Kinh số 35 – Giải Thích Tiểu Kinh Saccaka
(Cūḷasaccakasuttavaṇṇanā)Xem Trung Bộ Kinh – Tiểu Kinh Saccaka
353. evaṃ me sutanti cūḷasaccakasuttaṃ. tattha mahāvane kūṭāgārasālāyanti mahāvanaṃ nāma sayaṃjātaṃ aropimaṃ saparicchedaṃ mahantaṃ vanaṃ. kapilavatthusāmantā P.2.268 pana mahāvanaṃ himavantena saha ekābaddhaṃ aparicchedaṃ hutvā mahāsamuddaṃ āhacca ṭhitaṃ. idaṃ tādisaṃ na hoti. saparicchedaṃ mahantaṃ vananti mahāvanaṃ. kūṭāgārasālā pana mahāvanaṃ nissāya kate ārāme kūṭāgāraṃ antokatvā haṃsavaṭṭakacchannena katā sabbākārasampannā buddhassa bhagavato gandhakuṭi veditabbā. saccako nigaṇṭhaputtoti pubbe kira eko nigaṇṭho ca nigaṇṭhī ca pañca pañca vādasatāni uggahetvā, vādaṃ āropessāmāti jambudīpe vicarantā vesāliyaṃ samāgatā. licchavirājāno disvā, — “tvaṃ ko, tvaṃ kā”ti pucchiṃsu. nigaṇṭho — “ahaṃ vādaṃ āropessāmīti jambudīpe vicarāmī”ti āha. nigaṇṭhīpi tathā āha. licchavino, “idheva aññamaññaṃ vādaṃ āropethā”ti āhaṃsu.
353 Tiểu Kinh Saccaka được bắt đầu như sau: “Tôi đã được nghe như vầy.” Ở đó, mahāvane kūṭāgārasālāyaṃ (tại giảng đường Trùng Các trong rừng Đại Lâm): Khu rừng lớn được xác định tự mọc, không được trồng gọi là Đại Lâm. Khu rừng Mahāvana này gần thành Kapilavatthu là khu rừng không bị đứt quãng gắn liền với khu rừng Himavanta không có ranh giới dài đến tận bờ đại dương. Khu rừng này không như vậy, bởi ý nghĩa nói rằng khu rừng rộng lớn có ranh giới. Còn kūṭāgārasālā khi xây dựng hoa viên xong mới tạo kūṭāgāra ở bên trong, mái nhà tranh được bao phủ bởi hình dáng những con thiên nga và chim sẻ, nên biết Gandhakuṭi của đức Thế Tôn hội tụ đầy đủ với mọi phương diện. Saccako Nigaṇṭhaputto: kể rằng trước đây một người nam và một người nữ Nigaṇṭha, mỗi người học được 500 vāda, rồi nghĩ rằng ta sẽ đưa ra vāda như vậy khi du hành ở Jambudīpa đến gặp ở thành Vesāliya. Sau khi vua Licchavī nhìn thấy đã hỏi – “ông là ai, bà là ai?” Người nam Nigaṇṭha đã nói rằng – “Tôi đi du hành ở xứ Jambudīpa với suy nghĩ rằng ‘Tôi sẽ nói lên vāda của tôi như thế này’. Người nữ Nigaṇṭha cũng đã nói như vậy. Vua Licchavī nói rằng – “Xin Ngài hãy đưa ra vāda cùng nhau ngay chính ở đây.”
nigaṇṭhī attanā uggahitāni pañcavādasatāni pucchi, nigaṇṭho kathesi. nigaṇṭhena pucchitepi nigaṇṭhī kathesiyeva. ekassapi na jayo, na parājayo, ubho samasamāva ahesuṃ. licchavino, — “tumhe ubhopi samasamā āhiṇḍitvā kiṃ karissatha, idheva vasathā”ti gehaṃ datvā baliṃ paṭṭhapesuṃ. tesaṃ saṃvāsamanvāya catasso dhītaro jātā, — ekā saccā nāma, ekā lolā nāma, ekā paṭācārā nāma, ekā ācāravatī nāma.
Người nữ Nigaṇṭha mới hỏi 500 vāda mà cô ấy đã học. Người nam Nigaṇṭha đã trả lời; Khi người nam Nigaṇṭha hỏi thì người nữ Nigaṇṭha cũng có thể trả lời tất cả chúng. Không một ai chiến thắng, mà cũng chẳng ai bai, cả hai đều bình đẳng. Vua Licchavī nói: “Mặc dù hai Ngài đều đồng đẳng nhau, sẽ đi du hành để làm gì? hãy ở lại nơi này,” đã bố thí nhà, lợi tức, đã chuẩn bị các lễ vật cúng dường. Vì sự chung sống của cả 2 người ấy mà 4 cô con gái đã ra đời, một người tên là Sacca, một người tên là Lolā, một người tên là Paṭācārā, một người tên là Ācāravatī.
tāpi paṇḍitāva ahesuṃ, mātāpitūhi uggahitāni pañca pañca vādasatāni uggahesuṃ. tā vayapattā mātāpitaro avocuṃ — “amhākaṃ ammā kule dārikā nāma hiraññasuvaṇṇādīni datvā kulagharaṃ pesitapubbā nāma natthi. yo pana agāriko tāsaṃ vādaṃ maddituṃ sakkoti, tassa pādaparicārikā honti. yo pabbajito tāsaṃ maddituṃ sakkoti, tassa santike pabbajanti. tumhe kiṃ karissathā”ti? mayampi evameva karissāmāti. catassopi paribbājikavesaṃ gahetvā, “ayaṃ jambudīpo nāma jambuyā paññāyatī”ti jambusākhaṃ gahetvā cārikaṃ pakkamiṃsu. yaṃ gāmaṃ pāpuṇanti, tassa dvāre paṃsupuñje V.2.167 vā vālikapuñje vā jambudhajaṃ ṭhapetvā, — “yo vādaṃ āropetuṃ sakkoti, so imaṃ maddatū”ti vatvā gāmaṃ pavisanti. evaṃ gāmena gāmaṃ vicarantiyo sāvatthiṃ pāpuṇitvā tatheva gāmadvāre jambudhajaṃ P.2.269 ṭhapetvā sampattamanussānaṃ ārocetvā antonagaraṃ paviṭṭhā.
Những cô con gái ấy đều là bậc trí cả, mỗi người đều học được 500 vāda, mà mẹ và cha anh ấy đã học. Những cô gái ấy khi đã trưởng thành đã nói với cha mẹ của họ rằng – “Mẹ ơi, thường những người phụ nữ trong gia tộc của chúng ta, không cần đưa tiền và vàng v.v, để gửi đến nhà của gia chủ, người thanh niên trong gia đình nào có thể phá tan vāda của những người nữ này được, người phụ nữ đó sẽ trở thành người hầu của vị ấy, người nào là vị xuất gia có thể phá tan vāda của những người nữ đó được, những người phụ nữ đó sẽ xuất gia ở trú xứ của vị ấy. Cha mẹ sẽ làm như thế nào?” Cha mẹ đáp rằng: “chúng tôi cũng suy nghĩ như thế.” Bốn người phụ nữ giữ hình tướng là vị xuất gia với suy nghĩ rằng: “Jambudīpa có tên như vầy bởi cây Jambuyā (cây gioi)” mới cầm lấy nhánh Jambu đi du hành đến bất cứ làng nào cũng cấm một ngọn cờ cây Jambu trên một bãi đất hoặc bãi cát ở cổng vào ngôi làng rồi nói rằng – “Người nào có thể giải đáp vāda thì xin mời người ấy giẫm lên ngọn cờ này.” Như vậy, họ đi du hành khắp tất cả các ngôi làng, đến thành Sāvatthi, họ cũng cắm một ngọn cờ bằng nhánh Jambu ở cổng làng tương tự như vậy, và đã nói với những người đến gặp rồi tiến vào bên thành phố.
tena samayena bhagavā sāvatthiṃ nissāya jetavane viharati. athāyasmā sāriputto gilāne pucchanto ajaggitaṭṭhānaṃ jagganto attano kiccamahantatāya aññehi bhikkhūhi divātaraṃ gāmaṃ piṇḍāya pavisanto gāmadvāre jambudhajaṃ disvā, — “kimidan”ti dārake pucchi. te tamatthaṃ ārocesuṃ. tena hi maddathāti. na sakkoma, bhante, bhāyāmāti. “kumārā M.2.171 mā bhāyatha, ‘kena amhākaṃ jambudhajo maddāpito’ti vutte, buddhasāvakena sāriputtattherena maddāpito, vādaṃ āropetukāmā jetavane therassa santikaṃ gacchathāti vadeyyāthā”ti āha.
Lúc bấy giờ Thế Tôn trú ở thành Sāvatthi và đang cư ngụ ở Jetavana, khi ấy Ngài Sārīputta hỏi đến vị Tỳ khưu bệnh, sắp xếp chỗ ở mà vị ấy chưa sắp xếp, rồi mới đi vào làng để khất thực do đó muộn hơn so với các vị Tỳ khưu khác, do có nhiều việc, sau khi nhìn thấy ngọn cờ bằng nhánh Jambu ở tại cổng làng, mới hỏi bọn trẻ rằng: “đây là cái gì vậy, bọn chúng đã nói về ý nghĩa ấy.”
te therassa vacanaṃ sutvā jambudhajaṃ madditvā chaḍḍesuṃ. thero piṇḍāya caritvā vihāraṃ gato. paribbājikāpi gāmato nikkhamitvā, “amhākaṃ dhajo kena maddāpito”ti pucchiṃsu. dārakā tamatthaṃ ārocesuṃ. paribbājikā puna gāmaṃ pavisitvā ekekaṃ vīthiṃ gahetvā, — “buddhasāvako kira sāriputto nāma amhehi saddhiṃ vādaṃ karissati, sotukāmā nikkhamathā”ti ārocesuṃ. mahājano nikkhami, tena saddhiṃ paribbājikā jetavanaṃ agamiṃsu.
Trưởng lão nói rằng: “Nếu như vậy, các con hãy giẫm lên cho ta.” Những đứa trẻ nói rằng: “Kính thưa Ngài, chúng con không thể, chúng con sợ.” Trưởng lão nói rằng: “Các con không phải sợ.” Trưởng lão nói rằng: “Khi nào nữ du sĩ ấy hỏi ai giẫm lên ngọn cờ Jambu của ta? Các con có thể nói rằng: Trưởng lão Sārīputta, là một vị đệ tử Thinh văn của đức Phật cho giẫm lên, Ngài muốn đưa lên vāda hãy đi đến trú xứ Trưởng lão ở Jetavana. Bọn trẻ nghe lời Trưởng lão nên mới cùng nhau giẫm lên ngọn cờ rồi vứt đi. Trưởng lão sau khi khất thực xong quay trở về tịnh xá.” Các nữ du sĩ rời làng và hỏi, Ai đã cho (các con) giẫm lên ngọn cờ của chúng tôi? Bọn trẻ nói lên ý nghĩa đó. Các du sĩ lại đi vào làng, mỗi người đi mỗi hướng nói rằng: “Được nghe rằng Sārīputta là một đệ tử Thinh văn của đức Phật sẽ tranh luận cùng với chúng tôi. Ngài mong muốn lắng nghe thì hãy đi ra. Đại chúng đã đi ra ngoài. Các du sĩ đã đến Jetavana cùng với đại chúng.
♦ thero — “amhākaṃ vasanaṭṭhāne mātugāmassa āgamanaṃ nāma aphāsukan”ti vihāramajjhe nisīdi. paribbājikāyo gantvā theraṃ pucchiṃsu — “tumhehi amhākaṃ dhajo maddāpito”ti? āma, mayā maddāpitoti. mayaṃ tumhehi saddhiṃ vādaṃ karissāmāti. sādhu karotha, kassa pucchā kassa vissajjanaṃ hotūti? pucchā nāma amhākaṃ pattā, tumhe pana mātugāmā nāma paṭhamaṃ pucchathāti āha. tā catassopi catūsu disāsu ṭhatvā mātāpitūnaṃ santike uggahitaṃ vādasahassaṃ pucchiṃsu.
Trưởng lão nghĩ rằng: “việc người nữ đi đến trú xứ của ta không thích hợp.” Mới đến ở giữa tịnh xá. Nữ du sĩ hỏi Trưởng lão rằng: Ngài cho giẫm lên ngọn cờ của chúng tôi chăng? Trưởng lão đáp lời ‘đúng rồi, chính bần tăng đã cho giẫm lên” Nữ du sĩ nói rằng: Tôi sẽ tranh luận cùng với Ngài.” Trưởng lão nói rằng: “tốt thay, xin mời tranh luận, ai sẽ hỏi, ai sẽ đáp.” Nữ du sĩ nói rằng “Tôi hỏi”, Trưởng lão nói: “Cô là người nữ xin mời hỏi trước.” Cả bốn nữ du sĩ ấy đứng ở bốn hướng đã hỏi nghìn vāda đã được học tử chỗ cha mẹ của họ.
thero khaggena kumudanāḷaṃ chindanto viya pucchitaṃ pucchitaṃ nijjaṭaṃ niggaṇṭhiṃ katvā kathesi, kathetvā puna pucchathāti āha. ettakameva, bhante, mayaṃ jānāmāti. thero āha — “tumhehi vādasahassaṃ pucchitaṃ mayā kathitaṃ, ahaṃ pana ekaṃ yeva pañhaṃ pucchissāmi, taṃ tumhe kathethā”ti. tā therassa visayaṃ disvā, “pucchatha, bhante, byākarissāmā”ti vattuṃ nāsakkhiṃsu. “vada, bhante, jānamānā P.2.270 byākarissāmā”ti puna āhaṃsu.
Trưởng lão đã nói rằng câu hỏi không hề phức tạp, mà cũng không có bất kỳ nút thắt nào, tương tự y như chặt cành sen bằng một con dao. Khi nói xong vi ấy lại mời các nữ du sĩ hỏi tiếp. Nữ du sĩ nói rằng: “Kính thưa Ngài, tôi chỉ biết bấy nhiêu.” Trưởng lão nói rằng: “Các ngươi đã hỏi một nghìn vāda, bần tăng cũng đã trả lời, nhưng bần đạo chỉ xin hỏi một vấn đề, các ngươi hãy đáp vấn đề đó.” Sau khi những nữ du sĩ đó nhìn thấy được khả năng của Trưởng lão, không thể nói thẳng rằng: “Kính thưa ngài, hãy hỏi, chúng tôi sẽ giải đáp và làm sáng tỏ” Mà lại nói lẫn tránh rằng: “Kinh thưa Ngài, xin Ngài hãy hỏi, nếu chúng tôi biết, chúng tôi sẽ giải đáp và làm sáng tỏ.”
thero V.2.168 ayaṃ pana kulaputte pabbājetvā paṭhamaṃ sikkhāpetabbapañhoti vatvā, — “ekaṃ nāma kin”ti pucchi. tā neva antaṃ, na koṭiṃ addasaṃsu. thero kathethāti āha. na passāma, bhanteti. tumhehi vādasahassaṃ pucchitaṃ mayā kathitaṃ, mayhaṃ tumhe ekaṃ pañhampi kathetuṃ na sakkotha, evaṃ sante kassa jayo kassa parājayoti? tumhākaṃ, bhante, jayo, amhākaṃ parājayoti. idāni kiṃ karissathāti? tā mātāpitūhi vuttavacanaṃ ārocetvā, “tumhākaṃ santike pabbajissāmā”ti āhaṃsu. tumhe mātugāmā nāma amhākaṃ santike pabbajituṃ na vaṭṭati, amhākaṃ pana sāsanaṃ gahetvā M.2.172 bhikkhuniupassayaṃ gantvā pabbajathāti. tā sādhūti therassa sāsanaṃ gahetvā bhikkhunisaṅghassa santikaṃ gantvā pabbajiṃsu. pabbajitā ca pana appamattā ātāpiniyo hutvā nacirasseva arahattaṃ pāpuṇiṃsu.
Trưởng lão nói rằng: “Vấn đề này là vấn đề mà các thiện nam tử cần phải xuất gia trước khi học được, rồi hỏi rằng: ‘cái gì là một?’” Các nữ du sĩ ấy không nhìn thấy điểm bắt đầu, mà cũng không nhìn thấy điểm kết thúc, Trưởng lão nói: “Hãy trả lời ta.” Nữ du sĩ nói rằng: “Chúng tôi không nhìn thấy”. Trưởng lão nói rằng “các ngươi hỏi cả nghìn vāda, ta cũng đã trả lời, nhưng các ngươi không thể trả lời một vấn đề duy nhất của ta” nếu như vậy ái sẽ là người chiến thắng, và ai sẽ là người thua cuộc. Nữ du sĩ nói rằng: “Ngài là người chiến thắng, chúng tôi là người thua cuộc.” Trưởng lão nói rằng: “Lần này các ngươi sẽ làm gì?” Nữ du sĩ nói lời mà cha mẹ của cô đã nói, nên mới nói rằng: “Chúng tôi sẽ xuất gia trong trú xứ của Ngài” Trưởng lão nói rằng: “Các người là phận nữ nhi, không nên thích hợp xuất gia trong trú xứ của ta, nhưng hãy chuyển lời của ta rồi đi đến trú xứ của Tỳ khưu ni để thọ giới.” Nữ du sĩ lãnh thọ lời rồi nói lên lời ‘tốt lành thay’, sau đó nắm lấy lời của Trưởng lão đi đến trú xứ của Tỳ kheo ni thọ giới. Sau khi xuất gia vị ấy không xao lãng, có sự tinh tấn, và chẳng bao lâu chứng đắc quả vị A-ra-hán.
ayaṃ saccako tāsaṃ catunnampi kaniṭṭhabhātiko. tāhi catūhipi uttaritarapañño, mātāpitūnampi santikā vādasahassaṃ, tato bahutarañca bāhirasamayaṃ uggahetvā katthaci agantvā rājadārake sippaṃ sikkhāpento tattheva vesāliyaṃ vasati, paññāya atipūritattā kucchi me bhijjeyyāti bhīto ayapaṭṭena kucchiṃ parikkhipitvā carati, imaṃ sandhāya vuttaṃ “saccako nigaṇṭhaputto”ti.
Saccaka này là em trai của bốn nữ du sĩ ấy, là người có trí tuệ cao hơn bốn người chị, đã học cả nghìn vāda từ trú xứ của cha mẹ vị ấy và từ đó đã học được rất học thuyết bên ngoài, không đi bất cứ nơi đâu, dạy Hoàng tử học nghệ thuật trong thành Vesālī, vị ấy sợ rằng bụng của chúng tôi có thể sẽ nổ tung do chứa quá đầy bởi trí tuệ, mới lấy một tấm thép để quấn bụng. Ngài muốn nói đến người này đã nói rằng: “Saccako Nigaṇṭhaputto”.
bhassappavādakoti bhassaṃ vuccati kathāmaggo, taṃ pavadati kathetīti bhassappavādako. paṇḍitavādoti ahaṃ paṇḍitoti evaṃ vādo. sādhusammato bahujanassāti yaṃ yaṃ nakkhattacārena ādisati, taṃ taṃ yebhuyyena tatheva hoti, tasmā ayaṃ sādhuladdhiko bhaddakoti evaṃ sammato mahājanassa. vādena vādaṃ samāraddhoti kathāmaggena dosaṃ āropito. āyasmā assajīti sāriputtattherassa ācariyo assajitthero. jaṅghāvihāraṃ anucaṅkamamānoti tato tato licchavirājagehato taṃ taṃ gehaṃ gamanatthāya anucaṅkamamāno. yenāyasmā assaji tenupasaṅkamīti kasmā upasaṅkami? samayajānanatthaṃ.
Người tánh ưa tranh luận (bhassappavādako): Phương pháp nói chuyện Ngài nói rằng đàm luận, được gọi là người ưa tranh luận bởi ý nghĩa nói, là nói lời đàm luận. Paṇḍitavādo: Nói tự đề cao mình là bậc trí. Sādhusammato bahujanassa (được nhiều người đánh giá cao): đề cập đến bất kỳ thứ nào bởi nhà chiêm tinh, phần nhiều những thứ đó là như thế, cho nên người dân đa số khen ngợi rằng: là chủ nhân của học thuyết, khéo léo, tăng trưởng. Mà ta bắt đầu tranh luận (vādena vādaṃ samāraddho): đưa ra ý nghĩa lệch lạc bằng phương pháp nói chuyện. Tôn giả Assaji: Trưởng lão Assaji là thầy của Trưởng lão Sārīputta. trong khi đang đi đây đó để làm dịu bắp chân (jaṅghāvihāraṃ anucaṅkamamāno): đi kinh hành theo tuần tự từ cung điện của vua Licchavī để đi đến một tòa cung điện khác. yenāyasmā assaji tenupasaṅkami (mới đến kiếm Tôn giả Assaji): (hỏi) đến kiếm Ngài để làm gì? (đáp) Để biết học thuyết.
evaṃ kirassa ahosi — “ahaṃ ‘samaṇassa gotamassa vādaṃ āropessāmī’ti āhiṇḍāmi, ‘samayaṃ panassa na jānāmī’ti na āropesiṃ. parassa hi samayaṃ P.2.271 ñatvā āropito vādo svāropito nāma hoti. ayaṃ pana samaṇassa gotamassa sāvako paññāyati assajitthero V.2.169; so attano satthu samaye kovido, etāhaṃ pucchitvā kathaṃ patiṭṭhāpetvā samaṇassa gotamassa vādaṃ āropessāmī”ti. tasmā upasaṅkami. vinetīti kathaṃ vineti, kathaṃ sikkhāpetīti pucchati.
Kể rằng Sacaka có suy nghĩ như vầy: “Ta đi lang thang với suy nghĩ ‘Tôi sẽ tranh luận lời nói của Sa-môn Gotama, nhưng không thể tranh luận bởi vì ‘tôi không biết Giáo lý của Sa-môn Gotama. Người biết giáo lý của người khác rồi tranh luận được cho là tranh luận chiến thắng hoàn toàn. Về phần Trưởng lão Assaji này, Ngài xuất hiện là vị Thinh văn đệ tử của Sa-môn Gotama. Ngài là vị thiện xảo trong Giáo lý của bậc Đạo Sư của mình, ta sẽ hỏi Giáo lý đó rồi nắm lấy lời nói ấy đi tranh luận với Sa-môn Gotama.” Vì vậy mới đến tìm gặp. Vineti (hướng dẫn, dạy dỗ): Saccaka hỏi rằng Sa-môn Gotama hướng dẫn như thế nào? cho học tập ra sao?
thero pana yasmā dukkhanti vutte upārambhassa okāso hoti, maggaphalānipi pariyāyena dukkhanti āgatāni, ayañca dukkhanti vutte theraṃ puccheyya — “bho assaji, kimatthaṃ tumhe pabbajitā”ti. tato “maggaphalatthāyā”ti vutte, — “nayidaṃ, bho assaji, tumhākaṃ sāsanaṃ nāma, mahāāghātanaṃ nāmetaṃ, nirayussado nāmesa, natthi tumhākaṃ sukhāsā, uṭṭhāyuṭṭhāya dukkhameva jirāpentā āhiṇḍathā”ti dosaṃ āropeyya, tasmā M.2.173 paravādissa pariyāyakathaṃ kātuṃ na vaṭṭati. yathā esa appatiṭṭho hoti, evamassa nippariyāyakathaṃ kathessāmīti cintetvā, “rūpaṃ, bhikkhave, aniccan”ti imaṃ aniccānattavaseneva kathaṃ katheti. dussutanti sotuṃ ayuttaṃ.
Lại nữa, khi Trưởng lão nói rằng ‘là khổ’, trở thành cơ hội của việc tranh luận, Đạo Quả đã đến với Pháp môn ‘là khổ’. Khi Trưởng lão nói rằng ‘là khổ’ như vậy thì Saccaka Nigaṇṭhaputta nên hỏi rằng: “Kính thưa Ngài Assaji, Ngài xuất gia vì mục đích gì?” Từ đó nếu ta trả lời rằng: “vì Đạo Quả” có thể đưa ra sự sai lạc rằng: “Assaji đây không phải là lời dạy của Ngài ấy, đó là áp bức mãnh liệt, đó thật sự là sự hoan hỷ trong địa ngục, (cả hai điều đó) không được vận hạnh đưa đến sự an lạc cho Ngài, Ngài du hành tinh tấn nổ lực để lạnh thọ khổ đau mà thôi.” Vì thế không nên nói vòng vo với những kẻ ưa thích tranh luận, vị ấy thiết lập không được như thế nào, ta sẽ nói kệ ngôn một cách trực tiếp cho vị ấy như thế ấy, mới đưa ra Phật ngôn như sau: “Này các Tỳ khưu, sắc là vô thường…” với mãnh lực của sự vô thường, vô ngã. Dussutaṃ: Không thích hợp được nghe.
354. santhāgāreti rājakulānaṃ atthānusāsanasanthāgārasālāyaṃ. yena te licchavī tenupasaṅkamīti evaṃ kirassa ahosi — “ahaṃ pubbe samayaṃ ajānanabhāvena samaṇassa gotamassa vādaṃ na āropesiṃ, idāni panassa mahāsāvakena kathitaṃ samayaṃ jānāmi, ime ca mama antevāsikā pañcasatā licchavī sannipatitā. etehi saddhiṃ gantvā samaṇassa gotamassa vādaṃ āropessāmī”ti tasmā upasaṅkami. ñātaññatarenāti ñātesu abhiññātesu pañcavaggiyattheresu aññatarena. patiṭṭhitanti yathā tena patiṭṭhitaṃ. sace evaṃ patiṭṭhissati, atha pana aññadeva vakkhati, tatra mayā kiṃ sakkā kātunti idāneva piṭṭhiṃ parivattento āha. ākaḍḍheyyāti attano abhimukhaṃ kaḍḍheyya. parikaḍḍheyyāti purato paṭipaṇāmeyya.
Ở Santhāgāra: là giảng đường nơi tụ hội để giảng dạy ý nghĩa đến dòng dõi Hoàng tộc. Yena te licchavī tenupasaṅkami (đến kiếm những vị Licchavī ấy): Kể rằng Saccaka ấy có suy nghĩ như vầy: “Trước đây ta không tranh luận với Sa-môn Gotama bởi vì không biết được Giáo lý (của vị ấy), nhưng bây giờ ta biết được Giáo lý của Sa-môn Gotama ấy nói đối với ta, 500 trăm vị Licchavī này là học trò của ta cùng nhau đến tụ hội, ta sẽ đến gặp những vị Licchavī ấy rồi sẽ tranh luận với Sa-môn Gotama.” Vì thế, mới đi đến tìm gặp. Ñātaññatarena nghĩa là một vị trong nhóm năm vị ẩn sĩ có danh tiếng ấy. Patiṭṭhitaṃ nghĩa là Trưởng lão Assaji xác chứng (lời nói) như thế nào, nếu Sa-môn Gotama xác chứng (lời nói) như vậy, lúc đó sẽ nói về vấn đề khác, ngay lúc này đây “nếu Sa-môn Gotama nói cách khác, ta làm gì cũng được ở chỗ đó.” Ākaḍḍheyya (có thể kéo tới): Có thế đẩy cho quay mặt về hướng mình. Parikaḍḍheyya (có thể kéo vô) nghĩa là có thể đẩy tới cho cúi người ở phía trước.
samparikaḍḍheyyāti kālena ākaḍḍheyya, kālena parikaḍḍheyya. soṇḍikākilañjanti surāghare piṭṭhakilañjaṃ. soṇḍikādhuttoti surādhutto. vālaṃ kaṇṇe gahetvāti surāparissāvanatthavikaṃ dhovitukāmo kasaṭanidhunanatthaṃ ubhosu kaṇṇesu gahetvā. odhuneyyāti adhomukhaṃ katvā dhuneyya. niddhuneyyāti uddhaṃmukhaṃ katvā dhuneyya. nipphoṭeyyāti punappunaṃ papphoṭeyya. sāṇadhovikaṃ nāmāti ettha manussā sāṇasāṭakakaraṇatthaṃ sāṇavāke gahetvā muṭṭhiṃ muṭṭhiṃ bandhitvā udake pakkhipanti. te tatiyadivase suṭṭhu kilinnā honti. atha manussā ambilayāgusurādīni ādāya tattha gantvā sāṇamuṭṭhiṃ gahetvā, dakkhiṇato vāmato sammukhā cāti tīsu phalakesu sakiṃ dakkhiṇaphalake, sakiṃ vāmaphalake, sakiṃ sammukhaphalake paharantā ambilayāgusurādīni bhuñjantā pivantā khādantā V.2.170 dhovanti. mahantā kīḷā hoti.
samparikaḍḍheyya (kéo lê): lôi kéo tới, lôi kéo lui. Soṇḍikākilañjaṃ (tấm chiếu làm bằng lác để chứa đựng men rượu): Chiếu làm bằng lát sử dụng để chứa đựng men rượu trong hầm rượu. Soṇḍikādhutto (kể nghiện rượu): kẻ uống rượu. Vālaṃ kaṇṇe gahetvā (đã nắm lấy cái dĩa ở tay cầm): người muốn rửa cái bình lọc giành lọc rượu nắm lấy 2 tay cầm rồi giũ bỏ chất cặn bỏ. Odhuneyya: úp xuống để đổ bỏ. Niddhuneyya: lặt mặt lên đổ bỏ. Nipphoṭeyya: có thể thường xuyên đập dập. Gọi là trò chơi rửa sợi gai dầu (sāṇadhovikaṃ nāmā) Con người tách vỏ cây gai dầu rồi cuộn lại thành đem ngâm với nước để làm thành vải gai. Vào ngày thứ 3 vỏ cây gai dầu thấm nước mềm nhũn ra, khi ấy dân làng mang giấm, cháo và chất say v.v, đi đến đó, cầm lấy bó gai dầu đập lên 3 tấm ván bên phải, bên trái hoặc phía trước là trên bề mặt tấm ván bên phải một lần, bên trái một lần, phía trước một lần, ăn, uống, nhai giấm cháo và men rượu v.v, cùng nhau rửa sạch sợi gai. Là dụng cụ tiêu khiển to lớn.
rañño nāgo taṃ kīḷaṃ disvā gambhīraṃ udakaṃ anupavisitvā soṇḍāya udakaṃ gahetvā sakiṃ kumbhe sakiṃ piṭṭhiyaṃ sakiṃ ubhosu passesu sakiṃ antarasatthiyaṃ pakkhipanto kīḷittha. tadupādāya taṃ kīḷitajātaṃ sāṇadhovikaṃ nāma vuccati M.2.174, taṃ sandhāya vuttaṃ — “sāṇadhovikaṃ nāma kīḷitajātaṃ kīḷatī”ti. kiṃ so bhavamāno saccako nigaṇṭhaputto, yo bhagavato vādaṃ āropessatīti yo saccako nigaṇṭhaputto bhagavato vādaṃ āropessati, so kiṃ bhavamāno kiṃ yakkho bhavamāno udāhu indo, udāhu brahmā bhavamāno bhagavato vādaṃ āropessati? na hi sakkā pakatimanussena bhagavato vādaṃ āropetunti ayamettha adhippāyo.
Con voi của nhà vua sau khi nhìn thấy dụng cụ tiêu khiển đó lặng sâu xuống nước, lấy vòi hút nước phun nước lên phần nhô lên ở đầu, ở lưng một lần, ở hai bên một lần, ở trên giữa lừng một lần, vì nguyên nhân đó việc tiêu khiển ấy gọi là trò chơi rửa sợi gai. Saccaka Nigaṇṭhaputta muốn đề cập đến trò chơi đó mới nói rằng: “trò chơi rửa sợi gai dầu”. Xảy ra được chăng Saccaka Nigaṇṭhaputta sẽ tranh luận được với lời nói của đức Thế Tôn? Có lời giải thích rằng Saccaka Nigaṇṭhaputta sẽ tranh luận vāda với đức Thế Tôn, Saccaka Nigaṇṭhaputta ấy ra sao? là Dạ-xoa hoặc là vị trời Indra, hoặc là Bà-la-môn sẽ tranh luận vāda cùng với đức Thế Tôn. Còn nhân loại theo lẽ thường không thể tranh luận vāda cùng với đức Thế Tôn được.
355. tena kho pana samayenāti yasmiṃ samaye saccako ārāmaṃ pāvisi, tasmiṃ. kismiṃ pana samaye pāvisīti? mahāmajjhanhikasamaye. kasmā pana tasmiṃ samaye caṅkamantīti? paṇītabhojanapaccayassa thinamiddhassa vinodanatthaṃ. divāpadhānikā vā te. tādisānañhi pacchābhattaṃ caṅkamitvā nhatvā sarīraṃ utuṃ gaṇhāpetvā nisajja samaṇadhammaṃ karontānaṃ cittaṃ ekaggaṃ hoti.
Lúc bấy giờ (tena kho pana samayena): lúc bấy giờ Saccaka đi đến tịnh xá. (hỏi) vị ấy đi đến vào lúc nào? (đáp) vào đúng giữa trưa. (hỏi) vì sao? Chư Tỳ khưu đi kinh hành vào lúc đó? (đáp) để xua tan sự buồn ngủ và sự dã dượi có thực phẩm thượng hạng làm duyên. Hơn nữa, các Tỳ khưu ấy gắn liền với sự tinh tấn vào thời gian giữa ban ngày. Khi những vị Tỳ khưu đi kinh hành, tắm gội sau khi thọ dụng vật thực, để cho cơ thể tiếp nhận sự dễ chịu, ngồi thực hành Sa-môn Pháp, tâm cũng (đạt đến) được trạng thái định.
yena te bhikkhūti so kira kuhiṃ samaṇo gotamoti pariveṇato pariveṇaṃ gantvā pucchitvā pavisissāmīti vilokento araññe hatthī viya caṅkame caṅkamamāne paṃsukūlikabhikkhū disvā tesaṃ santikaṃ agamāsi. taṃ sandhāya, “yena te bhikkhū”tiādi vuttaṃ. kahaṃ nu kho, bhoti katarasmiṃ āvāse vā maṇḍape vāti attho.
Đi đến hỏi các vị Tỳ khưu ấy (yena te bhikkhu): được biết rằng Saccaka Nigaṇṭhaputta nghĩ rằng “Sa-môn Gotama ở đâu?” mới đi xung quanh nghĩ rằng “sẽ hỏi rồi đi đến gặp”, khi quan sát chư Tỳ khưu mang y phấn tảo là phận sự, đi kinh hành ở trên đường kinh hành lớn giống như con voi rừng, mới đi đến trú xứ của chư Tỳ khưu ấy. “Đi đến hỏi chư Tỳ khưu ấy” v.v, Saccaka muốn ám chỉ đến vị Tỳ khưu ấy. Trú ở đâu (kahaṃ nu kho, bho): Thưa Ngài Gotama ấy cư ngụ trong hang động hoặc lều vải nào
esa, aggivessana, bhagavāti tadā kira bhagavā paccūsakāle mahākaruṇā samāpattiṃ samāpajjitvā dasasahassacakkavāḷe sabbaññutaññāṇajālaṃ pattharitvā bodhaneyyasattaṃ olokento addasa — “sve saccako nigaṇṭhaputto mahatiṃ licchaviparisaṃ gahetvā mama vādaṃ āropetukāmo āgamissatī”ti. tasmā pātova sarīrapaṭijagganaṃ katvā bhikkhusaṅghaparivāro vesāliyaṃ piṇḍāya caritvā piṇḍapātapaṭikkanto mahāparisāya nisīdituṃ sukhaṭṭhāne nisīdissāmīti gandhakuṭiṃ apavisitvā mahāvane aññatarasmiṃ rukkhamūle divāvihāraṃ nisīdi. te bhikkhū bhagavato vattaṃ dassetvā āgatā, saccakena puṭṭhā dūre nisinnaṃ bhagavantaṃ dassentā, “esa aggivessana bhagavā”ti āhaṃsu.
Này Aggivessana, đức Thế Tôn ấy (esa, aggivessana, bhagavā): kể rằng trong thời gian ấy, vào lúc gần sáng đức Thế Tôn thể nhập đại bi định, trải mạng lưới là Toàn giác trí xuyên qua mười ngàn vũ trụ, khi quan sát chúng sanh cần được dẫn dắt để chứng ngộ, ngài thấy rằng “Ngày mai Saccaka mong muốn sẽ đưa hội chúng Licchavī số lượng lớn sẽ đến tranh luận với Ta”. Do đó, đã tắm gội thân thể từ sáng sớm có Tỳ khưu Tăng là tùy tùng của Ngài đi khất thực trong thành Vesālī, sau khi đi khất thực trở về khởi lến suy nghĩ như sau: “Ta sẽ ngồi ở chỗ thoải mái để an tọa trong hội chúng đông đảo, nên mới không đi vào Gandhakuṭi, ngồi tĩnh tọa giữa ban ngày dưới một cội cây trong rừng Mahāvana. Vị Tỳ khưu ấy thuyết bổn phận cùng đức Thế Tôn, bị Saccaka hỏi khi thuyết đức Thế Tôn tĩnh tọa ở chỗ xa mới nói rằng: “Này Aggivessana, đức Thế Tôn ấy”.
mahatiyā licchaviparisāya saddhinti heṭṭhā pañcamattehi licchavisatehi parivutoti vuttaṃ. te etassa antevāsikāyeva, antovesāliyaṃ pana saccako pañcamattāni licchavirājasatāni gahetvā, “vādatthiko bhagavantaṃ upasaṅkamanto”ti sutvā dvinnaṃ paṇḍitānaṃ kathāsallāpaṃ sossāmāti yebhuyyena manussā nikkhantā, evaṃ sā parisā mahatī aparicchinnagaṇanā ahosi. taṃ sandhāyetaṃ vuttaṃ. añjaliṃ paṇāmetvāti ete ubhatopakkhikā, te evaṃ cintesuṃ — “sace no micchādiṭṭhikā codessanti, ‘kasmā tumhe samaṇaṃ gotamaṃ vanditthā’ti, tesaṃ, ‘kiṃ añjalimattakaraṇenapi vanditaṃ hotī’ti vakkhāma. sace no sammādiṭṭhikā codessanti, ‘kasmā bhagavantaṃ na vanditthā’ti, ‘kiṃ sīsena bhūmiṃ paharanteneva vanditaṃ hoti, nanu añjalikammampi vandanā evā’ti vakkhāmā”ti.
Mahatiyā licchaviparisāya saddhiṃ (cùng với đại chúng Licchavī): Cơ lời giải thích rằng có khoảng 500 vị Licchavī vay quanh. Các vị Licchavī ấy là học trò của Saccaka đó. Còn bên trong thành Vesālī đa số mọi người biết rằng “Saccaka dẫn dắt khoảng 500 vị Licchavī đi đến gặp đức Thế Tôn với mong muốn tranh luận.” mới cùng nhau ra khỏi với suy nghĩ rằng: “Ta sẽ nghe được cuộc đàm luận giữa hai bậc trí.” Vì vậy mới có hội chúng số lượng đông đảo không thể xác định được. Saccaka đã nói muốn ám chỉ đến hội chúng ấy. añjaliṃ paṇāmetvā (chắp tay vái chào): Những người đó chia làm 2 phe, bọn họ nghĩ như vầy: “nhóm người tà kiến quở trách chúng ta ‘các ông vái chào Sa-môn Gotama làm gì?’ chúng tôi sẽ nói với họ rằng: ‘lạy gì chỉ là vái chào mà thôi’, nếu nhóm người chánh kiến khiển trách chúng tôi rằng: ‘Các ông tại sao không đảnh lễ đức Thế Tôn’, chúng tôi sẽ nói rằng: ‘tại sao việc đảnh lễ phải cúi đầu chạm đất vậy.’ Chỉ làm hành đồng vái chào cũng là việc đảnh lễ không phải sao?”
nāma gottanti, bho gotama, ahaṃ asukassa putto datto nāma mitto nāma idha āgatoti vadantā nāmaṃ sāventi nāma. bho gotama, ahaṃ vāsiṭṭho nāma kaccāno nāma idha āgatoti vadantā gottaṃ sāventi nāma. ete kira daliddā jiṇṇakulaputtā parisamajjhe nāmagottavasena pākaṭā bhavissāmāti evaṃ akaṃsu. ye pana tuṇhībhūtā nisīdiṃsu, te kerāṭikā ceva andhabālā ca. tattha kerāṭikā, “ekaṃ dve kathāsallāpe karonto vissāsiko hoti, atha vissāse sati P.2.274 ekaṃ dve bhikkhā adātuṃ na yuttan”ti tato attānaṃ mocentā tuṇhī nisīdanti. andhabālā aññāṇatāyeva avakkhittamattikāpiṇḍo viya yattha katthaci tuṇhībhūtā nisīdanti.
Xưng tên và họ (nāma gottaṃ): một số nói rằng ‘Thưa Ngài Gotama, tôi tên là Datta, là Mitta, là con trai của ấy đến chỗ này gọi là xưng tên. Một số nói rằng ‘Thưa Ngài Gotama tôi tên là Siṭṭha, là Kaccāyana đến từ chỗ này, gọi là xưng họ.’ Kể rằng những người khốn khổ đó đã thông báo thực hiện như vậy với suy nghĩ rằng: ta là con trai của gia tộc xưa xuất hiện với tên và họ ở giữa hội chúng. Còn nhóm người nào ngồi im lặng, nhóm người đó là người mù quáng và người ngu si. Ở đó, người mù quáng nghĩ rằng: ‘người thực hiện việc trò chuyện với nhau hai ba lời cũng gọi là nói lời thân thiện, khi có sự thân thiện với nhau, sẽ không cúng dường vật thực, một hoặc hai vá (cơm canh), không thích hợp’ Để cho bản thân vượt khỏi sự thân thiện ấy mới cùng nhau giữ im lặng. Nhóm người ngu là nhóm người ngồi im lặng ở bất kỳ chỗ nào bởi không biết giống như cục đất bị ném xuống mặt đất.
356. kiñcideva desanti kañci okāsaṃ kiñci kāraṇaṃ, athassa bhagavā pañhapucchane ussāhaṃ janento āha — puccha, aggivessana, yadākaṅkhasīti. tassattho — “puccha yadi ākaṅkhasi, na me pañhavissajjane bhāro atthi”. atha vā “puccha yaṃ ākaṅkhasi, sabbaṃ te vissajjessāmī”ti sabbaññupavāraṇaṃ pavāresi asādhāraṇaṃ paccekabuddhāggasāvamahāsāvakehi. te hi yadākaṅkhasīti na vadanti, sutvā vedissāmāti vadanti. buddhā pana “pucchāvuso, yadākaṅkhasī”ti (saṃ. ni. 1.237) vā, “puccha, mahārāja, yadākaṅkhasī”ti (dī. ni. 1.162) vā,
Kiñcideva desaṃ (hỏi một chút vấn đề): một cơ hội, một lý do. Khi đó, đức Thế Tôn cho Saccaka khởi lên sự nổ lực trong việc hỏi vấn đề mới nói rằng: ‘Aggivessa, ông muốn hỏi vấn đề nào, hãy hỏi.’ Câu đó có nhằm ý nghĩa như sau ‘Nếu như ông muốn hỏi cứ hỏi, trong việc trả lời vấn đề không phải là gánh nặng đối với Ta.’ Hơn nữa, ngài mong muốn điều gì hãy cứ hỏi, Ta sẽ giải đáp toàn bộ những điều đó cho ông.’ Vì thế, Sa-môn Gotama đã mời thỉnh. Sự mời thỉnh bằng Toàn giác trí, không phổ biến với Phật Độc Giác, bậc Thánh tối thượng Thinh văn và các bậc Thánh đại Thinh văn. Những vị ấy không nói rằng: “Nếu ngài mong muốn hỏi sẽ nói rằng ‘chúng tôi đã nghe, và sẽ biết như vậy.’ Còn chư Phật thỉnh mời, thình mời bằng Toàn giác trí đối với Dạ-xoa, người, chư Thiên, Sa-môn, Bà-la-môn, và các du sĩ ấy rằng: ‘Này Hiền giả, nếu các ông muốn hỏi hãy hỏi’ (saṃ. ni. 1.237) hoặc rằng: ‘Này Đại vương, nếu Ngài muốn hỏi, Đại vương cứ hỏi tùy theo ý muốn của Đại vương’ (dī. ni. 1.162), hoặc
“puccha vāsava maṃ pañhaṃ, yaṃ kiñci manasicchasi.
tassa tasseva pañhassa, ahaṃ antaṃ karomi te” iti. (dī. ni. 2.356) vā,
Này Vāsava bất kỳ một vấn đề nào tâm ngươi muốn hãy hỏi Ta
Ta sẽ giải quyết dứt điểm vấn đề ấy đối với ngươi. (dī. ni. 2.356) hoặc,
Tena hi tvaṃ, bhikkhu, sake āsane nisīditvā puccha yadākaṅkhasīti (ma. ni. 3.85) vā,
Này Tỳ khưu, nếu vậy con ngồi trên toạ cụ của mình, nếu muốn hãy hỏi, (ma. ni. 3.85) hoặc
“bāvarissa ca tuyhaṃ vā, sabbesaṃ sabbasaṃsayaṃ.
katāvakāsā pucchavho, yaṃ kiñci manasicchathā”ti. (su. ni. 1036) vā,
Các ngươi có bất cứ sự phân vân nào, là sự phân vân của Bà-la-môn Bāvari, hoặc của người, hoặc của tất cả, ta cho cơ hội hãy hỏi điều gì ngươi mong muốn ở trong tâm.” (su. ni. 1036) hoặc,
“puccha maṃ sabhiya pañhaṃ, yaṃ kiñci manasicchasi.
tassa tasseva pañhassa, ahaṃ antaṃ karomi te” iti. (su. ni. 517) vā —
Này Sabhiya bất cứ câu hỏi nào mà ngươi muốn ở trong tâm ngươi hãy hỏi Ta, Ta (sẽ) giải quyết dứt điểm từng câu hỏi một cho ngươi. (su. ni. 517) hoặc –
tesaṃ tesaṃ yakkhanarindadevasamaṇabrāhmaṇaparibbājakānaṃ sabbaññupavāraṇaṃ pavārenti. anacchariyañcetaṃ, yaṃ bhagavā buddhabhūmiṃ patvā etaṃ pavāraṇaṃ pavāreyya. yo bodhisattabhūmiyaṃ padesañāṇepi ṭhito
Điều đức Thế Tôn chứng đắc nền tảng của chư Phật nào, rồi thỉnh mời như thế không đáng ngạc nhiên. Điều đáng ngạc nhiên là đức Thế Tôn vững trú trong bodhisattabhūmi bằng trí tuệ hữu hạn, người mà các bậc ẩn sỉ thỉnh cầu vì lợi ích đối với vua trời Sakka v.v,
“koṇḍañña pañhāni viyākarohi,
yācanti taṃ isayo sādhurūpā.
koṇḍañña eso manujesu dhammo,
yaṃ vuddhamāgacchati esa bhāro”ti. (jā. 2.17.60) —
evaṃ sakkādīnaṃ atthāya isīhi yācito
“Thưa ngài Koṇḍañña, xin ngài trả lời các câu hỏi. Các vị ẩn sĩ đức độ thỉnh cầu điều ấy. Thưa ngài Koṇḍañña, trách nhiệm ấy dành cho vị trưởng thượng, điều ấy là quy luật ở loài người.” (jā. 2.17.60)
“katāvakāsā pucchantu bhonto,
yaṃ kiñci pañhaṃ manasābhipatthitaṃ.
ahañhi taṃ taṃ vo viyākarissaṃ,
ñatvā sayaṃ lokamimaṃ parañcā”ti. (jā. 2.17.61).
Như vậy trong thời gian là ẩn sỉ Sarabhaṅga, “Cơ hội đã được tạo ra. Hãy để quý ngài hỏi bất cứ câu hỏi nào được mong mỏi ở trong tâm. Bởi vì ta sẽ trả lời cho quý vị từng câu một sau khi tự thân ta biết về đời này và đời sau.”
evaṃ sarabhaṅgakāle, sambhavajātake ca sakalajambudīpaṃ tikkhattuṃ vicaritvā pañhānaṃ antakaraṃ adisvā suciratena brāhmaṇena pañhaṃ puṭṭho okāse kārite, jātiyā sattavasso rathikāyaṃ paṃsuṃ kīḷanto pallaṅkaṃ ābhujitvā antaravīthiyaṃ nisinnova —
(vị ấy) trong khi sanh làm đồng từ Sambhava bị Suciraka-brāhmaṇa đã đi du hành 3 lần trong toàn cõi Jambudīpa tìm kiếm người làm dứt điểm vấn đề mà không gặp để hỏi vấn đề. Khi được 7 tuổi theo cách sanh, vị ấy chơi vọc đất ở trên đường xe chạy, ngồi tréo chân ở giữa đường, thỉnh cầu bằng sự mời thỉnh Toàn giác trí rằng:
“taggha te ahamakkhissaṃ, yathāpi kusalo tathā.
rājā ca kho taṃ jānāti, yadi kāhati vā na vā”ti. (jā. 1.16.172) —
sabbaññupavāraṇaṃ pavāresi.
“Chắc chắn rồi, vị thiện xảo nói như thế nào thì con cũng sẽ nói với ông như thế ấy. Và đức vua, đương nhiên hiểu được ý nghĩa và Pháp ấy, tuy nhiên đức vua sẽ làm hay không làm thì con không biết.
evaṃ bhagavatā sabbaññupavāraṇāya pavāritāya attamano pañhaṃ pucchanto, “kathaṃ pana, bho gotamā”tiādimāha.
Khi thỉnh cầu bằng Toàn giác trí mà đức Thế Tôn thỉnh cầu như vậy, Saccaka có tâm thán phục, khi muốn hỏi vấn đề mới nói rằng: “Ngài Gotama hướng dẫn dạy bảo các đệ tử như thế nào?”
athassa M.2.177 bhagavā, “passatha, bho, aññaṃ sāvakena kathitaṃ, aññaṃ satthā katheti, nanu mayā paṭikacceva vuttaṃ, ‘sace tathā patiṭṭhissati, yathāssa sāvakena patiṭṭhitaṃ, evāhaṃ vādaṃ āropessāmī’ti. ayaṃ pana aññameva katheti, tattha kiṃ mayā sakkā kātun”ti evaṃ nigaṇṭhassa vacanokāso mā hotūti heṭṭhā assajittherena kathitaniyāmeneva kathento, evaṃ kho ahaṃ, aggivessanātiādimāha. upamā maṃ, bho gotama, paṭibhātīti, bho gotama, mayhaṃ ekā upamā upaṭṭhāti, āharāmi taṃ upamanti vadati. paṭibhātu taṃ, aggivessanāti upaṭṭhātu te, aggivessana, āhara taṃ upamaṃ visatthoti bhagavā avoca.
Sau đó đức Thế Tôn nghĩ (Ta) không cho cơ hội để Nigaṇṭha nói rằng ‘Kính thưa các Ngài hãy nhìn xem, đệ tử nói một đằng, bậc Đạo Sư nói một nẻo, tôi đã nói trước đó rồi không phải sao ‘nếu Sa-môn Gotama xác chứng lời nói của vị đệ tử của Ngài đã nói, tôi sẽ tranh luận’, tuy nhiên Sa-môn Gotama quay trở lại nói theo hướng khác, rồi trong vấn đề này tôi phải làm như thế nào.” Khi nói cùng vị ấy theo như Trưởng lão Assaji đã nói phải nói rằng: “Aggivessana, Ta hướng dẫn dạy bảo đệ tử như vầy…” v.v. Này Ngài Gotama, tôi có một ví dụ (upamā maṃ, bho gotama, paṭibhāti) nghĩa là Saccaka nói rằng “Thưa Ngài Gotama, một ví dụ hiện hữu ở nơi tôi, tôi sẽ mang ví dụ ấy ra. Này Aggivessana, hãy trình bày ví dụ ấy (paṭibhātu taṃ, aggivessana): Đức Thế Tôn nói rằng: “Aggivessana hãy trình bày ví dụ ấy, Ta buông để cho (vị ấy) nói, ngươi hãy đưa ra ví dụ ấy.”
balakaraṇīyāti bāhubalena kattabbā kasivāṇijjādikā kammantā. rūpattāyaṃ purisapuggaloti rūpaṃ attā assāti rūpattā, rūpaṃ attāti gahetvā ṭhitapuggalaṃ dīpeti. rūpe patiṭṭhāyāti tasmiṃ attāti gahitarūpe patiṭṭhahitvā. puññaṃ vā apuññaṃ vā pasavatīti kusalaṃ vā akusalaṃ vā paṭilabhati. vedanattādīsupi eseva nayo. iminā kiṃ dīpeti? ime pañcakkhandhā imesaṃ sattānaṃ pathavī viya patiṭṭhā, te imesu pañcasu khandhesu patiṭṭhāya kusalākusalakammaṃ nāma āyūhanti. tumhe evarūpaṃ vijjamānameva attānaṃ paṭisedhento pañcakkhandhā P.2.276 anattāti dīpethāti ativiya sakāraṇaṃ katvā upamaṃ āhari.
Cần làm với sức lực (balakaraṇīya): Việc làm chẳng hạn như nông nghiệp và buôn bán phải được thực hiện bằng sức lực đôi tay. Con người có sắc là tự ngã (rūpattāyaṃ purisapuggalo): gọi là có sắc là tự ngã bởi ý nghĩa vị ấy có sắc thân là tự ngã, Saccaka làm sáng tỏ hạng người nắm lấy sắc là tự ngã được thiết lập. Được thiết lập trong sắc: nghĩa là được vững trú trong sắc chấp rằng là tự ngã trong sắc ấy. Lãnh thọ quả phước hoặc không phải phước (puññaṃ vā apuññaṃ vā pasavatī): đạt được thiện hoặc bất thiện. Thậm chí câu có thọ v.v, cũng có cách thức này. Câu này Saccaka Nigaṇṭhaputta trình bày như thế nào? Vị ấy mang ví dụ cùng với nhân chắc chắn rằng: “Năm uẩn này là chỗ thiết lập, như mặt đất làm nơi vững trú cho chúng sanh này, chúng sanh ấy vững trú trong năm uẩn này, tích tập lấy thiện nghiệp và bất thiện nghiệp, Sa-môn Gotama khi bác bỏ tự ngã đang có mặt bằng hình thức như vậy, chỉ ra rằng: ‘năm uẩn không phải tự ngã’.
iminā ca nigaṇṭhena āhaṭaopammaṃ niyatameva V.2.174, sabbaññubuddhato añño tassa kathaṃ chinditvā vāde dosaṃ dātuṃ samattho nāma natthi. duvidhā hi puggalā buddhaveneyyā ca sāvakaveneyyā ca. sāvakaveneyye sāvakāpi vinenti buddhāpi. buddhaveneyye pana sāvakā vinetuṃ na sakkonti, buddhāva vinenti. ayampi nigaṇṭho buddhaveneyyo, tasmā etassa vādaṃ chinditvā añño dosaṃ dātuṃ samattho nāma natthi. tenassa bhagavā sayameva vāde dosadassanatthaṃ nanu tvaṃ, aggivessanātiādimāha.
Điều này Nigaṇṭha đem ra só sánh hoàn toàn rõ ràng, không có bất cứ ai ngoài bậc Chánh Đẳng Chánh Giác có thể cắt đứt lời nói của Nigaṇṭha ấy rồi cho thấy điều được che giấu trong lời nói của vị ấy. Thật vậy, hạng người có 2 nhóm là buddhaveneyya (hạng người được đức Phật hướng dẫn) và sāvakaveneyya (hạng người được chư Thánh đệ tử hướng dẫn). Bậc Thinh văn hay đức Phật hướng dẫn được sāvakaveneyya. Còn hạng người được đức Phật hướng dẫn thì hạng người được chư Thánh đệ tử hướng dẫn không thể hướng dẫn, chỉ có đức Phật mới có thể hướng dẫn, Nigaṇṭha là hạng người phải được đức Phật hướng dẫn, vì thế không có bất cứ người nào khác có thể cắt đứt lời nói của Nigaṇṭha cho thấy được lỗi lầm ẩn chứa trong lời nói đó Saccaka Nigaṇṭha đối với chính Ngài, mới nói rằng: “Aggivessana, ngài đã nói như vầy…không phải sao?”
atha nigaṇṭho cintesi — “ativiya samaṇo gotamo mama vādaṃ patiṭṭhapeti, sace upari koci doso bhavissati, mamaṃ ekakaṃyeva niggaṇhissati. handāhaṃ imaṃ vādaṃ mahājanassāpi matthake pakkhipāmī”ti, tasmā evamāha — ahampi, bho gotama, evaṃ vadāmi rūpaṃ me attā … pe … viññāṇaṃ me attāti, ayañca mahatī janatāti. bhagavā pana nigaṇṭhato sataguṇenapi sahassaguṇenapi satasahassaguṇenapi vādīvarataro, tasmā cintesi — “ayaṃ nigaṇṭho attānaṃ mocetvā mahājanassa matthake vādaṃ pakkhipati, nāssa attānaṃ mocetuṃ dassāmi, mahājanato nivattetvā ekakaṃyeva naṃ niggaṇhissāmī”ti. atha naṃ kiñhi te, aggivessanātiādimāha. tassattho — nāyaṃ janatā mama vādaṃ āropetuṃ āgatā, tvaṃyeva sakalaṃ vesāliṃ saṃvaṭṭitvā mama vādaṃ āropetuṃ āgato, tasmā tvaṃ sakameva vādaṃ niveṭhehi, mā mahājanassa matthake pakkhipasīti. so paṭijānanto ahañhi, bho gotamātiādimāha.
Sau đó Nigaṇṭha nghĩ rằng – “Sa-môn Gotama cho ta xác chứng lời nói của ta chắc chắn, nếu một số lệch lạc sẽ có ở trên, Ngài sẽ phê bình riêng một mình ta. Đủ rồi, ta sẽ liệng lời nói này trên đầu đại chúng,” vì thế đã nói rằng – Thưa Ngài Gotama, tôi đã nói như vậy, hợp thành nhiều cũng được nói như vậy sắc là tự ngã của tôi…thức là tự ngã của tôi. Còn đức Thế Tôn có lời nói tốt hơn Nigaṇṭha với đức hạnh cả trăm, cả nghìn, cả trăm nghìn, vì thế mới suy nghĩ rằng: “Nigaṇṭha này đã tự mình vượt khỏi mới liệng lời nói lên trên đầu của đại chúng, ta sẽ không cho bản thân hắn thoát khỏi, sẽ gỡ bỏ lời nói từ đại chúng, phê bình chỉ riêng một mình ta.” Sau đó, mới nói cùng Aggivessana rằng: “Này Aggivessana, đại chúng này có quan hệ gì với ông”, câu đó được giải thích rằng: “Hội chúng này không đến tranh luận với ta, chỉ riêng Ngài tập hợp toàn bộ dân chúng thành Vesālī đến tranh luận với ta, vì thế ngài hãy tuyên bố lời nói của Ta cho rộng rãi, Ngài đã gỡ bỏ điều gì ơ trên đầu đại chúng. Nigaṇṭha ấy khi nhận sự thật nên mới nói rằng: “Ngài Gotama là sự thật, Ngài đã nói như vậy.”
357. iti bhagavā nigaṇṭhassa vādaṃ patiṭṭhapetvā, tena hi, aggivessanāti pucchaṃ ārabhi. tattha tena hīti kāraṇatthe nipāto. yasmā tvaṃ pañcakkhandhe attato paṭijānāsi, tasmāti attho. sakasmiṃ vijiteti attano raṭṭhe. ghātetāyaṃ vā ghātetunti ghātārahaṃ ghātetabbayuttakaṃ ghātetuṃ P.2.277. jāpetāyaṃ vā jāpetunti dhanajānirahaṃ jāpetabbayuttaṃ jāpetuṃ jiṇṇadhanaṃ kātuṃ. pabbājetāyaṃ vā pabbājetunti sakaraṭṭhato pabbājanārahaṃ pabbājetuṃ, nīharituṃ. vattituñca arahatīti vattati ceva vattituñca arahati. vattituṃ yuttoti dīpeti.
Đức Thế Tôn khi cho Nigaṇṭha xác nhận lời nói này rồi, mới bắt đầu hỏi rằng: “Này Aggivessana, Ta sẽ hỏi Ông trở lại về vấn đề này”, ‘tena hi’ là phân từ với ý nghĩa là nguyên nhân, bởi Ngài hiểu được năm uẩn bằng ý nghĩa v.v, Trong quốc độ của ngài (sakasmiṃ vijite): Trong quốc độ của Ngài. Ghātetāyaṃ vā ghātetuṃ (sẽ giết người cần giết): giết người đáng bị giết, là người đáng bị giết. Jāpetāyaṃ vā jāpetuṃ (tước đoạt tài sản những ai đáng bị tước đoạt): nhằm mục đích tước đoạt tài sản ở nơi cần tước đoạt là người đáng bị tịch thu, làm cho cạn kiệt tài sản. pabbājetāyaṃ vā pabbājetuṃ (trục xuất người đáng trục xuất) để trục xuất, là đưa người bị trục xuất ra khỏi quốc độ của ngài. Vattituñca arahati (xứng đáng có quyền hành): Ngài thuyết rằng được vận hành và đáng được vận hành, bao gồm chính xác để được vận hành.
iti nigaṇṭho attano vādabhedanatthaṃ āhaṭakāraṇameva attano māraṇatthāya āvudhaṃ tikhiṇaṃ karonto viya visesetvā dīpeti, yathā taṃ bālo. evaṃ me rūpaṃ hotūti mama rūpaṃ evaṃvidhaṃ hotu, pāsādikaṃ abhirūpaṃ alaṅkatappaṭiyattaṃ suvaṇṇatoraṇaṃ viya susajjitacittapaṭo viya ca manāpadassananti. evaṃ me rūpaṃ mā ahosīti mama rūpaṃ evaṃvidhaṃ mā hotu, dubbaṇṇaṃ dussaṇṭhitaṃ valitapalitaṃ tilakasamākiṇṇanti.
Nigaṇṭha chỉ ra nguyên nhân đem đến nhằm mục đích phá tan lời nói của chính mình như thể người làm vũ khí sắc bén để tự giết bản thân, giống như một kẻ ngu với cách đó. evaṃ me rūpaṃ hotū (sắc của tôi phải trở thành như vậy): Cầu mong sắc của tôi hãy có được như thế này, có sắc trong sáng, có sắc xinh đẹp, nhìn thấy cũng thích thú, giống như một cây cột mạ vàng đã được trang hoàng, trang trí, và giống như một tấm vải tốt khéo được sắp xếp. evaṃ me rūpaṃ mā ahosi (sắc của tôi đừng trở nên như vậy): Cầu mong sắc của tôi hãy đừng có (trở nên) như vậy, là màu da (đừng trở nên) thô nhám, hình dáng xấu xí, tóc bạc, da có tàn nhang.
tuṇhī ahosīti nigaṇṭho imasmiṃ ṭhāne viraddhabhāvaṃ ñatvā, “samaṇo gotamo mama vādaṃ bhindanatthāya kāraṇaṃ āhari, ahaṃ bālatāya tameva visesetvā dīpesiṃ, idāni naṭṭhomhi, sace vattatīti vakkhāmi, ime rājāno uṭṭhahitvā, ‘aggivessana, tvaṃ mama rūpe vaso vattatīti vadasi, yadi te rūpe vaso vattati, kasmā tvaṃ yathā ime licchavirājāno M.2.179 tāvatiṃsadevasadisehi attabhāvehi virocanti abhirūpā pāsādikā, evaṃ na virocasī’ti. sace na vattatīti vakkhāmi, samaṇo gotamo uṭṭhahitvā, ‘aggivessana, tvaṃ pubbe vattati me rūpasmiṃ vasoti vatvā idāni paṭikkhipasī’ti vādaṃ āropessati.
Tuṇhī ahosi (giữ im lặng): Nigaṇṭha đã biết rằng tự thân thiếu sót trong lời nói này mới nghĩ rằng: “Sa-môn Gotama đem lại nguyên nhân để phá tan lời nói của ta, ta chỉ ra nguyên nhân ấy do sự lỗi lầm bởi sự ngu muội, nếu nói rằng diễn ra như vậy, bây giờ ta đã bị mất mát lớn rồi nếu ta nói rằng ‘sắc vận hành theo mãnh lực’ các người cũng đứng lên tranh luận rằng: ‘Aggivessana, Ngài nói rằng sắc được vận hành theo mãnh lực của tự ngã, nếu mãnh lực vận hành trong sắc của Ngài, nguyên nhân nào Ngài mới không có sắc thân xinh đẹp, đáng nhìn giống như vua Licchavī có sắc thân trong sáng như chư Thiên cõi Đao Lợi chăng? Nếu ta nói rằng ‘sắc’ không vận hành theo mãnh lực’ Sa-môn Gotama cũng đứng dậy đến tranh luận rằng: ‘Aggivessana trước đây Ngài nói rằng sắc vận hành theo mãnh lực, đến ngày hôm này đã bị phản đối bằng cách này.’
iti vattatīti vuttepi eko doso, na vattatīti vuttepi eko doso”ti tuṇhī ahosi. dutiyampi bhagavā pucchi, dutiyampi tuṇhī ahosi. yasmā pana yāvatatiyaṃ bhagavatā pucchite abyākarontassa sattadhā muddhā phalati, buddhā ca nāma sattānaṃyeva atthāya kappasatasahassādhikāni cattāri asaṅkhyeyyāni pāramīnaṃ pūritattā sattesu balavānuddayā honti. tasmā yāvatatiyaṃ apucchitvā atha kho bhagavā saccakaṃ nigaṇṭhaputtaṃ etadavoca — etaṃ “byākarohī dānī”tiādivacanaṃ avoca.
Khi nói rằng ‘vận hành trong mãnh lực’ cũng sai một phần, khi nói ‘không vận hành theo mãnh lực’ cũng sai một phần. Đức Thế Tôn hỏi lần thứ 2. Đức Thế Tôn hỏi đến lần thứ 2, Saccaka Nigaṇṭha cũng giữ im lặng đến 2 lần. Cũng bởi đầu của người không trả lời khi vấn đề mà đức Thế Tôn hỏi đến ba lần sẽ bể ra 7 mảnh. Thường tất cả chư Phật đều quan sát mãnh liệt đối với các chúng sanh bởi thực hành Ba-la-mật suốt 4 A-tăng-kỳ và trăm nghìn kiếp, vì chính lợi ích của tất cả chúng sanh, do đó đã hỏi hai lần Cho nên Ngài mới nói rằng: Khi ấy đức Thế Tôn đã nói lời này cùng Saccaka Nigaṇṭhaputta rằng: Hôm nay, Ngài hãy trả lời.”
tattha sahadhammikanti sahetukaṃ sakāraṇaṃ. vajiraṃ pāṇimhi assāti vajirapāṇi. yakkhoti na yo vā so vā yakkho, sakko devarājāti veditabbo. ādittanti P.2.278 aggivaṇṇaṃ. sampajjalitanti suṭṭhu pajjalitaṃ. sajotibhūtanti samantato jotibhūtaṃ, ekaggijālabhūtanti attho. ṭhito hotīti mahantaṃ sīsaṃ, kandalamakulasadisā dāṭhā, bhayānakāni akkhināsādīnīti evaṃ virūparūpaṃ māpetvā ṭhito. kasmā panesa āgatoti? diṭṭhivissajjāpanatthaṃ. apica, “ahañceva kho pana dhammaṃ deseyyaṃ, pare ca me na ājāneyyun”ti evaṃ dhammadesanāya appossukkabhāvaṃ āpanne bhagavati sakko mahābrahmunā saddhiṃ āgantvā, “bhagavā dhammaṃ desetha, tumhākaṃ āṇāya avattamāne mayaṃ vattāpessāma, tumhākaṃ dhammacakkaṃ hotu, amhākaṃ āṇācakkan”ti paṭiññamakāsi. tasmā “ajja saccakaṃ tāsetvā pañhaṃ vissajjāpessāmī”ti āgato.
Ở đó, có nhân quả (sahadhammikaṃ) là có nhân có quả. Vajirapāṇi bởi ý nghĩa có vajira (chùy bằng ngọc) trong bàn tay. Yakkho: Nên biết rằng người này không phải Dạ-xoa là vua trời Sakka. Ādittaṃ (nóng): có màu ngọn lửa. Sampajjalitaṃ (bùng cháy) là ngọn lửa cháy lên ngọn. Sajotibhūtaṃ (chói sáng): chiếu sáng khắp nơi, có nghĩa là ngọn lửa duy nhất. ṭhito hoti (đã vững trú): Dạ-xoa đứng hiện ra hình tướng đáng sợ bằng hình tướng như thế, đầu to bự, răng như hoa cuối, mắt và mũi v.v, ghê tởm. (hỏi) Vì sao Dạ-xoa ấy đến? (đáp) Đến để dứt trừ tà kiến. Hơn nữa, để đức Thế Tôn đạt đến sự cố gắng ít trong việc thuyết Pháp như vậy, Ta nên thuyết Pháp và người khác không nên biết chung chung Pháp của Ta được. Vua trời Sakka cũng với Đại Phạm thiên cúng dường xác nhận rằng: “Kinh bạch đức Thế Tôn xin Ngài hãy thuyết Pháp, chúng tôi sẽ làm cho người không sống dưới quyền lực của Ngài, cho sống dưới quyền lực của chúng tôi, vận chuyển bánh xe pháp hãy là của Ngài, mệnh lệnh là của chúng tôi.” Vì vậy, vua trời Sakka đã đến với suy nghĩ rằng: “Ngày hôm nay, Ta sẽ cho Saccaka Nigaṇṭhaputta hoảng sợ khiến hắn phải trả lời.”
bhagavā ceva passati, saccako ca nigaṇṭhaputtoti yadi hi taṃ aññepi passeyyuṃ. taṃ kāraṇaṃ agaru assa, “samaṇo gotamo saccakaṃ attano vāde anotarantaṃ ñatvā yakkhaṃ āvāhetvā dassesi, tato saccako bhayena kathesī”ti vadeyyuṃ. tasmā bhagavā ceva passati saccako ca. tassa taṃ disvāva sakalasarīrato sedā mucciṃsu, antokucchi viparivattamānā mahāravaṃ ravi. so “aññepi nu kho passantī”ti olokento M.2.180 kassaci lomahaṃsamattampi na addasa. tato — “idaṃ bhayaṃ mameva uppannaṃ. sacāhaṃ yakkhoti vakkhāmi, ‘kiṃ tuyhameva akkhīni atthi, tvameva yakkhaṃ passasi, paṭhamaṃ yakkhaṃ adisvā samaṇena gotamena vādasaṅghāṭe khittova yakkhaṃ passasī’ti vadeyyun”ti cintetvā — “na dāni me idha aññaṃ paṭisaraṇaṃ atthi, aññatra samaṇā gotamā”ti maññamāno, atha kho saccako nigaṇṭhaputto … pe … bhagavantaṃ etadavoca. tāṇaṃ gavesīti tāṇanti gavesamāno. leṇaṃ gavesīti leṇanti gavesamāno. saraṇaṃ gavesīti saraṇanti gavesamāno. ettha ca tāyati rakkhatīti tāṇaṃ. nilīyanti etthāti leṇaṃ. saratīti saraṇaṃ, bhayaṃ hiṃsati viddhaṃsetīti attho.
Đức Thế Tôn và Saccaka Nigaṇṭhaputta ấy nhìn thấy (bhagavā ceva passati, saccako ca nigaṇṭhaputto): Nếu người khác có thể nhìn thấy Dạ-xoa đó có thể nói rằng: “nguyên nhân đó không khó nhọc, ‘Sa-môn Gotama đã biết rằng ‘Saccaka Nigaṇṭhaputta không chấp nhận lời nói của Ngài mới đưa Dạ-xoa đến thể hiện, từ đó Saccaka Nigaṇṭhaputta đã nói vì hoảng sợ.” Vì thế, chỉ có đức Thế Tôn với Saccaka Nigaṇṭhaputta nhìn thấy (Dạ-xoa). Bởi vì nhìn thấy Dạ-xoa ấy mồ hôi ướt đẫm cả người của Saccaka Nigaṇṭhaputta, bên trong bụng rối bời, hắn nghĩ rằng ‘người khác nhìn thấy hay chăng?’ giống như nhìn xung quanh dù chỉ có lông tóc dựng ngược. Từ đó nghĩ rằng: “sự hoảng sợ này chỉ khởi lên nơi ta”, nếu ta nói rằng có Dạ-xoa, mọi người sẽ nói rằng: ‘Chỉ mình Ngài có mắt chăng mới nhìn thấy Dạ-xoa, trước đó Ngài không nhìn thấy Dạ-xoa, bị Sa-môn Gotama gỡ bỏ những dính mắc trong việc liên tiếp của lời nói nên mới nhìn thấy Dạ-xoa đã nghĩ rằng – “Bây giờ trong trường hợp này, ta không có nơi nương tựa khác, ngoài ra đức Thế Tôn, khi ấy Saccaka Nigaṇṭhaputta…mới nói lời ấy (với) đức Thế Tôn.” Tāṇaṃ gavesi: tìm thấy sự ẩn náu. Leṇaṃ gavesi: Tìm kiếm sự bảo vệ. Saraṇaṃ gavesi: Tìm kiếm nơi nương tựa. Trong câu này gọi là tāṇā bởi ý nghĩa chống lại, hộ trì. Gọi là leṇa bởi ý nghĩa là nơi ẩn náu của con người. Gọi là saraṇa bởi ý nghĩa nhớ tưởng. Có ý nghĩa làm tổn thương, là loại bỏ sự sợ hãi.
358. manasi karitvāti manamhi katvā paccavekkhitvā upadhāretvā. evaṃ me vedanā hotūti kusalāva hotu, sukhāva hotu. evaṃ me saññā hotūti kusalāva hotu, sukhāva hotu, somanassasampayuttāva hotūti. saṅkhāraviññāṇesupi eseva nayo. mā ahosīti ettha pana vuttavipariyāyena attho veditabbo. kallaṃ nūti yuttaṃ nu. samanupassitunti “etaṃ mama esohamasmi eso me attā”ti evaṃ taṇhāmānadiṭṭhivasena passituṃ. no hidaṃ, bho gotamāti na yuttametaṃ, bho gotama. iti bhagavā yathā nāma cheko ahituṇḍiko sappadaṭṭhavisaṃ teneva sappena puna ḍaṃsāpetvā ubbāheyya, evaṃ tassaṃyeva parisati saccakaṃ nigaṇṭhaputtaṃ teneva mukhena pañcakkhandhā aniccā dukkhā anattāti vadāpesi. dukkhaṃ allīnoti imaṃ pañcakkhandhadukkhaṃ taṇhādiṭṭhīhi allīno. upagato ajjhositotipi taṇhādiṭṭhivaseneva veditabbo. dukkhaṃ etaṃ mamātiādīsu pañcakkhandhadukkhaṃ taṇhāmānadiṭṭhivasena samanupassatīti attho. parijāneyyāti aniccaṃ dukkhaṃ anattāti tīraṇapariññāya parito jāneyya. parikkhepetvāti khayaṃ vayaṃ anuppādaṃ upanetvā.
Khi đã tác ý đúng đường lối (manasi karitvā) đồng nghĩa với manamhi katvā: Tác ý đúng đắn, quán xét cẩn thận. evaṃ me vedanā hotu (thọ của tôi hãy như thế này): cầu mong cảm thọ hãy là thiện, là lạc. Tưởng của tôi hãy như thế: trở nên thiện, trở nên lạc, tương ưng với thọ hỷ, thậm chí các Hành và Thức cũng có cách thức này. mā ahosi (Đừng trở nên như vầy): nên biết ý nghĩa theo phương pháp đối nghịch với lời đã nói. kallaṃ nū (nên chăng): thích hợp chăng? Quán thấy chân chánh (samanupassituṃ): quán xét bằng tham ái, ngã mạn và tà kiến như vầy rằng: “Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi.” No hidaṃ, bho gotama: điều đó thật không thích hợp đối với Ngài Gotama. Người bắt rắn thiện xảo cho con rắn đó cắn rồi lấy độc bị rắn cắn như thế nào, đức Thế Tôn cho Saccaka Nigaṇṭhaputta nói trong hội chúng ấy với chính miệng của vị ấy “năm uẩn là vô thường, là khổ, là vô ngã” như thế đó. Dính vào khổ (dukkhaṃ allīno): dính vào, đi đến khổ đau trong năm uẩn này với tham ái và tà kiến. upagato ajjhosito (đi đến khổ đau, chịu đựng khổ đau): nên biết rằng (đi đến và chịu đựng) chỉ với mãnh lực của tham ái và tà kiến. dukkhaṃ etaṃ mamā: có nghĩa là quán xét khổ trong năm uẩn bằng mãnh lực của tham ái, ngã mạn và tà kiến. Parijāneyya (nên hiểu toàn diện): Nên biết bằng sự hiểu biết toàn diện về sự xét đoán rằng ‘là vô thường, là khổ não, là vô ngã’. Parikkhepetvā (sẽ làm…cho đoạn tận): đem đến sự diệt trừ, sự hoại diệt, không cho sanh khởi.
359. navantitaruṇaṃ. akukkukajātanti pupphaggahaṇakāle anto aṅguṭṭhappamāṇo eko ghanadaṇḍako nibbattati, tena virahitanti attho. rittoti suñño antosāravirahito. rittattāva tuccho. aparaddhoti parājito. bhāsitā kho pana teti idaṃ bhagavā tassa mukharabhāvaṃ pakāsetvā niggaṇhanto āha. so kira pubbe pūraṇādayo cha satthāro upasaṅkamitvā pañhaṃ pucchati. te vissajjetuṃ na sakkonti. atha nesaṃ parisamajjhe mahantaṃ vippakāraṃ āropetvā uṭṭhāya jayaṃ pavedento gacchati. so sammāsambuddhampi tatheva viheṭhessāmīti saññāya upasaṅkamitvā —
359 Navaṃ dịch là non. Akukkukajātaṃ (không có khúc đốt) một hoa chuối, có kích thước bằng một lóng tay, được sinh ra trong thời gian vừa chớm nở. Có nghĩa loại bỏ bông hoa đó. Ritto (trống rỗng): trống không, loại trừ lỗi bên trong, gọi là trống không do rỗng không. Aparaddho: phía thất bại. Đức Thế Tôn thuyết lời như sau: “ngài đã nói (bhāsitā kho pana te)” v.v, tuyên bố chế ngự ý nghĩa mà Saccaka Nigaṇṭhaputta ấy có lời nói khoác lác. Kể rằng trước đây Saccaka Nigaṇṭhaputta đến gặp 6 vị thầy có Pūraṇa v.v, để hỏi vấn đề. Các vị thầy ấy không thể giải đáp được. Khi ấy đã làm cho các vị thầy mất mặt giữa hội chúng, đứng lên tuyên bố sự chiến thắng rồi bỏ đi. Vị ấy đi đến gặp đức Thế Tôn với ý định rằng: “Ta sẽ đến làm phiền kể cả bậc Chánh Đẳng Chánh Giác”, nhìn thấy cốt lõi là Toàn giác trí sẽ há hốc mồm là sự hiểu biết (vị ấy) sẽ suy sụp, biết rằng Toàn giác trí mạnh mẽ, giống như một con chim có mỏ mềm yếu chỉ mổ vào những cây không có lõi, bay đến mổ thủng cây nhục quế (con chim này đã được nói trong Bổn sanh như sau)
“ambho ko nāma yaṃ rukkho, sinnapatto sakaṇṭako.
yattha ekappahārena, uttamaṅgaṃ vibhijjitan”ti.
Này bạn, cây này có tên là gì? Nó có lá mềm, có gai nhọn.
Với một cái mổ vào nơi ấy, cái đầu bị hư hoại.
ayaṃ khadiraṃ āhacca asārakarukkhaparicito mudutuṇḍasakuṇo viya sabbaññutaññāṇasāraṃ āhacca ñāṇatuṇḍabhedaṃ patto sabbaññutaññāṇassa thaddhabhāvaṃ aññāsi. tadassa parisamajjhe pakāsento bhāsitā kho pana tetiādimāha. natthi etarahīti upādinnakasarīre sedo nāma natthīti na vattabbaṃ, etarahi pana natthīti vadati. suvaṇṇavaṇṇaṃ kāyaṃ vivarīti na sabbaṃ kāyaṃ vivari. buddhā nāma gaṇṭhikaṃ paṭimuñcitvā paṭicchannasarīrā parisati dhammaṃ desenti. atha bhagavā galavāṭakasammukhaṭṭhāne cīvaraṃ gahetvā caturaṅgulamattaṃ otāresi. otāritamatte pana tasmiṃ suvaṇṇavaṇṇā rasmiyo puñjapuñjā hutvā suvaṇṇaghaṭato rattasuvaṇṇarasadhārā viya, rattavaṇṇavalāhakato vijjulatā viya ca nikkhamitvā suvaṇṇamurajasadisaṃ mahākhandhaṃ uttamasiraṃ padakkhiṇaṃ kurumānā ākāse pakkhandiṃsu.
natthi etarahi (mồ hôi trên người ta giờ không còn nữa): không nên nói rằng gọi là mồ hôi bám vào thân cũng không có, vị ấy nói rằng ngay lúc này cũng không có. suvaṇṇavaṇṇaṃ kāyaṃ vivari (đã tỏa ra toàn thân màu như vàng): Đức Thế Tôn không mở hết toàn thân. Thông thường đức Phật thường mặc y khuyết cổ. Ngài mặc kín thân thuyết giảng Pháp ở trong hội chúng. Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn cầm (ấn) y trước cổ, chỉ để cho y tụt xuống bốn lóng tay, khi mãnh y đó tụt xuống, một vầng hào quang màu vàng kim tỏa ra như dòng nước đồng tuông chảy ra từ trong hũ vàng, và như một tia chớp từ đám mây màu đỏ, làm cho các khối y giống như trống vàng đã đi xoay vòng theo chiều kim đồng hồ bay trong hư không.
kasmā pana bhagavā evamakāsīti? mahājanassa kaṅkhāvinodanatthaṃ. mahājano hi samaṇo gotamo mayhaṃ sedo natthīti vadati, saccakassa tāva nigaṇṭhaputtassa yantāruḷhassa viya sedā paggharanti. samaṇo pana gotamo ghanadupaṭṭacīvaraṃ pārupitvā nisinno, anto sedassa atthitā vā natthitā vā kathaṃ sakkā ñātunti kaṅkhaṃ kareyya, tassa kaṅkhāvinodanatthaṃ evamakāsi. maṅkubhūtoti nittejabhūto. pattakkhandhoti patitakkhandho. appaṭibhānoti uttari appassanto. nisīdīti pādaṅguṭṭhakena bhūmiṃ kasamāno nisīdi.
(hỏi) Do nhân gì đức Thế Tôn làm vậy? (đáp) Để xóa tan sự hoài nghi của đại chúng. Bởi đại chúng có thể nghi ngờ rằng: “Sa-môn Gotama nói rằng ‘mồ hôi của ta không có’. Mồ hôi của Saccaka Nigaṇṭha tuôn chảy mãi giống như mồ hôi của người bước lên xe, Sa-môn Gotama ngồi mặc y phục dày, ai biết được rằng mồ hôi bên trong người ngài có hay không? mới làm như thế đó để xua tan sự nghi ngờ của đại chúng. Maṅkubhūto là hết sức lực. Pattakkhandho: cúi đầu. Appaṭibhāno: Không gặp những điều cao thượng hơn. nisīdi (ngồi): Ngồi lấy ngón chân cái cào mặt đất.
360. dummukhoti na virūpamukho, abhirūpo hi so pāsādiko. nāmaṃ panassa etaṃ. abhabbo taṃ pokkharaṇiṃ puna otaritunti sabbesaṃ aḷānaṃ M.2.182 bhaggattā pacchinnagamano otarituṃ abhabbo, tattheva kākakulalādīnaṃ bhattaṃ hotīti dasseti. visūkāyikānīti diṭṭhivisūkāni. visevitānīti diṭṭhisañcaritāni. vipphanditānīti diṭṭhivipphanditāni. yadidaṃ vādādhippāyoti ettha yadidanti nipātamattaṃ; vādādhippāyo hutvā vādaṃ āropessāmīti ajjhāsayena upasaṅkamituṃ abhabbo; dhammassavanāya pana upasaṅkameyyāti dasseti. dummukhaṃ licchaviputtaṃ etadavocāti kasmā avoca?
Dummukho: Có gương mặt không đáng ghét. Thật vậy, con trai của Licchavī có hính dáng xinh đẹp, đáng nhìn, (Dummukho) cũng là tên của vị ấy. Không thể lội xuống hồ sen ấy như trước (abhabbo taṃ pokkharaṇiṃ puna otarituṃ) ngài chỉ ra rằng con cua gọi là đi không được do càng và ngoe đã gãy không thể đi xuống dưới hồ sen được mới trở thành thức ăn của quạ và diều hâu v.v, ở chỗ đó. Visūkāyikāni (bụi gai nhọn): tà kiến là bụi gai nhọn. Visevitāni (hiểu sai): Thực hành bằng tà kiến. Vipphanditāni: tranh đấu với tà kiến. Yadidaṃ trong cụm từ ‘yadidaṃ vādādhippāyo’ đây chỉ là phân từ. Con trai của Licchavī trình bày rằng: “không nên đi đến gặp do theo khuyên hướng rằng ‘ta là người muốn tranh luận, sẽ tranh luận, mà nên đến gặp để nghe Pháp’.
dummukhassa kirassa upamāharaṇakāle sesa licchavikumārāpi cintesuṃ — “iminā nigaṇṭhena amhākaṃ sippuggahaṇaṭṭhāne ciraṃ avamāno kato, ayaṃ dāni amittassa piṭṭhiṃ passituṃ kālo. mayampi ekekaṃ upamaṃ āharitvā pāṇippahārena patitaṃ muggarena pothento viya tathā naṃ karissāma, yathā na puna parisamajjhe sīsaṃ ukkhipituṃ sakkhissatī”ti, te opammāni karitvā dummukhassa kathāpariyosānaṃ āgamayamānā nisīdiṃsu. saccako tesaṃ adhippāyaṃ ñatvā, ime sabbeva gīvaṃ ukkhipitvā oṭṭhehi calamānehi ṭhitā; sace paccekā upamā harituṃ labhissanti, puna mayā parisamajjhe sīsaṃ ukkhipituṃ na sakkā bhavissati, handāhaṃ dummukhaṃ apasādetvā yathā aññassa okāso na hoti, evaṃ kathāvāraṃ pacchinditvā samaṇaṃ gotamaṃ pañhaṃ pucchissāmīti tasmā etadavoca. tattha āgamehīti tiṭṭha, mā puna bhaṇāhīti attho.
Saccaka Nigaṇṭhaputta nói cùng con trai của Licchavī: Saccaka Nigaṇṭhaputta đã nói vì sao? Vào lúc con trai của Licchavī tên là Dummaka đưa ra ví dụ, ngay cả những đồng từ Licchavī còn lại nghĩ rằng: “Nigaṇṭhaputta này từ lâu xem thường chúng ta ở chỗ học nghệ thuật của chúng ta”. Bây giờ, nhìn thấy sau lưng kẻ thù chúng tôi sẽ đưa ra mỗi người một ví dụ, sẽ làm cho Saccaka Nigaṇṭhaputta ấy rơi xuống bằng tiếng vỗ tay. Các vị Licchavī ấy chuẩn bị tất cả câu hỏi, ngồi đợi Dummukha nói hết. Saccaka Nigaṇṭhaputta hiểu biết mong muốn của các Licchavī ấy mới suy nghĩ rằng: “Các Licchavī này vươn cổ, đứng, môi run lên, nếu các Licchavī đưa mỗi người một ví dụ, tôi sẽ không thể ngước mặt lên ở giữa hội chúng, tôi đã chiếm lấn Dummukha, cắt đứt cơ hội không để cho người khác nói, rồi hỏi vấn đề cùng Sa-môn Gotama” vì thế mới nói lời đó. Ở đó, āgamehi: hãy ngừng lại, nghĩa là đừng nắm lấy nữa.
361. tiṭṭhatesā, bho gotamāti, bho gotama, esā amhākañceva aññesañca puthusamaṇabrāhmaṇānaṃ vācā tiṭṭhatu. vilāpaṃ vilapitaṃ maññeti etañhi vacanaṃ vilapitaṃ viya hoti, vippalapitamattaṃ hotīti attho. atha vā tiṭṭhatesāti ettha kathāti āharitvā vattabbā. vācāvilāpaṃ vilapitaṃ maññeti ettha panidaṃ vācānicchāraṇaṃ vilapitamattaṃ maññe hotīti attho.
Tiṭṭhatesā, bho gotamā (Thưa Ngài Gotama lời nói của tôi hãy để yên): Thưa Ngài Gotama lời nói này của tôi và của Sa-môn, Bà-la-môn của đa số nhóm khác hãy để yên đó. vilāpaṃ vilapitaṃ maññe (nói những lời vô bổ này thật đáng hối tiếc): lời nói này này như lời nói vô nghĩa, có nghĩa chỉ nói toàn lời vô ích. Lại nữa, việc thốt ra lời này chỉ toàn lời vô bổ.
idāni pañhaṃ pucchanto kittāvatātiādimāha. tattha vesārajjapattoti ñāṇapatto. aparappaccayoti aparappattiyo. athassa bhagavā pañhaṃ vissajjento idha, aggivessanātiādimāha, taṃ uttānatthameva. yasmā panettha passatīti vuttattā sekkhabhūmi dassitā. tasmā uttari asekkhabhūmiṃ pucchanto dutiyaṃ pañhaṃ pucchi, tampissa bhagavā byākāsi V.2.179. tattha M.2.183 dassanānuttariyenātiādīsu dassanānuttariyanti lokiyalokuttarā paññā.
Bây giờ Saccaka Nigaṇṭhaputta khi hỏi vấn đề mới nói lời như sau ‘chỉ bấy nhiêu đệ tử của đức Thế Tôn’. Ở đó, thành tựu vô sở úy (vesārajjapatto) là chứng đắc tuệ. Aparappaccayo: không cần phải tin người khác. Sau đó, đức Thế Tôn khi trả lời các câu hỏi cùng Saccaka Nigaṇṭhaputta mới nói lời sau ‘Này Aggivessanā…trong Pháp và Luật này’ v.v, các từ còn lại đơn giản. Ở đây, đức Thế Tôn thuyết giảng sekkhabhūmi (thời học tập) bởi (Ngài) nói rằng ‘Quán xét (năm uẩn với chánh trí)’ do đó khi Saccaka Nigaṇṭhaputta hỏi sekkhabhūmi để tăng trưởng mới hỏi vấn đề thứ hai, đức Thế Tôn giải thích rõ ràng vấn đề ấy cùng tôi. Ở đó, dassanānuttariyaṃ (cái thấy cao thượng) trong từ dassanānuttariyaṃ bao gồm trí tuệ Hiệp thế và Siêu thế.
paṭipadānuttariyanti lokiyalokuttarā paṭipadā. vimuttānuttariyanti lokiyalokuttarā vimutti. suddhalokuttarameva vā gahetvā dassanānuttariyanti arahattamaggasammādiṭṭhi. paṭipadānuttariyanti sesāni maggaṅgāni. vimuttānuttariyanti aggaphalavimutti. khīṇāsavassa vā nibbānadassanaṃ dassanānuttariyaṃ P.2.282 nāma. maggaṅgāni paṭipadānuttariyaṃ. aggaphalaṃ vimuttānuttariyanti veditabbaṃ. buddho so bhagavāti so bhagavā sayampi cattāri saccāni buddho. bodhāyāti paresampi catusaccabodhāya dhammaṃ deseti. dantotiādīsu dantoti nibbisevano. damathāyāti nibbisevanatthāya. santoti sabbakilesavūpasamena santo. samathāyāti kilesavūpasamāya. tiṇṇoti caturoghatiṇṇo. taraṇāyāti caturoghataraṇāya. parinibbutoti kilesaparinibbānena parinibbuto. parinibbānāyāti kilesaparinibbānatthāya.
Paṭipadānuttariyaṃ (thực hành cao thượng) bao gồm đạo lộ thực hành Hiệp thế và Siêu Thế. Vimuttānuttariyaṃ (sự giải thoát cao thượng) là sự giải thoát Siêu thế. Hơn nữa, ‘cái thấy cao thượng’ là chánh kiến thuộc A-ra-hán Đạo bởi muốn nói đến hoàn toàn Pháp Siêu thế. Paṭipadānuttariyaṃ là các chi Đạo còn lại. Vimuttānuttariyaṃ là sự giải thoát A-ra-hán Quả. Việc nhìn thấy Niết bàn của bậc lậu tận gọi là ‘cái thấy cao thượng’. Tám chi Đạo là đạo lộ thực hành cao thượng. Đạo và Quả nên biết là sự giải thoát cao thượng. Buddho so bhagavā: Đức Thế Tôn ấy tự mình đã thuyết về 4 Chân Lý. Vì sự giác ngộ (bodhāya) nghĩa là thuyết giảng Giáo Pháp cho chúng sanh khác để cho (họ) được giác ngộ 4 Chân Lý. danto (đã được điều phục) trong từ danto là không còn ương ngạnh. damathāya là vì mục đích chấm dứt sự ngang bướng. Santo là đã an tịnh bởi đi đến sự an tịnh mọi phiền não. Samathāyā là vì mục đích an tịnh mọi phiền não. Tiṇṇo là vượt qua 4 dòng nước lũ. taraṇāya là vì mục đích vượt qua bốn dòng nước lũ. Parinibbuto nghĩa là dập tắt hoàn toàn bởi sự đoạn diệt hoàn toàn phiền não. Parinibbānāya nghĩa là thuyết giảng Giáo Pháp vì mục đích sự dập tắt hoàn toàn của phiền não.
362. dhaṃsīti guṇadhaṃsakā. pagabbāti vācāpāgabbiyena samannāgatā. āsādetabbanti ghaṭṭetabbaṃ. āsajjāti ghaṭṭetvā. natveva bhavantaṃ gotamanti bhavantaṃ gotamaṃ āsajja kassaci attano vādaṃ anupahataṃ sakalaṃ ādāya pakkamituṃ thāmo natthīti dasseti. na hi bhagavā hatthiādayo viya kassaci jīvitantarāyaṃ karoti. ayaṃ pana nigaṇṭho imā tisso upamā na bhagavato ukkaṃsanatthaṃ āhari, attukkaṃsanatthameva āhari. yathā hi rājā kañci paccatthikaṃ ghātetvā evaṃ nāma sūro evaṃ thāmasampanno puriso bhavissatīti paccatthikaṃ thomentopi attānameva thometi. evameva sopi siyā hi, bho gotama, hatthiṃ pabhinnantiādīhi bhagavantaṃ ukkaṃsentopi mayameva sūrā mayaṃ paṇḍitā mayaṃ bahussutāyeva evaṃ pabhinnahatthiṃ viya, jalitāggikkhandhaṃ viya, phaṇakatāasīvisaṃ viya ca vādatthikā sammāsambuddhaṃ upasaṅkamimhāti attānaṃyeva ukkaṃseti.
Dhaṃsī là làm hư hoại đức hạnh. Pagabbā là thành tựu với sự dám nói. Āsādetabbaṃ (có thể tranh luận): có thể mỉa mai. āsajja là tiếp xúc. Natveva bhavantaṃ gotamaṃ (đến gặp Ngài Gotama đã vào): Saccaka Nigaṇṭhaputta thể hiện rằng đã hết sức để nắm lấy lời nói của mình để đi gặp với bất kỳ ai. Đức Thế Tôn sẽ không làm hại mạng sống của bất kỳ ai giống như một con voi. Nhưng Saccaka Nigaṇṭhaputta ấy đã đem ba ví dụ này không phải để ngợi khen Đức Thế Tôn, mà đem đến để đề cao bản thân, giống như đức vua đánh bại một số quân địch, để khen ngợi quân địch rằng: “người can đảm như vậy là người đạt đến sức mạnh như vậy” đây cũng như là tự khen ngợi chính bản thân như thế nào, Saccaka Nigaṇṭhaputta này cũng như thế đó, khi đưa ra câu lời nói đức Thế Tôn với lời nói được bắt đầu như sau: “Này Tôn giả Gotama, rất có thể còn có sự an toàn cho một người chiến đấu với con voi điên” chỉ đề cao bản thân rằng “Tôi là một con người dũng cảm, tôi là một bậc trí, tôi là bậc đa văn, tôi là người ưa thích tranh luận, tôi đến gặp bậc Chánh Đẳng Chánh Giác, giống như một con voi điên, như một ngọn lửa đang cháy, và như một con rắn độc đang phùng mang.
evaṃ attānaṃ ukkaṃsetvā bhagavantaṃ nimantayamāno adhivāsetu metiādimāha. tattha adhivāsetūti sampaṭicchatu. svātanāyāti yaṃ me tumhesu kāraṃ karoto sve bhavissati puññañca pītipāmojjañca, tadatthāya. adhivāsesi bhagavā tuṇhībhāvenāti bhagavā M.2.184 kāyaṅgaṃ vā vācaṅgaṃ vā acopetvā abbhantareyeva khantiṃ dhārento tuṇhībhāvena adhivāsesi. saccakassa anuggahakaraṇatthaṃ manasāva sampaṭicchīti vuttaṃ hoti.
Lúc đề cao bản thân như vậy, khi thỉnh mời đức Thế Tôn mới nói lời rằng: “xin đức Thế Tôn cùng với chư Tỳ khưu Tằng nhận lời”. Ở đó, adhivāsetu đồng nghĩa với sampaṭicchatu (xin Ngài hãy nhận lời). svātanāya nghĩa là vì lợi ích phước báu, hỷ và sự hân hoan sẽ có vào ngày mai cho tôi, người đã thực hiện sự cung kính cùng Ngài. Adhivāsesi bhagavā tuṇhībhāvena (Đức Thế Tôn đã nhận lời bằng sự im lặng): giải thích rằng đức Thế Tôn không để cho các chi phần của cơ thể thuộc thân và khẩu chuyển động, chỉ chế ngự bên trong, chấp nhận bằng sự im lặng. Đó là, Ngài đã chấp nhận bằng ý để thực hiện sự trợ giúp đối với Saccaka Nigaṇṭhaputta.
363. yamassa patirūpaṃ maññeyyāthāti te kira licchavī tassa pañcathālipākasatāni niccabhattaṃ V.2.180 āharanti P.2.283. tadeva sandhāya esa sve tumhe yaṃ assa samaṇassa gotamassa patirūpaṃ kappiyanti maññeyyātha, taṃ āhareyyātha; samaṇassa hi gotamassa tumhe paricārakā kappiyākappiyaṃ yuttāyuttaṃ jānāthāti vadati. bhattābhihāraṃ abhihariṃsūti abhiharitabbaṃ bhattaṃ abhihariṃsu. paṇītenāti uttamena. sahatthāti sahatthena. santappetvāti suṭṭhu tappetvā, paripuṇṇaṃ suhitaṃ yāvadatthaṃ katvā. sampavāretvāti suṭṭhu pavāretvā, alaṃ alanti hatthasaññāya paṭikkhipāpetvā. bhuttāvinti bhuttavantaṃ.
Yamassa patirūpaṃ maññeyyātha (hãy lựa chọn những thứ thích hợp đối với Sa-môn Gotama): Kể rằng các Licchavī đó đem đến 500 cái mâm để đựng thức ăn đến cho Saccaka Nigaṇṭhaputta gọi là niccabhattaṃ (là thí thực đến chư Tăng thường xuyên). Saccaka Nigaṇṭhaputta muốn nói đến bữa ăn đó mới nói rằng: “Ngày mai các Ngài nên suy tưởng rằng ‘những thứ thích hợp mới phù hợp để cúng dường đến Sa-môn Gotama, nên mang đến những thứ thích hợp ấy đến, các Ngài là người phụng sự hiểu được cái gì hợp hoặc không hợp, nên hay không nên đối với Sa-môn Gotama.” bhattābhihāraṃ abhihariṃsu (mang đến thức ăn): mang đến vật thực cần mang đến. Thượng hạng (paṇītena) là ngon nhất. Sahatthā là tự tay của mình. Santappetvā (đã làm hài lòng): đã làm cho thỏa mãn, cúng dường vật thực (đến chúng Tăng) đã làm cho thỏa thích, viên mãn tùy theo ý thích. Sampavāretvā đã khéo đề nghị, là khước từ bằng việc giơ tay ra hiệu đủ rồi đủ rồi. Bhuttāvī là thọ dụng.
onītapattapāṇinti pattato onītapāṇiṃ, apanītahatthanti vuttaṃ hoti. “onittapattapāṇin”tipi pāṭho, tassattho, onittaṃ nānābhūtaṃ pattaṃ pāṇito assāti onittapattapāṇī. taṃ onittapattapāṇiṃ, hatthe ca pattañca dhovitvā ekamante pattaṃ nikkhipitvā nisinnanti attho. ekamantaṃ nisīdīti bhagavantaṃ evaṃbhūtaṃ ñatvā ekasmiṃ okāse nisīdīti attho. puññañcāti yaṃ imasmiṃ dāne puññaṃ, āyatiṃ vipākakkhandhāti attho. puññamahīti vipākakkhandhānaṃyeva parivāro. taṃ dāyakānaṃ sukhāya hotūti taṃ imesaṃ licchavīnaṃ sukhatthāya hotu. idaṃ kira so ahaṃ pabbajito nāma, pabbajitena ca na yuttaṃ attano dānaṃ niyyātetunti tesaṃ niyyātento evamāha. atha bhagavā yasmā licchavīhi saccakassa dinnaṃ, na bhagavato. saccakena pana bhagavato dinnaṃ, tasmā tamatthaṃ dīpento yaṃ kho, aggivessanātiādimāha. iti bhagavā nigaṇṭhassa matena vināyeva attano dinnaṃ dakkhiṇaṃ nigaṇṭhassa niyyātesi, sā cassa anāgate vāsanā bhavissatīti.
Onītapattapāṇiṃ là tay đã rời khỏi bát, tức là đã rút tay khỏi (bình bát). Pāḷī Onittapattapāṇiṃ cũng có. Câu đó có ý nghĩa gọi là onittapattapāṇiṃ bởi ý nghĩa rằng có bình bát đem ra khỏi tay. Giải thích rằng đức Thế Tôn có bình bát đã được đem ra khỏi từ bàn tay, là đã rửa sạch bàn tay và bình bát, đem bình bát đặt một bên thích hợp rồi ngồi xuống. Ekamantaṃ nisīdi (sau khi ngồi xuống một bên) nghĩa là Saccaka Nigaṇṭhaputta đã biết đức Thế Tôn thọ dụng như vậy mới ngồi ở một khoảng trống. puññañca (phước báu) là phước báu trong việc bố thí này, tức là các uẩn dị thục tiếp theo. Puññamahī (qủa phước) nghĩa là tùy tùng (đi theo) các uẩn dị thục ấy. taṃ dāyakānaṃ sukhāya hotu nghĩa là phước ấy hãy thành tựu lợi ích an lạc cũng những Licchavī này. Kể rằng Nigaṇṭha ấy khi thực hiện việc bố thí này cùng các Licchavī ấy mới nói như vậy ‘ta là bậc xuất gia, không nên bố thí của mình.” Sau đó, đức Thế Tôn, do phước báu mà các Licchavī cúng dường Saccaka Nigaṇṭha, không cúng dường đức Thế Tôn. Còn Saccaka Nigaṇṭha cúng dường đến đức Thế Tôn” vì thế, khi trình bày ý nghĩa ấy mới nói rằng: “yaṃ kho, aggivessana (này Aggivessana, phước và quả phước trong việc bố thí này)’. Đức Thế Tôn hồi hướng phước báu mà vị ấy cúng dường cho mình đến Nigaṇṭha để duy trì thiện tâm, hồi hướng phước báu làm duyên lành cho vị ấy trong thời vị lai.
Giải Thích Tiểu Kinh Saccaka Kết Thúc