06. GIẢI THÍCH CHƯƠNG MỘT PHÁP (VI – Giải Thích Phẩm Búng Ngón Tay)

Xem Tăng Chi Bộ Kinh – Chương 1 pháp – Phẩm 1-14 

(Kệ 51-60)

51. Chaṭṭhassa paṭhame taṃ assutavā puthujjanoti taṃ bhavaṅgacittaṃ sutavirahito puthujjano. Tattha āgamādhigamābhāvā ñeyyo assutavā iti. Yo hi idaṃ suttaṃ ādito paṭṭhāya atthavasena upaparikkhanto ‘‘idaṃ bhavaṅgacittaṃ nāma pakatiparisuddhampi javanakkhaṇe uppannehi lobhādīhi upakkilesehi upakkiliṭṭha’’nti neva āgamavasena na adhigamavasena jānāti, yassa ca khandhadhātuāyatanapaccayākārasatipaṭṭhānādīsu uggahaparipucchāvinicchayavirahitattā yathābhūtañāṇapaṭivedhasādhako neva āgamo, paṭipattiyā adhigantabbassa anadhigatattā na adhigamo atthi. So āgamādhigamābhāvā ñeyyo assutavā iti. Svāyaṃ –

‘‘Puthūnaṃ jananādīhi, kāraṇehi puthujjano;
 Puthujjanantogadhattā, puthuvāyaṃ jano iti’’.

Bài Kinh thứ nhất của Phẩm thứ sáu, ‘phàm phu không được lắng nghe’ – phàm phu là người thiếu sự học hỏi về Tâm hộ-kiếp đó. ‘phàm phu không được lắng nghe’ đó gọi là không được học tập những pháp đáng biết bởi vì không có āgama (Kinh điển để học tập) và adhigama (Đạo và Quả mà người thực hành có thể chứng đắc). Thật vậy, người nào xem xét kỹ bài Kinh này về phương diện ý nghĩa từ đầu vẫn không biết do tác động về Kinh điển, và cũng không biết do tác động sự chứng đắc của bài Kinh này rằng: “Gọi là Tâm hộ-kiếp này, vốn trong sạch tự nhiên, vẫn bị ô nhiễm bởi các cấu uế có tham, v.v., đã sanh khởi trong sát-na đổng lực.” Và người nào không có (nền tảng) Kinh điển để thấu triệt về sự biết đúng theo thực thể bởi tránh xa việc học, việc hỏi và sự phán đoán về Uẩn, Giới, Xứ, Duyên Khởi, sự thiết lập niệm, v.v, và không có sự chứng đắc bởi vì chưa chứng đạt Đạo và Quả cần phải chứng đạt bằng sự thực hành, người ấy được gọi là “không học về Pháp đáng biết”, bởi vì không có (nền tảng) Kinh điển và sự chứng đắc. Hạng người này đây—

“Người này được gọi là phàm phu bởi những lý do: sản sinh ra các phiền não, hoặc người này được gọi là phàm phu bởi chìm vào bên trong nơi người có phiền não dày đặc.”

So hi puthūnaṃ nānappakārānaṃ kilesādīnaṃ jananādīhi kāraṇehi puthujjano. Yathāha –

‘‘Puthu kilese janentīti puthujjanā, puthu avihatasakkāyadiṭṭhikāti puthujjanā, puthu satthārānaṃ mukhullokikāti puthujjanā, puthu sabbagatīhi avuṭṭhitāti puthujjanā, puthu nānābhisaṅkhāre abhisaṅkharontīti puthujjanā, puthu nānāoghehi vuyhantīti puthujjanā, puthu nānāsantāpehi santappantīti puthujjanā, puthu nānāpariḷāhehi pariḍayhantīti puthujjanā, puthu pañcasu kāmaguṇesu rattā giddhā gadhitā mucchitā ajjhopannā laggā laggitā palibuddhāti puthujjanā, puthu pañcahi nīvaraṇehi āvutā nivutā ovutā pihitā paṭicchannā paṭikujjitāti puthujjanā’’ti (mahāni. 51, 94).

Thật vậy, hạng người ấy gọi là phàm phu bởi các lý do như làm cho nhiều loại phiền não sanh khởi dưới nhiều hình thức v.v, giống như lời Ngài đã nói —

Những người sản sanh ra các ô nhiễm khác nhau’ là phàm phu. ‘Những người có sự nhận thức sai trái về thân khác nhau chưa được phá tan’ là phàm phu. ‘Những người tin theo nhiều vị thầy khác nhau’ là phàm phu. ‘Những người chưa được ra khỏi mọi cảnh giới tái sanh khác nhau’ là phàm phu. ‘Những người tạo ra các sự tạo tác khác nhau’ là phàm phu. ‘Những người bị cuốn trôi bởi nhiều dòng lũ khác nhau’ là phàm phu. ‘Những người bị nóng nảy bởi nhiều sự nóng nảy khác nhau’ là phàm phu. ‘Những người bị thiêu đốt bởi nhiều sự bực bội khác nhau’ là phàm phu. ‘Những người bị luyến ái, bị quyến rũ, bị buộc trói, bị mê đắm, bị kẹt lại, bị dính vào, bị vướng vào, bị cột lại trong năm loại dục đa dạng’ là phàm phu. ‘Những người bị bao bọc, bị bao trùm, bị bao kín, bị che lại, bị che kín, bị đậy kín bởi năm pháp che lấp đa dạng’ là phàm phu.” (mahāni. 51, 94).

Puthūnaṃ vā gaṇanapathamatītānaṃ ariyadhammaparammukhānaṃ nīcadhammasamācārānaṃ janānaṃ antogadhattāpi puthujjano, puthu vā ayaṃ visuṃyeva saṅkhaṃ gato, visaṃsaṭṭho sīlasutādiguṇayuttehi ariyehi janoti puthujjano. Evametehi ‘‘assutavā puthujjano’’ti dvīhi padehi ye te –

‘‘Duve puthujjanā vuttā, buddhenādiccabandhunā;
Andho puthujjano eko, kalyāṇeko puthujjano’’ti. –

Dve puthujjanā vuttā, tesu andhaputhujjano vutto hotīti veditabbo.

Lại nữa, gọi là phàm phu bởi chìm vào bên trong nơi người có phiền não dày đặc, vượt khỏi sự tính đếm, quay lưng (chống lại) Pháp của bậc Thánh nhân và thực hành theo Pháp hạ liệt. Hoặc, gọi là phàm phu này được xem là hoàn toàn tách biệt (với Thánh nhân), gọi là phàm phu bởi là người không liên quan đến các bậc Thánh nhân phối hợp với các đức hạnh như giới, nghe nhiều v.v. Với 2 câu này “kẻ phàm phu không được lắng nghe”, như đã giải thích như vậy, Ngài đã nói đến hai hạng phàm phu sau đây –

Đức Phật, đấng quyến thuộc của mặt trời, đã thuyết giảng về hai hạng phàm phu là— một hạng phàm phu mù quáng và một hạng phàm phu tốt đẹp.”

Hai loại phàm phu đã được đề cập đến, trong số hai hạng phàm phu ấy nên biết rằng là nói đến phàm phu mù quáng.

Yathābhūtaṃ nappajānātīti ‘‘idañca bhavaṅgacittaṃ evaṃ āgantukehi upakkilesehi upakkiliṭṭhaṃ nāma hoti, evaṃ vippamuttaṃ nāmā’’ti yathāsabhāvato na jānāti. Tasmāti yasmā na jānāti, tasmā. Cittabhāvanā natthīti cittaṭṭhiti cittapariggaho natthi, natthibhāveneva ‘‘natthī’’ti vadāmīti dasseti.

Không biết rõ đúng theo thực thể: phàm phu không được nghe, không biết đúng theo bản thể thật rằng “Tâm hộ-kiếp này gọi là ô nhiễm bởi các cấu uế từ ngoài vào như vầy, và được gọi là đã giải thoát như vậy.” Do đó: vì không biết, do đó. Không có tu tập tâm: Không có sự đình trụ tâm, không có sự xác định tâm, với thực tính không hiện hữu ấy (Ngài) chỉ bảo rằng: ta nói là ‘không có’.

52. Dutiye sutavāti sutasampanno. Vitthārato panettha assutavāti padassa paṭipakkhavasena attho veditabbo. Ariyasāvakoti atthi ariyo na sāvako, seyyathāpi buddhā ceva paccekabuddhā ca; atthi sāvako na ariyo, seyyathāpi gihī anāgataphalo; atthi neva ariyo na sāvako seyyathāpi puthutitthiyā. Atthi ariyoceva sāvako ca, seyyathāpi samaṇā sakyaputtiyā āgataphalā viññātasāsanā. Idha pana gihī vā hotu pabbajito vā, yo koci sutavāti ettha vuttassa atthassa vasena sutasampanno, ayaṃ ariyasāvakoti veditabbo. Yathābhūtaṃ pajānātīti ‘‘evamidaṃ bhavaṅgacittaṃ āgantukehi upakkilesehi vippamuttaṃ hoti, evaṃ upakkiliṭṭha’’nti yathāsabhāvato jānāti. Cittabhāvanā atthīti cittaṭṭhiti cittapariggaho atthi, atthibhāveneva ‘‘atthī’’ti vadāmīti dasseti. Imasmiṃ sutte balavavipassanā kathitā. Keci taruṇavipassanāti vadanti.

Trong bài Kinh thứ hai, có sự học hỏi: thành tựu về học tập. Hơn nữa ở đây nếu nói chi tiết, nên hiểu ý nghĩa hoàn toàn ngược lại với từ ‘không có sự học hỏi’. Vị Thánh đệ tử: Bậc Thánh không phải là đệ tử cũng có, như là chư Phật (Toàn Giác) và chư Phật Độc Giác. Vị đệ tử không phải là Bậc Thánh cũng có, như là những người cư sĩ vẫn chưa chứng đắc quả vị. Không phải là bậc thánh mà cũng không là đệ tử, như là nhóm du sĩ ngoại đạo. Vừa là bậc Thánh, vừa là đệ tử cũng có, như các Sa-môn Thích Tử (con trai dòng Sakya) đã chứng đắc quả vị và thấu rõ lời giáo huấn (của đức Phật). Nhưng ở đây, dù là tại gia cư sĩ hay vị xuất gia, bất cứ ai đầy đủ sự học hỏi về phương diện ý nghĩa đã được giải thích, nên được hiểu rằng người này chính là vị Thánh đệ tử trong cụm từ ‘có sự học hỏi’. Biết rõ đúng theo thực thể: (vị ấy) biết đúng theo bản thể thật rằng “Tâm hộ-kiếp này đã thoát khỏi các cấu uế từ ngoài vào bởi biểu hiện như vậy.” Có tu tập tâm: có sự đình trụ tâm, có sự xác định tâm, với chính thực tính hiện hữu ấy (Ngài) chỉ bảo rằng: ta nói là ‘có’. Trong Kinh này, Ngài nói đến Minh sát có sức mạnh. Một số vị giáo thọ nói là Minh sát vẫn còn non yếu.

Tatiyaṃ aṭṭhuppattiyaṃ kathitaṃ. Katarāyaṃ pana aṭṭhuppattiyaṃ? Aggikkhandhopamasuttantaaṭṭhuppattiyaṃ. Bhagavā kira ekasmiṃ samaye sāvatthiṃ upanissāya jetavanamahāvihāre paṭivasati. Buddhānañca yattha katthaci paṭivasantānaṃ pañcavidhaṃ kiccaṃ avijahitameva hoti. Pañca hi buddhakiccāni – purebhattakiccaṃ, pacchābhattakiccaṃ, purimayāmakiccaṃ, majjhimayāmakiccaṃ, pacchimayāmakiccanti.

Bài Kinh thứ ba đã được nói đến trong phần nguyên nhân sanh khởi. Được nói đến trong hần nguyên nhân sanh khởi nào? Phần nguyên nhân sanh khởi của bài Kinh Ví Dụ về Đám Lửa (Aggikkhandhopama Sutta). Kể rằngi, một thời, đức Thế Tôn cư ngụ tại Đại Tịnh Xá Jetavana, gần thành Sāvatthī. Thật vậy, chư Phật, dù cư ngụ ở bất kỳ nơi nào, (các Ngài) cũng không bao giờ từ bỏ năm phận sự của đức Phật. Năm phận sự của đức Phật là: (1) phận sự trước bữa ăn, (2) phận sự sau bữa ăn, (3) phận sự vào canh đầu, (4) phận sự vào canh giữa, (5) phận sự vào canh cuối.

Tatridaṃ purebhattakiccaṃ – bhagavā hi pātova vuṭṭhāya upaṭṭhākānuggahatthaṃ sarīraphāsukatthañca mukhadhovanādisarīraparikammaṃ katvā yāva bhikkhācāravelā tāva vivittāsane vītināmetvā bhikkhācāravelāya nivāsetvā kāyabandhanaṃ bandhitvā cīvaraṃ pārupitvā pattamādāya kadāci ekakova, kadāci bhikkhusaṅghaparivuto gāmaṃ vā nigamaṃ vā piṇḍāya pavisati kadāci pakatiyā, kadāci anekehi pāṭihāriyehi vattamānehi. Seyyathidaṃ – piṇḍāya pavisato lokanāthassa purato purato gantvā mudugatavātā pathaviṃ sodhenti, valāhakā udakaphusitāni muñcantā magge reṇuṃ vūpasametvā upari vitānaṃ hutvā tiṭṭhanti, apare vātā pupphāni upasaṃharitvā magge okiranti, unnatā bhūmippadesā onamanti, onatā unnamanti, pādanikkhepasamaye samāva bhūmi hoti, sukhasamphassāni padumapupphāni vā pāde sampaṭicchanti. Indakhīlassa anto ṭhapitamatte dakkhiṇapāde sarīrato chabbaṇṇarasmiyo nikkhamitvā suvaṇṇarasapiñjarāni viya citrapaṭaparikkhittāni viya ca pāsādakūṭāgārādīni alaṅkarontiyo ito cito ca dhāvanti, hatthiassavihaṅgādayo sakasakaṭṭhānesu ṭhitāyeva madhurenākārena saddaṃ karonti, tathā bherivīṇādīni tūriyāni manussānañca kāyūpagāni ābharaṇāni.

Đây là phận sự trước bữa ăn – Bởi vì đức Thế Tôn dậy từ sáng sớm, vệ sinh thân thể, như súc miệng v.v, để hỗ trợ người hầu cận và vì sự dễ chịu của cơ thể, khi hoàn tất ngài đã ngồi xuống Phật tọa an tĩnh cho đến thời gian khất thực, khi đến thời gian đi khất thực, ngài mặc y nội, buộc dây thắt lưng, đã choàng lên tấm y, cầm bình bát, đôi khi ngài đi một mình, đôi khi được tháp tùng bởi hội chúng Tỳ-khưu, đi vào làng hoặc thị trấn để khất thực; đôi khi ngài bước đi thông thường, đôi khi đi bằng nhiều phép kỳ diệu. Là thế nào? Khi bậc Lãnh Đạo Thế Gian đã đi vào khất thực một cơn gió thổi nhẹ nhàng, thổi về phía trước dọn sạch bề mặt đất làm cho (con đường) trở nên sạch sẽ, những cơn mưa cũng trút nước xuống để ngăn bụi bẩn bám trên đường, trải rộng ra như trần nhà phía trên, cơn gió đã mang theo các loại bông hoa và rải chúng xuống lên trên mặt đường. Những chỗ đất cao trở nên thấp hơn, còn chỗ thấp thì trở nên cao hơn. Mặt đất bằng phẳng đều đặn khi ngài bước chân, hoặc những bông hoa sen (được rải trên đường) có cảm giác mềm mại êm ái, dễ chịu chờ nâng đỡ đôi chân của ngài, khi bàn chân phải của Ngài đã đặt xuống phía bên trong ngạch cửa thì hào quang sáu màu chiếu sáng quảng đại tỏa ra từ kim thân (của bậc Giác Ngộ) xoay tròn lấp lánh trang trí cho lâu đài tháp nhọn v.v. tựa như ánh sáng chói lóa của vàng và như thể được bao bọc bởi một dải lụa xinh đẹp, trong tất cả các loài thú có voi, ngựa và chim v.v, cư trú ở trong khu vực của chúng cũng cùng nhau cất lên những âm thanh quyến rũ, các nhạc khí như trống, đàn tỳ bà v.v., và cả những đồ trang sức đeo trên thân người cũng phát ra những âm thanh du dương.

Tena saññāṇena manussā jānanti ‘‘ajja bhagavā idha piṇḍāya paviṭṭho’’ti. Te sunivatthā supārutā gandhapupphādīni ādāya gharā nikkhamitvā antaravīthiṃ paṭipajjitvā bhagavantaṃ gandhapupphādīhi sakkaccaṃ pūjetvā vanditvā ‘‘amhākaṃ, bhante, dasa bhikkhū, amhākaṃ vīsati, paññāsaṃ…pe… sataṃ dethā’’ti yācitvā bhagavatopi pattaṃ gahetvā āsanaṃ paññāpetvā sakkaccaṃ piṇḍapātena paṭimānenti. Bhagavā katabhattakicco tesaṃ upanissayacittasantānāni oloketvā tathā dhammaṃ deseti, yathā keci saraṇagamanesu patiṭṭhahanti, keci pañcasu sīlesu, keci sotāpattisakadāgāmianāgāmiphalānaṃ aññatarasmiṃ, keci pabbajitvā aggaphale arahatteti. Evaṃ mahājanaṃ anuggahetvā uṭṭhāyāsanā vihāraṃ gacchati. Tattha gantvā gandhamaṇḍalamāḷe paññattavarabuddhāsane nisīdati bhikkhūnaṃ bhattakiccapariyosānaṃ āgamayamāno. Tato bhikkhūnaṃ bhattakiccapariyosāne upaṭṭhāko bhagavato nivedeti. Atha bhagavā gandhakuṭiṃ pavisati. Idaṃ tāva purebhattakiccaṃ.

Với dấu hiệu này khiến cho tất cả mọi người biết rằng – “Ngày hôm nay đức Thế Tôn đi vào (làng) để khất thực”. Mọi người ai cũng sửa soạn ăn mặc chỉnh tề cùng nhau mang các vật thơm và tràng hoa v.v, rời khỏi nhà đi theo con đường đó, sau khi cúng dường đức Thế Tôn với vật thơm và tràng hoa v.v, một cách cung kính, đã đảnh lễ thỉnh cầu chư Tăng như sau – “Kính bạch ngài, xin ngài hãy vì lòng bi mẫn chỉ định mười vị Tỳ-khưu , hai mươi vị Tỳ-khưu , năm mươi vị Tỳ-khưu , …nt…một trăm vị Tỳ-khưu  đến cho chúng con” rồi cầm lấy bình bát luôn cả của đức Thế Tôn, đã sắp đặt chỗ ngồi, cúi mình cúng dường đồ ăn khất thực một kính cung kính. Sau khi việc thọ thực hoàn tất, đức Thế Tôn đã quan sát về căn tánh của những chúng sanh đó để thuyết pháp, tương trợ cho một số đã vững trú với việc đi đến nương tựa, một số đã vững trú vào năm giới, một số vững trú trong phẩm vị Thánh Nhập-lưu, Thánh Nhất-lai, Thánh Bất-lai hay phẩm vị nào khác; một số đã xuất gia vững trú vào quả vị A-ra-hán cao tột, sau khi đã trợ giúp đại chúng như thế, (ngài) đứng dậy từ chỗ ngồi rồi trở về Tịnh Xá. Khi ngồi trên Phật tọa đã được sửa soạn sẵn trong gian nhà mái tròn, chờ đợi chư Tỳ-khưu thọ thực hoàn tất. Sau khi chư Tỳ-khưu  thọ thực hoàn tất, vị Tỳ-khưu thị giả bạch cho đức Thế Tôn biết. Sau đó, đức Thế Tôn đi vào Hương Thất. Trước hết, đây là phận sự trước bữa ăn.

Atha bhagavā evaṃ katapurebhattakicco gandhakuṭiyā upaṭṭhāne nisīditvā pāde pakkhāletvā pādapīṭhe ṭhatvā bhikkhusaṅghaṃ ovadati – ‘‘bhikkhave, appamādena sampādetha, dullabho buddhuppādo lokasmiṃ, dullabho manussattapaṭilābho, dullabhā khaṇasampatti, dullabhā pabbajjā, dullabhaṃ saddhammassavana’’nti. Tattha keci bhagavantaṃ kammaṭṭhānaṃ pucchanti. Bhagavā tesaṃ cariyānurūpaṃ kammaṭṭhānaṃ deti. Tato sabbepi bhagavantaṃ vanditvā attano attano rattiṭṭhānadivāṭṭhānāni gacchanti. Keci araññaṃ, keci rukkhamūlaṃ, keci pabbatādīnaṃ aññataraṃ, keci cātumahārājikabhavanaṃ…pe… keci vasavattibhavananti . Tato bhagavā gandhakuṭiṃ pavisitvā sace ākaṅkhati, dakkhiṇena passena sato sampajāno muhuttaṃ sīhaseyyaṃ kappeti. Atha samassāsitakāyo uṭṭhahitvā dutiyabhāge lokaṃ voloketi. Tatiyabhāge yaṃ gāmaṃ vā nigamaṃ vā upanissāya viharati, tattha mahājano purebhattaṃ dānaṃ datvā pacchābhattaṃ sunivattho supāruto gandhapupphādīni ādāya vihāre sannipatati. Tato bhagavā sampattaparisāya anurūpena pāṭihāriyena gantvā dhammasabhāyaṃ paññattavarabuddhāsane nisajja dhammaṃ deseti kālayuttaṃ samayayuttaṃ, atha kālaṃ viditvā parisaṃ uyyojeti, manussā bhagavantaṃ vanditvā pakkamanti. Idaṃ pacchābhattakiccaṃ.

Khi ấy, đức Thế Tôn khi thực hiện phận sự trước bữa ăn hoàn tất như vậy, ngồi tại giảng đường ở gần Hương Thất, sau khi rửa chân đã đứng trên bục giảng, rồi ban lời giáo huấn đến hội chúng Tỳ-khưu rằng: – “Này các Tỳ-khưu, các ông hãy nên cố gắng hoàn thành mục tiêu của mình, bằng pháp không dễ duôi, sự xuất hiện của đức Phật trên thế gian là một điều khó, được sinh làm người là một điều khó, sự thành tựu trọn vẹn (với một sát-na, đức tin) là một điều khó, được xuất gia trở thành Tỳ-khưu là một điều khó, được nghe Chánh Pháp là một điều khó”. Tại nơi đó một số vị Tỳ-khưu  hỏi về đề mục hành thiền cùng đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn cũng hướng dẫn đề mục hành thiền phù hợp cùng với căn tánh của các vị Tỳ-khưu ấy. Sau đó, tất cả các vị Tỳ-khưu đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi đi đến chỗ nghỉ ban ngày và chỗ nghỉ ban đêm của mỗi vị. Vị thì vào rừng, vị thì đến gốc cây, vị thì đến núi v.v.; có vị đến cung điện của chư Thiên Tứ Đại Vương … có vị đến cung điện của chư Thiên Vāsavatti. Sau đó, đức Thế Tôn đi vào Hương Thất nếu như có ước muốn, có niệm, có sự nhận thức rõ, áp dụng thế nằm của sư tử (nghỉ ngơi cơ thể) trong chốc lát bằng sườn bên phải. Khi cơ thể khỏe khoắn ngài ngồi dậy quan sát thế gian lần thứ hai. Trong lần thứ 3, tại ngôi làng hoặc thị trấn nơi đức Thế Tôn sống nương tựa ấy, đại chúng cùng nhau đã cúng dường vật thí trước bữa ăn, sau bữa ăn đã mặc y phục tươm tất, mang theo các loại vật thơm và tràng hoa v.v, đến tụ hội với nhau ở Tịnh Xá. Khi hội chúng đã đầy đủ, đức Thế Tôn đã đi đến bằng phép kỳ diệu thích hợp, ngồi thuyết giảng giáo pháp tùy thời, tùy lúc ở trên Phật tọa cao thượng đã được sắp đặt tỉ mỉ ở Pháp Đường [Dhammasabhā], khi đã biết đúng thời thì giải tán hội chúng, mọi người đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi cùng nhau quay trở về. Đây là phận sự sau bữa ăn.

So evaṃ niṭṭhitapacchābhattakicco sace gattāni osiñcitukāmo hoti, buddhāsanā uṭṭhāya nhānakoṭṭhakaṃ pavisitvā upaṭṭhākena paṭiyāditaudakena gattāni utuṃ gaṇhāpeti. Upaṭṭhākopi buddhāsanaṃ ānetvā gandhakuṭipariveṇe paññapeti. Bhagavā surattadupaṭṭaṃ nivāsetvā kāyabandhanaṃ bandhitvā uttarāsaṅgaṃ ekaṃsaṃ katvā tattha āgantvā nisīdati ekakova muhuttaṃ paṭisallīno, atha bhikkhū tato tato āgamma bhagavato upaṭṭhānaṃ āgacchanti. Tattha ekacce pañhaṃ pucchanti, ekacce kammaṭṭhānaṃ, ekacce dhammassavanaṃ yācanti. Bhagavā tesaṃ adhippāyaṃ sampādento purimayāmaṃ vitināmeti. Idaṃ purimayāmakiccaṃ.

Đức Thế Tôn ấy khi hoàn tất phận sự sau bữa ăn như vậy, nếu có mong muốn sẽ tắm gội thân thể, ngài đứng dậy từ Phật tọa đi vào ngôi nhà mái vòm để tắm rửa với nước được vị Tỳ-khưu thị giả chuẩn bị sẵn. Còn vị Tỳ-khưu thị giả cũng đem tọa cụ của đức Phật trải ra ở khu vực Hương Thất. Đức Thế Tôn khoác y hai lớp đã được nhuộm kỹ, buộc dây thắt lưng, đắp thượng y một bên vai rồi ngài đi đến ngồi trên Phật tọa ấy ấy, một mình, an tịnh trong chốc lát. Khi đó chư Tỳ-khưu cùng nhau đến từ nơi này nơi khác đến nơi Pháp Đường của đức Thế Tôn. Tại nơi đó, một số vị hỏi vấn đề, một số xin đề mục hành thiền, một số xin được nghe pháp. Đức Thế Tôn đã ngồi nán lại suốt canh đầu, để cho sự mong muốn của các vị Tỳ-khưu ấy thành tựu. Đây là phận sự vào canh đầu.

Purimayāmakiccapariyosāne pana bhikkhūsu bhagavantaṃ vanditvā pakkantesu sakaladasasahassilokadhātudevatāyo okāsaṃ labhamānā bhagavantaṃ upasaṅkamitvā pañhaṃ pucchanti yathābhisaṅkhataṃ antamaso caturakkharampi. Bhagavā tāsaṃ devatānaṃ pañhaṃ vissajjento majjhimayāmaṃ vītināmeti. Idaṃ majjhimayāmakiccaṃ.

Hơn nữa trong khi hoàn tất phận sự vào canh đầu chư Tỳ-khưu đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi quay trở về, chúng chư Thiên trong toàn thể mười ngàn thế giới khi có được cơ hội cũng cùng nhau đến gặp đức Thế Tôn, hỏi những câu hỏi đã được soạn sẵn, dù chỉ vắn tắt bốn chữ. Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi cùng những vị chư Thiên ấy, suốt canh giữa. Đây là phận sự vào canh giữa.

Pacchimayāmaṃ pana tayo koṭṭhāse katvā purebhattato paṭṭhāya nisajjāpīḷitassa sarīrassa kilāsubhāvamocanatthaṃ ekaṃ koṭṭhāsaṃ caṅkamena vītināmeti, dutiyakoṭṭhāse gandhakuṭiṃ pavisitvā dakkhiṇena passena sato sampajāno sīhaseyyaṃ kappeti. Tatiyakoṭṭhāse paccuṭṭhāya nisīditvā purimabuddhānaṃ santike dānasīlādivasena katādhikārapuggaladassanatthaṃ buddhacakkhunā lokaṃ voloketi. Idaṃ pacchimayāmakiccaṃ.

Còn phận sự vào canh cuối đức Thế Tôn chia làm 3 thời là thời thứ nhất trải qua thời gian với việc đi kinh hành, để xua tan sự mệt mỏi của cơ thể đã bị chi phối bởi tư thế ngồi từ trước bữa ăn. Trong thời thứ hai ngài bước vào Hương Thất, có niệm, có sự nhận thức rõ ràng, áp dụng thế nằm của sư tử (nghỉ ngơi cơ thể) trong chốc lát bằng sườn bên phải. Vào thời thứ ba ngài đứng dậy từ chỗ ngồi và dùng Phật nhãn quán xét thế gian để thấy những chúng sinh đã gieo trồng căn lành nơi các Đức Phật quá khứ qua việc thực hành bố thí, trì giới v.v.. Đây là phận sự vào canh cuối.

Tampi divasaṃ bhagavā imasmiṃyeva kicce ṭhito lokaṃ olokento idaṃ addasa – mayā kosalaraṭṭhe cārikaṃ carantena aggikkhandhena upametvā ekasmiṃ sutte desite saṭṭhi bhikkhū arahattaṃ pāpuṇissanti, saṭṭhimattānaṃ uṇhaṃ lohitaṃ mukhato uggacchissati, saṭṭhimattā gihibhāvaṃ gamissanti. Tattha ye arahattaṃ pāpuṇissanti, te yaṃkiñci dhammadesanaṃ sutvā pāpuṇissanteva. Itaresaṃ pana bhikkhūnaṃ saṅgahatthāya cārikaṃ caritukāmo hutvā, ‘‘ānanda, bhikkhūnaṃ ārocehī’’ti āha.

Vào ngày hôm ấy, đức Thế Tôn đang an trú chính phận sự này (phận sự sau bữa ăn), trong khi quán sát (chúng sinh) thế gian, Ngài đã nhìn thấy nguyên nhân này rằng– Khi Ta du hành đến vương quốc Kosala và thuyết giảng bài Kinh Ví Dụ về Đám Lửa (Aggikkhandhopama), thì sáu mươi vị Tỳ-khưu sẽ đạt được quả vị A-ra-hán, sáu mươi vị Tỳ-khưu sẽ hộc máu (vì quá kinh hãi và rúng động), và sáu mươi vị Tỳ-khưu sẽ hoàn tục trở lại bản thể cư sĩ. Trong số các vị Tỳ-khưu đó, những vị nào sẽ đạt được quả vị A-ra-hán, thì họ sẽ đạt được dù nghe bất kỳ Pháp thoại nào. Nhưng đức Thế Tôn có ý muốn du hành nhằm mục đích trợ giúp cho các vị Tỳ-khưu còn lại (những vị sẽ hộc máu hoặc hoàn tục), nên mới nói rằng “Này Ānanda, con hãy bảo các vị Tỳ-khưu (tập hợp).”

Thero anupariveṇaṃ gantvā, ‘‘āvuso, satthā mahājanassa saṅgahatthāya cārikaṃ caritukāmo, gantukāmā āgacchathā’’ti āha. Bhikkhū mahālābhaṃ labhitvā viya tuṭṭhamānasā ‘‘labhissāma vata mahājanassa dhammaṃ desentassa bhagavato suvaṇṇavaṇṇaṃ sarīraṃ oloketuṃ madhurañca dhammakathaṃ sotu’’nti paruḷhakesā kese ohāretvā malaggahitapattā patte pacitvā kiliṭṭhacīvarā cīvarāni dhovitvā gamanasajjā ahesuṃ. Satthā aparicchinnena bhikkhusaṅghena parivuto kosalaraṭṭhaṃ cārikāya nikkhanto gāmanigamapaṭipāṭiyā ekadivasaṃ gāvutaaḍḍhayojanatigāvutayojanaparamaṃ cārikaṃ caranto ekasmiṃ padese mahantaṃ susirarukkhaṃ agginā sampajjalitaṃ disvā ‘‘imameva vatthuṃ katvā sattahi aṅgehi paṭimaṇḍetvā dhammadesanaṃ kathessāmī’’ti gamanaṃ pacchinditvā aññataraṃ rukkhamūlaṃ upasaṅkamitvā nisajjākāraṃ dassesi. Ānandatthero satthu adhippāyaṃ ñatvā ‘‘addhā kāraṇaṃ bhavissati, na akāraṇena tathāgatā gamanaṃ pacchinditvā nisīdantī’’ti catugguṇaṃ saṅghāṭiṃ paññāpesi. Satthā nisīditvā bhikkhū āmantetvā ‘‘passatha no tumhe, bhikkhave, amuṃ mahantaṃ aggikkhandha’’nti aggikkhandhopamasuttantaṃ (a. ni. 7.72) deseti.

Vị Trưởng lão (Ānanda) đi theo từng phòng ốc (của chư Tỳ-khưu) rồi nói rằng: “Này các Hiền giả, bậc Đạo Sư có ý muốn du hành nhằm mục đích trợ giúp đại chúng. Những ai muốn đi theo thì hãy cùng nhau tập hợp.” Các Tỳ-khưu vui mừng như nhận được lợi lộc to lớn, nghĩ rằng: “Chúng ta sẽ được nhìn thấy cơ thể có màu sắc hoàng kim và được lắng nghe bài Pháp thoại du dương của đức Thế Tôn khi Ngài thuyết Pháp cho đại chúng.” Những ai có tóc đã mọc dài thì cạo tóc, những ai có bình bát đã bị gỉ sét thì đánh bóng lại bình bát, những ai có y phục bị bẩn thì hãy đi giặt y, ai ai cũng sửa soạn để tháp tùng Ngài. Bậc Đạo Sư, được tháp tùng bởi hội chúng Tỳ-khưu không thể xác định số lượng, khởi hành du hành đến vương quốc Kosala. Mỗi một ngày, Ngài du hành một gāvuta, hai gāvuta, ba gāvuta, và nhiều nhất là một do-tuần, tuần tự đi qua các làng và thị trấn. Sau khi nhìn thấy một cây gỗ có lỗ rỗng lớn bị lửa cháy bùng lên, Ngài suy tư rằng: “Ta sẽ dùng chính cái cây này làm nền tảng để đặt tài để thuyết giảng Giáo Pháp được tô điểm với bảy yếu tố.” Vì vậy, Ngài ngừng việc du hành và tiến đến gốc cây đó, bày tỏ ý muốn an tọa. Trưởng lão Ānanda biết được ý muốn của bậc Đạo Sư, nghĩ rằng: “Chắc chắn phải có lý do, Như Lai không dừng lại và ngồi xuống nghỉ ngơi mà không có lý do chính đáng,” nên Ngài đã trải Tăng-già-lê thành bốn lớp. Bậc Đạo Sư sau khi ngồi xuống đã gọi các Tỳ-khưu đến và hỏi rằng: “Này các Tỳ-khưu, các ông hãy nhìn Đám Lửa lớn kia!” Rồi Ngài thuyết giảng bài Kinh Ví Dụ về Đám Lửa. (a. ni. 7.72);

Imasmiñca pana veyyākaraṇe bhaññamāne saṭṭhimattānaṃ bhikkhūnaṃ uṇhaṃ lohitaṃ mukhato uggañchi, saṭṭhimattā bhikkhū sikkhaṃ paccakkhāya hīnāyāvattiṃsu, saṭṭhimattānaṃ bhikkhūnaṃ anupādāya āsavehi cittāni vimucciṃsu. Tañhi veyyākaraṇaṃ sutvā saṭṭhimattānaṃ bhikkhūnaṃ nāmakāyo santatto, nāmakāye santatte karajakāyo santatto, karajakāye santatte nidhānagataṃ uṇhaṃ lohitaṃ mukhato uggañchi. Saṭṭhimattā bhikkhū ‘‘dukkaraṃ vata buddhasāsane yāvajīvaṃ paripuṇṇaṃ parisuddhaṃ brahmacariyaṃ caritu’’nti sikkhaṃ paccakkhāya hīnāyāvattā, saṭṭhimattā bhikkhū satthu desanābhimukhaṃ ñāṇaṃ pesetvā saha paṭisambhidāhi arahattaṃ pattā.

Và hơn nữa, trong khi bài giảng này đang được nói ra, khoảng sáu mươi vị Tỳ-khưu bị hộc máu, khoảng sáu mươi vị Tỳ-khưu hoàn tục trở về bản thể cư sĩ, và khoảng sáu mươi vị Tỳ-khưu có tâm không chấp thủ đã giải thoát khỏi các lậu hoặc. Bởi vì sau khi nghe bài giảng đó, Danh Thân của khoảng sáu mươi vị Tỳ-khưu trở nên mệt nhọc, khi Danh Thân trở nên mệt nhọc, Thân nghiệp sanh cũng trở nên nóng bức, khi Thân nghiệp sanh trở nên nóng bức, máu ấm tích tụ trào ra từ miệng. Khoảng sáu mươi vị Tỳ-khưu (khác) suy nghĩ rằng: “Thật khó khăn thay để thực hành đời sống Phạm Hạnh thanh tịnh (và) viên mãn cho đến trọn đời trong Giáo Pháp!” rồi cùng nhau hoàn tục trở lại bản thể cư sĩ. Khoảng sáu mươi vị Tỳ-khưu (còn lại) hướng Trí tuệ thẳng vào bài bài thuyết giảng của bậc Đạo Sư, đã đạt được quả vị A-ra-hán cùng với Tứ Tuệ Phân Tích.

Tattha yesaṃ uṇhaṃ lohitaṃ mukhato uggañchi, te pārājikaṃ āpajjiṃsu. Ye gihibhāvaṃ pattā, te khuddānukhuddakāni sikkhāpadāni maddantā vicariṃsu. Ye arahattaṃ pattā, te parisuddhasīlāva ahesuṃ. Satthu dhammadesanā imesaṃ tiṇṇampi saphalāva jātāti. Arahattaṃ pattānaṃ tāva saphalā hotu, itaresaṃ kathaṃ saphalā jātāti? Tepi hi sace imaṃ dhammadesanaṃ na suṇeyyuṃ, pamattāva hutvā ṭhānaṃ jahituṃ na sakkuṇeyyuṃ. Tato nesaṃ taṃ pāpaṃ vaḍḍhamānaṃ apāyesuyeva saṃsīdāpeyya. Imaṃ pana desanaṃ sutvā jātasaṃvegā ṭhānaṃ jahitvā sāmaṇerabhūmiyaṃ ṭhitā dasa sīlāni pūretvā yoniso manasikāre yuttappayuttā keci sotāpannā keci sakadāgāmino keci anāgāmino ahesuṃ, keci devaloke nibbattiṃsu, evaṃ pārājikāpannānampi saphalā ahosi. Itare pana sace imaṃ dhammadesanaṃ na suṇeyyuṃ, gacchante gacchante kāle anupubbena saṅghādisesampi pārājikampi pāpuṇitvā apāyesuyeva uppajjitvā mahādukkhaṃ anubhaveyyuṃ. Imaṃ pana desanaṃ sutvā ‘‘aho sallekhitaṃ buddhasāsanaṃ, na sakkā amhehi yāvajīvaṃ imaṃ paṭipattiṃ pūretuṃ, sikkhaṃ paccakkhāya upāsakadhammaṃ pūretvā dukkhā muccissāmā’’ti gihibhāvaṃ upagamiṃsu. Te tīsu saraṇesu patiṭṭhāya pañca sīlāni rakkhitvā upāsakadhammaṃ pūretvā keci sotāpannā keci sakadāgāmino keci anāgāmino jātā, keci devaloke nibbattāti. Evaṃ tesampi saphalāva ahosi.

Trong số các vị Tỳ-khưu đó, những vị nào hộc máu, những vị ấy đã phạm giới Pārājika. Những vị nào hoàn tục trở lại bản thể cư sĩ, những vi ấy đã vi phạm những điều học nhỏ nhặt. Những vị nào đã đạt được quả vị A-ra-hán, những vị ấy đã là những vị có Giới hạnh thanh tịnh. Tuy nhiên, Pháp Thoại của bậc Đạo Sư có kết quả kể cả đối với ba nhóm Tỳ-khưu đã nói trên. Pháp Thoại có kết quả đối với các Tỳ-khưu chứng đắc A-ra-hán thì bỏ qua (không cần phải nhắc đến), nhưng làm sao lại có kết quả đối với các Tỳ-khưu còn lại? Đối với nhóm Tỳ-khưu bị hộc máu: Thật vậy, nếu các vị ấy không nghe bài Pháp Thoại này, là những vị sống phóng dật và không thể từ bỏ địa vị này. Từ đó, ác nghiệp của những vị ấy sẽ tăng trưởng thêm và có thể khiến họ chìm xuống các cõi khổ mà thôi. Nhưng sau khi nghe bài Pháp Thoại này, họ khởi lên sự rung động, từ bỏ địa vị (Tỳ-khưu), xuất gia ở cương vị sa di, thực hành Thập Giới, và chuyên chú nỗ lực trong tác ý đúng đường lối, một số trở thành vị Nhập-lưu, một số trở thành vị Nhất-lai, một số trở thành vị Bát-lai, và một số được tái sanh vào cõi Trời. Pháp thoại này đã có kết quả đối với các Tỳ-khưu đã phạm tội Pārājikā như vậy. (Đối với nhóm Tỳ-khưu hoàn tục) – Mặt khác, nếu các vị ấy không nghe Pháp Thoại này, theo thời gian trôi qua, họ có thể sẽ phạm cả giới Saṅghādisesa, thậm chí cả Pārājika. Nhưng sau khi nghe bài Pháp Thoại này, (họ) nghĩ rằng: “Ôi! Giáo Pháp có tánh khắc khổ! Chúng ta không thể hoàn thành sự thực hành này cho đến hết đời, tốt hơn hết là chúng ta nên hoàn tục, thực hành Pháp của cư sĩ và sẽ được thoát khỏi mọi khổ đau,” rồi cùng nhau hoàn tục trở lại bản thể cư sĩ. Những người này an trú vào Tam Quy và thọ trì Ngũ Giới, thực hành Pháp của cư sĩ, một số trở thành vị Nhập-lưu, một số trở thành vị Nhất-lai, một số trở thành vị Bất-lai, và một số được tái sanh vào cõi Trời. Pháp Thoại đã có kết quả đối với các Tỳ-khưu đó như vậy.

Imaṃ pana satthu dhammadesanaṃ sutvā devasaṅghā yehipi sutā, yehipi na sutā, sabbesaṃyeva ārocentā vicariṃsu. Bhikkhū sutvā sutvā ‘‘dukkaraṃ, bho, buddhānaṃ sāsane yāvajīvaṃ paripuṇṇaṃ parisuddhaṃ brahmacariyaṃ caritu’’nti ekakkhaṇeneva dasapi bhikkhū vīsatipi saṭṭhipi satampi sahassampi bhikkhū gihī honti.

Hơn nữa, hội chúng chư Thiên sau khi nghe được Pháp Thoại này, đã đi đến và thuật lại cho tất cả các vị Tỳ-khưu chưa được nghe. Các vị Tỳ-khưu sau khi nghe, nghĩ rằng “Thưa chư Hiền giả, thật khó khăn thay để thực hành đời sống Phạm Hạnh thanh tịnh và viên mãn cho đến trọn đời trong Giáo Pháp!” Lập tức mười vị, hai mươi vị, sáu mươi vị, một trăm vị Tỳ-khưu tuyên bố hoàn tục trở thành cư sĩ.

Satthā yathāruciyā cārikaṃ caritvā puna jetavanameva āgantvā bhikkhū āmantesi – ‘‘bhikkhave, tathāgato cārikaṃ caramāno ciraṃ ākiṇṇo vihāsi, icchāmahaṃ, bhikkhave, aḍḍhamāsaṃ paṭisallīyituṃ, nāmhi kenaci upasaṅkamitabbo aññatra ekena piṇḍapātanīhārakenā’’ti. Aḍḍhamāsaṃ ekībhāvena vītināmetvā paṭisallānā vuṭṭhito ānandattherena saddhiṃ vihāracārikaṃ caramāno olokitolokitaṭṭhāne tanubhūtaṃ bhikkhusaṅghaṃ disvā jānantoyeva theraṃ pucchi – ‘‘ānanda, aññasmiṃ kāle tathāgate cārikaṃ caritvā jetavanaṃ āgate sakalavihāro kāsāvapajjoto isivātappaṭivāto hoti, idāni pana tanubhūto bhikkhusaṅgho dissati, yebhuyyena ca uppaṇḍupaṇḍukajātā bhikkhū, kiṃ nu kho eta’’nti? Etarahi bhagavā tumhākaṃ aggikkhandhopamadhammadesanaṃ kathitakālato paṭṭhāya bhikkhū saṃvegappattā hutvā ‘‘mayaṃ etaṃ dhammaṃ sabbappakārena paripūretuṃ na sakkhissāma, asammāvattantānañca janassa saddhādeyyaṃ paribhuñjituṃ ayutta’’nti gihibhāvaṃ saṅkamantīti.

Đức Đạo Sư du hành theo như ý thích mà không trở về Tịnh Xá Jetavana nữa. Ngài đã bảo các Tỳ-khưu rằng— “Này các Tỳ-khưu, Như Lai khi du hành sống bị quấy rầy lâu rồi. Này các Tỳ-khưu, Ta muốn thiền tịnh trong nửa tháng, không ai đi đến gặp Ta, ngoại trừ một vị mang vật thực.” Ngài đã trải qua khoảng thời gian một mình trong nửa tháng, sau khi xuất khỏi chỗ thiền tịnh, Ngài cùng với Trưởng lão Ānanda trở lại Tịnh Xá, nhìn thấy các vị Tỳ-khưu thưa thớt tại bất cứ chỗ nào nhìn đến, dù đã biết rõ (sự việc), nhưng Ngài vẫn hỏi Trưởng lão Ānanda rằng— “Này Ānanda, trong những thời điểm khác, khi Như Lai du hành trở về Tịnh Xá Jetavana, toàn bộ Tịnh Xá rực rỡ với bóng dáng của y ca-sa, và được tràn ngập bởi vô số hiền triết. Nhưng giờ đây, Hội-chúng Tỳ-khưu dường như thưa thớt, và hầu hết các Tỳ-khưu dường như mắc bệnh vàng da, gầy yếu. Điều này nguyên nhân do đâu?” – Trưởng lão (Ānanda) cung kính đáp: “Bạch Đức Thế Tôn, các vị Tỳ-khưu đã sanh tâm rúng động kể từ khi Ngài thuyết giảng bài Kinh Ví Dụ về Đám Lửa, (họ) nghĩ rằng: “Chúng ta không thể phụng sự Pháp đó với tất cả mọi biểu hiện. Và (họ cũng nghĩ rằng): “Việc một vị Tỳ-khưu thực hành không chân chánh thọ dụng phẩm vật cúng dường do lòng tin của dân chúng thật không xứng đáng” nên mới suy nghĩ hoàn tục trở lại bản thể cư sĩ.

Tasmiṃ khaṇe bhagavato dhammasaṃvego uppajji. Tato theraṃ āha – ‘‘mayi paṭisallāne vītināmente na koci mama puttānaṃ ekaṃ assāsaṭṭhānaṃ kathesi. Sāgarassa hi otaraṇatitthāni viya bahūni imasmiṃ sāsane assāsakāraṇāni. Gacchānanda, gandhakuṭipariveṇe buddhāsanaṃ paññāpetvā bhikkhusaṅghaṃ sannipātehī’’ti. Thero tathā akāsi. Satthā buddhāsanavaragato bhikkhū āmantetvā, ‘‘bhikkhave, mettāya sabbapubbabhāgo nāma neva appanā, na upacāro, sattānaṃ hitapharaṇamattamevā’’ti vatvā imissā aṭṭhuppattiyā imaṃ cūḷaccharāsaṅghātasuttaṃ desesi.

Vào lúc đó, đức Thế Tôn khởi lên trạng thái chấn động. Khi đó, (Ngài) mới nói với Trưởng lão (Ānanda) rằng: “Khi Ta trải qua khoảng thời gian sống thiền tịnh, không ai một lý do nào đó để làm an lòng các con của Ta, nguyên nhân làm cho an lòng trong giáo pháp này có rất nhiều, giống như bờ để đi xuống biển vậy. Này Ānanda, ông hãy đi sắp xếp Phật tọa tại khu vực Hương Thất, và hãy cho Hội chúng Tỳ-khưu tập hợp. Trưởng lão đã làm theo như thế. Bậc Đạo Sư đi đến Phật tọa bảo các vị Tỳ-khưu rằng: “Này các Tỳ-khưu, thông thường toàn bộ phần khởi động ban đầu của Từ (Mettā), không phải là sự chuyên chú (Appanā) hay Xả (Upekkhā), mà chỉ là sự lan tỏa sự lợi ích đến cho tất cả chúng sanh mà thôi,” rồi thuyết giảng bài Kinh Cūḷaccharāsaṅghāta này vì nguyên nhân sanh khởi của vấn đề này.

Tattha accharāsaṅghātamattanti accharāpaharaṇamattaṃ, dve aṅguliyo paharitvā saddakaraṇamattanti attho. Mettācittanti sabbasattānaṃ hitapharaṇacittaṃ. Āsevatīti kathaṃ āsevati? Āvajjento āsevati, jānanto āsevati, passanto āsevati, paccavekkhanto āsevati, cittaṃ adhiṭṭhahanto āsevati, saddhāya adhimuccanto āsevati, vīriyaṃ paggaṇhanto āsevati, satiṃ upaṭṭhāpento āsevati, cittaṃ samādahanto āsevati, paññāya pajānanto āsevati, abhiññeyyaṃ abhijānanto āsevati, pariññeyyaṃ parijānanto āsevati, pahātabbaṃ pajahanto āsevati, bhāvetabbaṃ bhāvento āsevati, sacchikātabbaṃ sacchikaronto āsevatīti (paṭi. ma. 2.2). Idha pana mettāpubbabhāgena hitapharaṇappavattanamatteneva āsevatīti veditabbo.

Ở đấy, chỉ trong khoảnh khắc búng ngón tay: Chỉ trong khoảnh khắc búng ngón tay. Giải thích rằng chỉ cần dùng hai ngón tay búng để tạo ra tiếng kêu (tức là trong khoảng thời gian rất ngắn). Tâm từ: Tâm suy nghĩ lan tỏa sự lợi ích đến tất cả chúng sanh. Rèn luyện: Rèn luyện như thế nào? (Vị Tỳ-khưu) trong khi hướng tâm gọi là rèn luyện, trong khi biết gọi là rèn luyện, trong khi thấy rõ gọi là rèn luyện, trong khi quán xét gọi là rèn luyện, trong khi quyết định tâm gọi là rèn luyện, trong khi hướng đến đức tin gọi là rèn luyện, trong khi ra sức tinh tấn gọi là rèn luyện, trong khi thiết lập niệm gọi là rèn luyện, trong khi  tập trung tâm gọi là rèn luyện, trong khi nhận biết bằng tuệ gọi là rèn luyện, trong khi biết rõ pháp cần được biết rõ gọi là rèn luyện, trong khi biết toàn diện pháp cần được biết toàn diện gọi là rèn luyện, trong khi dứt bỏ pháp cần được dứt bỏ gọi là rèn luyện, trong khi tu tập pháp cần được tu tập gọi là rèn luyện, trong khi chứng ngộ pháp cần được chứng ngộ gọi là rèn luyện.” (paṭi. ma. 2.2); Nhưng ở đây, nên được hiểu rằng việc rèn luyện là chỉ vận hành dựa trên sự lan tỏa lợi ích (sự trợ giúp) trong phần khởi động ban đầu của tâm từ mà thôi.

Arittajjhānoti atucchajjhāno apariccattajjhāno vā. Viharatīti iriyati pavattati pāleti yapeti yāpeti carati viharati. Tena vuccati viharatīti. Iminā padena mettaṃ āsevantassa bhikkhuno iriyāpathavihāro kathito. Satthusāsanakaroti satthu anusāsanikaro. Ovādapatikaroti ovādakārako. Ettha ca sakiṃvacanaṃ ovādo, punappunavacanaṃ anusāsanī. Sammukhāvacanampi ovādo, pesetvā parammukhāvacanaṃ, anusāsanī. Otiṇṇe vatthusmiṃ vacanaṃ ovādo, otiṇṇe vā anotiṇṇe vā vatthusmiṃ tantiṭhapanavasena vacanaṃ anusāsanī. Evaṃ viseso veditabbo. Paramatthato pana ovādoti vā anusāsanīti vā ese eke ekaṭṭhe same samabhāge tajjāte taññevāti. Ettha ca ‘‘accharāsaṅghātamattampi ce, bhikkhave, bhikkhu mettācittaṃ āsevatī’’ti idameva satthusāsanañceva ovādo ca, tassa karaṇato esa sāsanakaro ovādapatikaroti veditabbo.

Trú Thiền tịnh không có trống không: Hành giả có thiền không trống rỗng, hoặc không từ bỏ thiền. An trú: di chuyển, vận hành, bảo hộ, hộ trì, bảo dưỡng, thực hành, trú ngụ. Vì những lý do đó, mà được gọi là an trú. Với từ này, Ngài nói đến sự an trú bằng oai nghi của vị Tỳ-khưu rèn luyện tâm từ. Thực hành theo lời dạy của bậc Đạo Sư: Vị thực hành theo lời chỉ dẫn của bậc Đạo Sư. Thực hành theo lời giáo huấn: Vị thực hành theo lời giáo huấn. Và ở đây, lời nói chỉ nói một lần duy nhất gọi là lời giáo huấn. Còn lời nói lặp đi lặp lại (nhiều lần) gọi là lời chỉ dẫn. Ngay cả lời nói trực diện gọi là lời giáo huấn. Gởi tin tức khi (người ấy) vắng mặt được gọi là lời chỉ dẫn. Lời nói khi sự việc đã xảy ra được gọi là lời giáo huấn, còn lời nói khi sự việc đã xảy ra hay chưa xảy ra được gọi là lời chỉ dẫn. Nên được hiểu sự khác biệt là như vậy. Tuy nhiên, khi nói theo ý nghĩa tuyệt đối, từ ‘lời giáo huấn’ và ‘lời chỉ dẫn’ này đây là một, có ý nghĩa giống nhau, đồng đẳng, tương đồng và đồng khởi lên với nhau. Và ở đây, “Nếu chỉ trong khoảnh khắc búng móng tay, này các Tỳ-khưu, vị Tỳ-khưu rèn luyện tâm từ;” đây chính là ‘lời giáo huấn’ và ‘lời chỉ dẫn’ của bậc Đạo Sư, nên được hiểu rằng vị Tỳ-khưu ấy được gọi là ‘vị thực hành theo lời dạy ’ và ‘vị thực hành theo lời giáo huấn’ (của bậc Đạo Sư) là bởi vì vị ấy đã thực hành theo ‘lời giáo huấn’ và ‘lời chỉ dẫn’ đó.

Amoghanti atucchaṃ. Raṭṭhapiṇḍanti ñātiparivaṭṭaṃ pahāya raṭṭhaṃ nissāya pabbajitena paresaṃ gehato paṭiladdhattā piṇḍapāto raṭṭhapiṇḍo nāma vuccati. Paribhuñjatīti cattāro paribhogā theyyaparibhogo iṇaparibhogo dāyajjaparibhogo sāmiparibhogoti. Tattha dussīlassa paribhogo theyyaparibhogo nāma. Sīlavato apaccavekkhitaparibhogo iṇaparibhogo nāma. Sattannaṃ sekkhānaṃ paribhogo dāyajjaparibhogā nāma. Khīṇāsavassa paribhogo sāmiparibhogo nāma. Tattha imassa bhikkhuno ayaṃ raṭṭhapiṇḍaparibhogo dvīhi kāraṇehi amogho hoti. Accharāsaṅghātamattampi mettācittaṃ āsevanto bhikkhu raṭṭhapiṇḍassa sāmiko hutvā, aṇaṇo hutvā, dāyādo hutvā paribhuñjatītipissa amogho raṭṭhapiṇḍaparibhogo. Accharāsaṅghātamattampi mettaṃ āsevantassa bhikkhuno dinnadānaṃ mahaṭṭhiyaṃ hoti mahapphalaṃ mahānisaṃsaṃ mahājutikaṃ mahāvipphārantipissa amogho raṭṭhapiṇḍaparibhogo. Ko pana vādo ye naṃ bahulīkarontīti ye pana imaṃ mettācittaṃ bahulaṃ āsevanti bhāventi punappunaṃ karonti, te amoghaṃ raṭṭhapiṇḍaṃ paribhuñjantīti ettha vattabbameva kiṃ? Evarūpā hi bhikkhū raṭṭhapiṇḍassa sāmino aṇaṇā dāyādā hutvā paribhuñjantīti.

Không có uổng phí: không trống rỗng. Vật thực của quốc độ: Đồ ăn khất thực đó được gọi là vật thực của quốc độ, bởi vì vật thực đó được vị Tỳ-khưu đã xuất gia, từ bỏ gia quyến, nương nhờ vào người dân ở quốc độ đó, có được từ nhà người khác. Thọ dụng: Có bốn cách thọ dụng là—

1. Thọ dụng như người ăn trộm,
2. Thọ dụng như người mắc nợ,
3. Thọ dụng như thừa tự
4. Thọ dụng như người chủ.

Trong bốn việc thọ dụng đó, việc thọ dụng của kẻ có giới tồi được gọi là thọ dụng như người ăn trộm. Việc thọ dụng mà không quán xét của người giữ giới được gọi là thọ dụng như người mắc nợ. Việc thọ dụng của bảy bậc Thánh Hữu Học được gọi là thọ dụng như người thừa tự. Việc thọ dụng của bậc cạn kiệt các lậu hoặc gọi là thọ dụng như người chủ. Trong bốn việc thọ dụng đó, việc thọ dụng đồ ăn khất thực của quốc độ này của vị Tỳ-khưu này không có uổng phí với hai lý do— vị tỳ khưu trong khi rèn luyện tâm từ chỉ trong khoảnh khắc búng ngón tay được gọi là người chủ của đồ ăn khất thực của quốc độ, là người không mắc nợ, là người thừa tự; vì lý do đó việc thọ dụng đồ ăn khất thực của quốc độ của vị Tỳ-khưu đó được gọi là không có uổng phí. Vật thí được thí chủ bố thí đến cho vị Tỳ-khưu rèn luyện tâm từ dù chỉ trong khoảnh khắc búng ngón tay có sự thành tựu to lớn, có quả báo to lớn, có lợi ích to lớn, có sự rực rỡ to lớn, và có sự lan tỏ to lớn, vì lý do đó việc thọ dụng đồ ăn khất thức của quốc độ của vị Tỳ-khưu ấy không có uổng phí. Còn nói gì những người làm cho sung mãn tâm từ ấy: Ở đây hoàn toàn có thể nói rằng: “Những vị Tỳ-khưu nào rèn luyện, tu tập nhiều, và thực hành thường xuyên tâm từ này, thì các vị ấy thọ dụng đồ ăn khất thực của quốc độ không có uổng phí.” Thật vậy, vị Tỳ-khưu có hình thức như vậy là người chủ của đồ ăn khất thực của quốc độ, là người không mắc nợ, là người thừa tự.

54-55. Catutthe bhāvetīti uppādeti vaḍḍheti. Pañcame manasi karotīti manasmiṃ karoti. Sesaṃ imesu dvīsupi tatiye vuttanayeneva veditabbaṃ. Yo hi āsevati, ayameva bhāveti, ayaṃ manasi karoti. Yena cittena āsevati, teneva bhāveti, tena manasi karoti. Sammāsambuddho pana yāya dhammadhātuyā suppaṭividdhattā desanāvilāsappatto nāma hoti, tassā suppaṭividdhattā attano desanāvilāsaṃ dhammissariyataṃ paṭisambhidāpabhedakusalataṃ appaṭihatasabbaññutaññāṇañca nissāya ekakkhaṇe uppannaṃ ekacittameva tīhi koṭṭhāsehi vibhajitvā dassesīti.

54-55. Trong bài Kinh thứ tư, tu tập: làm cho sanh khởi, làm cho tăng trưởng. Trong bài Kinh thứ năm, tác ý: tác ý (đúng đường lối). Những từ còn lại, cả trong hai Kinh này nên được hiểu theo ý nghĩa đã giải thích trong Kinh thứ ba. Thật vậy, vị nào đang rèn luyện, thì chính vị này gọi là đang tu tập, và vị này được gọi là tác ý. Vị Tỳ-khưu rèn luyện bằng tâm nào, thì gọi là tu tập bằng chính tâm đó, và được gọi là tác ý bằng tâm đó. Hơn nữa, bậc Chánh đẳng Chánh giác được gọi là vị hoàn hảo về vẻ đẹp của sự thuyết giảng bởi vì Ngài thấu triệt rõ ràng bản thể của các pháp nào, thì dựa vào vẻ đẹp của sự thuyết giảng, bản thể đấng Pháp Vương, sự thiện xảo trong việc chia chẻ bằng bốn tuệ Phân Tích và Trí Toàn Tri không bị trở ngại của Ngài bởi vì là vị thấu triệt rõ ràng bản thể của các pháp ấy, nên sau khi phân tích mới thuyết giảng chỉ một tâm duy nhất sanh khởi trong một sát-na theo cả ba phần (tức là rèn luyện, tu tập, và tác ý).

56. Chaṭṭhe ye kecīti aniyāmitavacanaṃ. Akusalāti tesaṃ niyāmitavacanaṃ. Ettāvatā sabbākusalā asesato pariyādinnā honti. Akusalabhāgiyāakusalapakkhikāti akusalānamevetaṃ nāmaṃ. Akusalāyeva hi ekacce akusalaṃ sahajātavasena, ekacce upanissayavasena bhajanti ceva, tesañca pakkhā bhavantīti ‘‘akusalabhāgiyā akusalapakkhikā’’ti vuccanti. Sabbete manopubbaṅgamāti mano pubbaṃ paṭhamataraṃ gacchati etesanti manopubbaṅgamā. Ete hi kiñcāpi manena saddhiṃ ekuppādā ekavatthukā ekanirodhā ekārammaṇā ca honti. Yasmā pana tesaṃ mano uppādako kārako janako samuṭṭhāpako nibbattako, tasmā manopubbaṅgamā nāma honti.

Trong bài kinh Thứ sáu, bất cứ những pháp nào: Từ xác định không rõ ràng. Các bất thiện: Từ xác định rõ ràng của các bất thiện ấy. Chỉ bấy nhiêu, tất cả bất thiện đều được xác định không bị thiếu sót. Dự phần vào bất thiện, thuộc về nhóm bất thiện: Đều là tên gọi của các pháp bất thiện ấy. Thật vậy, chính các bất thiện ấy một số được gọi là Tâm Bất Thiện do mãnh lực các Pháp Đồng Sinh, một số thì tương ứng với nhau do mãnh lực Cận Y Duyên, và thuộc về nhóm bất thiện đó, vì lý do đó, Ngài mới nói rằng “dự phần vào bất thiện” và “thuộc về nhóm bất thiện”. Tất cả các pháp ấy có tâm là sự dẫn đầu: Ý (tâm) dẫn đầu, tức là đến trước các Pháp đó. Vì vậy, các Pháp đó được gọi là có tâm là sự dẫn đầu. Thật vậy, dù các Pháp đó có sự sanh lên cùng một lúc, đồng nương cùng một vật, có sự chấm dứt cùng một lúc, và có cùng một đối tượng với tâm; tuy nhiên, vì tâm làm cho các Pháp đó sanh khởi, làm cho chúng được thực hiện, làm cho chúng được sanh ra, làm cho chúng được hình thành và làm cho chúng được sản sanh ra, cho nên các Pháp đó được gọi là có ý là sự dẫn đầu.

Paṭhamaṃ uppajjatīti yathā nāma ‘‘rājā nikkhanto’’ti vutte ‘‘rājāyeva nikkhanto, sesā rājasenā nikkhantā anikkhantā’’ti pucchitabbakāraṇaṃ natthi, sabbā nikkhantāteva paññāyanti, evameva mano uppannoti vuttakālato paṭṭhāya avasesā sahajātasaṃsaṭṭhasampayuttā uppannā na uppannāti pucchitabbakāraṇaṃ natthi, sabbe te uppannā tveva paññāyanti. Etamatthavasaṃ paṭicca tehi saṃsaṭṭhasampayutto ekuppādekanirodhopi samāno mano tesaṃ dhammānaṃ paṭhamaṃ uppajjatīti vutto. Anvadevāti anudeva, saheva ekatoyevāti attho. Byañjanacchāyaṃ pana gahetvā paṭhamaṃ cittaṃ uppajjati, pacchā cetasikāti na gahetabbaṃ. Attho hi paṭisaraṇaṃ , na byañjanaṃ. ‘‘Manopubbaṅgamā dhammā, manoseṭṭhā manomayā’’ti gāthāyapi eseva nayo.

Sanh khởi trước (các pháp ấy): Khi nói rằng “Đức Vua đã khởi hành”, thì không cần phải nói thêm rằng “đoàn quân còn lại của đức Vua đã khởi hành hay chưa khởi hành,” mọi người đều hiểu rằng “đoàn quân của đức Vua đã khởi hành,” như thế nào; ý cũng tương tự y như thế, không cần phải nói thêm rằng “kể từ thời điểm đang nói ‘đã sanh khởi’ thì các pháp còn lại đồng sanh, hòa hợp, (và) tương ưng với nhau đã sanh khởi hay chưa sanh khở’”. Tất cả các Pháp đó đều được xem là đã sinh khởi rồi, do dựa vào tác động về lợi ích này mà Tâm được hòa hợp và tương ưng với các Pháp đó, dầu có sự sanh lên cùng một lúc, và có sự chấm dứt cùng lúc, thì Ngài vẫn gọi là (tâm) sanh khởi trước các Pháp đó. Theo sau: đi theo sau, đi theo cùng, giải thích rằng: hoàn toàn cùng nhau. uy nhiên, khi nắm bắt ý chính của văn tự, thì không nên hiểu rằng Tâm sanh trước và Tâm Sở sanh sau. Thật vậy, ý nghĩa là sự nương tựa của các văn tự, ngay cả trong kệ ngôn “Các pháp (sở hữu tâm) có tâm là sự dẫn đầu, có tâm là chủ đạo, được tạo ra bởi tâm,” cũng có cách thức tương tự

Sattame kusalāti catubhūmakāpi kusalā dhammā kathitā. Sesaṃ chaṭṭhe vuttanayeneva veditabbaṃ.

Trong bài Kinh thứ bảy, các thiện— các pháp thiện vận hành trong bốn cõi được gọi là thiện. Các từ còn lại nên được hiểu theo phương thức đã được trình bày trong bài Kinh thứ sáu.

58. Aṭṭhame yathayidaṃ, bhikkhave, pamādoti ettha, bhikkhaveti ālapanaṃ, yathā ayaṃ pamādoti attho. Pamādoti pamajjanākāro. Vuttañhetaṃ –

Trong bài Kinh thứ tám, ở đây, ‘này các Tỳ-khưu’ trong câu ‘này các Tỳ-khưu, như phóng dật’ là hô cách, nghĩa là giống như sự phóng dật này. Phóng dật: biểu hiện là sự xao lãng. Bởi vì điều này đã được nói rằng—

‘‘Tattha katamo pamādo? Kāyaduccarite vā vacīduccarite vā manoduccarite vā pañcasu vā kāmaguṇesu cittassa vossaggo vossaggānuppadānaṃ kusalānaṃ vā dhammānaṃ bhāvanāya asakkaccakiriyatā asātaccakiriyatā anaṭṭhitakiriyatā olīnavuttitā nikkhittachandatā nikkhittadhuratā anadhiṭṭhānaṃ ananuyogo anāsevanā abhāvanā abahulīkammaṃ . Yo evarūpo pamādo pamajjanā pamajjitattaṃ, ayaṃ vuccati pamādo’’ti (vibha. 846).

Ở đây, phóng dật là (có ý nghĩa) như thế nào? là sự buông thả hoặc sự buông xuôi trong việc buông thả của tâm ở uế hạnh về thân, ở uế hạnh về khẩu, ở uế hạnh về ý, hoặc ở năm loại dục, hoặc là trạng thái thực hành không nghiêm trang, trạng thái thực hành không liên tục, trạng thái thực hành không ổn định, có thói quen biếng nhác, trạng thái buông bỏ mong muốn, trạng thái buông bỏ bổn phận, hoặc là trạng thái thực hành không nghiêm trang, trạng thái thực hành không liên tục, trạng thái thực hành không ổn định, có thói quen biếng nhác, trạng thái buông bỏ mong muốn, trạng thái buông bỏ bổn phận, sự không tập luyện, sự không tu tập, sự không làm thường xuyên; sự phóng dật nào có hình thức như vậy là biểu hiện phóng dật, trạng thái phóng dật; việc này được gọi là phóng dật. (vibha. 846).

Uppannā ca kusalā dhammā parihāyantīti idaṃ jhānavipassanānaṃ vasena vuttaṃ. Maggaphalānaṃ pana sakiṃ uppannānaṃ puna parihānaṃ nāma natthi.

Và các pháp thiện đã sanh bị đoạn tận: Điều này được nói đến liên quan đến Thiền Định (Jhāna) và Minh Sát (Vipassanā). Còn Đạo và Quả thì chỉ sanh khởi một lần không bị suy thoái nữa.

59. Navame appamādo pamādassa paṭipakkhavasena vitthārato veditabbo.

Trong bài Kinh thứ chín, sự không phóng dật nên được hiểu chi tiết thông qua sự đối lập hoàn toàn với sự phóng dật.

60. Dasame kosajjanti kusītabhāvo. Sesaṃ vuttanayamevāti.

Trong bài Kinh thứ mười, biếng nhác: là trạng thái lười biếng. Các từ còn lại có ý nghĩa như đã được đề cập (trong các phần trước đó).

Giải thích phẩm búng ngón tay được kết thúc

Phẩm thứ sáu được kết thúc