Giải Thích Kinh Kūṭadanta

(Kūṭadantasuttavaṇṇanā )

Xem Trường Bộ Kinh – Kinh Kūṭadanta

323. Evaṃ me sutaṃ … pe … magadhesūti kūṭadantasuttaṃ. Tatrāyaṃ apubbapadavaṇṇanā. Magadhesūti magadhā nāma jānapadino rājakumārā, tesaṃ nivāso ekopi janapado rūḷhīsaddena magadhāti vuccati, tasmiṃ magadhesu janapade. Ito paraṃ purimasuttadvaye vuttanayameva. Ambalaṭṭhikā brahmajāle vuttasadisāva. Kūṭadantoti tassa brāhmaṇassa nāmaṃ. Upakkhaṭoti sajjito. Vacchatarasatānīti vacchasatāni. Urabbhāti taruṇameṇḍakā vuccanti. Ete tāva pāḷiyaṃ āgatāyeva. Pāḷiyaṃ pana anāgatānampi anekesaṃ migapakkhīnaṃ sattasattasatāni sampiṇḍitānevāti veditabbāni. Sabbasattasatikayāgaṃ[1] kiresa yajitukāmo hoti. Thūṇūpanītānīti bandhitvā ṭhapanatthāya yūpasaṅkhātaṃ thūṇaṃ upanītāni.

323. Bài Kinh Kūṭadanta: “Tôi đã nghe như vầy …nt… ở xứ Magadha”. Ở đây, bài Kinh này được giải thích theo tuần tự như sau – Ở xứ Magadha: là tên gọi của các vương tử có lãnh thổ riêng. Tuy nhiên, chỗ trú ngụ của các vị ấy là chung một xứ sở nên được gọi là Māgadha theo ngôn dụng, Trong vùng đất ấy- “xứ sở của những người Magadha”. Trước đó kể từ đây có phương cách như đã được nói trong cả hai bài Kinh trước. Trong khu vườn Ambalaṭṭhikā: cũng có cung tên và tương tự với vườn xoài được đề cập ở bài Kinh Brahmajāla. ​​Kūṭadanta: là tên của vị Bà-la-môn ấy. Đang được chuẩn bị: sắp đặt. Con bò đực: nhiều trăm con bò đực. Các con bê nhỏ nhỏ được gọi là urabbha. Chỉ bằng chừng này các loài vật đến trong Pāḷī. Nhưng các loài thú rừng và chim chóc rất nhiều mỗi loại có đến bảy trăm (mà) không được đề cập trong Pāḷī, cũng nên biết rằng: ngài đã tập hợp chung với nhau. Được biết Bà-la-môn ​​Kūṭadanta ấy có mong muốn (thực hiện) lễ tế thần tất cả mỗi loài đều bảy trăm. Bị dẫn đến cột vào cột trụ: được vị ấy dẫn đến cột trụ được xem là cột tế đàn nhằm mục đích cột chặt (chúng) lại.

328. Tividhanti ettha vidhā vuccati ṭhapanā, tiṭṭhapananti attho. soḷasaparikkhāranti soḷasaparivāraṃ.

328. Ở đây, sự sắp đặt ngài gọi là tình huống trong từ ‘Tividhaṃ-ba tình huống’, tức là sự sắp xếp. Mười sáu điều kiện: có mười sáu điều kiện (là phần kết hợp).

330-336. Paṭivasantīti yaññānubhavanatthāya paṭivasanti. Bhūtapubbanti idaṃ bhagavā pathavīgataṃ nidhiṃ uddharitvā purato rāsiṃ karonto viya bhavapaṭicchannaṃ pubbacaritaṃ dassento āha. Mahāvijitoti so kira sāgarapariyantaṃ mahantaṃ pathavīmaṇḍalaṃ vijini, iti mahantaṃ vijitamassāti mahāvijito tveva saṅkhyaṃ agamāsi. Aḍḍhotiādīsu yo koci attano santakena vibhavena aḍḍho hoti, ayaṃ pana na kevalaṃ aḍḍhoyeva, mahaddhano mahatā aparimāṇasaṅkhyena dhanena samannāgato. Pañcakāmaguṇavasena mahantā uḷārā bhogā assāti mahābhogo. Piṇḍapiṇḍavasena ceva suvaṇṇamāsakarajatamāsakādivasena ca jātarūparajatassa pahūtatāya pahūtajātarūparajato, anekakoṭisaṅkhyena jātarūparajatena samannāgatoti attho. Vittīti tuṭṭhi, vittiyā upakaraṇaṃ vittūpakaraṇaṃ tuṭṭhikāraṇanti attho. Pahūtaṃ nānāvidhālaṅkārasuvaṇṇarajatabhājanādibhedaṃ vittūpakaraṇamassāti pahūtavittūpakaraṇo. sattaratanasaṅkhātassa nidahitvā ṭhapitadhanassa sabbapubbaṇṇāparaṇṇasaṅgahitassa dhaññassa ca pahūtatāya pahūtadhanadhañño . athavā idamassa devasikaṃ paribbayadānaggahaṇādivasena parivattanadhanadhaññavasena vuttaṃ.

330-336. Đang trú ngụ: các Bà-la-môn đang trú ngụ nhằm mục đích thọ lãnh vật dụng được họ cho làm vật thí. Đức Thế Tôn khi thuyết giảng đến hành động trong quá khứ bị các hữu-bhava che khuất giống như người đào hầm tài sản được chôn cất dưới đất rồi làm thành đống đặt trước mặt nên mới nói rằng: “chuyện này đã từng xảy ra”. Đức vua Mahāvijita: Kể rằng đức vua ấy đã chinh phục được địa cầu rộng lớn được biển bao quanh, vì thế ngài đã đi đến tên gọi đức vua Mahāvijita bởi vì đã chiến thắng to lớn. Giàu sang: Một số người là người giàu có với tài sản của mình. Còn đức vua Mahāvijita này không những giàu có mà còn là người có nhiều tài sản, tức là đạt được rất nhiều tài sản, đếm không hết. Có dồi dào của cải: bởi có vô số của cải, là to lớn về phương diện năm loại dục. Có dồi dào của vàng và bạc: bởi tính chất ở vàng và bạc thành từng thỏi từng thỏi, và về phương diện đồng tiền vàng và đồng tiền bạc v.v. nghĩa là thành tựu với vàng và bạc tính bằng ko koṭi nhiều vô số. Vui sướng trong lòng: điều đem lại sự thỏa mãn, dụng cụ của sự tiêu khiển là vittūpakaraṇaṃ gồm nguyên nhân của sự thỏa mãn. Có dồi dào vật tiêu khiển: bởi vì ngài có rất nhiều loại dụng cụ dùng để tiêu khiển v.v, nhiều đồ trang sức và vật dụng bằng vàng và bạc v.v. Có dồi dào tài sản và lúa gạo: Vì tài sản được nói là bảy loại châu báu được cất giữ và lúa gạo được thu gom cho đến tất cả các loại hạt lúa bắp, hạt rau cải có rất nhiều. Thêm nữa, điều này ngài nói về phương diện việc cho và việc nhận tài sản mỗi ngày của ngài về phương diện tài sản và lúa gạo được trao đổi với nhau.

Paripuṇṇakosakoṭṭhāgāroti koso vuccati bhaṇḍāgāraṃ, nidahitvā ṭhapitena dhanena paripuṇṇakoso, dhaññena paripuṇṇakoṭṭhāgāro cāti attho. Athavā catubbidho koso — hatthī, assā, rathā, pattīti[2]. Koṭṭhāgāraṃ tividhaṃ — dhanakoṭṭhāgāraṃ, vatthakoṭṭhāgāraṃ, dhaññakoṭṭhāgāranti, taṃ sabbampi paripuṇṇamassāti paripuṇṇakosakoṭṭhāgāro. Udapādīti uppajji. Ayaṃ kira rājā ekadivasaṃ ratanāvalokanacārikaṃ nāma nikkhanto. So bhaṇḍāgārikaṃ pucchi — “Tāta, idaṃ evaṃ bahudhanaṃ kena saṅgharitan”ti?[3] Tumhākaṃ pitupitāmahādīhi yāva sattamā kulaparivaṭṭāti. Idaṃ pana dhanaṃ saṅgharitvā[4] te kuhiṃ gatāti? Sabbeva te, deva, maraṇavasaṃ pattāti. Attano dhanaṃ agahetvāva gatā, tātāti? Deva, kiṃ vadetha, dhanaṃ nāmetaṃ pahāya gamanīyameva, no ādāya gamanīyanti. Atha rājā nivattitvā sirīgabbhe nisinno — ‘adhigatā kho me’tiādīni cintesi. Tena vuttaṃ — “evaṃ cetaso parivitakko udapādī”ti.

Có khu trại và nhà kho đầy ắp: khu trại để cất giữ đồ vật ngài gọi là ngân khố, có nghĩa là có ngân khố đầy ắp với tài sản đã được cất giữ, có nhà kho đầy ắp lúa gạo. Thêm nữa, khu trại có bốn khu là voi, ngựa, xe, bộ binh. Kho chứa có ba kho – Kho chứa tài sản, kho chứa vải vóc, kho chứa thóc lúa, mọi thứ thậm chí toàn bộ những thứ ấy của vị ấy đều đầy ắp, vì thế ngài mới gọi là có khu trại và nhà kho đầy ắp. Đã khởi lên: đã phát sanh. Kể rằng một ngày nọ đức vua này rời khỏi đi du hành quan sát châu báu. Ngài hỏi người giữ ngân khố – “Này khanh, tài sản nhiều như vậy, đã được tích lũy bởi ai?” Người giữ ngân khố tâu rằng – “cha của đức vua và ông nội của đức vua v.v, đã tích lũy suốt bảy thế hệ”. – Hơn nữa, những vị ấy sau khi tích lũy tài sản này thì họ đã đi đâu? – Tậu bệ hạ, những vị ấy tất cả đi đến mãnh lực của sự chết. – Họ không mang theo tài sản của mình theo hay sao? – “Tâu bệ hạ, ngài nói gì vậy? Họ phải từ bỏ những tài sản ấy không thể mang theo được. Sau đó, đức vua đã quay lại ngồi xuống ở hoàng phòng – trầm tư rằng: “trẫm sở hữu tài sản nhiều như thế này v.v.” Vì thế mới nói rằng – “có ý nghĩ suy tầm như vầy đã khởi lên”.

337. Brāhmaṇaṃ āmantetvāti kasmā āmantesi? Ayaṃ kirevaṃ cintesi — “dānaṃ dentena nāma ekena paṇḍitena saddhiṃ mantetvā dātuṃ vaṭṭati, anāmantetvā katakammañhi pacchānutāpaṃ karotī”ti. Tasmā āmantesi. Atha brāhmaṇo cintesi — “ayaṃ rājā mahādānaṃ dātukāmo, janapade cassa bahū corā, te avūpasametvā dānaṃ dentassa khīradadhitaṇḍulādike dānasambhāre āharantānaṃ nippurisāni gehāni corā vilumpissanti janapado corabhayeneva kolāhalo[5] bhavissati, tato rañño dānaṃ na ciraṃ pavattissati, cittampissa ekaggaṃ na bhavissati, handa, naṃ etamatthaṃ saññāpemī”ti tato tamatthaṃ saññāpento “bhoto, kho rañño”tiādimāha.

37. Đã cho mời Bà-la-môn phụ trách tế tự đến: Tại sao lại mời (Bà-la-môn phụ trách tế tự) đến? Được biết đức vua suy nghĩ như vầy – “Thông thường người bố thí nên được tư vấn bởi một bậc sáng trí trước rồi mới bố thí, bởi hành động không được tư vấn trước mà thực hiện sẽ khiến bị cắn rứt về sau”. Vì lý do ấy ngài mới cho mời (ngài Bà-la-môn phụ trách tế tự). Khi ấy, vị Bà-la-môn nghĩ rằng – “Ngài quân vương này muốn thực hiện một cuộc đại bố thí và trong vương quốc của ngài có rất nhiều tên cướp, bọn chúng vẫn chưa yên ổn, khi ngài thực hiện việc bố thí thì nhà cửa của những người mang theo những vật liệu bố thí như sữa tươi, sữa đông và gạo v.v, không có người trông coi, bọn cướp sẽ đến trộm cắp, quốc độ này sẽ trở nên huyên náo bởi chính hiểm nạn trộm cướp, khi ấy việc bố thí của ngài quân vương sẽ không được diễn ra dài lâu, và ngài cũng không đạt đến (trạng thái) chuyên nhất của tâm, thôi được rồi, ta sẽ làm cho ngài quân vương biết được sự tình ấy, trong khi làm cho ngài quân vương biết được sự tình đó,” vị ấy đã nói rằng “quốc độ của ngài quân vương…

338. Tattha sakaṇṭakoti corakaṇṭakehi sakaṇṭako. Panthaduhanāti panthaduhā, panthaghātakāti attho. Akiccakārī assāti akattabbakārī adhammakārī bhaveyya. Dassukhīlanti corakhīlaṃ. Vadhena vāti māraṇena vā koṭṭanena vā. Bandhanenāti addubandhanādinā. Jāniyāti hāniyā; “sataṃ gaṇhatha, sahassaṃ gaṇhathā”ti evaṃ pavattitadaṇḍenāti attho. Garahāyāti pañcasikhamuṇḍakaraṇaṃ[6], gomayasiñcanaṃ, gīvāya kudaṇḍakabandhananti evamādīni katvā garahapāpanena. Pabbājanāyāti raṭṭhato nīharaṇena. Samūhanissāmīti[7] sammā hetunā nayena kāraṇena ūhanissāmi. Hatāvasesakāti matāvasesakā. Ussahantīti ussāhaṃ karonti. Anuppadetūti dinne appahonte puna aññampi bījañca bhattañca kasiupakaraṇabhaṇḍañca sabbaṃ detūti attho. Pābhataṃ anuppadetūti sakkhiṃ akatvā paṇṇe anāropetvā mūlacchejjavasena bhaṇḍamūlaṃ detūti attho. bhaṇḍamūlassa hi pābhatanti nāmaṃ. yathāha —

“Appakenapi medhāvī, pābhatena vicakkhaṇo.

Samuṭṭhāpeti attānaṃ, aṇuṃ aggiṃva sandhaman”ti.[8]

338. Ở đó, có tai ương: có tai ương do tệ nạn cướp giật. Các vụ cướp giật ở con đường vắng: việc trộm cướp ở những con đường vắng, tức là việc sát hại lẫn nhau ở con đường vắng. là người hành xử không thích đáng: có thể trở thành người thực hiện phận sự không nên nên thực hiện, có thể trở thành người hành xử không đúng pháp. Tệ nạn cướp giật: tệ nạn cướp giật. Bằng việc hành hình: với việc giết chết, hoặc với việc tra tấn. Bằng sự giam cầm: Việc giam cầm bằng xiềng xích v.v. Bằng sự phạt tiền: bằng việc mất mát tài sản; có nghĩa là sự vi phạm có thể bị xử phạt như vầy “lấy tiền phạt một trăm, lấy tiền phạt một ngàn”. Bằng sự trừng phạt: với sự khiển trách điều xấu ác, thực hành hình phạt v.v, như vầy là cạo đầu chừa lại năm nhúm tóc, cạo trọc đầu, lấy phân bò rưới lên, và xiềng xích bằng cỏ tranh ở cổ. Bằng sự trục xuất: với việc trục xuất ra khỏi quốc độ. Sẽ trừ diệt: ta sẽ diệt trừ bằng lý lẽ, bằng nguyên nhân, bằng suy luận chân chánh. những kẻ còn sống sót: Còn sót lại từ cái chết. Ra sức: Thực hành sự nỗ lực. Hãy cung cấp…cho: Khi những thứ được ngài quân vương ban chưa đầy đủ, xin ngài hãy cung cấp hạt giống và thức ăn, và những dụng cụ trong việc trồng trọt, luôn cả những thứ khác nữa. Hãy cung cấp vốn cho: xin ngài hãy cung cấp đồ đạc thuộc vốn đầu tư, miễn trả phần vốn ban đầu, không cần lầm chứng từ, không cần ghi vào sổ sách. Thật vậy, vốn đầu tư này là tên của những đồ vật thuộc vốn đầu tư ban đầu.

Bậc thông minh, khéo léo (về kinh doanh), tự tạo lập bản thân dầu với vốn liếng ít ỏi, giống như đang thổi bùng lên ngọn lửa nhỏ.

Bhattavetananti devasikaṃ bhattañceva māsikādiparibbayañca tassa tassa kusalakamma-sūrabhāvānurūpena ṭhānantaragāmanigamādidānena saddhiṃ detūti attho. Sakammapasutāti kasivāṇijjādīsu sakesu kammesu uyyuttā byāvaṭā. Rāsikoti dhanadhaññānaṃ rāsiko. Khemaṭṭhitāti khemena ṭhitā abhayā. Akaṇṭakāti corakaṇṭakarahitā. Mudā modamānāti modā modamānā[9]. Ayameva vā pāṭho, Aññamaññaṃ pamuditacittāti adhippāyo. Apārutagharāti corānaṃ abhāvena dvārāni asaṃvaritvā vivaṭadvārāti attho. Etadavocāti janapadassa sabbākārena iddhaphītabhāvaṃ ñatvā etaṃ avoca.

Tiền phụ cấp và tiền lương: chi trả tiền vật thực mỗi ngày và tài sản gồm có đồng tiền māsaka v.v. hãy bố thí cùng với việc ban thưởng các tước vị, làng mạc và thị tứ v.v, tương xứng với hành động tốt đẹp và sự gan dạ của họ. Chuyên chú với công việc của mình: là người có sự nỗ lực thực hành, ở phía tâm trí thực hiện công việc của chính mình gồm có việc trồng trọt và việc buôn bán. Quỹ tích lũy: quỹ tích lũy và gạo thóc. Được vững trú trong sự yên ổn: được vững trú với sự an ổn, không có nỗi sợ hãi. Sự bình yên (không có kẻ thù): không có kẻ thù cướp bốc. Được vui sướng, hân hoan: mọi người ai cũng được vui sướng, hân hoan. Thêm nữa, chính từ này thuộc Chánh văn Pāḷī. Có nghĩa rằng: mọi người ai cũng có tâm vô cùng vui sướng với nhau. Các căn nhà không cần đóng cửa: Bởi vì bọn cuớp không còn nữa nên không cần phải đóng cửa nhà, (có thể) mở toang các cánh cửa. Đã nói điều này: sau khi đức vua Mahāvijita biết được tình trạng giàu có và phát triển với tất cả mọi biểu hiện của đất nước mới nói lên điều này.

 

Giảng Giải Bốn Điều Kiện Cần Thiết Của Lễ Tế Đàn

339. Tena hi bhavaṃ rājāti brāhmaṇo kira cintesi — “ayaṃ rājā mahādānaṃ dātuṃ ativiya ussāhajāto. Sace pana attano anuyantā khattiyādayo anāmantetvā dassati. nāssa te attamanā bhavissanti; yathā dānaṃ te attamanā honti, tathā karissāmī”ti. Tasmā “tena hi bhavan”tiādimāha. Tattha negamāti nigamavāsino. Jānapadāti janapadavāsino. Āmantayatanti āmantetu jānāpetu. Yaṃ mama assāti yaṃ tumhākaṃ anujānanaṃ mama bhaveyya. Amaccāti piyasahāyakā. Pārisajjāti sesā āṇattikārakā. Yajataṃ bhavaṃ rājāti yajatu bhavaṃ, te kira — ayaṃ rājā “ahaṃ issaro”ti pasayha dānaṃ adatvā amhe āmantesi, ahonena suṭṭhu katan”ti attamanā evamāhaṃsu. Anāmantite panassa yaññaṭṭhānaṃ dassanāyapi na gaccheyyuṃ. Yaññakālo mahārājāti deyyadhammasmiñhi asati mahallakakāle ca evarūpaṃ dānaṃ dātuṃ na sakkā, tvaṃ pana mahādhano ceva taruṇo ca, etena te yaññakāloti dassentā vadanti. Anumatipakkhāti anumatiyā pakkhā, anumatidāyakāti attho. Parikkhārā bhavantīti parivārā bhavanti. “Ratho sīlaparikkhāro, jhānakkho cakkavīriyo”ti[10] ettha pana alaṅkāro parikkhāroti vutto.

339. Vậy thì, tâu ngài quân vương: Kể rằng Bà-la-môn nghĩ rằng – “Ngài quân vương này khởi lên sự nỗ lực tuyệt vời để thực hiện cuộc đại bố thí. Nhưng nếu ngài không tham vấn các Sát-đế-lỵ chư hầu trước khi bố thí họ sẽ cảm thấy tủi thân; ta sẽ làm điều (ấy) khiến họ không cảm thấy tủi thân”. Vì thế vị ấy đã nói rằng: “Vậy thì, tâu ngài quân vương.” Ở thành thị: những vị sống ở thành thị. Ở nông thôn: những vị sống ở nông thôn. Hãy thỉnh mời họ (tham vấn): hãy tham vấn, hãy nói cho họ biết. Đưa đến sự lợi ích, sự an lạc lâu dài cho trẫm: Việc đồng tình của các ngài có thể vận hành đưa đến sự lợi lạc cho trẫm. Các viên quan đại thần: cận thần thân tín. Các tùy tùng: các thuộc hạ còn lại. Ngài quân vương hãy cử hành lễ tế đàn: Xin ngài quân vương, xin ngài hãy cử hành lễ tế đàn, kể rằng mọi người đều vui mừng – đức vua này không bắt ép để thực hiện bố thí với suy nghĩ rằng “trẫm là bậc đế vương” mà vẫn thỉnh mời chúng ta đến tham vấn, thật là điều tuyệt vời, ngài đã thực hiện điều tốt đẹp” nên mới nói như vậy. Còn khi họ không được thỉnh mời đến thì họ cũng không thể đi đến dầu để xem lễ tế đàn của đức vua ấy. Tâu đại vương nay là thời điểm của việc tế đàn: Bọn họ khi chỉ ra rằng – khi vật phẩm dâng cúng không có, dẫu cho đến thời điểm thích hợp cũng không thể (tiến hành) lễ bố thí bằng hình thức như vậy, tuy nhiên ngài giàu có và vẫn còn trai tráng, vì thế mới là thời điểm thích hợp để cử hành lễ tế đàn của ngài, nên mới nói lên. (bốn) nhóm này với sự đồng tình: (bốn) nhóm này với sự đồng tình, tức là người cho sự đồng ý. Điều kiện cần thiết: là (điều kiện) phụ thuộc. Nhưng trong lời này “Giới như đồ trang trí cỗ xe, có thiền là trục xe, có sự tinh tấn là bánh xe,” phương tiện trang trí ngài gọi là (điều kiện) phụ thuộc.

 

Giảng Giải Tám Điều Kiện Cần Thiết Của Lễ Tế Đàn

340. Aṭṭhahaṅgehīti ubhato sujātādīhi aṭṭhahi aṅgehi. Yasasāti āṇāṭhapanasamatthatāya. Saddhoti dānassa phalaṃ atthīti saddahati. Dāyakoti dānasūro. Na saddhāmattakeneva tiṭṭhati, pariccajitumpi sakkotīti attho. Dānapatīti yaṃ dānaṃ deti, tassa pati hutvā deti, na dāso, na sahāyo. Yo hi attanā madhuraṃ bhuñjati, paresaṃ amadhuraṃ deti, so dānasaṅkhātassa deyyadhammassa dāso hutvā deti. Yo yaṃ attanā bhuñjati, tadeva deti, so sahāyo hutvā deti. Yo pana attanā yena kenaci[11] yāpeti, paresaṃ madhuraṃ deti, so pati jeṭṭhako sāmī hutvā deti, ayaṃ tādisoti attho. Samaṇa-brāhmaṇa-kapaṇaddhika-vaṇibbakayācakānanti ettha samitapāpā samaṇā, bāhitapāpā brāhmaṇā. Kapaṇāti duggatā daliddamanussā. Addhikāti pathāvino. Vaṇibbakāti ye — “iṭṭhaṃ dinnaṃ, kantaṃ, manāpaṃ, kālena anavajjaṃ dinnaṃ, dadaṃ cittaṃ pasādeyya, gacchatu bhavaṃ brahmalokan”tiādinā nayena dānassa vaṇṇaṃ thomayamānā vicaranti. Yācakāti ye — “pasatamattaṃ detha, sarāvamattaṃ dethā”tiādīni vatvā yācamānā vicaranti. opānabhūtoti udapānabhūto. Sabbesaṃ sādhāraṇaparibhogo, catumahāpathe khatapokkharaṇī viya hutvāti attho. Sutajātassāti ettha sutameva sutajātaṃ. Atītānāgatapaccuppanne atthe cintetunti ettha — “atīte puññassa katattāyeva me ayaṃ sampattī”ti, evaṃ cintento atītamatthaṃ cintetuṃ paṭibalo nāma hoti. “idāni puññaṃ katvāva anāgate sakkā sampattiṃ pāpuṇitun”ti cintento anāgatamatthaṃ cintetuṃ paṭibalo nāma hoti. “Idaṃ puññakammaṃ nāma sappurisānaṃ āciṇṇaṃ, mayhañca bhogāpi saṃvijjanti, dāyakacittampi atthi; handāhaṃ puññāni karomī”ti cintento paccuppannamatthaṃ cintetuṃ paṭibalo nāma hotīti veditabbo. Iti imānīti evaṃ yathā vuttāni etāni. Etehi kira aṭṭhahaṅgehi samannāgatassa dānaṃ sabbadisāhi mahājano upasaṅkamati. “Ayaṃ dujjāto kittakaṃ kālaṃ dassati, idāni vippaṭisārī hutvā upacchindissatī”ti evamādīni cintetvā na koci upasaṅkamitabbaṃ[12] maññati. Tasmā etāni aṭṭhaṅgāni parikkhārā bhavantīti vuttāni.

340. Với tám yếu tố: với tám yếu tố có thiện sanh cả hai phía v.v. Bằng danh tiếng: với tính chất người có khả năng (ra lệnh) trừng phạt. Có đức tin: tin rằng kết quả của việc bố thí tồn tại. Là người bố thí: là người dũng cảm trong việc cho. Giải thích rằng không những vững trú trong trạng thái có đức tin, mà còn có khả năng dứt bỏ. Là thí chủ: là chủ nhân của vật thí được mình cho, không phải nô lệ, không phải bạn nối khố. Giải thích rằng – thật vậy, người nào thọ dụng vật ngon bởi chính mình, nhưng lại cho vật không ngon đến người khác, người ấy được xem là nô lệ của vật thí; người nào thọ dụng vật nào bởi chính mình (và) cho chính vật ấy thì người ấy gọi là bạn nối khố; Còn ngươi nào tự mình nuôi mạng bằng bất kỳ món vật thực có được, tuy nhiên lại cho món ngon đến người khác thì người đó gọi là chúa tể, vị đứng đầu, chủ nhân việc cho, đức vua Mahāvijita cũng như thế. Các Sa-môn, Bà-la-môn, người cơ cực, kẻ lang thang, người đi quyên góp, và người hành khất: Người có các pháp xấu ác được yên tịnh gọi là Sa-môn. Người có pháp xấu ác đã được thả trôi gọi là Bà-la-môn. Người khốn khổ, là người nghèo khổ gọi là người cơ cực. Kẻ lang thang: người đi quãng đường xa xôi. Những người nào đi du hành ca ngợi phẩm chất của việc bố thí theo phương thức v.v, sau “Này ông, người bố thí đáng mong muốn, đáng ước muốn, đáng hài lòng, không có tội do hợp thời, làm cho tâm được tịnh tín, khiến hãy đi đến bản thể Phạm Thiên giới,” những người ấy gọi là người quyên góp. Những người nào nói lời nói v.v, như sau: “Xin ông hãy cho (tôi) dầu chỉ một vốc, xin ngày hãy cho (tôi) một chung” đi lang thang xin ăn, những người ấy gọi là người hành khất. Tựa như giếng nước: như giếng nước (nguồn cung ứng vật chất). Giải thích rằng – hồ nước được họ đào lên ở ngã tư đường là nơi sử dụng chung của tất cả mọi người. Của mỗi một đề tài đã được nghe: đây chính là đề tài đã được nghe được gọi là đã được học tập. Có khả năng để suy xét về các lợi ích thuộc quá khứ, tương lai, và hiện tại: nên biết ý nghĩa như sau – đức vua trong khi suy nghĩ được như vậy “do chính trẫm đã tạo phước báu trong thời quá khứ, trẫm có sự thành tựu như thế” gọi là người có khả năng suy xét về các lợi ích thuộc quá khứ. Trong khi nghĩ rằng: “Trẫm làm phước vào lúc này, chính hành động này có thể được thọ nhận sự thành tựu trong thời vị lai” gọi là người có khả năng suy xét về điều lợi ích ở vị lai. Trong khi nghĩ rằng: “Hành động thuộc phước báu này là thường hành nghiệp (āciṇṇakamma) của bậc chân nhân, dầu cho tài sản của trẫm có, luôn cả tâm suy nghĩ bố thí cũng có; thôi được rồi, trẫm (sẽ) tạo phước” gọi là người có khả năng suy xét về các lợi ích thuộc hiện tại. Như thế, tám yếu tố này…: các yếu tố như đã trình bày là như vậy. Được biết rằng đám đông dân chúng đến từ khắp các phương hướng đi vào tìm kiếm để nhận vật thí của hạng người hội đủ tám yếu tố này. Một số người suy xét nguyên nhân v.v. như vầy: “Người này là tiện sanh, sẽ mất bao lâu để cho vật thí? ngay lúc này vị ấy cảm thấy bực tức sẽ từ bỏ (việc cho vật thí)” không để tâm đi vào nhận vật thí. Vì thế, ngài nói rằng: Tám yếu tố này cũng là những điều kiện cần thiết.

 

Giảng Giải Bốn Điều Kiện Cần Thiết Của Lễ Tế Đàn

341. Sujaṃ paggaṇhantānanti mahāyāgapaṭiggaṇhanaṭṭhāne dānakaṭacchuṃ paggaṇhantānaṃ. Imehi catūhīti etehi sujātādīhi. Etesu hi asati — “evaṃ dujjātassa saṃvidhānena pavattadānaṃ kittakaṃ kālaṃ pavattissatī”tiādīni vatvā upasaṅkamitāro na honti. Garahitabbābhāvato pana upasaṅkamantiyeva. Tasmā imānipi parikkhārā bhavantīti vuttāni.

341. Các vị cầm cái vá rưới bơ vào ngọn lửa tế đàn: người cầm cái vá bố thí ở chỗ tiếp nhận sự bố thí to lớn.  Với bốn yếu tố này: Với yếu tố như được sanh ra cao quý từ phía mẹ và phía cha v.v. Mọi người đã nói lời nói như sau – “Khi yếu tố như thiện sanh v.v, tồn tại, vật thí vận hành với việc sắp xếp của hạng người tiện sanh như thế sẽ vận hành mất bao lâu?” họ (sẽ) không đi vào. Nhưng chỉ đi vào vì không có điều gì có thể bị quở trách. Vì thế, ngài đã nói – các yếu tố này cũng là những điều kiện tất yếu.

342. Tisso vidhā desesīti tīṇi ṭhapanāni desesi. So kira cintesi — “dānaṃ dadamānā nāma tiṇṇaṃ ṭhānānaṃ aññatarasmiṃ calanti handāhaṃ imaṃ rājānaṃ tesu ṭhānesu paṭhamataraññeva niccalaṃ karomī”ti. Tenassa tisso vidhā desesīti. So bhoto raññoti idaṃ karaṇatthe sāmivacanaṃ. Bhotā raññāti vā pāṭho. Vippaṭisāro na karaṇīyoti “bhogānaṃ vigamahetuko pacchānutāpo na kattabbo, pubbacetanā pana acalā patiṭṭhapetabbā, evañhi dānaṃ mahapphalaṃ hotī”ti dasseti. Itaresupi dvīsu ṭhānesu eseva nayo. Muñcacetanāpi hi pacchāsamanussaraṇacetanā ca niccalāva kātabbā. Tathā akarontassa dānaṃ na mahapphalaṃ hoti, nāpi uḷāresu bhogesu cittaṃ namati, mahāroruvaṃ upapannassa seṭṭhigahapatino viya.

342. Đã chỉ bảo về ba tình huống: chỉ ra ba sự sắp đặt. Được biết vị ấy nghĩ rằng – “Thường người bố thí hay lay động ở một trong số ba trường hợp ấy, được rồi, ta sẽ khiến ngài quân vương này không lay động trong những trường hợp này, trước hết như thế, mới chỉ bảo về ba tình huống cho ngài quân vương ấy”. So bhoto rañño đây là Sở Hữu Cách dùng trong ý nghĩa Sử Dụng Cách. Pāḷī ‘bhotā raññā – ngài quân vương’. Không nên có sự hối tiếc: ngài chỉ bảo rằng – “không nên có sự hối tiếc sau đó, có sự biến mất, hao hụt tài sản làm nhân, tuy nhiên tác ý trước khi bố thí (tư tiền) cần phải vững chắc, không lây động, bởi vì việc bố thí ấy có kết quả to lớn”. Luôn cả hai trường hợp ngoài ra cũng có phương thức tương tự. Thật vậy, tác ý trong khi đang bố thí (tư hiện), (hay) tác ý ghi nhớ sau đó (tư hậu), không nên có sự lay động. Khi không thực hiện như thế thì việc bố thí không (mang lại) kết quả to lớn, cả tâm cũng không hướng đến khối tài sản đồ sộ giống như seṭṭhigahapatī, người đã sanh vào đại địa ngục Mahāroruva.

343. Dasahākārehīti dasahi kāraṇehi. Tassa kira evaṃ ahosi — sacāyaṃ rājā dussīle disvā — “nassati vata me dānaṃ, yassa me evarūpā dussīlā bhuñjantī”ti sīlavantesupi vippaṭisāraṃ uppādessati, dānaṃ na mahapphalaṃ bhavissati. Vippaṭisāro ca nāma dāyakānaṃ paṭiggāhakatova uppajjati, handassa paṭhamameva taṃ vippaṭisāraṃ vinodemīti. Tasmā dasahākārehi upacchijjituṃ yuttaṃ paṭiggāhakesupi vippaṭisāraṃ vinodesīti. Tesaññeva tenāti tesaññeva tena pāpena aniṭṭho vipāko bhavissati, na aññesanti dasseti. Yajataṃ bhavanti detu bhavaṃ. Sajjatanti vissajjatu. Antaranti abbhantaraṃ.

343. Theo mười biểu hiện: là với mười lý do. Tương truyền Bà-la-môn phụ trách tế tự ấy có suy nghĩ rằng – “Nếu như ngài quân vương nhìn thấy kẻ ác giới rồi suy nghĩ như sau – Việc bố thí của trẫm chắc chắn sẽ bị tiêu tan, kẻ ác giới có hình thức như thế sử dụng vật thí của trẫm” luôn cả người có giới cũng sẽ khiến sanh khởi sự hối tiếc, việc bố thí cũng sẽ không có kết quả to lớn. Và thông thường sự hối tiếc sanh lên cho nhóm người bố thí bởi liên quan đến người nhận, thôi được rồi ta sẽ xua đi sự hối tiếc ấy của ngài quân vương ngay chính lần đầu tiên. Do đó, vị ấy mới xua tan sự hối tiếc, luôn cả bản thân người nhận thí, nên cắt đứt bằng mười biểu hiện. Do nghiệp lực của chính vị ấy: ngài chỉ ra rằng – Có quả thành tựu không đáng mong bởi việc ác ấy, sẽ có ngay chính nơi người đó, sẽ không có nơi người khác. Ngài hãy dâng hiến: xin ngài quân vương hãy (làm lễ) bố thí. Ngài hãy ban phát: xin ngài hãy (làm lễ) hiến tế. Bên trong: bên trong nội tâm.

344. Soḷasahi ākārehi cittaṃ sandassesīti idha brāhmaṇo rañño mahādānānumodanaṃ nāma āraddho. Tattha sandassesīti — ‘Idaṃ dānaṃ dātā evarūpaṃ sampattiṃ labhatī’ti[13] dassetvā dassetvā kathesi. Samādapesīti tadatthaṃ samādapetvā kathesi. Samuttejesīti vippaṭisāravinodanenassa cittaṃ vodāpesi. Sampahaṃsesīti ‘sundaraṃ te kataṃ, mahārāja, dānaṃ dadamānenā’ti thutiṃ katvā kathesi. Vattā dhammato natthīti dhammena samena kāraṇena vattā natthi.

344. Đã tạo niềm phấn khởi cho tâm của đức vua theo mười sáu biểu hiện: Bà-la-môn trong khi bắt đầu thể hiện sự tùy hỷ cuộc đại thí của đức vua. Trong số những câu đó. Đã chỉ dạy: đã nói lời chỉ bảo rồi chỉ bảo nữa rằng – “Vị bố thí này đạt được sự thành tựu có hình thức như vậy”. Đã động viên: đã nói lời khiến nắm giữ ý nghĩa ấy một cách đúng đắn. Đã khuyến khích: khiến cho tâm trí của đức vua được tịnh tín bằng việc xua đi sự hối tiếc. Đã tạo niềm phấn khởi: đã nói lời ca ngợi rằng ‘Tâu đại vương, khi ngài tiến hành bố thí, đã được thực hiện tốt đẹp’. Không đúng với sự thật: không đúng với lý lẽ, với sự chân chánh, với lý do.

345. Na rukkhā chijjiṃsu yūpatthāya na dabbhā lūyiṃsu barihisatthāyāti ye yūpanāmake mahāthambhe ussāpetvā — “Asukarājā asukāmacco asukabrāhmaṇo evarūpaṃ nāma mahāyāgaṃ yajatī”ti nāmaṃ likhitvā ṭhapenti. Yāni ca dabbhatiṇāni lāyitvā vanamālāsaṅkhepena yaññasālaṃ parikkhipanti, bhūmiyaṃ vā pattharanti, tepi na rukkhā chijjiṃsu, na dabbhā lūyiṃsu. Kiṃ pana gāvo vā ajādayo vā haññissantīti dasseti. Dāsāti antogehadāsādayo. Pessāti ye pubbameva dhanaṃ gahetvā kammaṃ karonti. Kammakarāti ye bhattavetanaṃ gahetvā karonti. Daṇḍatajjitā nāma daṇḍayaṭṭhimuggarādīni gahetvā — “kammaṃ karotha karothā”ti evaṃ tajjitā. Bhayatajjitā nāma — Sace kammaṃ karosi, kusalaṃ. No ce karosi, chindissāma vā bandhissāma vā māressāma vāti evaṃ bhayena tajjitā. Ete pana na daṇḍatajjitā, na bhayatajjitā, na assumukhā rodamānā parikammāni akaṃsu. Atha kho piyasamudācāreneva samudācariyamānā akaṃsu. Na hi tattha dāsaṃ vā dāsāti, pessaṃ vā pessāti, kammakaraṃ vā kammakarāti ālapanti. Yathānāmavaseneva[14] pana piyasamudācārena ālapitvā itthipurisabalavantadubbalānaṃ anurūpameva kammaṃ dassetvā — “idañcidañca karothā”ti vadanti. Tepi attano rucivaseneva karonti.

345. Các thân cây đã không bị chặt để làm cột tế đàn, các cỏ dabba đã không bị cắt để làm thảm trải nơi tế đàn: Bà-la-môn chỉ ra rằng – những người nào đặt cột trụ lớn gọi là cột tế đàn sau đó viết lên ‘tên đức vua kia, viên quan đại thần kia, Bà-la-môn kia cử hành đệ lễ tế đàn bằng hình thức như vậy’. Thiết lập và đan cỏ dabba xung quanh ngôi đền tế đàn một cách tập trung giống như khu rừng nhỏ hoặc trải trên mặt đất, cả những người ấy không được chặt cây, không được đan cỏ dabba, hơn nữa bọn họ sẽ giết bò hoặc loài vật khác như dê v.v, để làm gì? Nô bộc: người nô bộc được sanh ra trong gia đình v.v. Những người nào sau khi cầm lấy tài sản trước rồi làm việc, những người ấy gọi là người làm thuê. Những người nào được nhận tiền trợ cấp mỗi ngày và tiền công làm việc những người ấy gọi là người làm công. Người cầm lấy gậy gộc và búa v.v, đe dọa như vậy – “hãy làm việc, hãy làm việc” gọi là người bị đe dọa bởi gậy gộc. Người bị đe dọa bởi nỗi sợ hãi như vậy “nếu như ông làm việc ấy, (hay) nếu ngươi không làm, chúng tôi sẽ chặt, hoặc sẽ tống giam, hoặc sẽ giết như thế gọi là người bị đe dọa bởi nỗi sợ hãi. Tuy nhiên, những người ấy đều không bị đe dọa bởi gậy gộc, không bị đe dọa bởi nỗi sợ hãi, và đã không phải làm công việc chuẩn bị trong khi than khóc với khuôn mặt đầy nước mắt. Thật sự, mọi người ai cũng làm việc hỏi han ân cần lẫn nhau bằng những lời chào hỏi vô cùng đáng mến. Bởi vì trong số những người ấy họ không gọi nô bộc là nô bộc, người làm thuê là người làm thuê, người làm công là người làm công, mà quay trở lại gọi nhau bằng những lời hỏi han dễ mến tùy theo ý thích, đã làm việc phù hợp với giới  tính nam, nữ, có sức mạnh, và sức khỏe yếu ớt, ai cũng nói với nhau rằng – “Các vị hãy làm việc này, và việc này”. Thậm chí, những người ấy cũng làm việc tùy thuộc vào năng lực sự ưa thích của bản thân.

Tena vuttaṃ — “ye icchiṃsu, te akaṃsu; ye na icchiṃsu, na te akaṃsu. yaṃ icchiṃsu, taṃ akaṃsu; yaṃ na icchiṃsu, na taṃ akaṃsū”ti. Sappitelanavanītadadhimadhuphāṇitena ceva so yañño niṭṭhānamagamāsīti rājā kira bahinagarassa catūsu dvāresu antonagarassa ca majjheti pañcasu ṭhānesu mahādānasālāyo kārāpetvā ekekissāya sālāya satasahassaṃ satasahassaṃ katvā divase divase pañcasatasahassāni vissajjetvā sūriyuggamanato paṭṭhāya tassa tassa kālassa anurūpehi sahatthena suvaṇṇakaṭacchuṃ gahetvā paṇītehi sappitelādisammisseheva yāgukhajjakabhattabyañjanapānakādīhi mahājanaṃ santappesi. Bhājanāni pūretvā gaṇhitukāmānaṃ tatheva dāpesi. Sāyaṇhasamaye pana vatthagandhamālādīhi sampūjesi. Sappiādīnaṃ pana mahācāṭiyo pūrāpetvā — “Yo yaṃ paribhuñjitukāmo, so taṃ paribhuñjatū”ti anekasatesu ṭhānesu ṭhapāpesi. Taṃ sandhāya vuttaṃ — “Sappitelanavanītadadhimadhuphāṇitena ceva so yañño niṭṭhānamagamāsī”ti.

Bởi thế, ngài đã nói rằng – “những người nào đã muốn làm thì họ sẽ làm; những người nào đã không muốn làm thì họ sẽ không làm. Việc gì họ đã muốn thì họ sẽ làm việc ấy; việc gì họ đã không muốn thì họ sẽ không làm việc ấy.” Và lễ hiến tế ấy đã đi đến sự hoàn tất với bơ lỏng, dầu ăn, bơ tươi, sữa chua, mật ong, và đường mía: Được biết đức vua ra lệnh cho xây dựng đại bố thí đường ở năm khu vực là ở bốn cổng ngoài thành và ở giữa bên trong thành, ở mỗi bố thí đường, đã bố trí ngân sách cả trăm ngàn ở mỗi nơi, mỗi ngày bố thí năm trăm ngàn, bắt đầu từ lúc mặt trời mộc đã cầm lấy  cái vá vàng bằng chính tay của ngài để bố thí cho đại chúng đầy đủ với cháo, thức ăn loại cứng, loại mềm, cơm, món ăn phụ tùng, và món ca-ri v.v, cùng với bơ lỏng và bơ đặc v.v, loại thượng hạng thích hợp vào thời gian ấy, đối với người có mong muốn mang đi cũng làm theo chính cách thức ấy cho tới khi đầy vật chứa đựng. Còn vào buổi chiều lễ bái với vải vóc, vật thơm và tràng hoa v.v, còn cái chum lớn để đựng bở lỏng v.v, cho đổ đầy chum bố trí ở hàng trăm chỗ, với chủ ý rằng – “người nào muốn thọ dụng thứ nào, người ấy hãy thọ dụng thứ ấy.” Ngài muốn đề cập đến nguyên nhân đó mới nói rằng: “Và lễ tế đàn ấy đã đi đến sự hoàn tất với bơ lỏng, dầu ăn, bơ tươi, sữa chua, mật ong, và đường mía.”

346. Pahūtaṃ sāpateyyaṃ ādāyāti bahuṃ dhanaṃ[15] gahetvā. Te kira cintesuṃ — “Ayaṃ rājā sappitelādīni janapadato anāharāpetvā attano santakameva nīharitvā mahādānaṃ deti. Amhehi pana ‘rājā na kiñci āharāpetī’ti na yuttaṃ tuṇhī bhavituṃ. Na hi rañño ghare dhanaṃ akkhayadhammameva, amhesu ca adentesu ko añño rañño dassati, handassa dhanaṃ upasaṃharāmā”ti te gāmabhāgena ca nigamabhāgena ca nagarabhāgena ca sāpateyyaṃ saṃharitvā[16] sakaṭāni pūretvā rañño upahariṃsu. Taṃ sandhāya — “pahūtaṃ sāpateyyan”tiādimāha.

346. Đã mang theo vô sô tài sản: đã mang theo rất nhiều tài sản. Được biết những người ấy nghĩ rằng – “Đức vua này không cho mang bơ lỏng và dầu v.v, đến từ nông thôn, chỉ được mang những món thuộc sở hữu của đức vua ra để làm đại lễ bố thí, việc mà chúng tôi giữ im lặng với suy nghi rằng – ‘Đức vua không cho chúng ta mang bất cứ thứ gì đến’ không thích hợp. Bởi vì, tài sản trong tư gia của đức vua sẽ không cạn kiệt một cách tự nhiên, khi chúng ta không cho thì ai khác sẽ dâng lên cho đức vua, thôi được rồi ta sẽ gom góp tài sản dâng lên đức vua. Họ đã gom góp phần tài sản từ xóm làng, thị trấn, và thành thị chở đầy các cổ xe đưa đi dâng lên cho đức vua. Ngài muốn đề cập đến tài sản ấy mới nói rằng: “Vô số tài sản” v.v.

347. Puratthimena yaññavāṭassāti puratthimato nagaradvāre dānasālāya puratthimabhāge. Yathā puratthimadisato āgacchantā khattiyānaṃ dānasālāya yāguṃ pivitvā rañño dānasālāya bhuñjitvā nagaraṃ pavisanti evarūpe ṭhāne paṭṭhapesuṃ. Dakkhiṇena yaññavāṭassāti dakkhiṇato nagaradvāre dānasālāya vuttanayeneva dakkhiṇabhāge paṭṭhapesuṃ. pacchimuttaresupi eseva nayo.

347. Ở phía Đông hố tế đàn: Ở phần phía Đông của bố thí đường tại cổng thành hướng Đông. Tất cả mọi người đã bố trí vật thí ở nơi thích hợp, đang đi đến từ phương Đông sau khi uống nước cháo ở tại bố thí đường của các Sát-đế-lỵ, đã thọ dụng tại bố thí đường của đức vua, rồi đi vào thành phố. Ở phía Nam hố tế đàn: Mọi người đã bố trí vật thí ở phần phía Nam theo chính cách thức đã nói tại bố thí đường ở cổng thành phía Nam. Luôn cả ở phía Tây và phía Bắc có cách thức tương tự.

348. Aho yañño, aho yaññasampadāti brāhmaṇā sappiādīhi niṭṭhānagamanaṃ sutvā — “yaṃ loke madhuraṃ, tadeva samaṇo gotamo katheti, handassa yaññaṃ pasaṃsāmā”ti tuṭṭhacittā pasaṃsamānā evamāhaṃsu. Tuṇhībhūtova nisinno hotīti upari vattabbamatthaṃ cintayamāno nissaddova nisinno hoti. Abhijānāti pana bhavaṃ gotamoti idaṃ brāhmaṇo parihārena pucchanto āha. Itarathā hi — “kiṃ pana tvaṃ, bho gotama, tadā rājā ahosi, udāhu purohito brāhmaṇo”ti evaṃ ujukameva pucchayamāno agāravo viya hoti.

348. Lễ tế đàn là tuyệt vời! Sự thành tựu lễ tế đàn là tuyệt vời!: Các Bà-la-môn đã nghe được sự hoàn tất của lễ tế đàn với bơ lỏng v.v, ai cũng có suy nghĩ rằng – “Thứ nào có vị ngon ngọt ở đời, Sa-môn Gotama đã nói đến thứ ấy, thôi được rồi chúng ta sẽ ca ngợi lễ tế đàn của ngài” trong khi ca ngợi đã nói như vậy v.v. (Bà-la-môn Kūṭadanta) vẫn ngồi im lặng: vị ấy đang ngồi suy nghĩ ý nghĩa để nói tiếp tục nên mới im lặng. Bà-la-môn trong khi hỏi câu hỏi bằng cách lảng tránh câu hỏi đã nói lời này rằng: “Phải chăng ngài Gotama biết chắc rằng…” Bởi vì vị ấy hỏi theo cách khác ngay thẳng như vầy rằng: “Thưa ngài Gotama, vào thời gian ấy, ngài đã là đức vua, hay là Bà-la-môn phụ trách tế tự” như thể không tôn kính.

 

Giảng Giải Lễ Tế Đàn Trợ Giúp Cho Sự Bố Thí Thường Xuyên

349. Atthi pana, bho gotamāti — idaṃ brāhmaṇo “sakalajambudīpavāsīnaṃ uṭṭhāya samuṭṭhāya dānaṃ nāma dātuṃ garukaṃ sakalajanapado ca attano kammāni akaronto nassissati, atthi nu kho amhākampi imamhā yaññā añño yañño appasamārambhataro ceva mahapphalataro cā”ti etamatthaṃ pucchanto āha. Niccadānānīti dhuvadānāni niccabhattāni. Anukulayaññānīti — “amhākaṃ pitupitāmahādīhi pavattitānī”ti katvā pacchā duggatapurisehipi[17] vaṃsaparamparāya pavattetabbāni yāgāni, evarūpāni kira sīlavante uddissa nibaddhadānāni tasmiṃ kule[18] daliddāpi[19] na upacchindanti.

349. Bà-la-môn khi hỏi ý nghĩa này – “Việc đứng lên đứng xuống để bố thí là phận sự nặng nề của toàn thể dân chúng Jambudīpa và toàn thể người dân bản xứ khi không làm việc của mình cũng sẽ bị hủy hoại, có lễ tế đàn nào khác từ lễ tế đàn này ít sự sắp xếp hơn và có quả báo lớn hơn của chúng tôi không?” đã nói lời này – “Thưa ngài Gotama, có lễ tế đàn nào khác…Sự bố thí thường xuyên: sự bố thí thường thường, (bố thí) vật thực thường xuyên. Theo truyền thống gia tộc: Bất kỳ việc bố thí nào được vị ấy làm với suy nghĩ rằng: “Cha và ông nội v.v, của chúng tôi đã từng làm” dẫu khó khăn về sau cũng nên tiếp tục làm theo truyền thống của gia đình, được biết rằng vật thí được cúng dường cụ thể thường xuyên đến vị có giới hạnh bằng hình thức như vậy, luôn cả những hoàn cảnh khó khăn trong gia tộc cũng không dứt bỏ.

Tatridaṃ vatthu — Anāthapiṇḍikassa kira ghare pañca niccabhattasatāni dīyiṃsu. dantamayasalākāni pañcasatāni ahesuṃ. Atha taṃ kulaṃ anukkamena dāliddiyena abhibhūtaṃ, ekā tasmiṃ kule dārikā ekasalākato uddhaṃ dātuṃ nāsakkhi. Sāpi pacchā setavāhanarajjaṃ gantvā khalaṃ sodhetvā laddhadhaññena taṃ salākaṃ adāsi. Eko thero rañño ārocesi. Rājā taṃ ānetvā aggamahesiṭṭhāne ṭhapesi. Sā tato paṭṭhāya puna pañcapi salākabhattasatāni pavattesi.

Trường hợp này có câu chuyện như sau – Tương truyền trong gia đình của trưởng giả Anāthapiṇḍika mọi người cúng dường năm trăm phần trong bữa ăn thường kỳ, đã có năm trăm bữa ăn (phân phối) theo thẻ bằng ngà voi. Sau đó, gia đình ấy bị khổ chi phối do sự nghèo đói, một bé gái trong gia đình không có khả năng cúng dường nhiều hơn một que rút thăm. Chính bé gái ấy về sau đến thời kỳ đức vua Setavāhana đã cúng dâng que rút thăm ấy cùng với thóc lúa đã được rửa sạch ở sân đập lúa. Một vị trưởng lão đã trình lên đức vua. Đức vua đã đưa nàng về rồi đặt nàng vào vị trí hoàng hậu. Kể từ đó trở đi nàng cũng đã cúng dường năm trăm bữa ăn (phân phối) theo thẻ bằng ngà voi nữa.

Daṇḍappahārāti — “paṭipāṭiyā tiṭṭhatha tiṭṭhathā”ti ujuṃ[20] gantvā gaṇhatha gaṇhathāti ca ādīni vatvā dīyamānā daṇḍappahārāpi galaggāhāpi dissanti. Ayaṃ kho, brāhmaṇa, hetu … pe … mahānisaṃsatarañcāti. Ettha yasmā mahāyaññe viya imasmiṃ salākabhatte na bahūhi veyyāvaccakarehi vā upakaraṇehi vā attho atthi, tasmā etaṃ appaṭṭhataraṃ. Yasmā cettha na bahūnaṃ kammacchedavasena pīḷāsaṅkhāto samārambho atthi, tasmā appasamārambhataraṃ. Yasmā cetaṃ saṅghassa yiṭṭhaṃ pariccattaṃ, tasmā yaññanti vuttaṃ. Yasmā pana chaḷaṅgasamannāgatāya dakkhiṇāya mahāsamudde udakasseva na sukaraṃ puññābhisandassa pamāṇaṃ kātuṃ, idañca tathāvidhaṃ. Tasmā taṃ mahapphalatarañca mahānisaṃsatarañcāti veditabbaṃ.

Các sự đánh đập bằng gậy: các việc đánh đập bằng gậy gộc, việc túm lấy cổ được vị ấy nói lời nói như sau: “các ngươi hãy đứng, các ngươi hãy đứng theo thứ tự”. Hoặc là, các ngươi hãy túm lấy (cổ), các ngươi hãy túm lấy (cổ) đi thẳng rồi ra lệnh cho bố thí, trong câu “Này Bà-la-môn, đây là nhân, đây là duyên…có lợi ích lớn hơn”. Sự cần thiết bởi người thực hiện trợ giúp hoặc với rất nhiều những dụng cụ không có trong bữa ăn (phân phối) theo thẻ này, giống như trong đại lễ tế đàn, do đó vị ấy mới gọi là sử dụng ít tài sản hơn. Không có sắp xếp sẵn, là gây phiền nhiễu (người) do tác động cắt giảm việc làm của nhiều người trong việc thí này, do đó gọi là có ít sự sắp xếp hơn. Hơn nữa, việc thí này vị ấy cúng dường, dứt bỏ cho Tăng chúng, vì thế được gọi là lễ tế đàn. Lại nữa, việc thí này không phải là điều dễ dàng thực hiện để xác định quả phước do sự cúng dường nhờ hội đủ sáu yếu tố tương tự như nước trong đại dương không ai có thể ước lường được, vị này cũng như vậy, do đó vị ấy nên được biết rằng: Có quả báo lớn hơn và có lợi ích lớn hơn.

Idaṃ sutvā brāhmaṇo cintesi — idampi niccabhattaṃ uṭṭhāya samuṭṭhāya dadato divase divase ekassa kammaṃ nassati. navanavo ussāho ca janetabbo hoti, atthi nu kho itopi añño yañño appaṭṭhataro ca appasamārambhataro cāti. tasmā “atthi pana, bho gotamā”tiādimāha. Tattha yasmā salākabhatte kiccapariyosānaṃ natthi, ekena uṭṭhāya samuṭṭhāya aññaṃ kammaṃ akatvā saṃvidhātabbameva. Vihāradāne pana kiccapariyosānaṃ atthi. Paṇṇasālaṃ vā hi kāretuṃ koṭidhanaṃ vissajjetvā mahāvihāraṃ vā, ekavāraṃ dhanapariccāgaṃ katvā kāritaṃ[21] sattaṭṭhavassānipi vassasatampi vassasahassampi gacchatiyeva. Kevalaṃ jiṇṇapatitaṭṭhāne paṭisaṅkharaṇamattameva kātabbaṃ hoti. Tasmā idaṃ vihāradānaṃ salākabhattato appaṭṭhataraṃ appasamārambhatarañca hoti. Yasmā panettha suttantapariyāyena yāvadeva sītassa paṭighātāyāti ādayo navānisaṃsā vuttā, khandhakapariyāyena.

Sau khi nghe điều này vị Bà-la-môn nghĩ rằng – Khi hạng người đứng lên đứng xuống cúng dường bữa ăn thường kỳ mỗi ngày thi một số người bị mất mát việc làm, sự nỗ lực mới phải được trau dồi liên tục, lễ tế đàn nào khác từ lễ tế đàn này có việc ít sử dụng tài sản hơn, và có ít sự sặp đặt hơn, (điều ấy) có hay không? Do đó, vị ấy đã nói lời này – “Thưa ngài Gotama, có lễ tế đàn nào khác…” Trong những việc thí ấy thì bữa ăn (phân phối) theo thẻ này không có điểm kết thúc của phận sự cần thực hiện, một số người phải đứng lên đứng xuống không thể làm việc khác chỉ chuẩn bị bữa ăn (phân phối) theo thẻ, còn trong việc bố thí trú xá có điểm kết thúc của phận sự cần thực hiện. Thật vậy, việc kiến tạo ngôi nhà mái tròn hoặc việc bố thí tài sản chừng một koṭi để xây dựng đại tự, vị ấy đã bố thí tài sản một lần duy nhất để xây dựng cũng có thể trụ vững được bảy-tám năm, (hay) một trăm năm, (hay) thậm chí một ngàn năm, cũng chỉ nên tu bổ lại ở chỗ đã cũ kĩ và đã hư hỏng. Vì thế, sự bố thí trú xá này mới sử dụng ít tài sản hơn, có ít sự sắp xếp hơn trong việc bố thí bữa ăn (phân phối) theo thẻ. Hơn nữa, trong việc bố thí trú xá này ngài gọi là có chín điều lợi ích như sau: ‘chỉ nhằm diệt trừ sự lạnh v.v.’ theo  giảng giải của Kinh, nhưng theo sự giảng giải của phần Khandhaka thì ngài nói có đến mười bảy điều lợi ích.

Sītaṃ uṇhaṃ paṭihanti, tato vāḷamigāni ca.

Siriṃsape ca makase ca, sisire cāpi vuṭṭhiyo.

Tato vātātapo ghoro, sañjāto paṭihaññati.

Leṇatthañca sukhatthañca, jhāyituñca vipassituṃ.

Vihāradānaṃ saṅghassa, aggaṃ buddhena vaṇṇitaṃ.

Tasmā hi paṇḍito poso, sampassaṃ atthamattano.

Vihāre kāraye ramme, vāsayettha bahussute.

Tasmā annañca pānañca, vatthasenāsanāni ca.

Dadeya ujubhūtesu, vippasannena cetasā.

Te tassa dhammaṃ desenti, sabbadukkhāpanūdanaṃ.

Yaṃ so dhammaṃ idhaññāya, parinibbāti anāsavo”ti.[22]

Việc cúng dường trú xá đến hội chúng tỳ khưu (sẽ) ngăn ngừa được sự nóng, sự lạnh, và hơn thế nữa các loài thú dữ, các loài rắn, và các muỗi mòng, và luôn cả luôn các cơn mưa lạnh.

Từ nơi ấy, cơn gió nóng dữ dội đã sanh lên bị dội lại. Với mục đích về ẩn náu, với mục đích về sự an lạc, để thực hành thiền định, và để thực hành minh sát

(sự bố thí trú xá đến hội chúng) đã được đức Phật tán thán là tối thắng. Vì thế người sáng trí, trong khi nhìn thấy lợi ích cho mình nên cho xây dựng trú xá đẹp, nên thỉnh các bậc đa văn (nghe nhiều học rộng) ngụ tại nơi ấy. (Nên cúng dường) cơm, nước, vải vóc, và chỗ nằm ngồi đến các vị ấy.

Với tâm ý trong sạch, nên cúng dường ở các bậc có bản chất ngay thẳng. Các vị ấy thuyết Pháp đến người (thí chủ) ấy, là Pháp có sự xua tan tất cả khổ đau. Sau khi biết được Pháp ấy, người (thí chủ) ấy trong đời này không còn lậu hoặc, chứng ngộ Niết Bàn.”

Sattarasānisaṃsā vuttā. Tasmā etaṃ salākabhattato mahapphalatarañca mahānisaṃsatarañcāti veditabbaṃ. Saṅghassa pana pariccattattāva yaññoti vuccati. Idampi sutvā brāhmaṇo cintesi — “Dhanapariccāgaṃ katvā vihāradānaṃ nāma dukkaraṃ, attano santakā hi kākaṇikāpi[23] parassa duppariccajā, handāhaṃ itopi appaṭṭhatarañca appasamārambhatarañca yaññaṃ pucchāmī”ti. Tato taṃ[24] pucchanto — “atthi pana bho”tiādimāha.

Do đó, việc bố thí trú xá này nên biết rằng: có quả báo lớn hơn và có lợi ích lớn hơn việc bố thí bữa ăn (phân phối) theo thẻ. Tuy nhiên ngài gọi là lễ tế đàn là việc thí được người thí chủ cúng dường đến Tăng chúng. Bà-la-môn đã nghe chính điều này – “Sau khi thực hiện việc thí xả tài sản rồi xây dựng trú xá cúng dường (điều) khó làm,  thật vậy tiền dầu chỉ một đồng kākaṇikā (đồng tiền giá thấp) của mình cũng khó mà dứt bỏ cho người khác, thôi được rồi ta (sẽ) hỏi lễ tế đàn được sử dụng ít tài sản hơn và có ít sự sắp xếp hơn kể cả sự bố thí trú xứ này.” Vào lúc ấy trong khi hỏi về lễ tế đàn ấy mới nói rằng – “Thưa ngài Gotama, có lễ tế đàn nào khác…

350-351. Tattha yasmā sakiṃ pariccattepi vihāre punappunaṃ chādanakhaṇḍaphullappaṭisaṅkharaṇādivasena kiccaṃ atthiyeva, saraṇaṃ pana ekabhikkhussa vā santike saṅghassa vā gaṇassa vā sakiṃ gahitaṃ gahitameva hoti, natthi tassa punappunaṃ kattabbatā, tasmā taṃ vihāradānato appaṭṭhatarañca appasamārambhatarañca hoti. Yasmā ca saraṇagamanaṃ nāma tiṇṇaṃ ratanānaṃ jīvitapariccāgamayaṃ puññakammaṃ saggasampattiṃ deti, tasmā mahapphalatarañca mahānisaṃsatarañcāti veditabbaṃ. Tiṇṇaṃ pana ratanānaṃ jīvitapariccāgavasena yaññoti vuccati.

350-351. Trong số các việc thí ấy thì trú xá dù đã được bố thí cùng một lúc cũng vẫn còn có phận sự có thể thực hiện liên quan đến việc lợp mái nhà và việc tu sửa những thứ gãy đổ, sụp đổ v.v, thường xuyên, còn nơi trú ẩn được thọ nhận một lần ở trong trú xứ của một vị tỳ khưu hoặc hội chúng tỳ khưu hoặc hội nhóm, vẫn được xem là thọ nhận trọn đời do không có phận sự cần phải làm ở nơi trú ẩn ấy lập đi lập lại, vì thế chỗ trú ẩn ấy có việc sử dụng ít tài sản hơn và có ít sự sắp đặt hơn sự bố thí trú xứ. Hơn nữa, việc đi đến nương nhờ là việc làm phước cho sự thành tựu cõi trời bằng cách từ bỏ thân mạng (cúng dường thân mạng) cho Tam Bảo, do đó có thể biết rằng có quả báo lớn hơn và có lợi ích lớn hơn. Hơn nữa, việc đi đến nương nhờ này ngài gọi là lễ tế đàn, bởi liên quan đến việc từ bỏ thân mạng cho Tam Bảo.

352. Idaṃ sutvā brāhmaṇo cintesi — “attano jīvitaṃ nāma parassa pariccajituṃ dukkaraṃ, atthi nu kho itopi appaṭṭhataro yañño”ti tato taṃ pucchanto puna “atthi pana, bho gotamā”tiādimāha. Tattha pāṇātipātā veramaṇītiādīsu veramaṇī nāma virati. sā tividhā hoti — sampattavirati, samādānavirati setughātaviratīti. Tattha yo sikkhāpadāni agahetvāpi kevalaṃ attano jātigottakulāpadesādīni anussaritvā — “na me idaṃ patirūpan”ti pāṇātipātādīni na karoti, sampattavatthuṃ pariharati. Tato ārakā viramati. Tassa sā virati sampattaviratīti veditabbā.

352. Sau khi Bà-la-môn nghe điều này nghĩ rằng – “Việc từ bỏ thân mạng cho Tam Bảo là điều khó làm, lễ tế đàn có việc sử dụng ít tài sản hơn và có việc sắp xếp ít hơn,  luôn cả việc đi đến nương nhờ này vẫn còn có không? Sau đó, trong khi hỏi điều đó mới nói rằng: “Thưa ngài Gotama, có lễ tế đàn nào khác…” Ở đó, tránh xa sự sát sinh v.v, tránh xa gọi là sự kiêng tránh. Việc tránh xa ấy có 3 loại – (1) sự kiêng tránh do đối đầu, (2) sự kiêng tránh do thọ trì, (3) sự kiêng tránh do đoạn trừ. Trong số ba sự kiêng tránh ấy người nào dầu không thọ trì điều giới, nhưng nghĩ đến dòng dõi, gia đình, và đất nước v.v, của chính mình rằng – “việc làm này thật không phù hợp đối với tôi” rồi không thực hiện việc sát sanh, tránh xa vật (có thể) chạm đến, tránh xa những vật ấy, việc kiêng cứ của người ấy nên biết là ‘sự kiêng tránh do đối đầu’.

“Ajjatagge jīvitahetupi pāṇaṃ na hanāmī”ti vā “pāṇātipātā viramāmī”ti vā “veramaṇiṃ samādiyāmī”ti vā evaṃ sikkhāpadāni gaṇhantassa pana virati samādānaviratīti veditabbā.

Còn sự kiêng tránh của người thọ trì giới hạnh như vầy rằng: “Kể từ hôm nay trở đi tôi không sát sanh dù cho vì lý do mạng sống”, hoặc “tôi xin tránh xa sự sát-sanh”, hoặc “tôi xin thọ trì việc kiêng tránh” nên biết là ‘sự kiêng tránh do thọ trì’.

Ariyasāvakānaṃ pana maggasampayuttā virati setughātavirati nāma. Tattha purimā dve viratiyo yaṃ voropanādivasena vītikkamitabbaṃ jīvitindriyādivatthu, taṃ ārammaṇaṃ katvā pavattanti. Pacchimā nibbānārammaṇāva. Ettha ca yo pañca sikkhāpadāni ekato gaṇhati, tassa ekasmiṃ bhinne sabbāni bhinnāni honti. Yo ekekaṃ gaṇhati, so yaṃ vītikkamati, tadeva bhijjati. Setughātaviratiyā pana bhedo nāma natthi, bhavantarepi hi ariyasāvako jīvitahetupi neva pāṇaṃ hanati na suraṃ pivati. sacepissa surañca khīrañca missetvā mukhe pakkhipanti, khīrameva pavisati, na surā. Yathā kiṃ? Koñcasakuṇānaṃ khīramissake udake[25] khīrameva pavisati? Na udakaṃ. Idaṃ yonisiddhanti ce, idaṃ dhammatāsiddhanti[26] ca veditabbaṃ. Yasmā pana saraṇagamane diṭṭhiujukakaraṇaṃ nāma bhāriyaṃ. Sikkhāpadasamādāne pana viratimattakameva. Tasmā etaṃ yathā vā tathā vā gaṇhantassāpi sādhukaṃ gaṇhantassāpi appaṭṭhatarañca appasamārambhatarañca. Pañcasīlasadisassa pana dānassa abhāvato ettha mahapphalatā mahānisaṃsatā ca veditabbā. Vuttañhetaṃ —

Hơn nữa, còn sự ngăn trừ tương ưng với đạo của các vị thánh đệ tử gọi là ‘sự kiêng tránh do đoạn trừ’. Trong cả ba sự kiêng tránh ấy thì hai sự kiêng tránh ban đầu thực hiện trên vật-vatthu có mạng quyền v.v, có thể vi phạm do tác động tước đoạt mạng sống v.v, trở thành đối tượng vận hành, sự kiêng tránh sau có Nibbāna làm đối tượng. Trong những sự kiêng tránh này người nào giữ năm điều học chung với nhau, khi một điều học giới bị phá vỡ thì toàn bộ học giới của người ấy đều bị phá vỡ. Còn đối với sự kiêng tránh do đoạn trừ này thì không có việc bị phá vỡ. Bởi vì vị thánh đệ tử không sát hại sinh mạng dù cho vì lý do mạng sống, luôn cả việc uống rượu. Thậm chí nếu như một người pha rượu và sữa rồi đổ vào miệng của vị thánh đệ tử ấy thì chỉ có sữa đi vào, còn rượu không thể lọt vào. Giống như điều gì? Được biết rằng: giống như nước hòa với sữa, chỉ có sữa đi vào miệng của loài sếu, nước không thể vào, điều này nên biết rằng – ‘Thành tựu theo sự tục sanh’, và điều này nên biết rằng – ‘Thành tựu theo tự nhiên’. Hơn nữa, trong việc đi đến nương nhờ là thực hiện tri kiến chánh trực trở thành gánh nặng. Tuy nhiên, trong việc thọ trì học giới chỉ đơn thuần là việc kiêng tránh. Vì vậy, việc thọ trì học giới ấy mới sử dụng ít tài sản hơn và có ít sự sắp xếp hơn đối với người thọ trì (giới) tương xứng (hay) người giữ giới tốt đẹp. Hơn nữa, trong việc thọ trì giới học giới này nên biết rằng: có quả báo lớn hơn và có lợi ích lớn hơn bởi vì việc bố thí ngang bằng với năm giới là không có. Bởi điều này đã được đức Thế Tôn nói rằng –

“Pañcimāni, bhikkhave, dānāni mahādānāni aggaññāni rattaññāni vaṃsaññāni porāṇāni asaṃkiṇṇāni asaṃkiṇṇapubbāni na saṅkiyanti na saṅkiyissanti appaṭikuṭṭhāni[27] samaṇehi brāhmaṇehi[28] viññūhi. katamāni pañca? Idha, bhikkhave, ariyasāvako pāṇātipātaṃ pahāya pāṇātipātā paṭivirato hoti. Pāṇātipātā paṭivirato, bhikkhave, ariyasāvako aparimāṇānaṃ sattānaṃ abhayaṃ deti, averaṃ deti abyāpajjhaṃ[29] deti. Aparimāṇānaṃ sattānaṃ abhayaṃ datvā averaṃ datvā abyāpajjhaṃ datvā aparimāṇassa abhayassa averassa abyāpajjhassa bhāgī hoti. Idaṃ, bhikkhave, paṭhamaṃ dānaṃ mahādānaṃ … pe … viññūhīti.

Này các tỳ khưu, có năm bố thí này, là đại bố thí, được biết là tối thắng, được biết là lâu ngày, được biết là truyền thống gia tộc, được biết là truyền thống cổ xưa không có ai ghét bỏ, chưa từng có ai ghét bỏ, và cũng không có bất cứ ai ghét bỏ, sẽ không ghét bỏ, không bị những Sa-môn, những Bà-la-môn có trí khinh thường. Thế nào là năm? Ở đây, này các tỳ khưu, vị thánh đệ tử dứt bỏ sát sanh, từ bỏ sát sanh. Này các tỳ khưu, vị thánh đệ tử từ bỏ sát sanh, đem cho không sợ hãi cho vô lượng chúng sanh, đem cho không hận thù cho vô lượng chúng sanh, đem cho không hại cho vô lượng chúng sanh; Sau khi cho vô lượng chúng sanh, không sợ hãi, không hận thù, không sân hận, vị ấy sẽ được san sẻ vô lượng không sợ hãi, không hận thù, không sân hận. Này các tỳ khưu, đây là bố thí thứ nhất là đại bố thí …nt…không bị những Sa-môn, những Bà-la-môn có trí khinh thường.

Puna caparaṃ, bhikkhave, ariyasāvako adinnādānaṃ pahāya … pe … kāmesumicchācāraṃ pahāya … pe … musāvādaṃ pahāya … pe … surāmerayamajjapamādaṭṭhānaṃ pahāya … pe … imāni kho, bhikkhave, pañca dānāni mahādānāni aggaññāni … pe … viññūhī”ti.[30]

Lại nữa, này các tỳ khưu, vị thánh đệ tử đã dứt bỏ lấy của không cho …nt…đã dứt bỏ tà hạnh trong các dục …nt… đã dứt bỏ nói dối …nt… đã dứt bỏ đắm say rượu men, rượu nấu, từ bỏ đắm say rượu men, rượu nấu …nt… Này các tỳ khưu, đây là bố thí thứ năm, là đại bố thí,… không bị những Sa-môn, những Bà-la-môn có trí khinh thường.

Idañca pana sīlapañcakaṃ — “Attasinehañca jīvitasinehañca pariccajitvā rakkhissāmī”ti samādinnatāya yaññoti vuccati. Tattha kiñcāpi pañcasīlato saraṇagamanameva jeṭṭhakaṃ, idaṃ pana saraṇagamaneyeva patiṭṭhāya rakkhitasīlavasena mahapphalanti vuttaṃ.

Và hơn nữa năm giới này ngài gọi là hiến tế bởi vì cần phải thọ trì với suy nghĩ rằng: “Sau khi dứt bỏ sự luyến ái trong tự ngã và sự luyến ái mạng sống tôi sẽ gìn giữ”. Ở đó, chính việc đi đến nương nhờ là to lớn hơn năm giới, thật sự thì năm giới này ngài nói rằng: có quả báo lớn hơn do mãnh lực của giới mà ngượi thọ giới cần phải được an trú vào chính việc đi đến nương nhờ rồi mới thọ trì.

353. Idampi sutvā brāhmaṇo cintesi — “pañcasīlaṃ nāma rakkhituṃ garukaṃ, atthi nu kho aññaṃ kiñci īdisameva hutvā ito appaṭṭhatarañca mahapphalatarañcā”ti. tato taṃ pucchanto punapi — “atthi pana, bho gotamā”tiādimāha. Athassa bhagavā tividhasīlapāripūriyaṃ ṭhitassa paṭhamajjhānādīnaṃ yaññānaṃ appaṭṭhatarañca mahapphalatarañca dassetukāmo buddhuppādato paṭṭhāya desanaṃ ārabhanto “idha brāhmaṇā”tiādimāha. Tattha yasmā heṭṭhā vuttehi guṇehi samannāgato paṭhamaṃ jhānaṃ, paṭhamajjhānādīsu ṭhito dutiyajjhānādīni nibbattento na kilamati, tasmā tāni appaṭṭhāni appasamārambhāni. Yasmā panettha paṭhamajjhānaṃ ekaṃ kappaṃ brahmaloke āyuṃ deti. dutiyaṃ aṭṭhakappe. tatiyaṃ catusaṭṭhikappe. catutthaṃ pañcakappasatāni. Tadeva ākāsānañcāyatanādisamāpattivasena bhāvitaṃ vīsati, cattālīsaṃ, saṭṭhi, caturāsīti ca kappasahassāni āyuṃ deti; tasmā mahapphalatarañca mahānisaṃsatarañca. Nīvaraṇādīnaṃ pana paccanīkānaṃ dhammānaṃ pariccattattā taṃ yaññanti veditabbaṃ.

353. Sau khi vị Bà-la-môn nghe được chính điều này đã suy nghĩ rằng – “Việc thọ trì năm giới cũng là gánh nặng, điều gì khác nữa được thực hiện theo chính cách này, có việc sử dụng ít tài sản hơn và có quả báo lớn hơn năm giới này có tồn tại hay không?” Sau đó, trong khi hỏi đến điều đó vị ấy mới hỏi thêm rằng: “Thưa ngài Gotama, có lễ tế đàn nào khác…” Sau đó, đức Thế Tôn có ý muốn thuyết giảng tính chất lễ tế đàn có Sơ thiền v.v, của vị vững trú trong sự tròn đủ bởi 3 loại giới là thứ được sử dụng ít tài sản hơn và có quả báo lớn hơn cho vị Bà-la-môn ấy, (rồi) bắt đầu thuyết giảng Pháp thoại: “Ở đầy, này Bà-la-môn, Như Lai hiện khởi ở thế gian…” Trong câu đó, hạng người có sự hội đủ với đức hạnh đã được nói ở phần đầu v.v, vững trú ở Sơ thiền v.v, rồi (thực hành) cho Nhị thiền sanh khởi không khó khăn, do đó, các (tầng) thiền ấy mới có việc sử dụng ít tài sản hơn và có ít sự sắp xếp hơn. Hơn nữa, các (tầng) thiền ấy thì Sơ thiền cho tuổi thọ ở Phạm Thiên giới là 1 đại kiếp, Sơ thiền là 8 đại kiếp, Tam thiền là 64 đại kiếp, Tứ thiền là 500 đại kiếp, và chính Tứ thiền ấy mà hành giả phát triển do mãnh lực của sự thành tựu có Không-vô-biên-xứ v.v, cho tuổi thọ suốt 20,000 đại kiếp, 50,000 đại kiếp, 84,000 đại kiếp; do đó, thiền có quả báo lớn hơn và có lợi ích lớn hơn. Hơn nữa, (tầng) thiền ấy nên biết rằng là tế đàn do từ bỏ được các Pháp đối nghích có các Pháp ngăn che v.v.

Vipassanāñāṇampi yasmā catutthajjhānapariyosānesu guṇesu patiṭṭhāya nibbattento na kilamati, tasmā appaṭṭhaṃ appasamārambhaṃ; vipassanāsukhasadisassa pana sukhassa abhāvā mahapphalaṃ. Paccanīkakilesapariccāgato yaññoti. Manomayiddhipi yasmā vipassanāñāṇe patiṭṭhāya nibbattento na kilamati, tasmā appaṭṭhā appasamārambhā; attano sadisarūpanimmānasamatthatāya mahapphalā. attano paccanīkakilesapariccāgato yañño. Iddhividhañāṇādīnipi yasmā manomayañāṇādīsu patiṭṭhāya nibbattento na kilamati, tasmā appaṭṭhāni appasamārambhāni, attano attano paccanīkakilesappahānato yañño. Iddhividhaṃ panettha nānāvidhavikubbanadassanasamatthatāya. Dibbasotaṃ devamanussānaṃ saddasavanasamatthatāya; Cetopariyañāṇaṃ paresaṃ soḷasavidhacittajānanasamatthatāya; Pubbenivāsānussatiñāṇaṃ icchiticchitaṭṭhānasamanussaraṇasamatthatāya; dibbacakkhu icchiticchitarūpadassanasamatthatāya; Āsavakkhayañāṇaṃ atipaṇītalokuttaramaggasukhanipphādanasamatthatāya mahapphalanti veditabbaṃ. Yasmā pana arahattato visiṭṭhataro añño yañño nāma natthi, tasmā arahattanikūṭeneva desanaṃ samāpento — “ayampi kho, brāhmaṇā”tiādimāha.

Luôn cả Minh Sát bởi vì hành giả đã vững trú trong các ân đức có Tứ thiền là chặng cuối cùng khiến cho sanh khởi cũng không khó khăn, vì thế mới có việc sử dụng ít tài sản hơn và có ít sự sắp xếp hơn; hơn nữa Minh Sát trí có quả báo lớn hơn bởi vì không có lạc nào ngang bằng với lạc sảnh lên từ Minh Sát, ngài gọi là tế đàn bởi dứt bỏ các kẻ thù phiền não. Thậm chí thần thông do ý tạo (manomayiddhi) hành giả đã được thiết lập trong Minh Sát trí khiến cho sanh khởi không khó khăn, vì thế thần thông do ý tạo có việc sử dụng ít tài sản hơn và có ít sự sắp xếp hơn, có quả báo lớn hơn bởi có thể hóa hiện hình dáng như hình dáng của chính mình. Gọi là tế đàn bởi dứt bỏ được phiền não là kẻ thù của bản thân. Kể cả trí về thể loại của thần thông (iddhividhañāṇa) hành giả đã được thiết lập ở thần thông do ý tạo khiến cho sanh khởi không khó khăn, vì thế trí về thể loại của thần thông có việc sử dụng ít tài sản hơn và có ít sự sắp xếp hơn, gọi là tế đàn bởi dứt bỏ được phiền não là phiền não của mỗi các nhân. Cũng trong những trí này trí về thể loại của thần thông nên biết rằng có quả báo lớn hơn bởi vì có khả năng thực hiện hóa hiện bằng nhiều cách khác biệt. Thiên nhĩ thông nên biết rằng có quả báo lớn hơn bởi vì có thể lắng nghe được âm thanh Chư thiền và loài người; Trí biết được tâm nên biết rằng có quả báo lớn hơn bởi vì khả năng nhận biết được mười sáu loại tâm của người khác; Trí nhớ về các kiếp sống trước nên biết rằng có quả báo lớn hơn bởi có thể nhớ được nơi mà mình muốn và ước muốn được. Thiên nhãn thông nên biết rằng có quả báo lớn hơn bởi có thể nhìn thấy hình dáng mà bản thân muốn được nhìn thấy và ước muốn được; Lậu tận trí nên biết rằng có quả báo lớn hơn bởi có thể khiến cho sự an lạc sanh lên từ Siêu Thế Đạo vô cùng vi tế được thành tựu. Những tế đàn khác gọi là tối thượng hơn phẩm vị A-ra-hán là không có, vì thế đức Thế Tôn trong khi thuyết giảng Pháp thoại với đỉnh cao là phẩm vị A-ra-hán mới thuyết rằng – “Này Bà-la-môn, đây thật sự là lễ tế đàn…

 

Giảng Giải Về Việc Tuyên Bố Trở Thành Cận Sự Nam của Bà-la-môn Kūṭadanta

354-358. Evaṃ vutteti evaṃ bhagavatā vutte desanāya pasīditvā saraṇaṃ gantukāmo kūṭadanto brāhmaṇo — ‘Etaṃ abhikkantaṃ bho, gotamā’tiādikaṃ vacanaṃ avoca. Upavāyatūti upagantvā sarīradarathaṃ nibbāpento tanusītalo vāto vāyatūti. Idañca pana vatvā brāhmaṇo purisaṃ pesesi — “Gaccha, tāta, yaññavāṭaṃ[31] pavisitvā sabbe te pāṇayo bandhanā mocehī”ti. So “sādhū”ti paṭissuṇitvā tathā katvā āgantvā “muttā bho, te pāṇayo”ti ārocesi. Yāva brāhmaṇo taṃ pavattiṃ na suṇi, na tāva bhagavā dhammaṃ desesi. Kasmā? “Brāhmaṇassa citte ākulabhāvo atthī”ti. Sutvā panassa “bahū vata me pāṇā mocitā”ti cittacāro vippasīdati. Bhagavā tassa vippasannamanataṃ ñatvā dhammadesanaṃ ārabhi. Taṃ sandhāya — “atha kho bhagavā”tiādi vuttaṃ. Puna ‘kallacittan’tiādi ānupubbikathānubhāvena vikkhambhitanīvaraṇataṃ sandhāya vuttaṃ. sesaṃ uttānatthamevāti.

354-358. Khi được nói như vậy: Khi được đức Thế Tôn nói như vậy thì Bà-la-môn Kūṭadanta đã được tịnh tín với Pháp thoại, có ý muốn đi đến nương nhờ Tam Bảo đã nói lời này rằng: “Thưa ngài Gotama, lời nói này thật là tuyệt vời!” (Luồng gió) hãy thổi đến: luồng gió mát sẽ xua đi sự khó chịu ở thân hãy thổi hiu hiu chạm vào thân. Hơn nữa, khi vị Bà-la-môn nói lời này mới gửi người đi để nói rằng: “Này ông hãy đi đến hố tế đàn, hãy thả hết tất cả các loài vật ấy khỏi nơi giam cầm.” Vị ấy đã nói ‘lành thay’ (và) thực hiện theo (lời nói ấy) rồi trở lại nói rằng: “Thưa ngài, những loài vật ấy tất cả đều đã được thả”. Cho đến khi nào Bà-la-môn không hài lòng với diễn biến ấy, cho đến khi ấy đức Thế Tôn không thuyết Pháp. Tại sao? “Bởi vì trong tâm của vị Bà-la-môn vẫn còn sự lộn xộn.” Nhưng khi vừa nghe rằng: “Quả thật, rất nhiều loài vật được trả tự do” tiến trình tâm của vị Bà-la-môn cũng trở nên trong sáng. Sau khi đức Thế Tôn biết được rằng: tâm của vị Bà-la-môn đã trong sáng ngài mới bắt đầu thuyết giảng Pháp thoại. Ngài muốn đề cập đến nguyên nhân ấy mới nói rằng – “Khi ấy, đức Thế Tôn…Có tâm đã sẵn sàng: ngài nói liên quan đến (trạng thái) ngăn che bị chế ngự nhờ vào oai lực của việc thuyết Pháp theo thứ lớp. Những từ còn lại đều có ý nghĩa đơn giản.

Giải Thích Kinh Kūṭadanta được kết thúc – Kinh thứ năm.

Trong Chú Giải Trường Bộ Kinh là Sumaṅgalavilāsī.



[1] Sattasattasatikaṃ yāgaṃ (Ka)

[2] Ratho raṭṭhanti (Sī)

[3] Saṅkharitanti (Ka)

[4] Saṅkharitvā (Ka)

[5] Ākulo (Sī, Syā)

[6] …muṇḍakakaraṇaṃ (Syā), …muṇḍikakaraṇaṃ (Syā)

[7] Samūhanissāmāti (Sī)

[8] jā. 1.1.4

[9] Mudamodamānā (Sī)

[10] saṃ. ni. 5.4

[11] Yena tena (Sī)

[12] Anupasaṅkamitabbaṃ (Sī)

[13] Labhissatīti (Syā)

[14] Yathārucivaseneva (Syā)

[15] Bahudhanaṃ (Syā), pahūtaṃ dhanaṃ (Ka)

[16] Saṃgharitvā (Sī)

[17] Pacchānugatapurisehipi (Ka)

[18] Kulesu (Sī, Ka)

[19] Daḷiddāpi (Sī), daliddepi (Ka)

[20] U jukaṃ (Sī, Syā)

[21] Kāretuṃ (Ka)

[22] cūḷava. 295

[23] Santakakākaṇikāpi (Sī

[24] Tato paraṃ (Ka)

[25] Khīramissa-udake (Sī)

[26] Idampi dhammatāsiddhanti (Sī)

[27] Appatikuṭṭhāni (Sī)

[28] Samaṇehi vā brāhmaṇehi vā (Syā, Ka)

[29] Abyāpajjhaṃ (Sī, Syā), abyāpajjaṃ (Ka)

[30] a. ni. 8.39

[31] Yaññāvāṭaṃ (sabbattha)