Giải Thích Kinh Poṭṭhapāda
(Poṭṭhapādapasuttavaṇṇanā )Xem Trường Bộ Kinh – Kinh Poṭṭhapāda
406. Evaṃ me suttaṃ … pe … sāvatthiyanti poṭṭhapādasuttaṃ. Tatrāyaṃ apubbapadavaṇṇanā. Sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāmeti sāvatthiṃ upanissāya yo jetassa kumārassa vane anāthapiṇḍikena gahapatinā ārāmo kārito, tattha viharati. Poṭṭhapādo paribbājakoti nāmena poṭṭhapādo nāma channaparibbājako. So kira gihikāle brāhmaṇamahāsālo kāmesuādīnavaṃ disvā cattālīsakoṭiparimāṇaṃ bhogakkhandhaṃ pahāya pabbajitvā titthiyānaṃ gaṇācariyo jāto. Samayaṃ pavadanti etthāti samayappavādako, tasmiṃ kira ṭhāne caṅkītārukkhapokkharasātippabhutayo brāhmaṇā nigaṇṭhācelakaparibbājakādayo ca pabbajitā sannipatitvā attano attano samayaṃ vadanti kathenti dīpenti, tasmā so ārāmo samayappavādakoti vuccati. Sveva ca tindukācīrasaṅkhātāya timbarūrukkhapantiyā[1] parikkhittattā tindukācīro. Yasmā panettha paṭhamaṃ ekāva sālā ahosi, pacchā mahāpuññaṃ paribbājakaṃ nissāya bahū sālā katā. Tasmā tameva ekaṃ sālaṃ upādāya laddhanāmavasena ekasālakoti vuccati. Mallikāya pana pasenadirañño deviyā uyyānabhūto so pupphaphalasampanno ārāmoti katvā mallikāya ārāmoti saṅkhyaṃ gato. tasmiṃ samayappavādake tindukācīre ekasālake mallikāya ārāme.
406. Bài Kinh Poṭṭhapāda: “Tôi đã nghe như vầy …nt…đức Thế Tôn trú tại thành Sāvatthī.” Ở đây, bài Kinh này được giải thích theo tuần tự như sau – trú tại thành Sāvatthī, ở Jetavana, nơi tu viện của ông Anāthapiṇḍika: trú tại thành Sāvatthī, ở Jetavana, nơi tu viện của gia chủ Anāthapiṇḍika đã được xây dựng nơi khu vườn của vương tử Jeta. Du sĩ ngoại đạo Poṭṭhapāda: Channaparibbājaka tên là Poṭṭhapāda. Được biết rằng khi còn sống tại gia thì vị ấy là một triệu phú Bà-la-môn, sau khi nhìn thấy lỗi lầm trong các dục nên đã từ bỏ khối tài sản trị giá bốn mươi Koṭi xuất gia trở thành vị giáo thọ sư của tập thể các du sĩ ngoại đạo. Các Bà-la-môn và các vị xuất gia đã tranh luận về học thuyết ở tại nơi ấy, vì thế ở nơi đó được gọi là nơi thuyết giảng đạo giáo. Kể rằng các Bà-la-môn có Bà-la-môn Caṅkī, Bà-la-môn Tārukkha và Bà-la-môn Pokkharasāti v.v, và các vị xuất gia thuộc nhóm Nigaṇṭha và các du sĩ lõa thể v.v, hội tụ lại với nhau ở nơi ấy rồi tranh luận (với nhau) nói về học thuyết của chính mình ở tại nơi ấy, do đó, tu viện ấy mới gọi là nơi thuyết giảng đạo giáo. Ở chính khu vườn ấy được gọi là rừng cây Timbaru. Tu viện ở nằm ở giữa rừng cây Timbaru ấy, tức là được bao quanh bởi rừng cây Timbaru. Bởi vì ở trong tu viện ấy ban đầu chỉ có một cái am thất mà thôi (nhưng) về sau mọi người nương vào các du sĩ ngoại đạo có nhiều phước báu mới mới xây dựng thêm nhiều am thất sau đó, do đó tu viện ấy mới gọi là Ekasālaka (am thất duy nhất) về phương diện tên gọi có được do y vào Ekasālaka (am thất duy nhất). Hơn nữa, tu viện ấy đầy đủ hoa và quả được hoàng hậu Mallikā của đức vua Pasenadi Kosala kiến tạo cúng dường mới được gọi là khu vườn của hoàng hậu Mallikā. Chỗ thuyết giảng đạo giáo nơi khu rừng Timbaru có một am thất duy thất là khu vườn của hoàng hậu Mallikā.
Paṭivasatīti nivāsaphāsutāya vasati. Athekadivasaṃ bhagavā paccūsasamaye sabbaññutaññāṇaṃ pattharitvā lokaṃ pariggaṇhanto ñāṇajālassa antogataṃ paribbājakaṃ disvā — “Ayaṃ poṭṭhapādo mayhaṃ ñāṇajāle paññāyati, kinnu kho bhavissatī”ti upaparikkhanto addasa — “ahaṃ ajja tattha gamissāmi, atha maṃ poṭṭhapādo nirodhañca nirodhavuṭṭhānañca pucchissati, tassāhaṃ sabbabuddhānaṃ ñāṇena saṃsanditvā tadubhayaṃ kathessāmi, atha so katipāhaccayena cittaṃ hatthisāriputtaṃ gahetvā mama santikaṃ āgamissati, tesamahaṃ dhammaṃ desessāmi, desanāvasāne poṭṭhapādo maṃ saraṇaṃ gamissati, citto hatthisāriputto mama santike pabbajitvā arahattaṃ pāpuṇissatī”ti. Tato pātova sarīrapaṭijagganaṃ katvā surattadupaṭṭaṃ nivāsetvā vijjulatāsadisaṃ kāyabandhanaṃ bandhitvā yugandharapabbataṃ parikkhipitvā ṭhitamahāmeghaṃ viya meghavaṇṇaṃ paṃsukūlaṃ ekaṃsavaragataṃ katvā[2] paccagghaṃ selamayapattaṃ vāmāṃsakūṭe laggetvā sāvatthiṃ[3] piṇḍāya pavisissāmīti sīho viya himavantapādā vihārā nikkhami. Imamatthaṃ sandhāya — “atha kho bhagavā”tiādi vuttaṃ.
An trú: cư ngụ, bởi vì làm nơi an trú. Một ngày nọ lúc trời hừng sáng đức Thế Tôn đã trải (mạng lưới) toàn giác trí quan sát thế gian đã thấy du sĩ ngoại đạo lọt vào trong mạng lưới trí tuệ, trong khi suy xét rằng: “Poṭṭhapāda này đã xuất hiện trong mạng lưới trí tuệ của ta, sẽ có điều gì chăng, đã thấy rằng: vào ngày hôm nay ta sẽ đi đến tu viện ấy, sau đó Poṭṭhapāda sẽ hỏi ta về sự diệt tận và việc xuất khỏi sự diệt tận, ta sẽ so sánh với trí của chư Phật thuyết giảng cả hai điều ấy cho Poṭṭhapāda trãi qua 2-3 ngày vị ấy sẽ đưa Citta Hatthisāriputta đến trú xứ của ta, ta sẽ thuyết giảng Giáo Pháp cho cả hai người ấy, kết thúc Pháp thoại thì Poṭṭhapāda sẽ đi đến nương nhờ, còn Citta Hatthisāriputta sẽ xuất gia ở trong trú xứ của ta rồi chứng đắc phẩm vị A-ra-hán.” Khi đó đức Thế Tôn vệ sinh thân thể sạch sẽ tứ sáng sớm quấn y nội hai lớp đã được nhuộm kỹ lưỡng, đã buộc dây thắt lưng tựa như tia sét, đắp y phấn tảo một bên vai có màu sắc như màu đám mây, như thế đám mây to lớn bao quanh ngọn núi Yugandhara, đã đeo bình bát được làm bằng đá có giá trị ở bả vai bên trái, suy tư như sau: Ta sẽ đi vào thành Sāvatthī để khất thực, ngài bước đi uyển chuyển rời khỏi tu viện như thể sư tử chúa rời khỏi chân núi Himavanta, ngài muốn đề cập đến ý nghĩa này mới thuyết rằng khi “Khi ấy… đức Thế Tôn…”
407. Etadahosīti nagaradvārasamīpaṃ gantvā attano rucivasena sūriyaṃ oloketvā atippagabhāvameva disvā etaṃ ahosi. Yaṃnūnāhanti saṃsayaparidīpano viya nipāto, buddhānañca saṃsayo nāma natthi — “idaṃ karissāma, idaṃ na karissāma, imassa dhammaṃ desessāma, imassa na desessāmā”ti evaṃ parivitakkapubbabhāgo panesa sabbabuddhānaṃ labbhati. tenāha — “yaṃnūnāhan”ti, yadi panāhanti attho.
407. Đã khởi ý: đức Thế Tôn đã đi đến gần cổng thành ngước nhìn ánh mặt trời cho đến khi vừa ý, thấy rằng thời gian vẫn còn rất sớm nên mới khởi ý như vậy. Yaṃnūnāhaṃ (hay là ta) đây là một phân từ để bày tỏ sự nghi ngờ, và chư Phật thì không có sự nghi ngờ. Nhưng nếu ý nghĩa ban đầu có nơi đức Thế Tôn như vầy rằng – “Ta sẽ làm phận sự này, sẽ không làm phận sự này, ta sẽ thuyết giảng Giáo Pháp cho người này, sẽ không thuyết giảng Giáo Pháp cho người này”. Vì lý do đó ngài đã nói “hay là ta”, tức là nếu như ta.
408. Unnādiniyāti uccaṃ nadamānāya, evaṃ nadamānāya cassā uddhaṃ gamanavasena ucco, disāsu patthaṭavasena mahā saddoti uccāsaddamahāsaddāya, tesañhi paribbājakānaṃ pātova vuṭṭhāya kattabbaṃ nāma cetiyavattaṃ vā bodhivattaṃ vā ācariyupajjhāyavattaṃ vā yoniso manasikāro vā natthi. tena te pātova vuṭṭhāya bālātape nisinnā — “imassa hattho sobhano, imassa pādo”ti evaṃ aññamaññassa hatthapādādīni vā ārabbha, itthipurisadārakadārikādīnaṃ vaṇṇe vā, aññaṃ vā kāmassādabhavassādādivatthuṃ ārabbha kathaṃ samuṭṭhāpetvā anupubbena rājakathādianekavidhaṃ tiracchānakathaṃ kathenti. tena vuttaṃ — “unnādiniyā uccāsaddamahāsaddāya anekavihitaṃ tiracchānakathaṃ kathentiyā”ti.
408. Với âm thanh ồn ào: với âm thanh ầm ĩ, bởi âm thanh ấy vang vọng như vầy gọi là cao giọng, bởi có thế đi lên phần trên cao. Gọi là âm thanh ầm ĩ bởi có thể lan tỏa khắp mọi phương hướng, do đó mới gọi là với âm thanh ầm ĩ. Thật vậy, Những du sĩ ấy thức dậy từ sáng sớm nhưng không làm những phận sự cần làm là phận sự ở Bảo điện, phận sự ở cội Bồ-đề, phận sự đối với các tôn sư và thầy tế độ hoặc tác ý đúng đường lối. Những du sĩ ấy dậy từ sáng sớm ngồi ở nơi có ánh nắng nhẹ, đề cập đến các chi phần có tay và chân v.v, của nhau như vầy tay của vị này đẹp, chân của vị này xinh, hoặc nói đến làn da của người nữ người nam, bé gái và bé trai, hoặc đề cập đến những vấn đề khác chẳng hạn như sự thỏa mãn trong các dục và sự thỏa thích trong các cõi v.v. sau khi thiết lập những lời nói ấy rồi nói đến những chuyện phù phím như câu chuyện về đức vua v.v, theo thứ tự. Vì thế, ngài mới nói rằng: (trong lúc các vị ấy) đang cao giọng nói chuyện thế tục đa dạng với âm thanh ồn ào, với âm thanh ầm ĩ, như là: chuyện đức vua…”
Tato poṭṭhapādo paribbājako te paribbājake oloketvā — “ime paribbājakā ativiya aññamaññaṃ agāravā, mayañca samaṇassa gotamassa pātubhāvato paṭṭhāya sūriyuggamane khajjopanakūpamā jātā, lābhasakkāropi no parihīno. Sace panimaṃ ṭhānaṃ samaṇo gotamo vā gotamassa sāvako vā gihī upaṭṭhāko vā tassa āgaccheyya, ativiya lajjanīyaṃ bhavissati, parisadoso kho pana parisajeṭṭhakasseva upari ārohatī”ti itocito ca vilokento[4] bhagavantaṃ addasa. Tena vuttaṃ — “addasā kho poṭṭhapādo paribbājako … pe … tuṇhī ahesun”ti.
Khi ấy du sĩ Poṭṭhapāda đã đưa quan sát nhóm du sĩ ấy nghĩ rằng – “Những du sĩ này không tôn trọng lẫn nhau, và chúng ta giống như những con đom đóm trong thời gian mặt trời mọc kể từ khi Sa-môn xuất hiện. Thậm chí lợi đắc và sự cung kính của chúng tôi cũng suy giảm. Hơn nữa, nếu như Sa-môn Gotama hoặc đệ tử của Sa-môn Gotama, kể cả người cư sĩ phụng sự của Sa-môn Gotama ấy có thể đi đến nơi đây thì thật vô cùng xấu hổ. Hơn nữa, lỗi lầm của hội chúng sẽ đổ lên đầu người dẫn đầu hội chúng, trong lúc nhìn xung quanh đã nhìn thấy đức Thế Tôn. Vì thế, mới nói rằng: “Du sĩ ngoại đạo Poṭṭhapāda đã nhìn thấy đức Thế Tôn từ đằng xa đang đi đến…các du sĩ ngoại đạo ấy đã trở nên im lặng.”
409. Tattha saṇṭhapesīti sikkhāpesi, vajjamassā paṭicchādesi. Yathā susaṇṭhitā hoti, tathā naṃ ṭhapesi. Yathā nāma parisamajjhaṃ pavisanto puriso vajjapaṭicchādanatthaṃ nivāsanaṃ saṇṭhapeti, pārupanaṃ saṇṭhapeti, rajokiṇṇaṭṭhānaṃ puñchati; evamassā vajjapaṭicchādanatthaṃ — “appasaddā bhonto”ti sikkhāpento yathā susaṇṭhitā hoti, tathā naṃ ṭhapesīti attho. Appasaddakāmoti appasaddaṃ icchati, eko nisīdati, eko tiṭṭhati, na gaṇasaṅgaṇikāya yāpeti. Upasaṅkamitabbaṃ maññeyyāti idhāgantabbaṃ maññeyya.
409. Ở đó, đã chấn chỉnh (tập thể của mình): cho quan sát, che giấu lỗi lầm của tập thể ấy, làm cho hội chúng được thiết lập với biểu hiện đã khéo thiết lập. Giống như một người bước vào giữa tập thể, ăn mặc gọn gàng, lâu dọn ở nơi dơ bẩn bởi bụi bậm nhằm mục đích che đậy lỗi lầm ấy – “Các ngài hãy nhỏ tiếng” trong khi cho lắng nghe, cũng cho giữ im lặng bằng cách làm cho tập thể được thiết lập với biểu hiện đã khéo thiết lập (giữ im lặng). Ưa thích sự yên lặng: đề nghị (nói) với giọng nhỏ nhẹ, người ngồi, người đứng, không cho diễn ra với việc giao thiệp thành nhóm. Có thể nghĩ là (tập thể này) nên được ghé thăm: có thể nghĩ là (tập thể này yên lặng) nên bước vào chỗ này.
Kasmā panesa bhagavato upasaṅkamanaṃ paccāsīsatīti[5]? Attano vuddhiṃ patthayamāno. Paribbājakā kira buddhesu vā buddhasāvakesu vā attano santikaṃ āgatesu — “Ajja amhākaṃ santikaṃ samaṇo gotamo āgato, sāriputto āgato, na kho pana te yassa vā tassa vā santikaṃ gacchanti, passatha amhākaṃ uttamabhāvan”ti attano upaṭṭhākānaṃ santike attānaṃ ukkhipanti, ucce ṭhāne ṭhapenti, bhagavatopi upaṭṭhāke gaṇhituṃ vāyamanti. Te kira bhagavato upaṭṭhāke disvā evaṃ vadanti — “Tumhākaṃ satthā bhavaṃ gotamopi gotamasāvakāpi[6] amhākaṃ santikaṃ āgacchanti, mayaṃ aññamaññaṃ samaggā. tumhe pana amhe akkhīhipi passituṃ na icchatha, sāmīcikammaṃ na karotha, kiṃ vo amhehi aparaddhan”ti. athekacce manussā — “buddhāpi etesaṃ santikaṃ gacchanti kiṃ amhākan”ti tato paṭṭhāya te disvā nappamajjanti. tuṇhī ahesunti poṭṭhapādaṃ parivāretvā nissaddā nisīdiṃsu.
Tại sao du sĩ Poṭṭhapāda ấy hy vọng việc đi đến gần của đức Thế Tôn? Bởi có ý muốn cho bản thân có sự tăng trưởng. Đươc biết rằng các du sĩ khi đức Phật hoặc chư Thánh thinh văn đệ tử của đức Phật đến trú xứ của mình mới đưa mình lên ở trong trú xứ của nhóm người phụng sự rằng – “Hôm nay Sa-môn Gotama đến trú xứ của chúng ta, trưởng lão Sāriputta cũng đến, các ngài không đi đến trú xứ của ai cả. Các ông nên biết bản thể cao cả chúng ta”. Cố gắng để thân cận cả những người tùy tùng của đức Thế Tôn. Được biết rằng các du sĩ ấy nhìn thấy nhóm tùy tùng của đức Thế Tôn đã nói như vầy – “Ngay cả Ngài Gotama bậc Đạo Sư của các ông, cả chư Thánh thinh văn đệ tử của ngài Gotama cũng đi đến trú xứ của chúng ta, chúng ta hợp nhất lại với nhau. Tuy nhiên các ông không muốn nhìn tôi với ánh mắt không thể hiện sự kính trọng. Chúng tôi đã làm sai điều gì đối với các ông chăng? Khi đó, một số người nghĩ rằng “ngay cả đức Phật cũng đi đến trú xứ ở các du sĩ này, thì tại sao chúng ta lại không thể đi (đến trú xứ các du sĩ)” kể từ đó mọi người khi gặp các du sĩ ngoại đạo cũng không còn tránh né. ấy Đã trở nên im lặng: các du sĩ ngoại đạo ấy ngồi vây quanh du sĩ Poṭṭhapāda.
410. Svāgataṃ, bhanteti suṭṭhu āgamanaṃ, bhante, bhagavato; Bhagavati hi no āgate ānando hoti, gate sokoti dīpeti. Cirassaṃ kho, bhanteti kasmā āha? kiṃ bhagavā pubbepi tattha gatapubboti, na gatapubbo. Manussānaṃ pana — “Kuhiṃ gacchantā, kuto āgatattha, kiṃ maggamūḷhattha, cirassaṃ āgatatthā”ti evamādayo piyasamudācārā honti, tasmā evamāha. Evañca pana vatvā na mānathaddho hutvā nisīdi, uṭṭhāyāsanā[7] bhagavato paccuggamanamakāsi. Bhagavantañhi upagataṃ disvā āsanena animantento vā apacitiṃ akaronto vā dullabho. Kasmā? Uccākulīnatāya. Ayampi paribbājako attano nisinnāsanaṃ papphoṭetvā bhagavantaṃ āsanena nimantento — “Nisīdatu, bhante, bhagavā idamāsanaṃ paññattan”ti āha. Antarākathā vippakatāti nisinnānaṃ vo ādito paṭṭhāya yāva mamāgamanaṃ, etasmiṃ antare kā nāma kathā vippakatā, mamāgamanapaccayā katamā kathā pariyantaṃ na gatā, vadatha, yāva naṃ pariyantaṃ netvā demīti[8] sabbaññupavāraṇaṃ pavāresi. Atha paribbājako — “niratthakakathā esā nissārā vaṭṭasannissitā, na tumhākaṃ purato vattabbataṃ arahatī”ti dīpento “tiṭṭhatesā, bhante”tiādimāha.
410. Thưa ngài, hoan nghênh ngài đến: Thưa ngài, việc đi đến của đức Thế Tôn thật tốt đẹp; Ngài chỉ ra rằng: bởi vì trong khi đức thế Tôn đến (chúng tôi) có sự vui mừng, khi ngài đi thì chúng tôi sầu muộn. Đã lâu lắm rồi…đức Thế Tôn: Trước đây, đức Thế Tôn đã từng đi đến chỗ đó phải chăng? Trước đây ngài chưa từng đi. Hơn nữa, mọi người hỏi han bằng những lời nói sự dễ thương như vầy rằng – “Ngài đi đâu? ngài đi đâu về? Ngài bị lạc đường hay sao? Ngài đến lâu rồi sao?” Vì lý do đó, du sĩ Poṭṭhapāda mới nói như thế. Và hơn nữa, sau khi hỏi như vậy đã không ngồi giữ im lặng, ương ngạnh do ngã mạn, thế nên (vị ấy) đã đứng dậy từ chỗ ngồi của mình để tiếp đón đức Thế Tôn. Bởi vì sau khi nhìn thấy đức Thế Tôn (từ đằng xa) đang đi đến (mà) không thỉnh mời ngồi với tọa cụ (đã được sửa soạn sẵn), hoặc không thể hiện sự cung kính là điều không thể xảy ra. Vì sao? Bởi vì dòng dõi cao quý. Du sĩ ngoại đạo này sau khi đập giũ tọa cụ mà mình đã ngồi, trong khi thỉnh mời dức Thế Tôn bằng tọa cụ (đó) đã nói rằng: “Thưa Ngài, xin thỉnh đức Thế Tôn ngồi, chỗ ngồi này đã được soạn sẵn.” Câu chuyện trao đổi gì giữa các vị còn dang dở?: Đã khai mở trí toàn giác rằng: “Các ông đã ngồi từ sáng sớm cho đến khi ta đến, câu chuyện trao đổi gì giữa các ông còn dang dở trong khoảng thời gian đó tức là câu chuyện vẫn chưa được chấm dứt, do ta đi đến mong các ông hãy nói ra, ta sẽ tiếp tục câu chuyện đó thuyết giảng cho đi đến kết thúc. Khi đó, du sĩ ngoại đạo đã trình bày “Câu chuyện ấy là câu chuyện vô ích, không có cốt lõi, nương vào vòng sanh tử luân hồi, thật không thích hợp để đem ra nói ở trước mặt của ngài” nên đã nói rằng: “Thưa Ngài, hãy để yên câu chuyện ấy…”
Giảng Giải Về Sự Diệt Tận Của Tưởng
411. Tiṭṭhatesā, bhanteti sace bhagavā sotukāmo bhavissati, pacchāpesā kathā na dullabhā bhavissati, amhākaṃ panimāya kathāya attho natthi. Bhagavato panāgamanaṃ labhitvā mayaṃ aññadeva sukāraṇaṃ pucchāmāti dīpeti. Tato taṃ pucchanto — “purimāni, bhante”tiādimāha. Tattha kotūhalasālāyanti kotūhalasālā nāma paccekasālā natthi. yattha pana nānātitthiyā samaṇabrāhmaṇā nānāvidhaṃ kathaṃ pavattenti, sā bahūnaṃ — “Ayaṃ kiṃ vadati, ayaṃ kiṃ vadatī”ti kotūhaluppattiṭṭhānato[9] kotūhalasālāti vuccati. Abhisaññānirodheti ettha abhīti upasaggamattaṃ. Saññānirodheti cittanirodhe, khaṇikanirodhe kathā uppannāti attho. Idaṃ pana tassā uppattikāraṇaṃ. yadā kira bhagavā jātakaṃ vā katheti, sikkhāpadaṃ vā paññapeti tadā sakalajambudīpe bhagavato kittighoso pattharati, titthiyā taṃ sutvā — “Bhavaṃ kira gotamo pubbacariyaṃ kathesi, mayaṃ kiṃ na sakkoma tādisaṃ kiñci kathetun”ti bhagavato paṭibhāgakiriyaṃ karontā ekaṃ bhavantarasamayaṃ kathenti — “Bhavaṃ gotamo sikkhāpadaṃ paññapesi, mayaṃ kiṃ na sakkoma paññapetun”ti attano sāvakānaṃ kiñcideva sikkhāpadaṃ paññapenti. Tadā pana bhagavā aṭṭhavidhaparisamajjhe nisīditvā nirodhakathaṃ kathesi. Titthiyā taṃ sutvā — “Bhavaṃ kira gotamo nirodhaṃ nāma kathesi, mayampi taṃ kathessāmā”ti sannipatitvā kathayiṃsu. tena vuttaṃ — “abhisaññānirodhe kathā udapādī”ti.
411. Thưa Ngài, hãy để yên câu chuyện ấy: Du sĩ ngoại đạo chỉ ra rằng – Nếu như đức Thế Tôn sẽ có mong muốn lắng nghe (câu chuyện đó) thì câu chuyện ấy sẽ không phải là điều khó đạt được đối với đức Thế Tôn để nghe sau này, vì câu chuyện này chẳng có lợi ích gì cho chúng tôi. Tuy nhiên, chúng tôi đã có được việc đi đến của đức Thế Tôn (chúng tôi) chỉ hỏi đến những chuyện tốt đẹp mà thôi. Sau đó, trong khi hỏi đến những chuyện ấy mới nói lời bắt đầu như sau: “Thưa Ngài, nhiều ngày trước…” Ở đó, trong giảng đường truyền tin: ở mỗi phòng hợp gọi là không có giảng đường nhốn nháo. Tuy nhiên, các Sa-môn và Bà-la-môn thuộc các đạo giáo khác nhau đã nói những lời nói khác nhau vận hành ở giáo phái nào thì giáo phái đó gọi là giảng đường nhốn nháo, bởi vì là nơi khởi lên sự nhốn nháo, lộn xộn cho nhiều người – “Người này nói cái gì? Người này nói điều gì?” Từ ‘Abhi’ trong từ ‘Abhisaññānirodhe – trong sự diệt tận của tưởng’ này chỉ là tiền tố. Trong sự diệt tận của tưởng: câu chuyển đã khởi lên sự diệt tận của tâm gọi là khaṇikanirodha. Hơn nữ sự diệt tận của tưởng này là nhân sanh khởi của câu chuyện ấy. Được biết rằng vào thời gian nào đức Thế Tôn thuyết giản Jātaka hoặc chế định học giới, vào thời gian ấy âm thanh ca ngợi danh tiếng của đức Thế Tôn được lan rộng khắp toàn bộ cõi Jambudīpa, các du sĩ ngoại đạo sau khi nghe về danh tiếng đó cũng đã thực hiện hành động bắt chước như đức Thế Tôn – “Giả sử Sa-môn Gotama nói về phẩm hạnh quá khứ (của bản thân) thì chúng tôi không thể nói về phẩm hạnh điều đó hay sao? nên mới trình bày học thuyết giữa một kiếp sống. – “Chế định một số học giới cho các đệ tử của mình rằng – “Sa-môn Gotama đã chế định học giới rồi thì chúng tôi không thể chế định sao? Cũng vào lúc ấy đức Thế Tôn đã an tọa giữa tám hội chúng thuyết giảng giải câu chuyện về sự diệt tận (nirodhakathā). Sau khi các du sĩ ngoại đạo nghe về câu chuyện về sự diệt tận ấy đã đưa nhau đến hội hợp (rồi) nói rằng: “Giả sư Sa-môn Gotama thuyết giảng câu chuyện về sự diệt tận thì chúng tôi cũng sẽ thuyết.” Vì thế, ngài mới nói rằng: “đã khởi lên câu chuyện về sự diệt tận của tưởng”.
Tatrekacceti tesu ekacce. Purimo cettha yvāyaṃ bāhire titthāyatane pabbajito cittappavattiyaṃ dosaṃ disvā acittakabhāvo santoti samāpattiṃ bhāvetvā ito cuto pañca kappasatāni asaññībhave ṭhatvā[10] puna idha uppajjati. Tassa saññuppāde ca nirodhe ca hetuṃ apassanto — ahetū appaccayāti āha.
Ở nơi hội hợp, một số vị: một số vị trong số những Sa-môn và Bà-la-môn ấy. Và ở trong câu chuyện này, vị xuất gia nơi học thuyết ngoại giáo một số vị ban đầu sau khi nhìn thấy lỗi lầm trong sự vận hành của tâm đã tu tập thiền chứng như sau: “Bản thể không có tâm đã được tịnh lặng, sau khi chết từ thế giới này đã vững trú ở cõi Phạm Thiên Vô Tưởng suốt năm trăm kiếp, cũng sẽ (tái sanh) trở lại thế giới này lần nữa, khi không nhìn thấy nguyên nhân trong sự sanh khởi của Tưởng và trong sự diệt của hạng người ấy – nên mới nói rằng: ‘Không nhân, không duyên’.
Dutiyo naṃ nisedhetvā migasiṅgatāpasassa[11] asaññakabhāvaṃ gahetvā — “Upetipi apetipī”ti āha. Migasiṅgatāpaso kira attantapo ghoratapo paramadhitindriyo[12] ahosi. tassa sīlatejena sakkavimānaṃ uṇhaṃ ahosi. Sakko devarājā “sakkaṭṭhānaṃ nu kho tāpaso patthetī”ti alambusaṃ nāma devakaññaṃ — ‘tāpasassa tapaṃ bhinditvā ehī’ti pesesi. sā tattha gatā. tāpaso paṭhamadivase taṃ disvāva palāyitvā paṇṇasālaṃ pāvisi. Dutiyadivase kāmacchandanīvaraṇena bhaggo taṃ hatthe aggahesi, so tena dibbaphassena phuṭṭho visaññī hutvā tiṇṇaṃ saṃvaccharānaṃ accayena saññaṃ paṭilabhi. Taṃ so diṭṭhigatiko — “Tiṇṇaṃ saṃvaccharānaṃ accayena nirodhā vuṭṭhito”ti maññamāno evamāha.
Người thứ hai đã bác bỏ lời nói ấy, đã dẫn chứng ý nghĩa của đạo sĩ Migasiṅga là vị không có Tưởng-saññā – đã nói rằng: “Luôn cả đến, luôn cả đi”. Tương truyền vị đạo sĩ Migasiṅga là vị tự mình hành khổ hạnh, có khổ hạnh gay gắt, có các giác quan tối thắng. Do nhờ uy lực giới hạnh của vị đạo sĩ ấy đã khiến cho thiên cung của vua trời Sakka nóng lên. Vua trời Sakka nghĩ rằng: “Phải chăng vị đạo sĩ này muốn địa vị vua trời Sakka? Đã chọn ra nàng tiên nữ tên là Alambusā với mạnh lệnh rằng: “Nàng hãy đi phá hủy (lối thực hành) khổ hạnh của đạo sĩ. Nàng tiên nữ ấy đã đi đến nơi đó. Vị đạo sĩ sau khi nhìn thấy nàng tiên nữ vào ngày đầu tiên đã tránh né rồi đi vào am tranh. Vào ngày thứ hai vị đạo sĩ bị sự che lấp do mong muốn ở các dục vây hãm mới nắm lấy tay nàng ấy. Vị ấy xúc chạm bởi sự xúc chạm thiên giới bị mất hết Tưởng-saññā, sau đó khi trải qua ba năm thì Tương-saññā mới trở lại. Người thứ hai sau khi nhìn thấy vị đạo sĩ Migasiṅga có tà kiến quả quyết nghĩ rằng: “Việc xuất khỏi sự diệt tận đã trải qua ba năm” nên mới nói như vậy.
Tatiyo naṃ nisedhetvā āthabbaṇapayogaṃ sandhāya “upakaḍḍhantipi apakaḍḍhantipī”ti āha. Āthabbaṇikā kira āthabbaṇaṃ payojetvā sattaṃ sīsacchinnaṃ viya hatthacchinnaṃ viya mataṃ viya ca katvā dassenti. Tassa puna pākatikabhāvaṃ disvā so diṭṭhigatiko — “nirodhā vuṭṭhito ayan”ti maññamāno evamāha.
Người thứ ba đã bác bỏ lời nói của người thứ hai hướng đến sự thực hành bùa chú nên mới nói rằng: “kéo vào và kéo ra…” Tương truyền rằng những vị thiện xảo về chú thuật sử dụng chú thuật để thể hiện cho thấy giống như chúng sanh đứt đầu, mất tay và giống như đã chết rồi. Vị ấy nhìn thấy những chúng sanh ấy trở lại bình thường mới có tà kiến quả quyết rằng – “Chúng sanh này xuất khỏi thiền diệt” nên đã nói như vậy.
Catuttho naṃ nisedhetvā yakkhadāsīnaṃ madaniddaṃ sandhāya “santi hi bho devatā”tiādimāha. Yakkhadāsiyo kira sabbarattiṃ devatūpahāraṃ kurumānā naccitvā gāyitvā aruṇodaye ekaṃ surāpātiṃ pivitvā parivattitvā supitvā divā vuṭṭhahanti. taṃ disvā so diṭṭhigatiko — “suttakāle nirodhaṃ samāpannā, pabuddhakāle nirodhā vuṭṭhitā”ti maññamāno evamāha.
Người thứ tư đã phản đối người thứ ba hướng đến việc ngủ do say xỉn của các nữ Dạ-xoa hầu cận nói lời như sau: “Thưa các ngài, bởi vì có…” Tương truyền rằng các nữ Dạ-xoa hầu cận phục vụ chư Thiên suốt đêm nhảy múa, ca hát đến khi mặt trời mọc đã uống một bát rượu (say xỉn) lăn qua lăn lại ngủ thiếp đi thức dậy vào buổi trưa. Vị ấy có tà kiền quả quyết nghĩ rằng – “Vào lúc đi ngủ (tâm) phối hợp với sự diệt tận, vào lúc thức dậy thì xuất khỏi sự diệt tận ấy” nên đã nói như vậy.
Ayaṃ pana poṭṭhapādo paribbājako paṇḍitajātiko. tenassa taṃ kathaṃ sutvā vippaṭisāro uppajji. “imesaṃ kathā eḷamūgakathā viya cattāro hi nirodhe ete paññapenti, iminā ca nirodhena nāma ekena bhavitabbaṃ, na bahunā. Tenāpi ekena aññeneva bhavitabbaṃ, so pana aññena ñātuṃ na sakkā aññatra sabbaññunā. Sace bhagavā idha abhavissa ‘ayaṃ nirodho ayaṃ na nirodho’ti dīpasahassaṃ viya ujjāletvā ajjameva[13] pākaṭaṃ akarissā”ti dasabalaññeva anussari. Tasmā “tassa mayhaṃ bhante”tiādimāha. Tattha aho nūnāti anussaraṇatthe nipātadvayaṃ, tena tassa bhagavantaṃ anussarantassa etadahosi “aho nūna bhagavā aho nūna sugato”ti. Yo imesanti yo etesaṃ nirodhadhammānaṃ sukusalo nipuṇo cheko, so bhagavā aho nūna katheyya, sugato aho nūna katheyyāti ayamettha adhippāyo. Pakataññūti ciṇṇavasitāya pakatiṃ sabhāvaṃ jānātīti pakataññū. Kathaṃ nu khoti idaṃ paribbājako “mayaṃ bhagavā na jānāma, tumhe jānātha, kathetha no”ti āyācanto vadati. Atha bhagavā kathento “tatra poṭṭhapādā”tiādimāha.
Hơn nữa, du sĩ ngoại đạo Poṭṭhapāda này là người thông minh. Chính vì nguyên nhân đó mà vị ấy cảm thấy khó chịu do nghe câu chuyện này. Câu chuyện của nhóm người ấy giống như lời nói của con dê câm, bọn chúng quy định bốn sự diệt tận ấy và thương thường sự diệt này chỉ có thể có một mà thôi, không có nhiều, sự diệt tận thuộc thể loại khác cũng là duy nhất, hơn nữa sự diệt tận ấy không thể nào nhận biết được bởi người khác ngoài bậc Toàn giác. Nên (vị ấy) mới nhớ tưởng đến đấng Thập Lực rằng: “Giá như đức Thế Tôn sẽ có mặt nơi đây, ngài sẽ làm cho sự diệt tận hiển lộ vào ngay ngày hôm nay, giống như đặt hàng ngàn ngọn đèn đã được thắp sáng rằng: ‘Đây là sự diệt tận, và đây không phải là sự diệt tận’”. Vì thế đã nói lời bắt đầu như sau: “Tôi nhớ tưởng đến đức Thế Tôn…” Trong lời ấy, ‘aho nūnā – Ôi, ắt hẳn’ cả hai từ này đều là phân từ được sử dụng với ý nghĩa ‘nhớ tưởng đến’, với hai từ đó, vị ấy khi nhớ tưởng đến đức Thế Tôn có niệm như vầy “Ôi, ắt hẳn đức Thế Tôn! Ôi, ắt hẳn đấng Thiện Thệ!” Là vị rất thông thạo về các pháp này: có lời giải thích như sau – đức Thế Tôn nào thông thạo, thiện xảo, sắc xảo trong sự diệt tận các pháp ấy, ôi! ắt hẳn đức Thế Tôn, ngài có thể thuyết, ôi! ắt hẳn đấng Thiện Thệ, ngài có thể thuyết. Là vị thành thạo: đức Thế Tôn được gọi là hiểu biết lẽ thường là thực tính bởi vì bản thể thiện xảo (của ngài) là thường hằng, do đó ngài mới là vị thành thạo. Du sĩ ngoại đạo Poṭṭhapāda trong khi hỏi rằng: “Kính bạch đức Thế Tôn, tôi không biết, ngài biết, vì lòng bi mẫn hãy nói cho tôi” nên đã nói như vầy: “Thưa Ngài, vậy thì sự diệt tận của tưởng là thế nào?” Ở đó, trong khi đức Thế Tôn thuyết giảng mới nói như sau: Này Poṭṭhapāda những Sa-môn và Bà-la-môn nào.
Giảng Giải ‘không Nhân Các Tưởng Của Con Người Sanh Và Diệt’
412. Tattha tatrāti tesu samaṇabrāhmaṇesu. Āditova tesaṃ aparaddhanti tesaṃ ādimhiyeva viraddhaṃ, gharamajjheyeva pakkhalitāti dīpeti. Sahetū sappaccayāti ettha hetupi paccayopi kāraṇasseva[14] nāmaṃ, sakāraṇāti attho. Taṃ pana kāraṇaṃ dassento “sikkhā ekā”ti āha. Tattha sikkhā ekā saññā uppajjantīti sikkhāya ekaccā saññā jāyantīti attho.
412. Trong những lời ấy thì từ ‘tatra’ nghĩa là những Sa-môn và Bà-la-môn ấy v.v. Ngay từ đầu, các vị ấy (đã) có sự sai lầm: quan điểm của nhóm ấy đã sai ngay từ đầu, ngài chỉ ra rằng đã có sự sai lầm ở ngay giữa ngôi làng. Nhân hay duyên trong từ cụm từ ‘có nhân, có duyên’ đều là tên gọi của nhân. Nghĩa là có nhân, bởi vì khi thuyết nhân ấy mới nói rằng ‘do sự học tập’. Trong lời nói ấy, một loại tưởng sanh; do sự học tập: Một số loại tưởng sanh khởi do sự học tập.
413. Kā ca sikkhāti bhagavā avocāti katamā ca sā sikkhāti bhagavā vitthāretukamyatāpucchāvasena avoca. Atha yasmā adhisīlasikkhā adhicittasikkhā adhipaññāsikkhāti tisso sikkhā honti. Tasmā tā dassento bhagavā saññāya sahetukaṃ uppādanirodhaṃ dīpetuṃ buddhuppādato pabhuti tantidhammaṃ ṭhapento “idha poṭṭhapāda, tathāgato loke”tiādimāha. tattha adhisīlasikkhā adhicittasikkhāti dve eva sikkhā sarūpena āgatā, tatiyā pana “Ayaṃ dukkhanirodhagāminī paṭipadāti kho poṭṭhapāda mayā ekaṃsiko dhammo desito”ti ettha sammādiṭṭhisammāsaṅkappavasena pariyāpannattā āgatāti veditabbā. Kāmasaññāti pañcakāmaguṇikarāgopi asamuppannakāmacāropi[15]. Tattha pañcakāmaguṇikarāgo anāgāmimaggena samugghātaṃ gacchati, asamuppannakāmacāro pana imasmiṃ ṭhāne vaṭṭati. Tasmā tassa yā purimā kāmasaññāti tassa paṭhamajjhānasamaṅgino yā pubbe uppannapubbāya kāmasaññāya sadisattā purimā kāmasaññāti vucceyya, sā nirujjhati, anuppannāva nuppajjatīti attho.
413. Và sự học tập gì?” Đức Thế Tôn đã nói: do có ý muốn hỏi nhằm mục đích giảng giải ý nghĩa, đức Thế Tôn mới nói rằng: “Và sự học tập được nói ra sao?” Hơn nữa, do sự học tập (điều cần phải học tập) có ba loại học giới là tăng thượng giới học, tăng thượng tâm học, và tăng thượng tuệ học. Do đó, đức Thế Tôn trong khi thuyết giảng những học giới ấy đã thiết lập Tantidhamma, vốn dĩ việc hiện khởi của đức Thế Tôn nhằm mục đích thuyết giảng về sự diệt tận sanh khởi có nhân do tưởng, nên đã nói rằng: “Này Poṭṭhapāda, đấng Như Lai hiện khởi ở thế gian”. Trong ba loại học giới ấy thì hai loại học giới là tăng thượng giới học và tăng thượng tâm học ấy đề cập vắn tắt, còn giới học thứ ba nên biết rằng đã đề cập rồi, bởi vì điều học liên quan do tác động của chánh kiến và chánh tư duy trong Pāḷī này rằng: này Poṭṭhapāda đó là pháp được ta tuyên thuyết trình bày một cách dứt khoát rằng: “Ðây là con đường đưa đến khổ diệt”. Dục tưởng: ái luyến đụng chạm người bằng năm loại dục lạc. Trong hai loại ấy ái luyến đụng chạm người bằng năm loại dục lạc đi đến sự nhổ bỏ bằng Thánh Đạo A-na-hàm những trong trường hợp này gồm Dục-ái sanh khởi không liên tục. Bởi thế dục tưởng (hiện hữu) trước đây: mới có ý nghĩa như sau – Tưởng nào của vị tỳ khưu ấy vị thành tựu Sơ thiền, nên được gọi là tưởng liên quan đến dục (hiện hữu) trước đây, bởi nó giống như Dục tưởng đã từng sanh trong thời quá khứ, Tưởng ấy (sẽ) diệt và đã không sanh thì (sẽ) không sanh nữa.
Vivekajapītisukhasukhumasaccasaññīyeva tasmiṃ samaye hotīti tasmiṃ paṭhamajjhānasamaye vivekajapītisukhasaṅkhātā sukhumasaññā saccā hoti, bhūtā hotīti attho. atha vā kāmacchandādioḷārikaṅgappahānavasena sukhumā ca sā bhūtatāya saccā ca saññāti sukhumasaccasaññā, vivekajehi pītisukhehi sampayuttā sukhumasaccasaññāti vivekajapītisukhasukhumasaccasaññā sā assa atthīti vivekajapītisukhasukhumasaccasaññīti evamettha attho daṭṭhabbo. esa nayo sabbattha. Evampi sikkhāti ettha yasmā paṭhamajjhānaṃ samāpajjanto adhiṭṭhahanto, vuṭṭhahanto ca sikkhati, tasmā taṃ evaṃ sikkhitabbato sikkhāti vuccati. tenapi sikkhāsaṅkhātena paṭhamajjhānena evaṃ ekā vivekajapītisukhasukhumasaccasaññā uppajjati. Evaṃ ekā kāmasaññā nirujjhatīti attho. Ayaṃ sikkhāti bhagavā avocāti ayaṃ paṭhamajjhānasaṅkhātā ekā sikkhāti, bhagavā āha. Etenupāyena sabbattha attho daṭṭhabbo.
Tưởng chân đế vi tế có hỷ và lạc sanh lên từ sự tách ly vào lúc ấy: Tưởng vi tế được xem là hỷ và lạc sanh lên do sự tách ly trong lúc chứng đắc Sơ thiền là chân đế, tức là sự thật. Hơn nữa, tưởng ấy là tưởng vi tế bởi vì dứt bỏ chi thiền thô có mong muốn ở các dục v.v. và gọi là chân đế bởi vì là thứ có thật, vì thế tưởng ấy mới là tưởng trong chân đế vi tế, tưởng trong chân thật vi tế tương ưng với hỷ và lạc sanh lên từ sự tách ly. Vì thế mới gọi là tưởng trong chân đế vi tế có hỷ và lạc sanh lên từ sự tách ly. Tưởng ấy của vị tỳ khưu hiện hữu, do đó vị tỳ khưu ấy mới gọi là có tưởng trong chân đế vi tế có hỷ và lạc sanh lên từ sự tách lý. Có thể biết lời giải thích trong câu đó như điều đã nói. Trong toàn bộ câu cũng đều có phương cách tương tự. Như vậy, do sự học tập (một loại tưởng sanh, diệt): bởi vì vị tỳ khưu nhập vào và phát nguyện Sơ thiền, do đó Sơ thiền ấy Sơ thiền ấy gọi là điều học, do làm phận cần phải học tập như thế, một số tưởng trong chân đế vi tế có hỷ và lạc sanh lên từ sự tách ly được sanh lên như thế bởi Sơ thiền cũng được xem là sự học tập, một số Dục-tưởng cũng diệt như vậy. Đây cũng là sự học tập (đức Thế Tôn đã nói như thế): đức Thế Tôn đã nói đây cũng là một sự học tập, được xem là Sơ thiền.’ Nên hiểu ý ở toàn bộ câu theo cách thức này.
Yasmā pana aṭṭhamasamāpattiyā[16] aṅgato sammasanaṃ buddhānaṃyeva hoti, sāvakesu sāriputtasadisānampi natthi, kalāpato sammasanaṃyeva pana sāvakānaṃ hoti, idañca “saññā saññā”ti, evaṃ aṅgato sammasanaṃ uddhaṭaṃ. Tasmā ākiñcaññāyatanaparamaṃyeva saññaṃ dassetvā puna tadeva saññagganti dassetuṃ “yato kho poṭṭhapāda … pe … saññaggaṃ phusatī”ti āha.
Hơn nữa, do việc quán xét theo chi thiền của thiền chứng thứ tám chi có ở nơi chư Phật, không có nơi các chư Thánh thinh văn đệ tử ngay cả đối với trưởng lão Sārīputta, tuy nhiên việc quán xét chỉ tập hợp lại thành nhóm có cùng chư Thánh thinh văn đệ tử và việc quán xét bằng chi thiền như vầy – ‘Tưởng, tưởng’ và điều này đã được nêu ra. Vì thế đức Thế Tôn mới thuyết rằng: “Này Poṭṭhapāda, từ khi vị tỳ khưu trong giáo pháp này là có tưởng của mình, vị ấy, từ (tầng thiền) này đến (tầng thiền) khác, theo tuần tự chạm đến tột đỉnh của tưởng,” để thuyết giảng Tưởng Vô-sở-hữu-xứ thật sự tối thắng, rồi thuyết tưởng ấy thêm rằng ‘tột đỉnh của tưởng’.
414. Tattha yato kho poṭṭhapāda bhikkhūti yo nāma poṭṭhapāda bhikkhu. Idha sakasaññī hotīti idha sāsane sakasaññī hoti, ayameva vā pāṭho, attano paṭhamajjhānasaññāya saññavā hotīti attho. So tato amutra tato amutrāti so bhikkhu tato paṭhamajjhānato amutra dutiyajjhāne, tatopi amutra tatiyajjhāneti evaṃ tāya tāya jhānasaññāya sakasaññī sakasaññī hutvā anupubbena saññaggaṃ phusati. Saññagganti ākiñcaññāyatanaṃ vuccati. Kasmā? Lokiyānaṃ kiccakārakasamāpattīnaṃ[17] aggattā. Ākiñcaññāyatanasamāpattiyañhi ṭhatvā nevasaññānāsaññāyatanampi nirodhampi samāpajjanti. Iti sā lokiyānaṃ kiccakārakasamāpattīnaṃ aggattā saññagganti vuccati, taṃ phusati pāpuṇātīti attho.
414. Ở đó, ‘này Poṭṭhapāda, từ khi vị tỳ khưu trong giáo pháp này’ nghĩa là này Poṭṭhapāda, vị tỳ khưu tên nào đó. Vị tỳ khưu trong giáo pháp này là có tưởng của mình: Vị tỳ khưu trong giáo này là có tưởng của mình. Lại nữa Pāḷī cũng như thế, nghĩa là vji tỳ khưu có tưởng bởi tưởng trong Sơ thiền của mình. Xuất khỏi sơ thiền, có tưởng trong Nhị thiền: Vì tỳ khưu ấy có tưởng của mình bởi thiền tưởng ấy như vầy là xuất khỏi Sơ thiền có tưởng trong Nhị thiền, xuất khỏi Nhị thiền có tưởng trong Tam thiền theo tuần tự chạm đến tột đỉnh của tưởng, Vô-sở-hữu-xứ được gọi là tột đỉnh của tưởng. Tại sao? Bởi vì đó là chi pháp cuối cùng của thiền chứng có phận sự làm nhiệm vụ thuộc Hiệp Thế, bởi vì vị tỳ khưu đã vững trú vào thiền chứng Vô-sở-hữu-xứ, đạt đến thiền chứng Phi-tưởng phi-phi-tưởng-xứ, (hay) thiền diệt. Tưởng Vô-sở-hữu-xứ ấy được gọi là tột đỉnh của tưởng vì là chi pháp cuối cùng của thiền chứng có phận sự làm nhiệm vụ thuộc Siêu Thế là như thế. Nghĩa là vị tỳ khưu đạt đến là chứng đắc tốt đỉnh của tưởng ấy.
Idāni abhisaññānirodhaṃ dassetuṃ “tassa saññagge ṭhitassā”tiādimāha. Tattha ceteyyaṃ, abhisaṅkhareyyanti padadvaye ca jhānaṃ samāpajjanto ceteti nāma, punappunaṃ kappetīti attho. Uparisamāpattiatthāya nikantiṃ kurumāno abhisaṅkharoti nāma. Imā ca me saññā nirujjheyyunti imā ākiñcaññāyatanasaññā nirujjheyyuṃ. Aññā ca oḷārikāti aññā ca oḷārikā bhavaṅgasaññā uppajjeyyuṃ. So na ceva ceteti na abhisaṅkharotīti ettha kāmaṃ cesa cetentova na ceteti, abhisaṅkharontova nābhisaṅkharoti. Imassa bhikkhuno ākiñcaññāyatanato vuṭṭhāya nevasaññānāsaññāyatanaṃ samāpajjitvā “ekaṃ dve cittavāre ṭhassāmī”ti ābhogasamannāhāro natthi. uparinirodhasamāpattatthāya eva pana ābhogasamannāhāro atthi, svāyamattho puttagharācikkhaṇena dīpetabbo.
Bây giở, khi thuyết giảng sự diệt tận của tưởng mới thuyết rằng: “Khi vị ấy trụ ở tột đỉnh của tưởng” trong những lời ấy hai câu (rằng) “Tôi có thể suy nghĩ, tôi có thể suy tính”, vị tỳ khưu nhập thiền gọi là nghĩ, là khiến thành tựu thường xuyên, vị tỳ khưu thực hiện sự mong muốn vì lợi ích cho thiền chứng bậc cao hơn nữa gọi là có thể suy tính. Và các tưởng này của ta diệt: Tưởng Vô-sở-hữu-xứ này có thể diệt. Và các tưởng thô thiển khác (sanh): và hộ kiếp tưởng thô thiển khác có thể sanh khởi. Ở đây, vị ấy không suy nghĩ và cũng không suy tính: vị tỳ khưu ấy khi suy nghĩ gọi là không suy nghĩ, khi suy tính gọi là không suy tính, quả thật việc quán xét bằng cách buộc chặt tâm rằng: ta xuất khỏi thiền Vô-sở-hữu-xứ sẽ nhập thiền Phi-tưởng phi-phi-tưởng-xứ ‘tôi trụ trong một citta-vāra, hai citta-vāra’ không có cùng vị tỳ khưu này, nhưng có việc buộc chặt tâm chỉ vì thiền diệt bậc cao hơn. Ý nghĩa này đây có thể thuyết giảng bằng việc nói đến ngôi nhà của người con.
Pitugharamajjhena kira gantvā pacchābhāge puttassa gharaṃ hoti, tato paṇītaṃ bhojanaṃ ādāya āsanasālaṃ āgataṃ daharaṃ thero — “manāpo piṇḍapāto kuto ābhato”ti pucchi. so “asukassa gharato”ti laddhagharameva ācikkhi. Yena panassa pitugharamajjhena gatopi āgatopi tattha ābhogopi natthi. tattha āsanasālā viya ākiñcaññāyatanasamāpatti daṭṭhabbā, pitugehaṃ viya nevasaññānāsaññāyatanasamāpatti, puttagehaṃ viya nirodhasamāpatti, āsanasālāya ṭhatvā pitugharaṃ amanasikaritvā puttagharācikkhaṇaṃ viya ākiñcaññāyatanato vuṭṭhāya nevasaññānāsaññāyatanaṃ samāpajjitvā “ekaṃ dve cittavāre ṭhassāmī”ti pitugharaṃ amanasikaritvāva uparinirodhasamāpattatthāya manasikāro, evamesa cetentova na ceteti, abhisaṅkharontova nābhisaṅkharoti. Tā ceva saññāti tā jhānasaññā nirujjhanti. Aññā cāti aññā ca oḷārikā bhavaṅgasaññā nuppajjanti. So nirodhaṃ phusatīti so evaṃ paṭipanno bhikkhu saññāvedayitanirodhaṃ phusati vindati paṭilabhati.
Giống như ngôi nhà của người con được xây được xây dựng ở phía sau, cần phải ngang qua nhà của người cha, vị tỳ khưu trẻ đem vật thực thượng vị từ nhà của người con đến trai đường vị trưởng lão hỏi rằng: “Đại đức đem đồ ăn khất thực vừa ý đến từ đâu?” Vị ấy mới nói đến ngôi nhà nơi nhận được vật thực rằng “từ ngôi nhà người ấy” ngay cả sự buộc chặt tâm của đại đức ở giữa ngôi nhà mà đại đức đi qua, hay đi về cũng không có. Trong trường hợp này có thể thấy thiền chứng Vô-sở-hữu-xứ giống như trai đường. Thiền chứng Phi-tưởng phi-phi-tưởng-xứ giống như ngôi nhà của người cha, thiền diệt giống như ngôi nhà của người con, việc không khéo tác ý rằng: ta xuất khỏi Vô-sở-hữu-xứ rồi nhập vào Phi-tưởng phi-phi-tưởng-xứ sẽ duy trì trong một citta-vāra, hai citta-vāra, tác ý cũng chỉ vì lợi ích cho thiền diệt cao hơn ví như việc đứng ở trong trai đường không lưu tâm đến ngôi nhà của người cha rồi nói đến ngôi nhà của người con. Vị tỳ khưu ấy trong khi nghĩ cũng gọi là không nghĩ, trong khi suy tính cũng gọi là không suy tính, là như thế. Tưởng này: Thiền tưởng ấy diệt. (và tưởng thô thiển) khác: Cả Hộ-kiếp tưởng thô thiển khác cũng không sanh khởi. Vị ấy chạm đến tưởng diệt: vị tỳ khưu ấy thực hành như thế (sẽ) chạm đến là sự chứng đạt về sự diệt tận của thọ tưởng.
Anupubbābhisaññānirodhasampajānasamāpattinti ettha abhīti upasaggamattaṃ, sampajānapadaṃ nirodhapadena antarikaṃ katvā vuttaṃ. Anupaṭipāṭiyā sampajānasaññānirodhasamāpattīti ayaṃ panetthattho. Tatrāpi sampajānasaññānirodhasamāpattīti sampajānantassa ante saññā nirodhasamāpatti sampajānantassa vā paṇḍitassa bhikkhuno saññānirodhasamāpattīti ayaṃ visesattho.
Từ ‘abhi’ trong cụm từ ‘sự chứng đạt về sự diệt tận của tưởng theo tuần tự với sự biết rõ’ đó chỉ là tiền tố. Từ ‘sampajāna – sự biết rõ’ được đặt xen vào giữa từ sự diệt, ở trong câu này có ý nghĩa rằng: sự diệt tận của tưởng có sự biết rõ theo tuần tự, ngay cả trong câu đó ‘sự chứng đạt về sự diệt tận của tưởng (theo tuần tự) với sự biết rõ’ có ý nghĩa khác lạ rằng: Sự diệt tận của tưởng ở tận cùng của vị biết rõ mình hoặc sự diệt tận của tưởng của vị khưu biết rõ, tức là bậc sáng trí.
Idāni idha ṭhatvā nirodhasamāpattikathā kathetabbā. Sā panesā sabbākārena visuddhimagge[18] paññābhāvanānisaṃsādhikāre kathitā, tasmā tattha kathitatova gahetabbā.
Đây là lời giải thích về vấn đề thiền diệt. Hơn nữa, vấn đề này đây được đã được trình bày hết trong tiêu đề lợi ích của việc tu tập tuệ trong bộ Thanh Tịnh Đạo. Vì thế, có thể lấy lời giải thích đã được nói ở đó.
Evaṃ bhagavā poṭṭhapādassa paribbājakassa nirodhakathaṃ kathetvā — atha naṃ tādisāya kathāya aññattha abhāvaṃ paṭijānāpetuṃ “taṃ kiṃ maññasī”tiādimāha. Paribbājakopi “bhagavā ajja tumhākaṃ kathaṃ ṭhapetvā na mayā evarūpā kathā sutapubbā”ti paṭijānanto, “no hetaṃ bhante”ti vatvā puna sakkaccaṃ bhagavato kathāya uggahitabhāvaṃ dassento “evaṃ kho ahaṃ bhante”tiādimāha. Athassa bhagavā “sūggahitaṃ tayā”ti anujānanto “evaṃ poṭṭhapādā”ti āha.
Đức Thế Tôn đã thuyết về vấn đề sự diệt tận cho du sĩ ngoại đạo Poṭṭhapāda như vậy – sau đó để cho du sĩ ngoại đạo Poṭṭhapāda nhận biết rằng: ‘vấn đề như thế không có ở chỗ khác’ nên đã nói rằng: ‘Này Poṭṭhapāda, ngươi hiểu vấn đề này như thế nào?’ Phía du sĩ khi xác nhận rằng: ‘Kính bạch đức Thế Tôn ngày hôm nay ngoài vấn đề của ngài, tôi chưa từng nghe vấn đề có hình thức như thế’ mới nói rằng: ‘Bạch ngài, chắc chắn không có việc ấy,’ trong khi thuyết giảng cho thấy rằng bản thân được học tập vấn đề của đức Thế Tôn bằng sự tôn kính nên mới nói tiếp: ‘Thưa ngài, tôi hiểu được lời nói của đức Thế Tôn là như vậy.’ Tiếp đó, đức Thế Tôn khi thừa nhận vị du sĩ ấy ‘ngươi hãy thọ nhận điều lợi ích’ mới nói rằng: ‘này Poṭṭhapāda, quả thật là như vậy’.
415. Atha paribbājako “bhagavatā ‘ākiñcaññāyatanaṃ saññaggan’ti vuttaṃ. etadeva nu kho saññaggaṃ, udāhu avasesasamāpattīsupi saññaggaṃ atthī”ti cintetvā tamatthaṃ pucchanto “ekaññeva nu kho”tiādimāha. Bhagavāpissa vissajjesi. Tattha puthūpīti bahūnipi. Yathā yathā kho, poṭṭhapāda, nirodhaṃ phusatīti pathavīkasiṇādīsu yena yena kasiṇena, paṭhamajjhānādīnaṃ vā yena yena jhānena. idaṃ vuttaṃ hoti — sace hi pathavīkasiṇena karaṇabhūtena pathavīkasiṇasamāpattiṃ ekavāraṃ samāpajjanto purimasaññānirodhaṃ phusati ekaṃ saññaggaṃ, atha dve vāre, tayo vāre, vārasataṃ, vārasahassaṃ, vārasatasahassaṃ vā samāpajjanto purimasaññānirodhaṃ phusati, satasahassaṃ, saññaggāni. esa nayo sesakasiṇesu. jhānesupi sace paṭhamajjhānena karaṇabhūtena ekavāraṃ purimasaññānirodhaṃ phusati ekaṃ saññaggaṃ. atha dve vāre, tayo vāre, vārasataṃ, vārasahassaṃ, vārasatasahassaṃ vā purimasaññānirodhaṃ phusati, satasahassaṃ saññaggāni. esa nayo sesajjhānasamāpattīsupi. iti ekavāraṃ samāpajjanavasena vā sabbampi sañjānanalakkhaṇena saṅgahetvā vā ekaṃ saññaggaṃ hoti, aparāparaṃ samāpajjanavasena bahūni.
415. Sau đó, du sĩ Poṭṭhapāda nghĩ rằng: “Vô-sở-hữu-xứ được đức Thế Tôn thuyết là tột đỉnh của tưởng’, chỉ Vô-sở-hữu-xứ hoặc tột đỉnh của tưởng, hoặc vẫn còn tột đỉnh của tưởng trong những thiền chứng còn lại nữa, khi hỏi đến ý nghĩa ấy mới nói rằng: “Thưa ngài, chỉ có một (tột đỉnh của tưởng) hay sao?” Đức Thế Tôn đã trả lời câu hỏi của du sĩ ấy. Trong câu đó, thì ‘puthūpi’ đồng nghĩa với ‘bahūni’ nghĩa là nhiều (tột đỉnh của tưởng). Này Poṭṭhapāda, hành giả chạm đến sự diệt tận của tưởng như thế nào theo từng trường hợp: bằng biến xứ nào trong tất cả các biến xứ có biến xứ đất v.v, hoặc với tầng thiền nào trong tát cả các tầng thiền có Sơ-thiền v.v. Giải thích rằng nếu như vị tỳ khưu nhập vào thiền chứng biến xứ đất bằng biến xứ đất chỉ làm điều kiện một lần duy nhất chạm đến sự diệt tận của tưởng trước thì tột đỉnh của tưởng cũng có một lần duy nhất; nếu như nhập vào hai lần, ba lần, trăm lần, ngàn lần, hoặc trăm ngàn lần thì cũng chạm đế sự diệt tận của tưởng trước, tột đỉnh của tưởng cũng có đến trăm ngàn lần. Ở các biến xứ còn lại cũng có cách thức tương tự. Luôn cả trong tất cả các tầng thiền nếu như nhập vào sự diệt tận của tưởng trước bằng Sơ-thiền chỉ làm điều kiện một lần duy nhất thì tột đỉnh của tưởng cũng có một lần duy nhất, nếu như nhập vào sự diệt tận của tưởng trước hai lần, ba lần, trăm lần, ngàn lần, hoặc trăm ngàn lần thì tột đỉnh của tưởng cũng có đến trăm ngàn lần. Trong các thiền chứng còn lại cũng có phương cách này. Tột đỉnh của tưởng có một nhờ vào mãnh lực việc nhập thiền chỉ một lần duy nhất hoặc do việc tập hợp các vāra, toàn bộ nhờ tướng trạng của việc ghi nhớ. Tột đỉnh của tưởng có nhiều nhờ vào khả năng của việc nhập (thiền) thường xuyên.
416. Saññā nu kho, bhanteti bhante nirodhasamāpajjanakassa bhikkhuno “saññā nu kho paṭhamaṃ uppajjatī”ti pucchati. Tassa bhagavā “saññā kho, poṭṭhapādā”ti byākāsi. Tattha saññāti jhānasaññā. Ñāṇanti vipassanāñāṇaṃ. Aparo nayo, saññāti vipassanā saññā. ñāṇanti maggañāṇaṃ. Aparo nayo, saññāti maggasaññā. ñāṇanti phalañāṇaṃ. Tipiṭakamahāsivatthero panāha —
416. Thưa ngài, vậy thì tưởng sanh trước (trí sanh sau)?: Du sĩ ngoại đạo hỏi rằng – Tưởng (nhập vào thiền diệt) sanh trước phải không, thưa ngài? Đức Thế Tôn nói cho du sĩ ấy rằng: ‘Này Poṭṭhapāda, tưởng sanh trước.” Trong lời nói ấy thì tưởng bao gồm thiền tưởng. Trí bao gồm thiền Minh sát. Cách khác nữa, tưởng bao gồm minh sát. Trí bao gồm Đạo trí. Cách khác nữa, tưởng bao gồm Đạo tưởng. Trí bao gồm Quả trí. Hơn nữa, trưởng lão Mahāsiva bậc lầu thông Tam Tạng đã nói rằng –
Kiṃ ime bhikkhū bhaṇanti, poṭṭhapādo heṭṭhā bhagavantaṃ nirodhaṃ pucchi. Idāni nirodhā vuṭṭhānaṃ pucchanto “bhagavā nirodhā vuṭṭhahantassa kiṃ paṭhamaṃ arahattaphalasaññā uppajjati, udāhu paccavekkhaṇañāṇan”ti vadati. Athassa bhagavā yasmā phalasaññā paṭhamaṃ uppajjati, pacchā paccavekkhaṇañāṇaṃ . Tasmā “saññā kho poṭṭhapādā”ti āha. Tattha saññuppādāti arahattaphalasaññāya uppādā, pacchā “idaṃ arahattaphalan”ti evaṃ paccavekkhaṇañāṇuppādo hoti. Idappaccayā kira meti phalasamādhisaññāpaccayā kira mayhaṃ paccavekkhaṇañāṇaṃ uppannanti.
Những vị tỳ khưu này nói điều gì với nhau, mà Poṭṭhapāda đã hỏi về sự diệt tận cùng đức Thế Tôn. Bây giờ, trong khi đức Thế Tôn hỏi đến việc xuất khỏi từ (thiền) diệt mới hỏi rằng: “Kính bạch đức Thế Tôn, khi vị tỳ khưu xuất khỏi từ (thiền) diệt thì A-ra-hán Quả Tưởng sanh trước, hoặc là trí phản khán sanh lên trước theo tuần tự.” Đức Thế Tôn đã nói cùng du sĩ ấy rằng: “Quả tưởng sanh lên trước, trí phản khán sanh lên sau.” Do đó mới nói rằng “Này Poṭṭhapāda, tưởng sanh trước.” Ở đó, do sự sanh của tưởng: sự sanh lên của trí phản khán có như vầy – Do A-ra-hán Quả Tưởng sanh khởi, A-ra-hán Quả này mới sanh lên sau. Thật vậy, do duyên của cái này, trí đã sanh đến ta: Thật vậy, trí phản khán đã sanh lên nơi ta, bởi vì Quả Định Tưởng làm duyên.
417. Idāni paribbājako yathā nāma gāmasūkaro gandhodakena nhāpetvā gandhehi anulimpitvā mālādāmaṃ piḷandhitvā sirisayane āropitopi sukhaṃ na vindati, vegena gūthaṭṭhānameva gantvā sukhaṃ vindati. Evameva bhagavatā saṇhasukhumatilakkhaṇabbhāhatāya desanāya nhāpitavilittamaṇḍitopi nirodhakathāsirisayanaṃ āropitopi tattha sukhaṃ na vindanto gūthaṭṭhānasadisaṃ attano laddhiṃ gahetvā tameva pucchanto “saññā nu kho, bhante, purisassa attā”tiādimāha. Athassānumatiṃ gahetvā byākātukāmo bhagavā — “kaṃ pana tvan”tiādimāha. Tato so “arūpī attā”ti evaṃ laddhiko samānopi “bhagavā desanāya sukusalo, so me āditova laddhiṃ mā viddhaṃsetū”ti cintetvā attano laddhiṃ pariharanto “oḷārikaṃ kho”tiādimāha. Athassa bhagavā tattha dosaṃ dassento “oḷāriko ca hi te”tiādimāha. Tattha evaṃ santanti evaṃ sante. Bhummatthe hi etaṃ upayogavacanaṃ. Evaṃ santaṃ attānaṃ paccāgacchato tavāti ayaṃ vā ettha attho. Catunnaṃ khandhānaṃ ekuppādekanirodhattā kiñcāpi yā saññā uppajjati, sāva nirujjhati. aparāparaṃ upādāya pana “aññā ca saññā uppajjanti, aññā ca saññā nirujjhantī”ti vuttaṃ.
417. Bây giờ, những con heo ở trong làng dẫu cho tắm nước thơm, thoa bóp bằng các vật thơm, trang điểm với các tràng hoa, luôn cả đưa lên nằm ngủ trên chỗ nằm sang trọng cũng không cảm nhận đươc sự hạnh phúc, (tuy nhiên) khi thả chúng về lại chỗ có phân một cách nhanh chóng thì (chúng) lại có được sự hạnh phúc. Du sĩ ngoại đạo cũng tương tự như thế dẫu cho đức Thế Tôn cho tắm gội, xoa bóp, trang điểm bằng Pháp thoại gắn liền với Tam tướng vi tế an lạc, đưa lên nằm ở chỗ nằm sang trọng là câu chuyện về sự diệt tận, khi không đạt được sự an lạc trong trong câu chuyện về sự diệt tận ấy, chấp thủ vào học thuyết của mình tương tự như chỗ có phân, khi hỏi đến chính ý nghĩa ấy mới nói rằng: “Thưa Ngài, có phải tưởng là bản ngã của con người?” Sau đó, đức Thế Tôn có ý muốn nói chiều theo quan điểm của du sĩ ngoại đạo ấy, mới nói rằng: “Này Poṭṭhapāda, ngươi cho rằng cái gì là bản ngã?” theo cách mà du sĩ ngoại đạo ấy là người có học thuyết như vầy: “Bản ngã là vô sắc” mới nói rằng: “Đức Thế Tôn thông thạo trong việc thuyết giảng, ngài có lẽ không nhổ bỏ học thuyết của tôi ngay từ đầu, khi điều chỉnh khiến vị ấy với học thuyết của mình mới nói rằng: “Bản ngã là thô v.v.” Khi đức Thế Tôn thuyết giảng lỗi lầm trong học thuyết ấy cho vị ấy nên mới nói lời nói bắt đầu như sau: “Này Poṭṭhapāda, bởi vì nếu bản ngã của ngươi là thô v.v.” Trong những lời nói đó “như vậy thì” nghĩa là trong khi là như thế. Thật vậy, lời nói ấy là Đối Cách được sử dụng với ý nghĩa của Vị Trí Cách. Hơn nữa trong câu này có ý nghĩa như sau: Trong khi ngươi mong muốn bản ngã có mặt như thế, ngài đã nói là bản thể năm uẩn đồng sanh, đồng diệt; tưởng nào sanh, tưởng nào diệt; cũng do y cứ lẫn nhau “tưởng khác sanh và tưởng khác diệt.”
418-420. Idāni aññaṃ laddhiṃ dassento — “manomayaṃ kho ahaṃ, bhante”tiādiṃ vatvā tatrāpi dose dinne yathā nāma ummattako yāvassa saññā nappatiṭṭhāti, tāva aññaṃ gahetvā aññaṃ vissajjeti, saññāpatiṭṭhānakāle pana vattabbameva vadati, evameva aññaṃ gahetvā aññaṃ vissajjetvā idāni attano laddhiṃyeva vadanto “arūpī kho”tiādimāha. tatrāpi yasmā so saññāya uppādanirodhaṃ icchati, attānaṃ pana sassataṃ maññati. tasmā tathevassa dosaṃ dassento bhagavā “evaṃ santampī”tiādimāha. Tato paribbājako micchādassanena abhibhūtattā bhagavatā vuccamānampi taṃ nānattaṃ ajānanto “sakkā panetaṃ, bhante, mayā”tiādimāha. Athassa bhagavā yasmā so saññāya uppādanirodhaṃ passantopi saññāmayaṃ attānaṃ niccameva maññati. Tasmā “dujjānaṃ kho”tiādimāha.
418-420. Bây giờ, du sĩ ngoại đạo Poṭṭhapāda trong khi nói về quan điểm khác mới nói (rằng): “Thưa Ngài, tôi cho rằng bản ngã là được tạo thành bởi ý” v.v, khi bị can ngăn – quan điểm như thế sai lạc, mới chấp thủ quan điểm ấy, từ bỏ quan điểm này, bây giờ khi nói quan điểm thật sự của mình mới đáp rằng: “Tôi cho rằng bản ngã là vô sắc” v.v, ví như người điên, cho đến khi nào tưởng không còn nằm với thân cũng nói về câu chuyện ấy bỏ qua câu chuyện này, nhưng khi tưởng nằm ở thân mới nói câu chuyện nên nói. Luôn cả trong học thuyết ấy, do vị ấy mong muốn sự sanh và sự diệt của tưởng nhưng cho rằng: ‘tưởng là thường’, vì thế đức Thế Tôn khi thuyết giảng về lỗi lầm của du sĩ ngoại đạo ấy mới nói rằng: “Trong khi là như vậy…” Sau đó, du sĩ ngoại đạo không biết sự khác biệt đó mặc dù đã được đức Thế Tôn thuyết giảng bởi vì ý nghĩa mà bản thân bị quan điểm sai lệch chế ngự nên mới nói rằng: “Thưa Ngài, tôi có thể biết được điều ấy –‘tưởng là bản ngã của con người’ hay ‘tưởng là cái khác, bản ngã là cái khác’- không?” Sau dó, du sĩ ngoại đạo ấy dẫu nhìn thấy sự sanh và sự diệt của tưởng thật, nhưng vẫn cho rằng bản thân thành tựu do tưởng cho (tưởng) là thường hằng, do đó đức Thế Tôn mới nói rằng: “là khó nhận biết” v.v.
Tatthāyaṃ saṅkhepattho — tava aññā diṭṭhi, aññā khanti, aññā ruci[19], aññathāyeva te dassanaṃ pavattaṃ, aññadeva ca te khamati ceva ruccati ca, aññatra ca te āyogo, aññissāyeva paṭipattiyā yuttapayuttatā, aññattha ca te ācariyakaṃ, aññasmiṃ titthāyatane ācariyabhāvo. Tena tayā evaṃ aññadiṭṭhikena aññakhantikena aññarucikena aññatrāyogena aññatrācariyakena dujjānaṃ etanti. Atha paribbājako — “saññā vā purisassa attā hotu, aññā vā saññā, taṃ sassatādi bhāvamassa pucchissan”ti puna “kiṃ pana bhante”tiādimāha.
Trong câu đó chỉ có ý nghĩa vắn tắt – người có quan điểm khác, khác sự chấp nhận, khác sự ưa thích, khác sự nhận thức được vận hành, khác sự hành trì, có ý định là khác, có vị thầy trong học thuyết khác do nỗ lực hành theo lối thực hành khác, tức là tính thể vị thầy trong học thuyết ngoại giáo khác. Với lý do đó câu nói ‘tưởng là bản ngã của con người’ hay ‘tưởng là cái khác, bản ngã là cái khác,’ mà ngươi là người khác quan điểm, khác sự chấp nhận, khác sự ưa thích, khác sự hành trì, khác sự giáo huấn, điều đó là khó biết (đối với tôi). Sau đó, du sĩ nghĩ rằng:‘tưởng là bản ngã của con người’ hay ‘tưởng là cái khác, bản ngã là cái khác,’ tôi sẽ hỏi đến bản thể của bản ngã là thường còn v.v, mới nói rằng: “Vậy thì thưa ngài, có phải…”
Tattha lokoti attānaṃ sandhāya vadati. Na hetaṃ poṭṭhapāda atthasañhitanti poṭṭhapāda etaṃ diṭṭhigataṃ na idhalokaparalokātthanissitaṃ, na attatthaparatthanissitaṃ. Na dhammasaṃhitanti na navalokuttaradhammanissitaṃ. Nādibrahmacariyakanti sikkhattayasaṅkhātassa sāsanabrahmacariyakassa na ādimattaṃ, adhisīlasikkhāmattampi na hoti. Na nibbidāyāti saṃsāravaṭṭe nibbindanatthāya na saṃvattati. Na virāgāyāti vaṭṭavirāgatthāya na saṃvattati. Na nirodhāyāti vaṭṭassa nirodhakaraṇatthāya na saṃvattati. Na upasamāyāti vaṭṭassa vūpasamanatthāya na saṃvattati. Na abhiññāyāti vaṭṭābhijānanāya paccakkhakiriyāya na saṃvattati. Na sambodhāyāti vaṭṭasambujjhanatthāya na saṃvattati. Na nibbānāyāti amatamahānibbānassa[20] paccakkhakiriyāya na saṃvattati.
Ở đó, thế giới: du sĩ ngoại đạo nói đề cập đến bản ngã. Này Poṭṭhapāda, bởi vì điều ấy không liên hệ đến lợi ích: này Poṭṭhapāda điều đó y cứ vào quan điểm sai lệch không liên hệ đến lợi ích ở đời này và đời sau, không liên hệ đến lợi ích của bản thân và lợi ích của người khác. Không liên hệ đến các pháp: không liên hệ đến chín Pháp Siêu Thế. Không phải là nền tảng của Phạm hạnh: Không phải là nền tảng của Phạm hạnh trong Giáo Pháp được nói là Tam Học, và cũng không phải là tăng thượng giới học. Không vận hành đưa đến sự nhàm chán: Không vận hành đưa đến lợi ích của sự nhàm chán trong vòng sanh tử luân hồi. Không đưa đến việc xa lìa luyến ái: không vận hành đưa đến lợi ích của việc xa lìa vòng luyến ái. Không đưa đến sự diệt tận: Không vận hành đưa đến lợi ích của việc thực hành để dập tắt vòng luân hồi. Không đưa đến sự tịch tịnh: không vận hạnh đưa đến lợi ích trong việc tĩnh lặng luân hồi. Không đưa đến thắng trí: Không vận hành đưa đến biết rõ luân hồi, là để thực hành cho hiển lộ rõ ràng. Không đưa đến sự giác ngộ: Không vận hành đưa đến lợi ích việc biết rõ luân hồi. Không đưa đến Nibbāna: Không vận hành đưa đến việc tác chứng để hiển lộ đại Nibbāna bất tử.
Idaṃ dukkhantiādīsu taṇhaṃ ṭhapetvā tebhūmakā pañcakkhandhā dukkhanti, tasseva dukkhassa pabhāvanato sappaccayā taṇhā dukkhasamudayoti. Ubhinnaṃ appavatti dukkhanirodhoti, ariyo aṭṭhaṅgiko maggo dukkhanirodhagāminī paṭipadāti mayā byākatanti attho. Evañca pana vatvā bhagavā “imassa paribbājakassa maggapātubhāvo vā phalasacchikiriyā vā natthi, mayhañca bhikkhācāravelā”ti cintetvā tuṇhī ahosi. Paribbājakopi taṃ ākāraṃ ñatvā bhagavato gamanakālaṃ ārocento viya “evametan”tiādimāha.
Đây là khổ v.v, năm uẩn vận hành trong 3 cõi, ngoài trừ tham ái, ta nói là khổ, tham ái có năm uẩn là duyên bời vì làm hố sanh khởi của khổ ấy, ta nó rằng: ‘nguyên nhân sanh khổ’. Cả hai (uẩn và tham ái) không vận hành ta nói là ‘sự diệt khổ’, Thánh Đạo có tám chi phần tối thượng ta nói là ‘sự thực hành đưa đến sự diệt khổ’. Hơn nữa, đức Thế Tôn khi thuyết như thế rồi suy tư như sau: “Sự ước muốn của Đạo hoặc tác chứng Quả không có cùng du sĩ ngoại đạo ấy, và đã đến thời gian đi khất thực của ta” nên đã ngồi im lặng. Còn du sĩ ngoại đạo biết được biểu hiện ấy như thể nói rằng đã đến thời đi (khất thực) của đức Thế Tôn, nên mới nói rằng: “điều ấy là như vậy…”
421. Vācāsannitodakenāti vacanapatodena. Sañjhabbharimakaṃsūti sañjhabbharitaṃ[21] nirantaraṃ phuṭṭhaṃ akaṃsu, upari vijjhiṃsūti vuttaṃ hoti. Bhūtanti sabhāvato vijjamānaṃ. Tacchaṃ, tathanti tasseva vevacanaṃ. Dhammaṭṭhitatanti navalokuttaradhammesu ṭhitasabhāvaṃ. Dhammaniyāmatanti lokuttaradhammaniyāmataṃ. buddhānañhi catusaccavinimuttā kathā nāma natthi. Tasmā sā edisā hoti.
421. Bằng những lời nói trách móc: bằng những lời nói châm chích. Đã cùng nhau xúm lại (trách móc): đã nói (lời nói) gây tổn thương sâu sắc du sĩ Poṭṭhapāda từ mọi phía, tức là tác động liên tục, giải thích rằng gây tổn thương sâu sắc từ bên trên. Xác thực: hiện hữu theo thực tính. Chân thực: là từ đồng nghĩa với từ trước. Được thiết lập ở Giáo Pháp: Thực tính được thiết lập trong chín Pháp Siêu Thế. Có tính cố định trong Giáo Pháp: có tính chất chắc chắn trong Pháp Siêu Thế. Thật vậy, Câu chuyện của chư Phật vượt ngoài bốn Chân Lý là không có. Do đó, câu chuyện là như thế.
Nói Về Citta Hatthisārīputta và Du Sĩ Poṭṭhapāda
422. Citto ca hatthisāriputtoti so kira sāvatthiyaṃ hatthiācariyassa putto bhagavato santike pabbajitvā tīṇi piṭakāni uggahetvā[22] sukhumesu atthantaresu kusalo ahosi, pubbe katapāpakammavasena pana sattavāre vibbhamitvā gihi jāto. kassapasammāsambuddhassa kira sāsane dve sahāyakā ahesuṃ, aññamaññaṃ samaggā ekatova sajjhāyanti. Tesu eko anabhirato gihibhāve cittaṃ uppādetvā itarassa ārocesi. So gihibhāve ādīnavaṃ pabbajjāya ānisaṃsaṃ dassetvā taṃ ovadi. so taṃ sutvā abhiramitvā punekadivasaṃ tādise citte uppanne taṃ etadavoca “mayhaṃ āvuso evarūpaṃ cittaṃ uppajjati — ‘Imāhaṃ pattacīvaraṃ tuyhaṃ dassāmī’ti”. So pattacīvaralobhena tassa gihibhāve ānisaṃsaṃ dassetvā pabbajjāya ādīnavaṃ kathesi. athassa taṃ sutvāva gihibhāvato cittaṃ virajjitvā[23] pabbajjāyameva abhirami. Evamesa tadā sīlavantassa bhikkhuno gihibhāve ānisaṃsakathāya kathitattā idāni cha vāre vibbhamitvā sattame vāre pabbajito[24], mahāmoggallānassa, mahākoṭṭhikattherassa ca abhidhammakathaṃ kathentānaṃ antarantarā kathaṃ opāteti. atha naṃ mahākoṭṭhikatthero apasādeti. So mahāsāvakassa kathite patiṭṭhātuṃ asakkonto vibbhamitvā gihi jāto. Poṭṭhapādassa panāyaṃ gihisahāyako hoti. Tasmā vibbhamitvā dvīhatīhaccayena poṭṭhapādassa santikaṃ gato. Atha naṃ so disvā “samma kiṃ tayā kataṃ, evarūpassa nāma satthu sāsanā apasakkantosi[25], ehi pabbajituṃ idāni te vaṭṭatī”ti taṃ gahetvā bhagavato santikaṃ agamāsi. tena vuttaṃ “citto ca hatthisāriputto poṭṭhapādo ca paribbājako”ti.
422. Citta Hatthisārīputta và du sĩ Poṭṭhapāda: Kể rằng Citta Hatthisārīputta là con trai ấy là con trai của người quản tượng ở thành Sāvatthi, đã xuất gia ở trú xứ của đức Thế Tôn, đã học tập Tam Tạng là vị thông thạo trong ý nghĩa vi tế. Tuy nhiên sau khi xuất gia đã hoàn tục trở về đời sống thế tục đến bảy lần do tác động của hành động xấu ác đã từng tạo trong thời quá khứ. Kể rằng vào thời kỳ Giáo Pháp của bậc Chánh đẳng Chánh giác Kassapa có đôi bạn thân thiết cùng nhau trì tụng. Trong hai người bạn thân ấy có một người không hoan hỷ, nghĩ rằng (ta) từ bỏ hình tướng trở về đời sống thế tục mới nói với người bạn kía. Người bạn thân ấy chỉ ra điều bất lợi ở đời sống thế tục, và lợi ích của việc xuất gia đã cho lời khuyên (đến bạn). Người bạn đầu tiên sau khi nghe đã có sự hoan hỷ, một ngày nọ khi suy nghĩ từ bỏ hình tướng (xuất gia) khởi lên nữa mới nói cùng bạn rằng: “Này bạn, suy nghĩ như thế lại khởi lên nơi tôi” – “Tôi sẽ gởi bình bát và y phục này cho bạn” do có sự tham muốn nơi bình bát và y phục, cậu ta đã nói điều lợi ích về bản thể người tại gia, và đã nói về điều bất lợi của việc xuất gia, nghe bạn nói như thế tâm (vị ấy) càng chán nản (nên đã hoàn tục) trở về đời sống thế tục (nhưng vẫn) hoan hỷ trong việc xuất gia. Vị ấy đã hoàn tục đến sáu lần, bấy giờ do cậu ta đã nói điều lợi ích về bản thể người tại gia có giới thanh tịnh vào lúc ấy, rồi xuất gia lần thứ bảy. Vị ấy đã nói lời đâm thọc trong giai đoạn trưởng lão Mahāmoggallāna và trưởng lão Mahākoṭṭhika đang trì tụng Abhidhamma-kathā. Sau đó trưởng lão Mahākoṭṭhika đã phê bình vị ấy. Khi không thể nhẫn chịu được lời (phê bình) của vị Đại thinh văn nói, cậu ta đã hoàn tục trở thành cư sĩ. Hơn nữa, vị này là bạn của du sĩ Poṭṭhapāda khi trở thành cư sĩ, do đó, vừa mới hoàn tục được 2-3 ngày đã đến tìm du sĩ Poṭṭhapāda, lúc đó Poṭṭhapāda nhìn thấy cậu ta mới nói rằng: Này ông bạn, ông làm gì, ông mới rời khỏi Giáo Pháp của bậc Đạo Sư có hình thức như thế, đến lúc này thích hợp để xuất gia lần nữa” đã đưa cậu ta đến trú xứ của đức Thế Tôn. Do đó ngài đã nói rằng: “Citta Hatthisārīputta và du sĩ Poṭṭhapāda…”.
423. Andhāti paññācakkhuno natthitāya andhā, tasseva abhāvena acakkhukā. tvaṃyeva nesaṃ eko cakkhumāti subhāsitadubbhāsitajānanabhāvamattena paññācakkhunā cakkhumā. Ekaṃsikāti ekakoṭṭhāsā. Paññattāti ṭhapitā. Anekaṃsikāti na ekakoṭṭhāsā ekeneva koṭṭhāsena sassatāti vā asassatāti vā na vuttāti attho.
423. Là người mù: đối với tuệ nhãn không có, gọi là người mù, gọi là không có mắt bởi không có tuệ nhãn. Chỉ mình ngươi là người duy nhất có mắt: có tuệ nhãn phân tích lời khéo nói và lời vụng nói. Chỉ duy nhất: một phần. Đã tuyên bố: Đã thiết lập. Không vận hành đưa đến sự chấm dứt khổ một cách dứt khoát: không phải một phần, giải thích rằng không nói rằng: thường còn hoặc vô thường là hoàn toàn.
Giảng Giải Pháp Vận Hành Đưa Đến Sự Chấm Dứt Khổ Đau Một Cách Dứt Khoát
424-425. Santi[26] poṭṭhapādāti idaṃ bhagavā kasmā ārabhi? Bāhirakehi paññāpitaniṭṭhāya aniyyānikabhāvadassanatthaṃ. Sabbe hi titthiyā yathā bhagavā amataṃ nibbānaṃ, evaṃ attano attano samaye lokathupikādivasena niṭṭhaṃ paññapenti, sā ca na niyyānikā. Yathā paññattā hutvā na niyyāti na gacchati, aññadatthu paṇḍitehi paṭikkhittā nivattati, taṃ dassetuṃ bhagavā evamāha. Tattha ekantasukhaṃ lokaṃ jānaṃ passanti puratthimāya disāya ekantasukho loko pacchimādīnaṃ vā aññatarāyāti evaṃ jānantā evaṃ passantā viharatha, diṭṭhapubbāni kho tasmiṃ loke manussānaṃ sarīrasaṇṭhānādīnīti. Appāṭihīrakatanti appāṭihīrakataṃ paṭiharaṇavirahitaṃ, aniyyānikanti vuttaṃ hoti.
424-425. Đức Thế Tôn bắt đầu lời nói rằng: “Này Poṭṭhapāda, có một số Sa-môn và Bà-la-môn ấy có học thuyết như vầy,” điều này do nhân gì? Để tuyên bố sự chấm dứt học thuyết của các ngoại giáo quy định rằng: Không phải phương tiện để dẫn dắt ra khỏi khổ đau. Thật vậy, tất cả các ngoại đạo tuyên bố sự chấm dứt do tác động rằng: ‘Thế giới có tận cùng v.v, trong học thuyết của chính mình, giống như đức Thế Tôn tuyên bố về bất tử Nibbāna ấy. Bởi vì tuyên bố sự chấm dứt ấy không phải là lời tuyên bố dẫn dắt ra khỏi khổ đau, chỉ là lời tuyên bố việc không dẫn dắt ra khỏi khổ đau mà bậc trí bác bỏ, vận hành theo cách khác để tuyên bố sự chấm dứt ấy đức Thế Tôn mới thuyết giảng như vậy. Các ngài có biết có thấy thế giới là hoàn toàn hạnh phúc không?: Các ngài trong khi biết như vậy, trong khi thấy như vậy – ở phương Đông hoặc ở bất kỳ một phương nào khác có phương Tây v.v, thế giới là hoàn toàn hạnh phúc thì hãy sống, hình dáng cơ thể v.v, của loài người ở thế giới ấy mà các ngài đã từng nhìn thấy. Không có sự thuyết phục: lời nói vô ích, là xa lìa việc thoát khỏi, tức là không dẫn dắt ra khỏi khổ đau.
426-427. Janapadakalyāṇīti janapade aññāhi itthīhi vaṇṇa-saṇṭhāna-vilā-sākappādīhi asadisā.
426-427. Cô hoa khôi ở xứ sở: không giống những người nữ khác ở trong xứ sở có màu da, hình dáng, dáng đi, thái độ v.v.
Giảng Giải Việc Đạt Được Ba Điều Lợi Ích
428. Evaṃ bhagavā paresaṃ niṭṭhāya aniyyānikattaṃ dassetvā attano niṭṭhāya niyyānikabhāvaṃ dassetuṃ “tayo kho me poṭṭhapādā”tiādimāha. Tattha attapaṭilābhoti attabhāvapaṭilābho, ettha ca bhagavā tīhi attabhāvapaṭilābhehi tayo bhave dassesi. oḷārikattabhāvapaṭilābhena avīcito paṭṭhāya paranimmitavasavattipariyosānaṃ kāmabhavaṃ dassesi. Manomayāttabhāvapaṭilābhena paṭhamajjhānabhūmito paṭṭhāya akaniṭṭhabrahmalokapariyosānaṃ rūpabhavaṃ dassesi. arūpāttabhāvapaṭilābhena ākāsānañcāyatanabrahmalokato paṭṭhāya nevasaññānāsaññāyatanabrahmalokapariyosānaṃ arūpabhavaṃ dassesi. Saṃkilesikā dhammā nāma dvādasa akusalacittuppādā. Vodāniyā dhammā nāma samathavipassanā.
428. Đức Thế Tôn khi chỉ ra trạng thái tuyên bố sự chấm dứt đối với các Sa-môn và Bà-la-môn khác không dẫn dắt ra khỏi khổ đau như vậy, nên mới nói rằng: “Này Poṭṭhapāda, đây là ba sự hình thành bản ngã” v.v, để chỉ ra trạng thái tuyên bố của ngài là pháp dẫn dắt ra khỏi khổ đau. Trong những lời ấy ‘sự hình thành bản ngã’: sự hình thành bản ngã, và ở đây ‘sự hình thành bản ngã’ đức Thế Tôn thuyết về ba cõi bằng ba sự hình thành bản ngã, thuyết về Dục giới từ địa ngục Avecī có cõi trời Tha-hóa-tự-tại là cuối cùng bởi sự hình thành bản ngã nhờ sự hình thành bản thể thô. Thuyết về cõi Sắc giới từ Sơ thiền cho đến cõi Phạm thiên Sắc-cứu-cánh là cuối cùng bằng sự hình thành bản ngã do sự tạo thành bởi ý. Thuyết về cõi Vô sắc từ thế giới Phạm thiên Không-vô-biên-xứ có thế giới Phạm thiên Phi-tưởng Phi-phi-tưởng-xứ là cuối cùng với sự hình thành bản ngã Vô sắc. Sự sanh khởi của mười hai tâm bất thiện gọi là các Pháp ô nhiễm. Chỉ tịnh và Minh sát gọi là các Pháp trong sạch.
429. Paññāpāripūriṃ vepullattanti maggapaññāphalapaññānaṃ pāripūriñceva vipulabhāvañca. Pāmujjanti taruṇapīti. Pītīti balavatuṭṭhi. Kiṃ vuttaṃ hoti? Yaṃ avocumha “sayaṃ abhiññā sacchikatvā upasampajja vihiratī”ti, tattha tassa evaṃ viharato taṃ pāmojjañceva bhavissati, pīti ca nāmakāyapassaddhi ca sati ca sūpaṭṭhitā uttamañāṇañca sukho ca vihāro. Sabbavihāresu ca ayameva vihāro “sukho”ti vattuṃ yutto “upasanto paramamadhuro”ti. Tattha paṭhamajjhāne pāmojjādayo chapi dhammā labbhanti, dutiyajjhāne dubbalapītisaṅkhātaṃ pāmojjaṃ nivattati, sesā pañca labbhanti. tatiye pīti nivattati, sesā cattāro labbhanti. Tathā catutthe. Imesu catūsu jhānesu[27] sampasādanasutte suddhavipassanā pādakajjhānameva kathitaṃ. Pāsādikasutte catūhi maggehi saddhiṃ vipassanā kathitā. Dasuttarasutte catutthajjhānikaphalasamāpatti kathitā. Imasmiṃ poṭṭhapādasutte pāmojjaṃ pītivevacanameva katvā dutiyajjhānikaphalasamāpattināma kathitāti veditabbā.
429. (An trú) vào sự viên mãn của tuệ và trạng thái lớn mạnh: (An trú) vào sự viên mãn của tuệ và trạng thái lớn mạnh của Đạo tuệ và Quả tuệ. Sự hân hoan: sự vui vẻ nhẹ. Hỷ: sự vui mừng có năng lực. Đã được ngài giải thích ra sao? Ngài giải thích thế này – trong câu ngài nói rằng: “Tự mình tác chứng bằng thắng trí, sẽ đạt đến và an trú…” trong khi vị tỳ khưu sống như vậy cũng sẽ có sự hận hoan, hỷ, an tịnh, niệm được thiết lập, có trí cao thượng và sống an lạc. Trong số tất cả việc an trú ấy thì việc sống như thế này đây thích hợp để nói là (sống) an lạc “là an tịnh có sự ngọt nào tối thượng”. Trong số các tầng thiền thì trong Sơ thiền có sáu Pháp có sự hân hoan v.v; trong Nhị thiền thì sự hân hoan được xem là hỷ yếu ớt được vận hành, nên có được năm Pháp còn lại; trong Tam thiền thì hỷ diệt, nên có được bốn Pháp còn lại; trong Tứ thiền cũng tương tự. Trong các tầng thiền này ngài nói thiền (định) làm nền tảng cho (hành giả) Thuần Quán (suddhavipassanā) trong bài Kinh Sampasādana. Ngài đã nói Minh sát cùng với bốn Đạo trong bài Kinh Pāsādika. Đã nói sự thể nhập Thánh Quả liên quan với Tứ thiền trong bài kinh Dasuttara. Sự thể nhập Thánh Quả liên quan đến Nhị thiền khiến sự hân hoan trở thành từ đồng nghĩa với hỷ, nên biết rằng: ngài đã nói trong bài Kinh Poṭṭhapāda.
432-437. Ayaṃ vā soti ettha vā saddo vibhāvanattho hoti. Ayaṃ soti evaṃ vibhāvetvā pakāsetvā byākareyyāma. Yathāpare “ekantasukhaṃ attānaṃ sañjānāthā”ti puṭṭhā “no”ti vadanti, na evaṃ vadāmāti attho. Sappāṭihīrakatanti sappāṭiharaṇaṃ, niyyānikanti attho. Mogho hotīti tuccho hoti, natthi so tasmiṃ samayeti adhippāyo. Sacco hotīti bhūto hoti, sveva tasmiṃ samaye sacco hotīti attho. Ettha panāyaṃ citto attano asabbaññutāya tayo attapaṭilābhe kathetvā attapaṭilābho nāma paññattimattaṃ etanti uddharituṃ nāsakkhi, attapaṭilābho tveva niyyātesi. Athassa bhagavā rūpādayo cettha dhammā, attapaṭilābhoti pana nāmamattametaṃ, tesu tesu rūpādīsu sati evarūpā vohārā hontīti dassetukāmo tasseva kathaṃ gahetvā nāmapaññattivasena niyyātanatthaṃ “yasmiṃ citta samaye”tiādimāha.
432-437. Từ ‘vā’ trong cụm từ ‘Ayaṃ vā so’ sử dụng với ý nghĩa làm cho (câu) rõ ràng. Ayaṃ so: ta làm cho sáng tỏ, là tuyên bố như vầy rồi có thể nói. Các Sa-môn và Bà-la-môn khác bị ta hỏi như vầy rằng: “này các ông biết được bản thân là hoàn toàn hạnh phúc không?” cũng sẽ nói rằng: “(chúng tôi) không biết về phương điện nào, thì ta sẽ nói về phương diện ấy. (Lời nói) hóa ra có sự thuyết phục: Lời nói dẫn dắt ra khỏi, tức là dẫn dắt ra khỏi khổ đau. Là rỗng không: là trống không. Giải thích rằng: sự hình thành bản ngã không tồn tại vào lúc ấy. Là có thật: là thứ có thật. Giải thích rằng: chính sự hình thành bản ngã này vào lúc ấy. Trong trường hợp này Citta con trai người quản tượng này chỉ ra ba sự hình thành bản ngã do bản thân không phải là bậc Toàn giác mới không thể nên ra dẫn chứng (một cách) thông thường, sự hình thành bản ngã ấy chỉ là chế định, nên mới nói là lảng tránh rằng: chỉ là sự hình thành bản ngã. Sau đó, đức Thế Tôn có ý muốn thuyết giảng cùng Citta con trai người quản tượng như sau: Cũng trong trường hợp này các Pháp có sắc v.v, sự hình thành bản ngã ấy chỉ gọi là khi các Pháp có sắc v.v, ấy tồn tại, ngôn từ thông thường bằng hình thức như thế có sắc tồn tại, nhằm nắm lấy lời nói ấy của chính Citta con trai người quản tưởng đã nói lảng tránh do tác động của Danh chế định, mới thuyết lời sau: “Này Citta, vào lúc nào…”
438. Evañca pana vatvā paṭipucchitvā vinayanatthaṃ puna “sace taṃ, citta, evaṃ puccheyyun”tiādimāha . Tattha yo me ahosi atīto attapaṭilābho, sveva me attapaṭilābho, tasmiṃ samaye sacco ahosi, mogho anāgato mogho paccuppannoti ettha tāva imamatthaṃ dasseti — yasmā ye te atītā dhammā, te etarahi natthi, ahesunti pana saṅkhyaṃ gatā, tasmā sopi me attapaṭilābho tasmiṃyeva samaye sacco ahosi. anāgatapaccuppannānaṃ pana dhammānaṃ tadā abhāvā tasmiṃ samaye “mogho anāgato, mogho paccuppanno”ti, evaṃ atthato nāmamattameva attapaṭilābhaṃ paṭijānāti. anāgatapaccuppannesupi eseva nayo.
438. Và hơn nữa, sau khi đã nói như vậy nhằm mục đích thuyết giảng đã hỏi rồi hướng dẫn vị ấy, mới nói tiếp rằng: “Này Citta, nếu mọi người hỏi người như vầy…” Ở đó, “Đã có nơi tôi…” nghãi là sự hình thành bản ngã thuộc quá khứ của tôi là có thật vào lúc ấy. Sự hình thành bản ngã thuộc vị lại là không có, thuộc hiện tại là không có, Citta con trai người quản tường trình bày ý nghĩa chỉ có chừng này rằng: “Các Pháp thuộc quá khứ không có ở hiện tại này, nhưng được xem là đã có, vì thế sự hình thành bản ngã của tôi là có thật vào lúc đó, còn sự hình thành bản ngã thuộc vị lai là không có, thuộc hiện tại cũng là không có trong lúc ấy, bởi vì các Pháp thuộc vị lai và thuộc hiện tại không có vào lúc ấy. Vị ấy nhận biết sự hình thành bản ngã thuộc Danh (Pháp) bằng ý nghĩa như thế. Luôn cả ở thời vị lai và hiện tại cũng có cách thức tương tự.
439-443. Atha bhagavā tassa byākaraṇena saddhiṃ attano byākaraṇaṃ saṃsandituṃ “evameva kho cittā”tiādīni vatvā puna opammato tamatthaṃ sādhento “seyyathāpi citta gavā khīra”ntiādimāha. Tatrāyaṃ saṅkhepattho, yathā gavā khīraṃ, khīrādīhi ca dadhiādīni bhavanti, tattha yasmiṃ samaye khīraṃ hoti, na tasmiṃ samaye dadhīti vā navanītādīsu vā aññataranti saṅkhyaṃ niruttiṃ nāmaṃ vohāraṃ gacchati. Kasmā? Ye dhamme upādāya dadhītiādi vohārā honti, tesaṃ abhāvā. Atha kho khīraṃ tveva tasmiṃ samaye saṅkhyaṃ gacchati. Kasmā? Ye dhamme upādāya khīranti saṅkhyā nirutti nāmaṃ vohāro hoti, tesaṃ bhāvāti. Esa nayo sabbattha. Imā kho cittāti oḷāriko attapaṭilābho iti ca manomayo attapaṭilābho iti ca arūpo attapaṭilābho iti ca imā kho citta lokasamaññā loke samaññāmattakāni samanujānanamattakāni etāni. Tathā lokaniruttimattakāni vacanapathamattakāni vohāramattakāni nāmapaṇṇattimattakāni etānīti. Evaṃ bhagavā heṭṭhā tayo attapaṭilābhe kathetvā idāni sabbametaṃ vohāramattakanti vadati. Kasmā? Yasmā paramatthato satto nāma natthi, suñño tuccho esa loko.
439-443. Sau đó, đức Thế Tôn để so sánh việc giải thích của ngài với việc giải thích của Citta con trai người quản tượng ấy mới nói rằng: “Này Citta tương tự y như vậy…” v.v, khi trình bày nội dụng này bằng cách so sánh nữa nên mới nói rằng: “Này Citta, cũng giống như từ bò cái có sữa tươi…” Trong câu đó, có nội dung vắn tắt như này – sữa tươi có từ bò cái, sữa chua có từ sữa tươi v.v, trong câu này, lúc nào vẫn còn là sữa tươi thì lúc ấy không được coi là, được gọi là, đặt tên, được diễn tả rằng là sữa chua, hoặc là bất kỳ một loại bơ lỏng nào cả. Vì sao? Bởi vì không có điều gì để diễn tả là sữa chua v.v; tuy nhiên vào lúc ấy chỉ được coi là sữa tươi mà thôi, bởi vì có những thứ được coi là, được gọi là, đặt tên, được diễn tả là sữa tươi, trong toàn bộ câu đều có cách thức như thế. Này Citta, những điều này…: Sự hình thành bản ngã thô, sự hình thành bản ngã được tạo thành bởi ý, và sự hình thành bản ngã vô sắc chỉ là những quy ước của thế gian, chỉ là những tên gọi của thế gian, chỉ là những quy định của thế gian. Thêm nữa, đức Thế Tôn thuyết giảng 3 sự hình thành bản ngã thấp như vầy rằng: những điều này chỉ là ngôn từ của thế gian, chỉ là lối nói, chỉ là sự diễn tả, chỉ là những danh từ quy định của thế gian, bây giờ mới nói rằng toàn bộ những điều này chỉ là những diễn tả (của thế gian). Vì sao? Bởi vì theo Pháp Chân Đế không có chúng sanh, thế giới ấy là rỗng không, là trống rỗng.
Buddhānaṃ pana dve kathā sammutikathā ca paramatthakathā ca. tattha “satto poso devo brahmā”tiādikā “sammutikathā” nāma. “aniccaṃ dukkhamanattā khandhā dhātuyo āyatanāni satipaṭṭhānā sammappadhānā”tiādikā paramatthakathā nāma. Tattha yo sammutidesanāya “satto”ti vā “poso”ti vā “devo”ti vā “brahmā”ti vā vutte vijānituṃ paṭivijjhituṃ niyyātuṃ arahattajayaggāhaṃ gahetuṃ sakkoti, tassa bhagavā āditova “satto”ti vā “poso”ti vā “devo”ti vā “brahmā”ti vā katheti, yo paramatthadesanāya “aniccan”ti vā “dukkhan”ti vātiādīsu aññataraṃ sutvā vijānituṃ paṭivijjhituṃ niyyātuṃ[28] arahattajayaggāhaṃ gahetuṃ sakkoti, tassa “aniccan”ti vā “dukkhan”ti vātiādīsu aññatarameva katheti. tathā sammutikathāya bujjhanakasattassāpi na paṭhamaṃ paramatthakathaṃ katheti. sammutikathāya pana bodhetvā pacchā paramatthakathaṃ katheti. paramatthakathāya bujjhanakasattassāpi na paṭhamaṃ sammutikathaṃ katheti. paramatthakathāya pana bodhetvā pacchā sammutikathaṃ katheti. pakatiyā pana paṭhamameva paramatthakathaṃ kathentassa desanā lūkhākārā hoti, tasmā buddhā paṭhamaṃ sammutikathaṃ kathetvā pacchā paramatthakathaṃ kathenti. sammutikathaṃ kathentāpi saccameva sabhāvameva amusāva kathenti. paramatthakathaṃ kathentāpi saccameva sabhāvameva amusāva kathenti.
Hơn nữa, câu chuyện của chư Phập có hai dạng là câu chuyện mang tính quy ước (sammuti) và câu chuyện sự thật tuyệt đối (paramattha). Trong hai câu chuyện ấy thì câu chuyện về chúng sanh, người, chư Thiên, Phạm thiên v.v, được gọi là Sammuti. Còn câu chuyện về “vô thường, khổ não, vô ngã, uẩn, giới, xứ, (bốn) sự thiết lập niệm, (bốn) chánh cần v.v,” được là Paramattha. Trong những câu chuyện ấy người nào khi đức Thế Tôn thuyết rằng: ‘chúng sanh’, ‘người’, ‘chư Thiên’, hoặc ‘Phạm thiên’ có thể biết rõ, thấu triệt, dẫn dắt ra khỏi khổ đau, cầm lấy ngọn cờ A-ra-hán bằng Pháp thoại (được giảng thuyết) theo lý pháp Chế Định, đức Thế Tôn cũng thuyết rằng: ‘chúng sanh’, ‘người’, ‘chư Thiên’, hoặc ‘Phạm thiên’ ngay từ đầu cùng người ấy. Người nào nghe bất kỳ một Pháp nào rằng: ‘vô thường’ hoặc ‘khổ não’ bằng Pháp thoại (được thuyết giảng) lý pháp Chân Đế có thể biết rõ, thấu triệt, dẫn dắt ra khỏi khổ đau, nắm lấy ngọn cờ A-ra-hán, thì đức Thế Tôn cũng thuyết bất kỳ một Pháp nào đó là ‘vô thường’ hoặc ‘khổ đau’ cho người ấy. Do đó, (ngài) mới không thuyết giảng câu chuyện sự thật tuyệt đối (paramattha) trước cho chúng sanh biết bởi câu chuyện mang tính chất quy ước, nhưng cho biết câu chuyện mang tính chất quy ước rồi mới thuyết câu chuyện sự thật tuyệt đối (paramattha) sau đó; và không thuyết câu chuyện mang tính chất quy ước trước cho chúng sanh biết câu chuyện sự thật tuyệt đối (paramattha), nhưng sẽ thuyết cho biết câu chuyện sự thật tuyệt đối (paramattha) rồi mới thuyết câu chuyện mang tính chất quy ước sau đó. Nhưng thông thường ngài chỉ thuyết câu chuyện sự thật tuyệt đối (paramattha), những Pháp thoại có tính chất thô, vì thế mà chư Phật thuyết câu chuyện mang tính quy ước (sammuti) trước rồi mới thuyết câu chuyện sự thật tuyệt đối (paramattha) sau, ngay cả khi thuyết câu chuyện mang tính quy ước (sammuti) cũng chỉ thuyết đúng sự thật theo đúng thực tính, không nói dối; thậm chí khi thuyết câu chuyện sự thật tuyệt đối (paramattha) cũng chỉ theo đúng sự thât, theo đúng thực tính, không nói dối. Các vị tiền bối đã nói rằng:
Duve saccāni akkhāsi, sambuddho vadataṃ varo.
Sammutiṃ paramatthañca, tatiyaṃ nūpalabbhati.
Saṅketavacanaṃ saccaṃ, lokasammutikāraṇaṃ[29].
Paramatthavacanaṃ saccaṃ, dhammānaṃ bhūtalakkhaṇanti[30].
Yāhi tathāgato voharati aparāmasanti yāhi lokasamaññāhi lokaniruttīhi tathāgato taṇhāmānadiṭṭhiparāmāsānaṃ abhāvā aparāmasanto voharatīti desanaṃ vinivaṭṭetvā arahattanikūṭena niṭṭhāpesi. sesaṃ sabbattha uttānatthamevāti.
Đức Phật, bậc tối thượng khi thuyết giảng về hai Chân Lý là Chân Lý thông thường và Chân Lý tuyệt đối, không có Chân Lý thứ 3. Những từ ngữ thuộc tính chất biểu tượng là thật, vì chúng thuộc quy ước thế gian. Những từ ngữ thuộc ý nghĩa tuyệt đối là thật bởi chúng thuộc trạng thái có thật của các Pháp.
Như Lai sử dụng chúng để gọi chớ không bám víu vào chúng: Như Lai đã tập hợp Pháp thoại để gọi chớ không bám víu, do không có sự bám víu bởi tham ái, ngã mạn, và tà kiến, thuyết giảng theo những quy ước của thế gian, những ngôn từ của thế gian, chấm dứt pháp thoại với tột đỉnh A-ra-hán. Những từ còn lại trong các câu có ý nghĩa đơn giản.
Giải Thích Kinh Poṭṭhapāda được kết thúc – Kinh thứ chín.
Trong Chú Giải Trường Bộ Kinh là Sumaṅgalavilāsī.
[1] Timbarukkhapantiyā (Syā), rukkhapantiyā (Ka)
[2] Ekaṃsaṃ katvā (Sī)
[3] Sāvatthiyaṃ (Syā)
[4] Olokento (Sī, Ka)
[5] Paccāsiṃsatīti (Sī, Syā)
[6] Gotamasāvakopi (Syā, Ka)
[7] Uṭṭhāya pana (Sī)
[8] Desemīti (Syā, Ka)
[9] Kot|halappavattiṭṭhānato (Sī)
[10] Uppajjitvā (Ka)
[11] Isisiṅgatāpasassa (?) Khu 6. 13 piṭṭhepi.
[12] Paramadhitindriyo (Syā, Ka)
[13] Ajja me (Sī)
[14] Sakāraṇaṃ (Syā, Ka)
[15] Asamuppannakāmarāgopi (Syā)
[16] Aṭṭhamāya samāpattiyā (Ka-Sī)
[17] Kiccakarasamāpattīnaṃ (Sī), kiccakārikasamāpattīnaṃ (Syā)
[18] Visuddhi 2. 344 piṭṭhe.
[19] Ruciyo (bahūsu)
[20] Amatamahānibbānāya (Ka)
[21] Saṃbharitaṃ (Sī), sañjabbharitaṃ (Syā)
[22] Uggaṇhitvā (Ka)
[23] Nivattetvā (Ka)
[24] Sattavāre pabbajitvā (Ka) Dhammapada-Ṭṭha 1. 195; Jātaka-Ṭṭha 1. 330 piṭṭhesupi.
[25] Pakkantosi (Sī), apakkantopi (Syā)
[26] Santi kho (Sī)
[27] Imesu ca jhānesu (Syā), imesu jhānesu (Ka)
[28] Niyyānituṃ (Ka)
[29] …kāraṇā (Ka)
[30] Bh|takāraṇā (Ka)