Kinh số 94 – Giải Thích Kinh Ghoṭamukha

(Ghoṭamukhavaṇṇanā)

Xem Trung Bộ Kinh – Kinh Ghoṭamukha

412. Evamme sutanti ghoṭamukhasuttaṃ. Tattha Khemiyambavaneti evaṃnāmake ambavane. Dhammiko paribbajoti1 dhammikā pabbajjā. Adassanāti tumhādisānaṃ vā paṇḍitānaṃ adassanena. Yo vā panettha dhammoti yo vā pana ettha dhammo sabhāvoyeva, tasseva adassanena. Iminā “amhākaṃ kathā appamāṇaṃ, dhammova pamāṇan”ti dasseti. Tato thero “navauposathāgāre2 viya bahunā kammena idha bhavitabban”ti cintetvā caṅkamā oruyha paṇṇasālaṃ pavisitvā nisīdi. Taṃ dassetuṃ evaṃ vutteti-ādi vuttaṃ.

412. Kinh Ghoṭamukha được bắt đầu như sau: “Tôi đã được nghe như vầy.” Ở đó, tại rừng xoài Khemiya bao gồm vườn xoài có tên như vậy3. Việc xuất gia đúng Pháp: Việc kiêng tráng thuận theo Pháp. Do không thấy: Do không nhìn thấy bậc trí như ngài. Hãy ở đây có Pháp làm thực tính? : Hoặc hơn nữa Pháp chính là thực tính nào ở đây, do không nhìn thấy thực tính đó. Điều này ngài chỉ ra rằng “Lời nói của ta vô lượng, chỉ có Pháp là hạn lượng.” Từ đó trưởng lão đã suy nghĩ rằng “Ở đây có thể có nhiều việc làm giống như ở trong nhà hành lễ Uposatha mới” nên rời khỏi chỗ đi kinh hành, đi vào ngồi xuống ở ngôi nhà lá. Để trình bày câu chuyện ấy ngài đã nói như vậy v.v.

413. Cattārome brāhmaṇāti therassa kira etadahosi “ayaṃ brāhmaṇo `dhammikaṃ pabbajjaṃ upagato samaṇo vā brāhmaṇo vā natthī’ti vadati. Imassa cattāro puggale dve ca parisā dassetvā `catutthaṃ puggalaṃ katarāya parisāya bahulaṃ passasī’ti pucchissāmi, jānamāno `anāgāriyaparisāyan’ti vakkhati. Evametaṃ sakamukheneva `dhammiko paribbajo atthī’ti vadāpessāmī”ti imaṃ desanaṃ ārabhi.

413. Bốn vị Bà-la-môn này: được biết rằng trưởng lão đã có suy nghĩ như vầy “Bà-la-môn này đã nói rằng: ‘không có người đã đi đến xuất gia đúng theo Pháp là Sa-môn hay là Bà-la-môn’. Vị trưởng lão khi thuyết giảng về bốn hạng người và hai hội chúng cho Bà-la-môn này, mới bắt đầu thuyết giảng Pháp thoại này, ta sẽ hỏi: ‘hạng người thứ tư, ngài nhìn thấy nhiều ở trong hội chúng nào? Bà-la-môn này trong khi biết sẽ trả lời ‘trong hội chúng của người sống không gia đình’. Ta sẽ cho Bà-la-môn ấy nói bằng chính miệng của mình rằng: ‘Vị xuất gia đúng theo Pháp có tồn tại’” bằng cách này.

414. Tattha sārattarattāti suṭṭhu rattarattā. Sānggahā vācā bhāsitāti sakāraṇā vācā bhāsitā. Vuttaṃ hetaṃ mayā “amhākaṃ kathā appamāṇaṃ, dhammova pamāṇan”ti.

414. Ở đó, vị tham đắm là đã đắm nhiễm do ái luyến dày đặc. Nói lời nói đáng tin tưởng là lời nói có nguyên nhân. Tóm lại lời mà tôi đã nói rằng: “Lời nói của ta vô lượng, chỉ có Pháp là hạn lượng’.

421. Kiṃ pana teti gihi nāma kappiyampi akappiyampi vadeyyāti vivecanatthaṃ pucchi. Kārāpesīti māpesi. Kārāpetvā ca pana kālaṃ katvā sagge nibbatto. Etassa kira jānanasippe mātarampi pitarampi ghātetvā attāva ghātetabboti4 āgacchati. Ekaṃ sippaṃ jānanto ṭhapetvā etaṃ añño sagge nibbatto nāma natthi, esa pana theraṃ upanissāya puññaṃ katvā tattha nibbattitvā ca pana “kenāhaṃ kammena idha nibbatto”ti āvajjetvā yathābhūtaṃ ñatvā ekadivasaṃ jiṇṇāya bhojanasālāya paṭisaṅkharaṇatthaṃ saṃghe sannipatite manussavesena āgantvā pucchi “kimatthaṃ bhante saṃgho sannipatito”ti. Bhojanasālāya paṭisaṅkharaṇatthanti. Kenesā kāritāti. Ghoṭamukhenāti. Idāni so kuhinti. Kālakatoti. Atthi panassa koci ñātakoti. Atthi ekā bhaginīti. Pakkosāpetha tanti. Bhikkhū pakkosāpesuṃ. So taṃ upasaṅkamitvā “ahaṃ tava bhātā ghoṭamukho nāma imaṃ sālaṃ kāretvā sagge nibbatto, asuke ca ṭhāne mayā ṭhapitaṃ dhanaṃ atthi, taṃ gahetvā imañca bhojanasālaṃ kārehi, dārake ca posehī”ti vatvā bhikkhusaṃghaṃ vanditvā vehāsaṃ uppatitvā devalokameva agamāsi. Sesaṃ sabbattha uttānamevāti.

421. Lợi ích gì cho ngài: Ngài hỏi để nhằm mục đích thoát khỏi nó, thông thường người tại gia có thể nói phù hợp, (hoặc) không phù hợp. Đã cho làm: đã cho xây dựng. Và hơn nữa, khi đã cho xây dựng, sau khi chết đã hóa sanh vào cõi trời. Được biết rằng nghệ thuật cần biết của vị ấy phụng dưỡng cả mẹ lẫn cha, nuôi bản thân. Được gọi là hạng người biết được một môn nghệ thuật rồi chỉ dậy lại cho người khác biết được môn nghệ thuật ấy (sau khi chết) được tái sanh về cõi trời (điều đó) không có, vị Thiên tử này nương nơi trưởng lão đã tạo phước báu mới hóa sanh vào cõi trời ấy, cũng vậy khi đã tái sanh mới suy nghĩ rằng: “Ta đã hóa sanh vào nơi này do nghiệp gì?” Khi đã biết được sự thật, khi chư Tăng hội hợp lại với nhau để sửa chữa lại nhà ăn cũ, một ngày nọ đã thay đổi hình tướng trở thành người đến hỏi rằng: “Kính bạch ngài, chư Tăng tụ hội lại để làm gì?” – Để sửa chữa lại nhà ăn. – Ai đã xây dựng nhà ăn này? – Ông Ghoṭamukha đã xây dựng. – Bây giờ, vị ấy đi đâu? – Vị ấy đã chết rồi. – Thân bằng quyến thuộc của vị ấy có hay không? – Có một người em gái. – Hãy cho gọi cô ấy đến. Chư Tỳ khưu cho gọi nàng ấy đến. Vị ấy đã đi vào tìm gặp cô ấy nói rằng: “Ta là anh trai của nàng tên là Ghoṭamukha đã cho xây dựng phòng ăn này (sau khi chết) đã hóa sanh vào cõi trời, anh đã chôn của cải tài sản ở nơi này, ở chỗ kia, em hãy mang tài sản đó đến, (và) cho xây dựng lại nhà ăn này, nuôi dưỡng các trẻ” rồi đảnh lễ chư Tỳ khưu, bay lên hư không trở về thế giới chư Thiên. Từ còn lại ở trong các câu đều đơn giản.

Giải Thích Kinh Ghoṭamukha Kết Thúc.

1 Sī. – paribbājoti

2 Ma. – na uposathāgāre

3 Khu vườn này do hoàng hậu Khemiyā trồng.

4 Ka. – Na uposathāgāre