Kinh số 34 – Giải Thích Tiểu Kinh Người Chăn Bò

(Cūḷagopālakasuttavaṇṇanā)

Xem Trung Bộ Kinh – Tiểu Kinh Người Chăn Bò

  1. evaṃ me sutanti cūḷagopālakasuttaṃ. tattha ukkacelāyanti evaṃnāmake nagare. tasmiṃ kira māpiyamāne rattiṃ gaṅgāsotato maccho thalaṃ patto. manussā celāni telapātiyaṃ temetvā ukkā katvā macchaṃ gaṇhiṃsu. nagare niṭṭhite tassa nāmaṃ karonte amhehi nagaraṭṭhānassa gahitadivase celukkāhi maccho gahitoti ukkacelā-tvevassa nāmaṃ akaṃsu. bhikkhū āmantesīti yasmiṃ ṭhāne nisinnassa sabbā gaṅgā pākaṭā hutvā paññāyati, tādise vālikussade gaṅgātitthe sāyanhasamaye mahābhikkhusaṅghaparivuto nisīditvā mahāgaṅgaṃ paripuṇṇaṃ sandamānaṃ olokento, — “atthi nu kho imaṃ gaṅgaṃ nissāya koci pubbe vaḍḍhiparihāniṃ patto”ti āvajjitvā, pubbe ekaṃ bālagopālakaṃ nissāya anekasatasahassā gogaṇā imissā gaṅgāya āvaṭṭe patitvā samuddameva paviṭṭhā, aparaṃ pana paṇḍitagopālakaṃ nissāya anekasatasahassagogaṇassa sotthi jātā vaḍḍhi jātā ārogyaṃ jātanti addasa. disvā imaṃ kāraṇaṃ nissāya bhikkhūnaṃ dhammaṃ desessāmīti cintetvā bhikkhū āmantesi.

[350] Tiểu Kinh Người Chăn Bò được bắt đầu như sau: “Tôi đã được nghe như vầy.” Trong bài Kinh này ‘ukkacelāyaṃ’ trong thành phố có tên như vậy. Kể rằng trong khi họ đang xây dựng thành phố ấy, đàn cá từ dòng chảy của sông Hằng ngôi lên bờ vào ban đêm, mọi người lấy tấm vải ngâm dầu trong khây, làm thành ngọn đuốc để bắt cá. Khi thành phố ấy được xây dựng hoàn thành, khi đặt tên cho tên thành phố ấy họ mới đặt tên cho thành phố đó là ‘ukkacelā’ bởi vì trong ngày xây dựng thành phố, cá bị bắt bởi ngọn lửa vải. Bhikkhū āmantesi (cho gọi chư Tỳ khưu): Toàn bộ quang cảnh dòng sông Hằng hiện hữu rõ ràng nơi người ngồi ở tại vị trí nào, đức Thế Tôn được đại chúng Tỳ khưu vay quanh ngồi tại vị trí ấy tựa như cát ở bờ sông dòng sông Hằng, vào buổi chiều đang đưa mắt ngắm nhìn dòng sông Hằng dâng cao đầy ắp nước đang trôi chảy, đã hướng tâm rằng: “Có ai nương tựa dòng sông Hằng này rồi, đã đạt đến sự thịnh vượng và sự suy thoái trong thời quá khứ” đã nhìn thấy rằng: “đàn bò hàng nghìn con đã nương tựa một người chăn bò ngu ngốc rơi xuống dòng xoáy của dòng sông Hằng trôi dạt ra đại dương, còn đàn bò nhiều trăm nghìn con khỏe mạnh, thịnh vượng, không bệnh tật do nương tựa vào một người chăn bò thiện xảo. Sau khi nhìn thấy khởi lên suy nghĩ rằng: “Ta sẽ dựa vào nguyên nhân này để thuyết giảng Giáo Pháp đến chúng Tỳ khưu, cho nên Ngài mới cho gọi chư Tỳ khưu.”

māgadhakoti magadharaṭṭhavāsī. duppaññajātikoti nippaññasabhāvo dandho mahājaḷo. asamavekkhitvāti asallakkhetvā anupadhāretvā. patāresīti tāretuṃ ārabhi. uttaraṃ tīraṃ suvidehānanti gaṅgāya orime tīre magadharaṭṭhaṃ, pārime tīre videharaṭṭhaṃ, gāvo magadharaṭṭhato videharaṭṭhaṃ netvā rakkhissāmīti uttaraṃ tīraṃ patāresi. taṃ sandhāya vuttaṃ — “uttaraṃ tīraṃ suvidehānan”ti. āmaṇḍalikaṃ karitvāti maṇḍalikaṃ katvā. anayabyasanaṃ āpajjiṃsūti avaḍḍhiṃ vināsaṃ pāpuṇiṃsu, mahāsamuddameva pavisiṃsu. tena hi gopālakena gāvo otārentena gaṅgāya orimatīre samatitthañcavisamatitthañca oloketabbaṃ assa, majjhe gaṅgāya gunnaṃ vissamaṭṭhānatthaṃ dve tīṇi vālikatthalāni sallakkhetabbāni assu. tathā pārimatīre tīṇi cattāri titthāni, imasmā titthā bhaṭṭhā imaṃ titthaṃ gaṇhissanti, imasmā bhaṭṭhā imanti.

Māgadhako: người dân xứ Magadharaṭṭha. Duppaññajātiko (người có trí tuệ yếu kém): Đại chúng trong trạng thái không có trí tuệ là người tâm tối (ngu si). Asamavekkhitvā (không quan sát): không quan sát, không suy xét. ​​Patāresi: bắt đầu để vượt qua. Uttaraṃ tīraṃ suvidehānaṃ (vượt qua bờ kia của Videharaṭṭha):  Magadharaṭṭha ở bờ bên này, Videharaṭṭha ở bờ bên kia của dòng sông Hằng người chăn bò suy nghĩ rằng: “ta sẽ dẫn dắt đàn bò từ Magadharaṭṭha vượt qua Videharaṭṭha để nuôi dưỡng” mới vượt qua bờ bên kia. Đức Thế Tôn muốn đề cập đến bờ bên bên kia nên mới nói ‘uttaraṃ tīraṃ suvidehānaṃ’. Āmaṇḍalikaṃ karitvā (bơi vào vòng nước xoáy): rơi vào vòng nước xoáy. Anayabyasanaṃ āpajjiṃsu (đi đến sự tiêu tan): đi đến sự hoại diệt, không tăng trưởng, trôi dạt ra ngoài đại dương. Người chăn bò khi cho đàn bò vượt qua, nên quan sát bờ nơi bằng phẳng hoặc không bằng phẳng ở bờ này của dòng sông Hằng, cần phải quan sát 3-4 bãi bờ ở bờ bên kia: “đàn bò lội xuống từ bờ này sẽ đi lên từ bờ này; con bò lội xuống chỗ này, sẽ không thể lên từ bờ này.”

ayaṃ pana bālagopālako orimatīre gunnaṃ otaraṇatitthaṃ samaṃ vā visamaṃ vā anoloketvāva majjhe M.2.168 gaṅgāya gunnaṃ vissamaṭṭhānatthaṃ dve tīṇi vālikatthalānipi asallakkhetvāva paratīre cattāri V.2.164 pañca uttaraṇatitthāni asamavekkhitvāva atittheneva gāvo otāresi. athassa mahāusabho javanasampannatāya ceva thāmasampannatāya ca tiriyaṃ gaṅgāya sotaṃ chetvā pārimaṃ tīraṃ patvā chinnataṭañceva kaṇṭakagumbagahanañca disvā, “dubbiniviṭṭhametan”ti ñatvā dhuragga-patiṭṭhānokāsampi alabhitvā paṭinivatti. gāvo mahāusabho nivatto mayampi nivattissāmāti nivattā. mahato gogaṇassa nivattaṭṭhāne udakaṃ chijjitvā majjhe gaṅgāya āvaṭṭaṃ uṭṭhapesi. gogaṇo āvaṭṭaṃ pavisitvā samuddameva patto. ekopi goṇo arogo nāma nāhosi. tenāha — “tattheva anayabyasanaṃ āpajjiṃsū”ti.

Người chăn bò ngu ngốc này không quan sát bãi bờ dành cho đàn bò ở bờ bên này bằng phẳng hoặc không bằng phẳng, không quan sát bãi cát 2-3 chỗ để làm chỗ nghĩ cho đàn bò giữa dòng sông Hằng, không quan sát thêm 4-5 chỗ bước lên ở bờ bên kia, để cho đàn bò vượt qua chỗ không phải bờ. Lúc bấy giờ, con bò lớn của vị ấy cắt đứt dòng chảy của con sông Hằng vượt qua bờ bên kia, bởi vì nó có sự nhanh nhẹn và bởi vì nó có sức mạnh, sau khi nhìn thấy bụi cây và những bụi gai rậm rạp, biết rằng ở đó đi qua rất khó khăn, không có chỗ để đứng ở trên nên lội ngược trở lại. Đàn bò nghĩ rằng: “Bò lớn này đã lội ngược trở lại, ngay cả chúng ta cũng lội ngược lại như vậy, (cho nên) chúng cũng lội ngược trở lại.” Đàn bò số lượng nhiều quay trở lại bị vướng phải dòng nước xoáy của con sông Hằng, vi thế mà đàn bò bị nhận chìm trong dòng nước xoáy trôi ra ngoài đại dương, một con bò gọi là không có sự tại họa, không hề có. Vì thế đức Thế Tôn mới thuyết rằng: “Đàn bò đi đến sự hoại diệt chính ở tại nơi đó”.

akusalā imassa lokassāti idha loke khandhadhātāyatanesu akusalā achekā, paralokepi eseva nayo. māradheyyaṃ vuccati tebhūmakadhammā. amāradheyyaṃ nava lokuttaradhammā. maccudheyyampi tebhūmakadhammāva. amaccudheyyaṃ nava lokuttaradhammā. tattha akusalā achekā. vacanatthato pana mārassa dheyyaṃ māradheyyaṃ. dheyyanti ṭhānaṃ vatthu nivāso gocaro. maccudheyyepi eseva nayo. tesanti tesaṃ evarūpānaṃ samaṇabrāhmaṇānaṃ, iminā cha satthāro dassitāti veditabbā.

Akusalā imassa lokassa (không khéo léo trong đời này): Sa-môn, Bà-la-môn người không khéo léo, không thiện xảo trong đời này là (không biết) trong uẩn, giới và xứ, ngay cả trong paraloka (đời sau) cũng có phương thức tương tự. Ma giới Ngài gọi là các pháp trong tam giới. Phi ma giới Ngài gọi là chín Pháp Siêu thế. Ngay cả Tử thần giới Ngài cũng gọi là các pháp trong tam giới. Thậm chí Phi tử thần giới Ngài cũng gọi là chín Pháp Siêu thế. Sa-môn, Bà-la-môn những vị không khéo léo, không thiện xảo trong những Pháp ấy. Còn ý nghĩa của từ ‘ma giới’ gọi là ‘māradheyya’ gocara trở thành ṭhāna chỗ sống và chỗ nương tựa gọi là dheyya, ngay cả tử thần giới cũng có phương thức này. Tesaṃ (nhóm đó): Sa-môn, Bà-la-môn đó bằng hình thức như vậy. Nên biết rằng cả 6 vị thầy đã được Ngài trình bày bằng câu này.

  1. evaṃ kaṇhapakkhaṃ niṭṭhapetvā sukkapakkhaṃ dassento bhūtapubbaṃ, bhikkhavetiādimāha. tattha balavagāvoti dantagoṇe ceva dhenuyo ca. dammagāvoti dametabbagoṇe ceva avijātagāvo ca. vacchatareti vacchabhāvaṃ taritvā ṭhite balavavacche. vacchaketi dhenupake taruṇavacchake. kisābalaketi appamaṃsalohite mandathāme. tāvadeva jātakoti taṃdivase jātako. mātugoravakena vuyhamānoti mātā purato purato huṃhunti goravaṃ katvā saññaṃ dadamānā urena udakaṃ chindamānā gacchati, vacchako tāya goravasaññāya dhenuyā vā urena chinnodakena gacchamāno “mātugoravakena vuyhamāno”ti vuccati.

Đức Thế Tôn khi kết thúc Pháp đen như vậy, mới thuyết giảng Pháp trắng như sau: “Ngày xưa, này các Tỳ khưu”. Ở đó, con bò có sức mạnh là con bò đã được huấn luyện và bò sữa. Con bò được huấn luyện (​​dammagāvo) là con bò nên huấn luyện và bò cái tơ. Vacchatare (bò con) bao gồm bò con có sức mạnh đã vượt qua tính chất bò con rồi. Vacchake (bò con): bò con vẫn còn uống sữa mẹ. Kisābalake (có sức mạnh ít): là có thịt và máu ít, năng lực ít. tāvadeva jātako: là con bò sanh ra trong ngày hôm đó. mātugoravakena vuyhamāno (con bò này chạy theo tiếng con bò mẹ): bò mẹ phát ra tiếng ‘âm bò, âm bò’ phát tín hiệu lội cắt dòng nước đi, bò con lội theo dòng nước theo bò mẹ ấy, bởi tiếng gọi của bò mẹ, Ngài gọi là “thả trôi theo tiếng kêu của bò mẹ.”

  1. mārassa sotaṃ chetvāti arahattamaggena mārassa taṇhāsotaṃ chetvā. pāraṃ gatāti mahāusabhā nadīpāraṃ viya saṃsārapāraṃ nibbānaṃ gatā. pāraṃ agamaṃsūti mahāusabhānaṃ pāraṅgatakkhaṇe gaṅgāya sotassa tayo koṭṭhāse atikkamma ṭhitā mahāusabhe pāraṃ patte disvā tesaṃ gatamaggaṃ paṭipajjitvā pāraṃ agamaṃsu. pāraṃ gamissantīti catumaggavajjhānaṃ kilesānaṃ tayo koṭṭhāse khepetvā ṭhitā. idāni arahattamaggena avasesaṃ taṇhāsotaṃ chetvā balavagāvo viya nadīpāraṃ saṃsārapāraṃ nibbānaṃ gamissantīti. iminā nayena sabbavāresu attho veditabbo. dhammānusārino, saddhānusārinoti ime dve paṭhamamaggasamaṅgino.

Mārassa sotaṃ chetvā (đã cắt ngang dòng nước ma vương): cắt dòng chảy của tham ái của ma vương bằng A-ra-hán Đạo. Pāraṃ gatā (đã đi đến bờ): Vị Tỳ khưu đạt đến bờ bên kia là Niết bàn giống như con bò lớn lội qua bờ dòng sông Hằng. Pāraṃ agamaṃsu (đã đến bờ kia): trong lúc con bò lớn đến bờ, các con bò vượt qua 3 phần dòng nước của sông Hằng, rồi thấy con bò lớn đi đến bờ mới đi theo con đường mà con bò lớn đã đi. Pāraṃ gamissanti (cũng sẽ…đi đến bờ): đã vượt qua 3 phần của phiền não bằng 4 Đạo đã được vững trú. Bây giờ nên biết ý nghĩa các phần bằng cách như sau: “Vị Tỳ khưu cắt đứt toàn bộ dòng chảy tham ái bằng A-ra-hán Đạo, sẽ đi đến bờ kia là Niết bàn, giống như con bò có sức mạnh lội cắt đứt dòng chảy con sông Hằng đi đến bờ bên kia. Hai vị Tỳ khưu này là những vị tùy pháp hành, tùy tín hành, là vị hội đủ với Đạo đầu tiên.

jānatāti sabbadhamme jānantena buddhena. suppakāsitoti sukathito. vivaṭanti vivaritaṃ. amatadvāranti ariyamaggo. nibbānapattiyāti tadatthāya vivaṭaṃ. vinaḷīkatanti vigatamānanaḷaṃ kataṃ. khemaṃ patthethāti kattukamyatāchandena arahattaṃ patthetha, kattukāmā nibbattetukāmā hothāti attho. “patta’tthā”tipi pāṭho. evarūpaṃ satthāraṃ labhitvā tumhe pattāyeva nāmāti attho. sesaṃ sabbattha uttānameva. bhagavā pana yathānusandhināva desanaṃ niṭṭhapesīti.

Vị biết rõ là đức Phật biết rõ tất cả Pháp. suppakāsito (khéo tuyên thuyết): khéo thuyết. Vivaṭaṃ đồng nghĩa với vivaritaṃ (đã mở). Amatadvāraṃ (cánh cửa bất tử): Thánh Đạo. Để chứng ngộ Niết bàn (nibbānapattiyā) là mở vì lợi ích (đạt đến) Niết-bàn. Vinaḷīkataṃ (làm cho xa lìa sự kiêu mạn): làm cho ngã mạn giống như cây sậy bị hư hoại. khemaṃ patthethā (mong muốn Pháp an toàn): các vị là người mong muốn (đạt đến) quả vị A-ra-hán, người mong cầu cho A-ra-hán sanh khởi bằng mong muốn làm. Patta’tthā: pāḷī như vậy cũng có. Có lời giải thích rằng các ông được bậc Đạo Sư như vậy gọi là đã chứng đắc tương tự. Từ còn lại trong các câu đơn giản. Đức Thế Tôn kết thúc thời Pháp bằng sự liên kết như vậy.

Giải Thích Tiểu Kinh Sừng Bò Kết Thúc