Kinh số 92 – Giải Thích Kinh Sela

(Selasuttavaṇṇanā)

Xem Trung Bộ Kinh – Kinh Sela

396. Evaṃ me sutanti Selasuttaṃ. tattha aṅguttarāpesūtiādi potaliyasutte vitthāritameva. aḍḍhateḷasehīti aḍḍhena teḷasehi, dvādasahi satehi paññāsāya ca bhikkhūhi saddhinti vuttaṃ hoti. te pana sāvakasannipāte sannipatitā bhikkhūyeva sabbe ehibhikkhupabbajjāya pabbajitā khīṇāsavā. keṇiyoti tassa nāmaṃ, jaṭiloti tāpaso. so kira brāhmaṇamahāsālo, dhanarakkhaṇatthāya pana tāpasapabbajjaṃ samādāya rañño paṇṇākāraṃ datvā1 bhūmibhāgaṃ gahetvā tattha assamaṃ kāretvā vasati pañcahi sakaṭasatehi vaṇijjaṃ payojetvā kulasahassassa nissayo hutvā, assamepi cassa eko tālarukkho divase divase ekaṃ sovaṇṇamayaṃ tālaphalaṃ2 muñcatīti vadanti. so divā kāsāyāni dhāreti, jaṭā ca bandhati, rattiṃ kāmasampattiṃ anubhavati. dhammiyā kathāyāti pānakānisaṃsapaṭisaṃyuttāya dhammiyā kathāya. ayañhi keṇiyo tucchahattho bhagavato dassanāya gantuṃ lajjāyamāno — “vikālabhojanā viratānampi pānakaṃ kappatī”ti cintetvā susaṅkhatabadarapānaṃ3 pañcahi kājasatehi gāhāpetvā agamāsi. evaṃ gatabhāvo cassa — “atha kho keṇiyassa jaṭilassa etadahosi kiṃ nu kho ahaṃ samaṇassa gotamassa harāpeyyan”ti bhesajjakkhandhake4 pāḷiāruḷhoyeva. dhammiyā kathāyāti pānakānisaṃsapaṭisaṃyuttāya dhammiyā kathāya. ayañhi keṇiyo tucchahattho bhagavato dassanāya gantuṃ lajjāyamāno — “vikālabhojanā viratānampi pānakaṃ kappatī”ti cintetvā susaṅkhatabadarapānaṃ5 pañcahi kājasatehi gāhāpetvā agamāsi. evaṃ gatabhāvo cassa — “atha kho keṇiyassa jaṭilassa etadahosi kiṃ nu kho ahaṃ samaṇassa gotamassa harāpeyyan”ti bhesajjakkhandhake6 pāḷiāruḷhoyeva.

396. Kinh Sela được bắt đầu như sau: “Tôi đã được nghe như vầy.” Ở đó, ở xứ sở Aṅguttarāpa v.v, ngài đã nói chi tiết trong bài Kinh Potaliya. Aḍḍhateḷasehi: với mười ba (và) với một nửa. Ngài nói giải thích: cùng với một nghìn hai trăm năm mươi vị Tỳ khưu. Chư Tỳ khưu hội họp ở Sāvakasannipāta7 ấy hoàn toàn là bậc lậu tận toàn bộ đều xuất gia theo cách ‘hãy đến đây, này Tỳ khưu’. Keṇiya: là tên của đạo sĩ bện tóc Keṇiya. Jaṭilo: Đạo sĩ (bện tóc). Được biết rằng Đạo sĩ ấy là một Đại phú Bà-la-môn nhưng lại xuất gia làm Đạo sĩ để bảo vệ tài sản đã dâng quà biếu đến đức vua, giữ lại một phần, kiến tạo một nơi sống ẩn dật ở vùng đất đó, đã bắt tay vào việc buôn bán với 500 trăm cổ xe làm nơi nương nhờ của một nghìn hộ gia đình. Hơn nữa, các cổ sư (poraṇācāriya) đã nói rằng: nơi sống ẩn dật của vị đạo sĩ ấy có một cây thốt nốt, trái thốt nốt thành tựu với sắc vàng rơi xuống mỗi ngày một trái. Vị đạo sĩ ấy ban ngày đắp áo cà sa, và bện tóc lại, ban đêm thì hưởng thụ sự thành tựu các dục. Với lời nói liên hệ đến Pháp: bằng lời nói liên hệ với Pháp phối hợp với lợi ích của thức uống. Keṇiya này cảm thấy xấu hổ vì có tay không đến gặp đức Thế Tôn đã khởi lên suy nghĩ rằng: “thức uống sẽ phù hợp cho vị từ bỏ việc ăn phi thời” đã làm gò nước ép táo được chuẩn bị một cách chu đáo đến năm trăm gò. Câu chuyện vị tóc bện ấy đã đi như thế, các thầy kiết tập (saṃgīti-ācariya) đã đưa vào Pāḷī ở chương Dược Phẩm như sau: “Khi ấy, đạo sĩ bện tóc Keṇiya đã khởi ý điều này: “Ta nên cho người đem đến cho Sa-môn Gotama vật gì đây?”

Dutiyampi kho Bhagavāti kasmā punappunaṃ paṭikkhipi? titthiyānaṃ paṭikkhepapasannatāya, akāraṇametaṃ, natthi Buddhānaṃ paccayahetu evarūpaṃ kohaññaṃ. ayaṃ pana aḍḍhateḷasāni bhikkhusatāni disvā ettakānaṃyeva bhikkhaṃ paṭiyādessati, sveva Selo tīhi purisasatehi saddhiṃ pabbajissati. ayuttaṃ kho pana navake aññato pesetvā imeheva saddhiṃ gantuṃ, ime vā aññato pesetvā navakehi saddhiṃ gantuṃ. athāpi sabbe gahetvā gamissāmi, bhikkhāhāro nappahossati. tato bhikkhūsu piṇḍāya carantesu manussā ujjhāyissanti — “cirassāpi keṇiyo samaṇaṃ gotamaṃ nimantetvā yāpanamattaṃ dātuṃ nāsakkhī”ti, sayampi vippaṭisārī bhavissati. paṭikkhepe pana kate “samaṇo gotamo punappunaṃ ‘tvañca brāhmaṇesu abhippasanno’ti brāhmaṇānaṃ nāmaṃ gaṇhātī”ti cintetvā brāhmaṇepi nimantetukāmo bhavissati, tato brāhmaṇe pāṭiyekkaṃ nimantessati, te tena nimantitā8 bhikkhū hutvā bhuñjissanti. evamassa saddhā anurakkhitā bhavissatīti punappunaṃ paṭikkhipi. kiñcāpi kho, bhoti iminā idaṃ dīpeti, — “bho gotama, kiṃ jātaṃ yadi ahaṃ brāhmaṇesu abhippasanno, adhivāsetu bhavaṃ gotamo, ahaṃ brāhmaṇānampi dātuṃ sakkomi tumhākampī”ti.

Thậm chí lần thứ hai, đức Thế Tôn…: Tại sao đức Thế Tôn lại từ chối nhiều lần? Bởi vì những người ngoại đạo có sự tịnh tín trong việc từ chối, điều đó không phải lý do, sự nói dối bằng hình thức như vậy không có nơi chư Phật bởi do nhân duyên. Nhưng vị đạo sĩ này sau khi nhìn thấy một nghìn hai trăm năm mươi vị Tỳ khưu đã chuẩn bị vật thực cúng dường đến chư Tỳ khưu có khoảng độ chừng ấy. Vào ngày mai Bà-la-môn Sela sẽ xuất gia cùng với 300 nam nhân. Ta sẽ đưa các Tân Tỳ khưu đi con đường khác, rồi chỉ đi cùng với những vị Tỳ khưu này; hoặc đưa những vị Tỳ khưu này đi đường khác, rồi đi với những Tân Tỳ khưu, – không phù hợp. Thậm chí nếu như ta đưa tất cả các vị Tỳ khưu thì vật thực cúng dường sẽ không đủ. Khi ấy, chư Tỳ khưu đi khất thực thì mọi người sẽ phàn nàn chỉ trích ta — “Keṇiya đã thỉnh mời Sa-môn Gotama nhưng không thể cúng dường vật thực đủ để nuôi dưỡng thân mạng,” chính bản thân của vị ấy sẽ cảm thấy rất hối hận. Nhưng khi đã thực hiện sự từ chối thì Keṇiya sẽ khởi ý rằng: “Sa-môn Gotama thường giữ lấy tên của các Bà-là-môn rằng: ‘chính bản thân ông vô cùng tịnh tín đối với các Ba-la-môn, sẽ có ý muốn thỉnh mời cả các Bà-la-môn, từ đó Ba-la-môn cũng sẽ thỉnh mời riêng biệt, chư Tỳ khưu đó đã được thỉnh mời bởi các Ba-la-môn sẽ thọ dụng. Với biểu hiện như vậy sẽ trở thành sự bảo hộ đức tin của Bà-la-môn đó (cho nên ngài) đã từ chối liên tục.” Thưa ngài Gotama… này sẽ trình bày đến câu này như sau: “kính thưa ngài Gotama, điều gì sanh khởi? nếu như tôi đặt nhiều niềm tin vào các vị Bà-la-môn, bạch ngài, xin ngài Gotama hãy nhận lời thỉnh mời, tôi có thể cúng dường đến các vị Bà-la-môn và cả ngài ”.

Kāyaveyyāvaṭikanti kāyaveyyāvaccaṃ. Maṇḍalamāḷanti dussamaṇḍapaṃ.

Sự phục vụ bằng thân: sự cố gắng bằng thân. Lều vải tròn: lều tạm được làm bằng vải.

397. Āvāhoti kaññāgahaṇaṃ. vivāhoti kaññādānaṃ. so me nimantitoti so mayā nimantito. atha brāhmaṇo paripakkopanissayattā buddhasaddaṃ sutvāva amatenevābhisitto pasādaṃ āvikaronto Buddhoti, bho keṇiya, vadesīti āha. keṇiyo yathābhūtaṃ ācikkhanto Buddhoti, bho Selo, vadāmīti āha. tato naṃ punapi daḷhīkaraṇatthaṃ pucchi, itaropi tatheva ārocesi.

397. Rước dâu: việc chấp nhận người nữ đến. Đưa dâu: việc đưa người nữ đi. Ngài Gotama đã được tôi thỉnh mời: ngài Gotama ấy đã được thỉnh mời bởi tôi. Khi ấy Bà-la-môn sau khi nghe được tiếng ‘Phật’ trở thành người như được uống nước bất tử bởi là người đã có nhân duyên chín mùi, để làm sáng tỏ niềm tin đã nói rằng: “Này Keṇiya, có phải ông nói đến đức Phật?” Keṇiya khi nói theo đúng bản thể thật đã nói rằng: “Thưa ngài Sela, vâng tôi đã nói đến đức Phật.” Từ đó Bà-la-môn Sela mới hỏi Bà-la-môn Keṇiya thêm nữa để cho thật chắc chắn, thậm chí Keṇiya này cũng đã nói y hệt như thế.

398. athassa kappasatasahassehipi9 Buddhasaddasseva dullabhabhāvaṃ sampassato. Etadahosīti etaṃ10 “ghosopi kho”tiādi ahosi. nīlavanarājīti nīlavaṇṇarukkhapanti. pade padanti padappamāṇe padaṃ. accāsanne vā11 atidūre vā pāde nikkhipamāne saddo uṭṭhāti, taṃ paṭisedhento evamāha. sīhāva ekacarāti gaṇavāsī sīho sīhapotakādīhi saddhiṃ pamādaṃ āpajjati, ekacaro appamatto hoti. iti appamādavihāraṃ dassento ekacarasīhena opammaṃ karoti. mā me bhontoti ācāraṃ sikkhāpento āha. ayañhettha adhippāyo — sace tumhe kathāvāraṃ alabhitvā mama kathāya antare kathaṃ pavesessatha, “antevāsike sikkhāpetuṃ nāsakkhī”ti mayhaṃ garahā uppajjissati, tasmā okāsaṃ passitvā manteyyāthāti. no ca kho naṃ jānāmīti vipassīpi bodhisatto caturāsītisahassattherapabbajitaparivāro satta māsāni12 bodhisattacārikaṃ cari, buddhuppādakālo viya ahosi. amhākampi bodhisatto chabbassāni bodhisattacārikaṃ cari. evaṃ paripuṇṇasarīralakkhaṇehi samannāgatāpi buddhā na honti. tasmā brāhmaṇo “no ca kho naṃ jānāmī”ti āha.

398. Lúc đó khi Bà-la-môn nhìn thấy (nghe) tiếng ‘Phật’ điều mà con người có thể đạt được khó khăn dẫu cho hàng nghìn kiếp trái đất, điều này suy nghĩ đã khởi lên như sau: “thậm chí cả âm giọng” v.v. An trú ở bìa rừng xanh kia: hàng cây có màu xanh. Hãy giữ khoảng cách cho xa nhau, bước từng bước chân một: Bước chân bình thường khi bước quá gần hoặc quá xa sẽ tạo ra tiếng động, để ngăn ngừa không tạo ra tiếng động đã nói như thế. sīhāva ekacara (như con sư tử sống một mình): Loài sư tử thường sống bầy đàn, đi đến sự xao lãng bởi những con sư tử con v.v, người sống một mình cũng trở thành người không xao lãng. Khi trình bày việc sống bằng sự không xao lãng mới thực hiện so sánh với loài sư tử đi một mình là như thế. Khi học tập các hạnh mới rằng: Các ngài chớ ngắt lời ta. Lời này ở đây được giải thích như sau — nếu như các ngài chưa đến lược để nói thì chớ có chen vào giữa lời nói của tôi, sự trách mắng sẽ nảy sinh cho tôi rằng: “không thể cho các học trò học tập được, bởi thế khi nhìn thấy cơ hội rồi hãy từ từ nói.” Nhưng ta không biết vị ấy có phải là đức Phật hay không phải (hay không phải): Ngay cả Bồ tát Vipassī có đến tám mươi bốn nghìn vị trưởng lão xuất gia là tùy tùng, thực hành lúc còn là Bồ tát đến 7 tháng, đã trở thành giống như thời kỳ có Phật ra đời. Ngay cả Bồ tát của chúng ta cũng thực hành lúc còn là Bồ tát đến 6 năm. Dù người hội tụ bởi các tướng của thân trọn vẹn như vậy cũng chưa phải là Phật, cho nên Bà-la-môn đã nói rằng: “nhưng ta không biết vị ấy có phải là đức Phật (hay không phải).”

399. paripuṇṇakāyoti lakkhaṇehi paripuṇṇatāya ahīnaṅgatāya ca paripuṇṇasarīro. surucīti sundarasarīrappabho13. sujātoti ārohapariṇāhasampattiyā saṇṭhānasampattiyā ca sunibbatto. cārudassanoti sucirampi passantānaṃ atittijanako manoharadassano. suvaṇṇavaṇṇoti suvaṇṇasadisavaṇṇo. susukkadāṭhoti suṭṭhu sukkadāṭho. mahāpurisalakkhaṇāti paṭhamaṃ vuttabyañjanāneva vacanantarena nigamento āha.

399. Ngài có thân hình vẹn toàn: có thân hình vẹn toàn với sự trọn vẹn với tất cả các tướng và bởi có chi phần không tồi. Có ánh sáng rực rỡ: có hào quang phát ra từ thân tuyệt đẹp. Đã được thiện sanh: đã được khéo sanh với sự thành tựu đầy đủ về chiều cao, chiều rộng, và với thành tựu về hình dáng. Có vẻ đáng mến: Dù cho nhìn ngắm thật lâu vẫn làm say đắm khiến không cảm thấy no đủ. Có màu da như vàng: có màu da tựa như vàng. Có răng trắng tinh: có răng trắng tinh. Đại nhân tướng: trong khi nói lập lại byañjana (vặn tự) đã được biết trước bằng lời khác mới nói như vậy.

idāni tesu lakkhaṇesu attano cittarucitāni gahetvā thomento pasannanettotiādimāha. bhagavā hi pañcavaṇṇapasādasampattiyā pasannanetto, puṇṇacandasadisamukhatāya sumukho, ārohapariṇāhasampattiyā brahā14, brahmujugattatāya uju, jutimantatāya patāpavā. yampi15 cettha pubbe vuttaṃ, taṃ “majjhe samaṇasaṅghassā”ti iminā pariyāyena thomayatā puna vuttaṃ. ediso hi evaṃ virocati. uttaragāthāyapi eseva nayo. uttamavaṇṇīnoti uttamavaṇṇasampannassa. rathesabhoti uttamasārathi. jambusaṇḍassāti jambudīpassa. pākaṭena issariyaṃ issaro hoti.

Bây giờ, Bà-la-môn Sela khi đã nắm giữ tướng ưa thích của chính mình trong số tất cả các tướng ấy tán dương rồi mới nói rằng: ‘ngài có cặp mắt trong sáng’ v.v. Thật vậy, đức Thế Tôn có cặp mắt trong sáng, do sự thành tựu bởi năm giác quan. Ngài có khuôn mặt đầy đặn bởi có khuôn mặt tựa như mặt trăng tròn ngày rằm, là người tuyệt hảo bởi sự thành tựu về hình dáng không quá cao, không quá tháp, không ốm, không mập, có thân ngay thẳng bởi ngài có thân thẳng đứng tựa như Phạm thiên, oai vệ bởi có sự sáng chói. Hơn nữa, trạng thái nào ở đây đã được nói trước đó, các tướng đó Bà-la-môn Sela lai tán dương nữa với cách thức này “ở giữa hội chúng Sa-môn…”. Người như vậy sáng chói như cách đã được nói. Kể cả kệ ngôn sau cũng có phương thức tương tự y như vậy. Có màu da tối thượng: thành tựu với màu da tối thượng. Rathesabho (người cao thượng): người xa phu xuất sắc. Jambusaṇḍassa là jambudīpassa (vị chúa tể của Jambudīpa). Khi tán dương bản thể là vị chúa tể với sự hiện hữu đã nói, vua Chuyển Luân là vị chúa tể khắp bốn phương.

khattiyāti jātikhattiyā. bhogīti16 bhogiyā. rājānoti ye keci rajjaṃ kārentā. rājābhirājāti rājūnaṃ pūjanīyo, adhirājā hutvā, cakkavattīti adhippāyo. manujindoti manussādhipati paramissaro hutvā.

Các vị Sát-đế-lỵ: sanh chủng Sát-đế-lỵ. Người có tài sản: là người có tài sản. Các vị vua: bất kỳ vị vua nào trị vì vương vị. Vị vua đứng đầu các vị vua: các vị vua đều phải cung kính lễ bái, là vị vua tối thắng, có ý muốn nói đến vua Chuyển Luân. Manujindo (chúa tể của loài người): là chủ tể của loài người, là vị chúa tể tối thắng.

evaṃ vutte bhagavā — “ye te bhavanti arahanto sammāsambuddhā, te sakavaṇṇe bhaññamāne attānaṃ pātukarontī”ti imaṃ Selassa manorathaṃ pūrento rājāhamasmīti-ādimāha. tatrāyamadhippāyo — yaṃ maṃ tvaṃ Sela “rājā arahasi bhavitun”ti yācasi17, ettha appossukko hoti rājāhamasmi. sati ca rājatte yathā añño rājā yojanasataṃ vā anusāsati yojanasahassaṃ vā, cakkavattī hutvāpi catudīpapariyantamattaṃ vā, nāhamevaṃ paricchinnavisayo, ahañhi dhammarājā anuttaro bhavaggato avīcipariyantaṃ katvā tiriyaṃ appamāṇalokadhātuyo anusāsāmi. yāvatā hi apadadvipadādibhedā sattā, ahaṃ tesaṃ aggo. na hi me koci sīlena vā … pe … vimuttiñāṇadassanena vā paṭibhāgo atthi, svāhaṃ evaṃ dhammarājā anuttaro anuttareneva catusatipaṭṭhānādibhedena dhammena cakkaṃ vattemi. idaṃ pajahatha, idaṃ upasampajja viharathāti āṇācakkaṃ, idaṃ kho pana, bhikkhave, dukkhaṃ ariyasaccantiādinā pariyattidhammena dhammacakkameva vā. cakkaṃ appaṭivattiyanti yaṃ cakkaṃ appaṭivattiyaṃ hoti samaṇena vā … pe … kenaci vā lokasminti.

Khi Bà-la-môn Sela nói như vậy, đức Thế Tôn khởi ý như sau — “Các vị nào là bậc A-ra-hán, đấng Chánh Đẳng Giác, các vị ấy phô bày bản thân trong khi ân đức của mình đang được nói lên” để làm cho ước muốn của Bà-la-môn Sela được tròn đầy đã nói rằng: “Ta là vua v.v.” Trong Phật ngôn đó có lời giải thích như sau — ông khẩn cầu nói cùng ta rằng: “Ngài xứng đáng để trở thành vị vua”. ở đây mong ông chớ có nhọc công ta là vua. và khi làm vua, như những vị vua khác cai trị một trăm do-tuần, một nghìn do-tuần, ngay cả vua Chuyển Luân cũng cai trị tận cùng cả bốn đại dương, còn đối với ta thì không có giới hạn tận cùng, bởi vì ta đấng Pháp vương vô thượng cai trị vô lượng thế giới bắt đầu từ Phạm thiện hữu đảnh đến tận cùng địa ngục Avīci. Tất cả chúng sanh được phân loại từ loài không chân, có hai chân v.v, có khoảng chừng nào thì ta là người tối thượng hơn tất cả những chúng sanh ấy. Không có ai có phần so sánh bởi giới…hoặc trí và sự nhận thức về giải thoát của ta, chính ta là đấng Pháp vương cao thượng chuyển vận bánh xe pháp bởi phân tách bốn sự thiết lập niệm thật sự tối thượng. Ta đã chuyển vận bánh xe sức mạnh như sau: ông hãy dứt trừ điều này, ông hãy đi đến điều này, hoặc chuyển vận bánh xe Pháp bằng Pháp học v.v, này chư Tỳ khưu ‘đây là Khổ thánh đế’. Bánh xe không thể bị chuyển vận: Bánh xe mà Sa-môn … hoặc bất kỳ ai ở trong thế gian cũng không thể chuyển vận được.

Evaṃ attānaṃ āvikarontaṃ bhagavantaṃ disvā pītisomanassajāto Selo puna daḷhīkaraṇatthaṃ sambuddho paṭijānāsīti gāthādvayamāha. tattha ko nu senāpatīti rañño18 bhoto dhammena pavattitassa cakkassa anupavattako senāpati ko nūti pucchi.

Bà-la-môn Sela đã nhìn thấy đức Thế Tôn phô bày bản thân bằng cách như vầy, mới khởi lên thọ hỷ nhằm làm cho chắc chắn thêm nữa đã nói lên 2 kệ ngôn rằng: Ngài tự nhận là bậc Toàn Giác v.v. Ở đó, vị nào là vị Tướng quân (của ngài)?, Bà-la-môn Sela hỏi rằng: trong khi ngài là đấng Pháp vương đã chuyển vận bánh xe Pháp thì vị nào là Tướng quân tiếp tục chuyển vận bánh xe đã được vận chuyển cho ngài?

Tena ca samayena bhagavato dakkhiṇapasse āyasmā sāriputto nisinno hoti suvaṇṇapuñjo viya siriyā sobhamāno, taṃ dassento bhagavā mayā pavattitanti gāthamāha. tattha anujāto tathāgatanti tathāgataṃ hetuṃ19 anujāto, tathāgatena hetunā jātoti attho. apica avajāto anujāto atijātoti tayo vuttā. tesu avajāto dussīlo, so tathāgatassa putto nāma na hoti. atijāto nāma pitarā uttaritaro, tādisopi tathāgatassa putto natthi. tathāgatassa pana eko anujātova putto hoti, taṃ dassento evamāha.

Và vào lúc đó tôn giả Sārīputta đang ngồi ở phía hữu đức Thế Tôn xinh đẹp bởi sự rạng rỡ tựa như một khối vàng, Đức Thế Tôn khi chỉ Sarārīputta ấy đã nói câu kệ rằng: ‘bánh xe đã được Ta chuyển vận…’. Ở đó, ‘Sāriputta kế thừa đức Như Lai tiếp tục chuyển vận’: người kế thừa do nhân đấng Như Lai, có nghĩa là kế thừa do nguyên nhân đấng Như Lai. Và hơn nữa, 3 hạng con trai là liệt sanh, tùy sanh, ưu sanh. Trong đó hạng liệt sanh là kẻ có giới tồi, kẻ ấy không được gọi là con của đấng Như Lai. Người vượt trội hơn cha được gọi là ưu sanh, ngay cả hạng con trai ấy của đấng Như Lai cũng không có. Nhưng đấng Như Lai chỉ có một hạng tùy sanh là con trai mà thôi, khi chỉ ra những hạng con trai ấy đã nói như vậy.

Evaṃ “ko nu senāpatī”ti pañhaṃ byākaritvā yaṃ Selo āha “sambuddho paṭijānāsī”ti, tatra naṃ nikkaṅkhaṃ kātukāmo “nāhaṃ paṭiññāmatteneva paṭijānāmi, apicāhaṃ iminā kāraṇena buddho”ti ñāpetuṃ abhiññeyyanti gāthamāha. Tatra abhiññeyyanti vijjā ca vimutti ca. Bhāvetabbaṃ maggasaccaṃ. Pahātabbaṃ samudayasaccaṃ. Hetuvacanena pana phalasiddhito tesaṃ phalāni nirodhasaccadukkhasaccānipi vuttāneva honti. Evaṃ sacchikātabbaṃ sacchikataṃ pariññātabbaṃ pariññātanti idamettha saṅgahitanti catusaccabhāvanāphalañca vimuttiñca dassento “bujjhitabbaṃ bujjhitvā buddho jātosmī”ti yuttahetunā buddhabhāvaṃ sādheti.

Lúc nói vấn đề “vị nào là tướng quân (của ngài)” như vậy rồi thì Bà-la-môn Sela đã nói rằng “Ngài tự nhận là bậc Toàn Giác”, đức Thế Tôn có ý muốn làm cho vị Bà-la-môn ấy hết nghi hoặc trong nguyên nhân ấy mới nói kệ ngôn ‘Điều cần biết rõ…’ để trình bày cho Bà-la-môn biết rằng: “ta không tự nhận bởi biểu hiện chỉ sự thừa nhận, nhưng ta là Phật bởi nguyên nhân này.” Trong kệ ngôn ‘Điều cần biết rõ…’ bao gồm Minh, giải thoát. Đạo đế cần được tu tập. Tập đế cần đoạn trừ. Hơn nữa, ngay cả Diệt đế và Khổ đế là kết quả của những Đế đó cũng chính là điều đã được nói bởi kết quả thành tựu do việc nói đến nhân. Điều cần được chứng ngộ (ta) đã được chứng ngộ, điều cần được biết toàn diện (ta) đã được biết toàn diện như vậy đức Thế Tôn tập hợp lại đặt ở chỗ này đây, khi thuyết về kết quả của sự tu tập bốn đế và giải thoát làm cho bản thể Phật được thành tựu với nhân thích hợp rằng: “Sau khi ta giác ngộ pháp cần được giác ngộ đã trở thành Phật”

Evaṃ nippariyāyena attānaṃ āvikatvā attani kaṅkhāvitaraṇatthaṃ brāhmaṇaṃ abhitārayamāno20 vinayassūti gāthāttayamāha21. Tattha sallakattoti rāgādisallakantano. Anuttaroti yathā bāhiravejjena vūpasamitarogo imasmiññevattabhāve kuppati, na evaṃ. Mayā vūpasamitassa pana rogassa bhavantarepi uppatti natthi, tasmā ahaṃ anuttaroti attho. Brahmabhūtoti seṭṭhabhūto. Atituloti tulaṃ atīto, nirupamoti attho. Mārasenappamaddanoti kāmā te paṭhamā senāti evaṃ āgatāya mārasenāya pamaddano. Sabbāmitteti khandhakilesābhisaṅkhāramaccudevaputtamārasaṅkhāte sabbapaccatthike. Vasīkatvāti attano vase vattetvā. Akutobhayoti kutoci abhayo.

Đức Thế Tôn khi phơi bày bản thân một cách hoàn toàn như vậy làm cho Bà-la-môn nguôi ngoai để vượt khỏi sự nghi hoặc đối với ngài mới nói 2 kệ ngôn sau “ngươi hãy dẹp bỏ sự hoài nghi về Ta v.v.” Ở đó, phẫu thuật gia: vị đã rút ra mũi tên – là ái luyến v.v. Vô thượng: bệnh tật mà các bác sĩ ở ngoài đã chữa lành vẫn làm bức rức trong thân thể này đây như thế nào, nhưng tật bệnh mà ta đã chữa lành rồi không phải như thế, sẽ không sanh khởi ở trong các cõi khác nữa. Bởi thế ta là vị tối thượng (không ai khác cao thượng hơn). Là vị tối thượng: là vị tối thượng nhất. Bậc không thể so sánh: vượt ngoài việc so sánh, có nghĩa là không thể so sánh. Người có sự tiêu diệt các đạo binh của Ma Vương: tiêu diệt Ác-ma và đạo binh của Ác-ma đã đến như vầy: tất cả các dục là đạo binh thứ nhất của ngài. Tất cả đối thủ: tất cả các đối thủ được nói là ngũ uẩn ma, phiền não ma, thắng hành ma, tử thần ma và thiên tử ma. Sau khi chế ngự: làm cho diễn tiến trong mãnh lực của bản thân. Không có sự sợ hãi: bậc không có sự sợ hãi từ bất cứ đâu.

Evaṃ vutte Selo brāhmaṇo tāvadeva Bhagavati sañjātapasādo pabbajjāpekkho hutvā imaṃ bhontoti gāthāttayamāha. Tattha kaṇhābhijātikoti caṇḍālādinīcakule jāto. Tato tepi māṇavakā pabbajjāpekkhā hutvā evañce ruccati bhototi gāthamāhaṃsu. Atha Selo tesu māṇavakesu tuṭṭhacitto te ca dassento pabbajjaṃ yācanto “brāhmaṇā“ti gāthamāha.

Khi đức Thế Tôn thuyết như vậy Bà-la-môn Sela khởi sanh lòng tịnh tín đối với đức Thế Tôn, ngay lập tức đã trở thành vị có ước muốn xuất gia đã nói lên 2 kệ ngôn rằng: ‘Này quý vị, quý vị v.v.’ Ở đó, kẻ có dòng dõi thấp kém: người sanh ra trong dòng dõi của hạng người hạ tiện v.v. Từ đó dẫu cho những thanh niên Bà-la-môn ấy cũng là người ước muốn được xuất gia mới nói lên kệ rằng: Nếu ngài ưa thích như vậy v.v. Khi ấy Bà-la-môn Sela có tâm hoan hỷ đối với những thanh niên Bà-la-môn ấy và chỉ cho những thanh niên Bà-la-môn ấy xin được xuất gia mới nói lên kệ ngôn rằng: những Bà-la-môn v.v.

Tato Bhagavā yasmā Selo atīte Padumuttarassa Bhagavato sāsane tesaṃyeva tiṇṇaṃ purisasatānaṃ gaṇaseṭṭho hutvā tehi saddhiṃ pariveṇaṃ kāretvā dānādīni ca puññāni katvā tena kammena devamanussasampattiṃ anubhavamāno pacchime bhave tesaṃyeva ācariyo hutvā nibbatto, tañca tesaṃ kammaṃ vimuttiparipākāya paripakkaṃ ehibhikkhubhāvassa ca upanissayabhūtaṃ, tasmā te sabbeva ehibhikkhupabbajjaṃ pabbājento svākkhātanti gāthamāha. Tattha sandiṭṭhikanti sayameva daṭṭhabbaṃ paccakkhaṃ. Akālikanti maggānantaraphaluppattiyā na kālantare pattabbaphalaṃ. Yattha amoghāti yasmiṃ maggabrahmacariye appamattassa sikkhāttayapūraṇena sikkhato pabbajjā amoghā hoti, saphalāti attho. Evañca vatvā “etha bhikkhavo”ti Bhagavā avoca. Te sabbe pattacīvaradharā hutvā ākāsenāgantvā Vassasatikattherā viya suvinītā Bhagavantaṃ abhivādayiṃsu. Evamimaṃ tesaṃ ehibhikkhubhāvaṃ sandhāya “alattha kho selo“tiādi vuttaṃ.

Từ đó, đức Thế Tôn khi cho toàn bộ những thanh niên Bà-la-môn đó được xuất gia bằng cách ‘hãy đến đây, này các Tỳ khưu’ mới thuyết kệ ngôn sau: ‘Phạm hạnh đã khéo được thuyết giảng v.v,’ Bà-la-môn Sela đã từng làm dẫn đầu nhóm ba trăm thanh niên, cùng nhau tạo dựng chỗ cư ngụ với những người ấy, tạo phước báu như bố thí v.v, trong Giáo Pháp của đức Thế Tôn Padumuttara vào thời quá khứ, (sau khi mạng chung) đã thọ hưởng sự thành tựu ở thiên giới và sự thành tựu ở nhân loại theo tuần tự vào kiếp sống cuối cùng đã sanh làm của nhóm thanh niên Bà-la-môn đó nữa và nghiệp của những người đó đã chính muồi đưa đến sự lớn mạnh giải thoát và trở thành nhân duyên của tính chất (xuất gia bằng cách) ‘hãy đến đây, này các Tỳ khưu’ ấy. Ở đó, có thể thấy được bởi tự thân: điều mà người có thể nhận biết rõ ràng bởi chính mình. Không bị chi phối bởi thời gian: Quả có thể chứng đắc của Quả sanh khởi giữa Đạo không phải trong thời gian kế tiếp. Không phải là vô ích: Khi sống không xao lãng trên con đường thực hành Phạm hạnh nào, học tập với việc thực hành Tam học cho trọn vẹn thì xuất gia không trở nên vô ích, tức là có kết quả. Đức Thế Tôn khi thuyết như vậy mới nói rằng: “Hãy đến đây, này các Tỳ khưu”. Tất cả những vị Tỳ khưu ấy đã có ôm bình bát và đắp y bay lên hư không đảnh lễ đức Thế Tôn, điều đó đức Thế Tôn đã khéo léo hướng dẫn (những vị ấy) như vị trưởng lão đã một trăm hạ lạp. Ngài đã nói ‘Quả vậy, Bà-la-môn Sela v.v’ liên quan đến tính chất xuất gia bằng cách ‘hãy đến đây, này các Tỳ khưu’ này như vậy,

400. Imāhīti imāhi Keṇiyassa cittānukūlāhi gāthāhi. Tattha aggiparicariyaṃ vinā brāhmaṇānaṃ yaññābhāvato “aggihuttamukhā yaññā”ti vuttaṃ. Aggihuttaseṭṭhā aggijuhanappadhānāti attho. Vede sajjhāyantehi paṭhamaṃ sajjhāyitabbato sāvittī “chandaso mukhan”ti vuttā. Manussānaṃ seṭṭhato rājā “mukhan”ti vutto. Nadīnaṃ ādhārato paṭisaraṇato ca sāgaro “mukhan”ti vutto. Candayogavasena “ajja kattikā ajja rohiṇī”ti paññāpanato22 ālokakaraṇato somabhāvato ca “nakkhattānaṃ mukhaṃ cando”ti vuttaṃ. Tapantānaṃ aggattā ādicco “tapataṃ mukhan”ti vutto. Dakkhiṇeyyānaṃ pana aggattā visesena tasmiṃ samaye buddhappamukhaṃ saṃghaṃ sandhāya “puññaṃ ākaṅkhamānānaṃ, saṃgho ve yajataṃ mukhan”ti vuttaṃ. Tena saṃgho puññassa āyamukhanti dasseti.

400. Những…này: bằng kệ ngôn phù hợp với tâm của đạo sĩ bện tóc Keniya này. “Các lễ hiến tế có sự cúng tế ngọn lửa là đứng đầu” trong kệ ngôn đó bởi tất cả Bà-la-môn không có lễ hiến tế nào ngoài việc cúng tế ngọn lửa, có nghĩa là có việc cúng tế ngọn lửa là cao thượng, có việc thờ cúng ngọn lửa là đứng đầu. Ngài nói kinh cổ Sāvittī “là đứng đầu về niêm luật” bởi khi thuật lại Vệ Đà cần phải đọc câu này trước. Ngài nói rằng: đức vua “là đứng đầu” bởi vì là vị cao thượng hơn tất cả loài người. Ngài cũng nói rằng: Biển cả “là đứng đầu” bởi vì biển cả là nơi lưu trữ nước của tất cả các con sông và là nơi nương nhờ của tất cả chúng sanh. Ngài cũng nói rằng: “mặt trăng là đứng đầu các vì sao” bởi vì tạo ra ánh sáng, có sự mát mẻ bởi vì cho biết được rằng “ngày hôm nay là của chòm sao Kattikā, ngày hôm nay là của chòm sao Rohiṇī” bởi liên kết với mặt trăng. Ngài nói rằng: “mặt trời có sức nóng là đứng đầu” bởi đứng đầu của tất cả vật nóng. Hơn nữa, ngài nói rằng Chư Tăng là đứng đầu của những người mong mỏi phước báu đang cúng dường” muốn đề cập đến Tăng Chúng có đức Phật làm trưởng vào lúc đó bởi vì là vị tối thượng của các bậc xứng đáng được cúng dường. Vì thế ngài trình bày rằng: Tăng Chúng là dòng chảy mang lại phước báu.

Yantaṃ saraṇanti aññaṃ byākaraṇagāthamāha. Tassattho:- pañcahi cakkhūhi cakkhumā bhagavā yasmā mayaṃ ito aṭṭhame divase taṃ saraṇaṃ āgatamhā23, tasmā attanā24 tava sāsane anuttarena damathena dantāmhā, aho te saraṇassa ānubhāvoti.

Ngài đã nói kệ ngôn được giải thích rằng: việc (chúng con) đi đến nương tựa vào ngài (đức Thế Tôn). Ý nghĩa của kệ ngôn đó như sau: – Đức Thế Tôn, bậc Hữu Nhãn với 5 loại nhãn (con mắt)25 bởi tất cả chúng ta đi đến nương tựa ấy vào ngày thứ 8 từ ngày hôm nay, vì thế đã điều phục bản thân với việc điều phục mà không có việc điều phục nào khác tối thượng hơn trong Giáo Pháp của ngài, thật vi diệu oai lực nơi nương tựa vào ngài.

Tato paraṃ bhagavantaṃ dvīhi gāthāhi thometvā tatiyavandanaṃ yācanto bhikkhavo tisatā imetiādimāhāti.

Từ đó, đã tán dương đức Thế Tôn thêm 2 kệ ngôn nữa, khi xin chấp tay đảnh lễ lần thứ ba đã nói rằng: Ba trăm vị Tỳ khưu này v.v.

Giải Thích Kinh Sela Kết Thúc

1 Sī. – katvā

2 Sī. – sovaṇṇiyaphalaṃ

3 Ma. – susaṅkhataṃ paramapānaṃ

4 Vi. mahā. 5/300/83

5 Ma. – susaṅkhataṃ paramapānaṃ

6 Vi. mahā. 5/300/83

7 Sāvakasannipāta: Đại hội chư Thánh Tăng A-ra-hán lần đầu, có đủ 4 yếu tố sau:

  • Đại hội chư Thánh Tăng A-ra-hán diễn ra vào ngày rằm tháng giêng

  • Chư Thánh A-ra-hán gồm có 1.250 vị, mỗi vị đều tự đến hầu đức Thế Tôn mà không có báo tin cho nhau biết. (1.250 vị Thánh A-ra-hán gồm có nhóm 1.000 vị thuộc nhóm của 3 huynh đệ ngài Kassapa và nhóm 250 vị thuộc nhóm của 2 vị tối thượng Thinh văn: Ngài trưởng lão Sāriputta và Ngài Trưởng lão Mahāmoggallāna).

  • Chư Thánh Tăng A-ra-hán gồm có 1.250 vị đều được xuất gia theo cách ‘Ehi Bhikkhu’ với đức Phật.

  • Chư Thánh Tăng A-ra-hán gồm có 1.250 vị đều chứng đắc lục-thông.

8 Sī. – tato nimantitā

9 Sī. – kappasatasahassehipi

10 Ka. – evaṃ

11 Cha. – Ma. hi

12 Sī. – sattavassāni, aṭṭhamāsaṃ (Buddhavaṃsa-atthakathāyaṃ)

13 Sī. – suvaṇṇavaṇṇasadiso

14 Syā,Ka. – Brahmā

15 Syā,Ka. – Yaṃ taṃ

16 Syāma. – bhoja

17 Ka. – Vadesi

18 Cha. Ma. – rañño

19 Sī. – Tathāgatahetu

20 Sī. – abhittharayamāno, Cha. Ma. – aticāriyamāno

21 Ka. – gāthādvayamāha

22 Cha. Ma. – saññāṇato

23 Sī. – āgamma

24 Sī. – sattarattena

25 Bậc Hữu Nhãn với 5 loại nhãn bao gồm bậc Hữu Nhãn với nhục nhãn, bậc Hữu Nhãn với Thiên nhãn, bậc Hữu Nhãn với tuệ nhãn, bậc Hữu Nhãn với Phật nhãn và bậc Hữu Nhãn với Toàn nhãn