04. GIẢI THÍCH CHƯƠNG MỘT PHÁP (IV – Giải Thích Phẩm Không Điều Phục)
Xem Tăng Chi Bộ Kinh – Chương 1 pháp – Phẩm 1-14
31. Catutthassa paṭhame adantanti savisevanaṃ adantahatthiassādisadisaṃ. Cittanti vaṭṭavasena uppannacittameva.
Bài Kinh thứ nhất của Phẩm thứ tư, ‘không được điều phục’ là chưa được điều phục (tức là bất kham), giống như voi và ngựa, v.v., chưa được huấn luyện. Tâm: Tâm sanh khởi do mãnh lực luân hồi.
32. Dutiye dantanti nibbisevanaṃ dantahatthiassādisadisaṃ. Imasmimpi suttadvaye vaṭṭavivaṭṭavasena uppannacittameva kathitaṃ. Yathā cettha, evaṃ ito paresupīti.
Trong bài Kinh thứ hai, ‘được điều phục’ là hết sự bất kham, tức là giống như voi và ngựa, v.v., đã được huấn luyện. Trong cả hai Kinh này, Ngài chỉ nói về Tâm sanh khởi do mãnh lực luân hồi và do mãnh lực xuất khỏi luân hồi. Và, bài Kinh này như thế nào, thì trong các Kinh khác ngoài Kinh này cũng như thế đó.
33. Tatiye aguttanti agopitaṃ satisaṃvararahitaṃ aguttahatthiassādisadisaṃ.
Trong bài Kinh thứ ba, ‘không được gìn giữ’ là không được canh giữ, tức là không có sự thu thúc bằng niệm. Giống như voi và ngựa chưa được canh giữ (tức là không có người nuôi dưỡng/chăm sóc) vậy.
34. Catutthe guttanti gopitaṃ avissaṭṭhasatisaṃvaraṃ guttahatthiassādisadisaṃ.
Trong bài Kinh thứ tư, ‘đã được gìn giữ’ là đã được bảo vệ (đã được canh giữ), tức là không buông bỏ sự thu thúc bằng niệm. Giống như voi và ngựa, v.v., đã được bảo vệ (có người nuôi dưỡng/chăm sóc) vậy.
35-36. Pañcamachaṭṭhāni arakkhitaṃ rakkhitanti padavasena bujjhanakānaṃ ajjhāsayena vuttāni. Attho panettha purimasadisoyeva.
35-36. Trong bài Kinh thứ năm, thứ sáu– Ngài nói theo khuynh hướng của các chúng sanh, những người sẽ giác ngộ do tác động của từ ‘Không được hộ trì, đã được hộ trì’. Hơn nữa, ý nghĩa của từ này cũng giống như từ trước.
37-38. Sattamaṭṭhamesupi eseva nayo. Upamā panettha asaṃvutagharadvārādivasena veditabbā.
37-38. Trong bài Kinh thứ bảy, thứ tám cũng có phương thức này tương tự. Tuy nhiên, trong vấn đề này, nên được biết với ví dụ cái cửa nhà, v.v., không được đóng lại.
39-40. Navamadasamāni catūhipi padehi yojetvā vuttāni. Imasmimpi vagge vaṭṭavivaṭṭameva kathitanti.
39-40. Trong bài Kinh thứ chín, thứ mười Ngài đã kết hợp bốn từ này lại để trình bày. Trong phẩm này, Ngài chỉ nói về luân hồi và xuất khỏi luân hồi.
Giải thích phẩm không điều phục được kết thúc.