathitaṃ. Dhammasabhāyaṃ kira nisinnesu bhikkhūsu ekacce evaṃ āhaṃsu – ‘‘asukaṃ nāma kulaṃ pubbe appañātikaṃ appapakkhaṃ ahosi, idāni taṃ bahuñātikaṃ bahupakkhaṃ jāta’’nti. Kaṃ sandhāya evamāhaṃsūti? Visākhaṃ upāsikaṃ vesālike ca licchavī. Satthā tesaṃ cittācāraṃ ñatvā purimanayeneva āgantvā dhammāsane nisinno ‘‘kāya nuttha, bhikkhave, etarahi kathāya sannisinnā’’ti pucchi. Te yathābhūtaṃ kathayiṃsu. Satthā imissā aṭṭhuppattiyā imaṃ suttaṃ ārabhi. Tattha appamattikāti taṃ sampattiṃ nissāya saggaṃ vā maggaṃ vā sampattānaṃ abhāvato parittā. Yadidaṃ paññāvuddhīti kammassakatapaññādīnaṃ vuddhi. Tasmāti yasmā ñātīnaṃ vuddhi nāma diṭṭhadhammikamattā appā parittā, sā saggaṃ vā maggaṃ vā pāpetuṃ asamatthā, tasmā. Paññāvuddhiyāti kammassakatādipaññāya vuddhiyā.

Bài Kinh thứ bảy, Ngài cũng đã nói về nhân sanh khởi của bài Kinh tương tự. Được biết rằng, giữa Hội chúng Tỳ-khưu đang ngồi hội họp tại phòng hội về Giáo Pháp, một số vị Tỳ-khưu bàn luận rằng: “Gia tộc đó trước kia có ít bà con, ít đồng minh, nhưng bây giờ gia tộc đó lại có nhiều bà con, nhiều đồng minh. Ý của họ muốn đề cập về gia tộc đó, nên mới nói như thế. Tức là họ đang ám chỉ đến nữ cư sĩ Visākhā và tộc Licchavī trong thành Vesālī. Bậc Đạo Sư biết rõ tâm tư của các vị Tỳ-khưu đó, nên Ngài đã đi đến theo cách trước đó, sau khi ngồi trên Pháp tòa, Ngài đã hỏi rằng: “Này các Tỳ-khưu, các ông đang ngồi bàn luận về vấn đề gì?” – Các vị Tỳ-khưu thuật lại theo đúng sự thật. Bậc Đạo Sư đã bắt đầu bài Kinh này vì duyên sự của vấn đề này. Ở đấy, chỉ là chuyện nhỏ nhoi: gọi là ít ỏi, bởi vì không có ai ý cứ vào sự thành tựu đó (mà) đạt đến cõi Trời hay Đạo (Quả). Sự phát triển trí tuệ này đây: sự tăng trưởng trí tuệ về nghiệp của mình đã tạo, v.v. Vì lý do đó: Bởi vì sự tăng trưởng về bà con (gia tộc) chỉ là ở hiện tại và là chuyện nhỏ nhoi, không có khả năng làm cho đạt đến cõi Trời hay Đạo (Quả). Với sự phát triển trí tuệ: với sự tăng trưởng trí tuệ có trí về nghiệp của mình đã tạo.

Aṭṭhamampi aṭṭhuppattiyameva kathitaṃ. Sambahulā kira bhikkhū dhammasabhāyaṃ sannisinnā mahādhanaseṭṭhiputtaṃ ārabbha ‘‘asukaṃ nāma kulaṃ pubbe mahābhogaṃ mahāhiraññasuvaṇṇaṃ ahosi, taṃ idāni appabhogaṃ jāta’’nti kathayiṃsu. Satthā purimanayeneva āgantvā tesaṃ vacanaṃ sutvā imaṃ suttaṃ ārabhi.

Trong bài Kinh thứ tám, Ngài cũng đã nói về nhân sanh khởi của bài Kinh tương tự (các Kinh trước). Được biết rằng nhiều vị Tỳ-khưu đang ngồi họp tại phòng hội về Giáo Pháp, bàn luận về con trai của một vị đại trưởng giả rằng: “Gia tộc đó trước kia có tài sản lớn, có nhiều vàng bạc, nhưng bây giờ gia tộc đó lại có ít tài sản (bị mất mát tài sản).” Bậc Đạo Sư sau khi đến theo cách trước đó, đã nghe những lời của các vị Tỳ-khưu đó, rồi Ngài bắt đầu (thuyết giảng) bài Kinh này.

Navamampi aṭṭhuppattiyameva vuttaṃ. Dhammasabhāyaṃ kira sannisinnā bhikkhū kākavaliyaseṭṭhiñca puṇṇaseṭṭhiñca ārabbha ‘‘asukaṃ nāma kulaṃ pubbe appabhogaṃ ahosi, taṃ idāni mahābhogaṃ jāta’’nti kathayiṃsu. Satthā purimanayeneva āgantvā tesaṃ vacanaṃ sutvā imaṃ suttaṃ ārabhi. Sesaṃ imesu dvīsupi heṭṭhā vuttanayeneva veditabbaṃ.

Ngay cả trong bài Kinh thứ chín, Ngài cũng đã nói về nhân sanh khởi của bài Kinh tương tự (các Kinh trước). Được biết rằng, các vị Tỳ-khưu đang ngồi họp tại phòng hội về Giáo Pháp, (đang bàn luận về câu chuyện) liên quan đến Trưởng giả Kākavali và Trưởng giả Puṇṇa rằng: “Gia tộc đó trước kia có ít tài sản, nhưng bây giờ gia tộc đó lại có nhiều tài sản.” Bậc Đạo Sư sau khi đến theo cách trước đó, đã nghe những lời của các vị Tỳ-khưu đó, rồi Ngài bắt đầu (thuyết giảng) bài Kinh này. Các từ còn lại trong hai Kinh này (Kinh Sutta thứ tám và thứ chín) nên được hiểu theo phương thức đã được đề cập ở các phần trước.

Dasamampi aṭṭhuppattiyaṃ vuttaṃ. Dhammasabhāyaṃ kira bhikkhū kosalamahārājānaṃ ārabbha ‘‘asukaṃ nāma kulaṃ pubbe mahāyasaṃ mahāparivāraṃ ahosi, idāni appayasaṃ appaparivāraṃ jāta’’nti kathayiṃsu. Bhagavā purimanayeneva āgantvā tesaṃ vacanaṃ sutvā imaṃ dhammadesanaṃ ārabhi. Sesaṃ vuttanayeneva veditabbanti.

Cả trong bài Kinh thứ mười, Ngài cũng đã nói về nhân sanh khởi của bài Kinh tương tự (các Kinh trước). Được biết rằng, các vị Tỳ-khưu đang ngồi họp tại tại phòng hội về Giáo Pháp, (đang bàn luận về câu chuyện) liên quan đến đức Vua Pasenadi xứ Kosala rằng: “Gia tộc đó trước kia có danh tiếng vĩ đại, có nhiều tùy tùng, nhưng bây giờ có ít danh tiếng và ít tùy tùng.” Đức Thế Tôn sau khi đến theo cách trước đó, đã nghe những lời của các vị Tỳ-khưu đó, rồi Ngài bắt đầu (thuyết giảng) bài Kinh này. Các từ còn lại nên được hiểu theo phương thức đã được đề cập ở các phần trước.

Giải Thích Phẩm Thiện Bạn Hữu được kết thúc

Phẩm thứ tám được kết thúc