05. GIẢI THÍCH CHƯƠNG MỘT PHÁP (V – Giải Thích Phẩm Đặt Hướng và Trong Sáng)

Xem Tăng Chi Bộ Kinh – Chương 1 pháp – Phẩm 1-14 

41. Pañcamassa paṭhame seyyathāpīti opammatthe nipāto. Tatra bhagavā katthaci atthena upamaṃ parivāretvā dasseti vatthasutte (ma. ni. 1.70 ādayo) viya, pāricchattakopama- (a. ni. 7.69) aggikkhandhopamādisuttesu (a. ni. 7.72) viya ca, katthaci upamāya atthaṃ parivāretvā dasseti loṇambilasutte (a. ni. 3.101) viya, suvaṇṇakārasuttasūriyopamādisuttesu (a. ni. 7.66) viya ca. Imasmiṃ pana sālisūkopame upamāya atthaṃ parivāretvā dassento seyyathāpi, bhikkhavetiādimāha. Tattha sālisūkanti sāliphalassa sūkaṃ. Yavasūkepi eseva nayo. Vā-saddo vikappattho. Micchāpaṇihitanti micchāṭhapitaṃ. Yathā vijjhituṃ sakkoti, na evaṃ uddhaggaṃ katvā ṭhapitanti attho. Bhecchatīti bhindissati, chaviṃ chindissatīti attho. Micchāpaṇihitena cittenāti micchāṭhapitena cittena. Vaṭṭavasena uppannacittaṃ sandhāyetaṃ vuttaṃ. Avijjanti aṭṭhasu ṭhānesu aññāṇabhūtaṃ ghanabahalaṃ mahāavijjaṃ. Vijjaṃ uppādessatīti ettha vijjanti arahattamaggañāṇaṃ. Nibbānanti taṇhāvānato nikkhantabhāvena evaṃ vuttaṃ amataṃ. Sacchikarissatīti paccakkhaṃ karissati.

Bài Kinh thứ nhất của Phẩm thứ năm, ‘ví như’ là một phân từ (được sử dụng) trong ý nghĩa sự so sánh. Trong ý nghĩa so sánh ấy, một vài chỗ đức Thế Tôn thuyết giảng sử dụng ý nghĩa bao quanh ví dụ so sánh như trong Kinh Ví Dụ Tấm Vải (ma. ni. 1.70 ādayo), và trong Kinh Ví Dụ Cây San Hô (a. ni. 7.69) và Kinh Ví Dụ Đám Lửa (a. ni. 7.72). Ở một số chỗ, Ngài thuyết giảng ví dụ so sánh bao quanh ý nghĩa, giống như trong Kinh Loṇambila (a. ni. 3.101), và giống như trong Kinh Suvaṇṇakāra (Thợ Kim Hoàn) và Kinh Ví Dụ về Mặt Trời (a. ni. 7.66). Nhưng trong Kinh ví dụ về sợi râu của lúa mì này, đức Thế Tôn khi thuyết giảng sử dụng ví dụ so sánh bao quanh ý nghĩa, nên đã nói lời bắt đầu như sau: “Này các Tỳ-khưu, ví như…” Ở đó, sợi râu của lúa mì– sợi râu của hạt lúa mì. Sợi râu của lúa mạch cũng có cách thức tương tự. Từ ‘vā’ có ý nghĩa không chắc chắn. Được đặt sai hướng: Đã được đặt sai hướng. Giải thích rằng– không đặt phần ngọn hướng lên theo cách có thể đâm thủng như vậy. Đâm thủng: sẽ làm rách, sẽ cắt đứt (gây tổn thương) lớp da. Có tâm được đặt sai hướng: Với tâm được đặt sai hướng. Điều này được nói đề cập đến Tâm sanh khởi do mãnh lực luân hồi. Vô minh: Sự không hiểu biết to lớn, bao phủ bởi sự dày đặc là sự không hiểu biết trong tám trường hợp[1]. ‘Minh’ trong câu ‘làm minh sanh khởi’ này bao gồm trí tương ưng với A-ra-hán Đạo. Niết Bàn: Bất tử được gọi như vậy bởi trạng thái thoát ra khỏi sự trói buộc là tham ái. Sẽ tác chứng: Sẽ làm cho hiển lộ.

Dutiye sammāpaṇihitanti yathā bhindituṃ sakkoti, evaṃ uddhaggaṃ katvā suṭṭhu ṭhapitaṃ. Akkantanti ettha pādeneva akkantaṃ nāma hoti, hatthena uppīḷitaṃ. Ruḷhisaddavasena pana akkantanteva vuttaṃ. Ayañhettha ariyavohāro.

Trong bài Kinh thứ hai, được đặt đúng hướng: Đặt khéo léo bởi vì đã đặt phần ngọn hướng lên theo cách có thể đâm thủng được. Chạm vào: Được gọi là chạm vào bởi giẫm vào bằng chính bàn chân, (hoặc) bóp ấn bằng tay. Nhưng nói là ‘giẫm’ cũng do là từ ngữ được sử dụng quen thuộc mà thôi. Thật vậy, trong bài Kinh này, chỉ có sự diễn đạt ngôn ngữ của bậc Thánh mà thôi.

Kasmā pana aññe sepaṇṇikaṇṭakamadanakaṇṭakādayo mahante aggahetvā sukhumaṃ dubbalaṃ sālisūkayavasūkameva gahitanti? Appamattakassāpi kusalakammassa vivaṭṭāya samatthabhāvadassanatthaṃ. Yathā hi sukhumaṃ dubbalaṃ sālisūkaṃ vā yavasūkaṃ vā hotu, mahantamahantā sepaṇṇikaṇṭakamadanakaṇṭakādayo vā, etesu yaṃkiñci micchā ṭhapitaṃ hatthaṃ vā pādaṃ vā bhindituṃ lohitaṃ vā uppādetuṃ na sakkoti, sammā ṭhapitaṃ pana sakkoti, evameva appamattakaṃ tiṇamuṭṭhi mattadānakusalaṃ vā hotu, mahantaṃ velāmadānādikusalaṃ vā, sace vaṭṭasampattiṃ patthetvā vaṭṭasannissitavasena micchā ṭhapitaṃ hoti, vaṭṭameva āharituṃ sakkoti, no vivaṭṭaṃ. ‘‘Idaṃ me dānaṃ āsavakkhayāvahaṃ hotū’’ti evaṃ pana vivaṭṭaṃ patthentena vivaṭṭavasena sammā ṭhapitaṃ arahattampi paccekabodhiñāṇampi sabbaññutañāṇampi dātuṃ sakkotiyeva. Vuttañhetaṃ –

Tại sao Ngài không lấy các vật khác to lớn hơn như gai cây Sepaṇṇikā, v.v, mà chỉ lấy sợi râu của lúa mì và sợi râu của lúa mạch là những thứ mềm, không cứng? Để chỉ ra rằng: Bất thiện nghiệp dù có số lượng nhỏ cũng có thể giết chết thiện nghiệp. Giống như: Sợi râu của lúa mì hoặc sợi râu của lúa mạch là vật mềm, không cứng, hay gai cây Sepaṇṇikā và các loại cây gai to lớn khác, v.v. Dù là loại gai nào trong số đó, nếu đặt sai hướng thì không thể đâm thủng vào tay, chân hay làm chảy máu. Nhưng nếu đặt đúng hướng thì có thể đâm thủng, tương tự như vậy thiện nghiệp dù chỉ có số lượng nhỏ như cho đi một nắm lá hay thiện nghiệp to lớn như sự bố thí của Bà-la-môn Velāma, v.v., nếu mong cầu sự thành tựu của luân hồi, tâm đó được gọi là “Tâm đặt sai hướng” do tác động nương tựa vào luân hồi, chỉ có thể đưa đến luân hồi mà thôi, không thể đưa đến xuất ra khỏi luân hồi. Nhưng khi một người mong cầu thoát ra khỏi luân hồi như thế này: “Nguyện cho sự bố thí này của tôi dẫn đến sự cạn kiệt các lậu hoặc,” (Tâm đó) được gọi là “đặt đúng hướng” do mãnh lực xuất ra khỏi luân hồi, có thể cho thành tựu cả quả vị A-la-hán, cho thành tựu trí giác ngộ của vị Phật-độc-giác, cho thành tựu trí giác ngộ của vị Toàn giác. Bởi vì việc này đã được Ngài nói rằng—

‘‘Paṭisambhidā vimokkhā ca, yā ca sāvakapāramī;
Paccekabodhi buddhabhūmi, sabbametena labbhatī’’ti. (khu. pā. 8.15);

Imasmiṃ suttadvaye ca vaṭṭavivaṭṭaṃ kathitaṃ.

Các tuệ phân tích, các pháp giải thoát, và sự toàn hảo của bậc Thinh Văn, quả vị Độc Giác, và lãnh địa của đức Phật (Toàn Giác), tất cả đều được thành tựu nhờ vào việc (phước báu) này.

Và trong cả hai bài Kinh này, Ngài nói cả về luân hồi và xuất ra khỏi luân hồi.

43. Tatiye paduṭṭhacittanti dosena paduṭṭhacittaṃ. Cetasā cetopariccāti attano cittena tassa cittaṃ paricchinditvā. Yathābhataṃ nikkhittoti yathā āharitvā ṭhapito. Evaṃ nirayeti evaṃ niraye ṭhitoyevāti vattabbo. Apāyantiādi sabbaṃ nirayavevacanameva. Nirayo hi ayasaṅkhātā sukhā apetoti apāyo, dukkhassa gati paṭisaraṇanti duggati, dukkaṭakārino ettha vivasā nipatantīti vinipāto, nirassādatthena nirayo.

Trong bài Kinh thứ ba, tâm uế nhiễm: Tâm uế nhiễm do sân hận. Hiểu biết tâm bằng tâm: Xác định tâm của một người bằng tâm của chính mình. Đặt nằm xuống như thế tương ứng: Đã được mang đi đặt xuống như thế (tương xứng với nghiệp đã làm). Bị đọa vào địa ngục: Nên biết rằng được đặt vào (bị rơi vào) địa ngục như thế. Khổ Cảnh: Tất cả đều là từ đồng nghĩa với địa ngục. Thật vậy, địa ngục không có sự hạnh phúc, sự phát triển nên gọi là đọa xứ. Đi đến cảnh giới của sự đau khổ để nương tựa gọi là cõi khổ. Nơi trừng phạt vì là chỗ mà người thường làm ác sa đọa vào, mất hết quyền lực. Địa ngục bởi ý nghĩa không có sự thỏa thích.

44. Catutthe pasannanti saddhāpasādena pasannaṃ. Sugatinti sukhassa gatiṃ. Saggaṃ lokanti rūpādisampattīhi suṭṭhu aggaṃ lokaṃ.

Trong bài Kinh thứ tư, tịnh tin: tịnh tín với sự tịnh tín do đức tin. Chốn an vui: đi đến cảnh giới của sự an lạc. Cõi Trời: Thế giới cao cả với sự thành tựu của sắc, v.v.

45. Pañcame udakarahadoti udakadaho. Āviloti avippasanno. Luḷitoti aparisaṇṭhito. Kalalībhūtoti kaddamībhūto. Sippisambukantiādīsu sippiyo ca sambukā ca sippisambukaṃ. Sakkharā ca kaṭhalāni ca sakkharakaṭhalaṃ. Macchānaṃ gumbaṃ ghaṭāti macchagumbaṃ. Carantampi tiṭṭhantampīti ettha sakkharakaṭhalaṃ tiṭṭhatiyeva, itarāni carantipi tiṭṭhantipi. Yathā pana antarantarā ṭhitāsupi nisinnāsupi nipajjamānāsupi ‘‘etā gāviyo carantī’’ti carantiyo upādāya itarāpi ‘‘carantī’’ti vuccanti, evaṃ tiṭṭhantameva sakkharakaṭhalaṃ upādāya itarampi dvayaṃ ‘‘tiṭṭhanta’’nti vuttaṃ, itaraṃ dvayaṃ carantaṃ upādāya sakkharakaṭhalampi ‘‘caranta’’nti vuttaṃ.

Trong bài Kinh thứ năm, hồ nước: hồ nước. Uế nhớp: không trong. Bị khuấy động: không sạch. Đục bùn: có bùn sình. Các con ốc, các con sò, v.v, các con ốc và các con sò gọi là Các con ốc, các con sò. Các hòn sạn và các hòn sỏi gọi là các hòn sạn, các hòn sỏi. Các bầy, các đàn cá gọi là các đàn cá. Bơi qua lại, đứng yên: giải thích rằng– các hòn sạn và các hòn sỏi đứng yên, các vật khác ngoài ra đứng yên cũng có, di chuyển cũng có. Giống như, giữa một đàn bò đang đứng, đang dừng lại hoặc đang nằm, những con bò khác ngoài ra bị gọi là “đang đi” do dựa vào con bò đang đi rằng: “những con bò này đang đi”. Cũng như vậy, các hòn sạn và các hòn sỏi cả hai ngoài ra này được gọi là ‘đứng yên’ bởi y cứ các hòn sạn và các hòn sỏi đang đứng yên; và các hòn sạn và các hòn sỏi được gọi là ‘đang di chuyển’ cũng do y cứ vào đàn cá đang bơi.

Āvilenāti pañcahi nīvaraṇehi pariyonaddhena. Attatthaṃ vātiādīsu attano diṭṭhadhammiko lokiyalokuttaramissako attho attattho nāma. Attanova samparāye lokiyalokuttaramissako attho parattho nāma hoti. So hi parattha atthoti parattho. Tadubhayaṃ ubhayattho nāma. Apica attano diṭṭhadhammikasamparāyikopi lokiyalokuttaro attho attattho nāma, parassa tādisova attho parattho nāma, tadubhayampi ubhayattho nāma. Uttariṃ vā manussadhammāti dasakusalakammapathasaṅkhātā manussadhammā uttariṃ. Ayañhi dasavidho dhammo vināpi aññaṃ samādāpakaṃ satthantarakappāvasāne jātasaṃvegehi manussehi sayameva samādinnattā manussadhammoti vuccati, tato uttariṃ pana jhānavipassanāmaggaphalāni veditabbāni. Alamariyañāṇadassanavisesanti ariyānaṃ yuttaṃ, ariyabhāvaṃ vā kātuṃ samatthaṃ ñāṇadassanasaṅkhātaṃ visesaṃ. Ñāṇameva hi jānanaṭṭhena ñāṇaṃ, dassanaṭṭhena dassananti veditabbaṃ, dibbacakkhuñāṇa– vipassanāñāṇa– maggañāṇa– phalañāṇa– paccavekkhaṇañāṇānametaṃ adhivacanaṃ.

(Tâm) bị khuấy đục: Bị bao bọc lại bởi năm pháp che lấp. Được lợi ích của mình, v.v, Lợi ích của bản thân được hòa trộn giữa Hiệp Thế và Siêu Thế, liên quan trong thời hiện tại gọi là lợi ích của mình. Lợi ích của bản thân được hòa trộn giữa Hiệp Thế và Siêu Thế trong kiếp vị lai được gọi là lợi ích liên quan đời sau. Ngay cả lợi ích liên quan đời sau cũng gọi là lợi ích cho người khác, bởi vì nó gắn liền với lợi ích của người khác. Cả hai điều lợi ích đó được gọi là lợi ích cho cả hai. Hoặc là, vượt trên pháp của loài người: vượt trên pháp của loài người được xem là mười đường lối tạo nghiệp thiện. Thật vậy, Mười Pháp này, ngay cả khi không có người khác khuyến khích, vẫn được gọi là Pháp của loài người, bởi vì đó là những Pháp mà loài người, khởi lên sự chấn động, đã tự mình thọ trì vào cuối kiếp đao binh (kiếp mà con người chém giết nhau bằng vũ khí). Tuy nhiên, Thiền và Minh sát, Đạo và Quả nên được biết là vượt trên pháp của loài người ấy. Sự siêu việt của tri kiến xứng đáng với bậc Thánh: Sự siêu việt được xem là tri kiến (sự biết và thấy) xứng đáng với các bậc Thánh, hoặc có thể thực hiện để trở thành bậc Thánh. Thật vậy, chính trí ấy nên được biết rằng trí với ý nghĩa nhận biết, kiến với ý nghĩa thấy. Đây cũng là thuật ngữ của trí về thiên nhãn, trí minh sát, trí về Đạo, trí về Quả và trí về việc quán xét lại.

46. Chaṭṭhe acchoti abahalo, pasannotipi vaṭṭati. Vippasannoti suṭṭhu pasanno. Anāviloti na āvilo, parisuddhoti attho, pheṇapubbuḷasaṅkhasevālapaṇakavirahitoti vuttaṃ hoti. Anāvilenāti pañcanīvaraṇavimuttena. Sesaṃ catutthe vuttanayameva. Imasmimpi suttadvaye vaṭṭavivaṭṭameva kathitaṃ.

Trong bài Kinh thứ sáu, trong: không mờ đục, sạch cũng thích hợp. Tinh khiết: hoàn toàn trong sạch. không bị khuấy đục: không vẩn đục, có nghĩa là sạch sẽ. Ngài đã giải thích rằng: không có bọt nước, không có rong rêu hay bèo (ví như nước trong không bị lẫn tạp chất). Với (Tâm) không bị khuấy đục: với sự thoát ra khỏi năm pháp che lấp. Những từ còn lại có cách thức như đã được giải thích trong bài Kinh thứ tư. Trong hai bài kinh này, Ngài đã trình bày cả phần luân hồi và phần thoát ra khỏi luân hồi.

47. Sattame rukkhajātānanti paccatte sāmivacanaṃ, rukkhajātānīti attho. Rukkhānametaṃ adhivacanaṃ. Yadidanti nipātamattaṃ. Mudutāyāti mudubhāvena. Koci hi rukkho vaṇṇena aggo hoti, koci gandhena, koci rasena, koci thaddhatāya. Phandano pana mudutāya ceva kammaññatāya ca aggo seṭṭhoti dasseti. Cittaṃ, bhikkhave, bhāvitaṃ bahulīkatanti ettha samathavipassanāvasena bhāvitañceva punappunakatañca cittaṃ adhippetaṃ. Kurundakavāsi phussamittatthero panāha – ‘‘ekantaṃ mudu ceva kammaniyañca cittaṃ nāma abhiññāpādakacatutthajjhānacittameva, āvuso’’ti.

Trong bài Kinh thứ bảy, cây cối: là cách thứ sáu (Sở hữu) được sử dụng trong ý nghĩa cách thứ nhất (Chủ cách), có nghĩa là tất cả cây cối. Đây là tên gọi của các loại cây cối. Yadidaṃ: là một phân từ. Mềm: với tính chất cây thân mềm. Đức Phật muốn chỉ rằng: một số loại cây thì nổi bật về màu sắc, một số thì nổi bật về mùi hương, một số thì nổi bật về vị, và một số thì nổi bật về tính chất cứng. Còn gỗ trầm (gỗ chiên đàn) thì vượt trội hơn cả, là loại gỗ quý – bởi vì là loại gỗ mềm và thích ứng cho việc chế tác. Này các Tỳ-khưu, tâm được tu tập, được làm cho sung mãn: Ở đây, Ngài có ý muốn nói đến Tâm đã được tu tập và đã được thực hành thường xuyên do mãnh lực của Chỉ tịnh và Minh sát. Còn Trưởng lão Pussamitta, vị cư ngụ ở Tịnh xá Kurundaka, lại nói rằng: “Này chư Hiền, chỉ có Tâm trong Tứ Thiền làm nền tảng cho Thần Thông mới là Tâm nhu nhuyến và hoàn toàn thích ứng với công việc.”

48. Aṭṭhame evaṃ lahuparivattanti evaṃ lahuṃ uppajjitvā lahuṃ nirujjhanakaṃ. Yāvañcāti adhimattapamāṇatthe nipāto, ativiya na sukarāti attho. Idanti nipātamattaṃ. Cittanti ekacce tāva ācariyā ‘‘bhavaṅgacitta’’nti vadanti, taṃ pana paṭikkhipitvā ‘‘idha cittanti yaṃkiñci antamaso cakkhuviññāṇampi adhippetamevā’’ti vuttaṃ. Imasmiṃ panatthe milindarājā dhammakathikaṃ nāgasenattheraṃ pucchi, ‘‘bhante nāgasena, ekasmiṃ accharākkhaṇe pavattitacittasaṅkhārā sace rūpino assu, kīva mahārāsi bhaveyyā’’ti? ‘‘Vāhasatānaṃ kho, mahārāja, vīhīnaṃ aḍḍhacūḷañca vāhā vīhisattambaṇāni dve ca tumbā ekaccharākkhaṇe pavattitassa cittassa saṅkhampi na upenti, kalampi na upenti, kalabhāgampi na upentī’’ti (mi. pa. 4.1.2). Atha kasmā sammāsambuddhena ‘‘upamāpi na sukarā’’ti vuttaṃ? Yatheva hi upamaṃ paṭikkhipitvāpi kappadīghabhāvassa yojanikapabbatena yojanikasāsapapuṇṇanagarena, nirayadukkhassa sattisatāhatopamena, saggasukhassa ca cakkavattisampattiyā upamā katā, evamidhāpi kātabbāti? Tattha ‘‘sakkā pana, bhante, upamā kātu’’nti evaṃ pucchāvasena upamā katā, imasmiṃ sutte pucchāya abhāvena na katā. Idañhi suttaṃ dhammadesanāpariyosāne vuttaṃ. Iti imasmiṃ sutte cittarāsi nāma kathitoti.

Trong bài Kinh thứ tám, vận chuyển nhẹ nhàng hơn tâm: sanh khởi nhanh chóng, diệt nhanh chóng với biểu hiện như vậy. Yāvañca: là một phân từ, được sử dụng với ý nghĩa vượt trội, có giới hạn tột cùng, giải thích rằng– không phải là điều có thể làm được một cách dễ dàng. Idaṃ: chỉ là một phân từ. Tâm: trước hết, một số vị thầy nói là “Tâm Hộ-kiếp”, nhưng Ngài đã phủ nhận điều đó và nói rằng: “Bất kỳ một loại tâm nào, dù chỉ là Nhãn Thức cũng được đề cập đến là tâm trong trường hợp này.” Nhưng ở đây, đức Vua Milinda đã hỏi Trưởng lão Nāgasena là vị Pháp sư rằng: “Thưa Ngài Nāgasena, nếu Tâm Hành vận hành trong khoảng thời gian khảy móng tay, nếu là hữu hình, thì sẽ là một khối to lớn đến mức nào?” – Trưởng lão Nāgasena đáp rằng: “Tâu đại vương, có một trăm xe lúa, mỗi xe là bảy tạ rưỡi và hai giạ lúa, không thể áp đặt phép tính, không thể áp đặt sự chia chẻ, và không thể áp đặt luôn cả sự tách phần của tâm được vận hành trong khoảng thời gian một khảy móng tay.” (mi. pa. 4.1.2); Nếu đã như vậy, vì lý do gì mà bậc Chánh đẳng Chánh giác lại tuyên bố rằng: “Ngay cả ví dụ so sánh cũng không dễ dàng thực hiện?” Thật vậy, cả Ngài (Trưởng lão Nāgasena), sau khi phủ nhận ví dụ so sánh bằng lúa mì cũng đã thực hiện ví dụ so sánh (như sau)—so sánh độ dài của Kiếp với ngọn núi cao một do-tuần, và với thành phố đầy hạt cải dài một do-tuần; so sánh khổ đau của chúng sinh địa ngục với việc bị đâm bằng một trăm ngọn giáo; so sánh sự an lạc ở cõi trời với sự thành tựu của Vua Chuyển Luân Thánh Vương—thì ở đây cũng nên thực hiện ví dụ so sánh như vậy.” Trong tác phẩm Milinda vấn đạo, Ngài (Trưởng lão Nāgasena) đã cho ví dụ dựa trên câu hỏi như vầy (của đức vua): “Thưa Ngài, có thể cho một ví dụ được không?” Trong bài Kinh này, Ngài không cho ví dụ là bởi vì không có sự hỏi (thỉnh cầu). Thật vậy, bài Kinh này đã được thuyết giảng ở phần cuối của bài Pháp thoại. Trong bài Kinh này, tâm được gọi tên là Cittarāsi (Đống Tâm/Khối Tâm) theo cách thức như thế.

49. Navame pabhassaranti paṇḍaraṃ parisuddhaṃ. Cittanti bhavaṅgacittaṃ. Kiṃ pana cittassa vaṇṇo nāma atthīti? Natthi. Nīlādīnañhi aññataravaṇṇaṃ vā hotu avaṇṇaṃ vā yaṃkiñci parisuddhatāya ‘‘pabhassara’’nti vuccati. Idampi nirupakkilesatāya parisuddhanti pabhassaraṃ. Tañca khoti taṃ bhavaṅgacittaṃ. Āgantukehīti asahajātehi pacchā javanakkhaṇe uppajjanakehi. Upakkilesehīti rāgādīhi upakkiliṭṭhattā upakkiliṭṭhaṃ nāmāti vuccati. Kathaṃ? Yathā hi sīlavantā ācārasampannā mātāpitaro vā ācariyupajjhāyā vā dussīlānaṃ durācārānaṃ avattasampannānaṃ puttānañceva antevāsikasaddhivihārikānañca vasena ‘‘attano putte vā antevāsikasaddhivihārike vā na tajjenti na sikkhāpenti na ovadanti nānusāsantī’’ti avaṇṇaṃ akittiṃ labhanti, evaṃsampadamidaṃ veditabbaṃ. Ācārasampannā mātāpitaro viya ca ācariyupajjhāyā viya ca bhavaṅgacittaṃ daṭṭhabbaṃ, puttādīnaṃ vasena tesaṃ akittilābho viya javanakkhaṇe rajjanadussanamuyhanasabhāvānaṃ lobhasahagatādīnaṃ cittānaṃ vasena uppannehi āgantukehi upakkilesehi pakatiparisuddhampi bhavaṅgacittaṃ upakkiliṭṭhaṃ nāma hotīti.

Trong bài Kinh thứ chín, sáng chói: trắng, trong sạch. Tâm: gồm Tâm hộ-kiếp. Hơn nữa, gọi là màu sắc của tâm có không? – Không có. Thật vậy, dù tâm có một màu sắc nào đó như màu xanh, v.v., hay là màu vàng, v.v., thì dù thế nào đi nữa, Ngài vẫn gọi đó là “sáng chói,” bởi vì đó là Tâm trong sạch. Ngay cả Tâm này cũng được gọi là trong sạch, vì thoát khỏi các cấu uế, (vì thế), được gọi là ‘sáng chói.’ Tañca kho: Tâm hộ-kiếp ấy. Sanh khởi sau đó: Các cấu uế không đồng sanh khởi, mà sanh khởi sau đó ở sát-na của Tâm đổng lực. Cấu uế: Tâm hộ-kiếp đó được gọi là bị ô nhiễm, do trạng thái ô nhiễm bởi các phiền não như luyến ái, v.v. Bị ô nhiễm như thế nào? Giống như, cha mẹ hoặc thầy tế độ và thầy dạy học có đầy đủ giới hạnh và thành tựu về hạnh kiểm, không quở trách, không cho học tập, không dạy bảo, không khuyên bảo con cái hoặc đệ tử và học trò của mình. Bởi vì con cái, đệ tử và học trò đó là những người phá giới, có hạnh kiểm xấu, không thành tựu các phận sự, nên phải nhận chịu sự mất thể diện và tiếng xấu, nên biết sự so sánh tương tự như thế ấy. Nên thấy Tâm hộ-kiếp như cha mẹ hoặc thầy tế độ và thầy dạy học, vị thành tựu về hạnh kiểm. Tâm hộ-kiếp vốn trong sạch tự nhiên cũng gọi là bị ô nhiễm bởi các cấu uế từ ngoài vào sanh khởi do mãnh lực đồng sanh với (tâm) tham, sân và si có trạng thái tham đắm, bực tức và say mê ở sát-na của Tâm đổng lực giống như cha mẹ, v.v., phải nhận chịu tiếng xấu do tác động của con cái, v.v.

Dasamepi bhavaṅgacittameva cittaṃ. Vippamuttanti javanakkhaṇe arajjamānaṃ adussamānaṃ amuyhamānaṃ tihetukañāṇasampayuttādikusalavasena uppajjamānaṃ āgantukehi upakkilesehi vippamuttaṃ nāma hoti. Idhāpi yathā sīlavantānaṃ ācārasampannānaṃ puttādīnaṃ vasena mātādayo ‘‘sobhanā eteyeva attano puttakādayo sikkhāpenti ovadanti anusāsantī’’ti vaṇṇakittilābhino honti, evaṃ javanakkhaṇe uppannakusalacittavasena idaṃ bhavaṅgacittaṃ āgantukehi upakkilesehi vippamuttanti vuccatīti.

Luôn cả trong bài Kinh thứ mười, Tâm cũng chính là Tâm hộ-kiếp. Được gột sạch: Tâm hộ-kiếp đó không bị tham đắm, không bị bực tức, không bị say mê ở sát-na của Tâm đổng lực (Javana-citta) sanh khởi do mãnh lực của thiện thuộc (tâm) tam nhân tương ưng với trí v.v, được gọi là giải thoát khỏi các cấu uế từ ngoài vào. Ngay cả ở đây, Tâm hộ kiếp này được gọi là giải thoát khỏi các cấu uế từ ngoài vào do mãnh lực của thiện sanh khởi ở sát-na Tâm đổng lực, giống như cha mẹ, v.v., nhận được sự khen ngợi và tiếng tốt rằng: “Họ thật là tốt, cho những đứa con, v.v, được học tập, dạy dỗ, khuyên bảo,” do tác động của người con, v.v., là người có giới và thành tựu về hạnh kiểm.

Giải thích phẩm đặt hướng và trong sáng được kết thúc

Phẩm thứ năm được kết thúc

[1] Sự không hiểu biết trong tám trường hợp: (1) sự không biết về Khổ, (2) sự không biết về nhân sanh Khổ, (3) sự không biết về sự diệt tận Khổ, (4) sự không biết về sự thực hành đưa đến sự diệt tận Khổ, (5) sự không biết về điểm khởi đầu, (6) sự không biết về điểm kết thúc, (7) sự không biết về điểm khởi đầu và điểm kết thúc, (8) sự không biết về các pháp tùy thuận duyên khởi này. (aṅ. ṭīkā 1/41/120)