Giải Thích Kinh Ambaṭṭha
(Ambaṭṭhasuttavaṇṇanā )Xem Trường Bộ Kinh – Kinh Ambattha
Giải Thích Về Việc Ngài Đi Quãng Đường Xa
254. Evaṃ me sutaṃ … pe … kosalesūti ambaṭṭhasuttaṃ. Tatrāyaṃ apubbapadavaṇṇanā. Kosalesūti kosalā nāma jānapadino[1] rājakumārā. Tesaṃ nivāso ekopi janapado rūḷhīsaddena kosalāti vuccati, tasmiṃ kosalesu janapade. Porāṇā panāhu — Yasmā pubbe mahāpanādaṃ rājakumāraṃ nānānāṭakādīni disvā sitamattampi akarontaṃ sutvā rājā āha — “Yo mama puttaṃ hasāpeti, sabbālaṅkārena naṃ alaṅkaromī”ti. Tato naṅgalānipi chaḍḍetvā mahājanakāye sannipatite manussā sātirekāni[2] sattavassāni nānākīḷāyo dassetvāpi taṃ hasāpetuṃ nāsakkhiṃsu, tato sakko devarājā nāṭakaṃ pesesi, so dibbanāṭakaṃ dassetvā hasāpesi. Atha te manussā attano attano vasanokāsābhimukhā pakkamiṃsu. Te paṭipathe mittasuhajjādayo disvā paṭisanthāraṃ karontā — “kacci bho kusalaṃ, kacci bho kusalan”ti āhaṃsu. Tasmā taṃ “kusalan”ti vacanaṃ upādāya so padeso kosalāti vuccatīti.
359. Bài Kinh Ambaṭṭha: Tôi đã nghe như vầy …nt… Một thời đức Thế Tôn trong lúc du hành ở xứ Kosala. Trong bài Kinh Ambaṭṭha ấy được giải thích theo tuần tự như sau – Ở xứ Kosala: xứ sở thuộc nơi cư ngụ của các vương tử người bản địa, vị có tên là Kosala, luôn cả người bản địa ngài cũng gọi là Kosala (danh từ số nhiều) do từ ngữ được giải rộng, trong xứ của của các Kosala đó. Các bô lão đã nói rằng – Trước đây đức vua đã nghe rằng: vương tử Mahāpanāda, vị được xem các vở kịch khác nhau, mặc dầu vậy (vị ấy) cũng không hề nở nụ cười, (đức vua) mới truyền lệnh rằng “Người nào có thể làm cho con của trẫm cười, trẫm sẽ lấy tất cả đồ trang sức trang điểm cho người ấy.” Kể từ đó trở đi, đại chúng ai cũng vứt bỏ tất cả, luôn cả cái cày đi đến hội họp, mọi người cùng nhau thể hiện các vở kịch khác nhau, hơn bảy năm trôi qua, cũng không thể làm cho vương tử ấy cười được, khi đó vua trời Sakka gửi một đoàn biểu diễn kịch đến để trình diễn, ngài trình diễn một vở kịch của cõi trời khiến cho vương tử bậc cười. Khi ấy mọi người chia tay nhau trở về nhà của mình, đã gặp những người bạn và các đi ngược hướng, tỏ vẻ thân thiện rồi hỏi rằng – ‘này các ông, có điều gì tốt đẹp phải chăng? này các ông, có điều gì tốt đẹp phải chăng?’ Vì thế, do dựa vào lời nói ‘tốt đẹp, tốt đẹp’ đó nên xứ ấy được gọi là ‘Kosala’.
Cārikaṃ caramānoti addhānagamanaṃ gacchanto. Cārikā ca nāmesā bhagavato duvidhā hoti — turitacārikā ca, aturitacārikā ca. Tattha dūrepi bodhaneyyapuggalaṃ disvā tassa bodhanatthāya sahasā gamanaṃ turitacārikā nāma, sā mahākassapassa paccuggamanādīsu daṭṭhabbā. Bhagavā hi mahākassapattheraṃ paccuggacchanto[3] muhuttena tigāvutaṃ maggaṃ agamāsi. Āḷavakassatthāya tiṃsayojanaṃ, tathā aṅgulimālassa. Pakkusātissa pana pañcacattālīsayojanaṃ. Mahākappinassa vīsayojanasataṃ. Dhaniyassatthāya sattayojanasatāni agamāsi. Dhammasenāpatino saddhivihārikassa vanavāsītissasāmaṇerassa tigāvutādhikaṃ vīsayojanasataṃ.
Trong khi đang du hành: Trong khi một quãng đường dài, thông thường việc đi du hành của đức Thế Tôn có 2 loại là – ‘vội vã khởi hành và không vội vã khởi hành’. Trong hai loại ấy, sau khi nhìn thấy chúng sanh có khả năng giác ngộ dầu ở một nơi xa (ngài sẽ) vội khởi hành vì lợi ích (thuyết Pháp) cho việc giác ngộ của vị ấy gọi là vội vã khởi hành. Việc vội vã khởi hành có thể thấy như trường hợp Ngài đi ra tiếp đón trưởng lão Mahākassapa v.v. Thật vậy, đức Thế Tôn khi ra tiếp đón trưởng lão Mahākassapa thì ngài phải đi suốt quãng đường dài 3 dậm trong chốc lát. Ngài đi (quãng đường dài) 30 do-tuần vì lợi ích (trợ giúp) cho Dạ-xoa Āḷavaka, vì lợi ích (trợ giúp) cho Aṅgulimāla cũng tương tự. (Quãng đường) 45 do-tuần vì lợi ích (trợ giúp) cho Pukkusāti, hai ngàn do-tuần vì lợi ích (trợ giúp) Mahākappina, bảy trăm do-tuần vì lợi ích (trợ giúp) Trưởng lão Dhaniya một trăm hai mươi do-tuần và 3 dặm vì lợi ích (trợ giúp) Sa-di Vanavāsītissa học trò của vị Tướng Quân Chánh Pháp trưởng lão Sārīputta.
Ekadivasaṃ kira thero — “Tissasāmaṇerassa santikaṃ, bhante, gacchāmī”ti āha. Bhagavā — “Ahampi gamissāmī”ti vatvā āyasmantaṃ ānandaṃ āmantesi — “Ānanda, vīsatisahassānaṃ chaḷabhiññānaṃ ārocehi, bhagavā kira vanavāsissa tissasāmaṇerassa santikaṃ gamissatī”ti. Tato dutiyadivase vīsatisahassakhīṇāsavaparivāro ākāse uppatitvā vīsatiyojanasatamatthake tassa gocaragāmadvāre otaritvā cīvaraṃ pārupi. Taṃ kammantaṃ gacchamānā manussā disvā — “satthā no āgato, mā kammantaṃ agamitthā”ti vatvā āsanāni paññapetvā yāguṃ datvā pātarāsabhattaṃ[4] karontā — “Kuhiṃ, bhante, bhagavā gacchatī”ti daharabhikkhū pucchiṃsu. Upāsakā na bhagavā aññattha gacchati, idheva tissasāmaṇerassa dassanatthāyāgatoti. Te — “amhākaṃ kulūpakassa kira therassa dassanatthāya satthā āgato, no vata no thero oramattako”ti somanassajātā ahesuṃ.
Kể rằng một ngày nọ Trưởng lão đã nói (cùng đức Thế Tôn) rằng – “Thưa Ngài, con đi đến trú xứ của Sa-di Tissa.” Đức Thế Tôn đáp rằng: “Vậy Ta cũng sẽ đi” sau khi nói lời ấy Ngài đã cho gọi đại đức Ānanda – “Này Ānanda, con hãy nói với hai mươi ngàn vị tỳ khưu chứng đạt sáu thắng trí, đức Thế Tôn sẽ đến trú xứ của sa-di Tissa vị chỉ ưa thích sống trong rừng.” Sau đó vào ngày thứ hai đức Thế Tôn có hai mươi ngàn bậc Lậu Tận tháp tùng cùng bay lên không trung, (và) đã hạ xuống nơi cổng vào làng nơi đi khất thực của vị sa-di đó, khoảng cách giữa hai nơi xa một trăm hai mươi do-tuần đã trùm lên tấm y. Dân làng khi đi làm đã nhìn thấy đức Thế Tôn họ bảo với nhau rằng: “Bậc Đạo Sư đã đến, chúng ta không nên đi vào lúc này”, (mọi người) đã cùng nhau sắp đặt chỗ ngồi, đã cúng dường cháo, khi đã dùng bữa ăn sáng – rồi hỏi nhóm tỳ khưu trẻ rằng: “Thưa ngài, đức Thế Tôn (sẽ) đi đâu?” Này các thiện nam, và các tín nữ đức Thế Tôn (sẽ) không đi đến nơi khác, Ngài đi đến vì mục đích chiêm ngưỡng sa-di Tissa ở chính nơi đây. Mọi người ai cũng khởi sanh niềm hoan hỷ rằng – “Tương truyền rằng: Bậc Đạo Sư cũng vì mục đích chiêm ngưỡng vị trưởng lão, vị thân cận (thường lui tới) với các gia đình của chúng ta, vị trưởng lão của chúng ta không phải người tầm thường.”
Atha kho bhagavato bhattakiccapariyosāne sāmaṇero gāme piṇḍāya caritvā — “Upāsakā, mahābhikkhusaṅgho”ti pucchi. Athassa te “satthā, bhante, āgato”ti ārocesuṃ. So bhagavantaṃ upasaṅkamitvā piṇḍapātena āpucchi. Satthā tassa pattaṃ hatthena gahetvā — “Alaṃ, tissa, niṭṭhitaṃ bhattakiccan”ti āha. Tato upajjhāyaṃ āpucchitvā attano pattāsane nisīditvā bhattakiccamakāsi. Athassa bhattakiccapariyosāne satthā maṅgalaṃ vatvā nikkhamitvā gāmadvāre ṭhatvā — “kataro te, tissa, vasanaṭṭhānaṃ gatamaggo”ti āha. Ayaṃ bhagavāti. Maggaṃ desayamāno purato yāhi tissāti. Bhagavā kira sadevakassa lokassa maggadesakopi samāno sakale tigāvute magge ‘sāmaṇeraṃ daṭṭhuṃ lacchāmī’ti taṃ maggadesakaṃ akāsi.
Sau đó, khi đức Thế Tôn thọ dụng vật thực xong, vị sa-di đã đi khất thực ở trong làng đến rồi hỏi rằng: “Này chư thiện tín, tại sao có nhiều vị tỳ khưu vậy?” – Khi đó, họ nói với vị Sa-di rằng: “Thưa ngài, bậc Đạo Sư đã đến”, vị ấy đã đến yết kiến đức Thế Tôn, đã hỏi để xin cúng dường đồ ăn khắt thực (đến đức Thế Tôn). Bậc Đạo Sư đã cầm lấy bình bát với bàn tay (của ngài) rồi nói rằng – “Này Tissa, vật thực khất thực đã đủ, phận sự về thọ thực đã hoàn tất”. Khi ấy, sau khi vị sa-di đã đảnh lễ thầy tế độ đã ngồi xuống chỗ ngồi của mình rồi thực hiện phận sự về thọ thực. Kế đến, trong lúc vị sa-di ấy thọ dụng vật thực xong, bậc Đạo Sư đã chúc phúc, Ngải đã rời khỏi rồi đứng tại cổng làng (và) hỏi rằng – “Này Tissa, con đường nào đi đến chỗ cư ngụ của con”, vị sa-di đáp rằng: “Con đường này, bạch Thế Tôn”. – (Thế Tôn) nói rằng: này Tissa, con hãy chỉ đường phía trước. Được biết rằng: Đức Thế Tôn mặc dù vị chỉ đường cho nhân loại cùng với chư Thiên, nhưng lại cho vị Sa-di làm người dẫn đường cũng bởi ý muốn của đức Thế Tôn, ‘Ta sẽ quan sát vị sa-di’ suốt quãng đường 3 dặm.
So attano vasanaṭṭhānaṃ gantvā bhagavato vattamakāsi. atha naṃ bhagavā — “Kataro te, tissa, caṅkamo”ti pucchitvā tattha gantvā sāmaṇerassa nisīdanapāsāṇe nisīditvā — “Tissa, imasmiṃ ṭhāne sukhaṃ vasī”ti[5] pucchi. So āha — “Āma, bhante, imasmiṃ ṭhāne vasantassa sīhabyagghahatthimigamorādīnaṃ saddaṃ suṇato araññasaññā uppajjati, tāya sukhaṃ vasāmī”ti. Atha naṃ bhagavā — “Tissa, bhikkhusaṅghaṃ sannipātehi, buddhadāyajjaṃ te dassāmī”ti vatvā sannipatite bhikkhusaṅghe upasampādetvā attano vasanaṭṭhānameva agamāsīti. Ayaṃ turitacārikā nāma. Yaṃ pana gāmanigamapaṭipāṭiyā devasikaṃ yojanadviyojanavasena piṇḍapātacariyādīhi lokaṃ anuggaṇhantassa gamanaṃ, ayaṃ aturitacārikā nāma.
Sau khi đã đến chỗ trú ngụ của mình (vị sa-di) đã thực hiện bổn phận của mình đối với đức Thế Tôn. Khi đó đức Thế Tôn hỏi vị sa-di rằng – “Này Tissa, chỗ kinh hành của con ở đâu?” Sau đó Ngài đi đến chỗ kinh hành đó, đã ngồi xuống trên thạch tọa của vị sa-di rồi hỏi rằng – “Này Tissa, ở nơi đây con sống được an lạc không?” – Vị ấy nói rằng – “Dạ, bạch ngài, con sống ở đây nghe tiếng sư tử, cọp, voi, thú rừng và chim chốc v.v, sự tưởng tượng ở rừng (araññasaññā) cũng khởi lên ‘Ta sẽ sống an lạc bằng sự tưởng tượng đó’”. Lúc đó, đức Thế Tôn đã nói cùng vị sa-di ấy rằng – “Này Tissa, hãy thỉnh mời Hội Chúng tỳ khưu hội họp lại, Ta sẽ ban cho con vị trí người được thừa hưởng gia tài của đức Phật (buddhadāyajjaṃ)” sau khi Hội Chúng tỳ khưu đã hội họp (ngài) đã cho vị sa-di tu lên bậc trên rồi trở về nơi an trú của mình ngay tức khắc. Cuộc khởi hành này gọi là vội vàng khởi hành. Còn việc ngài vì lòng thương tưởng trợ giúp chúng sanh ở thế gian bằng việc đi khất thực v.v, mỗi ngày 1 do tuần, 2 do-tuần theo tuần tự từ làng hay thị trấn gọi là không vội khởi hành.
Imaṃ pana cārikaṃ caranto bhagavā mahāmaṇḍalaṃ, majjhimamaṇḍalaṃ, antomaṇḍalanti imesaṃ tiṇṇaṃ maṇḍalānaṃ aññatarasmiṃ carati. Tattha mahāmaṇḍalaṃ navayojanasatikaṃ, majjhimamaṇḍalaṃ chayojanasatikaṃ, antomaṇḍalaṃ tiyojanasatikaṃ. Yadā mahāmaṇḍale cārikaṃ caritukāmo hoti, mahāpavāraṇāya pavāretvā pāṭipadadivase mahābhikkhusaṅghaparivāro nikkhamati. Samantā yojanasataṃ ekakolāhalaṃ hoti. Purimaṃ purimaṃ āgatā nimantetuṃ labhanti. Itaresu dvīsu maṇḍalesu sakkāro mahāmaṇḍale osarati. Tattha bhagavā[6] tesu tesu gāmanigamesu ekāhaṃ dvīhaṃ vasanto mahājanaṃ āmisappaṭiggahena anuggaṇhanto dhammadānena cassa vivaṭṭasannissitaṃ kusalaṃ vaḍḍhento navahi māsehi cārikaṃ pariyosāpeti. Sace pana antovasse bhikkhūnaṃ samathavipassanā taruṇā honti, mahāpavāraṇāya apavāretvā pavāraṇāsaṅgahaṃ datvā kattikapuṇṇamāyaṃ pavāretvā migasirassa paṭhamapāṭipadadivase mahābhikkhusaṅghaparivāro nikkhamitvā majjhimamaṇḍale osarati. Aññenapi kāraṇena majjhimamaṇḍale cārikaṃ caritukāmo catumāsaṃ vasitvāva nikkhamati. Vuttanayeneva itaresu dvīsu maṇḍalesu sakkāro majjhimamaṇḍale osarati. Bhagavā purimanayeneva lokaṃ anuggaṇhanto aṭṭhahi māsehi cārikaṃ pariyosāpeti. Sace pana catumāsaṃ vutthavassassāpi bhagavato veneyyasattā aparipakkindriyā honti, tesaṃ indriyaparipākaṃ āgamayamāno aparampi ekamāsaṃ vā dviticatumāsaṃ vā tattheva vasitvā mahābhikkhusaṅghaparivāro nikkhamati. Vuttanayeneva itaresu dvīsu maṇḍalesu sakkāro antomaṇḍale osarati. Bhagavā purimanayeneva lokaṃ anuggaṇhanto sattahi vā chahi vā pañcahi vā catūhi vā māsehi cārikaṃ pariyosāpeti. Iti imesu tīsu maṇḍalesu yattha katthaci cārikaṃ caranto na cīvarādihetu carati. Atha kho ye duggatabālajiṇṇabyādhitā, te kadā tathāgataṃ āgantvā passissanti. mayi pana cārikaṃ carante mahājano tathāgatassa dassanaṃ labhissati. tattha keci cittāni pasādessanti, keci mālādīhi pūjessanti, keci kaṭacchubhikkhaṃ dassanti, keci micchādassanaṃ pahāya sammādiṭṭhikā bhavissanti. taṃ nesaṃ bhavissati dīgharattaṃ hitāya sukhāyāti. evaṃ lokānukampakāya cārikaṃ carati.
Lại nữa, đức Thế Tôn trong khi đi du hành như vầy, ngài cũng chỉ đi đến một trong ba maṇḍala này là đại maṇḍala, trung maṇḍala và tiểu maṇḍala. Trong 3 maṇḍala đó thì đại maṇḍala được xác định là 900 do-tuần, trung maṇḍala được xác định là 600 do-tuần, và tiểu maṇḍala được xác định là 300 do-tuần. Khi nào đức Thế Tôn có mong muốn đi du hành ở đại maṇḍala, ngài đã tiến hành Pavāraṇā trong ngày đại lễ Pavāraṇā vào ngày trăng tròn rồi ra đi cùng với đại chúng tỳ khưu tháp tùng. Đồng thời đã gây ra cảnh huyên náo xung quanh một trăm do-tuần. Vị đến trước nhận được lời thỉnh mời. Trong số hai maṇaḍa còn lại thì sự cung kính cũng được tập trung lại trong đại maṇaḍa. Đức Thế Tôn khi an trú ở làng, và thị trấn đó hết một hai ngày (sẽ) trợ giúp đại chúng bằng việc thọ nhận vật phẩm và phát triển thiện pháp y cứ sự thoát khỏi vòng luân hồi đối với họ bằng việc ban bố Pháp thoại, sử dụng thời gian du hành suốt chín tháng. Còn nếu như trong lúc an cư mùa mưa Chỉ Tịnh và Minh Sát của chư Tỳ khưu yếu ớt, ngài cũng không tiến hành Pavāraṇā trong ngày đại lễ Pavāraṇā, sẽ thay đổi ngày tiến hành Pavāraṇā vào ngày hành lễ Pavāraṇā vào ngày trăng tròn tháng Chạp (kattikā) đến ngày mười lăm tháng Giêng (migasira) cùng với đại chúng tỳ khưu làm tùy tùng ra đi, rồi du hành khắp trung maṇḍala. Đức Phật có ý muốn đi du hành trong trung maṇḍala với lý do khác cũng có, nhưng ngài chỉ an trú bốn tháng rồi cũng rời đi. Trong số hai maṇḍala còn lại thì sự cung kính cũng được tập trung lại trong trung maṇḍala như phương thức đã được trình bày. Đức Thế Tôn trợ giúp chúng sanh thế gian theo chính phương thức trước đó, sử dụng thời gian du hành tám tháng. Nhưng nếu như khi đức Thế Tôn an cư mùa mưa suốt bốn tháng, những chúng sanh có duyên lành giác ngộ (mà) các quyền vẫn chưa hoàn toàn chín mùi, (ngài sẽ) đợi cho những chúng sanh có duyên lành giác ngộ có các quyền hoàn toàn chìn mùi trước thì ngài sẽ ở lại nơi đó thêm một tháng, hai tháng hoặc ba tháng, rồi mới rời đi có đại chúng tỳ khưu tháp tùng. Trong số hai maṇḍala còn lại thì sự cung kính cũng được tập trung lại trong tiểu maṇḍala theo chính phương cách đã nói. Đức Thế Tôn khi trợ giúp chúng sanh thế gian theo chính cách thức trước đó cho việc du hành được hoàn tất với bảy tháng, sáu tháng, năm tháng, hay bốn tháng. Như đã nói trong số cả ba maṇḍala này, đức Thế Tôn khi đi du hành ở bất kỳ 1 trong 3 maṇḍala không phải đi du hành vì nguyên nhân y phục v.v. Mà quả thật (ngài) đi du hành cũng vì lòng bi mẫn đối với chúng sanh ở thế gian với suy tư như vầy – Những người nào là người nghèo khổ, kẻ ngu, người già, người bệnh; đến khi nào những người đó sẽ được diện kiến đấng Như Lai, nhưng khi ta du hành thì đông đảo quần chúng sẽ được chiêm ngưỡng đấng Như Lai. Trong số những hạng người ấy, một số người sẽ có thể làm cho tâm được tịnh tín, một số người cung kính cúng dường tràng hoa v.v, một số cúng dường vật thực dầu chỉ một vá (cơm), một số sẽ dứt bỏ tà kiến trở nên có chánh kiến, như vậy điều đó sẽ diễn ra đưa đến sự lợi ích, sự hạnh phúc cho họ trong thời gian lâu dài.
Api ca catūhi kāraṇehi buddhā bhagavanto cārikaṃ caranti, jaṅghavihāravasena sarīraphāsukatthāya, atthuppattikālābhikaṅkhanatthāya, bhikkhūnaṃ sikkhāpadapaññāpanatthāya, tattha tattha paripākagatindriye bodhaneyyasatte bodhanatthāyāti. aparehipi catūhi kāraṇehi buddhā bhagavanto cārikaṃ caranti buddhaṃ saraṇaṃ gacchissantīti vā, dhammaṃ, saṅghaṃ saraṇaṃ gacchissantīti vā, mahatā[7] dhammavassena[8] catasso parisā santappessāmīti vā. Aparehipi pañcahi kāraṇehi buddhā bhagavanto cārikaṃ caranti pāṇātipātā viramissantīti vā, adinnādānā, kāmesumicchācārā, musāvādā, surāmerayamajjapamādaṭṭhānā viramissantīti vā. Aparehipi aṭṭhahi kāraṇehi buddhā bhagavanto cārikaṃ caranti — Paṭhamaṃ jhānaṃ paṭilabhissantīti vā, dutiyaṃ jhānaṃ … pe … nevasaññānāsaññāyatanasamāpattiṃ paṭilabhissantīti vā. Aparehipi aṭṭhahi kāraṇehi buddhā bhagavanto cārikaṃ caranti — sotāpattimaggaṃ adhigamissantīti vā, sotāpattiphalaṃ … pe … arahattaphalaṃ sacchikarissantīti vāti. Ayaṃ aturitacārikā, idha cārikāti[9] adhippetā. Sā panesā duvidhā hoti — anibaddhacārikā ca nibaddhacārikā ca. Tattha yaṃ gāmanigamanagarapaṭipāṭivasena carati, ayaṃ anibaddhacārikā nāma. Yaṃ panekasseva bodhaneyyasattassatthāya gacchati, ayaṃ nibaddhacārikā nāma. Esā idha adhippetā.
Ngoài ra, các đức Thế Tôn đi du hành vì bốn lý do: (1) vì lợi ích cho sức khỏe của thân thể bằng cách đi bách bộ, (2) vì lợi ích chờ đợi một sự kiện phát sinh làm nguyên nhân thuyết giảng Giáo Pháp, (3) Vì lợi ích của việc chế định các học giới cho chư Tỳ khưu, (4) vì lợi ích trợ giúp chúng sinh có khả năng cần được chứng ngộ, người có các căn đã chín mùi ở tại chỗ đó (đạt đến) sự giác ngộ. Các đức Thế Tôn đi du hành bởi bốn lý do khác nữa: Tất cả chúng sinh sẽ đi đến nương nhờ nơi đức Phật, sẽ đi đến nương nhờ nơi Giáo Pháp, sẽ đi đến nương nhờ nơi Tăng Chúng, Ta sẽ làm cho bốn hội chúng được thỏa mãn bằng việc lắng nghe Giáo Pháp vĩ đại. Các đức Thế Tôn đi du hành với năm lý do khác, với suy nghĩ rằng: tất cả chúng sanh sẽ kiêng tránh sát sanh, hoặc trộm cắp…hoặc tà hạnh trong các dục…hoặc nói dối…hoặc uống rượu men và các chất say. Các đức Thế Tôn đi du hành với tám lý do khác, với suy nghĩ rằng: – Tất cả chúng sanh sẽ đạt được Sơ thiền, hoặc Nhị thiện…nt…sẽ đạt được Phi tưởng phi phi tưởng. Các đức Thế Tôn đi du hành với 8 lý do khác nữa – tất cả chúng sanh sẽ chứng đắc Nhập Lưu Thánh Đạo, Nhập Lưu Thánh Quả…nt…sẽ tác chứng A-ra-hán Quả. Trong trường hợp này ngài muốn đề cập đến việc du hành không vội vã. Đi du hành không vội vã có 2 là việc du hành thường xuyên (nibaddhacārikā), việc du hành không thường xuyên (anibaddhacārikā). Trong hai loại đi du hành này việc đức Thế Tôn đi theo tuần tự làng mạc, thị trấn, và thành thị, đây gọi là việc du hành thường xuyên. Còn việc đức Thế Tôn đi vì lợi ích cho một chúng sanh, vị có khả năng giác ngộ, chỉ riêng một cá nhân mà thôi, đây gọi là việc du hành không thường xuyên. Trong trường hợp này ngài muốn đề cập đến việc du hành không thường xuyên.
Tadā kira bhagavato pacchimayāmakiccapariyosāne dasasahassilokadhātuyā ñāṇajālaṃ pattharitvā bodhaneyyabandhave olokentassa pokkharasātibrāhmaṇo sabbaññutaññāṇajālassa anto paviṭṭho. Atha bhagavā ayaṃ brāhmaṇo mayhaṃ ñāṇajāle paññāyati, “atthi nu khvassa upanissayo”ti vīmaṃsanto sotāpattimaggassa upanissayaṃ disvā — “eso mayi etaṃ janapadaṃ gate lakkhaṇapariyesanatthaṃ ambaṭṭhaṃ antevāsiṃ pahiṇissati, so mayā saddhiṃ vādapaṭivādaṃ katvā nānappakāraṃ asabbhivākyaṃ vakkhati, tamahaṃ dametvā nibbisevanaṃ karissāmi. so ācariyassa kathessati, athassācariyo taṃ kathaṃ sutvā āgamma mama lakkhaṇāni pariyesissati, tassāhaṃ dhammaṃ desessāmi. So desanāpariyosāne sotāpattiphale patiṭṭhahissati. Desanā mahājanassa saphalā bhavissatī”ti pañcabhikkhusataparivāro taṃ janapadaṃ paṭipanno. Tena vuttaṃ — “kosalesu cārikaṃ caramāno mahatā bhikkhusaṅghena saddhiṃ pañcamattehi bhikkhusatehī”ti.
Được biết vào thời gian đó, khi đức Thế Tôn trải ra mạng lưới trí tuệ khắp mười ngàn thế giới vào lúc kết thúc phận sự của Phật ở canh cuối, quan sát chúng sanh có mối tương quan có khả năng giác ngộ thì Bà-la-môn Pokkharasāti đã lọt vào bên trong mạng lưới trí toàn giác. Khi đó, đức Thế Tôn trong khi quan sát thấy rằng: Bà-la-môn này đến xuất hiện trong mạng lưới trí của Ta, “vị ấy có đủ nhân duyên hay không?” (ngài) quan sát thấy (vị này) có đủ nhân duyên (để chứng đắc) Nhập Lưu Đạo, suy tư rằng: “Vị Bà-la-môn này khi Ta đi đến xứ sở đó sẽ sai đệ tử tên là Ambaṭṭha đi nhằm mục đích tìm kiếm các ‘đắc tướng’ (của ta), sẽ tranh luận với Ta, nói lời nói khiếm nhã bằng nhiều hình thức khác nhau. Ta sẽ tra khảo kẻ ấy, khiến cho (kẻ ấy) mất hết danh vọng, kẻ ấy sẽ thuật lại cho thầy (của mình). Lúc đó, thầy của hắn sau khi nghe điều đó cũng sẽ đến tìm tòi các ‘đặc tướng’ của Ta, Ta sẽ thuyết Pháp cho vị ấy. Khi Pháp thoại kết thúc vị ấy cũng sẽ an trú vào quả vị Nhập Lưu Thánh Quả. Pháp thoại sẽ có kết quả tốt đẹp cho đại chúng này, nên mới cùng với năm trăm vị tỳ khưu làm tùy tùng đi đến xứ sở đó.” Vì thế, ngài mới nói rằng: “Đức Thế Tôn trong lúc du hành ở xứ sở Kosala cùng với đại chúng tỳ khưu ước lượng khoảng năm trăm vị”.
Yena icchānaṅgalanti yena disābhāgena icchānaṅgalaṃ avasaritabbaṃ. Yasmiṃ vā padese icchānaṅgalaṃ. Ijjhānaṅgalantipi pāṭho. Tadavasarīti tena avasari, taṃ vā avasari. tena disābhāgena gato, taṃ vā padesaṃ gatoti attho. Icchānaṅgale viharati icchānaṅgalavanasaṇḍeti icchānaṅgalaṃ upanissāya icchānaṅgalavanasaṇḍe sīlakhandhāvāraṃ bandhitvā samādhikontaṃ ussāpetvā sabbaññutaññāṇasaraṃ parivattayamāno dhammarājā yathābhirucitena vihārena viharati.
Làng Bà-la-môn có tên là Icchānaṅgala: Làng Bà-la-môn có tên là Icchānaṅgala nên đi theo phương hướng nào? hoặc làng Bà-la-môn có tên là Icchānaṅgala được đặt ở quốc độ nào? Pāḷi như vầy ‘Ijjhānaṅgala’ cũng có. Đi đến: ngài đi theo con đường đó, hoặc là ngài đi đến nơi đó. Có nghĩa là ngài đi theo phương hướng ấy, hoăc là ngài đi đến quốc độ đó. Trú ở Icchānaṅgala, trong khu rừng Icchānaṅgala: Đức Thế Tôn là bậc Pháp vương y cứ ở làng Bà-la-môn có tên là Icchānaṅgala đã đặt mạng lưới là Giới, đã cầm lấy cây gậy cui là Định, đã đưa lên mũi tên là trí toàn giác được vận hành, ngài an trú với việc an trú tùy theo ý thích trong khu rừng Icchānaṅgala.
Giải Thích Câu Chuyện Bà-la-môn Pokkharasāti
255. Tena kho pana samayenāti yena samayena bhagavā tattha viharati, tena samayena, tasmiṃ samayeti ayamattho. Brahmaṃ aṇatīti brāhmaṇo, mante sajjhāyatīti attho. Idameva hi jātibrāhmaṇānaṃ niruttivacanaṃ. Ariyā pana bāhitapāpattā brāhmaṇāti vuccanti. Pokkharasātīti[10] idaṃ tassa nāmaṃ. Kasmā pokkharasātīti[11] vuccati. Tassa kira kāyo setapokkharasadiso, devanagare ussāpitarajatatoraṇaṃ viya sobhati. Sīsaṃ panassa kāḷavaṇṇaṃ indanīlamaṇimayaṃ viya. Massupi candamaṇḍale kāḷamegharāji viya khāyati. akkhīni nīluppalasadisāni. nāsā rajatapanāḷikā viya suvaṭṭitā suparisuddhā. hatthapādatalāni ceva mukhadvārañca katalākhārasaparikammaṃ viya sobhati, ativiya sobhaggappatto brāhmaṇassa attabhāvo, arājake ṭhāne[12] rājānaṃ kātuṃ yuttamimaṃ brāhmaṇaṃ. Evamesa[13] sassiriko. Iti naṃ pokkharasadisattā pokkharasātīti[14] sañjānanti.
255. Vào lúc bấy giờ: Đức Thế Tôn an trú ở nơi đó vào lúc nào, vào lúc ấy, điều này có nghĩa vào lúc ấy. Người học chú thuật được gọi là Bà-la-môn, có nghĩa là trì tụng chú thuật. Cũng chính lời này là lời nói để gọi Bà-la-môn do sanh chủng theo ngôn ngữ. Tuy nhiên, các bậc Thánh nhân gọi Bà-la-môn bởi vì các ác nghiệp đã được thả trôi. Pokkharasāti: này là tên của Bà-la-môn ấy. Tại sao ngài gọi tên (vị ấy) là Pokkharasāti. Kể rằng cơ thể của vị Bà-la-môn ấy tương tự như hoa sen trắng, xinh đẹp tựa như cột trụ bằng bạc được dựng ở thành phố chư Thiên. Còn phần đầu của vị ấy có màu đen như thể được làm bằng ngọc bích. Ngay cả hàm râu hiện ra tựa như chùm mây đen ở trong vầng trăng. Cả hai tròng mắt tựa như hoa sen xanh. Sống mũi cao đẹp, thanh tịnh trong sáng tựa như cái ống bằng bạc; lòng bàn tay, lòng bàn chân và miệng đều xinh đẹp tựa như được nhuộm bằng màu cánh kiến. Sắc thân của Bà-la-môn đạt đến sự hoàn hảo tối thắng, thích hợp để phong vương, ở trong vị trí không thể trở thành vua, chính vì như vậy mọi người biết được Bà-la-môn ấy là “Pokkharasāti” là như vậy, do Bà-la-môn này là người tuyệt đẹp, hơn nữa Bà-la-môn đó đã được sinh ra trong hoa sen chớ không phải sanh ra từ trong bụng mẹ, thế nên mọi người mới gọi Bà-là-môn ấy là Pokkharasāti do nằm ở trong hoa sen.
Ayaṃ pana kassapasammāsambuddhakāle tiṇṇaṃ vedānaṃ pāragū dasabalassa dānaṃ datvā dhammadesanaṃ sutvā devaloke nibbatti. So tato manussalokamāgacchanto mātukucchivāsaṃ jigucchitvā himavantapadese mahāsare padumagabbhe nibbatti. Tassa ca sarassa avidūre tāpaso paṇṇasālāya vasati. So tīre ṭhito taṃ padumaṃ disvā — “Idaṃ padumaṃ avasesapadumehi mahantataraṃ. Pupphitakāle naṃ gahessāmī”ti cintesi. Taṃ sattāhenāpi na pupphati. Tāpaso kasmā nu kho idaṃ sattāhenāpi na pupphati. Handa naṃ gahessāmīti otaritvā gaṇhi. Taṃ tena nāḷato chinnamattaṃyeva pupphitaṃ. Athassabbhantare suvaṇṇacuṇṇapiñjaraṃ viya rajatabimbakaṃ padumareṇupiñjaraṃ setavaṇṇaṃ dārakaṃ addasa. So mahāpuñño esa bhavissati. Handa naṃ paṭijaggāmīti paṇṇasālaṃ netvā paṭijaggitvā sattavassakālato paṭṭhāya tayo vede uggaṇhāpesi. Dārako tiṇṇaṃ vedānaṃ pāraṃ gantvā paṇḍito byatto jambudīpe aggabrāhmaṇo ahosi. So aparena samayena rañño kosalassa sippaṃ dassesi. Athassa sippe pasanno rājā ukkaṭṭhaṃ nāma mahānagaraṃ brahmadeyyaṃ adāsi. Iti naṃ pokkhare sayitattā pokkharasātīti sañjānanti.
Hơn nữa, vị Bà-la-môn này ngay cả vào thời kỳ của bậc Chánh đẳng Chánh giác Kassapa đã học hết ba tập Vệ Đà, đã cúng dường vật thí đến đấng Thập Lực, đã lắng nghe pháp, (sau khi chết) hóa sanh vào thế giới chư Thiên. Kể từ đó, vị ấy khi đi đến thế giới loài người chán ghét việc ở trong bụng mẹ mới sanh vào bụng hoa sen trong hồ nước lớn cạnh dãy núi Hy-mã-lạp. Nhưng ở không xa hồ nước ấy có một vị đạo sĩ nương trú ở một am tranh. Vị ấy trong khi đứng ở trên hồ đã nhìn thấy hoa sen ấy, suy nghĩ rằng: “Hoa sen này to lớn hơn những hoa sen còn lại, vào lúc hoa nở ta sẽ hái”. Dù đã 7 ngày trôi qua nhưng hoa sen ấy vẫn chưa nở. Vì thế vị đạo sĩ nghĩ rằng: Lý do gì nhỉ? Dù đã bảy ngày rồi mà hoa sen này vẫn chưa nở. Được rồi, ta sẽ hái nó nên đã đi xuống hái. Hoa sen ấy vị đạo sĩ chỉ vừa cắt lìa từ thân thì hoa liền nở. Khi ấy, ở bên trong hoa sen đó vị ấy đã nhìn thấy một đứa bé có màu da trắng, có sắc tướng y như bạc, như thể bột vàng, có màu da trắng vàng tựa như nhụy hoa sen. Vị ấy mới nghĩ rằng: Đứa bé này có lẽ sẽ là người có nhiều phước báu. Thôi được rồi, ta sẽ nuôi dưỡng đứa bé này rồi mới ẫm (đứa bé) vào ngôi nhà lá để nuôi dưỡng. Kể từ khi lên bảy tuổi được cho học ba tập Vệ Đà. Cậu bé đã học hết cả thảy ba tập Vệ Đà là bậc sáng trí, thiện xảo, trở thành vị trí Bà-la-môn đệ nhất trong cõi Jambudīpa. Một thời gian sau cậu bé được thể hiện tài năng cùng đức vua Kosala. Khi ấy, đức vua tịnh tín đối với tài năng của cậu bé, (do đó) cậu bé đã được đức vua ban cho một thành phố lớn là Ukkaṭṭḥa, là tặng phẩm cao quý. Vì thế, tất cả dân chúng gọi vị ấy là Pokkharasāti bởi vì cậu nằm trong hoa sen.
Ukkaṭṭhaṃ ajjhāvasatīti ukkaṭṭhanāmake nagare vasati. Abhibhavitvā vā āvasati. Tassa nagarassa sāmiko hutvā yāya mariyādāya tattha vasitabbaṃ, tāya mariyādāya vasi. Tassa kira nagarassa vatthuṃ ukkā ṭhapetvā ukkāsu jalamānāsu aggahesuṃ, tasmā taṃ ukkaṭṭhanti vuccati. Okkaṭṭhantipi pāṭho, soyevattho. Upasaggavasena panettha bhummatthe upayogavacanaṃ veditabbaṃ. Tassa anupayogattā ca sesapadesu. Tattha lakkhaṇaṃ saddasatthato[15] pariyesitabbaṃ.
(Bà-la-môn Pokkharasāti) ngụ tại thành Ukkaṭṭha: vị ấy đang cư trú hoặc đang chiếm hữu thành phố có tên là Ukkaṭṭha, tức là vị ấy là chủ sở hữu của thành phố ấy, sống trong ranh giới mà người dân có thể cư ngụ được trong thành phố đó. Được biết quần chúng đã đặt ngọn đèn, trong khi ngọn đèn bốc cháy, đã cùng nhau cầm lấy chỗ đặt thành phố ấy, vì thế thành phố ấy được gọi là Ukkaṭṭha. Pāḷī ‘Okkaṭṭha’ cũng có. Có ý nghĩa như nhau. Nhưng trong trường hợp này nên biết rằng: về phương diện ‘tiền tố’ làm cho Đối Cách được sử dụng thay thế Vị Trí Cách. Và trong những câu còn lại nên biết rằng: Lời đó không phải là Đối Cách, trạng thái ở đây có thể nghiên cứu từ ngôn ngữ học.
Sattussadanti sattehi ussadaṃ, ussannaṃ bahujanaṃ ākiṇṇamanussaṃ. posāvaniyahatthiassamoramigādianekasattasamākiṇṇañcāti attho. Yasmā panetaṃ nagaraṃ bahi āvijjhitvā jātena hatthiassādīnaṃ ghāsatiṇena ceva gehacchādanatiṇena ca sampannaṃ. Tathā dārukaṭṭhehi ceva gehasambhārakaṭṭhehi ca. Yasmā cassabbhantare vaṭṭacaturassādisaṇṭhānā bahū pokkharaṇiyo jalajakusumavicittāni ca bahūni anekāni taḷākāni udakassa niccabharitāneva honti, tasmā satiṇakaṭṭhodakanti vuttaṃ. Saha dhaññenāti sadhaññaṃ pubbaṇṇāparaṇṇādibhedaṃ bahudhaññasannicayanti attho. Ettāvatā yasmiṃ nagare brāhmaṇo setacchattaṃ ussāpetvā rājalīlāya[16] vasati, tassa samiddhisampatti dīpitā hoti.
Đông đúc dân cư: chật ních, dư thừa bởi quá nhiều chúng sanh, có rất nhiều dân chúng, con người đầy rẫy, và đông nghịch các loài thú như voi, ngựa, chim công và hươu nai được họ nuôi dưỡng v.v. bởi vì thành phố này đầy đủ với cỏ làm thức ăn của voi và ngựa v.v, và với cỏ lợp nhà mọc xung quanh ở ngoại thành, và đầy đủ với gỗ như củi và cũng như gỗ được dùng làm nguyên liệu cất nhà, và do bên trong thành phố ấy có rất nhiều hồ sen hình tròn và hình vuông v.v, và vô số hồ nước nhỏ không đếm xuể, xinh đẹp bởi những bông hoa được mọc ra trong nước và luôn luôn tràn ngập bởi nước, vì thế ngài mới gọi là thành phố có đầy đủ cỏ, gỗ, và nước. Cùng với các loại thóc lúa gọi là đầy đủ thóc lúa, tức là có rất nhiều thóc lúa được cất giữ trong kho, chỉ khác biệt các loại lúa bắp, hạt rau cải v.v. Chỉ với chừng ấy lời là điều diễn tả đến sự thành tựu là sự phồn thịnh của thành phố, nơi Bà-la-môn cư trú với lề thói như đức vua bởi đã cho nâng cây lọng trắng lên.
Rājato laddhaṃ bhoggaṃ rājabhoggaṃ. Kena dinnanti ce? Raññā pasenadinā[17] kosalena dinnaṃ. Rājadāyanti rañño dāyabhūtaṃ, dāyajjanti attho. Brahmadeyyanti seṭṭhadeyyaṃ, chattaṃ ussāpetvā rājasaṅkhepena bhuñjitabbanti attho. Atha vā rājabhogganti sabbaṃ chejjabhejjaṃ anusāsantena nadītitthapabbatādīsu suṅkaṃ gaṇhantena setacchattaṃ ussāpetvā raññā hutvā bhuñjitabbaṃ. Raññā pasenadinā kosalena dinnaṃ rājadāyanti ettha taṃ nagaraṃ raññā dinnattā rājadāyaṃ dāyakarājadīpanatthaṃ panassa “raññā pasenadinā kosalena dinna”nti idaṃ vuttaṃ. Brahmadeyyanti seṭṭhadeyyaṃ. Yathā dinnaṃ na puna gahetabbaṃ hoti, nissaṭṭhaṃ pariccattaṃ, evaṃ dinnanti attho.
Tài sản nhận được từ đức vua được gọi là của cải (nhận được) từ đức vua. Nếu như hỏi rằng: Ai ban cho? – (Đáp) Đức vua Pasenadi nước Kosala ban cho. Là quà biếu của đức vua: Quà biếu của đức vua, tức là tài sản được thừa hưởng. Là tặng phẩm cao quý: là tặng phẩm cao cả nhất, có nghĩa là Bà-la-môn có thể cho nâng cây lọng trắng theo lề lối một vị vua. Và hơn nữa, tài sản của đức vua: là thành phố mà Bà-la-môn (có thể) lệnh trừng phạt bằng việc cắt các chi phần (lớn nhỏ) và bẻ gãy các chi phần (lớn nhỏ), khi thu thuế ở các nơi như bến nước và núi v.v, cần phải nâng lên cây lọng trắng trở thành một vị vua để ngự trị. Ở đó, được ban cho bởi đức vua Pasenadi xứ Kosala, là quà biếu của đức vua: thành phố ấy do đức vua ban tặng mới gọi là quà biếu của đức vua, cũng nhằm mục đích chỉ ra đức vua là vị ban cho, ngài mới nói lời này “được ban cho bởi đức vua Pasenadi xứ Kosala”. Là tặng phẩm cao quý: là tặng phẩm cao cả nhất, giải thích rằng: là tặng phẩm đã được đức vua ban tặng như vậy, không cần phải trả lại, là phần đã dứt bỏ hoàn toàn, đã ban tặng.
Assosīti suṇi upalabhi, sotadvārasampattavacananigghosānusārena aññāsi. Khoti avadhāraṇatthe padapūraṇamatte vā nipāto. Tattha avadhāraṇatthena assosi eva, nāssa koci savanantarāyo ahosīti ayamattho veditabbo. Padapūraṇena pana padabyañjanasiliṭṭhatāmattameva.
Đã nghe: Đã được lắng nghe, đã được trải nghiệm, đã biết đến nhờ những lời thông báo vang vọng chạm đến nhĩ môn. ‘Kho’ là phân từ, được sử dụng với ý nghĩa nhấn mạnh (xác định chắc chắn như từ ‘eva’) hoặc là phân từ được sử dụng để làm câu đầy đủ. Trong hai từ đó với ý nghĩa nhấn mạnh nên biết ý nghĩa như vầy – vị Bà-la-môn ấy thực sự đã lắng nghe, không có bất cứ điều gì trở ngại từ việc lắng nghe. Được đầy đủ: chỉ để làm cho câu cú và văn tự trở nên mượt mà.
Idāni yamatthaṃ brāhmaṇo pokkharasāti assosi, taṃ pakāsento — “Samaṇo khalu bho gotamo”tiādimāha. Tattha samitapāpattā samaṇoti veditabbo. Vuttañhetaṃ — “Samitāssa honti pāpakā akusalā dhammā”tiādi[18]. Bhagavā ca anuttarena ariyamaggena samitapāpo. Tenassa yathābhūtaguṇādhigatametaṃ nāmaṃ, yadidaṃ samaṇoti. Khalūti anussavanatthe nipāto. Bhoti brāhmaṇajātisamudāgataṃ ālapanamattaṃ. Vuttampi cetaṃ — “Bhovādī nāma so hoti, sace hoti sakiñcano”ti[19] . Gotamoti bhagavantaṃ gottavasena parikitteti. tasmā samaṇo khalu bho gotamoti ettha samaṇo kira bho gotamagottoti evamattho daṭṭhabbo.
Bây giờ, Bà-la-môn Pokkharasāti trong khi tuyên bố ý nghĩa mà bản thân đã được lắng nghe mới nói lời rằng: “Này các ông, Sa-môn Gotama…” Nên biết nội dung trong câu đó (rằng) người được gọi là Sa-môn bởi vì có các ác đã được vắng lặng. bởi vì việc này đã được nói – “Các pháp ác bất thiện của hạng người ấy đã được yên tĩnh.” Và đức Thế Tôn là vị có các ác đã được yên tĩnh bởi Thánh Đạo cao thượng. Vì thế, từ ‘Sa-môn’ này là tên gọi mà ngài đạt được theo ân đức đúng theo thực thể. Khalu: là phân từ, sử dụng với ý nghĩa đã nghe lời đồn đại. Từ ‘Bho’ chỉ là từ gọi quen miệng để gọi Bà-la-môn theo sanh chủng. Và điều này đã được ngài nói rằng: “(Ta không gọi là kẻ được sanh ra từ tử cung (của nữ Bà-la-môn là Bà-la-môn), người có sự xưng hô với từ ‘Ông’ nếu người ấy có sở hữu gì đó. (Còn vị không sở hữu gì, không nắm giữ, Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.)” Bà-la-môn ca ngợi đức Thế Tôn rằng: ‘Gotama do năng lực họ tộc’. Vì thế, ‘này các ông, Sa-môn Gotama…” nên hiểu ý nghĩa như vầy, được nghe rằng: ‘Sa-môn dòng họ Gotama’.
Sakyaputtoti idaṃ pana bhagavato uccākulaparidīpanaṃ . Sakyakulā pabbajitoti saddhāpabbajitabhāvaparidīpanaṃ. Kenaci pārijuññena anabhibhūto aparikkhīṇaṃyeva taṃ kulaṃ pahāya saddhāya pabbajitoti vuttaṃ hoti. Tato paraṃ vuttatthameva. Taṃ kho panātiādi sāmaññaphale vuttameva. Sādhu kho panāti sundaraṃ kho pana, atthāvahaṃ sukhāvahanti vuttaṃ hoti. Tathārūpānaṃ arahatanti yathārūpo so bhavaṃ gotamo, evarūpānaṃ yathābhūtaguṇādhigamena loke arahantoti laddhasaddhānaṃ arahataṃ. Dassanaṃ hotīti pasādasommāni akkhīni ummīletvā dassanamattampi sādhu hotīti, evaṃ ajjhāsayaṃ katvā.
Con trai dòng họ Sakya: điều này giải thích rõ đến họ tộc cao quý quyền lực của đức Thế Tôn. Đã xuất gia từ gia tộc Sakya: điều này giải thích rõ về tính chất xuất gia bằng đức tin (của Ngài). Giải thích rằng – Ngài không bị chế ngự bởi bất cứ sự thiếu thốn nào, từ bỏ cả gia tộc ấy mặc dù (gia tộc) vẫn sung túc đầy đủ, đã xuất gia do đức tin. Ý nghĩa kể từ đây trở đi đã được nói (trong Chú giải bài Kinh Quả Báu Hạnh Sa-môn). Hơn nữa, về ngài Gotama ấy: Như đã nói trong Kinh Quả Báu Hạnh Sa-môn. Thật tốt lành thay: quả thật là điều tốt lành, mang lại lợi ích, mang lại sự an lạc. (Việc diện kiến) các vị A-la-hán như thế ấy: Các bậc A-ra-hán đã đạt được đức tin, các bậc A-ra-hán trong thế gian này bởi do chứng đắc ân đức pháp theo đúng thực thể giống như Ngài Gotama ất. Được diện kiến: Bà-la-môn đã thực hành sự cố ý hướng tâm đến như vầy: Chỉ cần mở đôi mắt một cách điềm tĩnh với sự tịnh tín để nhìn cũng đã là việc thành tựu điều lợi ích.
Giải Thích Về Câu Chuyện Ambaṭṭha
256. Ajjhāyakoti idaṃ — “Na dānime jhāyanti, na dānime jhāyantīti kho, vāseṭṭha[20], ajjhāyakā ajjhāyakā tveva tatiyaṃ akkharaṃ upanibbattan”ti,[21] evaṃ paṭhamakappikakāle jhānavirahitānaṃ brāhmaṇānaṃ garahavacanaṃ. Idāni pana taṃ ajjhāyatīti ajjhāyako. Mante parivattetīti iminā atthena pasaṃsāvacanaṃ katvā voharanti. Mante dhāretīti mantadharo.
256. Ajjhāyako (là vị không có thiền): là lời nói chê bai các Bà-la-môn không có thiền vào thời sơ kiếp (paṭhamakappikakāla) như vầy rằng: “Quả thật, ‘giờ đây, những Bà-la-môn này không tham thiền,’ này Vāseṭṭha, tức là ‘những Bà-la-môn này không tham thiền, những Bà-la-môn này không tham thiền’ chính đây là danh xưng thứ ba được khởi lên”. Nhưng bây giờ, mọi người sử dụng lời ấy ca ngợi với ý nghĩa – “Hạng người nào học tập thì hạng người ấy gọi là vị học giả, là trì tụng chú thuật. Hạng người nào ghi nhớ mọi chú thuật thì hạng người đó gọi là vị nắm vững chú thuật.
Tiṇṇaṃ vedānanti iruveda-yajuveda-sāmavedānaṃ. Oṭṭhapahatakaraṇavasena pāraṃ gatoti pāragū. Saha nighaṇḍunā ca keṭubhena ca sanighaṇḍukeṭubhānaṃ. nighaṇḍūti nighaṇḍurukkhādīnaṃ[22] vevacanapakāsakaṃ satthaṃ. Keṭubhanti kiriyākappavikappo kavīnaṃ upakārāvahaṃ[23] satthaṃ. Saha akkharappabhedena sākkharappabhedānaṃ. Akkharappabhedoti sikkhā ca nirutti ca. Itihāsapañcamānanti āthabbaṇavedaṃ catutthaṃ katvā ‘itiha āsa, itiha āsā’ti īdisavacanapaṭisaṃyutto purāṇakathāsaṅkhāto itihāso pañcamo etesanti itihāsapañcamā, tesaṃ itihāsapañcamānaṃ vedānaṃ.
Về ba kiến-thức Vệ-Đà: Iruveda, Yajuveda, và Sāmaveda. Hạng người nào thuộc nằm lòng do tác động làm cho môi chạm nhau thì hạng người ấy gọi là vị thông thạo (về ba-kiến-thức Vệ-Đà). Ba-kiến-thức Vệ-Đà cùng với từ vựng và nghi lễ gọi là cùng với các từ vựng và nghi thức. Từ vựng: Kiến thức trình bày đến ngữ vựng của mọi thứ có từ ngữ như cây cối, mắt cây v.v. Nghi thức: hành động phù hợp và không phù hợp, bao gồm kiến thức dùng làm công cụ của các thi sĩ. Luôn cả về âm từ với sự phân tích: sự học tập và ngôn ngữ. Về lịch sử là thứ năm: Biên niên sử được nói đến là những câu chuyện cổ xưa phối hợp với lời như vầy ‘điều này đã trở thành như vậy, điều này đã trở thành như vậy’ là thứ năm của ba-kiến-thức-Vệ-Đà do được xếp vào Āthabbaṇa Vệ-Đà là thứ tư, do đó, ba-kiến-thức-Vệ-Đà ấy mới gọi là có bộ sách nói về biên niên sử là thứ năm. Có kiến thức nói về biên niên sử là thứ năm đó.
Padaṃ tadavasesañca byākaraṇaṃ adhīyati vedeti cāti padako veyyākaraṇo. Lokāyataṃ vuccati vitaṇḍavādasatthaṃ. Mahāpurisalakkhaṇanti mahāpurisānaṃ buddhādīnaṃ lakkhaṇadīpakaṃ dvādasasahassaganthapamāṇaṃ satthaṃ. Yattha soḷasasahassagāthāparimāṇā buddhamantā nāma ahesuṃ, yesaṃ vasena iminā lakkhaṇena samannāgatā buddhā nāma honti, iminā paccekabuddhā, iminā dve aggasāvakā, asīti mahāsāvakā, buddhamātā, buddhapitā, aggupaṭṭhāko, aggupaṭṭhāyikā, rājā cakkavattīti ayaṃ viseso paññāyati.
Người nào nghiên cứu và học tập chuyên về cú pháp của Vệ-Đà và chuyên về văn phạm thì người ấy được gọi là nhà ngữ học, nhà văn phạm. Kiến thức về lời nói ngụy biện được gọi là thế gian luận. Các tướng trạng bậc Đại nhân: bao gồm kiến thức ấy có khoảng chừng mười hai nghìn quyển trình bày tướng trạng của bậc Đại nhân có đức Phật v.v. Có khoảng mười sáu nghìn kệ ngôn được gọi Phật chú, điều này hiện rõ sự khác biệt như sau – ‘vị hội đủ bởi tướng này là đức Phật bậc Chánh đẳng Chánh giác, (tướng trạng này) là đức Phật Độc Giác, (tướng trạng này) là bậc Thượng thủ Thinh văn, (tướng trạng này) là của tám mươi vị Đại Thinh văn, (tướng trạng này) là của cha của đức Phật, (tướng trạng này) là của mẹ của Bồ-tát, (tướng trạng này) là nam thí chủ hàng đầu, (tướng trạng này) là nữ thí chủ hàng đầu, (tướng trạng này) là vua, (tướng trạng này) là đức Chuyển Luân Vương”.
Anavayoti imesu lokāyatamahāpurisalakkhaṇesu anūno paripūrakārī, avayo na hotīti vuttaṃ hoti. Avayo nāma yo tāni atthato ca ganthato ca sandhāretuṃ na sakkoti. Anuññātapaṭiññātoti anuññāto ceva paṭiññāto ca. Ācariyenassa “yaṃ ahaṃ jānāmi, taṃ tvaṃ jānāsī”tiādinā anuññāto. “āma ācariyā”ti attanā tassa paṭivacanadānapaṭiññāya paṭiññātoti attho. Katarasmiṃ adhikāre? Sake ācariyake tevijjake pāvacane. Esa kira brāhmaṇo cintesi “imasmiṃ loke ‘ahaṃ buddho, ahaṃ buddho’ti uggatassa nāmaṃ gahetvā bahū janā vicaranti. Tasmā na me anussavamatteneva upasaṅkamituṃ yuttaṃ. Ekaccañhi upasaṅkamantassa apakkamanampi garu hoti, anatthopi uppajjati. yaṃnūnāhaṃ mama antevāsikaṃ pesetvā — ‘buddho vā, no vā’ti jānitvāva upasaṅkameyyan”ti, tasmā māṇavaṃ āmantetvā ayaṃ tātātiādimāha.
Vị thiện xảo: Không bị thiếu sót về thế gian luận và các tướng trạng của bậc Đại nhân, vị được học tập đầy đủ, giải thích rằng không có sự thiếu sót. Người nào có thể ghi nhớ về nội dung và bộ sách về các tướng trạng bậc Đại nhân ấy thì người ấy gọi là người không thiếu sót. Vị này được chấp thuận và được thừa nhận…thuộc về vị thầy của mình: người được vị thầy chấp thuận và được thừa nhận. Giải thích rằng – người được vị thầy chấp thuận theo cách thức sau: ‘Thầy biết điều nào, thì con cũng biết điều đó v.v,” Bản thân cũng đã thừa nhận bằng lời tuyên bố là việc đáp lời cùng thầy rằng “Vâng, thưa thầy”. Trong vấn đề gì? Về phần giáo lý liên quan đến ba-kiến-thức-Vệ-Đà thuộc về vị thầy của mình. Tương truyền rằng vị Bà-la-môn ấy nghĩ rằng: “Ơ trong thế gian này, nhiều người đi du hành nói đến tên của một người cao cả rằng: ‘Ta là đức Phật, ta là đức Phật’. Vì thế, việc ta đi đến yết kiến chỉ vì nghe lời đồn thật không thích hợp. Bởi vì, ngay cả khi ta đến tìm kiếm một vài người rồi không rời đi cũng trở thành gánh nặng, cũng không phát sinh lợi ích gì cả. Nếu vậy, ta phải cho đệ tử của ta đi để biết rằng – “Đó có phải là đức Phật, hay không” thật chắc chắn rồi (bản thân) mới đến yết kiến, vì thế vị ấy mới cho gọi một thanh niên đến nói rằng: “Này con Ambaṭṭha, Sa-môn Gotama…”
257. Taṃ bhavantanti tassa bhoto gotamassa. Tathā santaṃ yevāti tathā satoyeva. Idhāpi hi itthambhūtākhyānatthavaseneva upayogavacanaṃ.
257. Về ngài Gotama ấy: Ngài Gotama ấy. Đúng như thế ấy: Người đúng là như thế. Luôn ở trong câu này thì từ ‘santaṃ’ là Đối Cách được sử dụng với ý nghĩa ‘là như thế’.
258. Yathā kathaṃ panāhaṃ, bho, tanti ettha kathaṃ panāhaṃ bho taṃ bhavantaṃ gotamaṃ jānissāmi, yathā sakkā so ñātuṃ, tathā me ācikkhāhīti attho. Yathāti vā nipātamattamevetaṃ. Kathanti ayaṃ ākārapucchā. Kenākārenāhaṃ taṃ bhavantaṃ gotamaṃ jānissāmīti attho. Evaṃ vutte kira naṃ upajjhāyo “Kiṃ tvaṃ, tāta, pathaviyaṃ ṭhito, pathaviṃ na passāmīti viya; candimasūriyānaṃ obhāse ṭhito, candimasūriye na passāmīti viya vadasī”tiādīni vatvā jānanākāraṃ dassento āgatāni kho, tātātiādimāha.
258. Thưa thầy, nhưng làm thế nào…: Có ý nghĩa như sau – Thưa thầy, con sẽ biết được ngài Gotama ấy như thế nào? Ngài Gotama ấy có có thể nhận biết được bằng phương pháp nào? (Xin) thầy hãy nói cho con về ngài Gotama bằng phương pháp ấy. Hơn nữa, từ ‘yathā’ đây chỉ là một phân từ. Kathaṃ: đây là từ hỏi về biểu hiện, có nghĩa là – con sẽ biết được ngài Gotama ấy bằng biểu hiện như thế nào? Được biết rằng khi người đệ tử nói như vậy vị thầy đã nói rằng – “Này con, con nói giống như người trong khi đứng trên quả địa lại nói rằng: tôi không nhìn thấy quả địa cầu; và người trong khi đứng dưới ánh sáng của mặt trăng và mặt trời rồi quay trở lại nói rằng: ‘tôi không nhìn thấy mặt trăng và mặt trời’ khi chỉ ra biểu hiện mà bản thân biết mới nói rằng: “Này con Ambaṭṭha, ba mươi hai tướng…”
Tattha mantesūti vedesu. Tathāgato kira uppajjissatīti paṭikacceva suddhāvāsā devā vedesu lakkhaṇāni pakkhipitvā buddhamantā nāmeteti brāhmaṇaveseneva vede vācenti. Tadanusārena mahesakkhā sattā tathāgataṃ jānissantīti. tena pubbe vedesu mahāpurisalakkhaṇāni āgacchanti. parinibbute pana tathāgate anukkamena antaradhāyanti. tenetarahi natthīti. Mahāpurisassāti paṇidhi-samādāna-ñāṇa-karuṇādiguṇamahato purisassa. Dveyeva gatiyoti dveyeva niṭṭhā. Kāmañcāyaṃ gatisaddo “pañca kho imā, sāriputta, gatiyo”tiādīsu[24] bhavabhede vattati. “Gati migānaṃ pavanan”tiādīsu[25] nivāsaṭṭhāne. “Evaṃ adhimattagatimanto”tiādīsu[26] paññāyaṃ. “Gatigatan”tiādīsu visaṭabhāve. Idha pana niṭṭhāyaṃ vattatīti veditabbo.
Ở đó, trong các chú thuật: nói về ba tập Vệ-Đà. Chúng chư Thiên ở cõi Tịnh Cư thiên biết được, tương truyền rằng đấng Như Lai sẽ xuất hiện mới vội vàng lấy các tướng trạng đặt vào trong ba tập Vệ-Đà trước, rồi hóa thành Bà-la-môn đến dạy về kiến-thức Vệ-Đà rằng: “Những kiến-thức này là Phật chú” với suy nghĩ rằng: “Bằng hình thức đó những chúng sanh có uy lực lớn lao sẽ biết được đấng Như Lai”. Vì thế, các tướng trạng của bậc Đại nhân đã được lưu truyền trong ba tập Vệ-Đà trước tiên. Nhưng khi đấng Như Lai viên tịch Nibbāna thì (những điều đó) đã từ từ biến mất, vì lý do ấy mà bây giờ không còn nữa. Của bậc Đại nhân: của người có đức hạnh cao thượng do sự phát nguyện, sự thọ trì, trí tuệ và lòng bi mẫn v.v. Chỉ có hai con đường: Cuối cùng chỉ có hai (con đường). Từ ‘gati’ được vận hành với ý nghĩa ‘sự khác biệt của các Hữu-bhava’ trong câu sau: “Này Sāriputta, có năm cõi tái sanh v.v.” Từ ‘gati’ vận hành với ý nghĩa ‘nơi cư trú’: “Khu rừng lớn là nơi cư trú của muôn thú”; vận hành với ý nghĩa ‘tuệ’: “Thành tựu trí tuệ biện tài tối thượng như vậy”; ‘gati’ vận hành với ý nghĩa ‘sự từ bỏ’: “Đi đến sự từ bỏ”. Nhưng ở đây nên biết rằng: vận hành (đưa đến) cuối cùng.
Tattha kiñcāpi yehi lakkhaṇehi samannāgato rājā cakkavattī hoti, na teheva buddho hoti; jātisāmaññato pana tāniyeva tānīti vuccanti. Tena vuttaṃ — “Yehi samannāgatassā”ti. Sace agāraṃ ajjhāvasatīti yadi agāre vasati. Rājā hoti cakkavattīti catūhi acchariyadhammehi, saṅgahavatthūhi ca lokaṃ rañjanato rājā, cakkaratanaṃ vatteti, catūhi sampatticakkehi vattati, tehi ca paraṃ vatteti, parahitāya ca iriyāpathacakkānaṃ vatto etasmiṃ atthīti cakkavattī. Ettha ca rājāti sāmaññaṃ. cakkavattīti visesaṃ. Dhammena caratīti dhammiko. Ñāyena samena vattatīti attho. Dhammena rajjaṃ labhitvā rājā jātoti dhammarājā. Parahitadhammakaraṇena vā dhammiko. Attahitadhammakaraṇena dhammarājā. Caturantāya issaroti cāturanto, catusamuddāntāya, catubbidhadīpavibhūsitāya pathaviyā issaroti attho. Ajjhattaṃ kopādipaccatthike bahiddhā ca sabbarājāno vijetīti vijitāvī. Janapadatthāvariyappattoti janapade dhuvabhāvaṃ thāvarabhāvaṃ[27] patto, na sakkā kenaci cāletuṃ. Janapado vā tamhi thāvariyappatto anuyutto[28] sakammanirato acalo asampavedhīti janapadatthāvariyappatto.
Mặc dầu như vậy, trong những trạng thái đó vị thành tựu đầy đủ với những tướng trạng nào là đức Chuyển Luân Vương, không phải là đức Phật với những tướng trạng ấy. Nhưng ngài gọi những tướng trạng đó chỉ vì sự tương đồng về sanh chủng. Cho nên, ngài đã nói rằng: “Bậc Đại nhân hội đủ với những tướng nào…” Nếu sống tại gia: Nếu sống đời sống tại gia. Sẽ trở thành đức Chuyển Luân Vương: người được gọi là vua, bởi vì làm cho thần dân trong thiên hạ được thái bình với bốn pháp xuất chúng (acchariyadhamme) và bốn pháp nhiếp phục. Chuyển vận bánh xe báu, luân chuyển nhờ bốn sự thành tựu của bánh xe báu, và người khác cũng được luân chuyển nhờ bốn sự thành tựu của bánh xe báu ấy, và sự vận hành của các dáng bộ bánh xe (iriyāpathacakka) vì lợi ích cho người khác tồn tại trong người đó, người ấy gọi là đức Chuyển Luân Vương. Và ở đây ‘đức vua’ là danh từ chung chung, đức Chuyển Luân Vương là danh từ đặc biệt. Vị gọi là (minh vương) công chính bởi thực hành đúng Pháp. Có nghĩa là hành vi đúng đắn với trí tuệ. Vị được gọi là minh vương do đã đạt được vương quyền đúng Pháp mới được trở thành vua. Hoặc, vị gọi là (minh vương) công chính bởi do thực hành điều tốt đẹp mang lại lợi ích cho người khác. Vị được gọi là minh vương do thực hành điều tốt đẹp mang lại lợi ích cho bản thân. Vị gọi là bậc (chinh phục) bốn phương bởi là vị chúa tể của bốn châu, có bốn biển lớn làm ranh giới, có nghĩa là vị chúa tể trên quả địa cầu có bốn biển làm ranh giới và đầy đủ luôn cả bốn châu. Vị chiến thắng toàn bộ do chiến thắng được kẻ thù có sự giận dữ v.v, bên trong nội tâm và chiến thắng được các vị vua ngoại ban. Đạt được sự bền vững của xứ sở: đạt đến tính chất bền vững, tính chất chắc chắn ở trong xứ sở, bất cứ ai cũng không thể lay động được. Hoặc, xứ sở đạt đến tính chất bền vững ở nơi ấy không cần sự nỗ lực, hoan hỷ trong việc làm của bản thân, không lay động, không run sợ.
Seyyathidanti nipāto, tassa cetāni[29] katamānīti attho. Cakkaratanantiādīsu cakkañca, taṃ ratijananaṭṭhena ratanañcāti cakkaratanaṃ. Esa nayo sabbattha. Imesu pana ratanesu ayaṃ cakkavattirājā cakkaratanena ajitaṃ jināti, hatthiassaratanehi vijite yathāsukhaṃ anucarati, pariṇāyakaratanena vijitamanurakkhati, avasesehi upabhogasukhamanubhavati. Paṭhamena cassa ussāhasattiyogo, pacchimena mantasattiyogo, hatthiassagahapatiratanehi pabhusattiyogo suparipuṇṇo hoti, itthimaṇiratanehi tividhasattiyogaphalaṃ. So itthimaṇiratanehi bhogasukhamanubhavati, sesehi issariyasukhaṃ. Visesato cassa purimāni tīṇi adosakusalamūlajanitakammānubhāvena sampajjanti, majjhimāni alobhakusalamūlajanitakammānubhāvena, pacchimamekaṃ amohakusalamūlajanitakammānubhāvenāti veditabbaṃ. Ayamettha saṅkhepo. Vitthāro pana bojjhaṅgasaṃyutte[30] ratanasuttassa upadesato gahetabbo.
Seyyathidaṃ (gồm có): Đây là một phân từ, có nghĩa là – những loại châu báu này của đức Chuyển Luân Vương là những loại báu vật nào? Bánh xe báu v.v, và bánh xe ấy là vật báu bởi ý nghĩa làm sanh khởi sự vui mừng, vì thế gọi là bánh xe báu. Trong toàn bộ các câu đều như thế. Hơn nữa, trong số các loại báu vật này thì đức Chuyển Luân Vương chiến thắng người chưa chiến thắng bằng bánh xe báu. Ngài di chuyển thoải mái trong vương quốc do sự thắng trận bằng voi báu và ngựa báu, bảo vệ vương quốc do sự thắng trận bằng Tướng quân báu. Thọ hưởng sự an lạc bằng oai lực của các báu còn lại. Nên biết sự liên kết với nhau như sau – việc sử dụng uy lực với sự nỗ lực của đức Chuyển Luân Vương ấy được thành tựu trọn vẹn với báu vật thứ nhất (bánh xe báu), việc sử dụng uy lực bằng chú thuật thành tựu trọn vẹn bằng báu cuối cùng (Tướng quân báu), việc sử dụng uy lực bởi chủ sở hữu được thành tựu trọn vẹn với voi báu, ngựa báu và gia chủ báu, kết quả của việc sử dụng ba loại năng lực ba được thành tựu trọn vẹn do ngọc ma-ni báu và nữ nhân báu. Vị ấy tận hưởng sự an lạc khởi lên từ sự thành tựu tài sản nhờ ngọc ma-ni báu và nữ nhân báu, thọ hưởng sự an lạc khởi lên từ uy quyền tối cao nhờ các báu còn lại. Hơn nữa, nên biết thêm khác lạ nữa, ba báu vật đầu thành tựu nhờ oai lực của căn thiện vô sân được tạo ra từ nghiệp, báu vật ở giữa thành tựu nhờ oai lực của căn vô tham được tạo ra từ nghiệp, báu vật duy nhất sau cùng thành tựu do nhờ oai lực của căn thiện vô si được tạo ra từ nghiệp. Trong trường hợp này chỉ nói vắn tắt. Còn chi tiết có thể nắm lấy việc giảng giải bài Kinh Ratana trong Tương Ưng Giác Chi.
Parosahassanti atirekasahassaṃ. Sūrāti abhīrukajātikā. Vīraṅgarūpāti devaputtasadisakāyā. Evaṃ tāva eke vaṇṇayanti. Ayaṃ panettha sabbhāvo[31]. Vīrāti uttamasūrā vuccanti, vīrānaṃ aṅgaṃ vīraṅgaṃ, vīrakāraṇaṃ vīriyanti vuttaṃ hoti. vīraṅgarūpaṃ etesanti vīraṅgarūpā, vīriyamayasarīrā viyāti vuttaṃ hoti. Parasenappamaddanāti sace paṭimukhaṃ[32] tiṭṭheyya parasenā taṃ parimaddituṃ[33]samatthāti adhippāyo. Dhammenāti “pāṇo na hantabbo”tiādinā pañcasīladhammena. Arahaṃ hoti sammāsambuddho loke vivaṭṭacchadoti ettha rāgadosamohamānadiṭṭhiavijjāduccaritachadanehi sattahi paṭicchanne kilesandhakāre loke taṃ chadanaṃ vivaṭṭetvā samantato sañjātāloko hutvā ṭhitoti vivaṭṭacchado. Tattha paṭhamena padena pūjārahatā, dutiyena tassā hetu, yasmā sammāsambuddhoti, tatiyena buddhattahetubhūtā vivaṭṭacchadatā vuttāti veditabbā. Atha vā vivaṭṭo ca vicchado cāti vivaṭṭacchado, vaṭṭarahito chadanarahito cāti vuttaṃ hoti. tena arahaṃ vaṭṭābhāvena, sammāsambuddho chadanābhāvenāti evaṃ purimapadadvayasseva hetudvayaṃ vuttaṃ hoti, dutiyena vesārajjena cettha purimasiddhi, paṭhamena dutiyasiddhi, tatiyacatutthehi tatiyasiddhi hoti. purimañca dhammacakkhuṃ, dutiyaṃ buddhacakkhuṃ, tatiyaṃ samantacakkhuṃ sādhetīti veditabbaṃ. Tvaṃ mantānaṃ paṭiggahetāti iminā’ssa mantesu sūrabhāvaṃ janeti.
Có hơn một ngàn: nhiều hơn một ngàn. Người dũng cảm: người không khiếp sợ bất cứ ai. Có vóc dáng anh hùng: có vóc dáng tựa như một vị Thiên tử. Một số vị thầy đã giải thích như vậy trước. Nhưng ở đây điều này có tính chất như sau – người dũng cảm nhất được gọi là anh dũng. Yếu tố (tạo thành) của người dũng cảm gọi là vīraṅga, là nguyên nhân của sự can đảm, được nói là tính chất trở thành người dũng cảm. Có vóc dáng anh hùng của những người ấy tồn tại, vì thế, những người ấy được gọi là có vóc dáng oai hùng, được nói là có vóc dáng được thành tựu với sự cường tráng. Có khả năng tiêu diệt quân đội của kẻ thù: nếu như binh lính của kẻ thù đứng đối diện ở trước mặt (thì vị ấy) cũng có thể tiêu diệt được kẻ thù ấy. Đúng pháp: Đúng Pháp là ngũ giới có lời như sau “không nên sát hại chúng sanh” v.v. Trở thành vị A-ra-hán, Chánh đẳng Chánh giác đã cởi bỏ ‘tấm màn che là phiền não’ ở thế gian: Khi bóng tối phiền não bị che đậy bởi bảy sự che lấp là ái luyến, sân hận, si mê, ngã mạn, tà kiến, vô minh và uế hạnh, ngài đã mở tấm màn che ấy ở thế gian, có ánh sáng khởi sanh ở xung quanh chỗ đang đứng. Vì thế, ngài mới được gọi là có tám màn che là phiền não đã được cởi ra. Ở đó, (bậc trí) nên biết rằng ngài nói đến bản thể vị xứng đáng lễ bái bằng câu thứ 1; (ngài) đã nói về nguyên nhân của bản thể vị xứng đáng lễ bái ấy với câu thứ 2, bởi vì là bậc Chánh đẳng Chánh giác; (ngài) nói đến bản thể vị có tấm màn che đã được cởi bỏ làm nhân của bản thể đức Phật với câu thứ 3. Hoặc là, ngài là vị không những thoát khỏi vòng luân hồi mà còn cởi ra tấm màn che (phiền não), vì thế ngài được gọi là đã thoát khỏi vòng luân hồi và cởi ra tấm màn che (phiền não), giải thích rằng: thoát khỏi vòng luân hồi và cởi bỏ tấm màn che. Do đó, đối với 2 câu đầu ngài đã nói 2 nguyên nhân như vầy – ngài là bậc A-ra-hán bơi không còn luân hồi, – ngài gọi là bậc Chánh đẳng Chánh giác bởi cởi bỏ tấm màn che (phiền não); và ở đây, sự thành tựu ban đầu có được bởi Vô-Sở-Úy ở câu thứ 2; sự thành tựu ở câu thứ 2 có được bởi Vô-Sở-Úy ở câu thứ 1; sự thành tựu có được ở câu thứ 3 có được bởi Vô-Sở-Úy ở câu thứ 3 và câu thứ 4, nên biết rằng câu thứ 1 chỉ cho thấy (sự thành tựu) Pháp nhãn, câu thứ 2 (sự thành tựu) Phật nhãn, và câu thứ 3 (sự thành tựu) Toàn nhãn (nói đến trí Toàn Giác). Con là người tiếp nhận các chú thuật: Vị thầy nói để làm khởi lên sự dũng mãnh trong các chú thuật đối với thanh niên ấy.
259. Sopi tāya ācariyakathāya lakkhaṇesu vigatasammoho ekobhāsajāte viya[34] buddhamante sampassamāno evaṃ bhoti āha. Tassattho — ‘yathā, bho, tvaṃ vadasi, evaṃ karissāmī’ti. Vaḷavārathamāruyhāti vaḷavāyuttaṃ rathaṃ abhirūhitvā. Brāhmaṇo kira yena rathena sayaṃ vicarati, tameva rathaṃ datvā māṇavaṃ pesesi. Māṇavāpi[35] pokkharasātisseva antevāsikā. So kira tesaṃ — “ambaṭṭhena saddhiṃ gacchathā”ti saññaṃ adāsi.
259. Mặc dù thanh niên ấy đã thoát khỏi sự si ám trong các trạng thái lời nói của vị thầy ấy, khi đang quan sát Phật chú như thể phóng ra một luồng ánh sáng, (vị ấy) đã nói rằng ‘Xin vâng, thưa ngài’. Ý nghĩa của câu đó như sau – “Thưa thầy, thầy nói như thế nào, con sẽ thực hiện như thế ấy.’ Đã leo lên cỗ xe ngựa cái: Đã leo lên cỗ xe ngựa cái. Biết rằng Bà-la-môn tự mình đi bằng cỗ xe nào thì (vị ấy) đã cho chính cỗ xe đó để đưa người thanh niên đi. Người thanh niên: chính là đệ tử của Bà-la-môn Pokkharasāti. Được biết Bà-la-môn ấy đã ra dấu cho các đệ tử rằng: “Các con hãy đi cùng với thanh niên Ambaṭṭha”.
Yāvatikā yānassa bhūmīti yattakaṃ sakkā hoti yānena gantuṃ, ayaṃ yānassa bhūmi nāma. Yānā paccorohitvāti ayānabhūmiṃ[36], dvārakoṭṭhakasamīpaṃ gantvā yānato paṭiorohitvā.
Đến hết đoạn đường xe có thể đi được: vị ấy có thể di chuyển bằng cỗ xe hết diện tích chừng bao nhiêu. Đã xuống xe: vị ấy đã đi đến gần cổng ra vào không phải khu vực đỗ xe, (vị ấy) đã xuống xe.
Tena kho pana samayenāti yasmiṃ samaye ambaṭṭho ārāmaṃ pāvisi. Tasmiṃ pana samaye, ṭhitamajjhanhikasamaye. Kasmā pana tasmiṃ samaye caṅkamantīti? paṇītabhojanapaccayassa thinamiddhassa vinodanatthaṃ, divāpadhānikā vā te. Tādisānañhi pacchābhattaṃ caṅkamitvā nhāyitvā sarīraṃ utuṃ gāhāpetvā nisajja samaṇadhammaṃ karontānaṃ cittaṃ ekaggaṃ hoti. Yena te bhikkhūti so kira — “kuhiṃ samaṇo gotamo”ti pariveṇato pariveṇaṃ anāgantvā “pucchitvāva[37] pavisissāmī”ti vilokento[38] araññahatthī viya mahācaṅkame caṅkamamāne paṃsukūlike bhikkhū disvā tesaṃ santikaṃ agamāsi. Taṃ sandhāya yena te bhikkhūtiādi vuttaṃ. Dassanāyāti daṭṭhuṃ, passitukāmā hutvāti attho.
Vào lúc bấy giờ: Thanh niên Ambaṭṭha đi bộ vào tu viện vào lúc nào, vào lúc ấy là vào lúc chính ngọ. Vì sao các vị tỳ khưu kinh hành vào thời gian ấy? Để xua tan sự buồn ngủ có các món ăn thượng vị làm duyên, hoặc các vị tỳ khưu ấy thực hành tin tấn vào thời gian buổi trưa. Bởi vì tâm của vị tỳ khưu đã kinh hành sau thời thọ thực, đã tắm gội, dãi gió, đã ngồi xuống tiến hành Sa-môn Pháp (đạt đến) trạng thái chuyên nhất của tâm. Các vị tỳ khưu ấy: được biết thanh niên ấy nghĩ rằng – “Ta sẽ không đi từ khu vực ấy để đi đến khu vực này” với suy nghĩ rằng: “Sa-môn Gotama đang trú ở nơi nào?” (Ta) sẽ hỏi trước rồi mới đi đến yết kiến, trong khi đưa mắt nhìn như thể voi sống ở trong rừng, đã nhìn thấy các vị tỳ khưu mặc y phấn tảo đang đi kinh hành trên chỗ kinh hành lớn, mới đi đến gần chỗ của các vị tỳ khưu ấy. Để đề cập đến nguyên nhân ấy đã nói lời này rằng: “Các vị tỳ khưu ấy…” Để diện kiến: để gặp, có nghĩa là người mông muốn được diện kiến.
260. Abhiññātakolaññoti pākaṭakulajo. Tadā kira jambudīpe ambaṭṭhakulaṃ nāma pākaṭakulamahosi . Abhiññātassāti rūpajātimantakulāpadesehi pākaṭassa. Agarūti abhāriko. Yo hi ambaṭṭhaṃ ñāpetuṃ na sakkuṇeyya, tassa tena saddhiṃ kathāsallāpo garu bhaveyya. Bhagavato pana tādisānaṃ māṇavānaṃ satenāpi sahassenāpi pañhaṃ puṭṭhassa vissajjane dandhāyitattaṃ natthīti maññamānā — “agaru kho panā”ti cintayiṃsu. Vihāroti gandhakuṭiṃ sandhāya āhaṃsu.
260. Được sinh ra từ gia tộc nổi tiếng: sinh ra trong gia tộc trứ danh. Được biết rằng vào thời gian ấy gia đình Ambaṭṭha được xem là gia tộc nổi tiếng ở Jambudīpa. Có danh tiếng: lừng danh bởi sắc tướng, sanh chủng, chú thuật, gia tộc và quốc độ. Không khó khăn: không có khó khăn. Bởi vì, người nào không đủ khả năng hiểu được Ambaṭṭha, thì việc đàm luận trò chuyện cùng với vị ấy của người đó có thể trở nên khó khăn. Tuy nhiên, đối với đức Thế Tôn dầu bị hàng trăm, hàng ngàn thanh niên như Ambaṭṭha ấy đi chăng nữa hỏi vấn đề thì Ngài cũng không có sự trì trệ trong việc giải đáp (vấn đề), chư tỳ khưu nghĩ như thế – mới khởi lên suy nghĩ rằng: “Việc đàm luận trò chuyện…không khó khăn” Tu viện: Ngài đề cập đến Hương Thất.
Ataramānoti aturito[39], saṇikaṃ padappamāṇaṭṭhāne padaṃ nikkhipanto vattaṃ katvā susammaṭṭhaṃ muttādalasinduvārasantharasadisaṃ vālikaṃ avināsentoti attho. Āḷindanti pamukhaṃ. Ukkāsitvāti ukkāsitasaddaṃ katvā. Aggaḷanti dvārakavāṭaṃ[40]. Ākoṭehīti agganakhehi[41] saṇikaṃ[42] kuñcikacchiddasamīpe ākoṭehīti vuttaṃ hoti. Dvāraṃ kira atiupari amanussā, atiheṭṭhā dīghajātikā koṭenti. Tathā anākoṭetvā majjhe chiddasamīpe koṭetabbanti idaṃ dvārākoṭanavattanti dīpentā vadanti.
Không vội vã: Không thúc ép, có nghĩa là đặt chân xuống vào vị trí thích hợp với bàn chân, sau khi thực hành phận sự, không hủy hoại chỗ cát đã được san bằng như thể trải ra với ngọc, lá cây và hoa sinduvāra trở thành ổ thành hố. Mái hiên: ở phía trước (Hương Thất). Đằng hắng: tạo ra tiếng đằng hắng. Then cửa: Cái then cài cửa. Gõ: làm rõ vấn đề như sau – ông hãy lấy đầu ngón tay gõ nhẹ nhẹ thẳng vào chỗ gần lỗ ổ khóa. Các vị thầy khi hướng dẫn nguyên tắc gõ cửa mới nói rằng – tương truyền rằng phi nhân gõ cửa quá cao, chúng sanh thuộc chủng loại rồng gõ cửa quá thấp, con người không nên gõ cửa như vậy (mà) nên gõ gần lỗ (ổ khóa) ở chính giữa.
261. Vivari bhagavā dvāranti na bhagavā uṭṭhāya dvāraṃ vivari. Vivariyatūti pana hatthaṃ pasāresi. Tato “bhagavā tumhehi anekāsu kappakoṭīsu dānaṃ dadamānehi na sahatthā dvāravivaraṇakammaṃ katan”ti sayameva dvāraṃ vivaṭaṃ. Taṃ pana yasmā bhagavato manena vivaṭaṃ, tasmā vivari bhagavā dvāranti vattuṃ vaṭṭati.
261. Đức Thế Tôn đã mở cửa: Đức Thế Tôn đã không đứng dậy mở cửa, mà ngài đã duỗi cánh tay ra nói rằng: (cánh cửa) hãy mở ra’. Từ đó, cánh cửa tự động mở ra “Kính bạch đức Thế Tôn, ngài khi bố thí trong vô số koṭi kiếp, đã không từng tạo nghiệp là việc mở cánh cửa bằng chính đôi tay của ngài.” Cánh cửa ấy đã mở ra bởi ý của đức Thế Tôn, vì thế thật thích hợp để nói rằng: “đức Thế Tôn đã mở cánh cửa”.
Bhagavatā saddhiṃ sammodiṃsūti yathā khamanīyādīni pucchanto bhagavā tehi, evaṃ tepi bhagavatā saddhiṃ samappavattamodā ahesuṃ. Sītodakaṃ viya uṇhodakena sammoditaṃ ekībhāvaṃ agamaṃsu. Yāya ca “kacci, bho gotama, khamanīyaṃ; kacci yāpanīyaṃ, kacci bhoto ca gotamassa[43] sāvakānañca appābādhaṃ, appātaṅkaṃ, lahuṭṭhānaṃ, balaṃ, phāsuvihāro”tiādikāya kathāya sammodiṃsu, taṃ pītipāmojjasaṅkhātasammodajananato sammodituṃ yuttabhāvato ca sammodanīyaṃ, atthabyañjanamadhuratāya sucirampi kālaṃ sāretuṃ nirantaraṃ pavattetuṃ arahabhāvato saritabbabhāvato ca sāraṇīyaṃ. Suyyamānasukhato sammodanīyaṃ, anussariyamānasukhato ca sāraṇīyaṃ. Tathā byañjanaparisuddhatāya sammodanīyaṃ, atthaparisuddhatāya sāraṇīyaṃ. Evaṃ anekehi pariyāyehi sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā pariyosāpetvā niṭṭhapetvā ekamantaṃ nisīdiṃsu.
Đã tỏ vẻ thân thiện với đức Thế Tôn: Đức Thế Tôn trong khi hỏi (rằng): ‘(các ông) sức khoẻ có khá không?” v.v, niềm nở (hỏi thăm) đối với các thanh niên ấy như thế nào, luôn cả những thanh niên ai cũng niềm nở hỏi thăm (mọi việc) đều diễn ra tợ như đức Thế Tôn tương tự thế ấy. Là đạt đến sự hân hoan (cùng với nhau), tính chất đồng nhất (cùng với nhau), như thể nước lạnh được hòa lẫn với nước nóng. Những thanh niên ấy ai cũng vui mừng với những lời nói nào đó rằng: “Thưa ngài Gotama, sức khoẻ có khá không? Mọi việc có được thuận tiện không? Ngài Gotama và các đệ tử của Ngài có ít bệnh, ít mệt mỏi, đi lại nhẹ nhàng, khỏe mạnh và sống an ổn không? v.v.” Những lời đó gọi là nơi thiết lập của sự vui mừng bởi làm nhân khởi lên sự vui mừng là phỉ lạc và sự hân hoan, và bởi vì chúng là những lời nói thích hợp đem lại sự vui mừng. Làm nhân cho nhớ đến nhau vì đó là lời nói thích hợp để cho (người nghe nhớ) mãi, ngay cả trong thời gian dài, diễn ra liên tục không bị gián đoạn, và bởi vì lời nói đó êm dịu bởi ý nghĩa và văn tự. Gọi là nơi thiết lập của sự vui mừng bởi vì khiến người nghe được an lạc, gọi là làm nhân cho nhớ đến nhau bởi vì khi nhớ đến cũng được an lạc. Hơn nữa, gọi là nơi thiết lập của sự vui mừng vì văn cú rõ ràng, gọi là làm nhân cho nhớ đến nhau bởi vì ý nghĩa được sáng tỏ. Sau khi nói lời trao đổi xã giao thân thiện, đã hoàn tất, đã kết thúc với nhiều phương diện khác nhau (như đã được giải thích), rồi ngồi xuống một bên phù hợp.
Ambaṭṭho pana māṇavoti so kira bhagavato rūpasampattiyaṃ cittappasādamattampi akatvā “dasabalaṃ apasādessāmī”ti udare baddhasāṭakaṃ muñcitvā kaṇṭhe olambetvā ekena hatthena dussakaṇṇaṃ gahetvā caṅkamaṃ abhirūhitvā kālena bāhuṃ, kālena udaraṃ, kālena piṭṭhiṃ dassento, kālena hatthavikāraṃ, kālena bhamukavikāraṃ karonto, “kacci te bho, gotama, dhātusamatā, kacci bhikkhāhārena na kilamatha[44], akilamathākāroyeva pana te paññāyati; thūlāni hi te aṅgapaccaṅgāni, pāsādikattha[45] gatagataṭṭhāne. ‘Te bahujanā rājapabbajitoti ca buddho’ti ca uppannabahumānā paṇītaṃ ojavantamāhāraṃ denti. Passatha, bho, gehaṃ, cittasālā viya, dibbapāsādo viya. Imaṃ mañcaṃ passatha, bimbohanaṃ passatha, kiṃ evarūpe ṭhāne vasantassa samaṇadhammaṃ kātuṃ dukkaran”ti evarūpaṃ uppaṇḍanakathaṃ anācārabhāvasāraṇīyaṃ katheti[46], tena vuttaṃ — “ambaṭṭho pana māṇavo caṅkamantopi nisinnena bhagavatā kiñci kiñci kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāreti, ṭhitopi nisinnena bhagavatā kiñci kiñci kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretī”ti.
Còn thanh niên Ambaṭṭha: Được biết rằng – vị ấy đã không thực hành dù chỉ sự tịnh tín nơi tâm trong sự thành tựu về sắc tướng của đức Thế Tôn, nghĩ rằng: “Ta sẽ làm mất uy tín đấng Thập Lực” (vị ấy) đã cởi mảnh vải buộc ở bụng rồi quàng vào cổ, đã lấy một tay cầm ở mép vải ấy, bước lên chỗ kinh hành, thỉnh thoảng mở cánh tay, thỉnh thoảng lại vạch phần bụng, thỉnh thoảng lại vạch phần lưng cho thấy, thỉnh thoảng lại lắc tay, thỉnh thoảng lại nhíu mày, đã nói những lời nói phỉ báng khiến (vị ấy) nhớ lại những hành vi đáng xấu hổ bằng hình thức như thế – “Ngài Gotama, ngài có sự điều hòa tứ đại không? Ngài không khó khăn với việc đi khất thực không? chính biểu hiện không khó nhọc ấy vẫn xuất hiện đối với ngài; thật vậy các chi phần lớn nhỏ của ngài là chỗ thiết lập của sự tịnh tín. ‘Ở nơi ngài đã đi, đám đông dân chúng có nhiều sự tôn kính được khởi lên với suy nghĩ rằng: ‘ngài là đức vua, bậc xuất gia và ngài là đức Phật’ (mọi người) ai cũng cúng dường vật thực có hương vị ngon ngọt thượng hạng, ngài hãy nhìn ngôi nhà của ngài giống như Cittasālā xinh đẹp, tựa như Thiên cung, hãy nhìn chiếc giường này, hãy nhìn cái gối, trong khi ngài cư ngụ ở trú xứ có hình thức như thế thì việc thực hành Sa-môn Pháp khó thực hiện được.” Vì lý do đó ngài đã nói rằng – “Trái lại, thanh niên Ambaṭṭha, thậm chí trong lúc đang bước tới bước lui mà vẫn trao đổi lời xã giao thân thiện này nọ với đức Thế Tôn đang ngồi, thậm chí trong lúc đứng mà vẫn trao đổi lời xã giao này nọ với đức Thế Tôn đang ngồi.”
262. Atha kho bhagavāti atha bhagavā — “ayaṃ māṇavo hatthaṃ pasāretvā bhavaggaṃ gahetukāmo viya, pādaṃ pasāretvā avīciṃ vicaritukāmo viya, mahāsamuddaṃ taritukāmo viya, sineruṃ ārohitukāmo viya ca aṭṭhāne vāyamati, handa, tena saddhiṃ mantemī”ti ambaṭṭhaṃ māṇavaṃ etadavoca. Ācariyapācariyehīti ācariyehi ca tesaṃ ācariyehi ca.
262. Khi ấy, đức Thế Tôn: Khi ấy đức Thế Tôn nghĩ rằng – “Thanh niên này cố gắng ở nơi không thích hợp, giống như người có mong muốn duỗi cánh tay với lấy cảnh giới tột cùng của hiện hữu, giống như người có mong muốn duỗi chân ra để đi xuống địa ngục Avīcī, giống như có mong muốn vượt qua đại dương và giống như người có mong muốn leo lên đỉnh núi Suneru, thôi được rồi, Ta (sẽ) thử nhắc lại cho vị ấy biết” (vì thế) (ngài) mới nói với thanh niên Ambaṭṭha điều này. Bậc thầy tổ: Cùng với những vị thầy và thầy của thầy.
Nói Về Sự Áp Đặt cách gọi là Kẻ Tôi Tớ lần thứ 1.
263. Gacchanto vāti ettha kāmaṃ tīsu iriyāpathesu brāhmaṇo ācariyabrāhmaṇena saddhiṃ sallapitumarahati. Ayaṃ pana māṇavo mānathaddhatāya kathāsallāpaṃ[47] karonto cattāropi iriyāpathe yojessāmīti “sayāno vā hi, bho gotama, sayānenā”ti āha.
263. Vị đang đi: ở đây, vị Bà-la-môn xứng đáng trò chuyện với vị Bà-la-môn là thầy trong cả 3 oai nghi. Nhưng vị Bà-la-môn này do bản thân là người ương ngạnh bởi ngã mạn, trong khi trò chuyện nghĩ rằng: Ta sẽ sử dụng hết 4 oai nghi mới nói như sau – “Này ông Gotama, bởi vì vị Bà-la-môn đang nằm thì xứng đáng trò chuyện với vị Bà-la-môn đang nằm”.
Tato kira taṃ bhagavā — “ambaṭṭha, gacchantassa vā gacchantena, ṭhitassa vā ṭhitena, nisinnassa vā nisinnenācariyena saddhiṃ kathā nāma sabbācariyesu labbhati. tvaṃ pana sayāno sayānenācariyena saddhiṃ kathesi, kiṃ te ācariyo gorūpaṃ, udāhu tvan”ti āha. So kujjhitvā — “Ye ca kho te, bho gotama, muṇḍakā”tiādimāha. Tattha muṇḍe muṇḍāti samaṇe ca samaṇāti vattuṃ vaṭṭeyya. Ayaṃ pana hīḷento muṇḍakā samaṇakāti āha. Ibbhāti gahapatikā. Kaṇhāti[48] kaṇhā, kāḷakāti attho. Bandhupādāpaccāti ettha bandhūti brahmā adhippeto. Tañhi brāhmaṇā pitāmahoti voharanti. Pādānaṃ apaccā pādāpaccā, brahmuno piṭṭhipādato jātāti adhippāyo. Tassa kira ayaṃ laddhi — brāhmaṇā brahmuno mukhato nikkhantā, khattiyā urato, vessā nābhito, suddā jāṇuto, samaṇā piṭṭhipādatoti. Evaṃ kathento ca panesa kiñcāpi aniyametvā katheti. Atha kho bhagavantameva vadāmīti katheti.
Được biết kể từ đó đức Thế Tôn đã nói cùng thanh niên ấy rằng – “Này Ambaṭṭha, vị đang đi (xứng đáng trò chuyện) với vị đang đi, vị đang đứng (xứng đáng trò chuyện) với vị đang đứng, vị đang ngồi (xứng đáng trò chuyện) với vị đang ngồi, sử dụng được đối với mỗi mỗi vị thầy, tuy nhiên cậu đang nằm (xứng đáng trò chuyện) với vị thầy đang nằm, chắc chắn thầy của cậu là con bò hoặc là con lừa cái phải chăng?” Thanh niên Ambaṭṭha trở nên giận dữ, (vì thế) đã nói lời này – “Này ông Gotama, còn những hạng Sa-môn đầu trọc”. Ở đó, việc gọi người có đầu trọc là ‘kẻ đầu trọc’ và gọi những hạng Sa-môn là Sa-môn (sẽ) phù hợp hơn. Tuy nhiên, thanh niên này buông lời lăng mạ đã nói rằng ‘những hạng Sa-môn đầu trọc’. Những hạng đầy tớ: những người gia chủ. Đen: đen đủi, là người (có màu da) đen. Được sanh ra từ gót chân của Phạm Thiên: Ở đây, Bà-la-môn có ý muốn nói đến mối quan hệ. Bởi vì các Bà-la-môn gọi vị Phạm Thiên ấy là ‘tổ phụ’. Những người được sanh ra từ hai gót chân được gọi là dòng dõi được sanh ra từ gót chân của Phạm Thiên. Tương truyền những Bà-la-môn này có học thuyết như vầy: “Bà-la-môn được sanh ra từ miệng của Phạm thiên, Sát-đế-lỵ được sanh ra ở trước ngực, những người nô lệ sanh ra từ lỗ rốn, những Sa-môn được sanh ra từ gót chân.” Cũng vậy, những Bà-la-môn ấy đã nói như thế, đã không nói cụ thể đến ai. Nhưng thực tế thì vị ấy nói (với ý định) rằng: “Ta nói đến chính đức Thế Tôn”.
Atha kho bhagavā — “ayaṃ ambaṭṭho āgatakālato paṭṭhāya mayā saddhiṃ kathayamāno mānameva nissāya kathesi, āsīvisaṃ gīvāyaṃ gaṇhanto viya, aggikkhandhaṃ āliṅganto viya, mattavāraṇaṃ soṇḍāya parāmasanto viya, attano pamāṇaṃ na jānāti. Handa naṃ jānāpessāmī”ti cintetvā “atthikavato kho pana te, ambaṭṭhā”tiādimāha. Tattha āgantvā kattabbakiccasaṅkhāto attho, etassa atthīti atthikaṃ, tassa māṇavassa cittaṃ. Atthikamassa atthīti atthikavā, tassa atthikavato tava idhāgamanaṃ ahosīti attho.
Khi ấy đức Thế Tôn đã suy nghĩ rằng – “Thanh niên Ambaṭṭha này vốn dĩ từ lúc đến, khi nói chuyện cùng Ta thì cũng chỉ do y cứ hoàn toàn vào ngã mạn, không biết đánh giá về bản thân cũng như người bắt rắn độc ở đầu, như người ôm ngọn lửa, như người vuốt ve con voi điên ở vòi. Thôi được rồi, Ta sẽ cho cậu ấy hiểu, mới nói rằng: “Này Ambaṭṭha, cậu quả thật có việc…” Trong câu đó, nội dung chính là – mục đích được xem là phận sự cần phải thực hiện sau khi đến của tâm ấy hiện hữu, do đó tâm của thanh niên ấy mới gọi là có mục đích. Tâm có mục đích của vị ấy tồn tại, vì thế vị ấy mới gọi là có tâm có mục đích, của thanh niên ấy, có nghĩa là – cậu có tâm có mục đích nên mới có việc đi đến đây.
Kho panāti nipātamattaṃ. Yāyeva kho panatthāyāti yeneva kho panatthena. Āgaccheyyāthāti mama vā aññesaṃ vā santikaṃ yadā kadāci āgaccheyyātha. Tameva atthanti idaṃ purisaliṅgavaseneva vuttaṃ. Manasi kareyyāthāti citte kareyyātha. idaṃ vuttaṃ hoti — tvaṃ ācariyena attano karaṇīyena pesito, na amhākaṃ paribhavanatthāya, tasmā tameva kiccaṃ manasi karohīti. Evamassa aññesaṃ santikaṃ āgatānaṃ vattaṃ dassetvā mānaniggaṇhanatthaṃ “avusitavāyeva kho panā”tiādimāha. Tassattho passatha bho ayaṃ ambaṭṭho māṇavo ācariyakule avusitavā asikkhito appassutova samāno. Vusitamānīti “ahaṃ vusitavā sikkhito bahussuto”ti attānaṃ maññati. Etassa hi evaṃ pharusavacanasamudācāre[49] kāraṇaṃ kimaññatra avusitattāti ācariyakule asaṃvuddhā asikkhitā appassutāyeva hi evaṃ vadantīti.
Kho pana chỉ là một phân từ. Các cậu đi đến vì mục đích gì: với mục đích gì. Nên đến: các cậu thỉnh thoảng nên đến trú xứ của Ta hoặc của người khác. Mục đích ấy: điều này được nói do tác động tánh nam. Hãy khéo léo chú ý: hãy thực hiện trong tâm. Điều này được giải thích rằng: ‘Cậu được thầy cử đến vì công việc của mình, chớ không phải đưa đến vì mục đích nói lời xúc phạm đến Ta, vì thế mà cậu hãy khéo léo chú ý đến chính phận sự ấy.’ Sau khi đức Thế Tôn khi chỉ ra bổn phận của hạng người đi đến trú xứ của người khác đối với thanh niên ấy như vậy, để chế ngự ngã mạn (của thanh niên Ambaṭṭha) mới nói rằng: “Này các bạn trẻ, thanh niên Ambaṭṭha này quả thật là vô giáo dục…” Điều đó có ý nghĩa là: này các bạn trẻ, các cậu hãy nhìn thanh niên Ambaṭṭha này vô học, vô giáo dục, là kẻ ít học sống nương nhờ trú xứ của thầy. Nhưng lại tự hào là người có học – thanh niên Ambaṭṭha tưởng rằng: “Ta là người có học, có giáo dục, là bậc đa văn”. Cũng bởi vì việc Ambaṭṭha ấy đã thốt ra những lời nói khiếm nhã như vậy, có gì khác ngoài một kẻ thật sự không được giáo dục, cho nên chỉ có những hạng người không tự mình biết , không được học tập, ít được lắng nghe trong dòng dõi của thầy nên mới nói những lời như thế.
264. Kupitoti kuddho. Anattamanoti asakamano, kiṃ pana bhagavā tassa kujjhanabhāvaṃ ñatvā evamāha udāhu añatvāti? Ñatvā āhāti. Kasmā ñatvā āhāti? Tassa mānanimmadanatthaṃ. Bhagavā hi aññāsi — “Ayaṃ mayā evaṃ vutte kujjhitvā mama ñātake akkosissati. Athassāhaṃ yathā nāma kusalo bhisakko dosaṃ uggiletvā[50] nīharati, evameva gottena gottaṃ, kulāpadesena kulāpadesaṃ, uṭṭhāpetvā bhavaggappamāṇena viya uṭṭhitaṃ mānaddhajaṃ mūle chetvā nipātessāmī”ti. Khuṃsentoti ghaṭṭento. Vambhentoti hīḷento. Pāpito bhavissatīti caṇḍabhāvādidosaṃ pāpito bhavissati.
264. Kupito đồng nghĩa với kuddho (đã trở nên giận dữ). Không hoan hỷ: có tâm không phải của mình , (hỏi rằng) đức Thế Tôn nói như thế, Ngài biết rằng cậu ấy giận dữ hay không biết? (Đáp) Ngài biết. Vì sao biết mà lại nói? Nhằm mục đích nhổ bỏ ngã mạn (của thanh niên ấy). Thật ra đức Thế Tôn đã biết rằng: “Thanh niên này trong khi Ta nói như thế sẽ trở nên giận dữ, rồi chửi rủa thân quyến của Ta, khi ấy Ta sẽ lấy dòng dõi với dòng dõi, lấy gia quyến và quốc độ với gia quyến và quốc độ ra để dẫn chứng, sau khi cắt đứt ngọn cờ là ngã mạn mà cậu ấy đưa lên cao như so sánh với cảnh giới tột cùng của hiện hữu ở tại gốc rễ khiến cho biến mất, tương tự như một vị thầy thuốc tài giỏi rửa sạch vết thương rồi đem (chất dơ) ra khỏi (cơ thể)”. Chửi rủa: nói mỉa mai. Khinh bỉ: nói lăng mạ. Sẽ bôi nhọ: sẽ bôi nhọ bằng những lỗi lầm có bản chất là người tàn bạo.
Caṇḍāti mānanissitakodhayuttā. Pharusāti kharā. Lahusāti lahukā. Appakeneva tussanti vā dussanti vā udakapiṭṭhe alābukaṭāhaṃ viya appakeneva uplavanti. Bhassāti[51] bahubhāṇino. Sakyānaṃ mukhe vivaṭe aññassa vacanokāso natthīti adhippāyeneva vadati. Samānāti idaṃ santāti purimapadassa vevacanaṃ. Na sakkarontīti na brāhmaṇānaṃ sundarenākārena karonti. Na garuṃ karontīti brāhmaṇesu gāravaṃ na karonti. Na mānentīti na manena piyāyanti. Na pūjentīti mālādīhi nesaṃ pūjaṃ na karonti. Na apacāyantīti abhivādanādīhi nesaṃ apacitikammaṃ nīcavuttiṃ na dassenti Tayidanti taṃ idaṃ. Yadime sakyāti yaṃ ime sakyā na brāhmaṇe sakkaronti … pe … na apacāyanti, taṃ tesaṃ asakkārakaraṇādi sabbaṃ na yuttaṃ, nānulomanti attho.
Ác độc: phối hợp với sự giận dữ y cứ ngã mạn sanh khởi. Thô lỗ: thô thiển. Khinh bạc: xem thường. Bọn họ (một số) hoan hỷ, (một số) không hài lòng với những thứ nhỏ nhặt là có thể thay đổi theo tâm trạng, chuyện nhỏ nhặt như thể vỏ trái bầu trôi trên mặt nước. Lắm mồm: ưa thích nói nhiều, thanh niên Ambaṭṭha nói với ý muốn rằng: ‘Đối với chủng tộc Sakya khi đã mở miệng thì người khác không có cơ hội để nói.’ Từ ‘samānā’ này là từ đồng nghĩa với từ đầu tiên ‘santā’ (nghĩa là: là). Không trọng vọng: không thực hiện với biểu hiện tốt đẹp đối với Bà-la-môn. Không cung kính: không cung kính đối với các Bà-la-môn. Không sùng bái: Không yêu quý bằng tâm. Không cúng dường: không cúng dường đối với các vị Bà-la-môn bằng những tràng hoa v.v. Không nể nang: không bày tỏ sự cung kính, tức là thể hiện hành động cúi mình để đảnh lễ v.v. Tayidaṃ tách từ thành ‘taṃ idaṃ (này đây)’. Các người dòng họ Sakya: có nội dung là “các người dòng họ Sakya này không trọng vọng các vị Bà-la-môn, không cung kính các vị Bà-la-môn, không sùng bái các vị Bà-la-môn, không cúng dường các vị Bà-la-môn, không nể nang các vị Bà-la-môn, việc không trọng vọng v.v, của các người dòng họ Sakya ấy là không thích đáng, điều này là không phù hợp.”
Nói Về Sự Áp Đặt cách gọi là Kẻ Tôi Tớ lần thứ 2.
265. Aparaddhunti aparajjhiṃsu. Ekamidāhanti ettha idanti nipātamattaṃ. Ekaṃ ahanti attho. Sandhāgāranti rajja-anusāsanasālā[52]. Sakyāti abhisittarājāno. Sakyakumārāti anabhisittā. Uccesūti yathānurūpesu pallaṅka-pīṭhaka-vettāsanaphalakacittattharaṇādibhedesu. Sañjagghantāti uppaṇḍanavasena mahāhasitaṃ hasantā. Saṃkīḷantāti hasitamatta karaṇāṅgulisaṅghaṭṭanapāṇippahāradānādīni karontā. Mamaññeva maññeti evamahaṃ maññāmi, mamaññeva anuhasanti, na aññanti.
265. Đã xúc phạm: đã gây tổn thương. Từ ‘idaṃ’ trong từ ‘Ekamidāhaṃ’ này chỉ là một phân từ, nghĩa là một lần nọ tôi đã v.v. Hội trường: hội trường là nơi dạy bảo đề tài trở thành vua. Các vị (vua) dòng họ Sakya: đức vua đã được làm lễ đăng quang. Các vương tử dòng họ Sakya: là những vị chưa được làm lễ đăng quang. Ở chỗ ngồi cao: là ở trên các loại chỗ ngồi như ngai vàng, ghế, chỗ ngồi được làm bằng cây mây, tấm ván và thảm trải ngồi xinh đẹp v.v. theo sự phù hợp. Thọt lét lẫn nhau: cười cợt lớn tiếng do tác động sự giễu cợt. Đùa giỡn với nhau: Làm những biểu hiện như tạo ra tiếng cười, búng ngón tay và vỗ tay v.v. Chắc hẳn họ đang chế nhạo chính tôi: Tôi nghĩ như vậy rằng: ‘Các người dòng họ Sakya cười chế nhạo một mình tôi, không phải cười chế nhạo người khác.”
Kasmā pana te evamakaṃsūti? Te kira ambaṭṭhassa kulavaṃsaṃ jānanti. Ayañca tasmiṃ samaye yāva pādantā olambetvā nivatthasāṭakassa ekena hatthena dussakaṇṇaṃ gahetvā khandhaṭṭhikaṃ nāmetvā mānamadena matto viya āgacchati. Tato — “Passatha bho amhākaṃ dāsassa kaṇhāyanagottassa ambaṭṭhassa āgamanakāraṇan”ti vadantā evamakaṃsu. sopi attano kulavaṃsaṃ jānāti. Tasmā “mamaññeva maññe”ti takkayittha.
(Hỏi rằng) Tại sao dòng họ Sakya ấy đã làm như thế? (Đáp) được biết các vị dòng họ Sakya ấy biết được dòng dõi của Ambaṭṭha. Và lúc bấy giờ, thanh niên Ambaṭṭha này đã cầm lấy mép y bằng một tay mà vị ấy vận (váy) kiểu buông mép xuống chạm ngón chân, cúi cổ xuống bước đi như kẻ say rượu bởi sự say mê là ngã mạn. Khi ấy các vị dòng họ Sakya mới nói như vầy – “Này các ông, các ông hãy nhìn lý do đi đến của Ambaṭṭha dòng họ Kaṇhāyana là tôi tớ của chúng ta mới phải hành động như thế.” Mặc dầu cậu ấy biết được dòng họ của mình. Do đó, cậu ấy mới nghĩ rằng: “Chắc chắn các người dòng họ Sakya ấy cười chế nhạo tôi.”
Āsanenāti “idamāsanaṃ, ettha nisīdāhī”ti evaṃ āsanena nimantanaṃ nāma hoti, tathā na koci akāsi.
Với chiếc ghế ngồi: Không có việc mời ngồi như vầy – “Đây là chỗ ngồi, cậu hãy ngồi trên chỗ ngồi này”, chẳng có một ai làm như thế.
Nói Về Sự Áp Đặt cách gọi là Kẻ Tôi Tớ lần thứ 3.
266. Laṭukikāti khettaleḍḍūnaṃ antare nivāsinī[53] khuddakasakuṇikā. Kulāvaketi nivāsanaṭṭhāne. Kāmalāpinīti yadicchakabhāṇinī, yaṃ yaṃ icchati taṃ taṃ lapati, na taṃ koci haṃso vā koñco vā moro vā āgantvā “kiṃ tvaṃ lapasī’ti nisedheti. Abhisajjitunti kodhavasena laggituṃ.
266. Con chim cút mái: con chim nhỏ sống nương theo những ngóc ngách giữa các cục đất ở cánh đồng. Ở trong tổ: ở nơi trú ngụ. Loài vật nói được theo ý thích: Nó (sẽ) nói theo ý muốn của mình, (bản thân) ước muốn điều nào thì (sẽ) nói ra điều đó, thiên nga, sếu, hay chim công sau khi bay đến cũng không cấm cản nó ấy rằng: “mi nỉ non làm gì.” Tức tối: mắc vào do mãnh lực của sự giận dữ.
Evaṃ vutte māṇavo — “ayaṃ samaṇo gotamo attano ñātake laṭukikasadise katvā amhe haṃsakoñcamorasadise[54] karoti, nimmāno dāni jāto”ti maññamāno uttari[55] cattāro vaṇṇe dasseti.
Khi đức Thế Tôn nói như vầy, thanh niên trong khi suy nghĩ rằng – “Sa-môn Gotama này đã làm gia quyến của Ngài giống như con chim cút mái, làm cho chúng tôi ngang bằng với loài thiên nga, loài sếu, và chim công, lần này có lẽ sẽ hết ngã mạn mới chỉ ra thêm bốn gia cấp cao hơn nữa.
Nói Về Sự Áp Đặt cách gọi là Con Trai Của Nữ Tỳ.
267. Nimmādetīti nimmadeti nimmāne karoti. Yaṃnūnāhanti yadi panāhaṃ. “Kaṇhāyanohamasmi, bho gotamā”ti idaṃ kira vacanaṃ ambaṭṭho tikkhattuṃ mahāsaddena avoca. Kasmā avoca? Kiṃ asuddhabhāvaṃ na jānātīti? Āma jānāti. jānantopi bhavapaṭicchannametaṃ kāraṇaṃ, taṃ anena na diṭṭhaṃ. Apassanto mahāsamaṇo kiṃ vakkhatīti maññamāno mānathaddhatāya avoca. Mātāpettikanti mātāpitūnaṃ santakaṃ. Nāmagottanti paṇṇattivasena nāmaṃ, paveṇīvasena gottaṃ. Anussaratoti anussarantassa kulakoṭiṃ sodhentassa. Ayyaputtāti sāmino puttā[56]. Dāsiputtoti gharadāsiyāva putto. Tasmā yathā dāsena sāmino upasaṅkamitabbā, evaṃ anupasaṅkamantaṃ taṃ disvā sakyā anujagghiṃsūti dasseti.
267. Nhục mạ: giày xéo, làm cho mất hết sự coi trọng. Hay là Ta: Hay là Ta. Được biết rằng: “Này ông Gotama, tôi thuộc dòng dõi Kaṇhāyana” Ambaṭṭha đã nói ra (điều này) bằng âm thanh lớn đến 3 lần. Cậu ta nói lên để làm gì? Cậu ta không biết, hay là do dòng họ không trong sạch? Chắc chắn cậu ấy biết, dẫu biết cũng suy nghĩ rằng: lý do này các cõi-bhava bị che đậy, Sa-môn Gotama này cũng không nhìn thấy, Đại Sa-môn trong khi không nhìn thấy sẽ nói điều gì đây, nên mới nói lên bởi bản thân là người ương ngạnh do ngã mạn. Thuộc phía bên mẹ và cha: Tài sản của mẹ và cha. Tên và họ: Tên do tác động của chế định, họ do tác động của truyền thống. Hồi tưởng lại: nhớ lại, tìm hiểu ngọn ngành về dòng họ. Con trai của những chủ nhân: con trai của những chủ nhân. Con trai của một nữ tỳ: Là con trai của một nữ tỳ trong gia đình. Do đó, đức Thế Tôn mới chỉ ra rằng: Người hầu hạ nên đi đến tìm gặp chủ nhân bằng cách nào, các vị dòng họ Sakya thấy cậu không đi đến bằng cách đó, nên mới nói chế giễu (cậu).
Ito paraṃ tassa dāsabhāvaṃ sakyānañca sāmibhāvaṃ pakāsetvā attano ca ambaṭṭhassa ca kulavaṃsaṃ āharanto sakyā kho panātiādimāha. Tattha dahantīti ṭhapenti, okkāko no pubbapurisoti, evaṃ karontīti[57] attho. Tassa kira rañño kathanakāle ukkā viya mukhato pabhā niccharati, tasmā taṃ “okkāko”ti sañjāniṃsūti. Pabbājesīti nīhari.
Trước đó kể từ đây đức Thế Tôn đã thông báo bản thể Ambaṭṭha ấy là (thuộc dòng họ) con trai một nữ tỳ và bản thể các vị dòng họ Sakya (là con trai) của những chủ nhân. Trong khi mang dòng dõi của Ngài của Ambaṭṭha đến, nên đã nói rằng: “Hơn nữa, các vị dòng họ Sakya v.v.” Trong lời ấy ‘khẳng định’ đặt (các vị dòng họ Sakya), có nghĩa là “các vị dòng họ Sakya khẳng định rằng: ‘Vua Okkāka là tổ tiên của chúng tôi’” Tương truyền rằng: vào thời gian đức vua ấy nói, hào quang phát ra từ miệng giống như ngọn đuốc, do đó, mọi người mới phong (ngài) là ‘Okkāka’. Đã trục xuất khỏi: đưa ra khỏi.
Idāni te nāmavasena dassento — “okkāmukhan”tiādimāha. Tatrāyaṃ anupubbī kathā—[58] Paṭhamakappikānaṃ kira rañño mahāsammatassa rojo nāma putto ahosi. Rojassa vararojo, vararojassa kalyāṇo, kalyāṇassa varakalyāṇo, varakalyāṇassa mandhātā, mandhātussa varamandhātā, varamandhātussa uposatho, uposathassa varo, varassa upavaro, upavarassa maghadevo, maghadevassa paramparāya caturāsītikhattiyasahassāni ahesuṃ. Tesaṃ pacchato tayo okkākavaṃsā ahesuṃ. Tesu tatiyaokkākassa pañca mahesiyo ahesuṃ — Hatthā, cittā, jantu, jālinī, visākhāti. Ekekissā pañcapañcaitthisataparivārā. Sabbajeṭṭhāya cattāro puttā — Okkāmukho, karakaṇḍu, hatthiniko[59], sinisūroti[60]. Pañca dhītaro — Piyā, suppiyā, ānandā, vijitā, vijitasenāti. Iti sā nava putte vijāyitvā kālamakāsi.
Bây giờ đức Thế Tôn trong khi thuyết về các vị dòng họ Sakya ấy do mãnh lực của tên gọi mới nói rằng: ‘Hoàng tử lớn là Okkāmukha’. Trong câu chuyện này có câu chuyện được nói theo tuần tự như sau – Tương truyền rằng: Hoàng tử Roja con trai của đức vua Mahāsammata vào thời Sơ kiếp, vị vua ban sơ con trai của Roja, con trai của Roja là Kalyāṇa. Vararoja (con trai) của Roja, Kalyāṇo (con trai) của Vararoja, Varakalyāṇa (con trai) của Kalyāṇa, Mandhātu (con trai) của Varakalyāṇa, Varamandhātu (con trai) của Mandhātu, Uposatha (con trai) của Varamandhātu, Vara (con trai) của Uposatha, Upavara (con trai) của Vara, Maghadeva (con trai) của Upavara, Paramparāya (con trai) của Maghadeva, con trai của vua Maghadeva tiếp nối theo tuần tự trải qua tám mươi bốn ngàn vị vua. Sau những vị vua ấy đã có ba dòng dõi của vua Okkāka. Trong ba dòng dõi ấy vua Okkāka đời thứ 3 thì có 5 hoàng hậu là hoàng hậu Hatthā, hoàng hậu Cittā, hoàng hậu Jantu, hoàng hậu Jālinī, và hoàng hậu Visākhā. Đối với mỗi hoàng hậu có năm trăm nữ nhân làm tùy tùng. Hoàng hậu lớn nhất có bốn vị hoàng tử là hoàng tử Okkāmukha, hoàng tử Karakaṇḍu, hoàng tử Hatthinika, và hoàng tử Sinisūra. Có năm công chúa là công chúa Piyā, công chúa Suppiyā, công chúa Ānandā, công chúa Vijitā, và công chúa Vijitasenā. Ngài sanh được 9 vị người con gồm hoàng tử và công chúa, rồi đã hóa sanh thiên giới như thế.
Atha rājā aññaṃ dahariṃ abhirūpaṃ rājadhītaraṃ ānetvā aggamahesiṭṭhāne ṭhapesi. Sā jantuṃ nāma puttaṃ vijāyi. Atha naṃ pañcamadivase alaṅkaritvā rañño dassesi. Rājā tuṭṭho tassā varaṃ adāsi. Sā ñātakehi saddhiṃ mantetvā puttassa rajjaṃ yāci. Rājā — “Nassa, vasali[61], mama puttānaṃ antarāyaṃ icchasī”ti tajjesi. Sā punappunaṃ raho rājānaṃ paritosetvā — “Mahārāja, musāvādo nāma na vaṭṭatī”tiādīni vatvā yācatiyeva. Atha rājā putte āmantesi — “Ahaṃ tātā, tumhākaṃ kaniṭṭhaṃ jantukumāraṃ disvā tassa mātuyā sahasā varaṃ adāsiṃ, sā puttassa rajjaṃ pariṇāmetuṃ icchati. Tumhe ṭhapetvā maṅgalahatthiṃ maṅgalāssaṃ maṅgalarathañca yattake icchatha, tattake hatthiassarathe gahetvā gacchatha. Mamaccayena āgantvā rajjaṃ kareyyāthā”ti, aṭṭhahi amaccehi saddhiṃ uyyojesi.
Sau đó, đức vua đã phong cho công chúa khác trẻ đẹp lên đăng quang đặt vào vị trí chánh cung hoàng hậu. Hoàng hậu sanh được một hoàng tử Jantu. Khi ấy, vào ngày thứ năm hoàng hậu đã trang điểm cho vị hoàng từ ấy tâu cùng đức vua. Đức vua hài lòng, đã ban một điều ước đến bà. Bà tham khảo ý kiến với các thân quyến mới cầu xin vương quyền cho hoàng tử. Đức vua quát mắng rằng: “Này nữ hạ tiện, ngươi hãy cút đi, ngươi muốn gây trở hại đến con trai của ta.” Khi bà vừa khuất người đã làm cho đức vua hài lòng từ từ bước vào tâu với đức vua rằng: “Tâu đại vương, lời nói dối là không thích hợp” rồi cũng cầu xin chính điều ấy. Khi ấy đức vua mới cho truyền các vị hoàng tử đến dặn dò rằng: “Này các hoàng nhi, trẫm đã nhìn thấy hoàng tử Jantu, hoàng đệ của các hoàng nhi, trẫm đã ban một điều ước cho hoàng hậu mẹ của hoàng tử Jantu thì ngay lập tức hoàng hậu mong muốn cho con trai của bà nhận được vương quyền ngoại trừ các hoàng nhi, các hoàng nhi muốn voi maṅgala, ngựa maṅgala, và cỗ xe maṅgala có khoảng chừng ấy, (các hoàng nhi) hãy lấy voi, ngựa và cỗ xe chừng ấy rồi trốn đi, rồi nên quay trở về đăng quang khi trẫm băng hà,” mới gửi đi cùng với tám quan đại thần.
Te nānappakāraṃ roditvā kanditvā — “Tāta, amhākaṃ dosaṃ khamathā”ti rājānañceva rājorodhe ca khamāpetvā, “mayampi bhātūhi saddhiṃ gacchāmā”ti rājānaṃ āpucchitvā nagarā nikkhantā bhaginiyo ādāya caturaṅginiyā senāya parivutā nagarā nikkhamiṃsu. “Kumārā pituaccayena āgantvā rajjaṃ kāressanti, gacchāma ne upaṭṭhahāmā”ti cintetvā bahū manussā anubandhiṃsu. Paṭhamadivase yojanamattā senā ahosi, dutiye dviyojanamattā, tatiye tiyojanamattā. Kumārā mantayiṃsu — “mahā balakāyo, sace mayaṃ kañci sāmantarājānaṃ madditvā janapadaṃ gaṇheyyāma, sopi no nappasaheyya. Kiṃ paresaṃ pīḷāya katāya, mahā ayaṃ jambudīpo, araññe nagaraṃ māpessāmā”ti himavantābhimukhā gantvā nagaravatthuṃ pariyesiṃsu.
Những vị hoàng tử ấy đã khóc lóc nước mắt ràn rụa dưới nhiều hình thức khác nhau, bẩm tâu rằng – “Tâu phụ hoàng, mong phụ hoàng hãy thứ lỗi cho các nhi thần,” đức vua và các phi tần của vua đã thứ lỗi, rồi xin phép đức vua rằng: “Chúng thần sẽ đi cùng với các chị em gái”, sau đó từ biệt đức vua, đưa các công nương đi, có cả bốn đạo binh tháp tùng cùng rời khỏi kinh thành. Đa số tất cả mọi người ai cũng nghĩ rằng: “Các hoàng tử sẽ trở về trị vì vương quốc khi vua cha băng hà, chúng ta sẽ đi hầu hạ các ngài,” rồi cùng nhau tháp tùng theo sau. Vào ngày đầu tiên quân binh chiếm diện tích khoảng một do-tuần, vào ngày thứ hai khoảng hai do-tuần, vào ngày thứ ba khoảng ba do-tuần. Các hoàng tử bàn luận với nhau – “Đạo quân này hùng mạnh, nếu như chúng ta xâm lược vua ở một số nước láng giềng chiếm lấy quốc độ thì các vua ấy cũng không thể nào phản kháng lại được, (nhưng) có lợi ích gì với việc áp bức người khác, Jambudīpa này rộng lớn, chúng ta sẽ cùng nhau xây dựng kinh thành ở trong rừng” nói rồi (tất cả) đi thẳng vào rừng Hy-mã-lạp tìm kiếm nơi để kiến tạo thành phố.
Tasmiñca samaye amhākaṃ bodhisatto brāhmaṇamahāsālakule nibbattitvā kapilabrāhmaṇo nāma hutvā nikkhamma isipabbajjaṃ pabbajitvā himavantapasse pokkharaṇiyā tīre sākavanasaṇḍe paṇṇasālaṃ māpetvā vasati. So kira bhummajālaṃ[62] nāma vijjaṃ jānāti, yāya uddhaṃ asītihatthe ākāse, heṭṭhā ca bhūmiyampi guṇadosaṃ passati. Etasmiṃ padese tiṇagumbalatā dakkhiṇāvaṭṭā pācīnābhimukhā[63] jāyanti. Sīhabyagghādayo migasūkare sappabiḷārā ca maṇḍūkamūsike anubandhamānā taṃ padesaṃ patvā na sakkonti te anubandhituṃ. tehi te aññadatthu santajjitā nivattantiyeva. so — “ayaṃ pathaviyā aggapadeso”ti ñatvā tattha attano paṇṇasālaṃ māpesi.
Vào lúc bấy giờ Bồ-tát của chúng ta đã sanh ra trong gia đình Bà-la-môn giàu có, có tên là Kapilabrāhmaṇa, đã xuất gia trở thành một vị ẩn sĩ, dựng một am tranh ngụ ở bìa rừng, có cây Sāka ở gần hồ nước kế sườn núi Hy-mã-lạp. Được biết (ngài) có sự am hiểu về mạng lưới địa cầu (bhummajāla) là công cụ để cho mọi người nhìn thấy đức hạnh và lỗi lầm, hướng trên trong hư không có khoảng chừng tám mươi khuỷu tay và hướng dưới luôn cả trong mặt đất. Ở một nơi, có bãi cỏ và dây leo tạo thành hình xoắn theo chiều kim đồng hồ, hướng mặt về hướng Đông. Cọp và sư tử v.v, rượt đuổi các loài thú rừng và các con heo v.v, loài rắn và loài mèo rượt đuổi các con ếch và các con chuột, sau khi đến nơi ấy đều không thể rượt đuổi tiếp tục nữa, bị những loài thú ấy hù dọa khiến sợ hãi, chắc chắc cần phải quay trở lại. Bà-la-môn ấy biết rằng: “Đây là chỗ tuyệt vời ở quả địa cầu,” rồi dựng một am tranh của mình ở tại nơi ấy.
Atha te kumāre nagaravatthuṃ pariyesamāne attano vasanokāsaṃ āgate disvā pucchitvā taṃ pavattiṃ ñatvā tesu anukampaṃ janetvā avoca — “Imasmiṃ paṇṇasālaṭṭhāne māpitaṃ nagaraṃ jambudīpe agganagaraṃ bhavissati. Ettha jātapurisesu ekeko[64] purisasatampi purisasahassampi abhibhavituṃ[65] sakkhissati. Ettha nagaraṃ māpetha, paṇṇasālaṭṭhāne rañño gharaṃ karotha. Imasmiñhi okāse ṭhatvā caṇḍālaputtopi cakkavattibalena atiseyyo”ti. Nanu, bhante, ayyassa vasanokāsoti? “mama vasanokāso”ti mā cintayittha. mayhaṃ ekapasse paṇṇasālaṃ katvā nagaraṃ māpetvā kapilavatthunti nāmaṃ karothā”ti. Te tathā katvā tattha nivāsaṃ kappesuṃ.
Sau đó, Bà-la-môn ấy đã nhìn thấy các hoàng tử đó tìm kiếm vùng đất để xây dựng vương quốc đang bước tới nơi ở của mình, sau khi biết được sự diễn tiến ấy, khởi sanh lòng trắc ẩn đối với các hoàng tử ấy, mới tâu rằng: Thành phố được xây dựng ở nơi am tranh này sẽ trở thành phố hàng đầu ở Jambudīpa. Trong số các hoàng tử được sanh ra ở thành phố, mỗi người sẽ có thể chiến thắng hàng trăm, thậm chí hàng người, các ngài hãy xây dựng thành phố ở nơi đây, hãy xây dựng cung điện của đức vua ở nơi am tranh. Bởi vì người đứng ở nơi này dẫu là con của người hạ tiện cũng (có thể) trở thành người cao quý nhờ sức mạnh của đấng Chuyển Luân Vương. Các hoàng tử mới thưa rằng: Thưa ngài, đây không phải là chỗ cư trú của ngài hay sao? – Các vị chớ suy nghĩ “đây là nơi cư trú của tôi”. Hãy xây dựng thành phố, cho dựng am tranh của bần đạo ở một bên, rồi đặt tên (thành phố) là Kapilavatthu. Các vương tử ấy đã làm theo như thế rồi cùng nhau định cư ở tại nơi ấy.
Athāmaccā — “ime dārakā vayappattā, sace nesaṃ pitā santike bhaveyya, so āvāhavivāhaṃ kareyya. Idāni pana amhākaṃ bhāro”ti cintetvā kumārehi saddhiṃ mantayiṃsu. Kumārā amhākaṃ sadisā khattiyadhītaro nāma na passāma, nāpi bhaginīnaṃ sadise khattiyakumārake, asadisasaṃyoge[66] ca no uppannā puttā mātito vā pitito vā aparisuddhā jātisambhedaṃ pāpuṇissanti. Tasmā mayaṃ bhaginīhiyeva saddhiṃ saṃvāsaṃ rocemāti. Te jātisambhedabhayena jeṭṭhakabhaginiṃ mātuṭṭhāne[67] ṭhapetvā avasesāhi saṃvāsaṃ kappesuṃ.
Cả tám vị quan đại thần đã nghĩ rằng: “Các vị hoàng tử này đã trưởng thành, nếu như đức vua, cha của các hoàng tử có thể ở gần, ngài có thể tổ chức việc rước dâu và đưa dâu. Nhưng bây giờ là phận sự của chúng ta” mới bàn bạc với các hoàng tử. Các hoàng tử đã nói rằng: Chúng ta vẫn không thấy công chúa Sát-đế-lỵ ngang bằng với chúng ta, luôn cả không nhìn thấy hoàng tử Sát-đế-lỵ ngang bằng huynh đệ (chúng ta), hoàng nhi của chúng ta sinh ra do chung sống với người không đồng đẳng (cho nên) chúng được xem là những đứa trẻ không thanh tịnh từ mẫu hệ hoặc phụ hệ, sẽ dẫn đến sự khác biệt về sanh chủng (pha trộn huyết thống). Vì thế, chúng tôi chỉ hài lòng việc chung sống giữa các chị em gái (hoàng tử và công chúa). Do nỗi lo sợ sự trộn lẫn về dòng giống nên mới đưa Jeṭṭhakabhaginī lên vị trí mẫu thân, còn lại ai nấy cũng sắp xếp việc chung sống với nhau giữa các chị em gái.
Tesaṃ puttehi ca dhītāhi ca vaḍḍhamānānaṃ aparena samayena jeṭṭhakabhaginiyā kuṭṭharogo udapādi, koviḷārapupphasadisāni gattāni ahesuṃ. Rājakumārā imāya saddhiṃ ekato nisajjaṭṭhānabhojanādīni karontānampi upari ayaṃ rogo saṅkamatīti cintetvā ekadivasaṃ uyyānakīḷaṃ gacchantā viya taṃ yāne āropetvā araññaṃ pavisitvā bhūmiyaṃ pokkharaṇiṃ khaṇāpetvā tattha khādanīyabhojanīyena saddhiṃ taṃ pakkhipitvā gharasaṅkhepena upari padaraṃ paṭicchādetvā paṃsuṃ datvā pakkamiṃsu.
Khi những hoàng từ ấy phồn thịnh với các con trai và con gái, nhưng sau một thời gian thì Jeṭṭhakabhaginī phát bệnh hủi, da thịt như cây koviḷāra. Các hoàng tử nghĩ rằng: khi chúng tôi thực hiện việc ngồi, việc nằm và việc thọ dụng v.v, cùng với Jeṭṭhakabhaginī này thì bệnh phong này có thể lây nhiễm, một ngày nọ làm như thể đang vui chơi ở vườn thượng uyển làm cho Jeṭṭhakabhaginī bước lên ngồi trên cỗ xe đi vào rừng, ra lệnh cho đào một cái hồ nước đơn giản làm thành nhà ở bên trong lòng đất, để bà đi vào bên trong đó cùng với vật thực cứng và vật thực mềm, sau đó đóng nắp đậy ở trên, lấy mẫu đất che lại, rồi cùng quay trở về.
Tena ca samayena rāmo nāma bārāṇasirājā kuṭṭharogo nāṭakitthīhi ca[68] orodhehi ca jigucchiyamāno tena saṃvegena jeṭṭhaputtassa rajjaṃ datvā araññaṃ pavisitvā tattha paṇṇasālaṃ māpetvā mūlaphalāni paribhuñjanto nacirasseva arogo suvaṇṇavaṇṇo hutvā ito cito ca vicaranto mahantaṃ susirarukkhaṃ disvā tassabbhantare soḷasahatthappamāṇaṃ okāsaṃ sodhetvā dvārañca vātapānañca yojetvā nisseṇiṃ bandhitvā tattha vāsaṃ kappesi. So aṅgārakaṭāhe aggiṃ katvā rattiṃ migasūkarādīnaṃ sadde suṇanto sayati. so — “asukasmiṃ padese sīho saddamakāsi, asukasmiṃ byaggho”ti sallakkhetvā pabhāte tattha gantvā vighāsamaṃsaṃ ādāya pacitvā khādati.
Vào lúc bấy giờ, đức vua thành Bārāṇasī tên là Rāma bị bệnh phong, các phi tần và các vũ không ai cũng ghét bỏ bởi vì sự lo âu ấy mới trao lại vương quyền cho đại hoàng tử sau đó đi vào rừng, khi thọ dụng rễ cây trong rừng ở nơi ấy thì không bao lâu đã khỏi bệnh (phong), có màu da tựa như màu hoàng kim, ngài đi xung quanh chỗ này chỗ nọ đưa mắt quan sát nhìn thấy một hốc cây to lớn, vạc đẽo (dọn sạch) một khoảng trống rộng khoảng mười sáu cánh tay ở bên trong hốc cây ấy, đã lắp đặt cửa lớn và cửa sổ, đã buộc một cái thang vào, rồi trú ở tại nơi ấy. Ngài đã nhóm lửa trong cái chảo đựng than vào ban đêm, khi nghe tiếng kêu của các loài thú như hươu nai và heo rừng v.v, (rồi) ngủ thiếp đi. Ngài nhận biết được: “Ở đằng kia sư tử (đang) rống, ở đằng kia cọp (đang) gầm gừ” khi trời hừng sáng ngài đi đến chỗ ấy lấy phần thịt thừa lại đem nướng để thọ dụng.
Athekadivasaṃ tasmiṃ paccūsasamaye aggiṃ jāletvā nisinne rājadhītāya sarīragandhena āgantvā byaggho tasmiṃ padese paṃsuṃ viyūhanto padare vivaramakāsi, tena ca vivarena sā byagghaṃ disvā bhītā vissaramakāsi. So taṃ saddaṃ sutvā — “Itthisaddo eso”ti ca sallakkhetvā pātova tattha gantvā — “Ko etthā”ti āha. Mātugāmo sāmīti. Kiṃ jātikāsīti? Okkākamahārājassa dhītā sāmīti[69]. Nikkhamāti? Na sakkā sāmīti. Kiṃ kāraṇāti? Chavirogo me atthīti. So sabbaṃ pavattiṃ pucchitvā khattiyamānena anikkhamantiṃ — “ahampi khattiyo”ti attano khattiyabhāvaṃ jānāpetvā nisseṇiṃ datvā uddharitvā attano vasanokāsaṃ netvā sayaṃ paribhuttabhesajjāniyeva datvā nacirasseva arogaṃ suvaṇṇavaṇṇaṃ katvā tāya saddhiṃ saṃvāsaṃ kappesi. Sā paṭhamasaṃvāseneva gabbhaṃ gaṇhitvā dve putte vijāyi, punapi dveti, evaṃ soḷasakkhattumpi vijāyi. evaṃ dvattiṃsa bhātaro ahesuṃ. Te anupubbena vuḍḍhippatte pitā sabbasippāni sikkhāpesi.
Sau đó một ngày nọ, vào lúc hừng sáng sau khi nhóm lên ngọn lửa ngài đã ngồi xuống, có một con cọp vằn đi đến bởi ngửi được mùi cơ thể của công chúa (Jeṭṭhakabhaginī) đã cào bới đất làm đất vung vãi (xung quanh) ở nơi đó tạo thành một lỗ trống ở vết nứt. Nàng đưa mắt nhìn thấy con cọp vằn thông qua lỗ trống ấy hoảng sợ đã hét ầm ĩ. Đức vua thành Bārāṇasī nghe được tiếng la hét ấy, và sau khi nhận biết được “đây là tiếng của nữ nhân” đã đi đến nơi ấy vào lúc sáng sớm – hỏi rằng: “Ai ơ nơi đây?” – Một nữ nhân thưa ông. – Dòng dõi của nàng là gì? – Tôi là con gái của đại vương Okkāka. – Nàng hãy bước ra. – Thưa ông, tôi không thể bước ra ngoài. – Vì sao? Tôi bị bệnh phong. Đức vua thành Bārāṇasī đã hỏi toàn bộ sự việc, khiến cho nàng không đồng ý bước ra ngoài do ngã mạn (dòng dõi) vua chúa – sau khi biết được bản thể vua chúa của mình “ngay cả ta cũng thuộc dòng dõi vua chúa” nên mới dựa thang bước xuống (rồi) kéo nàng lên (sau đó) đưa nàng về chỗ trú ngụ của ngài, đức vua đã ban cho thuốc mà chính bản thân ngài thọ dụng (cho nàng), không bao lâu sau đó, đã làm cho nàng hết bệnh, có màu da tựa như màu hoàng kim, rồi sống chung với nàng. Ngay lần sống chung đầu tiên nàng đã thọ thai, nàng đã hạ sanh được hai hoàng nam, rồi sau đó (nàng) cũng đã sanh thêm mười sáu lần, mỗi lần 2 vị, bằng cách này (tổng cộng) anh em có đến 32 vị. Vua cha đã nuôi nấng các vị hoàng tử trưởng thành rồi theo tuần tự đã dạy tất cả các môn học.
Athekadivasaṃ eko rāmarañño nagaravāsī vanacarako pabbate ratanāni gavesanto rājānaṃ disvā sañjānitvā āha — “jānāmahaṃ, deva, tumhe”ti. Tato naṃ rājā sabbaṃ pavattiṃ pucchi. Tasmiṃyeva ca khaṇe te dārakā āgamiṃsu. So te disvā — “ke ime”ti āha. “puttā me”ti ca vutte tesaṃ mātikavaṃsaṃ pucchitvā — “laddhaṃ dāni me pābhatan”ti nagaraṃ gantvā rañño ārocesi. So ‘pitaraṃ ānayissāmī’ti caturaṅginiyā senāya tattha gantvā pitaraṃ vanditvā — “rajjaṃ, deva, sampaṭicchā”ti yāci. So — “Alaṃ, tāta, na tattha gacchāmi, idheva me imaṃ rukkhaṃ apanetvā nagaraṃ māpehī”ti āha. So tathā katvā tassa nagarassa kolarukkhaṃ apanetvā katattā kolanagaranti ca byagghapathe katattā byagghapathanti cāti dve nāmāni āropetvā[70] pitaraṃ vanditvā attano nagaraṃ agamāsi.
Sau đó một ngày nọ, một người thợ săn sống ở kinh thành của đức vua Rāma đi tìm kiếm châu báu ở sườn núi, sau khi nhìn thấy đức (vị ấy) đã nhận ra (đức vua) mới tâu rằng: “Tâu bệ hạ, thảo dân nhận ra được bệ hạ”. Khi đó, đức vua đã hỏi toàn bộ diễn biến sự việc. Và chính vào lúc ấy, những đứa trẻ cũng cùng nhau kéo đến. Thợ săn nhìn thấy những đứa trẻ mới hỏi rằng: “Những đứa trẻ này là ai?” – Đức vua nói rằng: “chúng là con trai của trẫm” – Vị ấy mới hỏi về dòng dõi người mẹ của những đứa trẻ ấy, nghĩ rằng bây giờ “Ta đã nhận được phần thưởng” mới đi đến kinh thành tâu với vua. Đức vua nghĩ rằng: “Trẫm sẽ thỉnh mời vua cha trở về” mới đi đến nơi ấy cùng với bốn đạo quân, sau khi đảnh lễ vua cha đã tâu rằng: “Thưa phụ hoàng, xin phụ hoàng hãy nhận lại vương quyền”. – Đức vua thành Bārāṇasī đáp rằng: “Này con yêu, trẫm không rời khỏi nơi này, con hãy dời cây này đi rồi xây dựng kinh thành cho trẫm ở tại nơi đây.” Đức vua đã thi hành theo lời (vua cha), đã đặt hai tên cho kinh thành ấy là Kolanagara bởi việc dời cây táo (kola) đi để xây dựng kinh thành ấy, và tên là Byagghapatha bởi xây dựng đường đi của cọp vằn. Sau khi hoàn tất đã dâng lên vua cha rồi ngài quay về kinh thành (của mình).
Tato vayappatte kumāre mātā āha — “tātā, tumhākaṃ kapilavatthuvāsino sakyā mātulā santi[71]. Mātuladhītānaṃ pana vo evarūpaṃ nāma kesaggahaṇaṃ hoti, evarūpaṃ dussagahaṇaṃ. Yadā tā nhānatitthaṃ āgacchanti, tadā gantvā yassa yā ruccati, so taṃ gaṇhatū”ti. Te tatheva[72] gantvā tāsu nhatvā sīsaṃ sukkhāpayamānāsu yaṃ yaṃ icchiṃsu, taṃ taṃ gahetvā nāmaṃ sāvetvā agamiṃsu. Sakyarājāno sutvā “hotu, bhaṇe, amhākaṃ ñātakā eva te”ti tuṇhī ahesuṃ. Ayaṃ sakyakoliyānaṃ uppatti. Evaṃ tesaṃ sakyakoliyānaṃ aññamaññaṃ āvāhavivāhaṃ karontānaṃ yāva buddhakālā anupacchinnova vaṃso āgato. Tattha bhagavā sakyavaṃsaṃ dassetuṃ — “Te raṭṭhasmā pabbājitā himavantapasse pokkharaṇiyā tīre”tiādimāha. Tattha sammantīti vasanti. Sakyā vata bhoti raṭṭhasmā pabbājitā araññe vasantāpi jātisambhedamakatvā kulavaṃsaṃ anurakkhituṃ sakyā[73] samatthā, paṭibalāti attho. Tadaggeti taṃ aggaṃ katvā, tato paṭṭhāyāti attho. So ca nesaṃ pubbapurisoti so okkāko rājā etesaṃ pubbapuriso. natthi etesaṃ gahapativaṃsena sambhedamattampīti.
Sau đó, mẫu thân đã nói cùng các hoàng tử đến tuổi trưởng thành – “Này các hoàng nhi, dòng họ Sakya sống ở thành Kapilavatthu là vua cậu của các con; có các công chúa của các vua cậu của các con, có việc nắm lấy tóc bằng hình thức như vậy, có việc nắm lấy y phục bằng hình thức như vậy. Này các hoàng nhi khi nào các công chúa đi đến bãi tấm, khi ấy các con hãy đi bắt lấy một công chúa mà các con thích.” Họ đã cùng nhau đi đến nơi ấy, khi các công chúa cùng nhau đi tắm, (trong khi) đang phơi tóc cho khô, (họ) đã bắt lấy công chúa, người mà mình thích, tuyên bố tên cho (họ) biết rồi đưa đi.” Sau khi các vua Sakya nghe đã nói rằng: “Này các hoàng huynh, mặc kệ đi đều là thân quyến của chúng ta cả” nên đã im lặng. Đây là câu chuyện về nguồn gốc dòng dõi Sakya và dòng dõi Koliya. Khi những vị thuộc dòng dõi Sakya và dòng dõi Koliya ấy tổ chức việc rước dâu và đưa dâu với nhau, dòng dõi (huyết thống) nối tiếp nhau không bị gián đoạn cho đến thời kỳ đức Phật. Trong chuyện này đức Thế Tôn nhằm mục đích trình bày về dòng dõi Sakya mới nói rằng: “Những vương tử ấy rời khỏi vương quốc… (đã đi đến) cạnh một hồ nước ở sườn núi Hy-mã-lạp.” Ở đó, ‘định cư’: cư ngụ. Này các khanh, các hoàng tử quả thật có khả năng…: có nội dung (như sau) – các vị Sakya thậm chí rời khỏi (vương quốc) sống ở rừng, không làm trộn lẫn về dòng giống (huyết thống), là vị có khả khả năng, có sức mạnh toàn diện để duy trì dòng dõi gia tộc. Từ đó về sau: Kể từ ngày đó trở đi, bắt đầu kể từ ngày ấy. Chính vị ấy (đại vương Okkāka) là tổ tiên của các vị dòng họ Sakya: có nội dung như sau – Đức vua Okkāka ấy là tổ tiên của các hoàng tử ấy, ngay cả việc trộn lẫn về dòng giống (do tác động) của người gia chủ của các Sakya cũng không có.
Evaṃ sakyavaṃsaṃ pakāsetvā idāni ambaṭṭhavaṃsaṃ pakāsento — “rañño kho panā”tiādimāha. Kaṇhaṃ nāma janesīti kāḷavaṇṇaṃ antokucchiyaṃyeva sañjātadantaṃ parūḷhamassudāṭhikaṃ[74] puttaṃ vijāyi. Pabyāhāsīti yakkho jātoti bhayena palāyitvā dvāraṃ pidhāya ṭhitesu gharamānusakesu ito cito ca vicaranto dhovatha mantiādīni vadanto uccāsaddamakāsi.
Đức Thế Tôn đã tuyên bố về dòng họ Sakya cho (họ) biết như vậy, bây giờ khi tuyên bố về dòng họ Ambaṭṭha đã nói rằng: “và đức vua Okkāka…” Nàng Disā ấy đã ra đứa bé trai tên là Kaṇha: đã sanh ra đứa bé trai có màu da đen, có răng mọc, có tóc, có râu và ria mép mọc ngay từ khi trong bụng. Đã nói được: khi tất cả mọi người trong nhà ai cũng bỏ trốn vì sợ hãi rằng: “Yêu tinh được sinh ra, đóng hết các cánh cửa lớn rồi đứng nhìn, Kaṇha bước đi chỗ này và chỗ nọ, vừa nói vừa khóc la om sòm (rằng): “Các ông hãy tắm rửa sạch sẽ cho tôi” v.v.
268. Te māṇavakā bhagavantaṃ etadavocunti attano upārambhamocanatthāya — “etaṃ mā bhavan”tiādivacanaṃ avocuṃ. tesaṃ kira etadahosi — “ambaṭṭho amhākaṃ ācariyassa jeṭṭhantevāsī, sace mayaṃ evarūpe ṭhāne ekadvevacanamattampi na vakkhāma, ayaṃ no ācariyassa santike amhe paribhindissatī”ti upārambhamocanatthaṃ evaṃ avocuṃ. Cittena panassa nimmadabhāvaṃ ākaṅkhanti. Ayaṃ kira mānanissitattā tesampi appiyova. Kalyāṇavākkaraṇoti madhuravacano. Asmiṃ vacaneti attanā uggahite vedattayavacane. paṭimantetunti pucchitaṃ pañhaṃ paṭikathetuṃ, vissajjetunti attho. Etasmiṃ vā dāsiputtavacane. Paṭimantetunti uttaraṃ[75] kathetuṃ.
268. (Khi được nói như vậy) các thanh niên nói với đức Thế Tôn điều này, tức là đã nói lời này: “Ông Gotama chớ nhục mạ quá đáng…” để giảm bớt lời chỉ trích của bản thân. Được biết những thanh niên ấy đã có sự hân hoan như vầy – “Ambaṭṭha là đại đệ tử của thầy chúng tôi, nếu như chúng ta không nói dầu chỉ một vài lời ở địa vị có hình thức như thế, Ambaṭṭha này sẽ làm hại chúng ta ở trú xứ thầy của chúng ta,” (cho nên) họ mới nói như vậy, nhằm mục đích giảm bớt lời khiển trách, nhưng bọn họ cũng vẫn hi vọng với suy nghĩ rằng: ‘Ambaṭṭha này sẽ thoát khỏi sự say mê’. Được biết Ambaṭṭha này không phải là nơi yêu mến của các thanh niên ấy bởi vì cậu ta là người rất kiêu ngạo. Nói lời nói nhã nhặn:có lời nói ngọt ngào. Trong lời nói ấy: là trong lời nói liên hệ đến ba-kiến-thức-Vệ-Đà mà bản thân đã được học tập. Để đối đáp: nhằm mục đích đối đáp, là để giải quyết câu hỏi được hỏi. Hơn nữa, để đối đáp: là để nói lời nói vượt trội hơn lời nói ‘là con trai của một nữ tỳ’.
269. Atha kho bhagavāti atha kho bhagavā — “Sace ime māṇavakā ettha nisinnā evaṃ uccāsaddaṃ karissanti, ayaṃ kathā pariyosānaṃ na gamissati. Handa, ne nissadde katvā ambaṭṭheneva saddhiṃ kathemī”ti te māṇavake etadavoca. Tattha mantavhoti mantayatha. Mayā saddhiṃ paṭimantetūti mayā saha kathetu. Evaṃ vutte māṇavakā cintayiṃsu — “Ambaṭṭho tāva dāsiputtosīti vutte puna sīsaṃ ukkhipituṃ nāsakkhi. Ayaṃ kho jāti nāma dujjānā, sace aññampi kiñci samaṇo gotamo ‘tvaṃ dāso’ti vakkhati, ko tena saddhiṃ aḍḍaṃ karissati. Ambaṭṭho attanā baddhaṃ puṭakaṃ[76] attanāva mocetū”ti attānaṃ parimocetvā tasseva upari khipantā — “sujāto ca bho gotamā”tiādimāhaṃsu.
269. Khi ấy đức Thế Tôn: Khi ấy đức Thế Tôn suy từ rằng – “Nếu các thanh niên ấy ngồi ở đây thì bọn họ sẽ gây ra âm thanh ồn ào như vậy, cũng sẽ không chấm dứt. Thôi được rồi, ta sẽ làm cho họ giữ im lặng, rồi chỉ nói chuyện với Ambaṭṭha” (cho nên) đã nói với các thanh niên ấy (điều này). Trong số những lời ấy ‘hãy đáp trả’: các cậu hãy trao đổi. Hãy đối đáp với Ta: Hãy nói cùng với Ta. Trong khi đức Thế Tôn nói như vậy các thanh niên ấy đã nghĩ rằng – “Thanh niên Ambaṭṭha bị đức Thế Tôn nói là con trai của một nữ tỳ, mặc dầu như thế cũng không thể ngước mặt lên. Dòng dõi này quả thật khó nhận biết, nếu như Sa-môn nói bất cứ lời gì kể cả đối với người khác rằng: ‘ông là người nô lệ’, ai sẽ tạo mối quan hệ cùng với Sa-môn Gotama ấy, Ambaṭṭha hãy giải quyết điều tự mình trói buộc với chính bản thân,” khi đã giải phóng bản thân ra khỏi ném lên trên chính vị ấy (Ambaṭṭha) nên mới nói rằng: “Này ông Gotama, thanh niên Ambaṭṭha được sanh ra cao quý…”
270. Sahadhammikoti sahetuko sakāraṇo. Akāmā byākātabboti attanā anicchantenapi byākaritabbo, avassaṃ vissajjetabboti attho. Aññena vā aññaṃ paṭicarissasīti aññena vacanena aññaṃ vacanaṃ paṭicarissasi ajjhottharissasi, paṭicchādessasīti attho. Yo hi “kiṃ gotto tvan”ti evaṃ puṭṭho — “ahaṃ tayo vede jānāmī”tiādīni vadati, ayaṃ aññena aññaṃ paṭicarati nāma. Pakkamissasi vāti pucchitaṃ pañhaṃ jānantova akathetukāmatāya uṭṭhāyāsanā pakkamissasi[77] vā.
270. (Câu hỏi) hợp lý: có nguyên nhân, có lý do. Dù cho không muốn cậu cũng nên trả lời: bản thân dù không muốn cũng phải trả lời, tức là nhất định phải trả lời. Hoặc sẽ tránh né vấn đề bằng vấn đề khác: có nội dung như sau – cậu sẽ tránh né, sẽ nhận chìm vấn đề (đó) bằng vấn đề khác, tức là sẽ che đậy. Bởi vì người nào được hỏi như vầy: “ông có họ gì?” nhưng lại trả lời rằng: “Tôi biết được 3 kiến thức Vệ-Đà v.v,” người này gọi là tránh né vấn đề bằng vấn đề khác. Hoặc sẽ tránh né: dù biết vấn đề được hỏi (mà) đứng dậy từ chỗ ngồi do không muốn trả lời.
Tuṇhī ahosīti samaṇo gotamo maṃ sāmaṃyeva dāsiputtabhāvaṃ kathāpetukāmo, sāmaṃ kathite ca dāso nāma jātoyeva hoti. Ayaṃ pana dvatikkhattuṃ codetvā tuṇhī bhavissati, tato ahaṃ parivattitvā pakkamissāmīti cintetvā tuṇhī ahosi.
Đã im lặng: Ambaṭṭha nghĩ rằng – Sa-môn Gotama có ý muốn ta trả lời ‘ta chính là con trai của một nữ tỳ’ và khi tự mình nói thì ‘tên người nô lệ chắc chắn được xuất hiện’. Tuy nhiên, Sa-môn Gotama này cáo tội chừng 2-3 lần rồi cũng sẽ giữ im lặng, khi đó ta sẽ tránh né (vấn đề) nên đã im lặng.
271. Vajiraṃ pāṇimhi assāti vajirapāṇi. yakkhoti na yo vā so vā yakkho, sakko devarājāti veditabbo. Ādittanti aggivaṇṇaṃ. Sampajjalitanti suṭṭhu pajjalitaṃ. Sajotibhūtanti[78] samantato jotibhūtaṃ, ekaggijālabhūtanti[79] attho. Ṭhito hotīti mahantaṃ sīsaṃ, kandalamakuḷasadisā[80] dāṭhā bhayānakāni akkhināsādīni evaṃ virūparūpaṃ māpetvā ṭhito.
271. Sấm sét có trong bàn tay của Dạ-xoa ấy (do đó) Dạ-xoa ấy gọi là Vajirapāṇi. Dạ-xoa: Nên biết rằng người này không phải Dạ-xoa bình thường mà là vua trời Sakka. Là vật nóng: có màu ngọn lửa. Bùng cháy: là (ngọn lửa) bốc cháy khắp. Sáng rực: chiếu sáng xung quanh, có nghĩa là chỉ cố ngọn lửa duy nhất. Đã đứng: Dạ-xoa ấy hóa hiện một hình tướng lập dị như vầy là cái đầu to bự, răng giống như củ cải trắng, con mắt và mũi v.v, ghê tởm, đứng (phía trên).
Kasmā panesa āgatoti? Diṭṭhivissajjāpanatthaṃ. Api ca — “Ahañceva kho pana dhammaṃ deseyyaṃ, pare ca me na ājāneyyun”ti[81] evaṃ dhammadesanāya appossukkabhāvaṃ āpanne bhagavati sakko mahābrahmunā saddhiṃ āgantvā — “bhagavā dhammaṃ desetha, tumhākaṃ āṇāya avattamāne mayaṃ vattāpessāma, tumhākaṃ dhammacakkaṃ hotu, amhākaṃ āṇācakkan”ti paṭiññaṃ akāsi. tasmā — “ajja ambaṭṭhaṃ tāsetvā pañhaṃ vissajjāpessāmī”ti āgato.
(Hỏi) Dạ-xoa ấy đến để làm gì? (Đáp) đến để làm cho Ambaṭṭha dứt bỏ tà kiến. Hơn nữa, Dạ-xoa này đến với suy nghĩ rằng – khi đức Thế Tôn đạt đến sự ít hoạt động trong việc thuyết giảng Giáo Pháp như vậy rằng: “Hơn nữa, nếu ta thuyết giảng Giáo Pháp và những người khác không thể hiểu được ta (điều ấy sẽ đem lại sự mệt mỏi cho ta, điều ấy sẽ đem lại sự phiền toái cho ta.)” Sau khi vua trời Sakka cùng với Đại Phạm Thiên đi đến đã xác nhận rằng – “Kính bạch đức Thế Tôn, xin Ngài hãy thuyết giảng Giáo Pháp, nhóm người không thực hành theo lời dạy của Ngài chúng tôi sẽ làm cho họ tin tưởng lắng nghe, bánh xe pháp hãy là của Ngài, mệnh lệnh là của chúng tôi.” Vì thế, vua trời Sakka đã đến với suy nghĩ rằng: “Ngày hôm nay, ta sẽ dọa làm cho Ambaṭṭha hoảng sợ, khiến hắn sẽ đưa ra câu trả lời.”
Bhagavā ceva passati ambaṭṭho cāti yadi hi taṃ aññepi passeyyuṃ, taṃ kāraṇaṃ agaru assa[82], “ayaṃ samaṇo gotamo ambaṭṭhaṃ attano vāde anotarantaṃ ñatvā yakkhaṃ āvāhetvā dassesi, tato ambaṭṭho bhayena kathesī”ti vadeyyuṃ. Tasmā bhagavā ceva passati ambaṭṭho ca. Tassa taṃ disvāva sakalasarīrato sedā mucciṃsu. Antokucchi viparivattamānā[83] mahāravaṃ viravi . So “aññepi nu kho passantī”ti olokento kassaci lomahaṃsamattampi nāddasa. Tato — “Idaṃ bhayaṃ mameva uppannaṃ, sacāhaṃ yakkhoti vakkhāmi, ‘kiṃ tavameva akkhīni atthi, tvameva yakkhaṃ passasi, paṭhamaṃ yakkhaṃ adisvā samaṇena gotamena vādasaṅghaṭṭe[84] pakkhittova yakkhaṃ passasī’ti vadeyyun”ti cintetvā “na dāni me idha aññaṃ paṭisaraṇaṃ atthi, aññatra samaṇā gotamā”ti maññamāno atha kho ambaṭṭho māṇavo … pe … bhagavantaṃ etadavoca.
Nhưng chỉ có đức Thế Tôn và thanh niên Ambaṭṭha nhìn thấy Dạ Xoa Vajirapāṇi: Nếu người khác cũng có thể nhìn thấy Dạ-xoa, thì điều đó không còn quan trọng nữa, (do đó) mọi người có thể nói rằng: “Sa-môn Gotama này đã biết rằng: ‘Ambaṭṭha không chấp nhận lời nói của Ngài mới đưa Dạ-xoa đến hiện ra, lúc đó ‘Ambaṭṭha đã nói vì hoảng sợ.’” Vì thế, chỉ có đức Thế Tôn và thanh niên Ambaṭṭha nhìn thấy (Dạ-xoa). Chính vì nhìn thấy Dạ-xoa ấy mà mồ hôi ướt đẫm cả toàn thân của Ambaṭṭha, bên trong bụng rối bời, hắn nghĩ rằng ‘phải chăng người khác cũng nhìn thấy?’ Vừa đưa mắt nhìn xung quanh thì chẳng thấy ai có (trạng thái) lông tóc dựng ngược. Sau đó hắn mới nghĩ rằng – “Sự hoảng sợ này chỉ khởi lên nơi ta, nếu như ta nói rằng: ‘có Dạ-xoa,’ mọi người sẽ nói rằng: ‘Con mắt của cậu có thôi hay sao, chỉ mình cậu nhìn thấy được Dạ-xoa, trước đó cậu không nhìn thấy Dạ-xoa, bị Sa-môn Gotama thúc ép bởi lời nói nên nhìn thấy Dạ-xoa,” đã nghĩ rằng – “Bây giờ ở đây, ta không có nơi nương nhờ nào khác, ngoài Sa-môn Gotama,” khi ấy thanh niên Ambaṭṭha…đã nói lời ấy cùng đức Thế Tôn.”
272. Tāṇaṃ gavesīti tāṇaṃ gavesamāno. Leṇaṃ gavesīti leṇaṃ gavesamāno. Saraṇaṃ gavesīti saraṇaṃ gavesamāno. Ettha ca tāyati rakkhatīti tāṇaṃ. Nilīyanti etthāti leṇaṃ. Saratīti saraṇaṃ, bhayaṃ hiṃsati, viddhaṃsetīti attho. Upanisīditvāti upagamma heṭṭhāsane nisīditvā. Bravitūti vadatu.
272. Có sự tìm kiếm nơi nương náu: tìm thấy nơi ẩn náu. Tìm kiếm nơi trú ẩn: Tìm kiếm nơi trú ẩn. Tìm kiếm nơi nương nhờ: Tìm kiếm nơi nương tựa. Và trong câu này gọi là nơi nương náu bởi ý nghĩa nơi bảo vệ, hộ trì. Gọi là nơi trú ẩn bởi ý nghĩa mọi người (có thể) sống an trú ở nơi ấy. Gọi là nơi nương nhờ bởi ý nghĩa bảo vệ. Có ý nghĩa làm tổn thương, tức là nhổ bỏ nỗi sợ hãi. Đã xích lại ngồi gần: bước xuống ngồi trên chỗ ngồi phía dưới (thấp hơn). Bravitū đồng nghĩa với vadatu (đã nói).
Nói Về Dòng Dõi Ambaṭṭha
273-274. Dakkhiṇajanapadanti dakkhiṇāpathoti pākaṭaṃ. Gaṅgāya dakkhiṇato pākaṭajanapadaṃ[85]. Tadā kira dakkhiṇāpathe bahū brāhmaṇatāpasā honti, so tattha gantvā ekaṃ tāpasaṃ vattapaṭipattiyā ārādhesi. So tassa upakāraṃ disvā āha — “ambho, purisa, mantaṃ te demi, yaṃ icchasi, taṃ mantaṃ gaṇhāhī”ti. So āha — “na me ācariya, aññena mantena, kiccaṃ atthi, yassānubhāvena āvudhaṃ na parivattati[86], taṃ me mantaṃ dehī”ti. So — “bhadraṃ[87], bho”ti tassa dhanuagamanīyaṃ ambaṭṭhaṃ nāma vijjaṃ adāsi, so taṃ vijjaṃ gahetvā tattheva vīmaṃsitvā — “idāni me manorathaṃ pūressāmī”ti isivesaṃ gahetvā okkākassa santikaṃ gato. Tena vuttaṃ — “dakkhiṇajanapadaṃ gantvā brahmamante adhīyitvā rājānaṃ okkākaṃ upasaṅkamitvā”ti.
273-274. Xứ sở phía Nam: hiện hữu ở xứ sở phía Nam. Xứ sở được hiện hữu ở phía Nam của dòng sông Gaṅgā. Được biết vào thời gian ấy ở xứ sở phía Nam có nhiều Bà-la-môn và đạo sĩ, Kaṇha đã đi đến nơi đó với bổn phận và sự thực hành đã làm cho một đạo sĩ hài lòng. Vị đạo sĩ đã nhìn thấy việc phụng sự của cậu ấy mới nói rằng – “Này con, ta sẽ dạy chú thuật cho con, con muốn học chú thuật nào thì hãy học chú thuật ấy.” – Cậu ấy nói rằng – “Thưa thầy, con không có phận sự, đối với những chú thuật khác. Các loại vũ khí không thể gây hại nhờ sức mạnh của chú thuật nào, cầu xin thầy hãy dạy chú thuật ấy cho con.” Vị đạo sĩ ấy nói rằng – “Này con, tốt lành thay” đã truyền dạy môn học mà cung tên bắn không thể đi gọi là Ambaṭṭha. Sau khi nắm lấy được môn học ấy, đã thử nghiệm ngay tại chỗ đó, nghĩ rằng – “Bây giờ, ta sẽ hoàn thanh điều mong ước của mình” mới giữ hình tướng là một vị ẩn sĩ đi đến trú xứ của vua Okkāka. Vì thế đã nói rằng – “Kaṇha đã đi đến xứ sở phía Nam, đã học thuộc lòng các chú thuật tối thượng, đã đi đến gặp đức vua Okkāka…”
Ettha[88] brahmamanteti ānubhāvasampannatāya seṭṭhamante. Ko nevaṃ’re[89] ayaṃ mayhaṃ dāsiputtoti ko nu evaṃ are ayaṃ mama dāsiputto. So taṃ khurappanti so rājā taṃ māretukāmatāya sannahitaṃ[90] saraṃ tassa mantānubhāvena neva khipituṃ na apanetuṃ sakkhi, tāvadeva sakalasarīre sañjātasedo bhayena vedhamāno aṭṭhāsi.
Ở đây, chú thuật tối thượng: chú thuật tuyệt vời bởi vì là chú thuật toàn hảo nhờ uy lực (về quyền năng). Đức vua Okkāka tức giận (nghĩ rằng): Kẻ này là ai, trong khi là con của một nữ tỳ: Ở kìa, ai đây? là con trai của một nữ tỳ (mà cả gan đến xin cưới công chúa Maṭṭharūpī) của trẫm như vậy. Đức vua Okkāka (không thể nào) bắn ra mũi tên ấy: Đức vua đã kéo dây cung (nhắm bắn) do ngài có ý định giết chết vị ẩn sĩ ấy nhưng không thể nào bắn ra mũi tên mà cũng không thể hạ cung xuống, ngay lúc ấy (đức vua) có mồ hôi tuôn chảy khắp cả kim thân, ngài đứng run rẩy do sợ hãi.
Amaccāti mahāmaccā. Pārisajjāti itare parisāvacarā. Etadavocunti — “Daṇḍakīrañño[91] kisavacchatāpase aparaddhassa āvudhavuṭṭhiyā sakalaraṭṭhaṃ vinaṭṭhaṃ. Nāḷikero pañcasu tāpasasatesu ajjuno ca aṅgīrase aparaddho pathaviṃ bhinditvā nirayaṃ paviṭṭho”ti cintayantā bhayena etaṃ sotthi, bhaddanteti-ādivacanaṃ avocuṃ.
Các quan đại thần: Các quan đại thần. Tùy tùng: ngoài những người ấy ra. (Các quan đại thần) đã nói điều này: “Họ nghĩ rằng khi đức vua Daṇḍakī cư xử sái quấy đối với đạo sĩ Kisavaccha toàn bộ lãnh thổ bị nát vụn bởi con mua vũ khí, đức vua Nāḷike cư xử sái quấy đối với năm trăm vị đạo sĩ và đức vua Ajjuna cư xử sái quấy đối với đạo sĩ Aṅgīrasa bị hút vào lòng đất, (tái sanh) vào địa ngục” bởi sự sợ hãi đã nói lời này rằng: ‘Thưa ngài đại đức, hãy để cho đức vua có sự bình yên.’
Sotthi bhavissati raññoti idaṃ vacanaṃ kaṇho ciraṃ tuṇhī hutvā tato anekappakāraṃ yācīyamāno — “Tumhākaṃ raññā mādisassa isino khurappaṃ sannayhantena bhāriyaṃ kammaṃ katan”tiādīni ca vatvā pacchā abhāsi. Undriyissatīti bhijjissati, thusamuṭṭhi viya vippakiriyissatīti. Idaṃ so “janaṃ tāsessāmī”ti musā bhaṇati. Sarasanthambhanamatteyeva hissa vijjāya ānubhāvo, na aññatra. Ito paresupi vacanesu eseva nayo.
Ẩn sĩ Kaṇha đã giữ im lặng một hồi lâu, từ đó trong khi bị họ van xin bằng nhiều cách khác nhau, mới nói lời nói sau: “Đức vua của các ông đưa cung tên (nhắm bắn) ẩn sĩ như chúng tôi (điều đó) được xem là đã tạo nghiệp nặng” rồi đã nói lời này rằng: “Sẽ có sự bình yêu cho đức vua.” Sẽ bị nát vụn: sẽ bị vỡ nát. Ẩn sĩ Kaṇha ấy nghĩ rằng: “Ta sẽ làm cho mọi người hoảng hốt” đã nói dối rằng: ‘quả địa cầu sẽ bị nát vụn như đống vỏ trấu.’ Thật ra thì quyền năng của môn học mà ẩn sĩ Kaṇha ấy chỉ có thể dừng mũi tên mà thôi chớ không thể vận hành theo cách khác. Ngoài ra thì các từ còn lại cũng có phương cách tương tư.
Pallomoti pannalomo. Lomahaṃsanamattampissa na bhavissati. Idaṃ kira so “sace me rājā taṃ dārikaṃ dassatī”ti paṭiññaṃ kāretvā avaca. Kumāre khurappaṃ patiṭṭhapesīti tena “saro otaratū”ti mante parivatti, te kumārassa nābhiyaṃ patiṭṭhapesi. Dhītaraṃ adāsīti sīsaṃ dhovitvā adāsaṃ bhujissaṃ katvā dhītaraṃ adāsi, uḷāre ca taṃ ṭhāne ṭhapesi. Mā kho tumhe māṇavakāti idaṃ pana bhagavā — “ekena pakkhena ambaṭṭho sakyānaṃ ñāti hotī”ti pakāsento tassa samassāsanatthaṃ āha. Tato ambaṭṭho ghaṭasatena abhisitto viya passaddhadaratho hutvā samassāsetvā samaṇo gotamo maṃ “tosessāmī”ti[92] ekena pakkhena ñātiṃ karoti, khattiyo kirāhamasmī”ti cintesi.
Hết rùng rợn: có lông (tóc) nằm bệt xuống. Sẽ không còn (sợ hãi) luôn cả có lông dựng đứng lên. Được biết rằng sau khi ẩn sĩ Kaṇha làm cho đức vua xác nhận đã nói lời này: “Nếu như đức vua (đồng ý) gã công chúa ấy cho ta”. Đã đặt cung tên xuống chỗ đại hoàng tử: Khi ẩn sĩ ấy tụng chú thuật ‘hãy cho cung tên hạ xuống’ thì đức vua cũng đã đặt (cung tên) xuống bụng của hoàng tử. Đã gã công chúa Maṭṭharūpī cho vị ấy: đã gội đầu sạch sẽ để không làm nô lệ, tức là trở thành người tự do, đức vua đã gã công chúa và đã ban tước vị lớn (cho vị ấy). Đức Thế Tôn khi tuyên bố rằng: Ambaṭṭha là dòng họ các vị Sakya ở một phía” nên đã nói rằng: Đám thanh niên các cậu chớ nhục mạ quá đáng thanh niên Ambaṭṭha – để cho vị ấy cảm thấy nhẹ nhõm. Sau đó, Ambaṭṭha dường như được rưới hàng trăm chậu nước, có nỗi lo âu được tĩnh lặng (bản thân) cảm thấy nhẹ nhõm (nghĩ rằng) Sa-môn Gotama đã suy nghĩ rằng: “Sẽ khiến ta vui mừng” mới làm cho ta trở thành dòng họ ở một phía, thật vậy ‘ta là (dòng họ) Sát-đế-lỵ”.
Nói Về Sự Tối Cao Của Dòng Dõi Sát-đế-lỵ
275. Atha kho bhagavā — “ayaṃ ambaṭṭho khattiyosmī”ti saññaṃ karoti, attano akhattiyabhāvaṃ na jānāti, handa naṃ jānāpessāmīti khattiyavaṃsaṃ dassetuṃ uttaridesanaṃ vaḍḍhento — “taṃ kiṃ maññasi ambaṭṭhā”tiādimāha. Tattha idhāti imasmiṃ loke. Brāhmaṇesūti brāhmaṇānaṃ antare. Āsanaṃ vā udakaṃ vāti aggāsanaṃ vā aggodakaṃ vā. Saddheti matake uddissa katabhatte. Thālipāketi maṅgalādibhatte. Yaññeti yaññabhatte. Pāhuneti pāhunakānaṃ katabhatte paṇṇākārabhatte vā. Api nussāti api nu assa khattiyaputtassa. Āvaṭaṃ vā assa anāvaṭaṃ vāti, brāhmaṇakaññāsu nivāraṇaṃ bhaveyya vā no vā, brāhmaṇadārikaṃ labheyya vā na vā labheyyāti attho. Anupapannoti khattiyabhāvaṃ apatto, aparisuddhoti attho.
275. Khi ấy đức Thế Tôn suy nghĩ – Ambaṭṭha này tưởng rằng “Ta là Sát-đế-lỵ”, không biết bản thân không phải là Sát-đế-lỵ, thôi được rồi Ta sẽ cho cậu ấy biết, khi thuyết giảng Pháp thoại xa hơn để thuyết về Sát-đế-lỵ đã nói rằng – Này Ambaṭṭha cậu nghĩ gì về điều này?” Ở đó từ ‘idha’ được dịch là ở thế gian này. Ở nơi những người Bà-la-môn: giữa những người Bà-la-môn. Chỗ ngồi và nước uống: chỗ ngồi tốt nhất và nước uống tốt nhất. Vào dịp lễ giỗ: phần thức ăn đã được chuẩn bị để hồi hướng đến người quá vãng. Lễ cầu phúc: phần thức ăn vào trong buổi lễ cầu phúc. Lễ hiến tế: phần thức ăn đã được chuẩn bị để làm lễ cúng tế. Tiệc đãi khách: phần thức ăn đã được chuẩn bị để tiếp đãi khách khứa, hoặc phần thức ăn đã được chuẩn bị để biếu tặng. ‘Api nussa’ tách từ thành ‘api nu assa’ là có phải dành cho hoàng tử Sát-đế-lỵ? Bị cấm đoán hay không bị cấm đoán: là những nữ nhân dòng dõi Bà-la-môn có thể có việc cấm đoán hoặc không có việc cấm đoán, có nghĩa là hoàng tử Sát-đế-lỵ có thể có được nữ nhân dòng dõi Bà-la-môn hoặc có thể không có được. Không thanh tịnh: không đạt đến dòng dõi Sát-đế-lỵ, tức không thanh tịnh.
276. Itthiyā vā itthiṃ karitvāti itthiyā vā itthiṃ pariyesitvā. Kismiñcideva pakaraṇeti kismiñcideva dose brāhmaṇānaṃ ayutte akattabbakaraṇe. Bhassapuṭenāti bhasmapuṭena, sīse chārikaṃ okiritvāti attho.
276. Khi so sánh người nữ (Sát-đế-lỵ) với người nữ (Bà-la-môn): Tìm kiếm người nữ (Sát-đế-lỵ) với người nữ (Bà-la-môn). Trong một số trường hợp: Trong việc thực hiện những điều không nên làm là một số lỗi lầm (mà) phù hợp đối với các Bà-la-môn. Với hũ tro nóng: Lấy hũ tro, trét tro lên đầu.
277. Janetasminti janitasmiṃ[93], pajāyāti attho. Ye gottapaṭisārinoti ye janetasmiṃ gottaṃ paṭisaranti — “ahaṃ gotamo, ahaṃ kassapo”ti, tesu loke gottapaṭisārīsu khattiyo seṭṭho. Anumatā mayāti mama sabbaññutaññāṇena saddhiṃ saṃsanditvā desitā mayā anuññātā.
277. Ở trong nhóm người: ở loài người, tức là quần chúng. Có sự trông cậy vào dòng dõi: đám đông dân chúng, người nào khoe khoang về dòng dõi – “Tôi thuộc (dòng dõi) Gotama, tôi thuộc (dòng dõi) Kassapa”, Sát-đế-lỵ là người (dòng dõi) tối thượng nhất trong những người ấy người khoe khoang về dòng dõi ở thế gian. Được Ta tán thành: kệ ngôn này Phạm thiên Sanaṅkumāra trình bày để so sánh với Toàn giác trí của Ta (do đó) ta mới chấp nhận.
Thuyết Giảng Về Minh và Hạnh
278. Imāya pana gāthāya vijjācaraṇasampannoti idaṃ padaṃ sutvā ambaṭṭho cintesi — “vijjā nāma tayo vedā, caraṇaṃ pañca sīlāni, tayidaṃ amhākaṃyeva atthi, vijjācaraṇasampanno ce seṭṭho, mayameva seṭṭhā”ti niṭṭhaṃ gantvā vijjācaraṇaṃ pucchanto — “Katamaṃ pana taṃ, bho gotama, caraṇaṃ, katamā ca pana sā vijjā”ti āha. Athassa bhagavā taṃ brāhmaṇasamaye siddhaṃ jātivādādipaṭisaṃyuttaṃ vijjācaraṇaṃ paṭikkhipitvā anuttaraṃ vijjācaraṇaṃ dassetukāmo — “Na kho ambaṭṭhā”tiādimāha. Tattha jātivādoti jātiṃ ārabbha vādo, brāhmaṇassevidaṃ vaṭṭati, na suddassātiādi vacananti attho. Esa nayo sabbattha. Jātivādavinibaddhāti jātivāde vinibaddhā. Esa nayo sabbattha.
278. Hơn nữa, với kệ ngôn này Ambaṭṭha đã nghe câu này rằng: Vị nào đầy đủ Minh và Hạnh mới suy nghĩ (rằng): “Ba-kiến-thức-Vệ-Đà là Minh, năm giới là Hạnh, Minh và Hạnh này là của chính Ta, còn nếu người đầy đủ bởi Minh và Hạnh là người tối thượng nhất, bản thân ta cũng được xem là tối thượng nhất” cậu ấy đi đến sự thỏa thuận, trong khi hỏi đến Minh và Hạnh đã nói rằng: “Này ông Gotama, Hạnh ấy là gì? Minh ấy là gì?” Khi ấy, đức Thế Tôn có ý muốn bác bỏ Minh và Hạnh gắn liền với luận thuyết về chủng tộc, điều đó có trong học thuyết của Bà-la-môn ấy, rồi thuyết Minh và Hạnh vô thượng đã tuyên thuyết rằng: “Này Ambaṭṭha, ở sự thành tựu Minh và Hạnh v.v.” Ở đó, luận thuyết về chủng tộc: Luận thuyết bắt đầu về chủng tộc, có nghĩa là lời nói v.v, điều này chỉ phù hợp đối với (giai cấp) Bà-la-môn, không thích hợp đối với (giai cấp) hạ tiện. Tất cả mọi chỗ đều có phương cách như thế. Ràng buộc vào luận thuyết về chủng tộc: người dính líu vào luận thuyết về chủng tộc. Tất cả mọi chỗ đều có phương cách như thế.
Tato ambaṭṭho — “Yattha dāni mayaṃ laggissāmāti cintayimha, tato no samaṇo gotamo mahāvāte thusaṃ dhunanto viya[94] dūrameva avakkhipi. Yattha pana mayaṃ na laggāma[95], tattha no niyojesi. Ayaṃ no vijjācaraṇasampadā ñātuṃ vaṭṭatī”ti cintetvā puna vijjācaraṇasampadaṃ[96] pucchi. Athassa bhagavā samudāgamato pabhuti vijjācaraṇaṃ dassetuṃ — “idha ambaṭṭha tathāgato”tiādimāha.
Khi ấy, thanh niên Ambaṭṭha nghĩ, tôi nghĩ – “Bây giờ, chúng ta bị mắc kẹt ở chỗ nào, ở chỗ đó Sa-môn Gotama quang ném chúng tôi bay xa tít giống như người ném nắm trấu vào cơn gió lớn, hơn nữa chúng tôi không mắc kẹt ở chỗ nào, Sa-môn Gotama lại dẫn dắt chúng tôi đi đến chỗ đó. Sự thành tựu Minh và Hạnh của chúng ta này cần phải biết không?” rồi hỏi đến sự thành tựu Minh và Hạnh. Sau đó, đức Thế Tôn nhằm mục đích thuyết về Minh và Hạnh khởi sự từ lúc bắt đầu xuất hiện của Ambaṭṭha ấy – đã nói “Ở đây, này Ambaṭṭha, Như Lai hiện khởi ở thế gian”
279. Ettha ca bhagavā caraṇapariyāpannampi tividhaṃ sīlaṃ vibhajanto “idamassa hoti caraṇasmin”ti aniyyātetvā “idampissa hoti sīlasmin”ti sīlavaseneva niyyātesi. Kasmā? Tassapi hi kiñci kiñci sīlaṃ atthi, tasmā caraṇavasena niyyātiyamāne “mayampi caraṇasampannā”ti tattha tattheva laggeyya. Yaṃ pana tena supinepi na diṭṭhapubbaṃ, tasseva vasena niyyātento paṭhamaṃ jhānaṃ upasampajja viharati. Idampissa hoti caraṇasmiṃ … pe … catutthaṃ jhānaṃ upasampajja viharati, idampissa hoti caraṇasmintiādimāha. Ettāvatā aṭṭhapi samāpattiyo caraṇanti niyyātitā honti, vipassanā ñāṇato pana paṭṭhāya aṭṭhavidhāpi paññā vijjāti niyyātitā.
279. Và ở đây, đức Thế Tôn trong khi phân tích 3 loại giới, kể cả liên quan đến Hạnh, không nêu rõ rằng: “đây là Hạnh của vị tỳ khưu ấy”, nhưng nêu rõ do chính mãnh lực của Giới rằng: “Luôn cả điều này cũng là Giới của vị tỳ khưu ấy”. Tại sao? Bởi vì, bất kỳ Giới nào của vị tỳ khưu ấy có, bởi thế khi nêu rõ do mãnh lực của Hạnh, vị tỳ khưu có thể dính mắc ở chính Hạnh đó, với suy nghĩ rằng: “Luôn cả chúng ta cũng thành tựu bởi Hạnh”. Từ ‘Hạnh’ nào đó vị tỳ khưu chưa từng nhìn thấy, ngay cả với giấc mơ, khi nêu rõ do mãnh lực của chính Hạnh ấy mới thuyết rằng: “Vì tỳ khưu đạt đến và trú thiền thứ nhất, ngay cả điều này cũng là Hạnh của vị tỳ khưu ấy …nt… vị tỳ khưu đạt đến và trú thiền thứ tư, luôn cả điều này cũng là Hạnh của vị tỳ khưu ấy v.v.” Chỉ bấy nhiêu là điều mà Ngài nêu rõ đến cả tám ‘Thiền Chứng’ được gọi là Hạnh. Còn cả tám loại ‘Tuệ’ tính từ ‘Minh Sát Trí’ trở đi Ngài nêu rõ là ‘Minh’.
Giải Thích Bốn Cửa Ngõ Dẫn Đến Sự Thất Bại
280. Apāyamukhānīti vināsamukhāni. Anabhisambhuṇamānoti asampāpuṇanto, avisahamāno vā. Khārividhamādāyāti ettha khārīti araṇī kamaṇḍalu sujādayo tāpasaparikkhārā. Vidhoti kājo. Tasmā khāribharitaṃ kājamādāyāti attho. Ye pana khārivividhanti paṭhanti, te “khārīti kājassa nāmaṃ, vividhanti bahukamaṇḍaluādiparikkhāran”ti vaṇṇayanti. Pavattaphalabhojanoti patitaphalabhojano. Paricārakoti kappiyakaraṇa- pattapaṭiggahaṇa- pādadhovanādivattakaraṇavasena paricārako. Kāmañca guṇādhikopi khīṇāsavasāmaṇero puthujjanabhikkhuno vuttanayena paricārako hoti, ayaṃ pana na tādiso guṇavasenapi veyyāvaccakaraṇavasenapi lāmakoyeva.
280. (Cửa ngõ dẫn đến) sự thất bại: cửa ngõ của sự hoại diệt. Trong khi không giác ngộ: vẫn chưa chứng đắc, hoặc không có khả năng. Mang theo vật dụng cần thiết: vật dụng cần thiết của đạo sĩ có gỗ chà răng, bình nước, cây kim và cái lông đuôi con bò to ở cao nguyên Tây Tạng được gọi là vật dụng cần thiết. Mang vác: mang trên vai. Vì thế, có nghĩa là mang vác đầy những vật dụng cần thiết của đạo sĩ. Tuy nhiên, thầy đã nói ‘các vật dụng cần thiết khác’ ngài cũng giải thích là “khārī là tên gọi của việc gánh vác, vividhaṃ là nhiều loại vật dụng có bình đựng nước v.v.” Có trái cây rơi rụng làm vật thực: có trái cây rơi rụng làm vật thực. Là người phục vụ: là người phục vụ do tác động thực hành bổn phận như làm điều thích hợp, tiếp nhận bình bát và rửa chân v.v. Vị sa-di Lậu Tận, mặc dù có ân đức cao thượng cũng phải (làm bổn phần) vị phục vụ tỳ khưu phàm nhân, theo phương cách đã nói, tuy nhiên người này có phải như vậy không? là người kém cỏi do tác động đức hạnh, hoặc do tác động hạnh phục vụ.
Kasmā pana tāpasapabbajjā sāsanassa vināsamukhanti vuttāti? yasmā gacchantaṃ gacchantaṃ sāsanaṃ tāpasapabbajjāvasena osakkissati. Imasmiñhi sāsane pabbajitvā tisso sikkhā pūretuṃ asakkontaṃ lajjino sikkhākāmā — “natthi tayā saddhiṃ uposatho vā pavāraṇā vā saṅghakammaṃ vā”ti jigucchitvā parivajjenti. So “dukkaraṃ khuradhārūpamaṃ sāsane paṭipattipūraṇaṃ dukkhaṃ, tāpasapabbajjā pana sukarā ceva bahujanasammatā cā”ti vibbhamitvā tāpaso hoti. Aññe taṃ disvā — “Kiṃ tayā katan”ti pucchanti. So — “Bhāriyaṃ tumhākaṃ sāsane kammaṃ, idha pana sachandacārino mayan”ti vadati. Sopi, yadi evaṃ ahampi ettheva pabbajāmīti tassa anusikkhanto tāpaso hoti. Evamaññepi aññepīti kamena tāpasāva bahukā honti. Tesaṃ uppannakāle sāsanaṃ osakkitaṃ nāma bhavissati. Loke evarūpo buddho nāma uppajji, tassa īdisaṃ nāma sāsanaṃ ahosīti sutamattameva bhavissati. Idaṃ sandhāya bhagavā tāpasapabbajjaṃ sāsanassa vināsamukhanti āha.
Hơn nữa, việc xuất gia trở thành đạo sĩ, tại sao ngài gọi là cửa ngõ của sự hoại diệt của Giáo Pháp? Bởi vì Giáo Pháp đang tiến bộ sẽ bị thụt lùi do tác động của việc xuất gia trở thành đạo sĩ. Quả thật, người có sự hổ thẹn, ước muốn trong việc học tập, thường hay không ưa người xuất gia trong Giáo Pháp này, rồi không thể thực hành ba điều học được đầy đủ rằng: “Ta không có việc thực hành lễ Uposatha, lễ Tự Tứ, và hành sự của Hội Chúng cùng với ngài” rồi né tránh đi. Sa-môn hoặc Bà-la-môn ấy nghĩ rằng: “Việc hoàn thiện Pháp hành trong Giáo Pháp (là điều) khó thực hiện cũng giống như con dao sắc bén là khổ, nhưng việc xuất gia trở thành đạo sĩ thì dễ thực hiện được quần chúng sùng bái” (vị ấy) đã hoàn tục trở thành đạo sĩ. Sau khi người khác nhìn thấy đã hỏi rằng: “Ngài đã làm gì vậy?” Vị ấy đáp rằng: “Hành sự trong Giáo Pháp của các ngài quá nặng nề, nhưng chúng tôi hành xử theo ước muốn trong Giáo Pháp này”. Kể cả vị ấy cũng nghĩ rằng: “Nếu như thế thì ngay cả ta cũng sẽ xuất gia trong Giáo Pháp này, học tập theo vị ấy xuất gia trở thành đạo sĩ.” Luôn cả những người khác cũng xuất gia trở thành đạo sĩ theo cách này. Vì thế, các đạo sĩ (số lượng lớn) càng ngày càng tăng lên. Vào lúc các đạo sĩ ấy xuất hiện thì Giáo Pháp gọi là sẽ bị thụt lùi. Đức Phật gọi là xuất hiện ở trên đời có hình thức như vậy, Giáo Pháp của ngài là như thế, cũng đồng nghĩa Giáo Pháp sẽ trở thành giống như sợi chỉ. Đức Thế Tôn có ý muốn đề cập đến vấn đề này mới thuyết rằng: “Việc xuất gia trở thành đạo sĩ là cửa ngõ hoại diệt của Giáo Pháp.”
Kudālapiṭakanti kandamūlaphalaggahaṇatthaṃ kudālañceva[97] piṭakañca. Gāmasāmantaṃ vāti vijjācaraṇasampadādīni anabhisambhuṇanto, kasikammādīhi ca jīvitaṃ nipphādetuṃ dukkhanti maññamāno bahujanakuhāpanatthaṃ gāmasāmante vā nigamasāmante vā aggisālaṃ katvā sappiteladadhimadhuphāṇitatilataṇḍulādīhi ceva nānādārūhi ca homakaraṇavasena aggiṃ paricaranto acchati.
Cuốc và giỏ: cuốc và giỏ để gom nhặt củ, rễ và trái cây. Gian nhà kế cận: Trong lúc không có khả năng về việc thành tựu Minh và Hạnh v.v, trong khi suy nghĩ rằng: Để duy trì mạng sống bằng việc làm nông là khó khăn, nhằm mục đích lừa gạt để dân làng tin tưởng đã xây dựng gian nhà thờ lửa kế cận ngôi làng hoặc kế cận thị trấn rồi trú ở đó thờ phụng thần lửa nhờ sức mạnh thực hiện việc lễ bái với bơ lỏng, dầu, sữa đông, mật ong, mè và gạo v.v, và nhiều loại cây khác nhau.
Catudvāraṃ agāraṃ karitvāti catumukhaṃ pānāgāraṃ katvā tassa dvāre maṇḍapaṃ katvā tattha pānīyaṃ upaṭṭhapetvā āgatāgate pānīyena āpucchati. Yampissa addhikā kilantā pānīyaṃ pivitvā parituṭṭhā bhattapuṭaṃ[98] vā taṇḍulādīni vā denti, taṃ sabbaṃ gahetvā ambilayāguādīni katvā bahutaraṃ āmisagahaṇatthaṃ[99] kesañci annaṃ deti, kesañci bhattapacanabhājanādīni. Tehipi dinnaṃ āmisaṃ vā pubbaṇṇādīni vā[100] gaṇhati, tāni vaḍḍhiyā payojeti. Evaṃ vaḍḍhamānavibhavo gomahiṃsadāsīdāsapariggahaṃ karoti, mahantaṃ kuṭumbaṃ saṇṭhapeti. Imaṃ sandhāyetaṃ vuttaṃ — “catudvāraṃ agāraṃ karitvā acchatī”ti. “Tamahaṃ yathāsatti yathābalaṃ paṭipūjessāmī”ti idaṃ panassa paṭipattimukhaṃ. Iminā hi mukhena so evaṃ paṭipajjatīti. Ettāvatā ca bhagavatā sabbāpi tāpasapabbajjā niddiṭṭhā honti.
Đã tạo dựng gian nhà có bốn cửa: xây dựng gian nhà đặt các vại nước (dành cho khách bộ hành) ở bốn phía, làm mái che ở cổng rồi đặt nước uống ở nơi đó, từ từ mời những người đang lần lượt đi đến uống nước. Những khách đường xa mệt mỏi sau khi uống nước thì họ sẽ cho một thức gì đó đến vị ấy, (có thể) là gối đồ ăn để thọ dụng, hay gạo v.v, (vị ấy) đã lấy mọi thứ, nấu cháo v.v, rồi cho cháo đến một số người, cho vật dụng để nấu đồ ăn cho một số người. Nhằm mục đích đạt được nhiều tài vật hơn, vị ấy giữ lấy các tài vật, các loại hạt lúa bắp, hoặc các hạt rau cải v.v, mà những người ấy cho để làm tăng thêm (tài vật của mình) sử dụng những đồ vật đó để tiếp tục tìm kiếm lợi ích. Bằng cách như vậy vị ấy có tài sản càng lúc càng tăng thêm, tiếp tục nhận thêm trâu bò, đầy tớ nam và đầy tớ gái, (cho nên) vị ấy thu gom được rất nhiều tài sản. Đức Thế Tôn muốn đề cập đến nhóm này mới thuyết rằng – “Đã tạo dựng gian nhà có bốn cửa”. Còn đối với câu này: “Ta sẽ cúng dường Sa-môn và Bà-la-môn tùy theo khả năng, tùy theo sức lực” là đạo lộ thực hành của vị ấy. Bởi vì, vị ấy thực hành như vậy theo đạo lộ này. Chỉ với chừng ấy lời là điều đức Thế Tôn thuyết giảng để thấy việc xuất gia trở thành đạo sĩ một cách đầy đủ.
Kathaṃ? Aṭṭhavidhā hi tāpasā — saputtabhariyā, uñchācariyā, anaggipakkikā, asāmapākā[101], asmamuṭṭhikā[102], dantavakkalikā, pavattaphalabhojanā[103], paṇḍupalāsikāti. Tattha ye keṇiyajaṭilo[104] viya kuṭumbaṃ saṇṭhapetvā vasanti, te saputtabhariyā nāma.
Thuyết như thế nào? Thật vậy có tám nhóm đạo sĩ – (1) Nhóm vẫn có vợ con, (2) nhóm đi xin để nuôi mạng, (3) anaggipakkikā, (4) vị không tự mình nấu, (5) vị có nắm tay sắt, (6) vị sử dụng răng cửa, (7) vị chỉ thọ dụng trái cây rơi xuống, (8) vị thọ dụng lá cây khô. Ở đó, những đạo sĩ nào sau khi tích góp được nhiều tài sản rồi sống như Keṇiya Jaṭila, những đạo sĩ ấy gọi là có vợ con.
Ye pana “saputtadārabhāvo nāma pabbajitassa ayutto”ti lāyanamaddanaṭṭhānesu vīhimuggamāsatilādīni saṅkaḍḍhitvā pacitvā paribhuñjanti, te uñchācariyā nāma.
Còn những đạo sĩ nào nghĩ rằng “tính chất người có vợ con không thích hợp đối với người xuất gia” mới đi tìm kiếm thu nhặt thóc lúa, đậu xanh, đậu ván, và hạt vừng v.v, ở những nơi thu hoạch và đập lúa, mang đi nấu để thọ dụng. Những đạo sĩ ấy được cho là đi xin để nuôi mạng.
Ye “khalena khalaṃ vicaritvā vīhiṃ āharitvā koṭṭetvā paribhuñjanaṃ nāma ayuttan”ti gāmanigamesu taṇḍulabhikkhaṃ gahetvā pacitvā paribhuñjanti, te anaggipakkikā nāma.
Còn những đạo sĩ nào nghĩ rằng: “Sau khi đi từ sân đập lúa này đến sân đập lúa kia để thu gom thóc lúa đã mang về giã (rồi nấu) thọ dụng là không thích hợp” chỉ chấp nhận gạo xin được ở làng mạc và thị trấn, mang về nấu rồi thọ dụng, những đạo sĩ ấy gọi là anaggipakkikā.
Ye pana “kiṃ pabbajitassa sāmapākenā”ti gāmaṃ pavisitvā pakkabhikkhameva gaṇhanti, te asāmapākā nāma.
Còn những đạo sĩ nào nghĩ rằng: “Có lợi ích gì với việc tự mình nấu của bậc xuất gia” đã đi đến làng chỉ thọ nhận phần vật thực đã được nấu mà thôi, những đạo sĩ ấy gọi là vị không tự mình nấu.
Ye “divase divase bhikkhāpariyeṭṭhi nāma dukkhā pabbajitassā”ti muṭṭhipāsāṇena ambāṭakādīnaṃ rukkhānaṃ tacaṃ koṭṭetvā khādanti, te asmamuṭṭhikā nāma.
Còn những đạo sĩ nào nghĩ rằng: “Việc tìm kiếm vật thực mỗi ngày đối với vị đã xuất gia là khó nhọc” đã sử dụng nắm tay để thay thế hòn đá để đập nát vỏ cây có cây xoài rừng v.v, nhai ăn, những đạo sĩ ấy gọi là vị có nắm tay sắt.
Ye pana “pāsāṇena tacaṃ koṭṭetvā vicaraṇaṃ nāma dukkhan”ti danteheva ubbāṭetvā khādanti, te dantavakkalikā nāma.
Còn những đạo sĩ nào nghĩ rằng: “Việc tìm kiếm đá để đập vỏ cây là khó nhọc” rồi sử dụng chính răng (cửa) để lột vỏ cây rồi nhai ăn, những đạo sĩ ấy gọi là vị sử dụng răng cửa.
Ye “dantehi ubbāṭetvā khādanaṃ nāma dukkhaṃ pabbajitassā”ti leḍḍudaṇḍādīhi paharitvā patitāni phalāni paribhuñjanti, te pavattaphalabhojanā nāma.
Còn những đạo sĩ nào nghĩ rằng: “Việc sử dụng răng cửa để bóc vỏ cây đối với vị xuất gia là khó nhọc” (vị ấy) thọ dụng trái cây bằng việc lấy những hòn đá hoặc những cành cây v.v, ném để chúng rơi xuống, những đạo sĩ ấy gọi là vị chỉ thọ dụng trái cây rơi xuống.
Ye pana “leḍḍudaṇḍādīhi pātetvā paribhogo nāma asāruppo pabbajitassā”ti sayaṃ patitāneva pupphaphalapaṇḍupalāsādīni khādantā yāpenti, te paṇḍupalāsikā nāma.
Còn những đạo sĩ nào nghĩ rằng: “Việc lấy những hòn đá hoặc những cành cây để ném trái cây rớt xuống rồi thọ dụng không thích hợp đối với vị đã xuất gia” nên vị ấy chỉ nhai ăn trái cây, lá cây khô tự rụng xuống để nuôi mạng, những đạo sĩ ấy gọi là vị thọ dụng lá cây khô.
Te tividhā — ukkaṭṭhamajjhimamudukavasena. Tattha ye nisinnaṭṭhānato anuṭṭhāya hatthena pāpuṇanaṭṭhāneva patitaṃ gahetvā khādanti, te ukkaṭṭhā. Ye ekarukkhato aññaṃ rukkhaṃ na gacchanti, te majjhimā. Ye taṃ taṃ rukkhamūlaṃ gantvā pariyesitvā khādanti, te mudukā.
Những đạo sĩ ấy (được chia) thành ba nhóm – những đạo sĩ nào không đứng dậy từ chỗ mình ngồi mà chỉ dùng tay lượm nhặt trái cây rơi ở nơi mà mình có thể với tới rồi nhai ăn, những vị đạo sĩ ấy gọi là bậc cao. Những vị nào không chấp nhận cây khác (chỉ ăn trái cây, hoa, lá) từ một cây duy nhất, thì những vị ấy gọi là bậc trung. Còn những vị nào đi tìm kiếm từ gốc cây này đến gốc cây kia (lấy lá, hoa, trái) đến để nhai ăn, thì những vị ấy gọi là bậc hạ.
Imā pana aṭṭhapi tāpasapabbajjā imāhi catūhiyeva saṅgahaṃ gacchanti. Kathaṃ? etāsu hi saputtabhariyā ca uñchācariyā ca agāraṃ bhajanti. Anaggipakkikā ca asāmapākā ca agyāgāraṃ bhajanti. Asmamuṭṭhikā ca dantavakkalikā ca kandamūlaphalabhojanaṃ bhajanti. Pavattaphalabhojanā ca paṇḍupalāsikā ca pavattaphalabhojanaṃ bhajanti. Tena vuttaṃ — “ettāvatā ca bhagavatā sabbāpi tāpasapabbajjā niddiṭṭhā hontī”ti.
Tuy nhiên, việc xuất gia trở thành đạo sĩ của cả tám hạng này cũng được tóm gọn lại thành bốn hạng mà thôi. Tóm ngọn ra sao? Quả thật, trong số những hạng xuất gia này việc xuất gia có vợ con, đi xin để nuôi mạng gộp chung bọn với người sống đời sống gia đình; không dùng lửa nấu, không tự mình nấu được gộp thành người sử dụng ngôi nhà thờ lửa. Người sử dụng nắm tay như thanh sắt đập vào vỏ cây thọ dụng, việc sử dụng răng cửa để thọ dụng được gộp thành người thọ dụng thân cây, rễ cây và trái cây. Thọ dụng trái cây tự rụng, thọ dụng lá cây vàng được gộp chung thành người thọ dụng trái cây tự rụng. Bởi thế, ngài mới nói rằng – “Chỉ chừng ấy lời là điều đức Thế Tôn đưa ra để trình bày về việc xuất gia trở thành đạo sĩ một cách đầy đủ”
281-282. Idāni bhagavā sācariyakassa ambaṭṭhassa vijjācaraṇasampadāya apāyamukhampi appattabhāvaṃ dassetuṃ taṃ kiṃ maññasi ambaṭṭhātiādimāha. Taṃ uttānatthameva. Attanā āpāyikopi aparipūramānoti attanā vijjācaraṇasampadāya āpāyikenāpi aparipūramānena.
281-282. Bây giờ, đức Thế Tôn khi thuyết rằng: thầy (của Ambaṭṭha) và Ambaṭṭha vẫn còn kém cỏi ở bốn cửa ngõ dẫn đến sự thất bại cho việc thành tựu Minh và Hạnh nên mới nói rằng: “Này Ambaṭṭhā, cậu nghĩ gì về việc này?” Lời đó toàn bộ đều có nội dung đơn giản. Sự thất bại (cho việc thành tựu Minh và Hạnh vô thượng này) còn chưa được thực hiện đầy đủ bởi bản thân: có sự thất bại cho việc thành tựu Minh và Hạnh vô thượng này còn chưa được thực hiện đầy đủ bởi bản thân.
Giảng Giải Việc Thực Hành Bản Thân như Ẩn Sĩ Tiền Bối
283. Dattikanti dinnakaṃ. Sammukhībhāvampi na dadātīti kasmā na dadāti? so kira sammukhā āvaṭṭaniṃ nāma vijjaṃ jānāti. Yadā rājā mahārahena alaṅkārena alaṅkato hoti, tadā rañño samīpe ṭhatvā tassa alaṅkārassa nāmaṃ gaṇhati. Tassa rājā nāme gahite na demīti vattuṃ na sakkoti. Datvā puna chaṇadivase alaṅkāraṃ āharathāti vatvā, natthi, deva, tumhehi brāhmaṇassa dinnoti vutto, “kasmā me dinno”ti pucchi. te amaccā ‘so brāhmaṇo sammukhā āvaṭṭanimāyaṃ jānāti. Tāya tumhe āvaṭṭetvā gahetvā gacchatī’ti āhaṃsu. Apare raññā saha tassa atisahāyabhāvaṃ asahantā āhaṃsu — “deva, etassa brāhmaṇassa sarīre saṅkhaphalitakuṭṭhaṃ[105] nāma atthi. Tumhe etaṃ disvāva āliṅgatha parāmasatha, idañca kuṭṭhaṃ nāma kāyasaṃsaggavasena anugacchati, mā evaṃ karothā”ti. Tato paṭṭhāya tassa rājā sammukhībhāvaṃ na deti.
283. Dattikaṃ – vật phẩm được đức vua ban. (Đức vua Pasenadi xứ Kosala) cũng không ban cho vị ấy điều kiện giáp mặt: Tại sao (đức vua) lại không ban cho? Tưởng truyền vị Bà-la-môn Pokkharasāti ấy biết chú thuật tên là āvaṭṭanī (chú thuật khiến tâm trí trở nên mê muội) ở trước mặt. Khi nào đức vua được trang hoàng bởi các đồ trang sức có giá trị lớn, khi ấy vị ấy sẽ đứng ở kế cận đức vua, gọi tên những đồ trang sức ấy. Khi vị ấy đã gọi tên (những vật trang sức ấy) thì đức vua không thể nào nói ‘trẫm không ban cho Bà-la-môn ấy’. Khi đức vua đã ban cho (Bà-la-môn Pokkharasāti) vào ngày diễn ra đại hội (đức vua) nói lại: “các khanh hãy mang đồ trang sức đến’, – Các quan đại thần đáp: ‘Tâu bệ hạ, không có, bệ hạ đã ban cho Bà-la-môn rồi’, – (Đức vua) nói rằng: “Tại sao trẫm lại ban cho vị ấy”. – Các quan đại thần tâu: “Vị Bà-la-môn ấy biết được chú thuật khiến tâm trí trở nên mê muội ở trước mặt, vị ấy làm cho ngài trở nên mù quáng bằng chú thuật ấy, đã mang (đồ trang sức) đi.” Một nhóm khác không thể chịu nổi khi thấy vị Bà-la-môn này là cận thần thân tín của đức vua, đã tâu rằng: Tâu bệ hạ, cơ thể của vị Bà-la-môn ấy mắc bệnh phong gọi là saṅkhaphalita. Đức vua khi vừa nhìn thấy vị Bà-la-môn ấy (sẽ) ôm hoặc xúc chạm, thông thường căn bệnh phong này rất dễ lây nhiễm do tác động của sự xúc chạm cơ thể với nhau, xin bệ hạ chớ có làm như vậy.” Kể từ đó trở đi đức vua không ban cho vị ấy điều kiện giáp mặt.
Yasmā pana so brāhmaṇo paṇḍito khattavijjāya[106] kusalo, tena saha mantetvā katakammaṃ nāma na virujjhati, tasmā sāṇipākārassa anto ṭhatvā bahi ṭhitena tena saddhiṃ manteti. Taṃ sandhāya vuttaṃ “tiro dussantena mantetī”ti. Tattha tirodussantenāti tirodussena[107]. ayameva vā pāṭho. Dhammikanti anavajjaṃ. Payātanti abhiharitvā dinnaṃ. Kathaṃ tassa rājāti yassa rañño brāhmaṇo īdisaṃ bhikkhaṃ paṭiggaṇheyya, kathaṃ tassa brāhmaṇassa So rājā sammukhībhāvampi na dadeyya. ayaṃ pana adinnakaṃ māyāya gaṇhati, tenassa sammukhībhāvaṃ rājā na detīti niṭṭhamettha gantabbanti ayamettha adhippāyo. “Idaṃ pana kāraṇaṃ ṭhapetvā rājānañceva brāhmaṇañca na añño koci jānāti. Tadetaṃ evaṃ rahassampi paṭicchannampi addhā sabbaññū samaṇo gotamoti niṭṭhaṃ gamissatī”ti bhagavā pakāsesi.
Nhưng do Bà-la-môn ấy là bậc sáng trí, thông thạo về kiến thức nông nghiệp, là việc làm được bàn luận cùng với vị ấy rồi thực hiện (sẽ) không bị thất bại, vì thế đức vua đã đứng ở bên trong tấm màn ngăn để bàn luận với vị ấy (còn vị ấy) đứng ở bên ngoài. Đức Thế Tôn muốn đề cập đến điều đó mới nói rằng: “Thậm chí mỗi khi bàn luận với vị ấy, đức vua bàn luận với tấm màn ngăn ở giữa”. Ở đó, tirodussantena dịch là với tấm màn ngăn ở giữa. Hơn nữa, Pāḷī cũng như vậy. Đúng pháp: không có lỗi lầm. Được ban cho: được đem lại cho. Tại sao đức vua không ban cho vị ấy…: Bà-la-môn có thể thọ nhận vật thực này của đức vua nào, tại sao đức vua không ban cho vị ấy ngay cả điều kiện giáp mặt? Có thể đạt đến kết luận trong trường hợp này, ở đây như đã trình bày là sự giải thích trường hợp này. Đức Thế Tôn tuyên bố rằng: “Người nào sẽ đi đến kết luận rằng: ‘Không ai khác biết được chỉ trừ đức vua và Bà-la-môn, điều này đây là điều bí mật, và cả sự che đậy như vậy, Sa-môn Gotama bậc Toàn giác chắc chắn biết được.’”
284. Idāni ayañca ambaṭṭho, ācariyo cassa mante nissāya atimānino. tena tesaṃ mantanissitamānanimmadanatthaṃ uttari desanaṃ vaḍḍhento taṃ kiṃ maññasi, ambaṭṭha, idha rājātiādimāha. Tattha rathūpatthareti rathamhi rañño ṭhānatthaṃ attharitvā sajjitapadese. Uggehi vāti uggatuggatehi vā amaccehi. Rājaññehīti anabhisittakumārehi. Kiñcideva mantananti asukasmiṃ dese taḷākaṃ vā mātikaṃ vā kātuṃ vaṭṭati, asukasmiṃ gāmaṃ vā nigamaṃ vā nagaraṃ vā nivesetunti evarūpaṃ pākaṭamantanaṃ. Tadeva mantananti yaṃ raññā mantitaṃ tadeva. Tādisehiyeva sīsukkhepabhamukkhepādīhi ākārehi manteyya. Rājabhaṇitanti yathā raññā bhaṇitaṃ, tassatthassa sādhanasamatthaṃ. Sopi tassatthassa sādhanasamatthameva bhaṇitaṃ bhaṇatīti attho.
284. Bây giờ, đức Thế Tôn thuyết giảng thêm Pháp thoại vượt trội hơn để nhổ bỏ ngã mạn y cứ vào chú thuật cả hai người bởi Ambaṭṭha này cùng với thầy của cậu ta là những người kiêu ngạo vì ỷ vào chú thuật nên mới nói rằng: “Này Ambaṭṭha, cậu nghĩ gì về việc này? Ở đây, đức vua…” Ở đó, ở tấm thảm trải xe: Để làm chỗ đứng của đức vua ở xe. Quan đại thần tối cao: là những quan đại thần tối cao. Với các vương tử: với các vương tử vẫn chưa làm lễ phong vương. Bàn luận về một vấn đề nào đó: bàn luận vấn đề xuất hiện có hình thức như vầy – nên đào ao hồ hay kiến tạo thành phố ở chỗ kia, nên xây dựng làng mạc, hoặc thị trấn, hoặc kinh thành ở chỗ kia. Rồi bàn luận về chính vấn đề ấy: Có nội dung như sau – vấn đề nào được đức vua bàn luận, ngài có thể bàn luận về vấn đề ấy bằng biểu hiện ngẩng đầu lên và nhướn mày chỉ như thế thôi. Nói như lời nói của vua: Đức vua nói lời nói bằng cách nào, lời nói ấy có thể thành tựu lợi ích bằng cách đó. Có nghĩa là – dẫu cho người ấy cũng có thể nói lời nói có thể thành tựu lợi ích ấy.
285. Pavattāroti pavattayitāro. Yesanti yesaṃ santakaṃ. Mantapadanti vedasaṅkhātaṃ mantameva. Gītanti aṭṭhakādīhi dasahi porāṇakabrāhmaṇehi sarasampattivasena sajjhāyitaṃ. Pavuttanti aññesaṃ vuttaṃ, vācitanti attho. Samihitanti[108] samupabyūḷhaṃ[109] rāsikataṃ[110], piṇḍaṃ katvā ṭhapitanti attho. Tadanugāyantīti etarahi brāhmaṇā taṃ tehi pubbe gītaṃ anugāyanti anusajjhāyanti. Tadanubhāsantīti taṃ anubhāsanti, idaṃ purimasseva vevacanaṃ. Bhāsitamanubhāsantīti tehi bhāsitaṃ sajjhāyitaṃ anusajjhāyanti. Vācitamanuvācentīti tehi aññesaṃ vācitaṃ anuvācenti.
285. Người nói lại: là người nói lại. Những điều nào: là tài sản cổ của những Bà-la-môn nào đó. Câu thần chú: chính chú thuật được xem là kiến-thức-Vệ-Đà. Ngâm nga lại: Được cá mười vị Bà-la-môn tiền bối có Bà-la-môn Ambaṭṭha v.v, trì tụng nhờ vào năng lực sự thành tựu bởi âm giọng. Nói lại: Nói lại cho người khác, tức là giảng dạy. Được tập hợp lại: được thu thập, làm thành khối, tập hợp lưu giữ thành nhóm. Ngâm nga theo chú thuật ấy: Bà-la-môn hiện nay ngâm nga theo, là trì tụng theo chú thuật ấy đã được các vị Bà-la-môn ấy ngâm nga trong thời quá khứ. Đã nói theo chú thuật ấy: nói theo chú thuật ấy, đây là từ đồng đồng nghĩa với từ trước. Nói lại chú thuật được các Bà-la-môn tiền bối đã nói: trì tụng theo chú thuật được các Bà-la-môn tiền bối đã nói, tức là đã trì tụng. Giảng dạy theo chú thuật được các Bà-la-môn tiền bối đã giảng dạy: Giảng dạy theo chú thuật được các Bà-la-môn tiền bối đã giảng dạy cho người khác.
Seyyathidanti te katamehi attho. Aṭṭhakotiādīni tesaṃ nāmāni. Te kira dibbena cakkhunā oloketvā parūpaghātaṃ akatvā kassapasammāsambuddhassa bhagavato pāvacanena saha saṃsanditvā mante ganthiṃsu. aparāpare pana brāhmaṇā pāṇātipātādīni pakkhipitvā tayo vede bhinditvā buddhavacanena saddhiṃ viruddhe akaṃsu. Netaṃ ṭhānaṃ vijjatīti yena tvaṃ isi bhaveyyāsi, etaṃ kāraṇaṃ na vijjati. Idha bhagavā yasmā — “esa pucchiyamānopi, attano avattharaṇabhāvaṃ ñatvā paṭivacanaṃ na dassatī”ti jānāti, tasmā paṭiññaṃ agahetvāva taṃ isibhāvaṃ paṭikkhipi.
Tức là: Các Bà-la-môn ấy có những ai. Ambaṭṭha v.v, là tên của những Bà-la-môn ấy. Được biết các Bà-la-môn ấy nhìn bằng Thiên nhãn, không thực hiện việc làm hại người khác, biên soạn chú thuật so sánh với lời dạy của đức Thế Tôn Kassapa là đức Phật Chánh đẳng Chánh giác. Tuy nhiên, các Bà-la-môn ngoài (những vị này) đã đặt (thêm) sát hại chúng sanh v.v, vào làm phá hủy ba-kiến-thức-Vệ-Đà đã thực hiện khiến cho sai lạc với lời dạy của đức Phật. Sự việc ấy không xảy ra: Ngài có thể trở thành ẩn sĩ bởi nhân nào, nhân ấy không có. Trong trường hợp này đức Thế Tôn biết rằng: “Ambaṭṭha này ngay cả khi Ta đang hỏi, biết rằng bản thân bị nói xấu chồng chất sẽ không trả lời,” vì thế Ngài mới không chấp nhận lời cam đoan (mà) bác bỏ trạng thái ẩn sĩ ấy.
286. Idāni yasmā te porāṇā dasa brāhmaṇā nirāmagandhā anitthigandhā rajojalladharā brahmacārino araññāyatane pabbatapādesu vanamūlaphalāhārā vasiṃsu. Yadā katthaci gantukāmā honti, iddhiyā ākāseneva gacchanti, natthi tesaṃ yānena kiccaṃ. Sabbadisāsu ca nesaṃ mettādibrahmavihārabhāvanāva ārakkhā hoti, natthi tesaṃ pākārapurisaguttīhi attho. Iminā ca ambaṭṭhena sutapubbā tesaṃ paṭipatti; tasmā imassa sācariyakassa tesaṃ paṭipattito ārakabhāvaṃ dassetuṃ — “taṃ kiṃ maññasi, ambaṭṭhā”tiādimāha.
286. Bây giờ, đức Thế Tôn khi trình bày tính chất mà Ambaṭṭha cùng với thầy của cậu ấy là những người xa lìa điều thực hành của những Bà-la-môn ấy mới nói rằng: “Này Ambaṭṭha, cậu nghĩ gì về việc này?” Bởi vì mười vị Bà-la-môn tiền bối ấy không có mùi hôi tanh, không có mùi nữ nhân đầy những bụi bẩn và mồ hôi, có thực hành Phạm Hạnh, có rễ cây và trái cây trong rừng làm thức ăn, sống ở chân các ngọn núi tại các khu rừng. Khi nào muốn đi đến đâu, khi ấy bay đi hoàn toàn trong không trung bằng thần thông (để đến nơi đó), họ không có phận sự phải sử dụng xe cộ, việc phát triển (bốn) Phạm Trú có Từ v.v, là pháp bảo vệ họ ở mọi nơi, họ không cần sự bảo vệ là những bức tường và người, pháp hành của những Bà-la-môn ấy Ambaṭṭha này đã từng nghe trước đây.
Tattha vicitakāḷakanti vicinitvā apanītakāḷakaṃ. Veṭhakanatapassāhīti dussapaṭṭadussaveṇi ādīhi veṭhakehi namitaphāsukāhi. Kuttavālehīti sobhākaraṇatthaṃ kappetuṃ, yuttaṭṭhānesu kappitavālehi. Ettha ca vaḷavānaṃyeva vālā kappitā, na rathānaṃ, vaḷavapayuttattā pana rathāpi “kuttavālā”ti vuttā. Ukkiṇṇaparikhāsūti khataparikhāsu. Okkhittapalighāsūti ṭhapitapalighāsu. Nagarūpakārikāsūti ettha upakārikāti paresaṃ ārohanivāraṇatthaṃ samantā nagaraṃ pākārassa adhobhāge katasudhākammaṃ vuccati. idha pana tāhi upakārikāhi yuttāni nagarāneva “nagarūpakārikāyo”ti adhippetāni[111]. Rakkhāpentīti tādisesu nagaresu vasantāpi attānaṃ rakkhāpenti. Kaṅkhāti “sabbaññū, na sabbaññū”ti evaṃ saṃsayo. Vimatīti tasseva vevacanaṃ, virūpā mati, vinicchinituṃ[112] asamatthāti attho. Idaṃ bhagavā “ambaṭṭhassa iminā attabhāvena maggapātubhāvo natthi, kevalaṃ divaso vītivattati, ayaṃ kho pana lakkhaṇapariyesanatthaṃ āgato, tampi kiccaṃ nassarati. handassa satijananatthaṃ nayaṃ demī”ti āha.
Ở đó, đã được nhặt lấy hạt đen: có các hạt đen đã được nhặt lấy rồi vứt đi. Có quấn vải ở hai bên hông: có khung xương mềm mại duyên dáng với tấm vải quấn trên đầu có mảnh vải mềm mịn và dây buộc tóc bằng vải v.v. Có chùm lông đuôi đã được sửa soạn: có chùm lông đuôi đã được cắt tỉa ở nơi cần sửa soạn vì mục đích làm cho (nó) xinh đẹp. Và ở đây, tất cả các xe kéo ngài đều gọi là “xe gắn lông đuôi ngựa cái đã được cắt tỉa” bởi do tất cả xe kéo buộc ách vào các con ngựa cái đã được cắt tỉa lông đuôi. Có hào rãnh bao quanh: đào hào rãnh xung quanh. Đặt thanh ngang: có thanh ngang để ngăn chặn lại. Những bức tường thành: Thực hiện việc trát vữa ở bên dưới xung quanh những bức tường thành, để ngăn chặn không cho kẻ thù leo trèo vào, ngài gọi là ‘bức tường’ trong cụm từ ‘những bức tường thành’, tuy nhiên tất cả các thành phố được gắn liền với những bức tường này. Ngài muốn đề cập đến ‘bức tường thành’ trong trường hợp này. Để bảo vệ: Bọn họ dầu ở trong thành như thế cũng vẫn cho người bảo vệ chính mình. Sự nghi ngờ: có sự hoài nghi như vầy: “đây là bậc Toàn giác, hay không phải bậc Toàn giác”. Vimati là từ đồng nghĩa với chính từ ấy (kaṅkhā, sự nghi ngờ). Ý kiến sai lệch, giải thích rằng – không thể phân tích được. Đức Thế Tôn thuyết lời này rằng: “Sự hiện khởi của Đạo không có nơi Ambaṭṭha với bản ngã này, hôm nay trôi qua hoàn toàn rỗng không, vả lại Ambaṭṭha này đến để tìm kiếm các đặc tướng, ngay cả phận sự đó cũng không nhớ được. Thôi được rồi, Ta sẽ ban phương pháp cho cậu ấy để làm cho niệm được khởi sanh.”
Giảng Giải Việc Thể Hiện Hai Tướng Bậc Đại Của Bậc Đại Nhân
287. Evaṃ vatvā pana yasmā buddhānaṃ nisinnānaṃ vā nipannānaṃ vā koci lakkhaṇaṃ pariyesituṃ na sakkoti, ṭhitānaṃ pana caṅkamantānaṃ vā sakkoti. āciṇṇañcetaṃ buddhānaṃ lakkhaṇapariyesanatthaṃ āgatabhāvaṃ ñatvā uṭṭhāyāsanā caṅkamādhiṭṭhānaṃ nāma, tena bhagavā uṭṭhāyāsanā bahi nikkhanto. Tasmā atha kho bhagavātiādi vuttaṃ.
287. Hơn nữa, sau khi đức Thế Tôn nói như vậy, nên đã đứng dậy đi ra ngoài bởi vì khi các đức Thế Tôn ngồi, hoặc nằm thì ai có thể thấy được các đặc tướng (của Ngài); nhưng khi Ngài đứng hay đi kinh hành thì có thể. Thông thường đức Thế Tôn biết rằng: Cậu ấy đến đến tìm tòi (quan sát) các đặc tướng (của Ta), nên ngài đã đứng dậy từ chỗ ngồi phát nguyện kinh hành, và điều này là pháp hành thường lệ của Chư Phật, vì thế ngài đã nói rằng: ‘Khi ấy, đức Thế Tôn…’
Samannesīti gavesi, ekaṃ dveti vā gaṇayanto samānayi. Yebhuyyenāti pāyena, bahukāni addasa, appāni na addasāti attho. tato yāni na addasa tesaṃ dīpanatthaṃ vuttaṃ — “ṭhapetvā dve”ti. Kaṅkhatīti “aho vata passeyyan”ti patthanaṃ uppādeti. Vicikicchatīti tato tato tāni vicinanto kicchati na sakkoti daṭṭhuṃ. Nādhimuccatīti tāya vicikicchāya sanniṭṭhānaṃ na gacchati. Na sampasīdatīti tato — “paripuṇṇalakkhaṇo ayan”ti bhagavati pasādaṃ nāpajjati. Kaṅkhāya vā dubbalā vimati vuttā, vicikicchāya majjhimā, anadhimuccanatāya[113] balavatī, asampasādena tehi tīhi dhammehi cittassa kālusiyabhāvo. Kosohiteti vatthikosena paṭicchanne. Vatthaguyheti aṅgajāte bhagavato hi varavāraṇasseva kosohitaṃ vatthaguyhaṃ suvaṇṇavaṇṇaṃ padumagabbhasamānaṃ. taṃ so vatthapaṭicchannattā apassanto, antomukhagatāya ca jivhāya pahūtabhāvaṃ asallakkhento tesu dvīsu lakkhaṇesu kaṅkhī ahosi vicikicchī.
Xem xét: tìm kiếm, quan sát tính đếm 1-2. Hầu hết: hầu như tất cả, có nghĩa là hầu hết (còn) phần nhỏ không nhìn thấy. Từ đó, nhằm mục đích thể hiện các tướng của bậc đại nhân mà cậu ấy không nhìn thấy, ngài mới nói rằng – “ngoại trừ hai tướng”. Nghi ngờ: khiến khởi lên ước muốn “Ôi, ta quả thật có thể nhìn thấy”. Hoài nghi: tìm kiếm các tướng đại nhân ấy, kể từ đó đã gặp khó khăn do không thể nhìn thấy được. Không quả quyết: không thể đi đến quả quyết do sự hoài nghi ấy. Không thể tin chắc: từ đó không thể đạt đến sự tịnh tín đối với đức Thế Tôn rằng: Đức Thế Tôn này có tướng hoàn hảo do nhân ấy. Sự nghi ngờ ngài nói có năng lực yếu ớt hơn sự ngờ vực, sự hoài nghi có năng lực trung bình, sự không quả quyết có nhiều năng lực, bởi không tịnh tín thì tâm sẽ ô nhiễm bởi cả 3 pháp ấy. Năm căn được bọc lại: được bọc lại bởi lớp vỏ bọc nam căn. Che đậy lại bởi lớp vải: nam căn (dương vật), bởi vì năm căn của đức Thế Tôn cũng giống như dương vật của một con voi cao quý, được bao lại trong vỏ bọc, được che phủ bằng lớp vải, như thể căn phòng hoa sen có màu sắc hoàng kim. Thanh niên Ambaṭṭha không thể thấy được nam căn ấy bởi bị lớp vải che đậy lại và không thể quan sát thấy (tướng) lưỡi rộng dài bởi vì nằm ở bên trong khuôn miệng (do đó) vị ấy mới có sự ngờ vực và sự hoài nghi về hai đặc tướng ấy.
288. Tathārūpanti taṃ rūpaṃ. kimettha aññena vattabbaṃ? Vuttametaṃ nāgasenatthereneva milindaraññā puṭṭhena[114] — “dukkaraṃ[115], bhante, nāgasena, bhagavatā katanti. Kiṃ mahārājāti? Mahājanena hirikaraṇokāsaṃ brahmāyu brāhmaṇassa ca antevāsi uttarassa ca, bāvarissa antevāsīnaṃ soḷasabrāhmaṇānañca[116], selassa brāhmaṇassa ca antevāsīnaṃ tisatamāṇavānañca[117] dassesi, bhanteti. na, mahārāja, bhagavā guyhaṃ dassesi. Chāyaṃ bhagavā dassesi. iddhiyā abhisaṅkharitvā nivāsananivatthaṃ kāyabandhanabaddhaṃ cīvarapārutaṃ chāyārūpakamattaṃ dassesi mahārājāti. chāyaṃ diṭṭhe sati diṭṭhaṃyeva nanu, bhanteti? tiṭṭhatetaṃ, mahārāja, hadayarūpaṃ disvā bujjhanakasatto bhaveyya, hadayamaṃsaṃ nīharitvā dasseyya sammāsambuddhoti. Kallosi, bhante, nāgasenā”ti[118].
288. Tathārūpaṃ là sắc đó (thần thông), trường hợp này người khác nói như thế nào? Trường hợp này chính trưởng lão Nāgasena đã bị đức vua Milinda hỏi rằng: “Thưa ngài đại đức Nāgasena, đức Thế Tôn đã làm điều khó làm. – Ngài Nāgasena: Tâu đại vương, điều gì? – Đức vua Milinda: Thưa đại đức, đức Thế Tôn đã tạo cơ hội khiến cho đại chúng phải xấu hổ cùng thanh niên Uttara học trò của Bà-la-môn Brahmāyu, cùng nhóm 16 vị Bà-la-môn là học trò của Bāvarī, và cùng 300 thanh niên là học trò của Bà-la-môn Sela nữa. – Tâu Đại vương, đức Thế Tôn không hiển lộ nam căn đâu chỉ hiển lộ cái bóng, tức là ngài thị hiện bằng thần thông, rồi chỉ để hiện lộ hình tướng bằng cái bóng bên trong nội y đã được buộc dây thắt lưng rồi đắp y vai trai. – Trong khi nhìn thấy cái bóng cũng được xem là đã thấy nam căn không phải sao? – Điều đó hãy gác qua một bên trước đã, tâu Đại vương mọi người chúng ta phải nhìn vào tâm, sau khi nhìn nhìn thấy đã giác ngộ, bậc Chánh đẳng Chánh giác cũng cần lấy quả tim ra để biểu lộ chăng? – Thưa đại đức Nāgasena, ngài thật tài giỏi.
Ninnāmetvāti nīharitvā. Anumasīti kathinasūciṃ viya katvā anumajji, tathākaraṇena cettha mudubhāvo, kaṇṇasotānumasanena dīghabhāvo, nāsikasotānumasanena tanubhāvo, nalāṭacchādanena puthulabhāvo pakāsitoti veditabbo.
Đã nhe lưỡi ra: đã nhe lưỡi ra. Đã liếm: đã liếm xuôi liếm ngược giống như xỏ chỉ may y Kathina. Cũng trong câu đó nên biết rằng tuyên bố tính chất mềm mại bằng việc thực hiện như thế, tính chất dài bằng việc sờ đến và chạm đến hai lỗ tai, tính chất mỏng bằng việc sờ đến và chạm đến hai lỗ mũi, tính chất rộng lớn bởi che phủ khắp cả vầng trán.
289. Paṭimānentoti āgamento, āgamanamassa patthento udikkhantoti attho.
289. Chờ đời: đang chờ đợi, có nghĩa là trong khi mong chờ việc đi đến của vị ấy (Ambaṭṭha) đang chờ quan sát.
290. Kathāsallāpoti kathā ca sallāpo ca, kathanaṃ paṭikathananti attho.
289. Có việc đàm thoại trò chuyện: trò chuyện và đàm luận với nhau, có nghĩa là việc nói và việc đáp.
291. Aho vatāti garahavacanametaṃ. reti idaṃ hīḷanavasena āmantanaṃ. Paṇḍitakāti tameva jigucchanto āha. sesapadadvayepi eseva nayo. Evarūpena kira bho puriso atthacarakenāti idaṃ yādiso tvaṃ, edise atthacarake hitakārake sati puriso nirayaṃyeva gaccheyya, na aññatrāti imamatthaṃ sandhāya vadati. Āsajja āsajjāti ghaṭṭetvā ghaṭṭetvā. Amhepi evaṃ upaneyya upaneyyāti brāhmaṇo kho pana ambaṭṭha pokkharasātītiādīni vatvā evaṃ upanetvā upanetvā paṭicchannaṃ kāraṇaṃ āvikaritvā suṭṭhu dāsādibhāvaṃ[119] āropetvā avaca, tayā amhe akkosāpitāti adhippāyo. Padasāyeva pavattesīti pādena paharitvā bhūmiyaṃ pātesi. Yañca so pubbe ācariyena saddhiṃ rathaṃ āruhitvā sārathi hutvā agamāsi, tampissa ṭhānaṃ acchinditvā rathassa purato padasā yevassa gamanaṃ akāsi.
291. Ôi, quả thật: là lời chỉ trích. Tệ hại: đây là từ gọi với tác động phỉ báng. Bà-la-môn Pokkharasāti ghét bỏ thanh niên Ambaṭṭha ấy đã nói rằng: “ông hiền trí…”. Luôn cả hai từ còn lại cũng có phương cách tương tự. Bà-la-môn Pokkharasāti lấy ý nghĩa này “Con người có thể đọa vào địa ngục bởi vì trong khi có người làm điều lợi ích, là người thực hiện điều lợi ích giống như ông, không thể đi được do nguyên nhân khác, nên mới nói lời này: “Này ông ơi, chắc chắn con người với việc làm lợi ích có hình thức như vầy…” Mỉa mai: nói bóng nói gió. Đã luôn cả chúng tôi vào để so sánh như thế: Đức Thế Tôn đã nói rằng: “Này Ambaṭṭha, Bà-la-môn Pokkharasāti v.v,” đem chúng tôi vào để so sánh như thế, phơi bày nguyên nhân đã bị che đậy, đưa bản thể (giai cấp) hạ tiện và nô lệ v.v, lên đế nói. Tức là chúng tôi cũng bị ông chửi rủa. Đã dùng bàn chân đá (thanh niên Ambaṭṭha) té nhào: đã dùng bàn chân đá thanh niên Ambaṭṭha té nhào. Thời gian trước đó Ambaṭṭha bước lên xe đi với thầy (của mình) là người đánh xe đến chỗ nào thì vị thầy giành lấy chỗ đó của cậu ta đi, đã cho cậu ấy đi bằng chân (để rà soát) phía trước xe.
Giảng Giải Việc Yết Kiến Đức Thế Tôn của Bà-la-môn Pokkharasāti
292-296. Ativikāloti suṭṭhu vikālo, sammodanīyakathāyapi kālo natthi. Āgamā nu khvidha bhoti āgamā nu kho idha bho. Adhivāsetūti sampaṭicchatu. Ajjatanāyāti yaṃ me tumhesu kāraṃ karoto ajja bhavissati puññañca pītipāmojjañca tadatthāya. Adhivāsesi bhagavā tuṇhībhāvenāti bhagavā kāyaṅgaṃ vā vācaṅgaṃ vā acopetvā abbhantareyeva khantiṃ dhārento tuṇhībhāvena adhivāsesi. Brāhmaṇassa anuggahaṇatthaṃ manasāva sampaṭicchīti vuttaṃ hoti.
292-296. Đã quá thời gian: đã quá trễ giờ, không có thời gian nói lời chào hỏi thân tình. Thưa ngài Gotama đệ tử của chúng tôi…đã có đi đến nơi đây không?: Thưa ngài Gotama, đệ tử của chúng tôi (thanh niên Ambaṭṭha) đã có đi đến nơi đây không? Adhivāsetu đồng nghĩa với sampaṭicchatu (hãy tiếp nhận). Vào ngày hôm nay: có nội dung như sau – khi tôi thực hiện lễ bái đối với Ngài, thì điều nào sẽ có vào ngày hôm nay là phước báu, hỷ lạc và sự hân hoan vì lợi ích cho điều ấy. Đức Thế Tôn đã tiếp nhận lời thỉnh mời bằng sự yên tĩnh: Đức Thế Tôn không cho phép phần thân hoặc lời nói di chuyển, duy trì tin tấn ở chính bên trong, tiếp nhận lời thỉnh mời bằng sự im lặng, là tiếp nhận bằng tâm để trợ giúp Bà-la-môn.
297. Paṇītenāti uttamena. Sahatthāti sahatthena. Santappesīti suṭṭhu tappesi paripuṇṇaṃ suhitaṃ yāvadatthaṃ akāsi[120]. Sampavāresīti[121] suṭṭhu pavāresi, alaṃ alanti hatthasaññāya paṭikkhipāpesi. Bhuttāvinti bhuttavantaṃ. Onītapattapāṇinti[122] pattato onītapāṇiṃ, apanītahatthanti vuttaṃ hoti. Onittapattapāṇintipi pāṭho. Tassattho — onittaṃ nānābhūtaṃ vinābhūtaṃ pattaṃ pāṇito assāti onittapattapāṇi, taṃ onittapattapāṇiṃ. Hatthe ca pattañca dhovitvā ekamante pattaṃ nikkhipitvā nisinnanti attho. Ekamantaṃ nisīdīti bhagavantaṃ evaṃ bhūtaṃ ñatvā ekasmiṃ okāse nisīdīti attho.
297. Hảo hạng: ngon nhất. Sahatthā đồng nghĩa sahatthena (đã tự tay). Làm no nê: là no đủ, đã làm cho đầy đủ, là tràn đầy, tròn đủ. Làm đầy đủ: đã làm cho đầy đủ, đã ngăn chặn bằng cách giơ tay ra dấu hiệu rằng: “Đủ rồi! Đủ rồi!”. Đã thọ thực xong: Vị đã thọ thực xong. Có bàn tay đã rời khỏi bình bát: Có bàn tay đã rời khỏi bình bát, giải thích rằng: có bàn tay lấy ra khỏi bình bát. Pāḷī ‘Onittapattapāṇī’ như thế cũng có. Lời này có nghĩa – Đã đặt bình bát xuống, kéo bàn tay ra khỏi, là ngăn trừ các vật thực khác từ đôi tay của đức Thế Tôn, do đó Ngài mới gọi là ‘có bàn tay đã rời khỏi bình bát’. Giải thích rằng: vị đã rửa tay và bình bát rồi đặt bình bát xuống một bên, ngồi xuống. Đã ngồi xuống ở một bên: có nghĩa là biết rằng – đức Thế Tôn đã thọ thực xong như thế đã ngồi xuống ở một khoảng trống.
298. Anupubbiṃ kathanti anupaṭipāṭikathaṃ. Ānupubbikathā nāma dānānantaraṃ sīlaṃ, sīlānantaraṃ saggo, saggānantaraṃ maggoti etesaṃ atthānaṃ dīpanakathā. teneva — “seyyathidaṃ dānakathan”tiādimāha. Okāranti avakāraṃ lāmakabhāvaṃ. Sāmukkaṃsikāti sāmaṃ ukkaṃsikā, attanāyeva uddharitvā gahitā, sayambhūñāṇena diṭṭhā, asādhāraṇā aññesanti attho. Kā pana sāti? Ariyasaccadesanā. Tenevāha — “dukkhaṃ, samudayaṃ, nirodhaṃ, maggan”ti. Dhammacakkhunti ettha sotāpattimaggo adhippeto. Tassa uppattiākāradassanatthaṃ — “Yaṃ kiñci samudayadhammaṃ, sabbaṃ taṃ nirodhadhamman”ti āha. Tañhi nirodhaṃ ārammaṇaṃ katvā kiccavasena evaṃ sabbasaṅkhataṃ paṭivijjhantaṃ uppajjati.
298. Đã (thuyết Pháp) theo thứ lớp: Lời nói nên nói theo tuần tự. Gọi là đã thuyết Pháp theo thứ lớp bao gồm lời nói thuyết giảng về những ý nghĩa này là Giới theo thứ tự từ Bố Thí, cõi Trời theo thứ tự từ Giới, Đạo theo thứ tự từ cõi Trời. Chính vì lý do ấy, Ngài mới nói rằng: “Bài thuyết về Bố Thí v.v.” Sự thấp kém: hèn hạ, bản chất thấp hèn. Đưa ra thuyết giảng bởi chính Ngài: Tự ngài đưa ra thuyết giảng, nghĩa là đã được Ngài nâng lên, nắm lấy bởi chính Ngài, nhìn thấy nhờ vào trí tuệ tự thân, có nghĩa là điều không phổ biến đối với những người khác. (Hỏi) Pháp thoại ấy là gì? (Đáp) thuyết giảng về Thánh Đế. Chính vì lý do ấy ngài mới nói rằng: “Khổ, Tập, Diệt, Đạo”. Pháp nhãn này: Ngài có ý đề cập đến Nhập Lưu Đạo. Nhằm mục đích thuyết giảng các biểu hiện sanh khởi của Pháp nhãn ấy, ngài mới nói rằng – “Điều gì có bản tánh được sanh lên, toàn bộ điều ấy có bản tánh hoại diệt.” Bởi vì, Pháp nhãn ấy đã làm sự diệt tận trở thành đối tượng, sanh lên thấu triệt tất cả các Pháp hành này bởi mãnh lực của phận sự.
Giảng Giải Chuyện Bà-la-môn Pokkharasāti Thể Hiện Mình là Cận Sự Nam
299. Diṭṭho ariyasaccadhammo etenāti diṭṭhadhammo. Esa nayo sesapadesupi. Tiṇṇā vicikicchā anenāti tiṇṇavicikiccho. vigatā kathaṃkathā assāti vigatakathaṃkatho. Vesārajjappattoti visāradabhāvaṃ patto. Kattha? Satthusāsane. Nāssa paro paccayo, na parassa saddhāya[123] ettha vattatīti aparappaccayo. Sesaṃ sabbattha vuttanayattā[124] uttānatthattā ca pākaṭamevāti.
298. Pháp Thánh Đế mà vị ấy đã nhìn thấy, vì thế gọi là đã thấy được Pháp. Luôn cả những câu còn lại cũng có phương cách tương tự. Sự hoài nghi đã vượt qua do đó gọi là người có sự hoài nghi đã vượt qua. Sự không lưỡng lự của hạng người ấy đã lìa khỏi do đó gọi là người có sự lưỡng lự đã dứt hẳn. Đã đạt đến sự gan dạ: đã đạt đến bản thể người dũng mãnh. Ở đâu? Trong lời dạy của bậc Đạo Sư. Người khác làm điều kiện không có cùng người này là sự tin tưởng từ người khác không diễn biến trong người này, vì thế gọi là không cần sự trợ duyên của người khác. Từ còn lại trong các câu hiện hữu rõ ràng, bởi có phương cách như đã nói trong phần đầu và do có ý nghĩa dễ hiểu.
Giải Thích Kinh Ambaṭṭha – Trong Chú Giải Trường Bộ, Gọi là Sumaṅgalavilāsinī – Kinh thứ ba – được kết thúc.
[1] Jānapadino (Sī)
[2] Atirekāni(Sī, Syā, I)
[3] Mahākassapassa paccuggamanaṃ karonto (Syā)
[4] Pādavattaṃ (Sī, Syā) (Pānavattaṃ-Ma-Ṭṭha 2. 55 piṭṭhe)
[5] Vasīti (Sī, Ka)
[6] Tatra Bhagavā (Sī), tatra taṃ Bhagavā (Syā) Ma-Ṭṭha 2. 56 piṭṭhepi.
[7] Mahatiyā (Ka)
[8] Dhammassavanena (SYā), dhammadesanāya (Ka)
[9] Aturitacārikāti (Syā, Ka)
[10] Pokkharasādīti (Sī, I)
[11] Nāmaṃ, Pokkharasātītipi (Sī)
[12] Arājākaṭṭhāne (Sī)
[13] Evameva (Ka)
[14] Pokkharasādīti (Sī)
[15] 1. Pāṇini 1. 4. 48 suttaṃ passitabbaṃ.
[16] Rājalīḷhāya (Sī)
[17] Passenadinā (Ka)
[18] ma. ni. 1.434
[19] dha. pa. 55
[20] Vāseṭṭhā (Sī, Syā)
[21] Dī 3. 78 piṭṭhe.
[22] Nāmanighaṇḍurukkhādīnaṃ (Sī)
[23] Upakārāya (Sī)
[24] ma. ni. 1.153
[25] pari. 399
[26] ma. ni. 1.161
[27] Thāvarabhāvaṃ vā (Sī)
[28] Anussukko (Sī), anussuko (Syā) Ma-Ṭṭha 3. 251 piṭṭhepi.
[29] Tassīdha tāni (Sī, Ka)
[30] saṃ. ni. 5.222-223
[31] Sabbhāvo (Ka)
[32] Parimukhaṃ (Ka)
[33] Maddituṃ (Sī, Syā), parasenā maddituṃ (Ma 2 Brahmāyusutte)
[34] Ekobhāsajāte viya (Syā)
[35] Māṇavakāti (Syā, Ka), māṇavakehīti Pokkharasātisseva antevāsikehi (?)
[36] Abhūmiṃ (Sā) Sī-Ṭī Abhinava 2. 246 piṭṭhe oloketabbā.
[37] Āgantvā pucchitvāva (Sī), gantvā pucchitvā (Ma-Ṭṭha 2. 174 piṭṭhe Cūḷasaccakasuttavaṇṇanāyaṃ)
[38] Olokento (Ka)
[39] Aturanto (Sī)
[40] Kavāṭaṃ (Sī, Syā)
[41] Agganakhena (Sī, Syā)
[42] Īsakaṃ (Sī)
[43] Bho Gotama (Ka)
[44] Na kilamati (Ka)
[45] Pāsādikāni yattha (Syā) pāsādikā’ttha (Sī)
[46] Vītisāretīti (Syā)
[47] Kathāsallāpaṃ (Sī-Ṭī Abhinava 2. 249; Dī-Ṭī 1. 297 piṭṭhesu.)
[48] Kiṇhāti (Sī)
[49] Pharusavacanasamudācārena (Syā, Ka)
[50] Ukkiledetvā (Sī), ukkiretvā (Syā)
[51] Rabhasāti (Sī, Syā)
[52] Rajjaṃ anusāsanasālā (Sī, Syā)
[53] Antaranivāsinī (Sī)
[54] Morasadise (Ka)
[55] Uttariṃ (Sī, Syā)
[56] Sāmino (Syā)
[57] Kathentīti (Sī, Syā)
[58] Anupubbakathā (Sī), anupubbikathā (Syā)
[59] Hatthinī (Sī)
[60] Kāsinīpuroti (Sī), sinipuroti (Syā)
[61] Vasalī (Sī)
[62] Bhūmicālaṃ (Sī), bhummapāsaṃ (Syā)
[63] Pācīnamukhā (Sī)
[64] Ekekaṃ (Ka)
[65] Na abhibhavituṃ (Ka)
[66] Asadisasampayogena (Sī), asadisasampayoge (Syā)
[67] Mātiṭṭhāne (Sī), mātikaṭṭhāne (Syā)
[68] Orodhehi ca nāṭakehi ca (Sī, Syā)
[69] Dhītamhīti (Syā), dhītāmhīti (Ka)
[70] Kāretvā (Ka)
[71] Honti (Sī)
[72] Te tattha (Syā)
[73] Sakkā (Ka)
[74] Parūḷhakesamassudāṭhikaṃ (Syā)
[75] Uttariṃ (Syā), uttari (Ka)
[76] Bandhapūṭakaṃ (Syā)
[77] Gamissasi (Sī, Syā)
[78] Saṃjotibhūtanti (Syā)
[79] Ekaggijālībhūtanti (Syā)
[80] Kundalamakuḷasadisā (Syā, Ka)
[81] Dī 2. 32; Vi 3. 5; Ma-1. 224; Saṃ 1. 138 piṭṭhesu.
[82] Agaru (Syā, Ka) Ma-Ṭṭha 2. 179 piṭṭhe passitabbaṃ.
[83] Parivattamānā (Sī, Syā)
[84] Vādasaṃghāṭe (Sī, Syā)
[85] Janapadaṃ (Syā, Ka)
[86] Nappavattati (Syā)
[87] Bhaddaṃ (Sī)
[88] Ettha ca (Sī)
[89] Nevare (Sī)
[90] Sannihitaṃ (Sī), sannayhati taṃ (Syā)
[91] Daṇḍakirañño (Syā, Ka) Ma 2. 41 piṭṭhepi.
[92] Na nāsessāmīti (Sī)
[93] Janatasmiṃ (Sī, Syā)
[94] Opuṇanto viya (Sī), utthunanto (Syā)
[95] Alaggā(Sī, Syā)
[96] Vijjācaraṇaṃ (Sī, Syā)
[97] Kuddālañceva (Sī, Syā)
[98] Paribhuttabhattapuṭaṃ (Syā), tutthāya bhattapuṭaṃ (Ka)
[99] Āmisasaṇgahaṇatthaṃ (Syā)
[100] Pubbaṇṇāparaṇṇādīni vā (Sī, Syā)
[101] Asāmapākikā (Sī)
[102] Ayamuṭṭhikā (Syā, Ka)
[103] Pavattaphalabhojino (Sī)
[104] Keniyajaṭilo (Sī, Ka) Vi 3. 342 piṭṭhe passitabbaṃ.
[105] Saṇkhaphalitakuṭṭhaṃ (Syā, Ka)
[106] Khettavijjāya (Syā, Ka)
[107] Tirodussa-antena (Syā)
[108] Samīhitanti (Sī, Syā)
[109] Samupabbūḷhaṃ (Sī)
[110] Rāsirāsikataṃ (Sī)
[111] Adhippetā (Sī, Ka)
[112] Vinicchetuṃ (Sī), vinicchituṃ (Syā)
[113] Anadhimuccatāya (Sī)
[114] Putṭhena āha ca (Ka)
[115] Atidukkaraṃ (Sī)
[116] Khu 1. 433; Khu 8. 5 piṭṭhesu.
[117] Ma 2. 344 piṭṭhe.
[118] Milindapañhe 169 piṭṭhe.
[119] Suddadāsādibhāvaṃ (Sī, Syā)
[120] Santappetvāti suṭṭhu tappetvā paripuṇṇaṃ suhitaṃ yāvadatthaṃ katvā iti sabbattha dissati, (Vi-Ṭṭha 1. 167; Ma-Ṭṭha 2. 184 piṭṭhesupi), idāni dissamānapāḷiyā pana na sameti.
[121] Sampavāretvāti suṭṭhu pavāretvā, alaṃ alanti hatthasaññāya paṭikkhipāpetvā iti sabbattha dissati, idāni dissamānapāḷiyā pana na sameti.
[122] Oṇītapattapāṇinti (Sī)
[123] Saddhā (Syā)
[124] Pubbe vuttanayattā (Sī)