03. GIẢI THÍCH CHƯƠNG MỘT PHÁP (III – Giải Thích Phẩm Tâm Không Thích Ứng)
Xem Tăng Chi Bộ Kinh – Chương 1 pháp – Phẩm 1-14
21-22. Tatiyassa paṭhame abhāvitanti avaḍḍhitaṃ bhāvanāvasena appavattitaṃ. Akammaniyaṃ hotīti kammakkhamaṃ kammayoggaṃ na hoti. Dutiye vuttavipariyāyena attho veditabbo. Ettha ca paṭhame cittanti vaṭṭavasena uppannacittaṃ, dutiye vivaṭṭavasena uppannacittaṃ. Tattha ca vaṭṭaṃ vaṭṭapādaṃ, vivaṭṭaṃ vivaṭṭapādanti ayaṃ pabhedo veditabbo. Vaṭṭaṃ nāma tebhūmakavaṭṭaṃ, vaṭṭapādaṃ nāma vaṭṭapaṭilābhāya kammaṃ, vivaṭṭaṃ nāma nava lokuttaradhammā, vivaṭṭapādaṃ nāma vivaṭṭapaṭilābhāya kammaṃ. Iti imesu suttesu vaṭṭavivaṭṭameva kathitanti.
21-22. Bài Kinh thứ nhất của Phẩm thứ ba, ‘không được tu tập’ nghĩa là không phát triển, không vận hành do mãnh lực tu tập. Là không thích ứng: không phù hợp với công việc, không tương xứng với công việc. Bài Kinh thứ hai, ý nghĩa nên được hiểu theo cách gián tiếp như đã được nói đến. Và ở đây, ‘tâm’ trong bài Kinh thứ nhất ấy là tâm sanh khởi do mãnh lực của luân hồi. Trong bài Kinh thứ hai, là tâm sanh khởi do mãnh lực xuất khỏi luân hồi. Trong hai điều đó (Kinh thứ nhất và Kinh thứ hai), nên biết sự khác biệt như sau: luân hồi, căn bản luân hồi, xuất khỏi luân hồi, căn bản xuất khỏi luân hồi. Nghiệp vận hành trong ba cõi gọi là luân hồi. Nghiệp đưa đến luân hồi gọi là căn bản luân hồi. Chín Pháp Siêu Thế gọi là xuất khỏi luân hồi. Nghiệp đưa đến xuất khỏi luân hồi gọi là căn bản xuất khỏi luân hồi. Ngài nói về Luân Hồi và Xuất Hồi trong những bài Kinh này là như thế.
Giải thích bài Kinh thứ nhất, thứ hai được kết thúc
23-24. Tatiye vaṭṭavaseneva uppannacittaṃ veditabbaṃ. Mahato anatthāya saṃvattatīti devamanussasampattiyo mārabrahmaissariyāni ca dadamānampi punappunaṃ jātijarābyādhimaraṇasokaparidevadukkhadomanassupāyāse khandhadhātuāyatanapaṭiccasamuppādavaṭṭāni ca dadamānaṃ kevalaṃ dukkhakkhandhameva detīti mahato anatthāya saṃvattati nāmāti. Catutthe cittanti vivaṭṭavaseneva uppannacittaṃ.
23-24. Trong bài Kinh thứ 3, nên biết tâm sanh khởi do mãnh lực của Luân Hồi. Vận hành đưa đến bất lợi lớn: Tâm mặc dù cho sự thành tựu ở cõi Trời và sự thành tựu ở cõi người, và quyền lực ở cõi Ma Vương và Phạm Thiên, (nhưng cũng) thường xuyên ban cho sanh-già-bệnh–chết-sầu-bi-khổ-ưu-não và cho luân hồi– tức là Uẩn, Giới, Xứ và Pháp sanh khởi tùy thuộc vào điều kiện, chỉ ban cho toàn bộ khối đống khổ đau, vì thế được gọi là “vận hành đưa đến bất lợi lớn.” ‘Tâm’ trong bài Kinh thứ tư, gồm tâm sanh khởi do mãnh lực xuất khỏi luân hồi.
Giải thích bài Kinh thứ ba, thứ tư được kết thúc
25-26. Pañcamachaṭṭhesu abhāvitaṃ apātubhūtanti ayaṃ viseso. Tatrāmayadhippāyo – vaṭṭavasena uppannacittaṃ nāma uppannampi abhāvitaṃ apātubhūtameva hoti. Kasmā ? Lokuttarapādakajjhānavipassanāmaggaphalanibbānesu pakkhandituṃ asamatthattā. Vivaṭṭavasena uppannaṃ pana bhāvitaṃ pātubhūtaṃ nāma hoti. Kasmā? Tesu dhammesu pakkhandituṃ samatthattā. Kurundakavāsī phussamittatthero panāha – ‘‘maggacittameva, āvuso, bhāvitaṃ pātubhūtaṃ nāma hotī’’ti.
25-26. Trong bài Kinh thứ năm, thứ sáu chỉ có sự khác biệt này: không được tu tập, không được làm cho hiển lộ. Ở đó, có sự giải thích như sau – Tâm mặc dù sanh khởi do mãnh lực của Luân Hồi cũng được gọi là không được tu tập, không được làm cho hiển lộ. Tại sao? Bởi vì không thể xâm nhập vào Minh sát có thiền (định) làm nền tảng, Đạo Quả và Niết Bàn thuộc Siêu Thế. Còn Tâm sanh khởi do mãnh lực xuất khỏi luân hồi được gọi là Tâm đã được tu tập và đã được hiển lộ. Tại sao? Bởi vì có thể xâm nhập vào trong các pháp ấy. Tuy nhiên, Trưởng lão Phussamitta ở Tịnh xá Kurundaka lại nói rằng: “Này hiền giả, chỉ có Tâm Đạo mới được gọi là Tâm đã được tu tập và đã được hiển lộ.”
Giải thích bài Kinh thứ năm, thứ sáu được kết thúc
27-28. Sattamaṭṭhamesu abahulīkatanti punappunaṃ akataṃ. Imānipi dve vaṭṭavivaṭṭavasena uppannacittāneva veditabbānīti.
27-28. Trong bài Kinh thứ bảy, thứ tám– không làm cho sung mãn: không được thực hành thường xuyên. Nên biết tâm đã sanh khởi do mãnh lực của luân hồi và xuất khỏi luân hồi, chỉ hai thứ tâm này đây.
Giải thích bài Kinh thứ bảy, thứ tám được kết thúc
- Navame ‘‘jātipi dukkhā’’tiādinā nayena vuttaṃ dukkhaṃ adhivahati āharatīti dukkhādhivahaṃ. Dukkhādhivāhantipi pāṭho. Tassattho – lokuttarapādakajjhānādi ariyadhammābhimukhaṃ dukkhena adhivāhīyati pesīyatīti dukkhādhivāhaṃ. Idampi vaṭṭavasena uppannacittameva. Tañhi vuttappakārā devamanussādisampattiyo dadamānampi jātiādīnaṃ adhivahanato dukkhādhivahaṃ, ariyadhammādhigamāya duppesanato dukkhādhivāhañca nāma hotīti.
- Trong bài Kinh thứ chín, (tâm) gọi là đem lại khổ đaubởi vì đem lại (dẫn đến) khổ luân hồi, đã được nói theo cách thức như: “Sanh là khổ, v.v.” Cũng có văn bản Pāḷī ghi là ‘Dukkhādhivāhaṃ’. Tâm được gọi là “đem lại khổ đau”, bởi vì khó để được dẫn dắt trực tiếp đến các các pháp cao thượng—có Thiền làm nền tảng của Pháp Siêu Thế, v.v. Ngay cả tâm này cũng chính là Tâm sanh khởi do mãnh lực của khổ luân hồi. Thật vậy, Tâm đó mặc dù ban cho sự thành tựu ở cõi Trời và sự thành tựu ở cõi người như đã nói, nhưng cũng gọi là đem lại khổ đau vì mang đến khổ đau như sanh, v.v, và gọi là đem lại khổ đau vì khó đưa đến để chứng đạt các pháp cao thượng.
Giải thích bài Kinh thứ chín được kết thúc
- Dasame vivaṭṭavasena uppannacittameva cittaṃ. Tañhi mānusakasukhato dibbasukhaṃ, dibbasukhato jhānasukhaṃ, jhānasukhato vipassanāsukhaṃ, vipassanāsukhato maggasukhaṃ, maggasukhato phalasukhaṃ, phalasukhato nibbānasukhaṃ adhivahati āharatīti sukhādhivahaṃ nāma hoti, sukhādhivāhaṃ vā. Tañhi lokuttarapādakajjhānādiariyadhammābhimukhaṃ supesayaṃ vissaṭṭhaindavajirasadisaṃ hotīti sukhādhivāhantipi vuccati. Imasmimpi vagge vaṭṭavivaṭṭameva kathitanti.
- Trong bài Kinh thứ mười, Tâm (được nói đến) cũng chính là Tâm sanh khởi do mãnh lực xuất khỏi luân hồi. Thật vậy, Tâm đó được gọi là “đem lại an lạc” hoặc “đem lại một cách dễ dàng” vì kéo đến, đem lại sự an lạc ở Minh sát thù thắng hơn lạc ở thiền (định); sự an lạc ở Đạo thù thắng hơn sự an lạc ở Minh sát; sự an lạc ở Quả thù thắng hơn sự an lạc ở Đạo; sự an lạc ở Niết Bàn thù thắng hơn sự an lạc ở Quả. Thật vậy, Tâm đó (phù hợp với thực tính của chính nó) được gọi là đem lại an lạc dẫn dắt trực tiếp đến các các pháp cao thượng—những pháp có Thiền làm nền tảng cho Pháp Siêu Thế, v.v., giống như lưỡi tầm sét được Thần Indra phóng ra. Vì thế, được gọi là “đem lại an lạc.” Trong Phẩm này ngài nói đến luân hồi và xuất ra khỏi luân hồi chỉ bấy nhiêu.
Giải thích bài Kinh thứ mười được kết thúc
Giải thích tâm không thích ứng được kết thúc
Kết thúc phẩm thứ ba