Kinh số 75 – Giải Thích Kinh Māgaṇḍiya

(Māgaṇḍiyasuttavaṇṇanā)

Xem Trung Bộ Kinh – Kinh Māgaṇḍiya

207. evaṃ V.3.151 me sutanti māgaṇḍiyasuttaṃ. tattha agyāgāreti aggihomasālayaṃ. tiṇasanthāraketi dve māgaṇḍiyā mātulo ca bhāgineyyo ca. tesu mātulo pabbajitvā arahattaṃ patto, bhāgineyyopi P.3.210 saupanissayo nacirasseva pabbajitvā arahattaṃ pāpuṇissati. athassa bhagavā upanissayaṃ disvā ramaṇīyaṃ devagabbhasadisaṃ gandhakuṭiṃ pahāya tattha chārikatiṇakacavarādīhi uklāpe agyāgāre tiṇasanthārakaṃ paññāpetvā parasaṅgahakaraṇatthaṃ katipāhaṃ vasittha. taṃ sandhāyetaṃ vuttaṃ. tenupasaṅkamīti na kevalaṃ taṃdivasameva, yasmā pana taṃ agyāgāraṃ gāmūpacāre dārakadārikāhi okiṇṇaṃ avivittaṃ, tasmā bhagavā niccakālampi divasabhāgaṃ tasmiṃ vanasaṇḍe vītināmetvā sāyaṃ vāsatthāya tattha upagacchati.

207. Kinh Māgaṇḍiya được bắt đầu như sau: “Tôi đã được nghe như vầy.” Ở đó, agyāgāre (trong nhà thờ lửa): ở trong căn phòng lửa. Tiṇasanthārake (ở trên tấm thảm được làm bằng cỏ): 2 du sĩ Māgaṇḍiyā chú và cháu. Trong 2 người ấy thì người chú sau khi xuất gia đã chứng đắc A-ra-hán. Ngay cả người cháu cũng có nhân duyên sau khi xuất gia không bao lâu sẽ chứng đắc A-ra-hán. Khi ấy, đức Thế Tôn nhìn thấy được nhân duyên của du sĩ Māgaṇḍiya ấy đã rời khỏi Gandhakuṭi tựa như miếu thờ Devagabbha cho trải tấm thảm được làm bằng cỏ ở trong nhà thờ lửa dơ bẩn bởi tro bụi, cỏ và rác, cư ngụ 2-3 ngày để thực hiện việc giúp đỡ người khác. Ngài nói rằng ‘đã đi đến’ muốn đề cấp đến ngôi nhà thờ lửa ấy, nhưng do nhà thờ lửa ấy không chỉ nằm gần làng mà vào ban ngày còn có những đứa bé trai và bé gái rủ nhau đến vui đùa, không có sự yên tĩnh, vì thế đức Thế Tôn vào ban ngày thường giành thời gian ở trong rừng, vào ban đêm ngài đi đến nhà thờ lửa ấy để an trú.

addasā M.3.147 kho … pe … tiṇasanthārakaṃ paññattanti bhagavā aññesu divasesu tiṇasanthārakaṃ saṅgharitvā saññāṇaṃ katvā gacchati, taṃdivasaṃ pana paññapetvāva agamāsi. kasmā? tadā hi paccūsasamaye lokaṃ oloketvāva addasa — “ajja māgaṇḍiyo idhāgantvā imaṃ tiṇasanthārakaṃ disvā bhāradvājena saddhiṃ tiṇasanthārakaṃ ārabbha kathāsallāpaṃ karissati, athāhaṃ āgantvā dhammaṃ desessāmi, so dhammaṃ sutvā mama santike pabbajitvā arahattaṃ pāpuṇissati. paresaṃ saṅgahakaraṇatthameva hi mayā pāramiyo pūritā”ti tiṇasanthārakaṃ paññapetvāva agamāsi.

addasā kho … pe … tiṇasanthārakaṃ paññattaṃ (du sĩ Māgaṇḍiya đã nhìn thấy tấm thảm được làm bằng cỏ): đức Thế Tôn đã sửa soạn tấm thảm trải bằng cỏ vào ngày khác rồi làm dấu đặt xuống quay trở lại, vào chính ngày hôm ấy đã cho trải tấm thảm ra rồi đi. Tại sao? Bởi vì trong thời đó vào lúc gần sáng ngài quan sát thế gian nhìn thấy rằng: ngày hôm nay Māgaṇḍiya (sẽ) đi đến đây, khi nhìn thấy tấm thảm được làm bằng cỏ này sẽ có cuộc trò chuyện trao đổi liên quan đến tấm thảm trải bằng cỏ với Bà-la-môn Bhāradvāja. Từ đó ta sẽ đến thuyết giảng Giáo Pháp, Bà-la-môn Māgaṇḍiya nghe thuyết Pháp, sau khi xuất gia ở trong trú xứ của ta sẽ chứng đắc A-ra-hán. Thật vậy, ta thực hành Ba-la-mật cũng chỉ vì mục đích tiếp độ người khác” mới cho trải tấm thảm trải bằng cỏ rồi đi.

samaṇaseyyānurūpaṃ maññeti imaṃ tiṇasanthārakaṃ “samaṇassa anucchavikā seyyā”ti maññāmi. na ca asaññatasamaṇassa nivutthaṭṭhānametaṃ. tathāhettha hatthena ākaḍḍhitaṭṭhānaṃ vā pādena ākaḍḍhitaṭṭhānaṃ vā sīsena pahaṭaṭṭhānaṃ vā na paññāyati, anākulo anākiṇṇo abhinno P.3.211 chekena cittakārena tūlikāya paricchinditvā paññatto viya. saññatasamaṇassa vasitaṭṭhānaṃ, kassa bho vasitaṭṭhānanti pucchati. bhūnahunoti hatavaḍḍhino mariyādakārakassa. kasmā evamāha? chasu dvāresu vaḍḍhipaññāpanaladdhikattā. ayañhi tassa laddhi — cakkhu brūhetabbaṃ vaḍḍhetabbaṃ, adiṭṭhaṃ dakkhitabbaṃ, diṭṭhaṃ samatikkamitabbaṃ. sotaṃ brūhetabbaṃ vaḍḍhetabbaṃ, asutaṃ V.3.152 sotabbaṃ, sutaṃ samatikkamitabbaṃ. ghānaṃ brūhetabbaṃ vaḍḍhetabbaṃ, aghāyitaṃ ghāyitabbaṃ, ghāyitaṃ samatikkamitabbaṃ. jivhā brūhetabbā vaḍḍhetabbā, assāyitaṃ sāyitabbaṃ, sāyitaṃ samatikkamitabbaṃ. kāyo brūhetabbo vaḍḍhetabbo, aphuṭṭhaṃ phusitabbaṃ, phuṭṭhaṃ samatikkamitabbaṃ. mano brūhetabbo vaḍḍhetabbo, aviññātaṃ vijānitabbaṃ, viññātaṃ samatikkamitabbaṃ. evaṃ so chasu dvāresu vaḍḍhiṃ paññapeti. bhagavā pana —

samaṇaseyyānurūpaṃ maññe (hình như là chỗ nằm ngủ của một Sa-môn?) tôi tưởng tấm thảm trải bằng cỏ này “là chỗ nằm thích hợp của Sa-môn”. Hơn nữa, tấm thảm trải bằng cỏ này không phải chỗ ở của Sa-môn, vị đã không thu thúc. Sự thật là như vậy, tấm thảm trải bằng cỏ này không có dấu tay nắm, không có dấu của cái đầu đứa trẻ, không có dấu chân giẫm. Tấm thảm trải bằng cỏ này không lộn xộn, không bị nghiền nát, không bị hủy hoại tựa như người họa sĩ tài giỏi dùng cây cọ để vẽ, trải ra có thể là chỗ ở của Sa-môn vị đã thu thúc. Bà-la-môn Māgaṇḍiya mới hỏi rằng: thưa ngài chỗ ở này của ai? Bhūnahuno (một vị phá hoại sự sống): người đặt ra giới hạn làm tổn hại sự phát triển. Tại sao Māgaṇḍiya nói như thế? bởi vị ấy có học thuyết rằng làm cho sự tăng trưởng hiện hữu trong 6 môn. Đây là học thuyết của vị ấy – nhãn cần phải làm cho hoàn hảo, cần phải làm cho tăng trưởng, nên nhìn sắc chưa từng thấy, sắc đã nhìn thấy cần vượt qua. Nhĩ cần phải làm cho hoàn hảo, cần phải làm cho tăng trưởng, nên nghe âm thanh chưa từng nghe, âm thanh đã nghe cần phải vượt qua. Tỹ cần phải làm cho hoàn hảo, cần phải làm cho tăng trưởng, cần ngửi hương chưa từng ngửi, hương đã ngửi cần vượt qua. Thiệt cần phải làm cho hoàn hảo, cần phải làm cho tăng trưởng, cần nếm vị chưa từng nếm, vị đã từng nếm cần phải vượt qua. Thân cần phải làm cho hoàn hảo, cần phải làm cho tăng trưởng, cần xúc chạm cảnh xúc chưa từng xúc chạm, cảnh xúc đã xúc chạm cần vượt qua. Ý cần phải làm cho hoàn hảo, cần phải làm cho tăng trưởng, cần nhận biết Pháp chưa từng biết, Pháp đã nhận biết cần phải vượt qua. Māgaṇḍiya chế định sự tăng trưởng trong 6 môn như vậy, nhưng đức Thế Tôn lại chế định sự thu thúc trong 6 môn rằng:

“cakkhunā saṃvaro sādhu, sādhu sotena saṃvaro.

ghānena saṃvaro sādhu, sādhu jivhāya saṃvaro.

kāyena saṃvaro sādhu, sādhu vācāya saṃvaro.

manasā saṃvaro sādhu, sādhu sabbattha saṃvaro.

sabbattha saṃvuto bhikkhu, sabbadukkhā pamuccatī”ti. (dha. pa. 360-361) —

Lành thay sự phòng hộ nhãn, lành thay sự phòng hộ nhĩ,

lành thay sự phòng hộ tỹ, lành thay sự phòng hộ thiệt,

lành thay sự phòng hộ thân, lành thay sự phòng hộ lời

lành thay sự phòng hộ ý, lành thay sự phòng hộ tất cả.  (dha. pa. 360-361) —

chasu M.3.148 dvāresu saṃvaraṃ paññapeti. tasmā so “vaḍḍhihato samaṇo gotamo mariyādakārako”ti maññamāno “bhūnahuno”ti āha.

Bởi thế, Bà-la-môn Māgaṇḍiya nghĩ rằng: “Sa-môn Gotama là người đã phá hoại sự tăng trưởng” là người đã đặt ra ranh giới nên mới nói rằng ‘vị đã phá hoại sự sống’.

ariye ñāye dhamme kusaleti parisuddhe kāraṇadhamme anavajje. iminā kiṃ dasseti? evarūpassa nāma uggatassa paññātassa yasassino upari vācaṃ bhāsamānena vīmaṃsitvā upadhāretvā mukhe ārakkhaṃ ṭhapetvā bhāsitabbo P.3.212 hoti. tasmā mā sahasā abhāsi, mukhe ārakkhaṃ ṭhapehīti dasseti. evañhi no sutte ocaratīti yasmā amhākaṃ sutte evaṃ āgacchati, na mayaṃ mukhāruḷhicchāmattaṃ vadāma, sutte ca nāma āgataṃ vadamānā kassa bhāyeyyāma, tasmā sammukhāpi naṃ vadeyyāmāti attho. appossukkoti mama rakkhanatthāya anussukko avāvaṭo hutvāti attho. vuttova naṃ vadeyyāti mayā vuttova hutvā apucchitova kathaṃ samuṭṭhāpetvā ambajambūādīni gahetvā viya apūrayamāno mayā kathitaniyāmena bhavaṃ bhāradvājo vadeyya, vadassūti attho.

Ariye ñāye dhamme kusale (trong Pháp có nhân thanh tịnh, và không có lỗi lầm): trong nhân trong Pháp thanh tịnh không có lỗi lầm. Câu này trình bày điều gì? Người sẽ nói lời nói cùng người có danh vọng có địa vị cao cả được biết đến khắp nơi bằng hình thức như vậy, cần phải cân nhắc suy xét, không nên nói bằng sự không chú ý đến cái miệng. Vì thế, Bà-la-môn Bhāradvāja Gotta trình bày rằng: ngài đừng nói lặp đi lặp lại nhiều lần, ngài hãy cẩn trọng cái miệng. Evañhi no sutte ocarati (Lời nói như vậy được truyền lại trong thánh điển của chúng tôi): Bởi vì lời nói như vậy được truyền lại trong thánh điển của chúng tôi. Chúng tôi không nói dù chỉ mong muốn đưa lên miệng. Hơn nữa, chúng tôi khi nói lời nói có trong thánh điển mới có thể nói cùng tôi. Vì thế, ta sẽ nói trước mặt Sa-môn Gotama ấy. Appossukko (người ít nỗ lực): Không có nhiệt huyết, không lo lắng để bảo vệ tôi. vuttova naṃ vadeyya (tôi đã nói rồi cũng nên nói cùng Sa-môn Gotama ấy): này Bhāradvāja dầu ta đã nói, thậm chí không bị hỏi cũng tự nói lên lời cần nói, hãy nói cùng Sa-môn Gotama theo cách mà tôi đã nói không cần nói thêm, giống như người cầm lấy quả xoài và quả mận v.v, để bỏ vào rổ cho đầy.

208. assosi V.3.153 khoti satthā ālokaṃ vaḍḍhetvā dibbacakkhunā māgaṇḍiyaṃ tattha āgataṃ addasa, dvinnaṃ janānaṃ bhāsamānānaṃ dibbasotena saddampi assosi. paṭisallānā vuṭṭhitoti phalasamāpattiyā vuṭṭhito. saṃviggoti pītisaṃvegena saṃviggo calito kampito. tassa kira etadahosi — “neva māgaṇḍiyena samaṇassa gotamassa ārocitaṃ, na mayā. amhe muñcitvā añño ettha tatiyopi natthi, suto bhavissati amhākaṃ saddo tikhiṇasotena purisenā”ti. athassa abbhantare pīti uppajjitvā navanavutilomakūpasahassāni uddhaggāni akāsi. tena vuttaṃ “saṃviggo lomahaṭṭhajāto”ti. atha P.3.213 kho māgaṇḍiyo paribbājakoti paribbājakassa pabhinnamukhaṃ viya bījaṃ paripākagataṃ ñāṇaṃ, tasmā sannisīdituṃ asakkonto āhiṇḍamāno puna satthu santikaṃ āgantvā ekamantaṃ nisīdi. taṃ dassetuṃ “atha kho māgaṇḍiyo”tiādi vuttaṃ.

208. Assosi kho (đã được lắng nghe): bậc Đạo Sư đã tu tập biến xứ ánh sáng nhìn thấy Bà-la-môn Māgaṇḍiya đã đến ở chỗ đó bằng thiên nhãn, thậm chí đã được nghe lời nói của cả hai người đàm luận với nhau bằng thiên nhĩ. Paṭisallānā vuṭṭhito (đức Thế Tôn đã rồi khỏi từ chỗ thiền tịnh): Ngài đã xuất khỏi sự thể nhập Thánh Quả. Saṃviggo (sự xao động): Bà-là-môn Bhāradvāja động tâm, rung động do sự kích thích của hỷ. Kể rằng Bà-la-môn Bhāradvāja ấy đã có suy nghĩ rằng: “Magaṇḍiya và ta cũng không nói với Sa-môn Gotama, người khác ngoài 2 ta ở chỗ này không có người thứ 3. Người đàn ông có đôi tai thính chắc sẽ nghe được lời nói của hai chúng ta. Tiếp đó Bà-la-môn Bhāradvāja khởi lên phỉ lạc ở bên trong chín mươi chín nghìn lỗ chân lông. Bởi thế, ngài đã nói rằng “Bà-la-môn Bharadvaja hoảng hốt, lông tóc dựng ngược”. Ở đó, du sĩ Māgaṇḍiya có trí tuệ chín mùi tựa như hạt giống đã tách miệng (nảy mầm), không thể ngồi yên được đi đến gặp bậc Đạo Sư nữa, rồi ngồi ở một bên thích hợp, để thuyết giảng đến Māgaṇḍiya ấy mới nói lời bắt đầu như sau: “khi ấy Māgaṇḍiya…

209. satthā — “evaṃ kira tvaṃ, māgaṇḍiya, maṃ avacā”ti avatvāva cakkhuṃ kho, māgaṇḍiyāti paribbājakassa dhammadesanaṃ ārabhi. tattha vasanaṭṭhānaṭṭhena M.3.149 rūpaṃ cakkhussa ārāmoti cakkhu rūpārāmaṃ. rūpe ratanti rūparataṃ. rūpena cakkhu āmoditaṃ được vui mừng pamoditanti vui thích rūpasamuditaṃ. dantanti nibbisevanaṃ. guttanti gopitaṃ. rakkhitanti ṭhapitarakkhaṃ. saṃvutanti pihitaṃ. saṃvarāyāti pidhānatthāya.

Bậc Đạo Sư – “Kể rằng bậc Đạo Sư không thuyết như vậy, này Māgaṇḍiya, ông đã nói với ta như thế” đã ra sức thuyết giảng Giáo Pháp cùng du sĩ rằng: này Māgaṇḍiya, mắt có sắc là nơi thỏa thích v.v. Ở đây, cakkhu rūpārāmaṃ (mắt có sự thỏa thích ở sắc) do sắc làm nơi ưa thích của mắt với ý nghĩa làm nơi nương nhờ. Rūparataṃ (thỏa thích trong sắc): do mắt hoan hỷ trong sắc. Rūpasamuditaṃ (sắc làm cho thỏa thích)   mắt được hoan hỷ, được vui mừng bởi sắc. Dantaṃ (đã được điều phục): hết mọi sự ngang bướng. Guttaṃ (đã được thu thúc): đã được bảo vệ. Rakkhitaṃ (đã được hộ trì): đã đặt sự gìn giữ. Saṃvutaṃ (đã được thu thúc): đã đóng lại. saṃvarāya (để thu thúc): để đóng lại.

210. paricāritapubboti abhiramitapubbo. rūpapariḷāhanti rūpaṃ ārabbha uppajjanapariḷāhaṃ. imassa pana te, māgaṇḍiya, kimassa vacanīyanti imassa rūpaṃ pariggaṇhitvā arahattappattassa khīṇāsavassa tayā kiṃ vacanaṃ vattabbaṃ assa, vuḍḍhihato mariyādakārakoti idaṃ vattabbaṃ, na vattabbanti pucchati. na kiñci, bho gotamāti, bho gotama, kiñci vattabbaṃ natthi. sesadvāresupi eseva nayo.

210. Paricāritapubbo (trước kia từng được chăm sóc): đã từng nói lời thân thiện. Rūpapariḷāhaṃ (thiêu đốt bởi sắc): sự thiêu đốt khởi sanh do liên quan đến sắc. imassa pana te, māgaṇḍiya, kimassa vacanīyaṃ (này Māgaṇḍiya, ông có thể nói điều gì cùng vị này): ông có thể nói lời gì cùng bậc lậu tận này, vị đã định rõ sắc, chứng đắc A-ra-hán. (hỏi) nên nói rằng: Sa-môn Gotama là vị đã phá hủy sự phát triển, là vị đã đặt ra ranh giới như vậy hoặc không nên nói? na kiñci, bho gotama (kính thưa ngài Gotama, không nên nói lời bất cứ lời gì): kính thưa ngài Gotama, không nên nói lời bất cứ lời gì. Kể cả những Môn còn lại cũng có cách thức tương tự.

211. idāni yasmā tayā pañcakkhandhe pariggahetvā arahattappattassa khīṇāsavassa kiñci vattabbaṃ natthi, ahañca pañcakkhandhe pariggahetvā P.3.214 sabbaññutaṃ patto, tasmā ahampi te na kiñci vattabboti dassetuṃ ahaṃ kho panātiādimāha. tassa mayhaṃ māgaṇḍiyāti gihikāle attano sampattiṃ dassento āha. tattha vassikotiādīsu yattha sukhaṃ hoti vassakāle V.3.154 vasituṃ, ayaṃ vassiko. itaresupi eseva nayo. ayaṃ panettha vacanattho — vassaṃ vāso vassaṃ, vassaṃ arahatīti vassiko. itaresupi eseva nayo.

211. Bây giờ, do đức Thế Tôn khi trình bày rằng không có bất cứ lời gì mà ngài cần nói cùng bậc lậu tận, vị đã xác định rõ năm uẩn rồi chứng đắc A-ra-hán và ta cũng xác định rõ năm uẩn rồi chứng đắc Toàn giác trí. Vì thế, Māgaṇḍiya ấy nên nói điều gì cùng ta, như thế đã nói rằng “ahaṃ kho panā (khi ta vẫn còn là tại gia)”. Tassa mayhaṃ māgaṇḍiya (này Māgaṇḍiya, tòa lâu đài của ta ấy): đức Thế Tôn trong khi chỉ ra tài sản của ngài trong khi còn là cư sĩ đã nói (như vậy). Ở đây, câu bắt đầu bằng vassiko (chỗ ở dành cho mùa mưa): sự an lạc có mặt trong chỗ ở dành cho mùa mưa, tức là lâu đài dành cho mùa mưa. Ngay cả những từ còn lại cũng có cách thức tương tự. Nhưng trong câu này có lời giải thích như sau – gọi là chỗ ở dành cho mùa mưa bởi có thể an trú suốt mùa mưa. Kể cả từ còn lại ngoài ra cũng có cách thức tương tự.

tattha vassiko pāsādo nātiucco hoti nātinīco, dvāravātapānānipissa nātitanūni nātibahūni, bhūmattharaṇapaccattharaṇakhajjabhojjānipettha missakāneva vaṭṭanti. hemantike thambhāpi bhittiyopi nīcā honti, dvāravātapānāni tanukāni sukhumacchiddāni. uṇhapavesanatthāya bhittiniyūhāni nīharīyanti. bhūmattharaṇapaccattharaṇanivāsanapārupanāni panettha uṇhavīriyāni kambalādīni vaṭṭanti. khajjabhojjaṃ siniddhaṃ kaṭukasannissitañca. gimhike thambhāpi bhittiyopi uccā honti. dvāravātapānāni panettha bahūni vipulajālāni bhavanti. bhūmattharaṇādīni dukūlamayāni vaṭṭanti, khajjabhojjāni madhurarasasītavīriyāni. vātapānasamīpesu cettha nava cāṭiyo ṭhapetvā udakassa pūretvā nīluppalādīhi sañchādenti. tesu tesu padesesu udakayantāni M.3.150 karonti, yehi deve vassante viya udakadhārā nikkhamanti.

Trong ba tòa lâu đài đó, lâu đài dành cho mùa mưa, không quá cao và cũng không quá thấp. Ngay cả cửa chính và cửa sổ của tòa lâu đài ấy, cũng không quá ít và cũng không quá nhiều. Tấm trải sàn nhà, vật thực cứng vật thực mềm trong tòa lâu đài này có nhiều hơn mức đủ. Ở trong tòa lâu đài dành cho mùa đông, cột trụ, hay vách tường thấp. Có ít cửa lớn và cửa sổ, có khoảng không nhỏ. Lấy khoảng trống bức tưởng nhằm mục đích cho hơi ấm đi vào. Hơn nữa, trong lâu đài này, tấm thảm trải sàn, chăn ga gối đệm và y phục mặc thích hợp đều được làm bằng vải len v.v, giúp giữ ấm. Thức ăn loại cứng và thức ăn loại mền dễ tiêu hóa và có hương vị đậm đà. Trong lâu đài dành cho mùa hè, cột trụ, hay vách tường cao. Có nhiều của lớn và cửa sổ, có ánh sáng xung quanh. Tấm trải sàn v.v, thích hợp, loại vải có chất liệu tốt. Vật thực cứng và vật thực mềm có vị ngọt để tạo ra sự mát mẽ. Hơn nữa, ở gần cửa sổ trong tòa lâu đài này được đặt 9 hồ nước chứa đầy nước, trồng hoa sen xanh v.v, một vài chỗ khác tại nơi đó vị ấy cho xây dựng đài phun nước, dòng nước sẽ phun ra tựa như mưa rơi xuống.

bodhisattassa pana aṭṭhasatasuvaṇṇaghaṭe ca rajataghaṭe ca gandhodakassa pūretvā nīluppalagacchake katvā sayanaṃ parivāretvā ṭhapayiṃsu. mahantesu lohakaṭāhesu P.3.215 gandhakalalaṃ pūretvā nīluppalapadumapuṇḍarīkāni ropetvā utuggahaṇatthāya tattha tattha ṭhapesuṃ. sūriyarasmīhi pupphāni pupphanti. nānāvidhā bhamaragaṇā pāsādaṃ pavisitvā pupphesu rasaṃ gaṇhantā vicaranti. pāsādo atisugandho hoti. yamakabhittiyā antare lohanāḷiṃ ṭhapetvā navabhūmikapāsādassa upari ākāsaṅgaṇe ratanamaṇḍapamatthake sukhumacchiddakaṃ jālaṃ baddhaṃ ahosi. ekasmiṃ ṭhāne sukkhamahiṃsacammaṃ pasāreti. bodhisattassa udakakīḷanavelāya mahiṃsacamme pāsāṇaguḷe khipanti, meghathanitasaddo viya hoti. heṭṭhā yantaṃ parivattenti, udakaṃ abhiruhitvā jālamatthake patati, vassapatanasalilaṃ viya hoti. tadā bodhisatto nīlapaṭaṃ nivāseti, nīlapaṭaṃ pārupati, nīlapasādhanaṃ pasādheti. parivārāpissa cattālīsanāṭakasahassāni nīlavatthābharaṇāneva nīlavilepanāni hutvā mahāpurisaṃ parivāretvā ratanamaṇḍapaṃ gacchanti. divasabhāgaṃ udakakīḷaṃ kīḷanto sītalaṃ utusukhaṃ anubhoti.

Nhưng của Bồ-tát lại cho trồng một bụi sen xanh trong chậu vàng, và chậu bạc, mỗi loại có một trăm lẻ tám chậu đựng đầy với nước thơm đặt xung quanh phòng ngủ. Vị ấy đổ đất bùn thơm vào một chiếc chậu bằng kim loại lớn để trồng hoa sen xanh, sen đỏ, sen trắng, v.v. được đặt ở nơi đó, để bắt lấy thời tiết. Tất cả hoa sen nở theo tia nắng của ánh mặt trời. Nhiều loại ong vò vẽ bay vào lâu đài để ngửi hương thơm của các loài hoa. Lâu đài có mùi hương cực kỳ quyến rũ. Giữa các bức tường đôi được đặt một cái chảo kim loại được đốt bằng ngọn lửa nhỏ, căng tấm lưới có nhiều lỗ trống đặt ở phía trên mái che bằng ngọc, ở trên không trung phía trên toà lâu đài chín tầng, căng tấm da trâu khô đặt một nơi. Khi Bồ-tát chơi đùa trong nước, ngài ném những viên bi lên tấm da trâu, tạo ra âm thanh như tiếng sấm chớp, cộng cơ quay nằm ở phía dưới dẫn nước bắn lên và rơi về phía ngọn lửa tựa như mưa rơi. Lúc bấy giờ Bồ-tát quấn y xanh, choàng tấm vải xanh trang điểm bằng đồ trang sức màu xanh. Ngay cả đoàn tùy tùng của Bồ-tát có bốn mươi ngàn vũ công cũng được trang sức bằng màu xanh, tranh điểm bằng màu xanh, vây quanh bậc Đại Nhân và đi đến mái che bằng ngọc. Bồ Tát vui chơi dưới nước suốt ngày, tận hưởng sự an lạc trong mùa khô của sự mát mẻ.

pāsādassa catūsu disāsu cattāro sarā honti. divākāle nānāvaṇṇasakuṇagaṇā pācīnasarato V.3.155 vuṭṭhāya viravamānā pāsādamatthakena pacchimasaraṃ gacchanti. pacchimasarato vuṭṭhāya pācīnasaraṃ, uttarasarato dakkhiṇasaraṃ, dakkhiṇasarato uttarasaraṃ gacchanti, antaravassasamayo viya hoti. hemantikapāsādo pana pañcabhūmiko ahosi, vassikapāsādo sattabhūmiko.

Ở bốn hướng của lâu đài có bốn cái hồ. Vào ban ngày có nhiều đàn chim đủ loại bay ra khỏi hồ nước ở phía Đông cất tiếng kêu uyên náo. Bay đến hồ nước ở phía Tây trên đỉnh lâu đài. Rời khỏi hồ nước phía Tây và bay đến hồ nước phía Đông. Rời khỏi hồ nước ở phía Bắc và bay đến hồ nước ở phía nam. Rời khỏi ao phía Nam và bay đến hồ nước ở phía Bắc, cũng giống như trong giai đoạn mùa mưa. Nhưng lâu đài này là chỗ cư ngụ vào mùa Đông và có 5 tầng, lâu đài là nơi cư ngự vào mùa mưa có 7 tầng.

nippurisehīti purisavirahitehi. na kevalañcettha tūriyāneva nippurisāni, sabbaṭṭhānānipi nippurisāneva P.3.216. dovārikāpi itthiyova, nhāpanādiparikammakarāpi itthiyova. rājā kira — “tathārūpaṃ issariyasukhasampattiṃ anubhavamānassa purisaṃ disvā parisaṅkā uppajjati, sā me puttassa M.3.151 mā ahosī”ti sabbakiccesu itthiyova ṭhapesi. tāya ratiyā ramamānoti idaṃ catutthajjhānikaphalasamāpattiratiṃ sandhāya vuttaṃ.

nippurisehi (không có người nam): là không có người nam. Lại nữa, không phải chỉ dụng cụ mà không có người nam lẫn lộn, dù ở mọi chỗ (trong tòa lâu đài) cũng không có người nam tương tự. Ngay cả người gác cửa cũng là người nữ. Thậm chí người hầu cận phục vụ chẳng hạn như tắm gội v.v, cũng là người nữ. Được biết rằng đức vua sắp đặt nhóm người nữ làm mọi phận sự bởi suy nghĩ rằng: “Khi Bồ-tát tận hưởng sự thành tựu về quyền thế và sự thành tựu lợi lạc bằng hình thức như thế, sẽ khởi lên sự nghi ngờ sau khi nhìn thấy nam nhân, sự nghi ngờ ấy đừng có nơi Hoàng tử con trai của ta.” tāya ratiyā ramamāno (trong khi hoan hỷ với sự hoan hỷ ấy): Ngài nói liên quan đến sự hoan hỷ của sự thể nhập Thánh Quả phối hợp với tầng thiền thứ Tư.

212. gahapati vā gahapatiputto vāti ettha yasmā khattiyānaṃ setacchattasmiṃyeva patthanā hoti, mahā ca nesaṃ papañco, brāhmaṇā mantehi atittā mante gavesantā vicaranti, gahapatino pana muddāgaṇanamattaṃ uggahitakālato paṭṭhāya sampattiṃyeva anubhavanti, tasmā khattiyabrāhmaṇe aggahetvā “gahapati vā gahapatiputto vā”ti āha. āvaṭṭeyyāti mānusakakāmahetu āvaṭṭo bhaveyyāti attho. abhikkantatarāti visiṭṭhatarā. paṇītatarāti atappakatarā. vuttampi cetaṃ —

212. gahapati vā gahapatiputto vā (một gia chủ hay con một người gia chủ): ở đây bởi vì tất cả các Sát-đế-lỵ đều có sự mong muốn một cây lọng trắng. Sự mong muốn lớn lao là sự trễ nãi của những Sát-đế-lỵ ấy. Các Bà-la-môn không cảm thấy no đủ với các chú thuật mới đi lang thang tầm cầu chú thuật, còn các gia chủ tìm kiếm tài sản ngay lập tức sau khi kết thúc thời gian học tập tính toán nâng cao, vì thế đức Thế Tôn không lấy Sát-đế-lỵ và Bà-la-môn mới thuyết rằng “một gia chủ hay con một người gia chủ”. Āvaṭṭeyya (có thể trở lui): có thể quay trở lại. Có thể quay trở lại bởi nguyên nhân của thọ hưởng các dục của loại người. Abhikkantatarā (ưu thế hơn): thù thắng hơn. Paṇītatarā (ngon ngọt hơn): không ít hơn. Và điều này như đã được nói –

“kusaggenudakamādāya, samudde udakaṃ mine.

evaṃ mānusakā kāmā, dibbakāmāna santike”ti. (jā. 2.21.389) —

samadhigayha tiṭṭhatīti dibbasukhaṃ gaṇhitvā tato visiṭṭhatarā hutvā tiṭṭhati.

các dục thuộc loài người khi được so sánh như vậy ở bên cạnh các dục ở Thiên giới, cũng giống như lấy giọt nước ở đầu cọng cỏ rồi đo lường lượng nước ở đại dương. (jā. 2.21.389) —

samadhigayha tiṭṭhati (vượt qua sự an lạc của thiên giới, được an trú): nắm lấy sự an lạc của thiên giới tối thượng hơn đó được vững trú.

opammasaṃsandanaṃ panettha evaṃ veditabbaṃ — gahapatissa pañcahi kāmaguṇehi samaṅgībhūtakālo viya bodhisattassa tīsu pāsādesu cattālīsasahassaitthimajjhe modanakālo, tassa sucaritaṃ pūretvā sagge nibbattakālo viya bodhisattassa abhinikkhamanaṃ katvā bodhipallaṅke sabbaññutaṃ paṭividdhakālo P.3.217, tassa nandanavane sampattiṃ anubhavanakālo viya tathāgatassa catutthajjhānikaphalasamāpattiratiyā vītivattanakālo, tassa mānusakānaṃ pañcannaṃ kāmaguṇānaṃ V.3.156 apatthanakālo viya tathāgatassa catutthajjhānikaphalasamāpattiratiyā vītināmentassa hīnajanasukhassa apatthanakāloti.

Hơn nữa, nên hiểu ví dụ so sánh trong câu đó như sau: thời gian vui vẻ ở giữa bốn nghìn phụ nữ trong ba tòa lâu đài của đức Bồ-tát tựa như thời gian hội tụ đầy đủ với năm loại dục lạc của người tại gia cư sĩ ấy. Thời gian mà đức Thế Tôn xuất gia rồi thấu triệt Toàn giác trí ở dưới cội Bồ-đề tựa như thời gian người cư sĩ ấy thực hành thiện hạnh hóa sanh vào thiên giới. Lúc đấng Như Lai làm cho thời gian trôi qua với sự hoan hỷ trong sự thể nhập Thánh Quả diễn tiến trong tầng thiền thứ 4, tựa như thời gian người cư sĩ sự thành tựu ở vườn Nandana. Lúc đấng Như Lai làm cho thời gian trôi qua với sự hoan hỷ trong sự thể nhập Thánh Quả được diễn tiến ở tầng thiền thứ 4 không mong muốn sự an lạc của loài người thấp kém tựa như thời gian người cư sĩ ấy không mong muốn năm loại dục lạc của loài người.

213. sukhīti paṭhamaṃ dukkhito pacchā sukhito assa. serīti paṭhamaṃ vejjadutiyako pacchā serī ekako bhaveyya. sayaṃvasīti paṭhamaṃ vejjassa vase vattamāno vejjena nisīdāti vutte nisīdi, nipajjāti vutte nipajji, bhuñjāti vutte bhuñji, pivāti vutte pivi, pacchā sayaṃvasī jāto. yena kāmaṃ M.3.152 gamoti paṭhamaṃ icchiticchitaṭṭhānaṃ gantuṃ nālattha, pacchā roge vūpasante vanadassana-giridassana-pabbatadassanādīsupi yenakāmaṃ gamo jāto, yattha yattheva gantuṃ icchati, tattha tattheva gaccheyya.

Sukhī (có sự an lạc): lãnh chịu khổ đau trước, sau đó có thể có sự an lạc. Serī (có sự tự do): có thầy thuốc (điều trị bệnh) trước, sau đó có thể trở thành một người có sự tự do. Sayaṃvasī (có sức mạnh trong chính bản thân): sống dưới quyền lực của thầy thuốc trước, khi thầy thuốc nói rằng hãy ngồi (vị ấy) liền ngồi, nói rằng hãy nằm (vị ấy) liền nằm, nói rằng  hãy ăn (vị ấy) liền ăn, nói rằng hãy uống (vị ấy) liền uống, sau đó có quyền lực ở chính mình. yena kāmaṃ gamo (có thể đi chỗ nào người ấy muốn): trước đó không thể đi đến nơi mà bản thân muốn được, nhưng sau khi hết bệnh rồi có thể đi đến chỗ nào tùy theo ý muốn, kể cả việc ngắm nhìn rừng, ngắm nhìn hang động và ngắm nhìn đồi núi v.v, có thể đi đến chỗ nơi vị ấy muốn đi.

etthāpi idaṃ opammasaṃsandanaṃ — purisassa kuṭṭhikālo viya hi bodhisattassa agāramajjhe vasanakālo, aṅgārakapallaṃ viya ekaṃ kāmavatthu, dve kapallāni viya dve vatthūni, sakkassa pana devarañño aḍḍhateyyakoṭiyāni aṅgārakapallāni viya aḍḍhatiyanāṭakakoṭiyo, nakhehi vaṇamukhāni tacchetvā aṅgārakapalle paritāpanaṃ viya vatthupaṭisevanaṃ, bhesajjaṃ āgamma arogakālo viya kāmesu ādīnavaṃ nekkhamme ca ānisaṃsaṃ disvā nikkhamma buddhabhūtakāle catutthajjhānikaphalasamāpattiratiyā vītivattanakālo, aññaṃ kuṭṭhipurisaṃ disvā apatthanakālo viya tāya ratiyā vītināmentassa hīnajanaratiyā apatthanakāloti.

Trong câu đó có ví dụ so sánh như sau – thời gian đức Bồ-tát cư ngụ giữa tòa lâu đài tựa như thời gian người bị bệnh cùi. Một loại vật dục cũng tựa như một lò than. Hai loại vật dục cũng tựa như 2 lò than, vũ công của Vua chuyển luân 3 koṭị rưỡi cũng tựa như 3 koṭi rưỡi lò than. Việc hưởng thụ các vật dục tựa như lấy móng tay gãi vào vết thương rồi bôi lên viên gạch đặt trong lò than. Thời gian mà đức Bồ-tát nhìn thấy lỗi lầm trong các dục (và) nhìn thấy lợi ích trong việc xuất ly rồi đi xuất gia trở thành đức Phật. Và lúc đấng Như Lai để thời gian trôi qua với việc hoan hỷ trong sự thể nhập Thánh Quả được diễn tiến trong tầng Thiền thứ 4 tựa như thời gian bệnh cùi y cứ vào thuốc men để chữa khỏi bệnh. Lúc đấng Như Lai để thời gian với sự hoan hỷ ấy không mong muốn sự an lạc thấp kém của loài người tựa như thời gian nhìn thấy người bị bệnh cùi khác không mong muốn nhìn thấy nữa.

214. upahatindriyoti P.3.218 kimirakuṭṭhena nāma upahatakāyappasādo. upahatindriyāti upahatapaññindriyā. te yathā so upahatakāyindriyo kuṭṭhī dukkhasamphassasmiṃyeva aggismiṃ sukhamiti viparītasaññaṃ paccalattha, evaṃ paññindriyassa upahatattā dukkhasamphassesveva kāmesu sukhamiti viparītasaññaṃ paccalatthuṃ.

214. Upahatindriyo (có giác quan bị hư hoại): gọi là có sắc thần kinh thân bị hư hại bởi bệnh cùi lây nhiễm. Upahatindriyā (có quyền bị hư hoại): có tuệ quyền bị hư hoại. Tất cả chúng sanh ấy do tuệ quyền bị hư hoại trở lại với sự tưởng tượng sai trái trong các dục bị xúc chạm bởi khổ đau cho rằng là an lạc, giống như người bệnh cùi ấy có thân quyền bị bệnh trừ khử, trở lại tưởng tượng sai lầm trong ngọn lửa có xúc chạm là khổ cho là lạc.

215. asucitarāni cevātiādīsu pakatiyāva tāni asucīni ca duggandhāni ca pūtīni ca, idāni pana asucitarāni ceva duggandhatarāni ca pūtitarāni ca honti. kācīti tassa hi paritāpentassa ca kaṇḍūvantassa ca pāṇakā anto pavisanti, duṭṭhalohitaduṭṭhapubbā paggharanti. evamassa kāci assādamattā hoti.

215. Asucitarāni ceva (càng không sạch sẽ v.v,): theo lẽ thường những vết thương ấy không sạch sẽ có mùi hôi thối và thối rữa, từ bây giờ lại càng không sạch sẽ, càng lại có mùi hôi thối và thối rữa hơn nữa. Kācī (một lát sau): các con dòi xâm nhập vào bên trong vết thương bị bỏng và chỗ gãi, mũ và máu ghê tởm rỉ ra, vết thương như thế có đáng thích thú một chút ít nào chăng.

ārogyaparamāti V.3.157 gāthāya ye keci dhanalābhā vā yasalābhā vā puttalābhā vā atthi, ārogyaṃ tesaṃ paramaṃ uttamaṃ, natthi tato uttaritaro lābhoti, ārogyaparamā lābhā. yaṃkiñci jhānasukhaṃ vā maggasukhaṃ vā phalasukhaṃ vā atthi, nibbānaṃ tattha paramaṃ, natthi tato uttaritaraṃ sukhanti nibbānaṃ paramaṃ sukhaṃ. aṭṭhaṅgiko maggānanti pubbabhāgamaggānaṃ pubbabhāgagamaneneva amatagāmīnaṃ aṭṭhaṅgiko khemo, natthi tato khemataro M.3.153 añño maggo. atha vā khemaṃ amatagāminanti ettha khemantipi amatantipi nibbānasseva nāmaṃ. yāvatā puthusamaṇabrāhmaṇā parappavādā khemagāmino ca amatagāmino cāti laddhivasena gahitā, sabbesaṃ tesaṃ khemāmatagāmīnaṃ maggānaṃ aṭṭhaṅgiko paramo uttamoti ayamettha attho.

 Ārogyaparamā (tính chất không có bệnh là lợi đắc tối thượng): việc đạt được tài sản, hay việc đạt được danh vọng, hay việc có được con cái, bất kỳ điều nào sự không có bệnh là lợi đắc tối thượng hơn các lợi đắc đó. Không có lợi đắc nào tối thượng hơn sự không có bệnh, bởi thế sự không cso bệnh là lợi đắc tối thượng. Lạc sanh lên từ thiền, hay lạc sanh lên từ Đạo, hay lạc sanh lên từ Quả, bắt cứ điều nào tồn tại, trong số các lạc đó thì Nibbāna là lạc tối thượng. Không có lạc nào khác tối thượng hơn lạc Nibbāna, bởi thế Nibbāna là lạc tối thượng. Aṭṭhaṅgiko maggānaṃ (trong số các Đạo lộ … Đạo lộ có 8 chi phần): Trong số tất cả các Đạo lộ đưa đến Pháp bất tử bằng việc đi đó là phần sơ khởi, đến Đạo lộ đó là phần đầu tất cả Đạo lộ có 8 chi phần là Đạo lộ an lạc, không có Đạo lộ nào khác an lạc hơn Đạo lộ có 8 chi phần. Hơn nữa khemaṃ (an ổn) cũng là từ amataṃ (bất tử) trong cụm từ khemaṃ amataṃ (an ổn và bất tử) này chính là tên gọi của Nibbāna. Trong câu này có ý nghĩa rằng đã số Sa-môn và Bà-là-môn đã nói phản đối, nắm lấy với học thuyết rằng Đạo lộ là Đạo lộ an ổn, và Đạo lộ đưa đến Pháp bất tử, Đạo lộ có 8 chi phần là Đạo lộ tối thượng là cao thượng hơn các Đạo lộ, tất bộ là Đạo lộ an ổn và là Đạo lộ bất tử

216. ācariyapācariyānanti ācariyānañceva ācariyācariyānañca. sametīti P.3.219 ekanāḷiyā mitaṃ viya ekatulāya tulitaṃ viya sadisaṃ hoti ninnānākaraṇaṃ. anomajjatīti pāṇiṃ heṭṭhā otārento majjati — “idaṃ taṃ, bho gotama, ārogyaṃ, idaṃ taṃ nibbānan”ti kālena sīsaṃ kālena uraṃ parimajjanto evamāha.

216.  Ācariyapācariyānan (của các vị Tôn sư, đại Tôn sư): của các vị Tôn sư, đại Tôn sư. Sameti (đồng đều): như nhau không khác nhau, giống như đo cùng một thước đo, giống như cân cùng một cái cân. Anomajjati (xoa thân thể): Du sĩ Māgaṇḍiya hạ bàn tay xuống xoa bóp cơ thể – “Kính bạch ngài Gotama, sự vô bênh đó là đây, Nibbāna đó là đây” du sĩ Māgaṇḍaya xoa đầu theo thời gian, xoa bụng theo thời gian mới nói như vậy.

217. chekanti sampannaṃ. sāhuḷicīrenāti kāḷakehi eḷakalomehi katathūlacīrena. saṅkāracoḷakenātipi vadanti. vācaṃ nicchāreyyāti kālena dasāya kālena ante kālena majjhe parimajjanto nicchāreyya, vadeyyāti attho. pubbakehesāti pubbakehi esā. vipassīpi hi bhagavā … pe … kassapopi bhagavā catuparisamajjhe nisinno imaṃ gāthaṃ abhāsi, “atthanissitagāthā”ti mahājano uggaṇhi. satthari parinibbute aparabhāge paribbājakānaṃ antaraṃ paviṭṭhā. te potthakagataṃ katvā padadvayameva rakkhituṃ sakkhiṃsu. tenāha — sā etarahi anupubbena puthujjanagāthāti.

217. Chekaṃ (trong sáng): sāhuḷicīrena (tấm y thô): Tấm y có chất liệu thô được làm bằng lông con cừu đen. Tất cả các tôn sư nói rằng sāhuḷicīrena (tấm y thô) là tấm vải mà họ vứt bở ở đống rác. vācaṃ nicchāreyyā (thốt lên lời nói): thốt lên lời nói xoa ở góc cạnh, ở cuối cùng, ở chính giữa theo thời gian. Pubbakehesā tách từ thành pubbakehi esā (câu kệ này trong thời quá khứ). Đức Phật Vipassī … đức Phật Kassapa ngồi giữa tứ chúng đã thuyết kệ ngôn này, kệ ngôn y cứ vào lợi ích, vì thế đại chúng mới được học tập. Trong khi bậc Đạo Sư viên tịch Nibbāna, sau đó các kệ ngộn mới đi xuất hiện ở trong thánh điển của nhóm du sĩ ngoại đạo. Những du sĩ ngoại đó được ghi lại trên lá cọ chỉ có hai câu mà thôi. Bởi thế đức Thế Tôn mới thuyết rằng: kệ ngôn đó, bây giờ được dần dần lan truyển đến những phàm nhân.

218. rogova bhūtoti rogabhūto. sesapadesupi eseva nayo. ariyaṃ cakkhunti parisuddhaṃ vipassanāñāṇañceva maggañāṇañca. pahotīti samattho. bhesajjaṃ kareyyāti uddhaṃvirecanaṃ adhovirecanaṃ añjanañcāti bhesajjaṃ kareyya.

218. Rogabhūto: bản thể bệnh tật. Ngay cả những từ còn lại cũng có cách thức tương tự. ariyaṃ cakkhuṃ (con mắt tối thượng): là Minh sát trí và Đạo trí thanh tịnh. pahoti (vừa đủ): là có thể. bhesajjaṃ kareyya (nên hòa trộn với thuốc trị bệnh): cần phải hòa trộn thuốc men gây nôn mửa ra, thuốc nhuận tràng, thuốc nhỏ mắt, thuốc sắc, v.v.

219. na cakkhūni uppādeyyāti yassa hi antarā pittasemhādipaliveṭhena P.3.220 cakkhupasādo V.3.158 upahato hoti, so chekaṃ vejjaṃ āgamma sappāyabhesajjaṃ sevanto cakkhūni uppādeti nāma. jaccandhassa pana M.3.154 mātukucchiyaṃyeva vinaṭṭhāni, tasmā so na labhati. tena vuttaṃ “na cakkhūni uppādeyyā”ti.

219. na cakkhūni uppādeyya (không thể nhìn thấy được): nhìn không thấy. Thần kinh nhãn của người nào bị cảm giác khó chịu có túi mật và đàm v.v, hủy hoại trong từng giai đoạn. Người đó dựa vào thầy thuốc tài giỏi (hốt thuốc) để uống thuốc cho khỏi bênh mới có thể nhìn thấy được. Nhưng tròng mắt của người mù tử lúc sanh, mắt mù từ trong bụng mẹ, vì thế vị ấy không thể nhìn thấy. Cho nên đức Thế Tôn mới thuyết rằng ‘không thể nhìn thấy được’.

220. dutiyavāre jaccandhoti jātakālato paṭṭhāya pittādipaliveṭhena andho. amusminti tasmiṃ pubbe vutte. amittatopi daheyyāti amitto me ayanti evaṃ amittato ṭhapeyya. dutiyapadepi eseva nayo. iminā cittenāti vaṭṭe anugatacittena. tassa me upādānapaccayāti ekasandhi dvisaṅkhepo paccayākāro kathito, vaṭṭaṃ vibhāvitaṃ.

220. Trong đoạn thứ hai, jaccandho (sanh ra đã mù): mù với sự khó chịu có túi mật v.v, kể từ khi sanh ra, trước kia ngài đã nói rằng amusmiṃ (trong lần đó). amittatopi daheyyā (người ấy có thể xem người kia là kẻ thù): có thể đặt vào với tính chất kẻ thù như vầy: người này là kẻ thù của ta. Trong 2 câu đó có cách thức tương tự nhau. iminā cittenā (bằng tâm này): với tâm dẫn lối vào luân hồi. tassa me upādānapaccayā (do thủ làm duyên, kiếp sống hiện hữu cùng ta): ngài nói đến pháp có điều kiện trợ sanh có 1 liên kết và 2 tóm lược tuyên bố luân hồi được rõ rệt.

221. dhammānudhammanti dhammassa anudhammaṃ anucchavikaṃ paṭipadaṃ. ime rogā gaṇḍā sallāti pañcakkhandhe dasseti. upādānanirodhāti vivaṭṭaṃ dassento āha. sesaṃ sabbattha uttānamevāti.

221. Dhammānudhammaṃ: thực hành đúng Pháp và thuận Pháp. ime rogā gaṇḍā sallā (những bệnh chướng, những ung nhọt là điều này): đức Thế Tôn thuyết về năm uẩn. Đức Thế Tôn khi thuyết đến sự vắng mặt của luân hồi mới thuyết rằng ‘do thủ diệt…’. Từ còn lại ở các câu đều đơn giản.

Giải Thích Kinh Māgaṇḍiya Kết Thúc