Kinh số 41 – Giải Thích Kinh Sāleyyaka
(Sāleyyakasuttavaṇṇanā)Xem Trung Bộ Kinh – Kinh Sāleyyaka
439. evaṃ me sutanti sāleyyakasuttaṃ. tattha kosalesūti kosalā nāma jānapadino rājakumārā. tesaṃ nivāso ekopi janapado ruḷhīsaddena kosalāti vuccati, tasmiṃ kosalesu janapade. porāṇā panāhu — yasmā pubbe mahāpanādaṃ rājakumāraṃ nānānāṭakāni disvā sitamattampi akarontaṃ sutvā rājā āha — “yo mama puttaṃ hasāpeti, sabbālaṅkārena naṃ alaṅkaromī”ti. tato naṅgalānipi chaḍḍetvā mahājanakāye sannipatite manussā sātirekāni sattavassāni nānākīḷikāyo dassetvā naṃ hasāpetuṃ nāsakkhiṃsu. tato P.2.327 sakko devanaṭaṃ pesesi. so dibbanāṭakaṃ dassetvā hasāpesi. atha te manussā attano attano vasanokāsābhimukhā pakkamiṃsu. te paṭipathe mittasuhajjādayo disvā paṭisanthāraṃ karontā, “kacci, bho, kusalaṃ, kacci, bho, kusalan”ti āhaṃsu. tasmā taṃ “kusalaṃ kusalan”ti vacanaṃ upādāya so padeso kosalāti vuccatīti.
439 Kinh Sāleyyaka được bắt đầu như sau: “Tôi đã được nghe như vầy.” Ở đó, ‘trong đất nước Kosala’ trong đất nước của dân chúng xứ Kosala, Kosala là tên gọi của các vương tử có lãnh thổ riêng. Tuy nhiên, chỗ cư ngụ của các vị ấy là chung một xứ sở nên được gọi là tên “Kosala”, trong xứ của của các Kosala đó. Các tại liệu cổ Porāṇā đã nói rằng – do trước đây đức vua đã nghe rằng vương tử Mahāpanāda xem biểu diễn các thể loại hài hước, mặc dầu vậy cũng không hề nở nụ cười (đức vua) mới nói rằng ai làm cho con của trẫm cười trẫm sẽ lấy tất cả đồ trang sức trang điểm cho người ấy. Khi đại chúng vứt bỏ cả cày đến tụ hội, mọi người cùng nhau thể hiện các trò giải trí khác nhau, hơn bảy năm, cũng không thể làm cho vương tử ấy cười được. Sau đó vua trời hóa hiện thân hình ngồ ngộ, vị ấy thể hiện dáng hình buồn cười thần thánh làm cho (vương tử) bậc cười. Tiếp đó mọi người cũng cùng nhau quay trở lại về nơi ở của chính mình, khi gặp nhóm bạn lữ hành đi ngược hướng, bọn họ hỏi thăm rằng ‘tốt đẹp’ chăng? vi thế, do dựa vào lời nói ‘kusalaṃ kusalaṃ (tốt đẹp, tốt đẹp)’ đó mới gọi là ‘Kosala’
cārikaṃ caramānoti aturitacārikaṃ caramāno. mahatā bhikkhusaṅghena saddhinti sataṃ vā sahassaṃ vā satasahassaṃ vāti evaṃ aparicchinnena mahatā bhikkhusaṅghena saddhiṃ. brāhmaṇagāmoti brāhmaṇānaṃ samosaraṇagāmopi brāhmaṇagāmoti vuccati brāhmaṇānaṃ bhogagāmopi. idha samosaraṇagāmo adhippeto. tadavasarīti taṃ avasari, sampattoti attho. vihāro panettha aniyāmito; tasmā tassa avidūre buddhānaṃ anucchaviko eko vanasaṇḍo bhavissati, satthā taṃ vanasaṇḍaṃ gatoti veditabbo. assosunti suṇiṃsu upalabhiṃsu. sotadvārasampattavacananigghosānusārena jāniṃsu. khoti avadhāraṇatthe padapūraṇamatte vā nipāto. tattha V.2.224 avadhāraṇatthena assosuṃyeva M.2.228, na nesaṃ koci savanantarāyo ahosīti ayamattho veditabbo. padapūraṇena byañjanasiliṭṭhatāmattameva.
Cārikaṃ caramāno (Ngài đi du hành): đang đi du hành không vội vã. Mahatā bhikkhusaṅghena saddhiṃ (cùng với hội chúng Tỳ khưu số lượng lớn): Với nhóm Tỳ khưu số lượng lớn không được xác định chính xác như vầy trăm, nghìn, trăm nghìn. Brāhmaṇagāmo (làng Bà-la-môn): ngôi làng cộng đồng của Bà-la-môn được gọi là ngôi làng của Bà-la-môn. Kể cả vật sở hữu của nhóm Bà-la-môn cũng là ngôi làng hội hợp ở nơi này, không phải đề cập đến chỗ ở của Bà-la-môn. tadavasari (đến cư trú ở ngôi làng Bà-la-môn) là cư trú ở nơi đó, muốn ám chỉ đến sự thành tựu. Còn trú xứ không được giới hạn chắc chắn ở chỗ này. Vì thế có thể là một khu rừng rậm phù hợp cùng chư Phật ở gần với ngôi làng của Bà-la-môn đó, nên biết rằng bậc Đạo Sư đã đi đến khu rừng rậm đó. Assosuṃ (đã nghe): đã nghe, đã đi vào, nhận biết được nhờ sự ghi nhớ do âm thanh vọng lại tiếp xúc nhĩ môn. ‘Kho’ là phân từ trong ý nghĩa sự nhấn mạnh, trong ý nghĩa chỉ có ở nơi này mà thôi, hoặc chỉ làm cho câu đầy đủ. Ở đó bởi ý nghĩa sự nhấn mạnh, nên biết giải thích trong câu này như vầy đã được lắng nghe, sự nguy hại của việc lắng nghe bất kỳ điều gì không có được cùng họ. Còn việc làm cho câu được đầy đủ, cũng chỉ làm cho câu có được sự hoàn hảo.
idāni yamatthaṃ assosuṃ, taṃ pakāsetuṃ samaṇo khalu, bho, gotamotiādi vuttaṃ. tattha samitapāpattā samaṇoti veditabbo. khalūti anussavanatthe nipāto. bhoti tesaṃ aññamaññaṃ ālapanamattaṃ. gotamoti bhagavato gottavasena paridīpanaṃ. tasmā samaṇo khalu, bho, gotamoti ettha samaṇo kira, bho, gotamagottoti evamattho daṭṭhabbo. sakyaputtoti idaṃ pana bhagavato uccākulaparidīpanaṃ. sakyakulā pabbajitoti saddhāpabbajitabhāvadīpanaṃ. kenaci pārijuññena anabhibhūto aparikkhīṇaṃyeva taṃ kulaṃ pahāya saddhāpabbajitoti vuttaṃ hoti. tato paraṃ vuttatthameva. taṃ kho panāti itthambhūtākhyānatthe upayogavacanaṃ, tassa kho pana bhoto gotamassāti attho. kalyāṇoti P.2.328 kalyāṇaguṇasamannāgato, seṭṭhoti vuttaṃ hoti. kittisaddoti kittiyeva, thutighoso vā. abbhuggatoti sadevakaṃ lokaṃ ajjhottharitvā uggato. kinti? “itipi so bhagavā … pe … buddho bhagavā”ti.
Bây giờ, khi tuyên thuyết nội dung đã được nghe. Ngài đã nói rằng “Chắc chắn họ nói Sa-môn Gotama…” Nên biết rằng gọi là Sa-môn bởi an tịnh các ác pháp. Khalu là phân từ dùng với ý nghĩa nghe theo. ‘Bho’ là từ kêu gọi lẫn nhau của nhóm đó. ‘Gotama’ là từ để trình bày tên tộc của đức Thế Tôn, trong câu này “Chắc chắn họ nói Sa-môn Gotama…” nên hiểu ý nghĩa như này “chắc chắn Ngài, họ nói với nhau ‘Sa-môn với tên tộc là Gotama.’” Sakyaputto (con trai dòng Sakya): đây là từ để giải thích dòng dõi cao quý của đức Thế Tôn. Sakyakulā pabbajito (đã xuất gia từ dòng dõi Sakya): là từ giảng giải tính chất người xuất gia do đức tin. Có lời nói rằng: “Người không bị chế ngự bởi bất cứ tổn hại nào, dòng dõi không bị mất mát điều gì gọi là xuất gia do đức tin. Từ ngữ từ đó trở đi có tiêu đề đã được nói. taṃ kho pana (cũng như thế): đây là đối cách được đặt trong ý nghĩa itthambhūta (trạng thái như vầy) trọng tâm chính là “Của đức Thế Tôn, bậc thịnh vượng ấy.” kalyāṇo (sự tốt đẹp): có sự hội đủ với đức hạnh tốt đẹp, tức là tối thượng nhất. Danh tiếng đó hoặc tiếng đồn tốt đẹp được gọi là sự lừng danh. Abbhuggato (đã được truyền đi): được lan truyền ở toàn bộ nhân loại, và cả thế giới chư thiên. Nơi như thế nào? “Đức Thế Tôn ấy là bậc A-ra-hán…Phật, Thế Tôn.”
tatrāyaṃ padasambandho — so bhagavā itipi arahaṃ, itipi sammāsambuddho … pe … itipi bhagavāti. iminā ca iminā ca kāraṇenāti vuttaṃ hoti. tattha ārakattā, arīnaṃ arānañca hatattā, paccayādīnaṃ arahattā, pāpakaraṇe rahābhāvāti imehi tāva kāraṇehi so bhagavā arahanti veditabbotiādinā nayena mātikaṃ nikkhipitvā sabbāneva etāni padāni visuddhimagge buddhānussatiniddese vitthāritānīti tato tesaṃ vitthāro gahetabbo.
Trong câu đó nên biết liên kết với nhau như sau – Đức Thế Tôn là bậc A-ra-hán chính do nguyên nhân này, là vị tự mình giác ngộ chân chánh chính do nguyên nhân này…là vị có may mắn chính nguyên nhân này. Do nhân này và nhân này, toàn bộ câu này được Ngài trích dẫn để làm thành tiêu đề v.v, nên hiểu như sau: “Đức Thế Tôn ấy là bậc A-ra-hán bởi nguyên này trước, là vị xa lìa từ kẻ thù phiền não, do bẻ gãy căm xe (của vòng tam giới), bậc xứng đáng thọ lãnh bốn món vật dụng v.v, không thực hiện điều ác ở nơi thầm kín” đã được giải thích chi tiết trong phần diễn giải Tùy niệm Phật trong bộ Thanh Tịnh Đạo. Nên lấy tiêu đề chi tiết ấy từ đó.
sādhu kho panāti sundaraṃ kho pana; atthāvahaṃ sukhāvahanti vuttaṃ hoti. tathārūpānaṃ arahatanti yathārūpo so bhavaṃ gotamo, evarūpānaṃ anekehipi kappakoṭisatasahassehi dullabhadassanānaṃ byāmappabhāparikkhittehi asītianubyañjanaratanapaṭimaṇḍitehi dvattiṃsmahāpurisalakkhaṇavarehi samākiṇṇamanoramasarīrānaṃ atappakadassanānaṃ atimadhuradhammanigghosānaṃ, yathābhūtaguṇādhigamena loke arahantoti laddhasaddānaṃ arahataṃ. dassanaṃ hotīti pasādasommāni akkhīni ummīletvā dassanamattampi sādhu hoti. sace pana aṭṭhaṅgasamannāgatena brahmassarena dhammaṃ V.2.225 M.2.229 desentassa ekaṃ padampi sotuṃ labhissāma, sādhutaraṃyeva bhavissatīti evaṃ ajjhāsayaṃ katvā.
sādhu kho panā (thật tốt đẹp thay): thật là điều tốt đẹp; có lời giải thích rằng là việc mang lại lợi ích, là việc đem lại sự an lạc. tathārūpānaṃ arahataṃ (một bậc A-ra-hán như vậy): Các bậc A-ra-hán vị được thọ nhận sự tôn kính, các bậc A-ra-hán trong thế gian này cũng do chứng đắc được Pháp cao thượng theo đúng thực tính của các bậc A-ra-hán, khó thấy trong suốt khoảng thời gian trăm nghìn Koṭi kiếp không phải ít, có sắc thân ưa nhìn, với 32 tướng tốt của bậc Đại Nhân, được trang điểm bởi vật quý báu là tám mươi vẻ đẹp phụ, bao bọc bởi hào quang khoảng 2 mét, có cái nhìn không căm phẫn, có âm thanh của Pháp vô cùng du dương giống như Ngài Gotama. dassanaṃ hoti (được thấy): thực hành khuynh hướng như vầy: việc mở đôi mắt trong sáng lên nhìn cũng đã là điều tốt (mang lại điều lợi ích) và nếu khi Ngài đang thuyết giảng Giáo Pháp với âm giọng như âm giọng Phạm thiên được hội đủ với tám yếu tố, được lắng nghe dầu chỉ một câu thì càng tốt đẹp hơn.
yena bhagavā tenupasaṅkamiṃsūti sabbakiccāni pahāya tuṭṭhamānasā āgamaṃsu. etadavocunti duvidhā hi pucchā agārikapucchā anagārikapucchā ca. tattha “kiṃ, bhante, kusalaṃ, kiṃ akusalan”ti iminā nayena agārikapucchā āgatā. “ime kho, bhante, pañcupādānakkhandhā”ti iminā nayena anagārikapucchā. ime pana attano anurūpaṃ agārikapucchaṃ pucchantā etaṃ, “ko nu kho, bho gotama, hetu ko paccayo”tiādivacanaṃ avocuṃ. tesaṃ bhagavā yathā na sakkonti sallakkhetuṃ, evaṃ P.2.329 saṃkhitteneva tāva pañhaṃ vissajjento, adhammacariyāvisamacariyāhetu kho gahapatayotiādimāha.
Yena bhagavā tenupasaṅkamiṃsu (đi đến chỗ Thế Tôn ở): bỏ hết mọi việc, có tâm hoan hỷ, đã đi đến. Etadavocuṃ (đã nói lời này): Có hai cách hỏi là hỏi theo kiểu người gia chủ và hỏi theo kiểu người xuất gia. Trong cả hai cách hỏi đó, hỏi theo kiểu người tại gia theo cách này: “Thưa Ngài, thế nào là thiện? thế nào là bất thiện?”, hỏi theo kiểu người xuất gia theo cách như này: “Thưa Ngài Gotama, có phải đây là ngũ thủ uẩn?” Còn những Bà-la-môn và các gia chủ này khi bị hỏi theo cách hỏi của người tại gia, phù hợp với bản thân đã nói lời như sau: “Kinh thưa Ngài Gotama, cá gì làm nhân? cái gì làm duyên?” Trước hết, Đức Thế Tôn trong giải quyết vấn đề theo cách vắn tắt thật sự cho họ, điều mà họ không thể xác định được nên Ngài đã nói: “Này các Bà-la-môn và các gia chủ do sự thực hành không đúng đắn và sự thực hành không phù hợp làm nhân”
kasmā pana bhagavā yathā na sallakkhenti, evaṃ vissajjesīti? paṇḍitamānikā hi te; āditova mātikaṃ aṭṭhapetvā yathā sallakkhenti, evaṃ atthe vitthārite, desanaṃ uttānikāti maññantā avajānanti, mayampi kathentā evameva katheyyāmāti vattāro bhavanti. tena nesaṃ bhagavā yathā na sakkonti sallakkhetuṃ, evaṃ saṃkhitteneva tāva pañhaṃ vissajjesi. tato sallakkhetuṃ asakkontehi vitthāradesanaṃ yācito vitthārena desetuṃ, tena hi gahapatayotiādimāha. tattha tena hīti kāraṇatthe nipāto. yasmā maṃ tumhe yācatha, tasmāti attho.
Tại sao, Đức Thế Tôn giải quyết vấn đề mà những người đó vẫn chưa xác định? bởi vì “có người nói rằng: do những người đó ngã mạn cho rằng (bản thân) là bậc trí giả, đặt ra tiêu đều rồi xác định ngay từ lúc đầu bằng cách nào, thì bằng cách ấy Ngài sẽ giảng giải ý nghĩa chi tiết, cùng nhau tưởng tượng Pháp thoại rằng: “thật nông cạn, xem thường rằng: ‘Dẫu khi chúng ta nói, cũng có thể nói tương tự như vậy.” Vì thế, đức Thế Tôn mới giải đáp vấn đề cách tóm tắt trước, điều mà họ không thể xác định. Từ đó khi nhóm người không thể xác định, khẩn cầu thuyết giảng chi tiết, khi thuyết giảng chi tiết mới nói lời như sau: “Vì thế các Bà-la-môn và các gia chủ (tena hi gahapatayoti)”. Ở đó, ‘vì thế’ là phân từ trong ý nghĩa lý do, nghĩa là vì lý do mà các người khẩn cầu Ta.
440. tividhanti tīhi koṭṭhāsehi. kāyenāti kāyadvārena. adhammacariyāvisamacariyāti adhammacariyasaṅkhātā visamacariyā. ayaṃ panettha padattho, adhammassa cariyā adhammacariyā, adhammakaraṇanti attho. visamā cariyā, visamassa vā kammassa cariyāti visamacariyā. adhammacariyā ca sā visamacariyā cāti adhammacariyāvisamacariyā. etenupāyena sabbesu kaṇhasukkapadesu attho veditabbo. luddoti kakkhaḷo. dāruṇoti sāhasiko. lohitapāṇīti paraṃ jīvitā voropentassa pāṇī lohitena lippanti. sacepi na lippanti, tathāvidho lohitapāṇītveva vuccati. hatappahate niviṭṭhoti hate ca parassa pahāradāne M.2.230, pahate ca paramāraṇe niviṭṭho. adayāpannoti nikkaruṇataṃ āpanno.
Tividhaṃ: là ba phần. Kāyena: bằng lộ thân. Adhammacariyāvisamacariyā (sự thực hành không đúng đắn và sự thực hành không phù hợp làm nhân): Sự thực hành không phù hợp, bao gồm sự thực hành không đúng đắn. Và từ đây là ý nghĩa của từ trong câu này, ‘sự thực hành phi pháp gọi là adhammacariyā’ nghĩa là việc thực hành không phải Pháp gọi là visamacariyā (sự thực hành bồng bột). Bởi thế, gọi là sự thực hành phi pháp và sự thực hành bồng bột cần biết ý nghĩa trong pháp trắng và pháp đen ở mọi câu theo đường lối này. Luddo (hung dữ): thô thiển, tàn bạo, hung dữ, cáu gắt. Lohitapāṇī (tay lấm máu): có bàn tay vấy máu của hạng người xuống tay tước đoạt mạng sống chúng sanh, dầu bàn tay không vấy máu thì người đó Ngài cũng gọi là ‘có bàn tay vấy máu’. hatappahate niviṭṭho (tâm chuyên sát hại đả thương): kiên quyết trong việc giết hại, việc đả thương chúng sanh khác, và trong việc như sát hại, khiến cho chúng sanh khác chết đi. Adayāpanno (không phối với lòng từ): trở thành người không có lòng bi mẫn.
yaṃ taṃ parassāti yaṃ taṃ parassa santakaṃ. paravittūpakaraṇanti tasseva parassa vittūpakaraṇaṃ tuṭṭhijananaṃ V.2.226 parikkhārabhaṇḍakaṃ. gāmagataṃ vāti antogāme vā ṭhapitaṃ. araññagataṃ vāti araññe rukkhaggapabbatamatthakādīsu vā ṭhapitaṃ. adinnanti tehi parehi kāyena vā vācāya vā adinnaṃ. theyyasaṅkhātanti ettha thenoti coro. thenassa bhāvo theyyaṃ, avaharaṇacittassetaṃ adhivacanaṃ. saṅkhā saṅkhātanti atthato ekaṃ, koṭṭhāsassetaṃ adhivacanaṃ, “saññānidānā hi papañcasaṅkhā”tiādīsu viya. theyyañca taṃ saṅkhātañcāti theyyasaṅkhātaṃ, theyyacittasaṅkhāto eko cittakoṭṭhāsoti attho P.2.330. karaṇatthe cetaṃ paccattavacanaṃ, tasmā theyyasaṅkhātenāti atthato daṭṭhabbaṃ.
Yaṃ taṃ parassā (bất cứ tài vật gì của người khác): bất cứ thứ gì thuộc sở hữu của người khác. Paravittūpakaraṇaṃ (bất cứ tài vật nào của người khác): chính những vật dụng làm thỏa mãn của người khác, là những vật dụng tạo ra sự vui mừng cho người khác. Hoặc tại thôn làng (gāmagataṃ vā): hoặc được vững trú ở trong thôn làng. Hoặc ở trong rừng (araññagataṃ) là được đặt ở trong rừng, hoặc ở trên ngọn cây, trên đỉnh núi v.v. adinnaṃ (họ không cho): Họ không cho bằng thân hoặc bằng tâm, kẻ trộm đó được gọi là ‘ăn cắp’ trong trường hợp này. Bản chất của việc trộm cắp gọi là sự trộm cắp (theyyaṃ). Từ này là tên gọi của tâm nghĩ sẽ trộm cắp. Saṅkhātaṃ (phần) đây là tên của một phần bởi điểm căn bản giống như trong câu “một phần của Pháp trễ nại có tưởng v.v, làm gốc” phần đó với sự trộm cắp bởi nhân đó gọi là phần của sự trộm cắp, tức là một phần của tâm, được gọi là tâm suy nghĩ trộm cắp. Và phần của sự trộm cắp này là ‘chủ cách’ trong ý nghĩa ‘sở dụng cách’ vì thế nên thấy với ý nghĩa sau ‘đó là một phần của sự trộm cắp’
māturakkhitātiādīsu yaṃ pitari naṭṭhe vā mate vā ghāsacchādanādīhi paṭijaggamānā, vayapattaṃ kulaghare dassāmīti mātā rakkhati, ayaṃ māturakkhitā nāma. etenupāyena piturakkhitādayopi veditabbā. sabhāgakulāni pana kucchigatesupi gabbhesu katikaṃ karonti — “sace mayhaṃ putto hoti, tuyhaṃ dhītā, aññattha gantuṃ na labhissati, mayhaṃ puttasseva hotū”ti. evaṃ gabbhepi pariggahitā sassāmikā nāma. “yo itthannāmaṃ itthiṃ gacchati, tassa ettako daṇḍo”ti evaṃ gāmaṃ vā gehaṃ vā vīthiṃ vā uddissa ṭhapitadaṇḍā, pana saparidaṇḍā nāma. antamaso mālāguṇaparikkhittāpīti yā sabbantimena paricchedena, “esā me bhariyā bhavissatī”ti saññāya tassā upari kenaci mālāguṇaṃ khipantena mālāguṇamattenāpi parikkhittā hoti. tathārūpāsu cārittaṃ āpajjitā hotīti evarūpāsu itthīsu sammādiṭṭhisutte vuttamicchācāralakkhaṇavasena vītikkamaṃ kattā hoti. evaṃ gabbhepi pariggahitā sassāmikā nāma. “yo itthannāmaṃ itthiṃ gacchati, tassa ettako daṇḍo”ti evaṃ gāmaṃ vā gehaṃ vā vīthiṃ vā uddissa ṭhapitadaṇḍā, pana saparidaṇḍā nāma.
Māturakkhitā (được mẹ che chở): v,v, có lời giải thích khi cha bị thất lạc hoặc chết, mẹ lo lắng cơm ăn và áo mặc, suy nghĩ sẽ lập gia đình khi trưởng thành, che chở cho bất kỳ người con gái nào, người con gái ấy gọi là được mẹ che chở. Đối với (người nữ) được cha che chở v.v, cũng nên biết theo cách này. Còn gia đình đồng đẳng nhau (môn đăng hộ đối) đã được đính ước từ khi đứa trẻ vẫn còn trong bụng mẹ rằng “Nếu như phía tôi có con trai, còn phía ông là con gái không được gả đi bất cứ nơi nào khác, mà chỉ thuộc về con trai tôi thôi,” Nữ nhân đã được chọn ngay khi còn trong bụng mẹ gọi là sassāmikā (nữ nhân đã có chồng). Còn người nữ mà được họ chọn lựa ở làng, nhà, hoặc trên đường rồi đổ lỗi như này “Ai đi tìm người phụ nữ tên này, sẽ bị buộc tội” được gọi là saparidaṇḍā (vợ được hình phạt gậy gộc bảo vệ).
antamaso mālāguṇaparikkhittāpīti yā sabbantimena paricchedena, “esā me bhariyā bhavissatī”ti saññāya tassā upari kenaci mālāguṇaṃ khipantena mālāguṇamattenāpi parikkhittā hoti. tathārūpāsu cārittaṃ āpajjitā hotīti evarūpāsu itthīsu sammādiṭṭhisutte vuttamicchācāralakkhaṇavasena vītikkamaṃ kattā hoti.
Antamaso mālāguṇaparikkhittā (cho đến những nữ nhân được trang sức bằng vòng hoa): nhưng giới hạn tối thiểu bất luận người nữ nào, người nữ mà bất cứ người nam nào ném tràng hoa lên trên đầu với ý muốn rằng “nữ nhân này sẽ là vợ của tôi” gọi là bị lấy chỉ bởi bằng việc ném tràng hoa. Người có hành vi xâm phạm với những nữ nhân có hình thức như vậy (tathārūpāsu cārittaṃ āpajjitā hoti): là người có hành vi vượt quá giới hạn đối với những nữ nhân có hình thức như vậy, do sức mạnh trạng thái sự thực hành sai trái đó đã được nói trong bài Kinh Chánh Tri Kiến.
sabhāgatoti sabhāyaṃ ṭhito. parisāgatoti parisāyaṃ ṭhito. ñātimajjhagatoti dāyādānaṃ majjhe ṭhito. pūgamajjhagatoti senīnaṃ majjhe ṭhito. rājakulamajjhagatoti rājakulassa majjhe mahāvinicchaye ṭhito M.2.231. abhinītoti pucchanatthāya nīto. sakkhipuṭṭhoti sakkhiṃ katvā pucchito. ehambho purisāti ālapanametaṃ. attahetu vā parahetu vāti attano vā parassa vā hatthapādādihetu vā dhanahetu vā. āmisakiñcikkhahetu vāti ettha āmisanti lābho adhippeto. kiñcikkhanti yaṃ vā taṃ vā appamattakaṃ. antamaso tittiravaṭṭakasappipiṇḍanavanītapiṇḍādimattakassapi lañjassa hetūti attho. sampajānamusā bhāsitā hotīti jānantoyeva musāvādaṃ kattā hoti.
Sabhāgato (ở chỗ tụ hội): đứng ở chỗ hội họp. Parisāgato (ở chỗ hội chúng): đứng ở trong hội chúng. Ñātimajjhagato (ở giữa thân quyến): đứng ở giữa những thân bằng quyến thuộc. Pūgamajjhagato (đến giữa quan quyền): ở giữa những quân lính. Rājakulamajjhagato (đến giữa hoàng gia): ở trong phòng lớn giữa dòng dõi hoàng gia. Abhinīto (mang đến): bị mang đi để hỏi. Sakkhipuṭṭho (được hỏi trực diện): được thực hiện mặt đối mặt rồi hỏi. ehambho purisā (hãy đến, thưa ông): đây là từ dùng để gọi. attahetu vā parahetu vā (do tự thân làm nhân, do người khác làm nhân): do nguyên nhân của tay và chân v.v, hoặc do nguyên nhân của tài sản của tự thân hoặc của người khác. Lợi đắc Ngài muốn đề cập đến tài vật trong cụm từ vì nguyên nhân vật chất nhỏ nhen, vì thế những từ ‘nhỏ xíu, chút ít’ muốn đề cập đến những thứ không quan trọng là ‘nhỏ xíu, chút ít’, giải thích rằng dầu do nguyên nhân hối lộ chẳng hạn như chim sẻ, chim cút, miếng bơ lỏng và miếng bơ đặc v.v. sampajānamusā bhāsitā hoti ( cố tình nói điều dối trá): mặc dù biết được điều thật cũng vẫn làm người tạo ra lời nói dối.
imesaṃ V.2.227 bhedāyāti yesaṃ itoti vuttānaṃ santike sutaṃ hoti, tesaṃ bhedāya. amūsaṃ bhedāyāti yesaṃ amutrāti vuttānaṃ santike sutaṃ hoti, tesaṃ bhedāya. iti samaggānaṃ vā bhedakāti evaṃ samaggānaṃ vā dvinnaṃ sahāyakānaṃ bhedaṃ P.2.331 kattā. bhinnānaṃ vā anuppadātāti suṭṭhu kataṃ tayā, taṃ pajahantena katipāheneva te mahantaṃ anatthaṃ kareyyāti evaṃ bhinnānaṃ puna asaṃsandanāya anuppadātā upatthambhetā kāraṇaṃ dassetāti attho. vaggo ārāmo abhiratiṭṭhānamassāti vaggārāmo. vaggaratoti vaggesu rato. vagge disvā vā sutvā vā nandatīti vagganandī. vaggakaraṇiṃ vācanti yā vācā samaggepi satte vagge karoti bhindati, taṃ kalahakāraṇaṃ vācaṃ bhāsitā hoti.
Imesaṃ bhedāyāti (nhằm chia rẽ những người này): kể rằng trong trú xứ của người nào đó, Ngài gọi là ‘từ chỗ này’ nhằm chia rẽ nhóm này. Amūsaṃ bhedāyā (nhằm chia rẽ nhóm kia): sau khi nghe của người nào đó, Ngài gọi là ‘từ chỗ đó’ nhằm chia rẽ nhóm kia. iti samaggānaṃ vā bhedakā (như vậy là người chia rẽ những kẻ đã được hợp nhất): hoặc là kẻ làm cho tình bạn hữu hai phía đã được hợp nhất như vậy (bị) chia rẽ. bhinnānaṃ vā anuppadātā (hoặc là người khuyến khích những kẻ chia rẽ): là người khuyến khích, ủng hộ để những người bị chia rẽ không thể hòa hợp “bạn làm tốt lắm, thêm 2-3 nữa, hắn ta sẽ làm cho bạn bị mất mát lớn”, tức là người chỉ ra nguyên nhân. Vaggārāmo (người thoả thích chia rẽ phe nhóm): là làm nơi thiết lập ưa thích của vị ấy, vì thế được gọi là người ưa thích phe nhóm. Người thích thú chia rẽ phe nhóm (vaggarato): hoan hỷ trong các nhóm. Sau khi nhìn thấy hoặc sau khi nghe trong phe nhóm khởi lên hân hoan, vì thế mới gọi là hân hoan chia rẽ trong phe nhóm. Nói những lời đưa đến chia rẽ phe nhóm (vaggakaraṇiṃ vācaṃ): Lời nói nào là cho nhóm người hòa hợp bị chia rẽ thành phe nhóm, tức là làm chia rẽ, là người nói lời gây ra sự cãi cọ.
aṇḍakāti yathā sadose rukkhe aṇḍakāni uṭṭhahanti, evaṃ sadosatāya khuṃsanāvambhanādivacanehi aṇḍakā jātā. kakkasāti pūtikā. yathā nāma pūtikarukkho kakkaso hoti paggharitacuṇṇo, evaṃ kakkasā hoti, sotaṃ ghaṃsamānā viya pavisati. tena vuttaṃ “kakkasā”ti. parakaṭukāti paresaṃ kaṭukā amanāpā dosajananī. parābhisajjanīti kuṭilakaṇṭakasākhā viya mammesu vijjhitvā paresaṃ abhisajjanī gantukāmānampi gantuṃ adatvā lagganakārī. kodhasāmantāti kodhassa āsannā. asamādhisaṃvattanikāti appanāsamādhissa vā upacārasamādhissa vā asaṃvattanikā. iti sabbāneva tāni sadosavācāya vevacanāni.
Aṇḍakā (nút thắt) là những nút thắt bằng lời hăm dọa và bằng lời đe dọa v.v, lời nói có lỗi lầm giống như các mục u được trên cây có thể làm mục nát. Kakkasā (thô thiển): mục nát. Lời nói thô thiển, giống như cây mục nát, cây xù xì có gai mọc ra từ đó. Lời nói đó giống như cào vào tai, vì thế mới nói rằng thô thiển. Parakaṭukā (châm chích kẻ khác): là lời nói dữ tợn, không đáng hài lòng từ người khác, là lời nói tạo ra lỗi lầm. Parābhisajjanī [lời nói như đâm vào người khác (làm cho người khác đau nhói)]: lời nói như cắt trong những thứ yêu mến giống như nhánh cây cong có gai xúc chạm đâm vào người khác, làm cho phát sanh sự trở ngại, bởi vì không được phép kể cả đối với những người muốn đi. Kodhasāmantā (khiến người tức giận): kế cận của sự nóng giận. Asamādhisaṃvattanikā (không vận hạnh để tâm an trú): lời nói không vận hành đưa đến sự an chỉ định hoặc cận định. Như đã nói tất cả những lời nói này hoàn toàn là lời nói sử dụng thay thế cho toàn bộ lời có lỗi lầm.
akālavādīti akālena vattā. abhūtavādīti yaṃ natthi, tassa vattā. anatthavādīti akāraṇanissitaṃ vattā. adhammavādīti asabhāvaṃ vattā M.2.232. avinayavādīti asaṃvaravinayapaṭisaṃyuttassa vattā. anidhānavati vācanti hadayamañjūsāyaṃ nidhetuṃ ayuttaṃ vācaṃ bhāsitā hoti. akālenāti vattabbakālassa pubbe vā pacchā vā ayuttakāle vattā hoti. anapadesanti suttāpadesavirahitaṃ. apariyantavatinti aparicchedaṃ, suttaṃ vā jātakaṃ vā nikkhipitvā tassa upalabbhaṃ vā upamaṃ vā vatthuṃ vā āharitvā bāhirakathaṃyeva katheti. nikkhittaṃ nikkhittameva hoti.
Akālavādī (thường nói phi thời): Là người nói chuyện không đúng thời. Abhūtavādī (nói lời không thật): nói những chuyện không có. Anatthavādī (nói lời không có lợi ích): là người nói lời không dựa vào nguyên nhân. Adhammavādī (nói những lời phi pháp): là người nói lời không theo đúng theo thực tính. Avinayavādī (nói những lời phi luật): Là người nói lời không tương ưng với sự không thu thúc trong luật v.v. anidhānavati vācaṃ (nói những lời nói không có căn cứ): là những lời nói không phù hợp được cất giữ trong tủ, tức là trong tâm. akālena (bởi vì phi thời): người nói trong thời gian thích hợp hoặc sau khoảng thời gian cần nói. Anapadesaṃ (không có trích dẫn): loại bỏ những trích dẫn, tức là (trích dẫn) từ Kinh. Apariyantavatiṃ (không có kết thúc): đưa ra những bài Kinh hay Bổn Sanh không có quy trình, dựng lên câu chuyện tương thích, hoặc ví dụ so sánh, hoặc những câu chuyện của bài Kinh và Bổn Sanh ấy, rồi quay trở lại nói những lời nằm ngoài vấn đề. Những từ đã được trích dẫn cũng chỉ được trích dẫn chừng ấy.
“suttaṃ nu kho katheti jātakaṃ nu kho, nassa antaṃ vā koṭiṃ vā passāmā”ti vattabbataṃ āpajjati. yathā vaṭarukkhasākhānaṃ gatagataṭṭhāne pārohā otaranti, otiṇṇotiṇṇaṭṭhāne sampajjitvā puna vaḍḍhantiyeva P.2.332. evaṃ aḍḍhayojanampi yojanampi V.2.228 gacchantiyeva, gacchante gacchante pana mūlarukkho vinassati, paveṇijātakāva tiṭṭhanti. evamayampi nigrodhadhammakathiko nāma hoti; nikkhittaṃ nikkhittamattameva katvā passeneva pariharanto gacchati. yo pana bahumpi bhaṇanto etadatthamidaṃ vuttanti āharitvā jānāpetuṃ sakkoti, tassa kathetuṃ vaṭṭati. anatthasaṃhitanti na atthanissitaṃ.
Vị ấy có thể là người mà người khác quở trách rằng: “vị ấy đã thuyết Kinh hoặc Bổn Sanh hay không? chúng tôi không nhìn thấy điểm bắt đầu, mà cũng không nhìn thấy điểm kết thúc của bài Kinh hay Bổn Sanh đó.” Người như thế này được gọi là vị Pháp Sư như cây đa, lấy câu mang ra đặt xuống chỉ để làm tiêu đề, (dựa vào đó) rồi nói liên miên và không có mục đích như thế, tương tự y như rễ mọc ra của nhánh cây đa, tuôn xuống nơi tuôn xuống, đến nơi đã tuôn xuống, rồi nó lại phát triển tiếp, nó tuôn xuống như vậy, (phần rễ phụ dài) nữa do-tuần, thậm chí cả một do-tuần, nhưng khi nở rộng ra cây cũ sẽ chết đi, chỉ còn lại cây mọc ra từ thân tồn tại như thế nào như thế ấy. Còn đối với người nào dù nói nhiều, có thể sau khi mang lại biết được rằng: “Ngài nói lời này vì thứ này” người ấy thích hợp để nói. Anatthasaṃhitaṃ (không phối hợp với lợi ích): không kết hợp với lợi ích.
abhijjhātā hotīti abhijjhāya oloketā hoti. aho vatāti patthanatthe nipāto. abhijjhāya olokitamattakena cettha kammapathabhedo na hoti. yadā pana, “aho vatidaṃ mama santakaṃ assa, ahamettha vasaṃ vatteyyan”ti attano pariṇāmeti, tadā kammapathabhedo hoti, ayamidha adhippeto.
abhijjhātā hoti (là người có đầy tham đắm): là người nhìn vào với sự tham đắm. aho vatā (ôi quả thật): là phân từ trong ý nghĩa ước muốn. Trong trường hợp này với biểu hiện chỉ nhìn vào bởi sự tham đắm, các nghiệp đạo không đứt, nhưng chỉ khi hướng tâm đến để trở thành của mình “làm thế nào đây (đối với) đồ vật này, đồ vật này sẽ trở thành đồ của ta, cầu mong cho ta có quyền lực đối với thứ này” như vậy, nghiệp đạo sẽ đứt. Ngài muốn nói đến sự tham đắm này trong trường hợp này.
byāpannacittoti vipannacitto pūtibhūtacitto. paduṭṭhamanasaṅkappoti dosena duṭṭhacittasaṅkappo. haññantūti ghātiyantū. vajjhantūti vadhaṃ pāpuṇantu. mā vā ahesunti kiñcipi mā ahesuṃ. idhāpi kopamattakena kammapathabhedo na hoti. haññantūtiādicintaneneva hoti, tasmā evaṃ vuttaṃ.
Byāpannacitto (có tâm sân hận): có tâm thất bại, có tâm trở nên hôi thối. Paduṭṭhamanasaṅkappo (có tâm chỉ nghĩ đến làm hại): có sự suy nghĩ xấu ác bởi tâm sân hận. haññantu (bị sát hai): bị sát hại. ‘bị tàn sát’ là bị giết. ‘Hoặc đừng có được’: dù gì đi nữa cũng đừng có tồn tại. Dẫu trong trường hợp này chỉ với nguyên nhân sân hận, nghiệp đạo cũng không đứt, sẽ đứt cũng do suy nghĩ v.v, ‘hãy giết’ vì thế đức Thế Tôn mới thuyết như vậy.
micchādiṭṭhikoti akusaladassano. viparītadassanoti vipallatthadassano. natthi dinnanti dinnassa phalābhāvaṃ sandhāya vadati. yiṭṭhaṃ vuccati mahāyāgo. hutanti paheṇakasakkāro adhippeto, tampi ubhayaṃ phalābhāvameva M.2.233 sandhāya paṭikkhipati. sukatadukkaṭānanti sukatadukkaṭānaṃ, kusalākusalānanti attho. phalaṃ vipākoti yaṃ phalanti vā vipākoti vā vuccati, taṃ natthīti vadati. natthi ayaṃ lokoti paraloke ṭhitassa ayaṃ loko natthi. natthi paro lokoti idha loke ṭhitassapi paraloko natthi, sabbe tattha tattheva ucchijjantīti dasseti. natthi mātā natthi pitāti tesu sammāpaṭipattimicchāpaṭipattīnaṃ phalābhāvavasena vadati. natthi sattā opapātikāti cavitvā upapajjanakasattā nāma natthīti vadati. sayaṃ abhiññā sacchikatvā pavedentīti ye imañca lokaṃ parañca lokaṃ abhivisiṭṭhāya paññāya sayaṃ paccakkhaṃ katvā pavedenti, te natthīti sabbaññubuddhānaṃ abhāvaṃ P.2.333 dīpeti, ettāvatā dasavatthukā micchādiṭṭhi kathitā hoti.
Micchādiṭṭhiko (người có tà kiến): người có cái thấy bất thiện. Viparītadassano (có cái thấy sái quấy): có cái thấy trong tâm lệch lạc. Natthi dinnaṃ (Bố thí không có kết quả): đức Thế Tôn muốn đề cập đến sự không có kết quả của bố thí. Việc dâng hiến to lớn Ngài gọi là “việc hiến tế (yiṭṭhaṃ)”, cung kính đầy đủ với mong muốn rằng ‘vật tế lễ’, người tà kiến muốn đề cập sự không có kết quả đó mới phản bác cả điều đó. Sukatadukkaṭānaṃ (của nghiệp thiện và nghiệp ác): của nghiệp thiện và nghiệp bất thiện đã làm tốt và làm không tốt. Phalaṃ vipāko (quả là quả dị thục): gọi là quả hoặc quả gì thục đều được. Họ nói rằng (quả hoặc quả dị thục) đó không có. natthi ayaṃ loko (không có đời này): Không có đời này đối với chúng sanh an trú ở đời khác. Natthi paro loko (không có đời sau): không có đời sau đối với những chúng sanh sống ở trong đời này, vị ấy chỉ ra rằng toàn bộ trống rỗng ở nơi đó đó. natthi mātā natthi pitā (không có mẹ, không có cha): vị ấy nói với sức mạnh không có quả của thực hành chân chánh và sự thực hành sai trái ở trong những vị đó. natthi sattā opapātikā (không có loài chúng sanh hóa sanh): vị ấy nói rằng được gọi là không có chúng sanh sau khi chết rồi tái sanh. sayaṃ abhiññā sacchikatvā pavedenti (sau khi tự mình chứng ngộ bằng thắng trí rồi tuyên bố): vị ấy trình bày đến sự không trở thành của Toàn giác trí rằng: “Người đã tự mình sáng tỏ với trí tuệ đặc biệt rồi tuyên thuyết đời này đời và đời sau không có.” Với lời chỉ chừng ấy là điều mà đức Thế Tôn nói về mười loại tà kiến.
441. pāṇātipātaṃ V.2.229 pahāyātiādayo satta kammapathā cūḷahatthipade vitthāritā. anabhijjhādayo uttānatthāyeva.
Bảy nghiệp đạo ‘đã từ bỏ sát sanh’ đã được giảng giải chi tiết trong Kinh Cūḷahatthipada. Sự không tham đắm v.v, có nội dung đơn giản.
442. sahabyataṃ upapajjeyyanti sahabhāvaṃ upagaccheyyaṃ. brahmakāyikānaṃ devānanti paṭhamajjhānabhūmidevānaṃ. ābhānaṃ devānanti ābhā nāma visuṃ natthi, parittābhāppamāṇābhāabhassarānametaṃ adhivacanaṃ. parittābhānantiādi pana ekato aggahetvā tesaṃyeva bhedato gahaṇaṃ. parittasubhānantiādīsupi eseva nayo. iti bhagavā āsavakkhayaṃ dassetvā arahattanikūṭena desanaṃ niṭṭhapesi.
442 sahabyataṃ upapajjeyyaṃ: cầu mong cho tôi đạt được sự đoàn kết (sự hợp nhất, tình hữu nghị, một khối thống nhất). brahmakāyikānaṃ devānaṃ (của chư Thiên thuộc Phạm Chúng Thiên): của chư Thiên cõi Sơ thiền. Ābhānaṃ devānaṃ (của chư Thiên cõi Quang Âm Thiên): Không có tách biệt gọi là ánh sáng, lời này là tên gọi của cõi Thiểu Quang Thiên, cõi Vô Lượng Tịnh Thiên và cõi Quang Âm Thiên. Nhưng ‘Thiểu Quang Thiên’ không được nói đến sự hợp nhất, mà nói bởi phân tách nhóm chư Thiên đó mà thôi. Ngay cả trong câu ‘cõi Thiểu Tịnh Thiên’ cũng được làm theo cách này. Đức Thế Tôn thuyết sự đoạn tận các lậu với cách này rồi, cũng đã kết thúc Pháp thoại với đỉnh cao là Quả A-ra-hán.
idha ṭhatvā pana devalokā samānetabbā. tissannaṃ tāva jhānabhūmīnaṃ vasena nava brahmalokā, pañca suddhāvāsā catūhi ārūpehi saddhiṃ navāti aṭṭhārasa, vehapphalehi saddhiṃ ekūnavīsati, te asaññaṃ pakkhipitvā vīsati brahmalokā honti, evaṃ chahi kāmāvacarehi saddhiṃ chabbīsati devalokā nāma. tesaṃ sabbesampi bhagavatā dasakusalakammapathehi nibbatti dassitā.
Cần phải tập hợp cõi trời cụ thể đối với trường hợp này như sau:
-
Mười tám cõi Phạm Thiên là
-
Cõi Phạm Thiên với mãnh lực của 3 tầng Thiền (mỗi tầng thiền có 3 cõi) gộp thành 9 cõi
-
5 cõi Tịnh Cư Thiên gộp với 4 cõi Vô Sắc (gộp chung lại là 18 cõi)
-
20 cõi Phạm Thiên là:
-
Lấy 18 cõi trong câu a.
-
Với cõi Quảng Quả là 19
-
Cùng cõi Vô Tưởng trong 19 cõi nữa là 20
Gom chung lại tất cả có 20 cõi Phạm Thiên
-
26 cõi chư Thiên là:
-
Lấy 20 cõi Phạm Thiên trong câu b.
-
Với 6 cõi Dục
Gom chung lại tất cả có 26 cõi
Đức Thế Tôn thuyết giảng sự hóa sanh của tất cả chư Thiên với thập thiện nghiệp đạo.
tattha chasu tāva kāmāvacaresu tiṇṇaṃ sucaritānaṃ vipākeneva nibbatti hoti. uparidevalokānaṃ pana ime kammapathā upanissayavasena kathitā M.2.234. dasa kusalakammapathā hi sīlaṃ, sīlavato ca kasiṇaparikammaṃ ijjhatīti. sīle patiṭṭhāya kasiṇaparikammaṃ katvā paṭhamajjhānaṃ nibbattetvā paṭhamajjhānabhūmiyaṃ nibbattati; dutiyādīni bhāvetvā dutiyajjhānabhūmiādīsu nibbattati; rūpāvacarajjhānaṃ pādakaṃ katvā vipassanaṃ vaḍḍhetvā anāgāmiphale patiṭṭhito pañcasu suddhāvāsesu nibbattati; rūpāvacarajjhānaṃ pādakaṃ katvā arūpāvacarasamāpattiṃ nibbattetvā catūsu arūpesu nibbattati; rūpārūpajjhānaṃ pādakaṃ katvā vipassanaṃ vaḍḍhetvā arahattaṃ pāpuṇāti. asaññabhavo pana bāhirakānaṃ tāpasaparibbājakānaṃ āciṇṇoti idha na niddiṭṭho. sesaṃ sabbattha uttānatthamevāti.
Trong 26 cõi, việc sanh khởi trong 6 cõi Dục có được bởi quả dị thục cả 3 thiện hạnh ấy. Còn phần nghiệp đạo này thuyết với mãnh lực cận y duyên của thế giới chư Thiên cõi cao. Quả thật, thập thiện nghiệp đạo là giới, và việc chuẩn bị biến xứ chỉ thành tựu đối với người có giới mà thôi. Vì thế khi được vững trú trong giới, đã thực hành chuẩn bị biến xứ, làm cho Sơ thiền cho sanh khởi rồi hóa sanh vào cõi Sơ thiền. Sau khi tu tập Nhị thiền sanh khởi rồi hoá sanh vào cõi Nhị thiền. Khi thực hành thiền Sắc giới làm nền tảng rồi thực hành minh sát, duy trì trong A-na-hàm Quả hóa sanh vào 5 cõi Tịnh Cư. Khi đã thực hành thiền Sắc giới làm nền tảng, làm sự thể nhập thiền Vô sắc sanh khởi, hóa sanh vào 4 cõi Vô sắc. Khi thực hành thiền Sắc giới và Vô sắc giới làm nền tảng rồi thực hành minh sát chứng đắc A-ra-hán Quả. Còn cõi Vô tưởng, các đạo sĩ và du sĩ ngoài Tôn giáo, không thuyết giảng ở đây. Phần còn lại trong các câu đơn giản.
Giải Thích Kinh Sāleyyaka Kết Thúc.