Tạng Luật – Bộ Phân Tích Giới Bổn
Vinaya Pitaka – SuttavibhangaTỳ-khưu Indacanda Nguyệt Thiên dịch

Mục Lục

[1.0] Chương Verañja (Verañjakaṇḍaṃ)Tụng phẩm Verañja

[1] Đức Thế Tôn ngự tại Verañjā
[2] Phần nói về sự bình phẩm đức Thế Tôn
[3] Ví dụ về con gà con. Giảng về ba Minh.
[4] Bà-la-môn Verañja quy y Tam Bảo
[5] Phần nói về sự thiếu hụt vật thực ở Verañjā
[7] Giảng về sự tồn tại lâu dài của Phạm hạnh
[8] Giảng về nguyên nhân của việc quy định điều học
[9] Đức Thế Tôn từ giã Bà-la-môn Verañja

[1.1] I. Chương Pārājika thứ nhất (Paṭhamapārājikakaṇḍaṃ): Tội thực hiện việc đôi lứa1. Tụng phẩm Sudinna:

[10] Câu chuyện về tỳ-khưu Sudinna
[17] tỳ-khưu Sudinna thực hiện việc đôi lứa với người vợ cũ
[20] Sự quy định (paññatti) lần thứ nhất
2. Tụng phẩm “Được che đậy”:

[21] Câu chuyện về con khỉ cái.
[22] Sự quy định thêm (anupaññatti) lần thứ nhất
[23] Câu chuyện về các vị tỳ-khưu nhóm Vajjiputtaka.
[24] Sự quy định thêm lần thứ hai
[25] Giải nghĩa từ ngữ của điều học pārājika thứ nhất
[30] Sự lìa bỏ việc học tập
[33] Giải nghĩa từ ngữ của điều học pārājika thứ nhất (tiếp theo)
[38] Nói về ba mươi khiếu (magga). Các trường hợp phạm tội
[47] Các trường hợp không phạm tội
3. Tụng phẩm thứ ba:

[48] Bài kệ về các câu chuyện dẫn giải (Vinītavatthugāthā)
[49] Các câu chuyện dẫn giải

[1.2] II. Chương Pārājika thứ nhì (Dutiyapārājikakaṇḍaṃ): Tội trộm cắp1. Tụng phẩm thứ nhất:

[79] Câu chuyện về tỳ-khưu Dhaniya con trai người thợ gốm
[83] Sự quy định lần thứ nhất
[84] Sự quy định thêm
[85] Giải nghĩa từ ngữ của điều học pārājika thứ nhì
[90] Các tiêu đề của sự phân tích
[91] Các trường hợp phạm tội
[122] Các yếu tố phạm tội
[125] Các trường hợp không phạm tội
2. Tụng phẩm thứ nhì:

[126] Bài kệ về các câu chuyện dẫn giải
[127] Các câu chuyện dẫn giải

[1.3] III. Chương Pārājika thứ ba (Tatiyapārājikakaṇḍaṃ): Tội giết người1. Tụng phẩm thứ nhất:

[176] Câu chuyện về nhiều vị tỳ-khưu
[178] Định hơi thở ra hơi thở vào
[179] Sự quy định lần thứ nhất
[180] Câu chuyện về các tỳ-khưu nhóm Lục Sư. Sự quy định thêm
[181] Giải nghĩa từ ngữ của điều học pārājika thứ ba
[187] Các tiêu đề của sự phân tích
[189] Các trường hợp phạm tội
[203] Các trường hợp không phạm tội
2. Tụng phẩm thứ nhì:

[204] Bài kệ về các câu chuyện dẫn giải
[205] Các câu chuyện dẫn giải

[1.4] IV. Chương Pārājika thứ tư (Catutthapārājikakaṇḍaṃ): Tội khoe pháp thượng nhân không thực chứng[227] Câu chuyện về các vị tỳ-khưu ở bờ sông Vaggumudā
[230] Năm kẻ cướp lớn
[231] Sự quy định lần thứ nhất
[232] Sự quy định thêm
[233] Giải nghĩa từ ngữ của điều học pārājika thứ tư.
[236] Giải nghĩa về pháp thượng nhân
[237] Các trường hợp phạm tội
[281] Các trường hợp không phạm tội
[282] Bài kệ về các câu chuyện dẫn giải
[283] Các câu chuyện dẫn giải
[300] Tổng kết phần pārājika. Bài kệ tóm lược
[1.5a] V. Chương Mười ba pháp (Terasakaṇḍaṃ):1. Điều Tăng tàng (Saṅghādisesa) thứ nhất: Cố ý làm xuất tinh

[301] Câu chuyện về tỳ-khưu Seyyasaka. Sự quy định lần thứ nhất
[302] Sự quy định thêm
[303] Giải nghĩa từ ngữ của điều học
[304] Các tiêu đề của sự phân tích
[306] Các trường hợp phạm tội
[343] Các yếu tố xác định tội
[344] Các trường hợp không phạm tội
[345] Bài kệ về các câu chuyện dẫn giải
[346] Các câu chuyện dẫn giải
2. Điều Tăng tàng (Saṅghādisesa) thứ nhì: Xúc chạm cơ thể với người nữ

[377] Câu chuyện về tỳ-khưu Udāyi. Sự quy định điều học
[378] Giải nghĩa từ ngữ của điều học
[379] Các tiêu đề của sự phân tích
[382] Các trường hợp phạm tội
[387] Các yếu tố xác định tội
[388] Các trường hợp không phạm tội
[389] Bài kệ về các câu chuyện dẫn giải
[390] Các câu chuyện dẫn giải

[1.5b] 3. Điều Tăng tàng (Saṅghādisesa) thứ ba: Nói lời dâm dục với người nữ[399] Câu chuyện về tỳ-khưu Udāyi. Sự quy định điều học
[400] Giải nghĩa từ ngữ của điều học
[401] Các tiêu đề của sự phân tích
[403] Các trường hợp phạm tội
[408] Các trường hợp không phạm tội
[409] Bài kệ về các câu chuyện dẫn giải
[410] Các câu chuyện dẫn giải
4. Điều Tăng tàng (Saṅghādisesa) thứ tư: Ca ngợi sự hầu hạ tình dục cho bản thân với người nữ[416] Câu chuyện về tỳ-khưu Udāyi. Sự quy định điều học
[417] Giải nghĩa từ ngữ của điều học
[418] Các trường hợp phạm tội
[420] Các trường hợp không phạm tội
[421] Bài kệ về các câu chuyện dẫn giải
[422] Các câu chuyện dẫn giải
5. Điều Tăng tàng (Saṅghādisesa) thứ năm: Tiến hành việc mai mối[423] Câu chuyện về tỳ-khưu Udāyi.
[437] Sự quy định điều học
[438] Sự quy định thêm
[429] Giải nghĩa từ ngữ của điều học
[430] Mười hạng người nữ. Mười hạng vợ.
[434] Các trường hợp phạm tội
[488] Các yếu tố xác định tội
[491] Các trường hợp không phạm tội
[492] Bài kệ về các câu chuyện dẫn giải
[493] Các câu chuyện dẫn giải
[1.5c] 6. Điều Tăng tàng (Saṅghādisesa) thứ sáu: Làm cốc liêu[496] Câu chuyện về các tỳ-khưu ở thành Āḷavī.
[499] Câu chuyện về hai anh em ẩn sĩ và rồng chúa Maṇikaṇṭha
[500] Câu chuyện về vị tỳ-khưu và bầy chim
[502] Sự quy định điều học
[503] Giải nghĩa từ ngữ của điều học
[504] Cách thức xem xét và xác định khu đất làm cốc liêu
[511] Các trường hợp phạm tội
[521] Các yếu tố xác định tội
[522] Các trường hợp không phạm tội
7. Điều Tăng tàng (Saṅghādisesa) thứ bảy: Làm trú xá lớn[523] Câu chuyện về tỳ-khưu Channa. Sự quy định điều học
[524] Giải nghĩa từ ngữ của điều học
[525] Cách thức xem xét và xác định khu đất làm trú xá lớn
[532] Các trường hợp phạm tội
[538] Các yếu tố xác định tội
[539] Các trường hợp không phạm tội
8. Điều Tăng tàng (Saṅghādisesa) thứ tám: Cáo tội pārājika không có nguyên cớ[540] Câu chuyện về tỳ-khưu Dabba Mallaputta.
[544] Câu chuyện về các tỳ-khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka
[546] Câu chuyện về tỳ-khưu ni Mettiyā
[547] Sự quy định điều học
[548] Giải nghĩa từ ngữ của điều học
[552] Các trường hợp phạm tội
[565] Các trường hợp không phạm tội
9. Điều Tăng tàng (Saṅghādisesa) thứ chín: Cáo tội pārājika từ nguyên nhân nhỏ nhặt

[566] Câu chuyện về các tỳ-khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka. Sự quy định điều học
[567] Giải nghĩa từ ngữ của điều học
[572] Các trường hợp phạm tội
[591] Các trường hợp không phạm tội

[1.5d] 10. Điều Tăng tàng (Saṅghādisesa) thứ mười: Chia rẽ hội chúng[592] Câu chuyện về tỳ-khưu Devadatta yêu cầu năm sự việc
[595] Sự quy định điều học
[596] Giải nghĩa từ ngữ của điều học
[598] Tuyên ngôn nhắc nhở
[600] Các yếu tố xác định tội
[601] Các trường hợp không phạm tội
11. Điều Tăng tàng (Saṅghādisesa) thứ mười một: Ủng hộ kẻ chia rẽ hội chúng[602] Câu chuyện về các tỳ-khưu ủng hộ sự chia rẽ. Sự quy định điều học
[603] Giải nghĩa từ ngữ của điều học
[605] Tuyên ngôn nhắc nhở
[607] Các yếu tố xác định tội
[608] Các trường hợp không phạm tội
12. Điều Tăng tàng (Saṅghādisesa) thứ mười hai: Vị tỳ-khưu có bản tánh khó dạy[609] Câu chuyện về tỳ-khưu Channa. Sự quy định điều học
[610] Giải nghĩa từ ngữ của điều học
[612] Tuyên ngôn nhắc nhở
[614] Các yếu tố xác định tội
[615] Các trường hợp không phạm tội
13. Điều Tăng tàng (Saṅghādisesa) thứ mười ba: Làm hư hỏng các gia đình

[616] Câu chuyện về các tỳ-khưu nhóm Assaji và Punabbasuka.
[620] Câu chuyện về trưởng lão Sāriputta và Moggallāna. Hành sự xua đuổi
[623] Sự quy định điều học
[624] Giải nghĩa từ ngữ của điều học
[628] Tuyên ngôn nhắc nhở
[630] Các yếu tố xác định tội
[631] Các trường hợp không phạm tội
[632] Tổng kết chương Mười Ba Pháp. Bài kệ tóm lược

[1.6] VI. Chương Bất Định (Aniyatakaṇḍaṃ):1. Điều Bất định (Aniyata) thứ nhất: Ngồi với người nữ ở chỗ ngồi kín đáo, được che khuất

[633] Câu chuyện về tỳ-khưu Udāyi
[634] Câu chuyện về bà Visākhā mẹ của Migāra. Sự quy định điều học
[635] Giải nghĩa từ ngữ của điều học
[637] Phương thức xác định tội
2. Điều Bất định (Aniyata) thứ nhì: Ngồi với người nữ ở chỗ ngồi kín đáo

[646] Câu chuyện về tỳ-khưu Udāyi. Sự quy định điều học
[647] Giải nghĩa từ ngữ của điều học
[650] Phương thức xác định tội
[658] Tổng kết chương Bất Định. Bài kệ tóm lược

-ooOoo-

TẠNG LUẬT – PHÂN TÍCH GIỚI TỲ KHƯU

TẬP MỘT

*******

Kính lễ đức Thế Tôn, bậc A-la-hán, đấng Chánh Biến Tri!

CHƯƠNG VERAÑJA

[1] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại Verañjā, ở cội cây Nimba của dạ xoa Naḷeru,[1] cùng với đại chúng tỳ khưu có số lượng năm trăm vị tỳ khưu. Vị bà-la-môn Verañja đã nghe được rằng: “Chắn chắn là ngài Sa-môn Gotama, con trai dòng Sākya (Thích Ca), từ dòng dõi Sākya đã xuất gia, và hiện ngự tại Verañjā, ở cội cây Nimba của dạ xoa Naḷeru cùng với đại chúng tỳ khưu có số lượng năm trăm vị tỳ khưu. Tiếng tăm tốt đẹp về ngài Gotama ấy đã được lan rộng ra như vầy: ‘Đức Thế Tôn ấy là bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Tối Thượng Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.’ Vị ấy sau khi tự mình chứng ngộ thắng trí đã công bố về thế gian này tính luôn cõi chư thiên, cõi Ma Vương, cõi Phạm thiên, cho đến dòng dõi sa-môn, Bà-la-môn, chư thiên và loài người. Vị ấy thuyết giảng Giáo Pháp toàn hảo ở đoạn đầu, toàn hảo ở đoạn giữa, và toàn hảo ở đoạn kết, thành tựu về ý nghĩa, thành tựu về văn tự. Vị ấy giảng giải về Phạm hạnh thanh tịnh một cách trọn vẹn và đầy đủ. Tốt thay cho việc diện kiến các vị A-la-hán như thế ấy!”

[2] Sau đó, bà-la-môn Verañja đã đi đến gặp đức Thế Tôn. Sau khi đến, vị ấy đã tỏ vẻ thân thiện với đức Thế Tôn, sau khi trao đổi lời xã giao thân thiện đã ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, bà-la-môn Verañja đã nói với đức Thế Tôn điều này:

– Thưa ngài Gotama, tôi đã được nghe điều này: “Sa-môn Gotama không cung kính, hoặc không đứng dậy, hoặc không mời chỗ ngồi đến các vị bà-la-môn già cả, uy tín, lớn tuổi, sống thọ, đã đạt đến giai đoạn cuối của cuộc đời.” Thưa ngài Gotama, điều ấy thật đúng như thế bởi vì ngài Gotama không cung kính, hoặc không đứng dậy, hoặc không mời chỗ ngồi đến các vị bà-la-môn già cả, uy tín, lớn tuổi, sống thọ, đã đạt đến giai đoạn cuối của cuộc đời. Thưa ngài Gotama, điều ấy thật không thích đáng!

– Này Bà-la-môn, trong thế gian tính luôn cõi chư thiên, cõi Ma Vương, cõi Phạm thiên, cho đến dòng dõi sa-môn, Bà-la-môn, chư thiên và loài người, ta không thấy một ai mà ta có thể cung kính, hoặc có thể đứng dậy, hoặc có thể mời chỗ ngồi. Này Bà-la-môn, bởi vì nếu Như Lai cung kính, hoặc đứng dậy, hoặc mời chỗ ngồi người nào thì đầu của người ấy sẽ bị vỡ tan.

– Ngài Gotama không biết về phẩm chất (arasarūpo)!

– Này Bà-la-môn, thật sự có pháp môn mà với pháp môn ấy, trong khi nói một cách đúng đắn về ta thì có thể nói rằng: “Sa-môn Gotama không biết về phẩm chất.” Này Bà-la-môn, các phẩm chất về sắc, các phẩm chất về thinh, các phẩm chất về hương, các phẩm chất về vị, các phẩm chất về xúc, đối với Như Lai các việc ấy đã được diệt tận, các rễ đã được cắt lìa, như cây thốt nốt đã bị bứng gốc, đã bị làm cho không còn sự sống, không còn các điều kiện sanh khởi trong tương lai. Này Bà-la-môn, thật sự đây là pháp môn mà với pháp môn ấy, trong khi nói một cách đúng đắn về ta thì có thể nói rằng: “Sa-môn Gotama không biết về phẩm chất;” và chắc chắn rằng ông không liên tưởng đến ý nghĩa ấy khi nói ra.[2]

– Ngài Gotama không biết thưởng thức (Nibbhogo)!

– Này Bà-la-môn, thật sự có pháp môn mà với pháp môn ấy, trong khi nói một cách đúng đắn về ta thì có thể nói rằng: “Sa-môn Gotama không biết thưởng thức.” Này Bà-la-môn, các sự thưởng thức về sắc, các sự thưởng thức về thinh, các sự thưởng thức về hương, các sự thưởng thức về vị, các sự thưởng thức về xúc, đối với Như Lai các việc ấy đã được diệt tận, các rễ đã được cắt lìa, như cây thốt nốt đã bị bứng gốc, đã bị làm cho không còn sự sống, không còn các điều kiện sanh khởi trong tương lai. Này Bà-la-môn, thật sự đây là pháp môn mà với pháp môn ấy, trong khi nói một cách đúng đắn về ta thì có thể nói rằng: “Sa-môn Gotama không biết thưởng thức;” và chắc chắn rằng ông không liên tưởng đến ý nghĩa ấy khi nói ra.

– Ngài Gotama thuyết về không hành động (akiriyavādo)!

– Này Bà-la-môn, thật sự có pháp môn mà với pháp môn ấy, trong khi nói một cách đúng đắn về ta thì có thể nói rằng: “Sa-môn Gotama thuyết về không hành động.” Này Bà-la-môn, bởi vì ta thuyết về không hành động đối với việc làm ác của thân, đối với lời nói ác của miệng, đối với suy nghĩ ác của ý; ta thuyết về không hành động của các pháp ác và bất thiện có nhiều dạng. Này Bà-la-môn, thật sự đây là pháp môn mà với pháp môn ấy, trong khi nói một cách đúng đắn về ta thì có thể nói rằng: “Sa-môn Gotama thuyết về không hành động;” và chắc chắn rằng ông không liên tưởng đến ý nghĩa ấy khi nói ra.

– Ngài Gotama thuyết về đoạn diệt (ucchedavādo)![3]

– Này Bà-la-môn, thật sự có pháp môn mà với pháp môn ấy, trong khi nói một cách đúng đắn về ta thì có thể nói rằng: “Sa-môn Gotama thuyết về đoạn diệt.” Này Bà-la-môn, bởi vì ta thuyết về sự đoạn diệt của luyến ái, của sân hận, của si mê; ta thuyết về sự đoạn diệt của các pháp ác và bất thiện có nhiều dạng. Này Bà-la-môn, thật sự đây là pháp môn mà với pháp môn ấy, trong khi nói một cách đúng đắn về ta thì có thể nói rằng: “Sa-môn Gotama thuyết về đoạn diệt;” và chắc chắn rằng ông không liên tưởng đến ý nghĩa ấy khi nói ra.

– Ngài Gotama có sự ghê tởm (jegucchī)!

– Này Bà-la-môn, thật sự có pháp môn mà với pháp môn ấy, trong khi nói một cách đúng đắn về ta thì có thể nói rằng: “Sa-môn Gotama có sự ghê tởm.” Này Bà-la-môn, bởi vì ta ghê tởm với việc làm ác của thân, với lời nói ác của miệng, với suy nghĩ ác của ý; ta ghê tởm trong sự tạo thành các pháp ác và bất thiện có nhiều dạng. Này Bà-la-môn, thật sự đây là pháp môn mà với pháp môn ấy, trong khi nói một cách đúng đắn về ta thì có thể nói rằng: “Sa-môn Gotama có sự ghê tởm;” và chắc chắn rằng ông không liên tưởng đến ý nghĩa ấy khi nói ra.

– Ngài Gotama là người cách ly (venayiko)!

– Này Bà-la-môn, thật sự có pháp môn mà với pháp môn ấy, trong khi nói một cách đúng đắn về ta thì có thể nói rằng: “Sa-môn Gotama là người cách ly.” Này Bà-la-môn, bởi vì ta thuyết về pháp đưa đến sự cách ly đối với luyến ái, đối với sân, đối với si; ta thuyết về pháp đưa đến sự cách ly đối với các pháp ác và bất thiện có nhiều dạng. Này Bà-la-môn, thật sự đây là pháp môn mà với pháp môn ấy, trong khi nói một cách đúng đắn về ta thì có thể nói rằng: “Sa-môn Gotama là người cách ly;” và chắc chắn rằng ông không liên tưởng đến ý nghĩa ấy khi nói ra.

– Ngài Gotama là người thiêu đốt (tapassī)!

– Này Bà-la-môn, thật sự có pháp môn mà với pháp môn ấy, trong khi nói một cách đúng đắn về ta thì có thể nói rằng: “Sa-môn Gotama là người thiêu đốt.” Này Bà-la-môn, ta thuyết rằng các pháp ác và bất thiện tức là việc làm ác của thân, lời nói ác của miệng, và suy nghĩ ác của ý cần được thiêu đốt. Này Bà-la-môn, người nào có các pháp ác và bất thiện cần được thiêu đốt đã được diệt tận, các rễ đã được cắt lìa, như cây thốt nốt đã bị bứng gốc, đã bị làm cho không còn sự sống, không còn các điều kiện sanh khởi trong tương lai; ta gọi người ấy là: “Người thiêu đốt.” Này Bà-la-môn, các pháp ác và bất thiện cần được thiêu đốt của Như Lai đã được diệt tận, các rễ đã được cắt lìa, như cây thốt nốt đã bị bứng gốc, đã bị làm cho không còn sự sống, không còn các điều kiện sanh khởi trong tương lai. Này Bà-la-môn, thật sự đây là pháp môn mà với pháp môn ấy, trong khi nói một cách đúng đắn về ta thì có thể nói rằng: “Sa-môn Gotama là người thiêu đốt;” và chắc chắn rằng ông không liên tưởng đến ý nghĩa ấy khi nói ra.

– Ngài Gotama là người thoát khỏi bào thai (apagabbho)!

– Này Bà-la-môn, thật sự có pháp môn mà với pháp môn ấy, trong khi nói một cách đúng đắn về ta thì có thể nói rằng: “Sa-môn Gotama là người thoát khỏi bào thai.” Này Bà-la-môn, sự sanh vào bào thai trong ngày vị lai của người nào, tức là sự tái sanh và hiện hữu lần nữa đã được diệt tận, các rễ đã được cắt lìa, như cây thốt nốt đã bị bứng gốc, đã bị làm cho không còn sự sống, không còn các điều kiện sanh khởi trong tương lai; ta gọi người ấy là: “Người thoát khỏi bào thai.” Này Bà-la-môn, sự sanh vào bào thai trong ngày vị lai của Như Lai, tức là sự tái sanh và hiện hữu lần nữa đã được diệt tận, các rễ đã được cắt lìa, như cây thốt nốt đã bị bứng gốc, đã bị làm cho không còn sự sống, không còn các điều kiện sanh khởi trong tương lai. Này Bà-la-môn, thật sự đây là pháp môn mà với pháp môn ấy, trong khi nói một cách đúng đắn về ta thì có thể nói rằng: “Sa-môn Gotama là người thoát khỏi bào thai;” và chắc chắn rằng ông không liên tưởng đến ý nghĩa ấy khi nói ra.

[3] Này Bà-la-môn, cũng giống như con gà mái có được tám, hoặc mười, hoặc mười hai quả trứng. Nếu con gà mái nằm lên trên chúng đúng cách, ủ nóng đều đúng cách, ấp đúng cách, và trong số các con gà con mới nở ấy, con nào dùng vuốt của móng chân hoặc mỏ phá vỡ vỏ trứng và nở ra an toàn trước tiên, thì điều nên nói về con gà con ấy là thế nào, lớn nhất hay nhỏ nhất?

– Thưa ngài Gotama, nên gọi nó là “Con lớn nhất” bởi vì nó lớn nhất trong bầy.

– Này Bà-la-môn, cũng tương tợ như thế trong số chúng sanh sống trong vô minh (ví như) đang ở trong quả trứng và bị trùm kín lại, ta là người duy nhất đã phá vỡ vỏ trứng vô minh và chứng đắc quả vị Chánh Đẳng Giác vô thượng ở trên đời. Này Bà-la-môn, ta đây là người đứng đầu và cao cả nhất của thế gian. Này Bà-la-môn, hơn nữa ta đã có sự nỗ lực được thành tựu không bị thối giảm, có niệm được thiết lập không bị xao lãng, có thân được khinh an không còn rạo rực, có tâm được an trụ tập trung. Này Bà-la-môn, quả vậy sau khi đã tách ly khỏi các dục và tách ly khỏi các pháp bất thiện, ta đây đã chứng đạt và trú thiền thứ nhất với hỷ và lạc sanh lên do tách ly (khỏi các triền cái), có tầm, có tứ. Do sự đình chỉ tầm và tứ, ta đã chứng đạt và trú thiền thứ hai với nội phần an tỉnh, tâm được chuyên nhất, có hỷ và lạc sanh lên do định, không tầm, không tứ. Và do sự không còn tham muốn ở hỷ, với xả ta đã trú, có niệm và tỉnh giác ta đã chứng nghiệm trạng thái lạc bằng thân, đó là điều mà các bậc Thánh nói rằng: “Vị ấy có xả, có niệm, có sự trú vào lạc;” ta đã chứng đạt và trú thiền thứ ba. Do sự từ bỏ lạc, do sự từ bỏ khổ (của thân), do sự trừ diệt hỷ và ưu ở tâm (đã có) trước đây, ta đã chứng đạt và trú thiền thứ tư với sự thanh tịnh của xả và niệm, không khổ không lạc.

Trong khi tâm được an trụ, thuần tịnh, trong sạch, không ô nhiễm, lìa khỏi phiền não, nhu thuận, có thể sử dụng, ổn định, đạt đến trạng thái vững chắc như thế, ta đây đã hướng dẫn tâm đến trí tuệ ghi nhớ về các kiếp sống trước (Túc Mạng Minh). Ta nhớ lại nhiều kiếp sống trước như là một lần sanh, hai lần sanh, ba lần sanh, bốn lần sanh, năm lần sanh, mười lần sanh, hai mươi lần sanh, ba mươi lần sanh, bốn mươi lần sanh, năm mươi lần sanh, một trăm lần sanh, một ngàn lần sanh, một trăm ngàn lần sanh, nhiều hoại kiếp, nhiều thành kiếp, nhiều hoại và thành kiếp: “Vào kiếp sống ấy, ta đã có tên như vầy, dòng họ như vầy, giai cấp như vầy, thức ăn như vầy, kinh nghiệm khổ và lạc như vầy, có tuổi thọ như vầy. Từ chỗ ấy, ta đây đã chết đi rồi đã sanh lên tại chỗ kia. Ở nơi kia, ta đã có tên như vầy, dòng họ như vầy, giai cấp như vầy, thức ăn như vầy, kinh nghiệm khổ và lạc như vầy, có tuổi thọ như vầy. Từ nơi kia, ta đây đã chết đi rồi đã sanh lên tại nơi này.” Như thế, ta nhớ lại nhiều kiếp sống trước với các nét cá biệt và đại cương. Này Bà-la-môn, quả vậy vào canh đầu của đêm ta đã chứng đạt Minh thứ nhất này, ta đã diệt tận vô minh và làm cho minh sanh khởi, ta đã diệt tận bóng tối và làm cho ánh sáng sanh khởi. Như thế ấy là điều (ta đã thành đạt) trong lúc ta sống không dễ duôi, nỗ lực, quyết tâm. Này Bà-la-môn, chính điều này đã là sự khai mở đầu tiên của ta, tương tợ như con gà con thoát ra từ vỏ trứng vậy.

Trong khi tâm được an trụ, thuần tịnh, trong sạch, không ô nhiễm, lìa khỏi phiền não, nhu thuận, có thể sử dụng, ổn định, đã đạt đến trạng thái vững chắc như thế, ta đây đã hướng dẫn tâm đến trí tuệ (quán xét) về sự sanh tử của chúng sanh (Sanh Tử Minh). Ta đây nhìn thấy chúng sanh bằng thiên nhãn thuần tịnh vượt trội loài người, ta đây biết được rằng trong khi chết đi rồi sanh lại chúng sanh đều đi theo nghiệp tương ứng (trở thành) hạ tiện, cao quý, đẹp đẽ, xấu xí, đến chốn an vui, (hay) đọa vào cõi khổ: “Quả đúng như vậy, những chúng sanh đang hiện hữu (bhonto) này có hành động xấu xa bằng thân, có hành động xấu xa bằng lời nói, có suy nghĩ xấu xa bằng ý, vu khống các bậc Thánh, theo tà kiến, tán thành các hành động do tà kiến, khi tan rã thân xác và chết đi, họ bị sanh vào bất hạnh, cõi khổ, đọa xứ, địa ngục. Trái lại, những chúng sanh đang hiện hữu (bhonto) này có hành động tốt đẹp bằng thân, có hành động tốt đẹp bằng lời nói, có suy nghĩ tốt đẹp bằng ý, không vu khống các bậc Thánh, theo chánh kiến, tán thành các hành động do chánh kiến, khi tan rã thân xác và chết đi, họ được sanh vào chốn an vui, cõi trời, loài người.” Như thế, ta nhìn thấy chúng sanh bằng thiên nhãn thuần tịnh vượt trội loài người, ta đây biết được rằng trong khi chết đi rồi sanh lại chúng sanh đều đi theo nghiệp tương ứng (trở thành) hạ tiện, cao quý, đẹp đẽ, xấu xí, đến chốn an vui, (hay) đọa vào cõi khổ. Này Bà-la-môn, quả vậy vào canh giữa của đêm ta đã chứng đạt Minh thứ hai này, ta đã diệt tận vô minh và làm cho minh sanh khởi, ta đã diệt tận bóng tối và làm cho ánh sáng sanh khởi. Như thế ấy là điều (ta đã thành đạt) trong lúc ta sống không dễ duôi, nỗ lực, quyết tâm. Này Bà-la-môn, chính điều này đã là sự khai mở thứ hai của ta, tương tợ như con gà con thoát ra từ vỏ trứng vậy.

Trong khi tâm được an trụ, thuần tịnh, trong sạch, không ô nhiễm, lìa khỏi phiền não, nhu thuận, có thể sử dụng, ổn định, đã đạt đến trạng thái vững chắc như thế, ta đây đã hướng dẫn tâm đến trí tuệ đoạn tận các lậu hoặc (Lậu Tận Minh). Ta đây đã biết rõ: “Đây là Khổ” đúng theo bản thể thật (yathābhūtaṃ). Ta đây đã biết rõ: “Đây là nguyên nhân của Khổ” đúng theo bản thể thật. Ta đây đã biết rõ: “Đây là sự Diệt Khổ” đúng theo bản thể thật. Ta đây đã biết rõ: “Đây là sự thực hành đưa đến sự Diệt Khổ” đúng theo bản thể thật. Ta đây đã biết rõ: “Đây là các lậu hoặc” đúng theo bản thể thật. Ta đây đã biết rõ: “Đây là nguyên nhân của các lậu hoặc” đúng theo bản thể thật. Ta đây đã biết rõ: “Đây là sự diệt tận các lậu hoặc” đúng theo bản thể thật. Ta đây đã biết rõ: “Đây là sự thực hành đưa đến sự diệt tận các lậu hoặc” đúng theo bản thể thật. Trong khi ta đây biết được như thế, thấy được như thế, thì tâm cũng đã được giải thoát khỏi dục lậu, tâm cũng đã được giải thoát khỏi hữu lậu, tâm cũng đã được giải thoát khỏi vô minh lậu. Khi ta đã được giải thoát, trí tuệ giải thoát đã khởi lên và ta đã biết rõ rằng: “Sự tái sanh đã cạn kiệt, Phạm hạnh đã sống, việc cần làm đã làm, không còn (đưa đến) bản ngã nào khác (tương tợ) như vầy nữa.” Này Bà-la-môn, quả vậy vào canh cuối của đêm ta đã chứng đạt Minh thứ ba này, ta đã diệt tận vô minh và làm cho minh sanh khởi, ta đã diệt tận bóng tối và làm cho ánh sáng sanh khởi. Như thế ấy là điều (ta đã thành đạt) trong lúc ta sống không dễ duôi, nỗ lực, quyết tâm. Này Bà-la-môn, chính điều này đã là sự khai mở thứ ba của ta, tương tợ như con gà con thoát ra từ vỏ trứng vậy.

[4] Khi được nói như thế, bà-la-môn Verañja đã nói với đức Thế Tôn điều này:

– Ngài Gotama là vị đứng đầu, ngài Gotama là người cao cả nhất. Bạch ngài Gotama, thật là tuyệt vời! Bạch ngài Gotama, thật là tuyệt vời! Bạch ngài Gotama, giống như người có thể lật ngửa vật đã được úp lại, mở ra vật đã bị che kín, chỉ đường cho kẻ lạc lối, đem lại cây đèn dầu nơi bóng tối (nghĩ rằng): “Những người có mắt sẽ nhìn thấy được các hình dáng;” tương tợ như thế, Pháp đã được ngài Gotama giảng rõ bằng nhiều phương tiện. Tôi đây xin quy y ngài Gotama, Giáo Pháp, và Hội chúng tỳ khưu. Xin ngài Gotama chấp nhận tôi là nam cư sĩ đã được quy y kể từ hôm nay cho đến trọn đời. Xin ngài Gotama hãy nhận lời tôi về việc cư trú mùa mưa ở Verañjā cùng với hội chúng tỳ khưu.

Đức Thế Tôn đã nhận lời bằng thái độ im lặng. Khi ấy, người bà-la-môn Verañja hiểu được sự nhận lời của đức Thế Tôn nên đã từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ đức Thế Tôn, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi ra đi.

[5] Vào lúc bấy giờ, Verañjā có sự khó khăn về vật thực, đời sống khổ cực, dịch bệnh hoành hành (setaṭṭhikā),[4] vật thực được phân phối theo thẻ, không dễ dàng sinh sống bằng sự ra sức khất thực.

Vào lúc bấy giờ, có những người buôn ngựa từ xứ Uttarāpatha đã đến cư trú mùa mưa ở Verañjā cùng với năm trăm con ngựa. Ở các bãi nhốt ngựa, họ có chuẩn bị từng phần (pattha) lúa mạch[5] cho các vị tỳ khưu. Vào buổi sáng, các vị tỳ khưu mặc y cầm y bát rồi đi vào trong thành Verañjā để khất thực. Khi không nhận được đồ ăn khất thực, các vị đi đến khất thực ở các bãi nhốt ngựa và mang về tu viện (mỗi vị) một phần lúa mạch. Các vị giã đi giã lại trong cối giã rồi thọ dụng. Đại đức Ānanda nghiền phần lúa mạch ở tảng đá rồi dâng lên đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn thọ dụng thức ấy.

Quả vậy, đức Thế Tôn đã nghe tiếng cối giã. Các đấng Như Lai dầu biết vẫn hỏi, dầu biết các vị vẫn không hỏi, biết đúng thời các vị mới hỏi, biết đúng thời các vị vẫn không hỏi. Các đấng Như lai hỏi có liên quan đến lợi ích và không (hỏi việc) không có liên quan đến lợi ích, khi không có liên quan đến lợi ích các đấng Như Lai có cách để cắt đứt vấn đề. Chư Phật Thế Tôn hỏi các vị tỳ khưu bởi hai lý do: “Chúng ta sẽ thuyết Pháp hoặc sẽ quy định điều học cho các đệ tử.” Khi ấy, đức Thế Tôn đã bảo đại đức Ānanda rằng:

– Này Ānanda, tiếng cối giã ấy là gì vậy?

Khi ấy, đại đức Ānanda đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

– Này Ānanda, tốt lắm! Tốt lắm! Này Ānanda, (điều ấy) đã được khắc phục bởi các ngươi là những người hoàn thiện. Về sau này, con người sẽ chê bai cơm gạo sāli và thịt.

[6] Sau đó, đại đức Mahāmoggallāna (Mục Kiền Liên) đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, đại đức Mahāmoggallāna đã nói với đức Thế Tôn điều này:

– Bạch ngài, hiện nay Verañjā có sự khó khăn về vật thực, đời sống khổ cực, dịch bệnh hoành hành, vật thực được phân phối theo thẻ, không dễ dàng sinh sống bằng sự ra sức khất thực. Bạch ngài, bề mặt bên dưới của đại địa cầu này có chất như là mật ong, không cặn bã, và có hương vị y như thế. Bạch ngài, thật tốt thay nếu con lật ngửa quả địa cầu ra (để rồi) các tỳ khưu sẽ thọ dụng chất bổ dưỡng (ấy).[6]

– Này Moggallāna, ngươi sẽ giải quyết thế nào về các chúng sanh sống ở quả địa cầu?

– Bạch ngài, con sẽ biến hoá một bàn tay trở thành giống như đại địa cầu và di chuyển chúng sanh sống ở quả địa cầu đến đó, rồi con sẽ lật ngửa quả địa cầu ra bằng cánh tay kia.

– Này Moggallāna, thôi đi. Ngươi chớ thích thú để lật ngửa quả địa cầu ra nữa khiến chúng sanh sẽ gánh chịu sự xáo trộn.

– Bạch ngài, thật tốt thay nếu tất cả hội chúng tỳ khưu có thể đi đến Uttarakuru để khất thực.

– Này Moggallāna, ngươi sẽ giải quyết thế nào về các tỳ khưu không có thần thông?

– Bạch ngài, bằng cách nào mà tất cả các tỳ khưu đều sẽ đi được thì con sẽ làm theo cách ấy.

– Này Moggallāna, thôi đi. Ngươi chớ thích thú đến việc đi đến Uttarakuru để khất thực của toàn bộ hội chúng tỳ khưu nữa.

[7] Khi ấy, đại đức Sāriputta (Xá Lợi Phất) trong lúc thiền tịnh ở nơi thanh vắng có ý nghĩ suy tầm như vầy đã sanh khởi: “Phạm hạnh thời chư Phật Thế Tôn nào đã không tồn tại lâu dài? Phạm hạnh thời chư Phật Thế Tôn nào đã tồn tại lâu dài?” Sau đó vào lúc chiều tối, đại đức Sāriputta khi xuất khỏi thiền tịnh đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, đại đức Sāriputta đã nói với đức Thế Tôn điều này:

– Bạch ngài, trường hợp con trong lúc thiền tịnh ở nơi thanh vắng có ý nghĩ suy tầm như vầy đã sanh khởi: “Phạm hạnh thời chư Phật Thế Tôn nào đã không tồn tại lâu dài? Phạm hạnh thời chư Phật Thế Tôn nào đã tồn tại lâu dài?”

– Này Sāriputta, Phạm hạnh thời đức Thế Tôn Vipassī, thời đức Thế Tôn Sikhī, và thời đức Thế Tôn Vessabhū đã không tồn tại lâu dài. Này Sāriputta, Phạm hạnh thời đức Thế Tôn Kakusandha, thời đức Thế Tôn Konāgamana, và thời đức Thế Tôn Kassapa đã tồn tại lâu dài.

– Bạch ngài, vậy do nhân gì, do duyên gì khiến Phạm hạnh thời đức Thế Tôn Vipassī, thời đức Thế Tôn Sikhī, và thời đức Thế Tôn Vessabhū đã không tồn tại lâu dài?

– Này Sāriputta, đức Thế Tôn Vipassī, đức Thế Tôn Sikhī, và đức Thế Tôn Vessabhū đã không nỗ lực để thuyết giảng Giáo Pháp một cách chi tiết đến các đệ tử và các vị ấy đã có ít suttaṃ, geyyaṃ, veyyākaraṇaṃ, gāthā, udānaṃ, itivuttakaṃ, jātakaṃ, abbhūtadhammaṃ, vedallaṃ.[7] Điều học cho các đệ tử đã không được (các vị ấy) quy định và giới bổn Pātimokkha đã không được công bố. Với sự tịch diệt của chư Phật Thế Tôn ấy, với sự tịch diệt của các Thinh Văn đã được giác ngộ theo chư Phật (ấy), các vị đệ tử về sau này có tên khác nhau, có dòng họ khác nhau, có giai cấp khác nhau, từ gia tộc khác nhau đã xuất gia, các vị ấy đã khiến cho Phạm hạnh ấy biến mất thật nhanh chóng. Này Sāriputta, cũng giống như nhiều bông hoa khác nhau được đặt xuống ở trên tấm ván sàn và không được kết lại với nhau bằng sợi chỉ, cơn gió (sẽ) làm phân tán, làm tung toé, và hủy hoại chúng. Điều ấy có nguyên nhân thế nào? Này Sāriputta, giống như việc (các bông hoa) không được kết lại với nhau bằng sợi chỉ; này Sāriputta, tương tợ như thế với sự tịch diệt của chư Phật Thế Tôn ấy, với sự tịch diệt của các Thinh Văn đã được giác ngộ theo chư Phật (ấy), các vị đệ tử về sau này có tên khác nhau, có dòng họ khác nhau, có giai cấp khác nhau, từ gia tộc khác nhau đã xuất gia, các vị ấy đã khiến cho Phạm hạnh ấy biến mất thật nhanh chóng. Và chư Phật Thế Tôn ấy (chỉ) nỗ lực dùng tâm biết được tâm để giáo huấn các đệ tử. Này Sāriputta, trong thời quá khứ đức Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác Vessabhū, ở trong khu rừng ghê rợn nọ, dùng tâm biết được tâm rồi giáo huấn và chỉ dạy hội chúng tỳ khưu một ngàn vị rằng: “Hãy suy tầm như vầy.[8] Chớ suy tầm như thế.[9] Hãy tác ý như vầy.[10] Chớ tác ý như thế.[11] Hãy từ bỏ điều này.[12] Hãy thành tựu rồi an trú điều này.”[13] Này Sāriputta, khi ấy trong lúc được đức Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác Vessabhū giáo huấn như thế chỉ dạy như thế, các tâm của một ngàn vị tỳ khưu ấy đã không còn chấp thủ và đã được giải thoát khỏi các lậu hoặc. Này Sāriputta, vào trường hợp ấy trong khi đã bị kinh sợ đối với khu rừng ghê rợn, người nào chưa dứt bỏ ái dục đi vào khu rừng ấy thì hầu hết các sợi lông sẽ dựng đứng lên. Này Sāriputta, đây là nhân đây là duyên khiến Phạm hạnh thời đức Thế Tôn Vipassī, thời đức Thế Tôn Sikhī, và thời đức Thế Tôn Vessabhū đã không tồn tại lâu dài.

– Bạch ngài, vậy do nhân gì, do duyên gì khiến Phạm hạnh thời đức Thế Tôn Kakusandha, thời đức Thế Tôn Konāgamana, và thời đức Thế Tôn Kassapa đã tồn tại lâu dài?

– Này Sāriputta, đức Thế Tôn Kakusandha, đức Thế Tôn Konāgamana, và đức Thế Tôn Kassapa đã nỗ lực để thuyết giảng Giáo Pháp một cách chi tiết đến các đệ tử và các vị ấy đã có nhiều suttaṃ, geyyaṃ, veyyākaraṇaṃ, gāthā, udānaṃ, itivuttakaṃ, jātakaṃ, abbhūtadhammaṃ, vedallaṃ. Điều học cho các Thinh Văn đã được (các vị ấy) quy định và giới bổn Pātimokkha đã được công bố. Với sự tịch diệt của chư Phật Thế Tôn ấy, với sự tịch diệt của các Thinh Văn đã được giác ngộ theo chư Phật (ấy), các vị đệ tử về sau này có tên khác nhau, có dòng họ khác nhau, có giai cấp khác nhau, từ gia tộc khác nhau đã xuất gia, các vị ấy đã duy trì Phạm hạnh ấy lâu dài và trường cửu. Này Sāriputta, cũng giống như nhiều bông hoa khác nhau được đặt xuống ở trên tấm ván sàn và được kết lại với nhau bằng sợi chỉ, cơn gió (sẽ) không làm phân tán, không làm tung toé, và không hủy hoại chúng. Điều ấy có nguyên nhân thế nào? Này Sāriputta, giống như việc (các bông hoa) được kết lại với nhau bằng sợi chỉ; này Sāriputta, tương tợ như thế với sự tịch diệt của chư Phật Thế Tôn ấy, với sự tịch diệt của các Thinh Văn đã được giác ngộ theo chư Phật (ấy), các vị đệ tử về sau này có tên khác nhau, có dòng họ khác nhau, có giai cấp khác nhau, từ gia tộc khác nhau đã xuất gia, các vị ấy đã duy trì Phạm hạnh ấy lâu dài và trường cửu. Này Sāriputta, đây là nhân, đây là duyên khiến Phạm hạnh thời đức Thế Tôn Kakusandha, thời đức Thế Tôn Konāgamana, và thời đức Thế Tôn Kassapa đã tồn tại lâu dài.

[8] Sau đó, đại đức Sāriputta đã từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp thượng y một bên vai, chắp tay hướng về đức Thế Tôn, và đã nói với đức Thế Tôn điều này:

– Bạch Thế Tôn, nay là thời điểm của việc ấy. Bạch Thiện Thệ, nay là thời điểm của việc ấy, (tức là thời điểm) đức Thế Tôn nên quy định điều học cho các đệ tử, nên công bố giới bổn Pātimokkha; như thế Phạm hạnh này có thể được tiếp tục và tồn tại lâu dài.

– Này Sāriputta, ngươi hãy chờ đợi! Này Sāriputta, ngươi hãy chờ đợi! Trong trường hợp ấy, chỉ có Như Lai mới biết thời điểm. Này Sāriputta, cho đến khi nào một số pháp đưa đến lậu hoặc chưa xuất hiện trong hội chúng này thì cho đến khi ấy bậc Đạo Sư chưa quy định điều học và công bố giới bổn Pātimokkha cho các đệ tử. Này Sāriputta, chính bởi vì một số pháp đưa đến lậu hoặc xuất hiện trong hội chúng này nên bậc Đạo Sư quy định điều học và công bố giới bổn Pātimokkha cho các đệ tử nhằm diệt trừ chính các pháp đưa đến lậu hoặc ấy. Này Sāriputta, cho đến khi nào hội chúng chưa đạt đến sự lớn mạnh về số lượng thì cho đến khi ấy một số pháp đưa đến lậu hoặc chưa xuất hiện trong hội chúng này. Này Sāriputta, chính bởi vì hội chúng đạt đến sự đông đảo về số lượng nên một số pháp đưa đến lậu hoặc xuất hiện trong hội chúng này, nên bậc Đạo Sư quy định điều học và công bố giới bổn Pātimokkha cho các đệ tử nhằm diệt trừ chính các pháp đưa đến lậu hoặc ấy. Này Sāriputta, cho đến khi nào hội chúng chưa đạt đến sự lớn mạnh về việc phát triển thì cho đến khi ấy một số pháp đưa đến lậu hoặc chưa xuất hiện trong hội chúng này. Này Sāriputta, chính bởi vì hội chúng đạt đến sự lớn mạnh về việc phát triển nên một số pháp đưa đến lậu hoặc xuất hiện trong hội chúng này, nên bậc Đạo Sư quy định điều học và công bố giới bổn Pātimokkha cho các đệ tử nhằm diệt trừ chính các pháp đưa đến lậu hoặc ấy. Này Sāriputta, cho đến khi nào hội chúng chưa đạt đến sự dồi dào về lợi lộc thì cho đến khi ấy một số pháp đưa đến lậu hoặc chưa xuất hiện trong hội chúng này. Này Sāriputta, chính bởi vì hội chúng đạt đến sự dồi dào về lợi lộc nên một số pháp đưa đến lậu hoặc xuất hiện trong hội chúng này, nên bậc Đạo Sư quy định điều học và công bố giới bổn Pātimokkha cho các đệ tử nhằm diệt trừ chính các pháp đưa đến lậu hoặc ấy. Này Sāriputta, cho đến khi nào hội chúng chưa đạt đến sự lớn mạnh về việc học nhiều thì cho đến khi ấy một số pháp đưa đến lậu hoặc chưa xuất hiện trong hội chúng này. Này Sāriputta, chính bởi vì hội chúng đạt đến sự lớn mạnh về việc học nhiều nên một số pháp đưa đến lậu hoặc xuất hiện trong hội chúng này, nên bậc Đạo Sư quy định điều học và công bố giới bổn Pātimokkha cho các đệ tử nhằm diệt trừ chính các pháp đưa đến lậu hoặc ấy.[14] Này Sāriputta, bởi vì hội chúng tỳ khưu không có ô nhiễm, không có tội lỗi, có ác pháp đã lìa, được thanh tịnh, trong sạch, đã an trú vào mục đích.[15] Này Sāriputta, bởi vì trong số năm trăm tỳ khưu này, vị tỳ khưu thấp nhất (đã) là vị Nhập Lưu, không còn pháp bị đọa, được bền vững, và hướng đến sự giác ngộ.

[9] Sau đó, đức Thế Tôn đã bảo đại đức Ānanda rằng:

– Này Ānanda, điều này đã trở thành thông lệ của các đấng Như Lai là khi các vị cư trú mùa mưa do những ai đã thỉnh mời thì các vị không ra đi du hành trong xứ sở khi chưa thông báo cho những người ấy. Này Ānanda, chúng ta sẽ thông báo cho bà-la-môn Verañja này.

– Bạch ngài, xin vâng. Đại đức Ānanda đã đáp lời đức Thế Tôn.

Sau đó, đức Thế Tôn đã mặc y, cầm y bát cùng với đại đức Ānanda là sa-môn thị giả đi đến tư gia của bà-la-môn Verañja, sau khi đến đã ngồi xuống trên chỗ ngồi được sắp đặt sẵn. Khi ấy, bà-la-môn Verañja đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Đức Thế Tôn đã nói với bà-la-môn Verañja đang ngồi một bên điều này:

– Này Bà-la-môn, do được ông thỉnh mời chúng tôi đã trải qua mùa (an cư) mưa. Giờ chúng tôi thông báo ông rằng chúng tôi muốn ra đi du hành trong xứ sở.

– Bạch ngài Gotama, sự thật là các vị đã được tôi thỉnh mời và đã trải qua mùa (an cư) mưa. Tuy nhiên, việc cúng dường chưa được dâng cúng. Và điều ấy không phải là không có vật bố thí cũng không phải là không có lòng bố thí. Trong trường hợp này, điều ấy làm sao có thể đạt được khi cuộc sống tại gia có nhiều phận sự và có nhiều việc cần phải làm? Xin ngài Gotama nhận lời buổi trai phạn của tôi vào ngày mai cùng với hội chúng tỳ khưu.

Đức Thế Tôn đã nhận lời bằng thái độ im lặng. Sau đó, đức Thế Tôn đã chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho bà-la-môn Verañja bằng bài Pháp thoại, rồi đã từ chỗ ngồi đứng dậy, và ra đi.

Sau đó, khi trải qua đêm ấy bà-la-môn Verañja đã cho chuẩn bị sẵn sàng thức ăn thượng hạng loại cứng loại mềm tại tư gia của mình rồi cho người thông báo thời giờ đến đức Thế Tôn rằng:

– Bạch ngài Gotama, đã đến giờ. Thức ăn đã chuẩn bị xong.

Khi ấy vào buổi sáng, đức Thế Tôn đã mặc y cầm y bát đi đến tư gia của bà-la-môn Verañja, sau khi đến đã ngồi xuống trên chỗ ngồi được sắp đặt sẵn cùng với hội chúng tỳ khưu. Sau đó, bà-la-môn Verañja đã tự tay làm hài lòng và thỏa mãn hội chúng tỳ khưu có đức Phật đứng đầu với thức ăn thượng hạng loại cứng loại mềm. Đến khi đức Thế Tôn đã thọ thực xong bàn tay đã rời khỏi bình bát, bà-la-môn Verañja đã choàng lên đức Thế Tôn với ba y và choàng lên mỗi một vị tỳ khưu với một xấp vải đôi. Khi ấy, đức Thế Tôn đã chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho bà-la-môn Verañja bằng bài Pháp thoại, rồi đã từ chỗ ngồi đứng dậy, và ra đi.

Sau đó, khi đã ngụ tại Verañjā theo như ý thích, đức Thế Tôn đã đi dọc theo Soreyya, Saṅkassa, Kaṇṇakujja, và đến được bến đò Payāga.[16] Sau khi đến nơi, ngài đã vượt qua sông Gaṅgā tại bến đò Payāga và ngự đến thành Bārāṇasī (Ba-la-nại). Sau đó, khi đã ngụ tại thành Bārāṇasī theo như ý thích, đức Thế Tôn đã ra đi du hành đến thành Vesālī (Vệ Xá). Trong khi tuần tự du hành, ngài đã ngự đến thành Vesālī. Tại nơi ấy, trong thành Vesālī, đức Thế Tôn đã ngụ tại Mahāvana (Đại Lâm), nơi giảng đường Kūṭāgāra.

Dứt tụng phẩm Verañja.

*******

Chú giải

Chú giải
1 Theo ngài Buddhaghosa giải thích ở Samantapāsādikā (Chú Giải Tạng Luật), Verañjā là tên của một thành phố, Pucimanda là cây Nimba (Từ điển Pāli-English của Pali Text Society cho biết đó là một loại cây có lá đắng và gỗ cứng), Naḷeru là tên của một dạ-xoa, và đức Thế Tôn ngự ở khu vực lân cận của cây ấy.
2 Theo ngài Buddhaghosa, ông bà-la-môn  nói “arasarūpo” để chỉ trích đức Phật sống không thuận theo tập quán là người trẻ nên cung kính, hoặc đứng dậy, hoặc mời chỗ ngồi đối với các vị già cả, uy tín, v.v… Còn đức Thế Tôn cũng dùng nhóm từ “arasarūpo” nhưng đề cập đến năm đối tượng thích ý là sắc đẹp, tiếng hay, mùi thơm, vị ngon, xúc lạc được tầm cầu bởi năm giác quan là mắt, tai, mũi, lưỡi, và thân. Ở các phần kế tiếp, khi chỉ trích đức Phật “không biết thưởng thức,” “thuyết về không hành động,” “có sự ghê tởm,” “là người từ bỏ,” là người thiêu đốt,” vị bà-la-môn cũng ám chỉ việc đức Phật không cung kính, hoặc không đứng dậy, hoặc không mời chỗ ngồi đến các vị già cả, uy tín, v.v…
3 Theo ngài Buddhaghosa, vị bà-la-môn chỉ trích rằng đức Phật thuyết về đoạn kiến (ucchedavāda) chủ trương sau đời này không có đời khác.
4 Ngài Buddhaghosa giải thích rằng: “Có nhiều xương trắng nằm rải rác vì có quá nhiều người chết đói hoặc là tên của một loại bệnh mốc trắng ở cây lúa;” chúng tôi tạm dịch thoát như trên.
5 Theo ngài Buddhaghosa, lúa mạch này đã được tách vỏ trấu và hấp chín. Các người buôn ngựa đem theo lúa mạch để cho ngựa ăn ở những vùng không kiếm ra cỏ và họ đã xén phần ăn sáng của ngựa để dâng cho các vị tỳ khưu. Ngài Mahāsamaṇa Chao giải thích ở tác phẩm Vinayamukha thì 1 pattha có dung tích bằng hai bàn tay bụm lại.
6 Pappoṭakojam = chất sanh ra từ cây nấm (?).
7 Xin xem Diệu Pháp Yếu Lược (Saddhammasaṅgaha) để có lời giải thích chi tiết về chín thể loại này.
8 Suy tầm về ly dục, suy tầm về vô sân, và suy tầm vô hại (Theo lời giảng giải của ngài Buddhaghosa).
9 Chớ suy tầm về ngũ dục, chớ suy tầm về sân hận, chớ suy tầm về hãm hại (Theo lời giảng giải của ngài Buddhaghosa).
10 Tác ý đến vô thường, tác ý đến khổ não, tác ý đến vô ngã, tác ý đến bất tịnh (Theo lời giảng giải của ngài Buddhaghosa).
11 Chớ tác ý đến bốn điều đối nghịch trên là: thường, lạc, ngã, tịnh (Theo lời giảng giải của ngài Buddhaghosa).
12 Hãy từ bỏ bất thiện pháp (Theo lời giảng giải của ngài Buddhaghosa).
13 Hãy thành tựu và an trú vào thiện pháp (Theo lời giảng giải của ngài Buddhaghosa).
14 Phần “sự lớn mạnh về việc học nhiều” này không có ở đĩa CD Budsir IV của Thái Lan. Chúng tôi thêm vào theo bản dịch tiếng Anh của học giả I. B. Horner.
15 Giới, Định, Tuệ, Giải thoát, và Tri kiến về sự giải thoát (Theo lời giảng giải của ngài Buddhaghosa).
16 Payāga là một thị trấn ở bên bờ sông Gaṅgā, nay là thành phố Allahabad (Chú thích của người dịch).